Luận văn Phân tích mức độ hiệu quả của thị trường chứng khoán Việt Nam

pdf 188 trang hapham 1830
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Phân tích mức độ hiệu quả của thị trường chứng khoán Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_phan_tich_muc_do_hieu_qua_cua_thi_truong_chung_khoa.pdf

Nội dung text: Luận văn Phân tích mức độ hiệu quả của thị trường chứng khoán Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ Tp.HCM [ U \ PHAN KHOA CƯƠNG PHÂN TÍCH MỨC ĐỘ HIỆU QUẢ CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM Chuyên ngành: Kinh tế phát triển Mã số: 60.31.05 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS NGUYỄN MINH KIỀU Tp.Hồ Chí Minh – Năm 2006
  2. i Lời cám ơn! [ U \ Sau một thời gian nghiên cứu tích cực, Luận văn này đã được hoàn thành. Để có được kết quả như ngày hôm nay, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự ủng hộ và giúp đỡ rất nhiều từ các tổ chức và cá nhân. Nhân đây, trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất của mình đến thầy giáo, người hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Minh Kiều,u đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu để có thể hoàn thành Luận văn này. Kế đến, tôi xin chân thành cám ơn đến các tổ chức: • Trường Đại học Kinh tế Tp.Hồ Chí Minh, Khoa Đào tạo Sau đại học và Khoa Kinh tế phát triển. • Trường Đại học Kinh tế Huế. • Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright. • Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp.Hồ Chí Minh. • Trung tâm NCKH và Đào tạo chứng khoán-Chi nhánh Tp.Hồ Chí Minh. • Công ty chứng khoán Sài Gòn, Công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư. Đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và cung cấp phương tiện học tập, nghiên cứu, kiến thức và kinh nghiệm cho bản thân tôi trong thời gian vừa qua. Tôi xin chân thành cám ơn PGS.TS Hoàng Hữu Hòa, P.Hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế Huế; TS Vũ Thành Tự Anh, P.Giám đốc Nghiên cứu-Chương trình Fulbright đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong thời gian thực hiện đề tài này. Cùng các thầy giáo, cô giáo đã dìu dắt và truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm cho tôi. Cuối cùng, để được thành quả như ngày hôm nay, tôi xin gửi lời cám ơn sâu sắc đến gia đình, người thân, đồng nghiệp và bạn bè đã tạo điều kiện cũng như động viên, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian vừa qua. Một lần nữa, tôi xin trân trọng cám ơn!
  3. ii LỜI CAM ĐOAN [ U \ Tôi tên là Phan Khoa Cương,g tác giả Luận văn thạc sĩ kinh tế với đề tài “Phân tích mức độ hiệu quả của Thị trường chứng khoán Việt Nam” xin cam đoan: Nội dung của đề tài hoàn toàn là kết quả nghiên cứu của cá nhân dưới sự hướng dẫn khoa học của TS Nguyễn Minh Kiều; Tất cả các dữ liệu, tài liệu tham khảo và được sử dụng trong Luận văn thạc sĩ này đều đã được trích dẫn đầy đủ nguồn tài liệu tại danh mục tài liệu tham khảo. Nếu có điều gì sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm. Người cam đoan Phan Khoa Cương
  4. iii MỤC LỤC [ U \ Trang Lời cam đoan ii Mục lục iii Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt vi Danh mục các bảng, biểu vii Danh mục các hình vẽ, đồ thị ix MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ LÝ THUYẾT THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ 1.1 Khái quát về thị trường tài chính 8 1.1.1 Thị trường tài chính 8 1.1.2 Chức năng của thị trường tài chính 8 1.1.3 Phân loại thị trường tài chính 10 1.1.4 Các công cụ của thị trường tài chính 11 1.1.5 Mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành nên thị trường tài chính 12 1.2 Tổng quan về thị trường chứng khoán 12 1.2.1 Thị trường chứng khoán 12 1.2.2 Chức năng và vai trò của thị trường chứng khoán 15 1.2.3 Phân loại thị trường chứng khoán 17 1.2.4 Hàng hóa và các thành phần tham gia thị trường chứng khoán 19 1.2.5 Cơ chế điều hành và nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán 25 1.3 Lý thuyết thị trường hiệu quả 28 1.3.1 Lý thuyết thị trường hiệu quả và tính ngẫu nhiên của thị trường 28 1.3.2 Thị trường hiệu quả 33 1.3.3 Kết luận về thị trường hiệu quả 35
