Luận văn Nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - Xã hội ở Thủ đô Viêng Chăn

pdf 184 trang hapham 2600
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - Xã hội ở Thủ đô Viêng Chăn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_nguon_nhan_luc_cho_phat_trien_kinh_te_xa_hoi_o_thu.pdf

Nội dung text: Luận văn Nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - Xã hội ở Thủ đô Viêng Chăn

  1. häc viÖn ChÝnh trÞ quèc gia Hå ChÝ Minh SƯ LAO SÔ TU KY nguån nh©n lùc cho ph¸t triÓn kinh tÕ - x· héi ë thñ ®« viªng ch¨n luËn ¸n tiÕn sÜ kinh tÕ hµ néi - 2014
  2. häc viÖn ChÝnh trÞ quèc gia Hå ChÝ Minh SƯ LAO SÔ TU KY nguån nh©n lùc cho ph¸t triÓn kinh tÕ - x· héi ë thñ ®« viªng ch¨n Chuyên ngành : Kinh tế chính trị Mã số : 62 31 01 01 luËn ¸n tiÕn sÜ kinh tÕ Ng­êi h­íng dÉn khoa häc: PGS.TS HOÀNG THỊ BÍCH LOAN hµ néi - 2014
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Tác giả luận án Sư Lao Sô Tu Ky
  4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 7 1.1. Những công trình khoa học có liên quan đến đề tài ở nước ngoài 7 1.2. Những công trình khoa học có liên quan đến đề tài ở Lào 18 1.3. Đánh giá kết quả công trình khoa học đã nghiên cứu và vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu 21 Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 23 2.1. Cơ sở lý luận chung về nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội 23 2.2. Vai trò của nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội 50 2.3. Kinh nghiệm quốc tế về đảm bảo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội và bài học kinh nghiệm cho Thủ đô Viêng Chăn 61 Chương 3: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở THỦ ĐÔ VIÊNG CHĂN GIAI ĐOẠN 2006 - 2013 79 3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô Viêng Chăn 79 3.2. Thực trạng nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô Viêng Chăn 87 3.3. Đánh giá chung 115 Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM ĐẢM BẢO NGUỒN NHÂN LỰC CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở THỦ ĐÔ VIÊNG CHĂN ĐẾN NĂM 2020 126 4.1. Phương hướng chủ yếu nhằm đảm bảo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô Viêng Chăn 126 4.2. Giải pháp chủ yếu nhằm đảm bảo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô Viêng Chăn 135 KẾT LUẬN 158 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 163 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 164
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN CĐ : Cao đẳng CHDCND : Cộng hòa Dân chủ Nhân dân CMKT : Chuyên môn kỹ thuật CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNXH : Chủ nghĩa xã hội ĐH : Đại học GDP : Tổng sản phẩm quốc nội HDI : Chỉ số phát triển con người NDCM : Nhân dân cách mạng ODA : Hỗ trợ phát triển chính thức THPT : Trung học phổ thông THCN : Trung học chuyên nghiệp WB : Ngân hàng thế giới WTO : Tổ chức thương mại thế giới
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN Trang Bảng 2.1: Dự báo tỷ lệ lao động qua đào tạo 34 Bảng 2.2: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động ở Việt Nam 36 Bảng 2.3: Chỉ số HDI của Lào và thế giới 39 Bảng 2.4: Quan hệ giữa GDP với HDI 42 Bảng 2.5: Đầu tư cho giáo dục từ GDP và ngân sách Nhà nước 44 Bảng 2.6: Bình quân thu nhập đầu người và tuổi thọ của dân số các nước 47 Bảng 2.7: Giáo dục đại học và cao đẳng 63 Bảng 3.1: Quy mô, tốc độ tăng trưởng GDP của Thủ đô Viêng Chăn 81 Bảng 3.2: Tỉ lệ chuyển dịch cơ cấu theo ngành kinh tế Thủ đô 82 Bảng 3.3: Diện tích, dân số các đơn vị Thủ đô Viêng Chăn năm 2013 83 Bảng 3.4: Tình hình lao động và việc làm ở Thủ đô Viêng Chăn năm 2002, 2010, 2013 87 Bảng 3.5: Số học sinh tốt nghiệp các trường 88 Bảng 3.6: Dân số và tỷ lệ phát triển dân số của Thủ đô Viêng Chăn 88 Bảng 3.7: Quy mô và cơ cấu dân số ở Thủ đô Viêng Chăn 89 Bảng 3.8: Cơ cấu dân số Thủ đô so với cả nước năm 2013 90 Bảng 3.9: Nguồn nhân lực có chuyên môn kỹ thuật ở Thủ đô Viêng Chăn năm 2002 và 2013 92 Bảng 3.10: Số lượng lao động được đào tạo nghề tại Thủ Viêng Chăn trong các giai đoạn năm 2005, 2010, 2013 99 Bảng 3.11: Chất lượng dịch vụ y tế của Thủ đô giai đoạn (2005 -2010) 103 Bảng 3.12: Trình độ cán bộ công chức Thủ đô Viêng Chăn năm 2001 - 2013 105 Bảng 3.13: Số lượng và cơ cấu lao động đang hoạt động trong các ngành kinh tế 112 Bảng 4.1: Dự kiến tổng sản phẩm và cơ cấu kinh tế Thủ đô Viêng Chăn đến năm 2030 126
  7. DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ TRONG LUẬN ÁN Trang Biểu đồ 3.1: Chuyển dịch cơ cấu nguồn nhân lực có chuyên môn kỹ thuật ở Thủ đô biến động qua các năm 93 Biểu đồ 3.2: Cơ cấu trình độ của cán bộ, giáo viên dạy nghề năm 2013 98 Biểu đồ 3.3: Cơ cấu đào tạo nghề trình độ chuyên môn kỹ thuật tại thủ đô Viêng Chăn năm 2005-2013 100 Biểu đồ 3.4: Chuyển dịch cơ cấu trình độ của cán bộ quản lý Thủ đô Viêng Chăn qua các giai đoạn 106
  8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chủ nghĩa Mác - Lênin đặt con người ở vị trí cao nhất, nguồn tài sản quý giá của sự phát triển. Xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Con người mới phát triển toàn diện về phẩm chất, trí tuệ, văn hoá, năng lực, thể lực, sống bình đẳng, tự do, ấm no và hạnh phúc là động lực to lớn cho sự phát triển của mọi quốc gia, dân tộc. Ngày nay khoa học công nghệ, xu thế toàn cầu hoá và kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ, đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp tạo ra của cải vật chất với hiệu quả cao. Với sự ra đời của các ngành khoa học và công nghệ cao, sản xuất hiện đại, việc sử dụng lao động trí tuệ, nguồn nhân lực chất lượng cao phổ biến hơn. Nguồn lực con người thực sự là yếu tố lâu bền, chủ yếu nhất, nhân tố quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia và toàn nhân loại. Các dân tộc Lào vốn có truyền thống đoàn kết, nhân ái, cần cù lao động. Trong quá trình đổi mới, Đảng nhân dân cách mạng Lào quan tâm nhiều hơn đến con người trên các mặt nâng cao dân trí, văn hoá và thu nhập, khuyến khích làm giàu, xoá đói giảm nghèo, chăm sóc sức khoẻ Đời sống vật chất, văn hoá của phần lớn nhân dân được cải thiện. Tuy nhiên, do trải qua nhiều năm chiến tranh, điểm xuất phát thấp về kinh tế, mức sống của nhân dân còn thấp và còn nhiều khó khăn. Cơ sở vật chất thiếu thốn; chất lượng giáo dục, đào tạo, y tế ở nhiều nơi rất thấp; trình độ văn hoá, dân trí và các chỉ số phát triển con người còn thấp; việc làm đang là vấn đề gay gắt. Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã nhận thức được ngày càng đầy đủ hơn về vai trò của nguồn nhân lực trong sự phát triển đất nước. Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng nhân dân cách mạng Lào xác
  9. 2 định: "Phải coi nguồn lực con người là yếu tố quyết định, ưu tiên hàng đầu của sự phát triển , Phát triển nguồn nhân lực phải gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội" [135]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX tiếp tục khẳng định rõ hơn, coi đây là khâu đột phá: "Phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt về mặt xây dựng và bồi dưỡng trình độ của cán bộ cho phù hợp với yêu cầu của sự phát triển" [136]. Trong đó, phải nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, đầu tư cho giáo dục - đào tạo và y tế; sử dụng hiệu quả kinh tế tri thức, đặc biệt là nhân tài; đào tạo lực lượng lao động và chuyên môn hoá, đào tạo các nhà kinh doanh, nhà quản lý, để đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. Kinh tế - xã hội càng phát triển thì càng cần phải có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, công nhân kỹ thuật có trình độ cao về trí thức, kỹ năng, kỹ xảo để làm chủ khoa học - công nghệ trong sự phát triển. Nguồn nhân lực trở thành một trong những yếu tố then chốt, có vai trò đặc biệt trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào. Thủ đô Viêng Chăn là trung tâm kinh tế - chính trị, khoa học kỹ thuật và văn hoá - xã hội của nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào. Viêng Chăn có nhiều lợi thế thu hút đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, khoa học kỹ thuật, sau hơn 25 năm đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, toàn diện. Đảng bộ, Chính quyền Thủ đô Viêng Chăn đã có nhận thức rõ hơn; đề ra nhiều chủ trương mới khuyến khích đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả hơn nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thủ đô. Tuy nhiên, cho đến nay đời sống của nhân dân lao động các dân tộc Lào anh em còn rất khó khăn, do đó quá trình phát triển nguồn nhân lực của Thủ đô Viêng Chăn còn nhiều hạn chế. Nguồn nhân lực chất lượng cao của Thủ đô và của đất nước Lào nói chung có số lượng ít, chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chưa thực sự là động lực để phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện hội nhập kinh tế khu
  10. 3 vực và quốc tế hiện nay. Trong bối cảnh khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục phát triển nhảy vọt với trình độ ngày càng cao, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Lào đang được đẩy mạnh; để xây dựng và phát triển Thủ đô Viêng Chăn xứng đáng với vai trò là trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế, một động lực phát triển của cả nước; có kinh tế - xã hội phát triển toàn diện, bền vững, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân nâng cao, chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh củng cố phát triển nguồn nhân lực của Thủ đô Viêng Chăn đặt ra hết sức nặng nề. Với các lý do nêu trên luận án tiến sĩ kinh tế với đề tài "Nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô Viêng Chăn" được tác giả nghiên cứu, phân tích thực trạng, đánh giá, có những giải pháp hữu hiệu, tạo sự chuyển biến về chất đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế là có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Luận án được nghiên cứu, nhằm mục đích làm rõ cơ sở lý luận về nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội; phân tích, đánh giá thực trạng làm rõ cơ sở thực tiễn nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô Viêng Chăn thời kỳ từ năm 2006 đến năm 2013; đề xuất một số giải pháp chủ yếu, kiến nghị nhằm đảm bảo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô Viêng Chăn đến năm 2020. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận án tập trung vào làm rõ các nhiệm vụ sau: - Làm rõ cơ sở lý luận về nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội. - Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội của một số địa phương ở Việt Nam;
  11. 4 - Trình bày thực trạng, phân tích, đánh giá thực tiễn nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô Viêng Chăn thời kỳ từ năm 2006 đến năm 2013. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu đảm bảo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô Viêng Chăn đến năm 2020. - Kiến nghị về tổ chức thực hiện các giải pháp, nhằm đảm bảo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô Viêng Chăn đến năm 2020. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô Viêng Chăn dưới góc độ kinh tế chính trị. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Nguồn nhân lực phát triển kinh tế - xã hội là một đề tài có phạm vi rộng lớn và phức tạp. Phạm vi tập trung nghiên cứu của luận án như sau: - Về không gian nghiên cứu ở Thủ đô Viêng chăn. - Về nội dung: nghiên cứu chủ yếu các mặt của chất lượng nguồn nhân lực như giáo dục đào tạo, dân số, chăm sóc sức khoẻ - Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2006 đến năm 2013. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận Luận án dựa trên cơ sở lý luận, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước Lào về nguồn nhân lực; lý luận hiện đại phổ biến hiện nay về nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực phát triển kinh tế - xã hội nói riêng. 4.2. Phương pháp luận - Luận án sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm nền tảng cơ sở phương pháp luận. - Luận án sử dụng một số phương pháp cụ thể như: Phương pháp trừu
  12. 5 tượng hoá khoa học, phương pháp lôgíc - lịch sử, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp tiếp cận có hệ thống, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. - Ngoài ra luận án còn sử dụng phương pháp kế thừa, sử dụng kết quả nghiên cứu từ các công trình khoa học trên góc độ kinh tế chính trị có liên quan đến đề tài. 5. Những đóng góp về khoa học của luận án Luận án là công trình khoa học đầu tiên, mới mẻ nghiên cứu hệ thống về nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô Viêng Chăn. Qua đó, luận án sẽ góp phần làm rõ những vấn đề chung cho lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực như: - Khái niệm nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội. - Làm rõ những tiêu chí đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội. - Luận giải rõ vai trò của nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội, từ đó thấy được sự cần thiết khách quan của nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô Viêng Chăn. - Đánh giá thực trạng nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô Viêng Chăn thời kỳ từ năm 2006 đến năm 2013. - Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị chủ yếu nhằm đảm bảo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô Viêng Chăn đến năm 2020. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho hoạt động nghiên cứu lý luận về phát triển nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô Viêng Chăn. Luận án có giá trị mới có thể vận dụng làm tài liệu tham khảo cho các hoạt động nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong các trường đại học, đặc biệt là trong hệ thống các trường chính trị ở nước CHDCND Lào hiện nay.