  5. iv 1.3.4 Kiểm định mức độ hiệu quả của thị trường 36 Kết luận chương 1 43 Chương 2: ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 45 2.1 Qúa trình hình thành thị trường chứng khoán Việt Nam 45 2.1.1 Sự hình thành và phát triển của Ủy ban chứng khoán Nhà nước 45 2.1.2 Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp.Hồ Chí Minh 46 2.1.3 Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội 47 2.2 Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam 48 2.2.1 Tình hình giao dịch tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp.Hồ Chí Minh 48 2.2.1.1 Hoạt động niêm yết trên thị trường chứng khoán 48 2.2.1.2 Hoạt động giao dịch trên thị trường chứng khoán 52 2.2.1.3 Tình hình nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán 67 2.2.1.4 Tình hình hoạt động của các thành viên 68 2.2.1.5 Tình hình hoạt động công bố thông tin trên thị trường chứng khoán 72 2.2.2 Tình hình giao dịch tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội 73 2.2.2.1 Hoạt động đấu giá cổ phần doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa 73 2.2.2.2 Tình hình hoạt động đấu thầu trái phiếu 74 2.2.2.3 Tình hình đăng ký giao dịch chứng khoán 75 2.2.2.4 Tình hình hoạt động giao dịch thứ cấp 77 2.2.3 Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC) 79 2.3 Một số hạn chế của thị trường chứng khoán Việt Nam 83 Kết luận chương 2 85 Chương 3: PHÂN TÍCH MỨC ĐỘ HIỆU QUẢ CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 87 3.1 Thị trường chứng khoán mới nổi 87 3.1.1 Một số đặc điểm của thị trường chứng khoán mới nổi 88
  6. v 3.1.2 Tự do hóa và hội nhập của thị trường chứng khoán mới nổi 92 3.2 Phân tích mức độ hiệu quả của thị trường chứng khoán Việt Nam 93 3.2.1 Xác định yếu tố tâm lý “bầy đàn” trong giao dịch chứng khoán 95 3.2.2 Kiểm định thống kê về tính độc lập của tỷ suất sinh lợi 100 3.2.3 Kiểm định các tiêu chí đặc trưng về mức độ hiệu quả thị trường 112 3.3 Một số nguyên nhân dẫn đến mức độ hiệu quả yếu của TTCK Việt Nam 123 Kết luận chương 3 125 Chương 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 127 4.1 Những thuận lợi cho tiến trình phát triển của TTCK Việt Nam 127 4.2 Định hướng phát triển Thị trường chứng khoán Việt Nam 132 4.3 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của TTCK Việt Nam 133 4.3.1 Nhóm giải pháp phát triển hệ thống thị trường 134 4.3.2 Nhóm giải pháp phát triển nhu cầu của thị trường 137 4.3.3 Nhóm giải pháp tạo môi trường pháp lý đồng bộ, ổn định 144 4.3.4 Nhóm giải pháp phát triển thị trường phi tập trung (OTC) 145 Kết luận chương 4 146 KẾT LUẬN 148 Tài liệu tham khảo x Phụ lục xiv Phụ lục 01: Phân phối tỷ suất sinh lợi của thị trường và các cổ phiếu (2000-2006) Phụ lục 02: Hệ số tương quan giữa các chứng khoán (2000-2006) Phụ lục 03: Phương pháp tính chỉ số giá cổ phiếu VN-Index Phụ lục 04: Danh mục các công ty niêm yết tại TTGDCK Tp.HCM Phụ lục 05: Danh mục các công ty chứng khoán thành viên TTGDCK Tp.HCM
  7. vi DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT [ U \ ADB: Ngân hàng phát triển Châu Á (Asia Development Bank) CCQ: Chứng chỉ quỹ đầu tư CNH-HĐH: Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa CPH: Cổ phần hóa Cp: Cổ phiếu CTCP: Công ty cổ phần CTCK: Công ty chứng khoán ĐTNN: Đầu tư nước ngoài HĐQT: Hội đồng Quản trị HASTC-Index: Chỉ số giá cổ phiếu tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội IMF: Quỹ tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund) NHNN: Ngân hàng Nhà nước NHTM: Ngân hàng thương mại OTC: Thị trường phi chính thức (Over The Counter Market) SGDCK: Sở giao dịch chứng khoán TNHH: Trách nhiệm hữu hạn Tp: Trái phiếu TTTC: Thị trường tài chính TTCK: Thị trường chứng khoán TTGDCK: Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh UBCKNN: Ủy ban chứng khoán nhà nước VN-Index: Chỉ số giá cổ phiếu tại TTGDCK Tp.Hồ Chí Minh WB: Ngân hàng thế giới (World Bank)
  8. vii DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU [ U \ Trang Bảng 2.1: Quy mô niêm yết chứng khoán toàn thị trường chứng khoán 49 Bảng 2.2: Tình hình niêm yết chứng khoán qua các năm 2000-2006 50 Bảng 2.3: Tình hình khối lượng chứng khoán niêm yết qua các năm 2000-2006 51 Bảng 2.4: Kết quả đấu thầu trái phiếu qua các năm 2000-2006 53 Bảng 2:5: Tình hình biến động chỉ số VN-Index qua các năm 2000-2006 55 Bảng 2.6: Giao dịch chứng khoán toàn thị trường qua các năm 2000-2006 58 Bảng 2.7: Quy mô giá trị giao dịch thị trường qua các năm 2000-2006 59 Bảng 2.8: Tình hình giao dịch cổ phiếu qua các năm 2000-2006 60 Bảng 2.9: Tình hình giao dịch chứng chỉ quỹ qua các năm 2000-2006 62 Bảng 2.10: Tình hình giao dịch trái phiếu qua các năm 2000-2006 64 Bảng 2.11: Tình hình giao dịch của các nhà đầu tư nước ngoài các năm 2000-2006 66 Bảng 2.12: Tỷ trọng giao dịch các loại chứng khoán của nhà đầu tư nước ngoài 67 Bảng 2.13: Tình hình số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán 69 Bảng 2.14: Tình hình cấp mã số kinh doanh chứng khoán cho nhà đầu tư N.Ngoài 70 Bảng 