  13. 6 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương, 11 tiết. Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội. Chương 3: Thực trạng nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô Viêng Chăn giai đoạn 2006 - 2013. Chương 4: Phương hướng và giải pháp chủ yếu đảm bảo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô Viêng Chăn đến năm 2020.
  14. 7 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Ở NƯỚC NGOÀI - Cuốn sách The East Asian Miracle: economic growth and public policy (Thần kỳ Đông Á: phát triển kinh tế và chính sách công) của World Bank (1993); bài viết Inequality and growth reconsidered: lesson from East Asia (Xem xét lại sự bất bình đẳng và tăng trưởng: những bài học từ Đông Á) của Nancy Birdsal, David Ross, và Richarch Sabot (1995) [182] đã phân tích và khẳng định: một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến các nước Đông Á có giai đoạn tốc độ phát triển kinh tế tăng gấp hai, ba lần các nước phát triển ở Âu - Mỹ, tạo nên thần kỳ Đông Á, chính là do có chính sách đầu tư, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở các nước này . - Công trình nghiên cứu của các chuyên gia Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB: Asean Development Bank - 2005) [185] đã đưa ra cảnh báo với các quốc gia đang phát triển sẽ có nguy cơ rơi vào 3 cái bẫy kỹ năng thấp nếu thiếu quan tâm đầu tư vào vốn con người. Ba cái bẫy đó là: Một là: Kỹ năng của người lao động thấp, lao động ít được đào tạo, năng suất lao động, năng lực cạnh tranh thấp. Nếu cố gắng khai thác lợi thế chi phí tiền lương thấp thì có thể rơi vào vòng luẩn quẩn. Hai là: Công nghệ thấp, công nhân không có đủ kỹ năng để làm chủ và vận hành máy móc thiết bị hiện đại, không khai thác hết công suất máy móc, thiết bị, gây lãng phí. Hậu quả lâu dài là không có động lực đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị và nâng cao trình độ công nghệ, năng suất sẽ tiếp tục giảm. Ba là: Người lao động ít sáng kiến, sáng tạo do thiếu tích luỹ kiến thức và kỹ năng thông qua giáo dục - đào tạo . - Bài viết Asia's four little dragons: a comparison of the role of education in their development (Bốn con rồng nhỏ châu Á: một sự so sánh về
  15. 8 vai trò của giáo dục trong phát triển) của Paul Moris (1996); bài Another look at East Asia Miracle (Một cái nhìn khác về thần kỳ Đông Á) của Ranis G (1996) [183]. Các tác giả đã lấy ví dụ minh chứng sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore trở thành những con rồng Châu Á ở những thập kỷ cuối thế kỷ XX và tiếp tục tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao, ổn định trong những thập kỷ đầu thế kỷ XXI, cũng là nhờ đều quan tâm phát triển giáo dục và đào tạo, có chiến lược đúng đắn phát triển nguồn nhân lực quốc gia, chú trọng tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao. - Christian Batal (2002), Quản lý nguồn nhân lực trong khu vực Nhà nước [188]. Nội dung trong cuốn sách này chủ yếu phân tích về năng lực làm việc cán bộ công chức, khối doanh nghiệp Nhà nước. Xây dựng khung năng lực tiêu chuẩn trên cơ sở đó phân loại năng lực; Đồng thời mô tả công việc chuyên môn của một số công việc chuyên trách yêu cầu nhân lực chất lượng cao như: Phụ trách đào tạo trong một cơ quan Nhà nước, công việc của một thủ trưởng đơn vị trong doanh nghiệp Nhà nước . - Cuốn sách Human resource policy and economic development (Chính sách nguồn nhân lực và phát triển kinh tế) xuất bản năm 1990, tái bản năm 1991 của Ngân hàng Phát triển châu Á [184], đề cập đến chính sách và xu hướng phát triển kinh tế, biến đổi cơ cấu lao động, nguồn nhân lực lao động ở các nước đang phát triển ở châu Á. - Landanov and Pronicov (1991), Tuyển chọn và quản lý công nhân viên chức ở Nhật Bản [186]. Đây là sách tham khảo tập trung vào quy trình bắt buộc khi tuyển chọn lao động với công chức Nhật Bản; Đồng thời nêu những yêu cầu cơ bản buộc khi quản lý công nhân viên chức, phân tích những ưu điểm của quy trình đồng bào nên những hạn chế đã và đang bộc lộ của quy trình trên. - Bushmarrin (2002), Trí tuệ hoá lao động ở các nước có nền kinh tế thị trường [187]. Trọng tâm của công trình nghiên cứu là luận điểm về vai trò quyết định của cá nhân trong hoạt động sống của công ty. Các công ty hiện nay
  16. 9 đều mong muốn nói đến chính sách cán bộ có tính chất chiến lược, nhằm đào tạo, tiếp nhân và cung cấp lực lượng lao động chất lượng cao, có khả năng sang tạo đến tất cả các khâu sản xuất. - Cuốn sách "International Differences in Growth Rates" (1994) [180], trong phần bàn về vai trò vốn nhân lực đối với quá trình tăng trưởng của các quốc gia trong thời gian gần đây, các tác giả đưa ra kết luận chung về vai trò ngày càng quan trọng của vốn nhân lực. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh tới vai trò của nhân lực trình độ cao trong việc tiếp thu tri thức khoa học - công nghệ hiện đại để tạo nên sự tăng trưởng mạnh mẽ cho mỗi quốc gia. - GS. TS Bùi Văn Nhơn (2006), Quản lý và phát triển nguồn nhân lực xã hội, Nxb Tư pháp, Hà Nội [59]. Cuốn sách này gồm 6 chương trình bày: Dân số - cơ sở tự nhiên hình thành nguồn lực xã hội; nguồn nhân lực và những đặc điểm của nguồn nhân lực Việt Nam; phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; việc sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực xã hội vào sản xuất xã hội; việc tổ chức tiền lương và bảo hiểm xã hội trong nền kinh tế quốc dân; tổ chức phân bổ dân cư và nguồn nhân lực xã hội. Tác giả đã tham khảo và sử dụng nội dung của cuốn sách liên quan tới luận án như các khái niệm về nguồn lực xã hội; vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH, HĐH; những đặc điểm chủ yếu của nguồn nhân lực Việt Nam; các hình thức phát triển nguồn nhân lực; chính sách và quản lý sự phát triển nguồn nhân lực. - TS. Nguyễn Thanh (2005), Phát triển nguồn nhân lực phục vụ CNH, HĐH đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội [75]. Cuốn sách này gồm có 3 chương: Chương 1: Phát triển nguồn nhân lực yếu tố quyết định sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay. Chương 2: Phát triển nguồn nhân lực có chất lượng ở nước ta hiện nay - thực trạng và một số định hướng chủ yếu. Chương 3: Phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cho CNH, HĐH trên cơ sở lấy phát triển giáo dục và đào tạo làm "Quốc sách hàng đầu" .
  17. 10 - Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ phát triển kinh tế- xã hội, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội [24]. Đã làm rõ vai trò quan trọng của giáo dục - đào tạo trong việc phát triển con người trong sự nghiệp CNH, HĐH và xây dựng hệ thống giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục Việt Nam để phục vụ hiệu quả việc phát triển con người. - GS.VS, Phạm Minh Hạc (2007) (Chủ biên), Phát triển văn hoá, con người và nguồn nhân lực thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội [25]. Cuốn sách đã phân tích mối quan hệ biện chứng giữa văn hoá, con người và nguồn nhân lực. Phát triển văn hoá, con người và nguồn nhân lực phải đạt trong một tổng thể không tách rời nhau, gắn kết nhau trong một thể thống nhất. Đồng thời nhóm tác giả cũng làm rõ chất lượng nguồn nhân lực hay nguồn nhân lực chất lượng cao, đó là những người lao động có tri thức tốt, kỹ năng cao và tính nhân văn. Tác giả đã tham khảo và tiếp thu tư tưởng của các công trình liên quan tới luận án như các vấn đề lý luận về con người, phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực được tác giả luận giải và phân tích rõ ràng; các định hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng tác giả cũng đề cập khá rõ. Trong đó, phát triển giáo dục - đào tạo là biện pháp quan trọng hàng đầu, có tầm quyết định để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng. - Nguyễn Hữu Dũng (2003), Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt Nam, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội [8]. Tác giả đã tham khảo và tiếp thu tư tưởng của cuốn sách này về một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến phát triển, phân bố, sử dụng nguồn lực con người trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; đồng thời đề xuất các chính sách và giải pháp nhằm phát triển, phân bố hợp lý và sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. - Trần Văn Tùng (2005), Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài năng - kinh nghiệm của thế giới, Nxb Thế giới, Hà Nội [85]. Tác giả đã
  18. 11 tham khảo tư tưởng của cuốn sách về kinh nghiệm phát triển, đào tạo và sử dụng tài năng khoa học - công nghệ, sản xuất kinh doanh, quản lý của Mỹ và một số nước châu Âu, châu Á; chính sách đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài năng hiện có của Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH. - TS. Đoàn Văn Khải (2005), Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội [34]. Tác giả đã phân tích về con người với tư cách là nguồn nhân lực cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Tác giả coi con người là nguồn lực của mọi nguồn lực, là tài nguyên của mọi tài nguyên; giữ vị trí trung tâm trong toàn bộ của quá trình CNH, HĐH là do con người và vì con người. Đây là những vấn đề lý luận quan trọng mà nội dung cuốn sách có những quan điểm mới hơn về con người. Tác giả cũng đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm khai thác và phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay. - PGS.TS, Trần Khánh Đức (2010), Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI, Nxb Giáo dục Việt Nam [19]. Cuốn sách đã làm rõ vai trò quan trọng của giáo dục và đào tạo trong phát triển con người nói chung và nguồn nhân lực đất nước nói riêng. Tác giả đã làm rõ khái niệm về nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực và các tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực. Tác giả cho rằng, khâu đột phá để phát triển nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là phải đổi mới, cải cách giáo dục và đào tạo. - Trần Kim Hải (1999), Sử dụng nguồn lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta, Luận án tiến sĩ kinh tế chính trị XHCN, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội [26]. Cuốn sách này gồm có 3 chương: Chương 1: Nguồn nhân lực và xu hướng chủ yếu sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình CNH, HĐH. Chương 2: Thực trạng và hình thức sử dụng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay. Chương 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực cho CNH, HĐH đất nước. Trong đó phân tích lý luận, thực tiễn và kinh nghiệm sử dụng nguồn
  19. 12 nhân lực của một số quốc gia, làm rõ những yêu cầu, xu hướng phổ biến sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình CNH, HĐH. Từ đó hướng vào giải quyết những vấn đề quan trọng nhất của việc sử dụng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay. Tác giả đã tham khảo và tiếp thu tư tưởng của luận án này liên quan tới luận án như khái niệm: "nguồn nhân lực"; xu hướng và đặc điểm chủ yếu của sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình CNH, HĐH: con người được coi là nhân lực cơ bản để tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trong đó, khai thác tiềm năng trí tuệ, phát huy năng lực sáng tạo trở thành yêu cầu chủ yếu của sử dụng nguồn nhân lực; Việc ưu tiên đầu tư cho phát triển giáo dục đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trở thành yếu tố cơ bản của sử dụng nguồn nhân lực; Quan điểm và phương hướng cơ bản về sử dụng nguồn lực trong quá trình CNH, HĐH đất nước. - Phạm Văn Quý (2005), Các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH, Luận án tiến sĩ chuyên ngành kinh tế, quản lý và kế hoạch hoá kinh tế quốc dân [70]. Luận án tiến sĩ kinh tế gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận và thực tiễn về phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ trong sự nghiệp CNH, HĐH. Chương 2: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ ở Việt Nam hiện nay. Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ ở Việt Nam thời kỳ từ năm 2004 - 2010 và tầm nhìn 2020. Tác giả đã tham khảo và tiếp thu tư tưởng của luận án này như nhân lực khoa học- công nghệ và phát triển nhân lực khoa học - công nghệ; khái niệm nhân lực và nhân lực khoa học - công nghệ - Phạm Văn Mợi (2010), Giải pháp phát triển nhân lực khoa học và công nghệ ở Hải Phòng phục vụ công nghệ hoá, hiện đại hoá, Luận án tiến sĩ kinh tế chuyên ngành quản lý kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội [54]. Luận án gồm 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận. Chương 2: Cơ sở lý luận và
  20. 13 thực tiễn về phát triển nhân lực khoa học và công nghệ phục vụ CNH, HĐH. Chương 3: Thực trạng phát triển nhân lực khoa học và công nghệ ở thành phố Hải Phòng. Chương 4: Quan điểm, mục tiêu và những giải pháp chủ yếu phát triển nhân lực khoa học và công nghệ ở Hải Phòng phục vụ CNH, HĐH đến năm 2020. Tác giả đã tham khảo và tiếp thu tư tưởng của luận án này liên quan tới luận án như khái niệm nhân lực khoa học- công nghệ, cơ sở lý luận, thực tiễn và quan điểm, mục tiêu, giải pháp chủ yếu phát triển phát triển nhân lực khoa học - công nghệ phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH. - Đào Quang Vinh (2006), Phát triển nguồn nhân lực cho CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, Luận án tiến sĩ chuyên ngành kinh tế, quản lý và kế hoạch hoá kinh tế quốc dân [93]. Luận án gồm 4 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển nguồn nhân lực cho CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Chương 2: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực cho CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Chương 3: Quan điểm và một số giải pháp chủ yếu phát triển nguồn nhân lực cho CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Tác giả đã tham khảo và tiếp thu tư tưởng của cuốn sách này liên quan tới luận án như luận giải mối quan hệ và tác động qua lại giữa CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và phát triển nguồn nhân lực, các giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. - Nguyễn Ngọc Tú (2012), Nhân lực chất lượng cao của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án tiến sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội [88]. Trong luận án, tác giả đã nhấn mạnh tới vai trò quan trọng hàng đầu của nhân lực chất lượng cao trong phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu vai trò, tác động to lớn của nhân lực chất lượng cao trong hội nhập kinh tế quốc tế, thì cũng không thể bỏ qua sự tác động trở lại của hội nhập kinh tế quốc tế đối với việc phát triển nhân lực của đất nước. Tác giả coi nhân lực chất lượng cao là sự cần thiết