2.15: Tình hình các công ty chứng khoán thành viên giai đoạn 2000-2006 71 Bảng 2.16: Tình hình đấu giá cổ phần tại TTGDCK Hà Nội qua 2 năm 2005-2006 75 Bảng 2.17: Tình hình đấu thầu trái phiếu tại TTGDCK Hà Nội 76 Bảng 2.18: Tình hình đăng ký giao dịch chứng khoán tại TTGDCK Hà Nội 77 Bảng 2.19: Tình hình giao dịch cổ phiếu tại TTGDCK Hà Nội 79 Bảng 2.20: Diễn biến giá của một số loại cổ phiếu OTC giai đoạn 2005-2006 81 Bảng 3.1: Tóm tắt về tỷ suất sinh lợi và khả năng thanh khoản tương đối của một số thị trường chứng khoán mới nổi chủ yếu giai đoạn 1987-2003 94 Bảng 3.2: Tình hình biến động về giá cổ phiếu niêm yết giai đoạn 2000-2001 96 Bảng 3.3: Kết quả kiểm định thống kê đối với cổ phiếu REE 101 Bảng 3.4: Kết quả kiểm định thống kê đối với cổ phiếu GMD 101 Bảng 3.5: Kết quả kiểm định thống kê đối với cổ phiếu LAF 102
  9. viii Bảng 3.6: Kết quả kiểm định thống kê đối với cổ phiếu SAM 102 Bảng 3.7: Kết quả kiểm định thống kê đối với cổ phiếu SAV 102 Bảng 3.8: Kết quả kiểm định thống kê đối với cổ phiếu SGH 103 Bảng 3.9: Kết quả kiểm định thống kê đối với cổ phiếu TMS 103 Bảng 3.10: Kết quả kiểm định thống kê đối với cổ phiếu TRI 104 Bảng 3.11: Kết quả kiểm định thống kê đối với cổ phiếu HAP 104 Bảng 3.12: Kết quả kiểm định thống kê đối với cổ phiếu CAN 105 Bảng 3.13: Kết quả kiểm định thống kê đối với cổ phiếu BPC 105 Bảng 3.14: Kết quả kiểm định thống kê đối với cổ phiếu BT6 105 Bảng 3.15: Kết quả kiểm định thống kê đối với cổ phiếu VNM 106 Bảng 3.16: Kết quả kiểm định thống kê đối với cổ phiếu TYA 106 Bảng 3.17: Kết quả kiểm định thống kê đối với cổ phiếu KDC 107 Bảng 3.18: Kết quả kiểm định thống kê đối với cổ phiếu MHC 107 Bảng 3.19: Kết quả kiểm định thống kê đối với cổ phiếu DHA 108 Bảng 3.20: Kết quả kiểm định thống kê đối với cổ phiếu PMS 108 Bảng 3.21: Kết quả kiểm định thống kê đối với cổ phiếu VTC 108 Bảng 3.22: Kết quả kiểm định thống kê đối với cổ phiếu AGF 109 Bảng 3.23: Kết quả kiểm định thống kê đối với cổ phiếu HAS 109 Bảng 3.24: Kết quả kiểm định thống kê đối với cổ phiếu KHA 110 Bảng 3.25: Kết quả kiểm định thống kê đối với cổ phiếu SFC 110 Bảng 3.26: Kết quả kiểm định thống kê đối với cổ phiếu PNC 111 Bảng 3.27: Kết quả kiểm định thống kê đối với cổ phiếu HTV 111 Bảng 3.28: Phân phối tỷ suất sinh lợi của thị trường qua 6 năm 2000-2006 113 Bảng 3.29: Hệ số tự tương quan của chỉ số VN-Index qua 6 năm 2000-2006 118 Bảng 3.30: Thị phần thị trường cổ phiếu của các công ty niêm yết 119 Bảng 3.31: Độ thanh khoản của thị trường chứng khoán giai đoạn 2000-2006 121 Bảng 3.32: So sánh giao dịch giữa TTCK Việt Nam và một số TTCK khu vực 122 Bảng 4.1: Đánh giá thị trường vốn của một số quốc gia Châu Á-TBD năm 2006 131 Bảng 4.2: Tình hình đào tạo kiến thức chứng khoán và phổ biến về TTCK 143
  10. ix DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ VÀ ĐỒ THỊ [ U \ Trang Hình 1: Tóm tắt và mô tả nội dung nghiên cứu đề tài 6 Hình 1.1: Sơ đồ luân chuyển vốn trên thị trường tài chính 9 Hình 1.2: Mối quan hệ về thông tin dưới các dạng thị trường hiệu quả 33 Hình 2.1: Tình hình biến động của chỉ số VN-Index qua các năm 2000-2006 56 Hình 2.2: Thị phần tham gia của nhà đầu tư tại các CTCK năm 2005 72 Hình 2.3: Thị phần môi giới cổ phiếu của các công ty chứng khoán năm 2005 72 Hình 2.4: Thị phần môi giới cổ phiếu của nhà đầu tư nước ngoài tại các CTCK 73 Hình 2.5: Tình hình biến động của chỉ số HASTC-Index qua 2 năm 2005-2006 78 Hình 3.1: So sánh độ lệch chuẩn suất sinh lợi trước và sau khi tự do hóa TTCK 88 Hình 3.2: So sánh tỷ suất sinh lợi trước và sau khi tự do hóa TTCK 89 Hình 3.3: Hệ số Skewness trước và sau khi tự do hóa TTCK 91 Hình 3.4: Thặng dư hệ số Kurtosis trước và sau khi tự do hóa TTCK 91 Hình 3.5: So sánh hệ số tương quan giữa thị trường chứng khoán mới nổi và thị trường chứng khoán thế giới trước và sau khi tự do hóa TTCK 92 Hình 3.6: Đồ thị biến động giá cổ phiếu và VN-Index giai đoạn 2000-2001 96 Hình 3.7: Đồ thị biến động giá cổ phiếu và VN-Index giai đoạn 2001-2003 97 Hình 3.8: Đồ thị biến động giá cổ phiếu và VN-Index giai đoạn 2004-2005 98 Hình 3.9: Đồ thị biến động giá cổ phiếu và VN-Index năm 2006 99 Hình 3.10: Hệ số tương quan tỷ suất sinh lợi của các cổ phiếu năm thứ 5 115 Hình 3.11: Hệ số tương quan tỷ suất sinh lợi của các cổ phiếu năm thứ 6 116 Hình 4.1: Mức tăng trưởng GDP và các khu vực kinh tế giai đoạn 2003-2006 128 Hình 4.2: Dự báo tăng trưởng GDP của khu vực Đông Nam Á năm 2006-2007 129 Hình 4.3: Tốc độ tăng trưởng kinh tế các khu vực trên thế giới năm 2005-2006 130
  11. x MMỞỞ ĐĐẦẦUU
  12. 1 Phần Mở đầu của Luận văn sẽ giới thiệu và trình bày các vấn đề liên quan đến nội dung đề tài như lý do nghiên cứu, vấn đề nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, phương pháp và giới hạn phạm vi nghiên cứu, nội dung và ý nghĩa nghiên cứu của đề tài. Đây là phần giới thiệu khái quát của đề tài, chi tiết về nội dung nghiên cứu của đề tài sẽ lần lượt được trình bày trong các chương tiếp theo của Luận văn thạc sĩ kinh tế này . 1. Lý do nghiên cứu Cách đây vừa tròn sáu năm, Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp.Hồ Chí Minh sau khi được thành lập theo quyết định số 127/1998/QĐ-TTg đã thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/7/2000; TTCK chính thức đầu tiên tại Việt Nam đã ra đời trong sự háo hức chào đón của công chúng, giới chuyên môn và nhà đầu tư, đánh dấu một bước chuyển của nền kinh tế Việt Nam theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và hội nhập quốc tế. Từ đây, Việt Nam đã có thêm một kênh huy động dài hạn cho nền kinh tế bên cạnh hệ thống ngân hàng thương mại. Huy động vốn qua TTCK là phương thức huy động tiên tiến nhất của nền kinh tế thị trường, góp phần tạo ra hệ thống tài chính mạnh đáp ứng nhu cầu vốn cho công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Sáu năm là khoảng thời gian không dài nhưng cũng đủ để TTCK Việt Nam thu hút sự quan tâm của công chúng và phát triển về nhiều mặt, đạt những thành tựu đáng khích lệ, từng bước đặt nền móng vững chắc cho tiến trình phát triển trong tương lai. Nếu trong những năm đầu, quy mô thị trường còn nhỏ, hoạt động cầm chừng thì nay đã có bước phát triển nhanh chóng với 57 doanh nghiệp niêm yết và đăng ký giao dịch. Tổng giá trị vốn hóa thị trường của cổ phiếu đạt khoảng 52.000 tỷ đồng và thu hút trên 67.000 nhà đầu tư đăng ký giao dịch1. Không chỉ ở thị trường chính thức mà trên thị trường không chính thức (OTC) hoạt động mua bán chứng khoán cũng diễn ra sôi động với chủng loại, khối lượng và giá trị ngày càng tăng. Bên cạnh đó với nỗ lực đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước của Chính phủ, các đợt bán đấu giá cổ phần nhà nước đã thu hút sự quan tâm mạnh mẽ của công chúng. Đặc biệt, TTCK đã 1 Tính đến thời điểm ngày 31/07/2006 tại cả hai TTGDCK Tp.HCM và Hà Nội.
  13. 2 huy động được một lượng vốn rất lớn từ nguồn vốn nhàn rỗi khổng lồ trong dân cư đáp ứng nhu cầu về vốn cho đầu tư phát triển. Đây chính là một ưu việt của TTCK bên cạnh các phương thức huy động vốn truyền thống. Thời báo NewYork Times số ra ngày 21.06.2006 đã viết “ Với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất ở Châu Á (chỉ sau Trung Quốc) và kế hoạch phát triển đang thu hút sự quan tâm của toàn cầu, Việt Nam đang trở thành cường quốc kinh tế khu vực và Ngân hàng thế giới nhận định sự tăng trưởng đó là khá hợp lý ” đã cho thấy tiềm năng phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong tương lai. Do vậy, TTCK Việt Nam đang đứng trước một cơ hội lớn để phát triển nhanh chóng và bền vững. Tuy nhiên, so sánh với tiềm năng phát triển và nhu cầu vốn đầu tư của nền kinh tế cũng như kinh nghiệm phát triển TTCK ở các nước trong khu vực thì TTCK Việt Nam vẫn bộc lộ nhiều yếu kém như quy mô thị trường còn quá nhỏ, tổng giá trị thị trường của cổ phiếu niêm yết chỉ chiếm khoảng 8%GDP; Số lượng và chất lượng hàng hóa trên thị trường còn kém hấp dẫn; Hệ thống văn bản pháp quy liên quan chưa đồng bộ, tính pháp lý chưa cao; Sự minh bạch hóa về thông tin, công tác tuyên truyền và phổ cập kiến thức về TTCK còn yếu Đặc biệt là số lượng nhà đầu tư còn hạn chế, chủ yếu vẫn là nhà đầu tư cá nhân ít vốn và chịu ảnh hưởng lớn bởi yếu tố tâm lý. Nhiều nhà đầu tư với ý nghĩ “tối giản” của việc đầu tư là mua cổ phiếu sẽ thắng lớn nên đã mua chứng khoán và chờ bán với giá cao hơn trong ngắn hạn chứ không quan tâm đó là cổ phiếu của công ty nào, tình hình kinh doanh của nó ra sao đây là vấn đề bất cập của thị trường. Theo nhiều chuyên gia chứng khoán thì biểu hiện đáng lo ngại nhất đối với hoạt động và sự phát triển lành mạnh của một TTCK là “Tính hiệu quả dạng yếu của thị trường” và cho rằng TTCK Việt Nam vẫn là thị trường chứng khoán hiệu quả dạng yếu với biểu hiện cụ thể là “tâm lý bầy đàn” rõ nét, thông tin bất cân xứng. Vậy, thực tế hoạt động của thị trường thời gian qua ra sao? mức độ hiệu quả của TTCK Việt Nam như thế nào? và làm thế nào để nâng cao tính hiệu quả của thị trường và phát triển TTCK Việt Nam theo hướng bền vững? Đó chính là những lý do vì sao đề tài: “Phân tích mức độ hiệu quả của Thị trường chứng khoán Việt Nam” được lựa chọn làm Luận văn thạc sĩ kinh tế.