  21. 14 khách quan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đó là đưa kinh tế Việt nam gia nhập phân công lao động quốc tế, nâng cao khả năng cạnh tranh vào thị trường quốc tế. Như vậy, việc phát triển nhân lực chất lượng cao trong tương lai, phải hướng vào phát triển nhân lực có trình độ đại học, cao đẳng; nhân lực quản lý hành chính nhà nước; nhân lực khoa học - công nghệ và phát triển đội ngũ giáo viên đại học và cao đẳng. Đây là một khâu đột phá nhằm thực hiện thắng lợi quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. - Nguyễn Tiệp, "Tác động của WTO đối với phát triển nguồn nhân lực Việt Nam", Tạp chí Lao động xã hội, (300) [83]. Trong bài viết tác giả đã nêu những tác động thuận lợi và khó khăn đến phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam khi gia nhập WTO. Tác giả đã tham khảo và tiếp thu tư tưởng về một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong thời gian tới như: Nhà nước cần có chương trình đào tạo nhân lực chuyên môn kỹ thuật cho các ngành nghề chịu sự tác động lớn sau khi gia nhập WTO; Mở rộng đào tạo nhân lực chuyên môn, kỹ thuật thuộc các ngành nghề công nghiệp và dịch vụ; Tăng nhanh nhân lực chuyên môn - kỹ thuật; Tiếp tục hoàn thiện thể chế, tiêu chuẩn lao động phù hợp với thông lệ chung của WTO và hoàn thiện chính sách thị trường lao động. - Phạm Công Nhất (2007), Phát huy nhân tố con người trong phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội [58]. Tác giả khẳng định Việt Nam là một nước có tốc độ phát triển nguồn nhân lực nhanh cả về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, sự cạnh tranh giữa các quốc gia về nguồn nhân lực và khoa học - công nghệ, thì chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay còn nhiều bất cập và hạn chế. - Vũ Thị Phương Mai (2004), "Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao qua thực tiễn công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở một số nước", Tạp chí Tổ chức Nhà nước, (11) [52]. Tác giả đã nêu rõ kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở một số nước như Mỹ, Nhật và trong đó có cả các
  22. 15 nước công nghiệp hoá mới Đông Á. - Lê Văn Phục (2010), "Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của một số nước trên thế giới", Tạp chí Lý luận chính trị, (6) [67]. Bài viết đã trình bày kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của các nước trên thế giới: Singapor, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ và các nước Tây Âu. Các quốc gia đều coi trọng và phát triển nền giáo dục - đào tạo, phải có chính sách thu hút sử dụng nhân tài. Sau đó đã đề ra một số ý kiến tham khảo cho Việt Nam. - Tăng Minh Lộc (2008), "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn", Tạp chí Cộng sản, (19) [46]. Tác giả khẳng định, hiện nay nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam còn nhiều mảng yếu. Vậy trong quá trình tác động của CNH, HĐH trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, những mảng yếu đó càng bộc lộ rõ hơn và chỉ rõ một trong những mảng yếu đó là chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển. Từ đó tác giả đi sâu vào phân tích tìm ra nguyên nhân và đưa ra một số các giải pháp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở nông thôn. Trong các lĩnh vực nghiên cứu nguồn nhân lực, tác giả Bá Vũ Thế trong cuốn phát huy nguồn lực con người để CNH, HĐH: Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam. Tác giả đã đưa ra kinh nghiệm một số nước trong việc phát huy nguồn nhân lực con người để phát triển kinh tế đã hệ thống hoá và khái quát hoá một số vấn đề lý luận liên quan đến nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực, vai trò và sự cần thiết phát triển nguồn nhân lực cũng như phân loại nguồn nhân lực. Từ đó, nêu lên thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam trong đó tập trung phân tích những ưu điểm, hạn chế và phương hướng phát triển của nguồn nhân lực Việt Nam. Và nhiều tác phẩm, công trình khoa học có liên quan khác. Như vậy, ở nước ngoài đã có khá nhiều công trình khoa học của các nhà khoa học nghiên cứu về nguồn nhân lực dưới nhiều góc độ khác nhau;
  23. 16 trong đó có cả các công trình khoa học đăng tải trên các báo, tạp chí nghiên cứu vấn đề nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung với những kết quả đáng trân trọng. Những kết quả đó, có giá trị tham khảo tốt, nên tác giả luận án đã kế thừa và phát triển có chọn lọc tư tưởng về phát triển nguồn nhân lực; hiểu rõ thêm một số vấn đề lý luận, thực tiễn phát triển nguồn nhân lực như: khái niệm, vai trò của nguồn nhân lực; đánh giá thực trạng nguồn nhân lực của Việt Nam trong phạm vi cả nước và một số địa phương; nguyên nhân, phương hướng, các giải pháp khả thi về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. 1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Ở LÀO Đã có một số công trình khoa học của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các nhà khoa học trong và nước ngoài nghiên cứu về nguồn nhân lực ở những góc độ, phạm vi khác nhau: - Công tác phát triển nguồn nhân lực đối với 8 tỉnh miền Bắc và 9 tỉnh miền Trung, Nam nước CHDCND Lào, (2007), Đề tài hội thảo khoa học cấp Nhà nước [99]. Đề tài do Ban Tổ chức Trung ương Đảng làm chủ nhiệm thuộc Chương trình Khoa học Công nghệ cấp Nhà nước thời kỳ từ năm 2005 - 2008. Đề tài nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực của Lào CHDCND Lào; đề xuất các quan điểm, chính sách và giải pháp phát triển nguồn nhân lực. Trong đó chỉ rõ giáo dục đào tạo có vai trò quyết định trong quá trình phát triển nguồn nhân lực của Lào. Phần thứ hai, đề tài làm rõ chính sách và giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ từ năm 2008 - 2009. Trong đó vấn đề chung là phải phát triển con người trở thành người tốt, có lòng yêu nước, yêu chế độ dân chủ nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội; chính sách và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phải đầu tư nhiều hơn nữa vào giáo dục - đào tạo để nâng cao chất lượng các bậc học; phải đảm bảo dịch vụ y tế và bảo
  24. 17 hiểm xã hội cho nhân dân các dân tộc Lào, đặc biệt là những người nghèo và gia đình chính sách xã hội; về lao động và tạo công ăn việc làm phải đầu tư nhiều hơn nữa xây dựng các trường trung học chuyên nghiệp trên cả nước. - Nguyễn Hải Hữu (2011), Một số vấn đề về phát triển nguồn nhân lực ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, Kỷ yếu hội thảo khoa học: Việt - Lào, Mã số ĐKXB: 706 - 2001/CXB/ĐHKTQD [33]. Tổng quan đã nêu quan điểm về phát triển nguồn nhân lực ở CHDCND Lào; nhấn mạnh những thay đổi cơ bản về nhận thức và tư duy đối với phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ đổi mới (1986-2009). Các bài viết nhấn mạnh công cuộc đổi mới ở CHDCND Lào đã đạt được những thành tựu rất to lớn, góp phần đưa đất nước Lào đi nhanh hơn vào quá trình CNH, HĐH nhưng gặp không ít khó khăn, thách thức, nhất là vấn đề phát triển nguồn nhân lực. Lực lượng lao động qua đào tạo nghề cũng thấp chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế, là lực cản đối với sự phát triển. Tác giả nhấn mạnh để quá trình CNH, HĐH được đẩy mạnh và phát triển thì nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực chất lượng cao ở CHDCND Lào cần được chú trọng phát triển hơn . - Nguyễn Đình Cử (2011), Những giải pháp góp phần thực hiện đột phá: Phát triển tài nguyên con người nhằm thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững ở nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, Kỷ yếu hội thảo khoa học: Việt - Lào, Mã số ĐKXB: 706 - 2001/CXB/ĐHKTQD [33]. Trong bài viết tác giả đã phân tích thực trạng chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực, nhằm làm rõ vì sao cần phát triển nguồn tài nguyên con người lại được lựa chọn là một trong những khâu đột phá ở nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào. Qua đó tác giả đưa ra một số kết luận về nguyên nhân dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực chưa cao và cuối cùng đề xuất một số giải pháp góp phần thực hiện khâu đột phá nói trên . - Sommad Phonesena (2011), Chiến lược đào tạo và phát triển nguồn nhân lực để đáp ứng cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội tại Lào, Kỷ yếu
  25. 18 hội thảo khoa học: Việt - Lào, Mã số ĐKXB: 706 - 2001/CXB/ĐHKTQD [33]. Qua bài viết tác giả bài viết đã phân tích sau hơn hai thập kỷ thực hiện chủ trương đổi mối, đất nước Lào đang bước sang một thời kỳ từ năm phát triển mới, trong đó vị thế kinh tế và năng lực không còn đơn thuần phụ thuộc vào sự sẵn có của các lợi thế cạnh tranh truyền thống, dựa trên tài nguyên thiên nhiên và chi phí lao động rẻ. Trong thời kỳ từ năm mới, yếu tố nguồn nhân lực chất lượng cao, có đủ tri thức và kỹ năng, sẽ giữ vai trò then chốt đảm bảo cho khả năng phát triển, hội nhập thành công của nền kinh tế. Để đạt được những mục tiêu này, đất nước đối mặt với những nhiều thách thức yếu tố địa lý, các mức độ phát triển chênh lệch kinh tế - xã hội, và đặc biệt hơn nữa là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực còn yếu kém. Để làm được điều này, Nhà nước và nhân dân Lào phải cùng đồng tâm hiệp lực với sự giúp đỡ quốc tế thực hiện tốt các chính sách, đã đề ra trong lĩnh vực giáo dục, y tế và dinh dưỡng như đó đề cập trên. Những kết quả nghiên cứu của các đề tài khoa học trên mà tác giả luận án có thể chọn lọc kế thừa và phát triển là: Một số tiêu chí đánh giá nguồn nhân lực và chỉ số phát triển con người HDI của Lào. Những chính sách và giải pháp phát triển nguồn nhân lực. Đề tài đề xuất các giải pháp phát triển nguồn nhân lực gồm: chiến lược và chính sách đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng và phải dành ngân sách thoả đáng cho chiến lược này hơn nữa. Tuy nhiên, xuất phát từ mục tiêu, phạm vi và quy mô nên đề tài không nghiên cứu nguồn nhân lực ở tầm vĩ mô toàn quốc mà chỉ đi sâu vào nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội trên phạm vi Thủ đô Viêng Chăn. - Đệt Tạ Kon Phi La Phăn Đệt (2004), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các bản, ngành ở thành phố Viêng Chăn trong thời kỳ từ năm cách mạng hiện nay, Luận án tiến sĩ lịch sử, Hà Nội [138]. Bài viết làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chủ chốt, các ban, ngành ở thành
  26. 19 phố Viêng Chăn; từ đó bài viết đã đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở thành phố và đề xuất phương hướng giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ cho những năm tiếp theo. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu đề tài, tác giả chỉ nghiên cứu đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chủ chốt các ban thuộc Thành uỷ và các sở thuộc Uỷ ban nhân dân Thành phố Viêng Chăn. Không nghiên cứu nguồn nhân lực nói chung cho phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô. Tác giả đã đóng góp luận chứng về vai trò, vị trí, đặc trưng, yêu cầu đối với đội ngũ này ở Thành phố Viêng Chăn trong thời kỳ từ năm cách mạng hiện nay. - Xỉ Tha Lườn Khăm Phu Vông (2005), Vai trò của chính sách xã hội đối với việc phát huy nhân tố con người ở Lào hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội [162]. Trên cơ sở phân tích khái quát một số khía cạnh lý luận về nhân tố con người và phát huy nhân tố con người; đồng thời làm rõ tầm quan trọng của chính sách xã hội trong việc phát huy nhân tố con người, luận án đã phân tích rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra của chính sách xã hội của Lào trong việc phát huy nhân tố con người ở Lào hiện nay, từ đó nêu phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới chính sách xã hội để phát huy hiệu quả nhân tố con người ở Lào trong những năm tiếp theo. - Khăm Phả Phim Ma Sỏn (2010), Xây dựng đội ngũ công chức quản lý Nhà nước về kinh tế ở Tỉnh BoLyKhămSay CHDCND Lào, Luận án tiến sĩ chuyên ngành quản lý kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội [139]. Tác giả đã góp phần làm rõ khái niệm về cán bộ công chức quản lý nhà nước về kinh tế, xây dựng các tiêu chí đánh giá đội ngũ công chức quản lý nhà nước về kinh tế; tuyển dụng và sử dụng, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ công chức quản lý nhà nước về kinh tế.Từ đó, tác giả đã phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng đội ngũ công chức quản lý nhà nước về kinh tế. Đánh giá thực trạng của đội ngũ công chức quản lý nhà nước
  27. 20 về kinh tế, đề xuất phương hướng và giải pháp về xây dựng đội ngũ công chức quản lý nhà nước về kinh tế. 1.3. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ NGHIÊN CỨU VÀ VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 1.3.1. Đánh giá kết quả công trình khoa học đã nghiên cứu Trên đây là các công trình nghiên cứu ở nước ngoài và ở Lào có liên quan trực tiếp và liên quan gián tiếp đến đề tài. Trong thời kỳ phát triển kinh tế tri thức, các vấn đề nguồn nhân lực được đặt ra, nghiên cứu một cách sâu rộng với nhiều người tham gia. Đây là các tài liệu quý bởi các thông tin được cập nhật và gợi mở những lý tưởng nghiên cứu. Các công trình trên đã đưa ra các giải pháp để phát triển nguồn nhân lực hướng tới sự phát triển của kinh tế tri thức, đặc biệt chú trọng giải pháp giáo dục đào tạo. Đồng thời các công trình nghiên cứu trên cũng làm cơ sở lý luận chung về nguồn nhân lực chất lượng cao ở một số ngành kinh tế, lĩnh vực cụ thể và từ đó đưa ra giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Nhìn chung các tác giả đã nghiên cứu sâu và tương đối kỹ một số khía cạnh trong quá trình phát triển nguồn nhân lực như: khái niệm, vai trò chức năng, thu hút, tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng tiêu chí xác định, các yếu tố cấu thành, quy hoạch, điều động và chế độ chính sách đối với nguồn nhân lực cho phát triển đất nước. Những công trình nghiên cứu trên đã góp phần giải đáp, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của thực tế đối với nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay. Đối với CHDCND Lào vấn đề nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội vẫn còn là vấn đề mới. Qua nghiên cứu và tổng hợp các công trình khoa học, tạp chí đã được công bố trong nước, có thể khẳng định cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu hoàn chỉnh và có hệ thống việc phát
  28. 21 triển nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô Viêng Chăn. 1.3.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào Nhìn chung, các công trình trên đã đề cập đến một số vấn đề lý luận và thực tiễn đối với nguồn nhân lực ở một vài khía cạnh khác nhau trên phạm vi khác nhau. Tuy nhiên, chưa có công trình riêng nào nghiên cứu về nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô Viêng Chăn. Vì vậy, đề tài này là mới mẻ, cần thiết và có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với Thủ đô Viêng Chăn (Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào) hiện nay. Đảng nhân dân cách mạng Lào phát triển đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội luôn luôn chú trọng yếu tố con người, động lực quan trọng nhất. Để có nguồn nhân lực chất lượng cao cho CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế của Thủ đô Viêng Chăn cần tiếp tục làm rõ: - Khái niệm nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội. - Vai trò của nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung, cũng như ở CHDCND Lào và Thủ đô Viêng Chăn nói riêng. - Đánh giá thực trạng nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô Viêng Chăn. - Phương hướng và giải pháp đảm bảo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô Viêng Chăn. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và thực hiện đường lối đổi mới của Đảng để đảm bảo mục tiêu tiến lên chủ nghĩa xã hội, cuộc sống của nhân dân các dân tộc Lào được nâng lên cần phải quan tâm phát triển nguồn nhân lực để có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, công nhân kỹ thuật có trình độ kỹ thuật cao. Phát triển nguồn nhân lực phải được xem xét giữa các dân tộc Lào, phát triển phải đồng đều để có niềm tin tin tưởng vào Đảng thực hiện đường lối đổi mới. Nền giáo dục đào tạo cần phải đổi mới toàn diện để theo kịp các nước trong khu vực.
  29. 22 Tóm lại, nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô Viêng Chăn nước CHDCND Lào là vấn đề cấp bách, cần thiết đối với nước Lào hiện nay, để bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở CHDCND Lào, hội nhập kinh tế quốc tế và thực hiện thành công chủ trương của Đảng Nhân dân cách mạng Lào đưa đất nước thoát khỏi nước nghèo và cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu vấn đề nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô Viêng Chăn, dưới góc độ kinh tế chính trị.
  30. 23 Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN NHÂN LỰC CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 2.1.1. Khái niệm và các tiêu chí đánh giá nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội 2.1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội Lịch sử xã hội loài người đã chứng minh rằng, sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản nhất trong quá trình hình thành và phát triển xã hội. Để tiến hành sản xuất xã hội cần có những yếu tố cơ bản như: sức lao động, đối tượng lao động, tư liệu lao động. Theo C. Mác: Sức lao động chính là toàn bộ năng lực, thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng trong khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó [50, tr.251]. Sự phát triển của sản xuất xã hội, sức lao động của con người không ngừng được hoàn thiện, phát triển và nhận thức về nguồn lực này cũng ngày càng đẩy đủ hơn. Nếu như trước đây, nguồn nhân lực chỉ đơn thuần được coi là phương tiện, là một trong số nguồn lực cho phát triển như các nguồn lực vật chất khác, thì ngày nay nguồn nhân này còn được xác định là mục tiêu của sự phát triển. Trong thời đại hiện nay, khi cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, thì trí tuệ của con người ngày càng được đề cao, được đánh giá là nguồn lực vô tận, có tính quyết định đối với sự phát triển. Nguồn nhân lực với tư cách là toàn bộ khả năng lao động xã hội của một quốc gia nói chung hay từng địa phương, từng tổ chức. Hiện nay tất cả các quốc gia trên thế giới, đều đặt vấn đề về con người và nguồn nhân lực là trung tâm, là linh hồn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn nhân
  31. 24 lực đã là điểm cốt yếu nhất của nội lực của mỗi nước. Vậy mà cho đến nay, đã có khá nhiều các công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực. Tuy nhiên, vấn đề nguồn nhân lực là rất phức tạp, nên các quan niệm chưa thống nhất. Sau đây là một số quan điểm về nguồn nhân lực: - Theo thuyết lao động xã hội, thì nguồn nhân lực được phân thành hai nghĩa: Nghĩa rộng của nguồn nhân lực là nơi cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội. Nghĩa hẹp của nguồn nhân lực là khả năng lao động xã hội, gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động tham gia vào quá trình sản xuất xã hội là tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh thần được huy động vào quá trình lao động. - Theo lý luận Mác - Lênin, thì nguồn nhân lực được xem xét như là một thành tố cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất, là phương tiện để phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn nhân lực được coi như một nhu cầu tất yếu cùng với các nguồn lực khác cho sự phát triển của đất nước. Bởi con người là vốn quý nhất, là mục tiêu và động lực cho mọi sự phát triển xã hội, đầu tư cho con người càng nhiều càng có hiệu quả và thu hồi vốn khá cao so với đầu tư vào các lĩnh lực khác, cho nên hầu hết các nước trên thế giới đều chú trọng áp dụng phương pháp này. - Theo quan điểm của Tổ chức quốc tế về lao động (ILo) thì lực lượng lao động là dân số trong độ tuổi lao động thực tế có việc làm và những người thất nghiệp. Nhân lực đồng nghĩa với lực lượng lao động, là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng. Như vậy, nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động con người của một quốc gia đã được chuẩn bị ở một mức độ nhất định, có khả năng huy động vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Tiềm năng đó bao hàm tổng hoà các năng lực về thể lực, trí lực, nhân cách con người của một quốc gia đáp ứng với một cơ cấu nhất định của lao động do nền kinh tế đòi hỏi. Năng lực về nhân cách liên
  32. 25 quan đến truyền thống lịc sử và nền văn hoá của từng quốc gia, nó được kết tinh trong mỗi con người và cộng đồng, tạo nên bản lĩnh và tính cách đặc trưng của con người lao động trong quốc gia đó. - Theo quan điểm của Ngân hàng thế giới (WB) cho rằng, nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con người gồm thể lực, trí tuệ, kỹ năng nghề nghiệp mà mỗi cá nhân sở hữu, có thể huy động được trong quá trình sản xuất kinh doanh hay một hoạt động nào đó. Ở đây nguồn nhân lực được coi như một nguồn bên cạnh các loại vốn vật chất khác và đầu tư cho con người được đặt lên hàng đầu trên các loại đầu tư khác, có thể nói đây là cơ sở vững chắc cho sự phát triển lâu dài, bền vững của mỗi quốc gia. - Theo các quan điểm của các nhà khoa học Việt Nam: Nguồn nhân lực được hiểu là dân số và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, trí tuệ và sức khoẻ, năng lực và phẩm chất, thái độ và phong cách làm việc theo đó nguồn nhân lực là tổng thể sức dự trữ, những tiềm năng, những lực lượng thể hiện sức mạnh và sự tác động của con người trong việc cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội [74, tr.70]. Ở Việt Nam hiện nay, đã thống nhất cách tiếp cận coi nguồn nhân lực chính là nguồn lao động bao gồm những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng chưa làm việc do đang trong tình trạng thất nghiệp, đang đi học, đang đảm đương nội trợ trong gia đình và kể cả không có nhu cầu làm việc trong thời điểm hiện tại. Giáo sư, viện sĩ Phạm Minh Hạc, thì xét trên bình diện quốc gia hay địa phương, nguồn nhân lực được xác định là: Tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hay một địa phương, tức là nguồn lao động được chuẩn bị (ở các mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó, tức là những người lao động có kỹ năng (hay khả năng nói chung) bằng con đường đáp ứng yêu cầu của chuyển đổi cơ cấu
  33. 26 lao động, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH [22, tr.134]. Cũng có ý kiến cho rằng, cần phân biệt khái niệm nguồn nhân lực với các khái niệm liên quan như dân số, sức lao động, nguồn lao động, lực lượng lao động, tiềm năng lao động Theo Từ điển tiếng Việt, sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực, tồn tại trong cơ thể một con người, thể lực và trí lực ấy có thể mang ra vận dụng để sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó. Lực lượng lao động là số lượng và chất lượng những người lao động được quy đổi theo các tiêu chuẩn trung bình về khả năng lao động có thể được sử dụng. Nguồn lao động với tư cách là phạm trù kinh tế, nó được phản ánh mối quan hệ được hình thành giữa xã hội, tập thể và cá nhân trong việc sản xuất, phân phối, phân phối lại và sử dụng khả năng lao động đã được hình thành phù hợp với lợi ích, nhu cầu xã hội và trình độ phát triển của tiến bộ khoa học và công nghệ. Trên thực tế, việc quy định độ tuổi lao động giữa các quốc gia có sự khác nhau. Do điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, trình độ phát triển, có quốc gia lấy tuổi lao động tối thiểu từ 15, 16 có nước đến 18 tuổi. Tuổi lao động tối đa có nước quy định là 60, có nước là nâng lên 65 tuổi. Nhìn chung, tiếp cận ở mỗi góc độ khác nhau, thì có những quan niệm khác nhau về nguồn nhân lực, nhưng về cơ bản các quan niệm đều thống nhất khi nói về nguồn nhân lực đó là nguồn lực con người. Như vậy, nguồn nhân lực là tổng hoà thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia; trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của dân tộc trong lịch sử, được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Có thể nói nguồn nhân lực là số lượng dân số, đặc biệt là dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động cùng với cơ cấu chất lượng của nó; trình độ dân trí gồm trình độ văn hoá, trí tuệ, năng lực tư duy, tích luỹ kinh nghiệm văn hoá dân
  34. 27 tộc, thế giới; trình độ tay nghề; thể chất con người gồm các yếu tố về sức khoẻ, độ bền, sức dẻo dai, chiều cao, cân nặng, phát triển cân đối tinh thần và thể chất; về phong cách lao động của con người gồm ý thức kỷ luật lao động, tinh thần trách nhiệm với công việc, lòng yêu nước, yêu lao động, lao động cần cù, có kỹ thuật, có năng suất cao. Từ các quan niệm đã nêu trên có thể thấy rằng, nguồn nhân lực được đề cập là tổng thể sức mạnh thể lực, trí lực, cùng với các đặc trưng về chất lượng lao động như kinh nghiệm sống, nhân cách, đạo đức, lý tưởng, chất lượng văn hoá, năng lực chuyên môn mà đang và sẽ được vận dụng vào cuộc sống lao động sản xuất ra của cải vật chất và dịch vụ để phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Như vậy, nguồn nhân lực là toàn bộ những tiềm năng lao động mà con người của một quốc gia, vùng lãnh thổ đã được chuẩn bị, huy động đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước; con người đóng vai trò chủ động, là chủ thể sáng tạo và chi phối toàn bộ quá trình đó hướng tới mục tiêu đề ra. Nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã là điều hết sức quan trọng, đảm bảo khả năng thực thi của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Kinh tế chính trị học Mác xít chỉ rằng, nguồn nhân lực với tư cách là yếu tố phát triển kinh tế - xã hội, là khả năng lao động của xã hội mà theo nghĩa cụ thể, nó bao gồm nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. Vai trò của các yếu tố này được C.Mác đề cập đến: sức lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó. Quá trình sản xuất xã hội ngày càng phát triển thì việc hoàn thiện năng lực lao động của con người ngày càng có chất lượng cao hơn. Sức lao động của con người trong sản xuất kinh doanh được coi như một yếu tố chi phí sẽ được đưa vào giá thành của sản phẩm thông qua tiền lương, quyền lợi vật chất khác mà người lao động được hưởng và yếu tố này đem lại lợi ích kinh
  35. 28 tế cho doanh nghiệp và xã hội. Với tư cách là yếu tố quan trọng có vai trò quyết định đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế, nguồn nhân lực của xã hội cũng không ngừng được phát triển theo sự phát triển của sản xuất, của khoa học - công nghệ và sự ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ vào sản xuất. Kế thừa những yếu tố hợp lý trong các quan điểm trên, tác giả luận án cho rằng: Nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội là một bộ phận của nguồn nhân lực quốc gia, có khả năng lao động của xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào quá trình lao động; Đó là tổng hợp thể lực, trí lực, tâm lực của một bộ phận lực lượng lao động xã hội hiện có thực tế và tiềm năng được chuẩn bị sẵn sàng để tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia hay một địa phương nào đó. Nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, ngoài việc quan tâm thích đáng tới việc nâng cao sức khoẻ và mặt bằng dân trí còn phải đặc biệt chú ý tới việc bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để làm chủ khoa học - công nghệ; đồng thời phải đặc biệt coi trọng việc xây dựng đạo đức, nhân cách, lý tưởng cho con người. Trình độ phát triển nhân cách, đạo đức đem lại cho con người khả năng thực hiện tốt các chức năng xã hội của nó, nâng cao năng lực sáng tạo của họ trong hoạt động thực tiễn xã hội. 2.1.1.2. Các tiêu chí đánh giá nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội Dân số của một nước là lực lượng lao động và thế mạnh của quốc gia đó. Nên khi nói đến nguồn nhân lực là nói đến nguồn lao động đã được chuẩn bị ở các mức độ khác nhau đã sẵn sàng tham gia vào các hoạt động lao động sản xuất xã hội, sản xuất kinh doanh. Thông qua quá trình phát triển nguồn nhân lực sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện thông qua các mặt cơ bản như: cơ cấu, thể lực, kỹ năng, kiến thức lẫn tinh