  14. 3 2. Vấn đề nghiên cứu Việc huy động nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đáp ứng một phần nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển đất nước qua kênh TTCK đã phổ biến ở các nước phát triển từ lâu nhưng đối với Việt Nam thì vẫn còn rất mới. Kể từ khi ra đời và đi vào hoạt động chính thức đến nay, bên cạnh những thành công bước đầu đạt được thì TTCK Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Việc sử dụng TTCK như là một kênh huy động vốn hiệu quả vẫn chưa được nhiều doanh nghiệp quan tâm hoặc có quan tâm thì cũng chưa đúng tầm; Sự công khai và minh bạch thông tin hoạt động của các doanh nghiệp niêm yết và đăng ký giao dịch trên thị trường vẫn tồn tại nhiều vấn đề cần giải quyết; Một trong những “nhân vật chính” của TTCK là các nhà đầu tư thì đa số các nhà đầu tư trên thị trường lại là những nhà đầu tư cá nhân với kiến thức về đầu tư trên TTCK còn rất hạn chế, thiếu bài bản nên hoạt động đầu tư của họ vẫn chủ yếu là theo tâm lý đám đông; Hệ thống luật pháp liên quan đến hoạt động của TTCK vẫn còn nhiều bất cập. Do vậy qua thực tế vận hành của TTCK, nhiều chuyên gia chứng khoán cho rằng mức độ hiệu quả của TTCK Việt Nam là ở dạng yếu. Trước tình hình đó, vấn đề nghiên cứu của đề tài này là đánh giá thực trạng hoạt động của thị trường và phân tích mức độ hiệu quả của TTCK Việt Nam có đúng là dạng yếu hay không. Đây cũng chính là mong muốn của tác giả nhằm tìm hiểu sâu hơn hoạt động của TTCK nói chung và TTCK Việt Nam nói riêng. Vấn đề nghiên cứu xác định trên đây xuất phát từ nhu cầu hoàn thiện về lý luận và thực tiễn hoạt động nhằm nâng cao mức độ hiệu quả của TTCK Việt Nam, một thị trường chứng khoán mới nổi trong điều kiện kinh tế, xã hội và môi trường kinh doanh đặc thù của Việt Nam, một nền kinh tế chuyển đổi và đang trong thời kỳ đầu của hội nhập và tự do hóa kinh tế. 3. Mục tiêu nghiên cứu Để giải quyết được vấn đề nghiên cứu đặt ra ở trên, đề tài này nhằm đạt các mục tiêu nghiên cứu cụ thể sau đây: ¾ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về thị trường tài chính, thị trường chứng khoán và Lý thuyết thị trường hiệu quả.
  15. 4 ¾ Đánh giá thực trạng phát triển của TTCK Việt Nam từ khi thành lập đến nay. ¾ Phân tích mức độ hiệu quả của TTCK Việt Nam. ¾ Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của TTCK Việt Nam. 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1 Cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu Đề tài này chọn cách tiếp cận thiên về nghiên cứu thực tiễn trong đó nhấn mạnh về thực trạng hoạt động và mức độ hiệu quả của TTCK Việt Nam. Do vậy, việc đánh giá kết quả thực trạng hoạt động của thị trường đã đạt được trong thời gian qua là rất quan trọng. Để làm được điều này, cần thu thập một cách đầy đủ các dữ liệu quá khứ về TTCK để kiểm định các giả thuyết liên quan đến mức độ hiệu quả của thị trường như là bằng chứng trước khi đưa ra các kết luận chính thức và đề xuất những giải pháp thích hợp nhằm nâng cao mức độ hiệu quả của thị trường chứng khoán Việt Nam. 4.2 Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng Như đã chỉ ra trong mục xác định vấn đề nghiên cứu, đề tài này nhằm đánh giá và phân tích mức độ hiệu quả của TTCK Việt Nam nên cách tiếp cận vấn đề thiên về nghiên cứu thực tiễn. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu là phương pháp thống kê, so sánh, tổng hợp và phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia. Phương pháp thống kê được sử dụng để xử lý và phân tích nguồn dữ liệu thu thập được từ TTCK. Phương pháp so sánh được sử dụng để so sánh sự biến động của các chỉ tiêu theo thời gian của TTCK. Đối với phương pháp tổng hợp được dùng để đánh giá cụ thể về tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán thời gian qua. Bên cạnh các phương pháp trên đây, phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia cũng được sử dụng nhằm tham khảo các ý kiến đánh giá và nhận định về thị trường của những nhà chuyên môn tại TTGDCK Tp.HCM và các CTCK; các giảng viên chuyên ngành, nhà nghiên cứu và những người đầu tư có thâm niên lâu năm trên TTCK. Để hỗ trợ cho quá trình phân tích và xử lý dữ liệu, chúng tôi sử dụng các phần mềm Microsoft Office Excel, Metastock Professional và phần mềm phân tích kinh tế lượng Eviews 3.0.