  36. 29 thần cần thiết cho công việc của người lao động và thông qua đó mà có khả năng tạo được việc làm ổn định. Nói cách khác, phát triển nguồn nhân lực là hoạt động có mục đích, có chiến lược lâu dài, nhằm tạo ra một nguồn lực vốn người đủ khả năng đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trong thời kỳ phát triển kinh tế tri thức và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Nguồn nhân lực với tư cách là khách thể của sự khai thác bền vững lâu dài và được đầu tư với một nguồn vốn hợp lý nhất định cả về quy mô, cơ cấu số lượng và chất lượng; số lượng và chất lượng nguồn nhân lực luôn gắn bó và tác động qua lại với nhau. Một là, tiêu chí về số lượng, cơ cấu nguồn nhân lực Số lượng nguồn nhân lực là tổng số lao động đã và đang được đào tạo, đang và sẵn sàng tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nó phụ thuộc vào dân số của một nước. Quy mô dân số và số lượng nguồn nhân lực có quan hệ cùng chiều với nhau. Nếu quy mô dân số của một nước càng lớn thì số lượng nguồn nhân lực của nước đó càng lớn. Tức là tốc độ gia tăng dân số của xã hội cũng tác động cùng chiều với tốc độ gia tăng số lượng nguồn nhân lực của xã hội. Các chỉ số về số lượng của nguồn nhân lực của một quốc gia bao gồm dân số, tốc độ tăng dân số, tuổi thọ bình quân, cấu trúc của dân số (số dân ở độ tuổi lao động, số người ăn theo. Trước yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ CNH, HĐH đất nước đòi hỏi chúng ta phải gấp rút đào tạo ngay lực lượng lao động có tri thức khoa học, nắm vững chuyên môn kỹ thuật, năng động sáng tạo, có phẩm chất đạo đức tốt. Bởi vì, trong quá trình CNH, HĐH sự thay thế lao động thủ công bằng lao động kỹ thuật. Kỹ thuật và công nghệ càng tiên tiến, hiện đại thì số lượng người lao động trực tiếp sử dụng kỹ thuật và công nghệ lạc hậu sẽ giảm và đòi hỏi người lao động phải có trình độ cao hơn để sử dụng máy móc thiết bị. Nhưng khi kỹ thuật và công nghệ lạc hậu thay đổi sẽ gây nên sự phân công lại lao động xã hội, từ đó hình thành nên các ngành sản xuất mới. Cùng với
  37. 30 quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đòi hỏi nguồn nhân lực phải đảm bảo đủ mạnh số lượng lao động, phù hợp với yêu cầu của sự phát triển trong từng thời kỳ từ năm nhất định. Số lượng và cơ cấu nguồn nhân lực được xác định dựa trên quy mô dân số, cơ cấu tuổi, giới tính và sự phân bố theo khu vực và vùng lãnh thổ của dân số. Riêng đối với nguồn lao động thì số lượng còn phụ thuộc nhiều yếu tố có tính chất xã hội khác nhau: Trình độ phát triển của giáo dục - đào tạo; mức sinh đẻ; trình độ xã hội hoá; nguồn thu nhập; di dân và nhập cư; độ tuổi người lao động. Như vậy, sự gia tăng dân số là cơ sở để hình thành và gia tăng số lượng nguồn nhân lực cũng như nguồn lao động. Đồng thời cơ cấu nguồn nhân lực phải đảm bảo hợp lý, mới đem lại hiệu quả cao cho sự phát triển của nền kinh tế cũng như mỗi địa phương. Quan điểm của các nhà dân số học thế giới cho rằng: "Một quốc gia muốn nền kinh tế phát triển cân đối và tốc độ cao phải có quy mô, cơ cấu dân số thích hợp, phân bố hợp lý giữa các vùng". Nghĩa là: Số lượng dân phù hợp với điều kiện thiên nhiên và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; Đảm bảo một tỷ lệ cân đối giữa số người trong độ tuổi với số người quá tuổi và chưa đến tuổi lao động. Theo các nhà dân số học thế giới, một cơ cấu thích hợp đảm bảo cho dân số ổn định tương ứng là 60 - 64%, 10 - 12% và 26 - 28% [57]. Số lượng nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng lớn đến quá trình CNH, HĐH đất nước nói chung và phát triển kinh tế - xã hội nói riêng. Thừa nhân lực sẽ ảnh hưởng dẫn đến tình trạng thất nghiệp, không có việc làm, tạo gánh nặng về mặt xã hội. Thiếu nhân lực không có đủ lực lượng lao động cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Mỗi quốc gia, mỗi tỉnh phải biết dựa vào thế mạnh và phải có kế hoạch trồng người lâu dài, phát triển nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
  38. 31 Hai là, tiêu chí về chất lượng nguồn nhân lực Trong thời đại cách mạng khoa học - công nghệ và hội nhập kinh tế quốc tế, chất lượng nguồn nhân lực có vai trò quyết định đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nên phải được quan tâm phát triển. Khi đánh giá về nguồn nhân lực người ta thường đề cập tới phương diện chất lượng nguồn nhân lực là chính. Chất lượng nguồn nhân lực thể hiện trình độ phát triển của nguồn nhân lực theo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong từng điều kiện lịch sử cụ thể và hội nhập kinh tế quốc tế. "Chất lượng nguồn nhân lực là tổng hợp những phẩm chất, năng lực, sức mạnh của người lao động tham gia vào quá trình lao động phát triển kinh tế - xã hội" [54, tr.31]. Chất lượng nguồn nhân lực là một trạng thái nhất định, nó thể hiện giữa các yếu tố cấu thành bên trong của nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực phản ánh những yêu cầu cần thiết mà nhân lực cần phải đạt được để thực hiện phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững. Chất lượng nguồn nhân lực là tổng hợp những phẩm chất, năng lực, sức mạnh của người lao động tham gia vào quá trình lao động phát triển kinh tế - xã hội. Nó được tạo nên bởi nhiều yếu tố và được đánh giá dựa trên các tiêu chí như: thể lực, trí lực của lực lượng lao động xã hội, chỉ số phát triển con người HDI, kinh nghiệm sống, năng lực hiểu biết thực tiễn, phẩm chất đạo đức, thái độ và phong cách làm việc, truyền thống văn hoá là những yếu tố quan trọng nhất. Để hiểu rõ hơn về chất lượng nguồn nhân lực, có thể cụ thể hoá các tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực sau đây: - Về thể lực người lao động Sức khoẻ là yếu tố quan trọng của nguồn nhân lực. Thể lực của người lao động là điều kiện tiên quyết để duy trì và phát triển trí tuệ, là phương tiện thiết yếu để chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn, để biến tri thức thành sức mạnh vật chất. Thể lực của nguồn nhân lực được biểu hiện ở trạng thái sức khoẻ của con người, các chỉ số sinh học như chiều cao, cân nặng, tuổi thọ,
  39. 32 khả năng hoạt động của cơ bắp Thể lực của con người được hình thành, duy trì, phát triển do chế độ dinh dưỡng, chăm sóc sức khoẻ, giống nòi, rèn luyện thể chất, Nó phụ thuộc vào chính sách xã hội và trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Nguồn nhân lực có thể lực tốt được biểu hiện ở sự nhanh nhẹn tháo vát, bền bỉ, dẻo dai trong lao động trí tuệ sáng tạo, ở sức mạnh của cơ bắp trong công việc. Thể lực tốt còn là điều kiện cho phát triển trí lực. Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội thể lực của nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng để chuyển tải, tiếp nhận tri thức khoa học - công nghệ, kinh nghiệm, kỹ năng nghề nghiệp thành sức mạnh của lực lượng sản xuất để tăng năng suất lao động, tạo ra nhiều sản phẩm mới cho xã hội. Như vậy, chất lượng nguồn nhân lực được duy trì, phát triển bằng vật chất, tinh thần, tư tưởng, thái độ của chính con người. Do vậy, để tạo điều kiện cho việc nâng cao thể lực của nguồn nhân lực cần phải tạo ra các điều kiện sống và chăm sóc sức khoẻ tốt nhất cho người dân. Cho nên việc giáo dục, đào tạo, rèn luyện thể dục, thể thao, chăm sóc sức khoẻ cho con người phải được coi là quốc sách hàng đầu. - Về trí lực của nguồn nhân lực Trình độ trí lực của nguồn nhân lực trong thời đại cách mạng khoa học - công nghệ đòi hỏi khá cao. Trí lực được biểu hiện ở trình độ học vấn, khả năng sáng tạo, trình độ tay nghề, phẩm chất tốt đẹp của người công dân yêu nước, có lòng yêu nước thiết tha, tự trọng dân tộc cao, yêu chủ nghĩa xã hội, quyết chí đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, thực hiện thành công CNH, HĐH vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh. Trình độ của nguồn nhân lực được coi là tiêu chí quan trọng nhất xác định chất lượng nguồn nhân lực hiện nay, đó là những năng lực sáng tạo, khả năng tận dụng các nguồn lực sẵn có, dễ lưu chuyển bên ngoài: vốn, thị trường, tri thức và công nghệ kỹ thuật hiện đại, và khả năng tiếp thu, xử lý những
  40. 33 thông tin kịp thời. Trình độ trí lực còn được thể hiện ở kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo tức là nguồn nhân lực phải có khả năng biến tri thức thành công nghệ và kỹ năng lao động nghề nghiệp, biết nghiên cứu, thiết kế, sáng tạo, ứng dụng, phát triển, đào tạo, bồi dưỡng và lựa chọn các giải pháp hợp lý để phát triển kinh tế - xã hội. "Tri thức là một động lực cơ bản cho việc gia tăng năng suất lao động và cạnh tranh toàn cầu, nó là yếu tố quyết định trong quá trình phát minh, sáng kiến và tạo ra của cải xã hội" [61, tr.43]. Như vậy, trí lực của nguồn nhân lực càng cao, năng suất lao động càng lớn, trí lực ngày càng có vai trò quyết định trong sự nghiệp phát triển nguồn lực con người. Đây là tiêu chí có vai trò rất quan trọng trong đánh giá chất lượng nguồn nhân lực. Trong điều kiện hiện nay, việc nâng cao trí tuệ của nguồn nhân lực là cơ sở thúc đẩy quá trình CNH, HĐH, nhất là trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế mà phải chú trọng phát triển các ngành công nghệ cao như: Công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ na nô. Biện pháp phổ biến để nâng cao trí lực nguồn nhân lực là đẩy mạnh và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, mở rộng quy mô và triển khai các cơ sở đào tạo nghề, nâng cao hiệu quả dạy nghề để đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ thuật trực tiếp sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đặc biệt là nguồn lao động có kỹ năng nghề nghiệp cao. Phương pháp đánh giá trình độ nghề nghiệp, mức độ cống hiến, phẩm chất đạo đức của người lao động là những phẩm chất đạo đức như ý thức tổ chức kỷ luật, tự giác lao động, tiết kiệm, tinh thần trách nhiệm, tác phong làm việc và lương tâm nghề nghiệp của nguồn nhân lực. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Trí lực là một hệ thống thông tin đã được xử lý và lưu lại trong bộ nhớ của con người. Nó được hình thành và phát triển thông qua giáo dục đào tạo và quá trình lao động sản xuất của con người. Trí lực của nguồn nhân lực được đánh giá thông qua các chỉ tiêu cơ bản là:
  41. 34 + Trình độ học vấn: Đây là chỉ tiêu đánh giá chất lượng nguồn nhân lực, nó thể hiện sự hiểu biết của người lao động thông qua những kiến thức tự nhiên và xã hội. Trình độ học vấn được cung cấp thông qua hệ thống giáo dục đào tạo ở nhiều hình thức khác nhau như: Giáo dục chính quy, không chính quy, qua quá trình tự học suốt đời của người lao động. Nói đến trình độ học vấn của nguồn nhân lực là nói đến trình độ dân trí của một quốc gia và các chỉ tiêu đó được xác định trên số lượng người biết chữ và số lượng người mù chữ; Tỉ lệ đi học chung theo các bậc học; Tỉ lệ đi học đúng tuổi, số người tốt nghiệp bậc học Trình độ dân trí của một quốc gia phản ánh trình độ học vấn của lực lượng lao động cao hay thấp và nó là tiêu chí quan trọng khi đánh giá chất lượng nguồn nhân lực. Kinh nghiệm phát triển của thế giới cho thấy quốc gia nào có trình độ dân trí học vấn cao thì sẽ có điều kiện tiếp thu và vận dụng nhanh chóng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quản lý sản xuất kinh doanh, sáng tạo ra những sản phẩm mới, góp phần rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước. Tính đến năm 2010, lao động đã qua đào tạo ở Việt Nam đã đạt đến 40%. Các số liệu cụ thể và dự báo về phát triển nguồn nhân lực Việt Nam được thể hiện thông qua bảng dưới đây: Bảng 2.1: Dự báo tỷ lệ lao động qua đào tạo [79, tr.12]. Đơn vị tính: % Tỷ lệ lao động Tỷ lệ lao động Năm được đào tạo được đào tạo nghề 2000 20 13,4 2005 30 19 2010 40 30 2015 55 40 2020 70 55