  16. 5 5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Do thời gian và khả năng nghiên cứu còn hạn chế nên đề tài nghiên cứu về mức độ hiệu quả của TTCK Việt Nam được giới hạn về phạm vi nghiên cứu cụ thể như sau: ¾ Về thời gian: Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển và mức độ hiệu quả của TTCK Việt Nam trong giai đoạn từ tháng 7/2000 đến tháng 7/2006. ¾ Về không gian: Đề tài chỉ chủ yếu tập trung phân tích thực trạng hoạt động của TTCK tại Tp.Hồ Chí Minh; đối với TTCK Hà Nội và Thị trường không chính thức (OTC) sẽ chỉ được đánh giá tổng quát. Tuy nhiên, khi phân tích mức độ hiệu quả của TTCK được giới hạn đối với thị trường cổ phiếu niêm yết còn thị trường các loại chứng khoán khác không nằm trong phạm vi phân tích của đề tài này. 6. Nội dung nghiên cứu Nội dung Luận văn thạc sĩ được bố cục thành phần mở đầu, 4 chương và phần kết luận. Phần mở đầu của luận văn giới thiệu về đề tài nghiên cứu bao gồm các nội dung như lý do nghiên cứu, vấn đề nghiên cứu, mục tiêu và phương pháp nghiên cứu. Chương 1 trình bày hệ thống hóa các vấn đề lý luận về thị trường tài chính, thị trường chứng khoán và Lý thuyết thị trường hiệu quả. Chương 2 và 3 là trọng tâm của đề tài với nội dung chính là đánh giá thực trạng hoạt động của TTCK từ năm 2000 đến nay và phân tích mức độ hiệu quả của TTCK Việt Nam. Dựa trên cơ sở kết quả đánh giá thực trạng và phân tích mức độ hiệu quả của TTCK được trình bày trong các chương 2 và 3, chương 4 sẽ trình bày một số thuận lợi cho sự phát triển TTCK và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của TTCK Việt Nam trong tương lai, nhằm khai thác một cách có hiệu quả lợi thế của một thị trường tài chính bậc cao vào sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước trên con đường hội nhập kinh tế thế giới. 7. Ý nghĩa nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu thành công đề tài này có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận cũng như thực tiễn. Về lý luận, đề tài này giúp hệ thống hóa các vấn đề lý luận về thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Đối với lý thuyết thị trường hiệu
  17. 6 quả, đây là một lý thuyết được tiếp cận còn khá mới ở Việt Nam cũng được hệ thống một cách tương đối đầy đủ về khái niệm, đặc điểm và các dạng thị trường hiệu quả. Cách thức kiểm định và các tiêu chí xác định mức độ hiệu quả của TTCK. Về thực tiễn, đề tài này đánh giá được tình hình hoạt động của thị trường và kiểm chứng nhận định về mức độ hiệu quả của TTCK Việt Nam trong thời gian qua. Qua đó kết luận được những thành công và hạn chế của TTCK Việt Nam kể từ khi chính thức đi vào hoạt động đến nay. Cuối cùng, đề tài nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của TTCK Việt Nam trong thời gian tới. Toàn bộ nội dung như vấn đề nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và ý nghĩa nghiên cứu của đề tài này có thể tóm tắt qua sơ đồ hình vẽ 1 dưới đây. Lý do nghiên cứu Xác định vấn đề nghiên cứu Cơ sở lý thuyết liên quan Đánh giá và phân tích mức độ hiệu quả của TTCK đến vấn đề nghiên cứu Khảo sát kinh nghiệm phát triểnTTCKở các nước Đề xuất giải pháp nâng cao hiệuquả hoạt động của TTCK Hình 1 Tóm tắt và mô tả nội dung nghiên cứu đề tài
  18. 7 Chương 1: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ LÝ THUYẾT THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ
  19. 8 Chương 1 của Luận văn trình bày và hệ thống hóa các vấn đề lý luận có liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu cụ thể là đánh giá tình hình hoạt động và phân tích mức độ hiệu quả của TTCK Việt Nam được trình bày chi tiết trong chương 2 và 3. Ba vấn đề lớn sẽ được trình bày trong chương này bao gồm khái quát về thị trường tài chính, tổng quan về thị trường chứng khoán và lý thuyết thị trường hiệu quả. 1.1 KHÁI QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Các quốc gia phát triển trên thế giới đều có một hệ thống tài chính hoạt động rất tốt. Thị trường tài chính góp phần thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế nhanh chóng, kể cả ở những quốc gia mà tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn. Thị trường tài chính năng động là một thứ tài nguyên bất tận, có khả năng tăng thêm sức mạnh cho nền kinh tế hơn bất cứ loại tài nguyên nào khác. 1.1.1 Thị trường tài chính Thị trường tài chính là thị trường giao dịch các loại tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu Thành phần tham gia giao dịch trên thị trường tài chính bao gồm hộ gia đình, doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trung gian và Chính phủ là những người tham gia mua và bán các loại tài sản tài chính-hàng hóa của thị trường tài chính1.[14] 1.1.2 Chức năng của thị trường tài chính Trong nền kinh tế, TTTC xét về mặt bản chất đó chính là mối quan hệ nhân quả giữa đầu tư và tiết kiệm; là quá trình luân chuyển vốn giữa người dư vốn và người cần vốn. Mối quan hệ nhân quả giữa đầu tư và tiết kiệm: Mọi quốc gia muốn có nền kinh tế tăng trưởng và phát triển trước hết phải đáp ứng đủ nhu cầu về vốn đầu tư. Muốn có vốn đầu tư lớn và dài hạn cần phải có tiết kiệm, khi nền kinh tế tăng trưởng cao sẽ là điều kiện để tăng tỷ lệ tiết kiệm và từ đó tăng khả năng cung ứng vốn đầu tư. Đây 1 Nguyễn Minh Kiều (2006), Tài chính công ty, NXB Thống kê, trang 30.
  20. 9 chính là mối quan hệ nhân quả và là nền tảng để phát triển kinh tế-xã hội. Quá trình luân chuyển vốn: Trong nền kinh tế, những người có cơ hội đầu tư sinh lợi thì thiếu vốn, trái lại một số người có vốn nhàn rỗi thì lại thiếu cơ hội đầu tư. Từ đó hình thành quá trình giao lưu vốn giữa những người có vốn và những người cần vốn. Cơ chế này được thực hiện trong khuôn khổ thị trường tài chính. Quá trình luân chuyển vốn trên thị trường tài chính được thể hiện qua sơ đồ sau đây: TÀI CHÍNH GIÁN TIẾP Các trung gian tài Người cho vay vốn: Người đi vay vốn: Thị trường 1. Hộ gia đình 1. Hộ gia đình tài 2. Doanh nghiệp 2. Doanh nghiệp TÀI CHÍNH TRỰC TIẾP Hình 1.1 Sơ đồ luân chuyển vốn trên thị trường tài chính Xuất phát từ hai đặc điểm đó, thị trường tài chính có những chức năng cơ bản sau đây: ¾ Dẫn vốn từ những nơi thừa vốn sang những nơi thiếu vốn. Đây là chức năng kinh tế chủ yếu của thị trường tài chính.
  21. 10 ¾ Kích thích tiết kiệm và đầu tư: TTTC tạo ra cơ hội đầu tư cho mọi thành viên trong xã hội dưới nhiều hình thức nhằm tìm kiếm lợi nhuận. ¾ Hình thành giá của các tài sản tài chính: Thông qua tác động qua lại giữa người mua và người bán trên TTTC, giá của các tài sản tài chính sẽ được xác lập. ¾ Tạo tính thanh khoản cho tài sản tài chính: TTTC tạo ra một cơ chế để các nhà đầu tư có thể bán tài sản tài chính của mình. ¾ Giảm đến mức thấp nhất chi phí tìm kiếm và chi phí thông tin: Để cho các giao dịch có thể diễn ra, người mua và bán cần tìm được nhau, muốn thế họ phải tốn thời gian và chi phí. TTTC sẽ giúp họ giải quyết việc đó với chi phí thấp nhất. 1.1.3 Phân loại thị trường tài chính Hiện nay dựa vào các tiêu thức khác nhau mà có nhiều cách phân loại thị trường tài chính. Tuy nhiên, theo mục đích nghiên cứu của đề tài thì căn cứ vào thời hạn luân chuyển vốn, TTTC được chia thành: thị trường tiền tệ và thị trường vốn. 1.1.3.1 Thị trường tiền tệ Thị trường tiền tệ là thị trường giao dịch mua bán quyền sử dụng các công cụ tài chính ngắn hạn. Hiểu theo nghĩa đơn giản là nơi mua bán các giấy tờ có giá dưới một năm. Thị trường tiền tệ bao gồm các thị trường sau đây: ¾ Thị trường liên ngân hàng: đây là thị trường vốn ngắn hạn giữa các ngân hàng với nhau do Ngân hàng Trung ương tổ chức. ¾ Thị trường ngoại hối: là nơi mua bán, vay mượn ngoại tệ giữa các chủ thể có liên quan. Thị trường hối đoái có tính toàn cầu. ¾ Thị trường vốn ngắn hạn: là thị trường tín dụng, các khoản tín dụng được luân chuyển theo nguyên tắc tín dụng để huy động vốn và phân phối vốn. ¾ Thị trường chứng khoán ngắn hạn: là nơi thực hiện các giao dịch mua bán, chuyển nhượng và trao đổi các giấy tờ có giá ngắn hạn như tín phiếu, kỳ phiếu Thị trường tiền tệ có một số đặc trưng chính sau đây: • Giai đoạn luân chuyển vốn ngắn hạn (không quá một năm).
  22. 11 • Hình thức tài chính đặc trưng là gián tiếp, NHTM đóng vai trò trung gian. • Các công cụ tài chính trên thị trường tiền tệ có tính thanh khoản cao. 1.1.3.2 Thị trường vốn Thị trường vốn còn gọi là thị trường vốn dài hạn là bộ phận quan trọng của TTTC, là nơi mua bán, trao đổi các công cụ tài chính trung và dài hạn (thường có thời hạn trên 1 năm). Vai trò chủ yếu của thị trường vốn là huy động những nguồn vốn trong xã hội, tập trung thành nguốn vốn lớn tài trợ dài hạn cho các doanh nghiệp và Chính phủ nhằm mục đích phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế. So với các công cụ tài chính trên thị trường tiền tệ, các công cụ trên thị trường vốn có tính thanh khoản kém hơn và độ rủi ro cao hơn, do đó chúng có mức sinh lợi cao. Thị trường vốn bao gồm: ¾ Thị trường vay nợ dài hạn: Cung cấp tín dụng trung và dài hạn cho các doanh nghiệp và thường yêu cầu doanh nghiệp phải thế chấp, cầm cố. ¾ Thị trường cho thuê tài chính: Cho thuê tài chính là loại hình tài trợ vốn hiệu quả cho các doanh nghiệp đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ. ¾ Thị trường bất động sản: là thị trường giao dịch các loại bất động sản. ¾ Thị trường chứng khoán: Đây là bộ phận quan trọng nhất của TTTC trong việc tập trung và huy động những khoản vốn khổng lồ tài trợ cho mục đích đầu tư phát triển kinh tế, xã hội của Chính phủ, phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 1.1.4 Các công cụ của thị trường tài chính Hàng hóa giao dịch mua bán, trao đổi trên thị trường tài chính được gọi là các công cụ tài chính. Trên mỗi thị trường tài chính cụ thể sẽ có các công cụ tài chính tương ứng. ¾ Các công cụ của thị trường tiền tệ Do thời gian đáo hạn ngắn nên các công cụ tài chính giao dịch trên thị trường tiền tệ thường có đặc điểm chung là có sự dao động về giá và độ rủi ro thấp. Các công cụ chủ yếu trên thị trường tiền tệ bao gồm: Tín phiếu kho bạc Nhà nước, Thương phiếu, Các chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng, chấp phiếu ngân hàng. ¾ Các công cụ của thị trường vốn