  42. 35 + Trình độ chuyên môn kỹ thuật: Lao động chuyên môn kỹ thuật bao gồm những người công nhân kỹ thuật từ bậc 3 trở lên cho đến những người có trình độ trên đại học. Đó là những người được đào tạo một chuyên môn hoặc một ngành, nghề nào đó để tham gia vào hoạt động kinh tế - xã hội có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực là kiến thức, sử hiểu biết và kỹ năng cần thiết để đảm đương chức vụ trong quản lý, kinh doanh và hoạt động nghề nghiệp. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động thường dùng để chỉ những người được đào tạo ở các trường kỹ thuật, được trang bị kỹ năng thực hành về một công việc nào đó. Trình độ chuyên môn kỹ thuật thông thường được biểu hiện thông qua thông số so sánh như: Thứ nhất: Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo, là lao động từ sơ cấp, công nhân kỹ thuật cho đến sau đại học so với lực lượng lao động đang làm việc. Đây là chỉ tiêu dùng để đánh giá khái quát trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực. Thứ hai: Tỷ lệ lao động được đào tạo theo cấp bậc so với tổng số tổng số lao động đang làm việc của cả nước. Chỉ tiêu này đánh giá mặt cụ thể nhất về trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực. Thứ ba: Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo thể hiện ở cơ cấu công nhân kỹ thuật, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học. Ở Việt Nam tính đến năm 2010, tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật cao so với lực lượng lao động đang làm việc đã qua đào tạo đạt 25,7% và tỷ lệ lao động theo cấp bậc so với tổng số lao động đang làm việc của cả nước là 14,6%. Tuỳ theo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ từng năm phát triển, công tác đào tạo của từng quốc gia cần hướng tới một nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý về trình độ đào tạo. Các nghiên cứu cần đây chỉ ra rằng, các nước công nghiệp phát triển có cơ cấu công nhân kỹ thuật/ trung học
  43. 36 chuyên nghiệp/ cao đẳng, đại học là 10/4/1. Bảng 2.2: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động ở Việt Nam [66, tr.238]. Đơn vị tính: % Năm 2005 2006 2007 2008 2010 Tổng số lao động (100) 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 Số không có chuyên môn kỹ thuật (%) 74,67 68,45 75,93 75,04 75,32 Số có chuyên môn kỹ thuật (%) 25,33 31,55 24,18 24,96 24,68 Qua bảng trên cho thấy lao động chuyên môn kỹ thuật Việt Nam có xu hướng tăng lên là do sự quan tâm của Đảng, Nhà nước với phát triển nền giáo dục đào tạo. + Năng lực sáng tạo: Các nhà khoa học Việt Nam chỉ ra: Sáng tạo bao gồm một số thành tố như: 1). Khả năng đặt ra vấn đề cần giải quyết; khả năng này phần lớn yếu tố tri thức, vốn hiểu biết, trí thông minh, phương pháp tư duy tốt, ; 2). Giải quyết vấn đề, cần có ý chí, quyết tâm, lòng dũng cảm, lòng kiên trì, cần mẫn, một tinh thần triệt để đi đến mục đích [64, tr.598]. Năng lực sáng tạo của nguồn nhân lực là trí lực và năng lực hoạt động được thể hiện bằng trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, tầm hiểu biết, phổ biến kiến thức, kỹ năng quản lý, tính năng động, năng lực thích nghi Trí lực được biểu hiện ở sự sáng tạo, tính linh hoạt, sắc bén trong phát hiện thông tin mới và khả năng thích ứng nhanh để học tập, áp dụng, tính làm chủ khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại cũng như năng lực hoạch định và thực hiện các giải pháp phát triển kinh tế. Hiện nay, ngoài những kiến thức cơ bản và những kỹ năng nghề nghiệp thì chưa đủ, cần phải tạo lập người lao động có tư duy năng động, sáng
  44. 37 tạo, thành thạo chuyên môn, nghề nghiệp, có năng lực tiếp thu chọn lọc và ứng dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học cộng nghệ hiện đại vào thực tiễn đất nước; có năng lực sáng tạo cả về lý thuyết và thực hành, khả năng thích ứng với môi trường, với những biến động và cạnh tranh quốc tế. - Phẩm chất đạo đức và trình độ văn hoá của nguồn nhân lực Trong quan hệ đức - tài của nguồn nhân lực, phẩm chất đạo đức được coi là một yếu tố xã hội quan trọng. Đạo đức gồm những tình cảm, tập quán phong cách, thói quen, quan niệm, truyền thống, các hình thái tư tưởng đạo đức và nghệ thuật thẩm mỹ, ứng xử gắn trong xã hội. Đức là chuẩn mực, là quy phạm của xã hội, cộng đồng để điều chỉnh quan hệ và hành vi của cá nhân và tập thể. Đạo đức giúp ta phân biệt được cái đúng, cái sai, cái thiện, cái ác, cái tốt, cái xấu đạo đức xã hội tốt thì xã hội sẽ phát triển. Đức và tài là hai yêu cầu hàng đầu của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói có đức mà không có tài thì làm gì cũng khó, có tài mà không có đức thì làm việc gì cũng hỏng. Trong bối cảnh hội nhập thế giới, tình hình diễn biến phức tạp, nhất là khi các thế lực thù địch mưu toan "diễn biến hoà bình" đòi hỏi nguồn nhân lực phải có đạo đức cách mạng. Đó là có lòng trung thành với lợi ích quốc gia và dân tộc, lòng tự hào dân tộc, phẩm chất chính trị kiên định, tinh thần cảnh giác cao trong hợp tác với quốc tế Trình độ văn hoá là khả năng về tri thức và kĩ năng tiếp thu những kiến thức cơ bản. Do dân số Lào còn ít, trình độ phát triển kinh tế chưa theo kịp khu vực, cơ sở hạ tầng chưa hoàn thiện, trình độ dân trí thấp, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, yêu cầu về nâng cao văn hoá đối với nguồn nhân lực của CHDCND Lào đặt ra rất cấp bách. - Kinh nghiệm sống, phong cách làm việc và tác phong lao động công nghiệp của nguồn nhân lực Khi nói tới nguồn nhân lực, ngoài thể lực, trí lực của con người cần phải nói tới kinh nghiệm sống, năng lực hiểu biết thực tiễn, đạo đức nhân
  45. 38 cách và khả năng nắm bắt nhu cầu phát triển của con người. Đây cũng là nhân tố tinh thần có vai trò ảnh hưởng đến chất lượng của con người, thúc đẩy tính tích cực và làm gia tăng năng lực hoạt động của con người. Phong cách, tác phong lao động là chỉ tiêu phản ánh mặt định tính, được hình thành từ truyền thống văn hoá văn minh dân tộc, tâm lý, phong tục tập quán, lối sống tồn tại khá lâu trong hoạt động sản xuất và sinh hoạt của dân cư ở từng vùng, từng dân tộc và từng ngành sản xuất có tác động mạnh đến chất lượng nguồn lao động. Phong cách, tác phong lao động công nghiệp của nguồn nhân lực được thể hiện ở thái độ làm việc, tốc độ thao tác, tính nghiêm túc chấp hành giờ giấc lao động, ý thức tổ chức kỷ luật, mức độ đoàn kết gắn bó giữa các cá nhân, các đoàn thể, tinh thần trách nghiệm đối với công việc . Đây là những chỉ tiêu không kém phần quan trọng đóng góp vào kết quả sản xuất kinh doanh; là tiêu chí quan trọng trong việc đánh giá chất lượng nguồn nhân lực. - Về chỉ số phát triển nhân lực HDI (Human Development Index) Chỉ số phát triển con người (HDI) được Liên hợp quốc đưa ra vào năm 1990, nhằm đánh giá và so sánh chất lượng cuộc sống được xây dựng trên cơ sở 3 tiêu chí: Về mức độ phát triển kinh tế, xác định bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người hàng năm; Về chỉ tiêu phát triển giáo dục, xác định bởi tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ đi học của các cấp giáo dục; Về chỉ tiêu y tế được tính bằng tuổi thọ bình quân của người dân. Chỉ số HDI phản ánh trình độ phát triển về kinh tế, y tế và giáo dục của các quốc gia trên cơ sở sự phát triển toàn diện của con người. Theo quy ước quốc tế, giá trị HDI của các nước và lãnh thổ trên thế giới nằm trong khoảng từ 0 đến 1. Nước nào có giá trị HDI càng gần đến 1 thì mức độ phát triển nguồn nhân lực rất cao và ngược lại nước nào có giá trị HDI dưới 0,4 thì mức độ phát triển nguồn nhân lực của nước đó là rất thấp. Năm 2011, Ngân hàng thế giới xếp Lào vào nhóm nước có thu nhập thấp và
  46. 39 GDP bình quân đầu người đứng thứ 128 trên tổng số 168 nước. Do các chỉ tiêu về sức khoẻ, giáo dục và kinh tế thấp, mặc dù chỉ số phát triển con người của Lào tăng lên không ngừng, nhưng đến năm 2010 cũng mới chỉ đạt 0,497, xếp thứ 122/169 nước. Sau đây là chỉ số HDI của Lào so với thế giới. Bảng 2.3: Chỉ số HDI của Lào và thế giới [33, tr.322]. Chỉ số phát triển con người (HDI) Năm Lào Thế giới 2000 0,354 0,526 2005 0,460 0,598 2006 0,467 0,604 2007 0,475 0,611 2008 0,483 0,615 2009 0,409 0,619 2010 0,497 0,624 Ba là, tiêu chí về kết quả đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực Đây là một nhân tố có ý nghĩa quan trọng đánh giá sự phát triển nguồn nhân lực, nhằm tạo nền tảng cho sự phát triển của các tố chất phản ánh mặt chất lượng. Hệ thống giáo dục đào tạo, nếu được tổ chức, đổi mới hợp lý không ngừng, nâng cao chất lượng thì sẽ tạo sự phát triển mạnh mẽ chất lượng nguồn nhân lực. Người ta thường dựa vào tiêu chí qua hệ thống giáo dục đào tạo quốc dân trong dân số của đất nước. Đó là dân số nhóm tuổi 6 - 23 tuổi đang đi học; Dân số nhóm tuổi 18 - 23 tuổi đang đi học (trên tỷ lệ (%) tổng dân số trong nhóm tuổi); Số người được đào tạo nghề hàng năm với mức độ tăng, giảm (1.000 lượt người đối với đào tạo nghề từ sơ cấp trở xuống); Số học sinh tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp; Số sinh viên tốt nghiệp cao đẳng, đại học hàng năm; Số học viên tốt nghiệp Thạc sĩ hàng năm; Số
  47. 40 nghiên cứu sinh bảo vệ luận án Tiến sĩ hàng năm; Số học sinh các trường trung cấp nghề; Số học sinh các trường trung cấp chuyên nghiệp, trường cao đẳng nghề hàng năm; Số sinh viên cao đẳng; Số sinh viên đại học, cao học, nghiên cứu sinh hàng năm; Bốn là, tiêu chí đánh giá kết quả thu hút, sử dụng và trọng dụng nguồn nhân lực Việc bồi dưỡng và đào tạo nhân tài phải đi liền với việc sử dụng và trọng dụng nhân tài, coi sử dụng và trọng dụng nhân tài chính là đích cuối cùng, phản ánh hiệu quả của bồi dưỡng và đào tạo nhân tài. Đây là tiêu chí phản ánh thực chất quá trình phát triển nguồn nhân lực. Chỉ khi nào có cơ chế, chính sách mang tính đột phá, chiến lược và hiệu quả thì mới có nguồn nhân lực chất lượng cao. Do vậy, nó đề cập đến việc hoàn thiện, đổi mới cơ chế, chính sách nhằm thu hút, sử dụng và trọng dụng nguồn nhân lực. Tiêu chí đánh giá việc thu hút, sử dụng và trọng dụng nguồn nhân lực chủ yếu là: Lao động làm việc trong nền kinh tế (số lượng tuyệt đối - % lực lượng lao động). Chỉ số về tốc độ tăng bình quân hàng năm; Mức tăng (giảm) hàng năm; Cơ cấu theo ngành kinh tế; Số người thất nghiệp; Năng suất lao động (tính theo giá trị GDP hoặc giá trị gia tăng trên 1 lao động làm việc) Tóm lại, trong sự phát triển sản xuất, dưới tác động của khoa học - công nghệ đều có những tiêu chí cụ thể đánh giá chất lượng nguồn nhân lực. Theo sự phát triển của sản xuất, chất lượng nhân lực không ngừng được nâng cao. Tuy nhiên chất lượng nhân lực không thể được nâng lên một cách đồng đều, ngay tức khắc cùng với một lúc trên toàn xã hội. Nó phải được tiến hành dần dần, qua từng bước, kết hợp giáo dục đào tạo với hoạt động thực tiễn, giữa học với hành, giữa nâng cao đời sống kinh tế, phát triển thể lực với tiến hành hàng loạt các chính sách xã hội chăm lo, bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người.
  48. 41 Như vậy, phát triển nguồn nhân lực sẽ mang lại lợi ích lớn hơn so với các nguồn lực vật chất khác như vốn, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên và hiện nay nó trở thành vấn đề được quan tâm đặc biệt của mọi quốc gia trên thế giới. 2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội Nguồn nhân lực là bộ phận chủ yếu của nguồn lao động nằm trong dân số của một quốc gia. Xét về tầm vĩ mô, phát triển nguồn nhân lực là hoạt động nhằm tạo ra nguồn lực lao động có trình độ, khả năng áp dụng được những tiến bộ khoa học kỹ thuật, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Số lượng và chất lượng nguồn nhân lực luôn gắn bó với nhau và tác động qua lại với nhau. Phát triển nguồn nhân lực chính là giải quyết mối quan hệ giữa chất và lượng. Chất là tính quy định, nó gắn chủ yếu với các điều kiện kinh tế - xã hội, văn hoá giáo dục y tế, các chính sách xã hội, dân chủ hoá xã hội và cơ chế quản lý; môi trường, điều kiện sống Có nhiều yếu tố có quan hệ gắn bó, liên hệ mật thiết, tác động, ảnh hưởng đến nguồn nhân lực như: 2.1.2.1. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội Trình độ phát triển kinh tế - xã hội là phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế và phát triển nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của nguồn nhân lực, phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội, mức độ văn minh của một quốc gia. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội góp phần quan trọng nâng cao mức sống, sức khoẻ, thể lực, trí lực, tuổi thọ, trình độ dân trí, trình độ chuyên môn, nghề nghiệp của người lao động. Kinh tế tăng trưởng ở trình độ cao, đời sống nhân dân ổn định ở mức cao sẽ có nhiều điều kiện
  49. 42 thuận lợi nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Kinh tế phát triển có điều kiện đầu tư cho giáo dục và đào tạo phát triển; khi giáo dục và đào tạo phát triển tạo ra nhiều nguồn nhân lực có chất lượng lại tiếp tục phát triển kinh tế - xã hội. GDP bình quân đầu người là một trong những tiêu chí để đánh giá trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Trong so sánh giữa các nước thấy, nhóm nước có GDP bình quân đầu người cao thì thường có các chỉ số về chất lượng nhân lực cao và cao hơn nhiều những nước có GDP bình quân đầu người thấp. nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng, quyết định để tăng trưởng kinh tế và có tính độc lập, tác động trở lại để đạt được trình độ phát triển cao. Các nước Singapore, Thái Lan, Trung Quốc, Malaixia cho thấy nhờ chăm lo phát triển nguồn nhân lực có chất lượng nên đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, thì ở đó nguồn nhân lực có chất lượng cao, kể cả trình độ học vấn, sức khoẻ, tuổi thọ. Có thể thấy điều đó qua các số liệu sau: Bảng 2.4: Quan hệ giữa GDP với HDI [97]. Tuổi thọ Tỷ lệ người Tỷ lệ đi học GDP đầu người Tên nước HDI (Năm) lớn biết chữ 6 - 23 tuổi (USD) Singapore 77,3 91,8 91,8 24.210 24 Malaixia 72,2 86,4 65 8.137 61 Thái Lan 68,9 95 61 5.456 76 Trung Quốc 70,1 82,8 72 3.105 99 Việt Nam 67,8 92,9 63 1.689 108 Lào 53,7 46,1 57 1.734 140 Số liệu trên cho thấy, trình độ phát triển kinh tế - xã hội góp phần quan trọng vào việc nâng cao mức sống, có điều kiện chăm sóc sức khoẻ, nâng cao
  50. 43 thể lực, trí lực, nâng cao tuổi thọ của người lao động. Trình độ kinh tế - xã hội càng phát triển, càng có điều kiện nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và nguồn nhân lực có chất lượng càng cao. Do trình độ nền kinh tế - xã hội còn ở mức thấp nên chất lượng nguồn nhân lực ở Lào chưa cao so với các nước trong khu vực. Do đó, tập trung cho phát triển kinh tế - xã hội và nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế là khâu đột phá, nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX mà Đảng nhân dân cách mạng Lào đề ra. 2.1.2.2. Giáo dục và đào tạo Uỷ ban giáo dục của UNESCO khẳng định "Giáo dục là của cải nội sinh". Kết quả của giáo dục là nội lực của con người ấy và khả năng tạo ra của cải vật chất, tạo ra phúc lợi cho toàn xã hội. Ngày nay, khoa học - công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là yếu tố quyết định sự tăng trưởng của nền kinh tế và phát triển xã hội. Trí tuệ và năng lực sáng tạo là yếu tố chủ yếu của chất lượng nguồn nhân lực. Giáo dục - đào tạo có vai trò trực tiếp, quyết định trong việc nâng cao chất lượng, cung cấp nguồn nhân lực chính cho mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Đầu tư cho giáo dục được coi là đầu tư cho tái sản xuất con người. Trình độ phát triển của hệ thống giáo dục quốc gia tác động mạnh mẽ và là động lực thúc đẩy sự phát triển nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội và ngược lại. Trình độ phát triển của hệ thống giáo dục quốc gia càng cao, đẳng cấp quốc tế thì nguồn nhân lực được đào tạo sẽ có chất lượng cao, đẳng cấp quốc tế. Thực tế các nước công nghiệp phát triển rất quan tâm đến công tác giáo dục; Ngược lại, họ rất chú trọng và đầu tư rất nhiều cho nền giáo dục nước nhà, giải phóng, nâng cao trình độ dân trí và đội ngũ cán bộ khoa học.
  51. 44 Bảng 2.5: Đầu tư cho giáo dục từ GDP và ngân sách Nhà nước [91]. Tên nước GDP/người/năm Đầu tư cho giáo dục STT Thực tế Theo sức Từ ngân sách Từ GDP (USD) mua (PPP$) nhà nước (%) (%) 1. Singapore 20.866 24.040 - 3,7 2. Hàn Quốc 10.106 16.950 17,4 3,6 3. Malaixia 3.905 9.120 20 7,9 4. Thái Lan 2.060 7.010 31 5,0 5. Việt Nam 1200 2.300 17 (2010) 4,6 (2010) 6. Indonesia 817 3.230 9,8 1,3 7. Mianma - 1.027 18,1 1,3 Đối với CHDCND Lào, để thực hiện mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, thực hiện quá trình CNH, HĐH rút ngắn tiếp cận kinh tế tri thức đưa đất nước đuổi kịp các nước trong khu vực, đòi hỏi cải cách căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo đang đặt ra là một yêu cầu cấp bách. 2.1.2.3. Dân số Sự phát triển kinh tế nói chung và phát triển đào tạo nguồn nhân lực nói riêng liên quan chặt chẽ với vấn đề dân số. Dân số là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng lao động của mỗi quốc gia. Số lượng lao động phụ thuộc vào quy mô dân số, tốc độ gia tăng dân số. Song tốc độ gia tăng dân số lại phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố như: Đời sống kinh tế, sinh thái, môi trường tự nhiên; trình độ dân trí và nhận thức của mọi thành viên xã hội; sự phát triển khoa học - công nghệ, tập quán, tôn giáo, chính sách kinh tế, chính sách chăm sóc sức khoẻ nhân dân của mỗi quốc gia. Dân số và lao động có mối quan hệ, tác động qua lại với phát triển kinh tế - xã hội, nó được thể hiện dưới các điểm sau đây:
  52. 45 Thứ nhất, quy mô, cơ cấu dân số và lao động thích hợp, chất lượng tốt sẽ tác động tích cực, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Ngược lại, sẽ trở thành lực cản của quá trình này. Thứ hai, kinh tế phát triển sẽ tạo điều kiện vật chất cho phát triển giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khoẻ con người, nâng cao trí lực và thể lực của người lao động. Kinh tế phát triển, việc ứng dụng rộng rãi khoa học kỹ thuật, sử dụng công nghệ hiện đại thúc đẩy người lao động có nhu cầu đào tạo, nâng cao trình độ và tay nghề ngày càng tăng. Do vậy, Nhà nước cần phải để cao phúc lợi xã hội, tăng mức bảo hiểm, bảo trợ xã hội, đầu tư cho chăm sóc sức khoẻ, nâng cao trí lực, thể lực con người, có chính sách dân số hợp lý, phát triển giáo dục đào tạo đồng thời giảm bớt những bất hợp lý trong quan hệ cung - cầu nguồn nhân lực 2.1.2.4. Trình độ khoa học - công nghệ Trong sự nghiệp CNH, HĐH, không chỉ là mở rộng quy mô mà quan trọng hơn là phải nâng cao chất lượng, hiệu quả, vị thế và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Một trong những nhân tố trung tâm, quyết định khả năng cạnh tranh đó là trình độ khoa học - công nghệ, mà trọng tâm là đội ngũ trí thức, lực lượng nòng cốt của nguồn nhân lực chất lượng cao. Đảng Cộng sản Việt Nam đã kết luận: "Khoa học - kỹ thuật là một động lực đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến thế giới", khoa học - công nghệ là "công cụ chủ yếu để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của mọi hoạt động kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng nền văn hoá mới, con người mới, thúc đẩy công cuộc đổi mới toàn diện đất nước" [10]. Khoa học - công nghệ là nhân tố rất quan trọng, là động lực có hiệu quả to lớn phát triển kinh tế xã hội. Theo nghiên cứu của Paul Kruman, sự tăng trưởng kinh tế của các nước Châu Âu, Mỹ trong những năm 1850 đến
  53. 46 đầu thế kỳ 20, có sự đóng góp của khoa học - công nghệ 49,8%. của khoa học - công nghệ. Cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức, tác động trực tiếp đến nguồn nhân lực, làm thay đổi trình độ tổ chức, chuyên môn; là động lực sức ép quan trọng để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Cần đào tạo, bồi dưỡng, thu hút các tài năng trẻ để tạo nên một thế hệ đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học giỏi và những cán bộ có năng lực công nghệ giỏi cho đất nước. Nhiều quốc gia trên thế giới đã đạt được những thành tựu cao trong phát triển kinh tế chủ yếu bằng giáo dục đào tạo, họ coi giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ được ưu tiên như một quốc sách hàng đầu. 2.1.2.5. Y tế và dịch vụ chăm sóc sức khoẻ Trình độ y tế và dịch vụ chăm sóc sức khoẻ trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực, là yếu tố cấu thành trong phát triển thể chất, tinh thần; có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng dân số và chất lượng nguồn nhân lực. Sức khoẻ là trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội chứ không đơn thuần là không có bệnh tật, sức khoẻ là nhân tố tác động trực tiếp đến thể chất của dân cư và nguồn nhân lực, là yếu tố tác động trực tiếp đến số lượng và chất lượng nguồn lao động. Bản thân sức khoẻ và dinh dưỡng không chỉ là tiền đề và điều kiện để hình thành và phát triển trí tuệ, tài năng, đạo đức của con người, mà còn là phương tiện vật chất hoá sức mạnh của trí tuệ, đạo đức, năng lực trong quá trình hoạt động thực tiễn [29, tr.19]. Cải thiện sức khoẻ cho tầng lớp trẻ sẽ dẫn tới một thế hệ khoẻ mạnh, có lực lượng lao động tăng năng suất lao động. Thực tế cho thấy, nước nào có trình độ y tế và các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ thì có nhiều điều kiện để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Mỹ . Ở các nước kinh tế phát triển, thu nhập (GDP) bình quân đầu người và tuổi thọ cao, tham khảo qua bảng dưới đây:
  54. 47 Bảng 2.6: Bình quân thu nhập đầu người và tuổi thọ của dân số các nước GDP danh nghĩa/ Tuổi thọ Năm Tên nước người (USD) 1991 Nam Nữ Nhật Bản 27.005 1991 76,11 82,11 Mỹ 22.468 1990 72,00 78,80 Đức 24.553 1989 72,39 78,88 Pháp 20.961 1990 72,75 80,94 Thái Lan 1.430 1986 63,82 68,85 Trung Quốc 323 1990 67,78 70,94 Nguồn: Bộ Y tế và phúc lợi Nhật Bản. 2.1.2.6. Hệ thống các chính sách vĩ mô của Nhà nước Chính sách vĩ mô của Nhà nước ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển giáo dục, đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là các chính sách kinh tế - xã hội: Một là, chính sách giáo dục và đào tạo Chính sách phát triển giáo dục cơ bản tạo nền móng ban đầu, là tiền đề cần thiết cho phát triển đào tạo nguồn nhân lực là nhân tố cơ bản của phát triển nguồn nhân lực. Việc đánh giá phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia, trước hết là phải dựa vào trình độ phát triển giáo dục phổ thông (tỷ lệ người biết chữ, trình độ phổ cập giáo dục - số năm giáo dục bắt buộc, tỷ lệ đi học của trẻ em trong các nhóm tuổi của mỗi cấp lớp ). Chính sách phát triển đào tạo nguồn nhân lực bao gồm chính sách về quy mô đào tạo, cơ cấu đào tạo và chính sách tài chính trong phát triển nguồn nhân lực (gồm cả giáo dục phổ thông, đại học, đào tạo chuyên nghiệp và dạy nghề tại các trường, cơ sở dạy nghề, địa chỉ và trong sản xuất ). Đây là hệ thống chính sách mang tính chiến lược dài hạn có tác động lớn trên tầm vĩ mô đến chất lượng, trình độ nguồn nhân lực của một quốc gia, vùng lãnh thổ.
  55. 48 Hai là, chính sách phân bổ, sử dụng và thu hút nguồn nhân lực Đây là nhóm chính sách tác động trực tiếp đến quá trình quản lý nguồn nhân lực, nếu chính sách và phương pháp hợp lý, khách quan, chính xác thì việc phân bổ và sử dụng sẽ có hiệu quả cao. Nguồn nhân lực sẽ phát huy được thế mạnh của mình ở những vị trí phù hợp với trình độ chuyên môn nghề nghiệp của họ. Việc bố trí, phân công công việc hợp lý dựa trên cơ sở năng lực và phân tích công việc sẽ có tác động lực phấn đấu, cống hiến và vươn lên trong quá trình làm việc. Khi cơ hội thăng tiến rộng mở đối với cả đội ngũ thì đội ngũ sẽ có động lực để sáng tạo và bứt phá nhằm khẳng định khả năng của mình trong công việc được giao. Đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài là một mặt, vấn đề là phải thu hút và trọng dụng được nhân tài mới là động cơ và mục đích. Phải có chính sách khuyến khích đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài phù hợp. Ba là, chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội Chính sách về bảo hiểm xã hội, các điều kiện về lao động và đào tạo, luân chuyển lao động, quy định mức lương tối thiểu là môi trường pháp lý để xử lý các mối quan hệ lao động xã hội. Chính vì vậy, chính sách tiền lương là một động lực rất lớn tác động tới ý thức và trách nghiệm của đội ngũ lao động. Nếu tiền lương và thu nhập hợp lý với năng lực của người lao động thì người lao động sẽ gắn bó và cống hiến tối đa khả năng của họ với công việc. Bốn là, chính sách đãi ngộ khác Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực đối với sự tồn tại và phát triển đất nước. Nhà nước cần phải chú trọng đến việc xây dựng hệ thống lương, thưởng, phúc lợi, đãi ngộ cho người lao động phù hợp với từng thời kỳ và từng giai đoạn phát triển, đảm bảo tính linh hoạt, công bằng, tương xứng với mức độ cống hiến của họ. Có thể nói, ngoài tiền lương ra, những đãi ngộ cũng có tác động lớn đến sự gắn bó và cống hiến tài năng của nguồn nhân lực cho công việc; để
  56. 49 đảm bảo ở mức tốt nhất và tinh thần của đội ngũ này so với mức sống chung của xã hội. Đây là một nhân tố quan trọng để thu hút nhân tài ở tất cả các quốc gia. Tóm lại, các chính sách này đã tạo ra môi trường pháp lý cho quá trình hình thành và phát triển nguồn nhân lực. Suy cho cùng, khi chính sách vĩ mô của Nhà nước phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội thì nó thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực; Ngược lại, nếu không phù hợp sẽ kìm hãm hoặc lãng phí nguồn nhân lực và rất khó khăn trong việc phát triển nguồn nhân lực. 2.1.2.7. Mức độ hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá Hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá kinh tế đang tác động mạnh mẽ đến mọi quốc gia, mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội. Toàn cầu hoá kinh tế thúc đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất, đẩy nhanh quá trình giao lưu kinh tế, tri thức, văn hoá , giữa các quốc gia, dân tộc góp phần làm chuyển biến cơ cấu kinh tế thế giới, làm thay đổi tư duy, tập quán, tăng sức cạnh tranh của các nền kinh tế toàn cầu. Từ đó làm cho thị trường lao động không chỉ phát triển ở phạm vi một quốc gia mà nó mang tính quốc tế hoá rất cao, chuyên môn của người lao động cũng được nâng lên, mức độ cạnh tranh của thị trường lao động ngày càng gay gắt hơn, sự cạnh tranh mang tính toàn cầu tác động đến chất lượng nguồn nhân lực, buộc chất lượng nguồn nhân lực phải được nâng lên thì các quốc gia mới có thể phát triển. CHDCND Lào cũng như các nước phải hoạt động theo quy chế chung của các tổ chức kinh tế mà mình hội nhập, phải đối mặt với những cơ hội và thách thức mà hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá đem lại. Đó chính là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế có những yếu tố thuận lợi mới tác động tích cực đến việc thu hút đầu tư, đồng thời cũng xuất hiện một số khó khăn, thách thức đối với Nhà nước Lào. Điều này, đòi hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng cao mới đảm bảo hiệu quả của quá trình hội nhập quốc tế của Lào.
  57. 50 2.2. VAI TRÒ CỦA NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Nhân lực là vốn quý nhất, là nguồn lực vô cùng quan trọng phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia hoặc địa phương. Chế độ tốt đẹp suy cho cùng là phải hướng vào phát triển con người. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển; là yếu tố trung tâm của mọi hoạt động trong xã hội, nhất là trong điều kiện khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức phát triển. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã xác định nhân tố con người có vai trò quan trọng trong quá trình lao động sản xuất. Bốn yếu tố cơ bản của sản xuất là lao động, tài nguyên thiên nhiên, tư bản và khoa học - công nghệ thì nguồn nhân lực được coi là năng lực nội sinh quan trọng chi phối cho sự phát triển. Nguồn lực con người với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám, có ưu thế là không bị cạn kiệt và nếu được bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý sẽ có vai trò quan trọng mang tính quyết định phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, giữ vững an ninh, trật tự, độc lập chủ quyền đất nước. Kinh tế - xã hội phát triển là một yếu tố tác động rất mạnh đến phát triển nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ tạo ra những tiền đề và điều kiện quyết định cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển nguồn nhân lực quyết định thành công của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, phát triển kinh tế tri thức và hội nhập kinh tế quốc tế Vai trò của nguồn nhân lực được thể hiện thông qua những khía cạnh sau: 2.2.1. Nguồn nhân lực là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng qui mô và sản lượng của nền kinh tế so với thời kỳ trước đó, thường đo bằng sự gia tăng của các chỉ số như GDP và GNP. Tăng trưởng kinh tế của một quốc gia có mối tương quan chặt chẽ với vốn vật chất và nguồn lực con người. Năm 1994, Paul Krugman đã đưa ra mức đóng góp của nguồn nhân lực trong tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ cất
  58. 51 cánh của các nước châu Âu (1850 đến nửa đầu thế ký 20), của Mỹ (1890 đến đầu thế kỳ 20) và Nhật Bản (1950 - 1970) thì tăng trưởng kinh tế dựa vào vốn là 34,4% và vốn con người đóng góp 65,6% [27]; Điều đó chứng tỏ rằng nguồn nhân lực là yếu tố rất quan trọng mà các nước phải tính đến. Theo kết quả phân tích các nền kinh tế Đông Nam Á, 60% tốc độ tăng trưởng thực của nền kinh tế là do đóng góp của tích luỹ, vốn vật chất và vốn con người. Trong 60% đó, vốn vật chất đóng góp từ 33-49%, còn lại 51 - 65% là phần đóng góp của vốn con người (qua chỉ số về trình độ giáo dục) [177]. Lịch sử phát triển kinh tế thế giới chứng minh rằng, để đạt được sự tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, nhất thiết phải nâng cao chất lượng đội ngũ lao động kỹ thuật. Chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao chính là tiền đề thành công của các nước công nghiệp mới ở châu Á. Kinh nghiệm cho thấy, chưa có một quốc gia phát triển nào đạt tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao trước khi hoàn thành phổ cập giáo dục phổ thông. Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapo và các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong những thập niên 70 - 80 đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học trước khi các nền kinh tế đó cất cánh. 2.2.2. Nguồn nhân lực là nhân tố quyết định phát triển lực lượng sản xuất Các Mác là người đầu tiên có công phát hiện ra quy luật phát triển của xã hội loại người. Để tồn tại, trước hết con người cần phải ăn, ở, mặc, đi lại, trước khi tham gia hoạt động chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo Tức là con người phải lao động để thoả mãn nhu cầu của mình. Lao động của con người là lao động theo phương thức sản xuất vật chất nhất định, là sự thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất được cấu thành bởi người lao động, tư liệu sản xuất và dự báo khoa học sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Con người tham gia vào quá trình sản xuất với tư cách là một nhân tố của lực lượng sản xuất nhưng lao động của con người là lao động sáng tạo. Thông qua hoạt động lao động sản xuất,
  59. 52 con người không ngừng làm giàu cho trí tuệ của mình để chế tạo ra những công nghệ mới. Hiện nay, khoa học - công nghệ có tác động mạnh mẽ, nhanh chóng vào mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Sự phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ, tạo ra mọi của cải vật chất và tinh thần, rút cuộc đều là do sự sáng tạo của con người, do con người có trình độ cao phát minh, sáng tạo. Như vậy, nguồn nhân lực là nguồn lực đặc biệt với những người lao động có trình độ chuyên môn cao, nó là điều kiện hàng đầu thúc đẩy khoa học - công nghệ phát triển; trí tuệ của con người được chuyển hoá thành công nghệ và chính con người áp dụng công nghệ đó vào quá trình sản xuất để làm cho các nguồn lực khác được sử dụng một cách hiệu quả hơn. Nguồn nhân lực là động lực có sức mạnh to lớn thúc đẩy khoa học - công nghệ phát triển, là yếu tố quyết định phát triển lực lượng sản xuất. 2.2.3. Nguồn nhân lực là điều kiện quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Bước vào thế kỷ XXI, các nước phát triển đang chuyển sang nền kinh tế tri thức, khai thác, phát huy triệt đề tiềm năng chất xám, những ý tưởng sáng tạo Xu thế này thực sự đang mở ra cơ hội cho nền kinh tế đang phát triển với điểm xuất phát thấp, cơ sở vật chất nghèo nàn, nhưng sử dụng tri thức để tiến hành đi tắt, đón đầu, rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Điều này khác hẳn kiểu công nghiệp hoá cổ điển trước đây. Nguyên nhân dẫn đến thành công của các Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan không chỉ bắt nguồn từ phát triển khoa học - công nghệ mà chủ yếu là dựa vào nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực có "chất xám cao". Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ: "Phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước" [12, tr.657].
  60. 53 Đẩy mạnh CNH, HĐH sẽ thúc đẩy sự phát triển và thay đổi cơ cấu nguồn nhân lực từ lạc hậu tới tiến bộ hơn, thay đổi cơ cấu các khu vực lớn trong kinh tế, cơ cấu các ngành kinh tế kỹ thuật, cơ cấu trong nội bộ mỗi ngành, cơ cấu nguồn nhân lực ở từng vùng, từng địa phương và cả đến cơ cấu nguồn nhân lực trong nội bộ từng doanh nghiệp. Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung cũng như ở mỗi tỉnh thành phố nói riêng thành công thì trước hết là nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định nhất trong việc thực hiện các nhiệm vụ của CNH, HĐH; tiếp cận và triển khai có hiệu quả kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII của Đảng nhân dân cách mạng Lào đã khẳng định con đường đi lên CNXH. Đó là từng bước CNH, HĐH, gắn chặt với tăng cường phát triển các lĩnh vực và hội nhập kinh tế quốc tế. CNH, HĐH là con đường tất yếu của sự phát triển, đổi mới toàn diện, đưa đất nước đi lên từ một nước nông nghiệp là chủ yếu thành một nước công nghiệp. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 CHDCND Lào cơ bản trở thành nước công nghiệp. Để thực hiện được điều đó chỉ có nguồn nhân lực có ý thức tổ chức, kỷ luật và trình độ chuyên môn cao, trong đó chất xám trở thành nguồn vốn quan trọng nhát, quý nhất, là nhân tố quyết định sự phát triển mới đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH ở Lào và Viêng Chăn. 2.2.4. Nguồn nhân lực là động lực để tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức Kinh tế tri thức (Knowledge Economy) ra đời và phát triển với những tên gọi khác nhau như: kinh tế dựa trên tri thức; kinh tế mới; kinh tế thông tin; kinh tế hậu công nghiệp; kinh tế mạng; kinh tế số Đây là một nền kinh tế gắn liền với công nghệ cao trong đó tri thức được sử dụng để sản sinh ra lợi tức kinh tế cao, là nền kinh tế sử dụng có hiệu quả tri thức cho phát triển kinh tế - xã hội. Kinh tế tri thức "là nền kinh tế, trong đó việc sáng tạo ra,