  23. 12 Các công cụ trên thị trường vốn bao gồm các công cụ vốn và công cụ nợ có thời gian đáo hạn trên một năm. Loại công cụ này có biến động giá mạnh hơn và tính thanh khoản thấp hơn các công cụ trên thị trường tiền tệ và được xem là những khoản đầu tư khá rủi ro. Những loại công cụ chính là cổ phiếu (công cụ vốn) và trái phiếu (công cụ nợ). Ngoài ra, còn có các công cụ chuyển đổi hoặc công cụ phái sinh. 1.1.5 Mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành nên thị trường tài chính Các bộ phận của thị trường tài chính có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Thị trường tiền tệ và thị trường vốn đều là những mắt xích quan trọng trong hệ thống tài chính quốc gia và ngày càng mang tính quốc tế. Vì thế, những biến động trong nền kinh tế thoạt đầu tác động lên một thị trường này sẽ dễ dàng lan truyền đến thị trường khác, đến toàn hệ thống. Theo đà phát triển của nền kinh tế, TTTC ngày càng tinh vi, phức tạp; ranh giới truyền thống giữa các công cụ tài chính hay giữa các loại thị trường tài chính ngày càng mang tính tương đối. TTTC có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc khuyến khích tiết kiệm, đầu tư và quá trình vốn hóa nền kinh tế. TTTC là đối tượng tác động của các chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương nhằm đạt được các mục tiêu tăng trưởng. TTTC càng phát triển ở trình độ cao, các kênh liên hệ càng nhiều (nhiều loại hình trung gian tài chính) thì tính nhạy cảm với các biện pháp chính sách càng cao. 1.2 TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 1.2.1 Thị trường chứng khoán 1.2.1.1 Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán ban đầu phát triển một cách sơ khai, xuất phát từ một nhu cầu đơn lẻ từ buổi ban đầu. Vào giữa thế kỷ 15 tại những thành phố có vị trí địa lý thuận lợi ở Phương Tây, các thương gia thường tụ tập tại những quán cà fê để mua bán, trao đổi các loại hàng hóa (chủ yếu là nông sản, khoáng sản ). Những cuộc bàn bạc, trao đổi
  24. 13 này lúc đầu chỉ là một nhóm nhỏ, dần dần số lượng gia tăng, rồi hình thành một “khu chợ riêng”. Tại những cuộc bàn bạc này, họ trao đổi và thương lượng nhưng chỉ là những lời nói miệng với nhau, không có hàng hóa, ngoại tệ hay bất cứ một loại giấy tờ hay hàng mẫu nào trong tay cả. Những cuộc thương lượng này nhằm thống nhất với nhau các “hợp đồng” mua bán, trao đổi thực hiện ngay và những hợp đồng cho tương lai 3 tháng, 6 tháng hay 1 năm sau mới thực hiện. Cuối thế kỷ 15, “khu chợ riêng” trở thành một thị trường, ở đó họ thống nhất với nhau những quy ước cho các cuộc thương lượng. Những quy ước đó được sửa đổi hoàn chỉnh dần thành những quy tắc có giá trị bắt buộc chung. Phiên chợ riêng diễn ra đầu tiên vào năm 1453 tại một lữ điếm của gia đình Vanber ở Thành phố Bruges, nước Bỉ. Tại đây, các thương gia từ nhiều nước gặp gỡ và trao đổi thông tin, mua bán hàng hóa. Tại lữ điếm Vanber có một bảng hiệu hình 3 túi da với một từ tiếng Pháp “Bourse” nghĩa là “Mậu dịch trường” hay còn gọi là “Sở giao dịch”. Từ đó chữ “Bourse” được dùng để chỉ nơi buôn bán chứng khoán. Tuy nhiên vào năm 1547, thành phố Bruges mất đi sự phồn vinh do eo biển Even bị cát lấp, tàu bè ra vào khó khăn. “Mậu dịch trường” ở đây sụp đổ và được chuyển qua thành phố Auvers, một hải cảng lớn của Bỉ thời đó. Lần đầu tiên vào năm 1531, ở Auvers triển khai các nghiệp vụ về chứng khoán (mua bán các khoản nợ của Chính phủ Anh, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Pháp). Thị trường này phát triển nhanh, giữa thế kỷ 16 quan đại thần Anh quốc Thomas Gresham đến đây thị sát và về thiết lập một TTCK tại London, sau này được gọi là Sở giao dịch Chứng khoán London. Theo hình mẫu của TTCK Auvers người ta thành lập TTCK tại các thành phố Lyon (Pháp-1545), Amsterdam (Hà Lan-1608) Ở Mỹ, TTCK được hình thành vào năm 1792 trên cơ sở thỏa thuận của một số nhà môi giới chứng khoán dưới gốc cây ngô đồng ở góc phố Wall, đó là tiền thân của TTCK New York ngày nay. TTCK phát triển khá mạnh vào nửa cuối thế kỷ 19 trong mối liên hệ chặt chẽ với sự phát triển của nội thương và ngoại thương trên cơ sở sử dụng các phương tiện hiện đại về giao thông, thông tin liên lạc giữa các sở giao dịch
  25. 14 Từ thế kỷ 20, TTCK New York giữ vai trò quan trọng nhất, lớn thứ hai là TTCK Tokyo, tiếp theo là các TTCK London, Paris, Frankfurt Lịch sử phát triển của TTCK trên thế giới đã trải qua rất nhiều thời kỳ biến động. Thời kỳ phát triển nhất là những năm 1875-1913, nhưng đến “ngày thứ Năm đen tối” tức ngày 29/10/1929, cuộc tổng khủng hoảng kinh tế thế giới đã làm cho TTCK Tây Âu, Bắc Âu lâm vào khủng hoảng, mất lòng tin. Sau thế chiến thứ II, các TTCK được hồi phục, phát triển. Đến năm 1987, cuộc khủng hoảng tài chính một lần nữa làm cho các TTCK chao đảo và hậu quả của nó không thua kém gì cuộc khủng hoảng năm 1929. Thứ 2 ngày 19/10/1987 đã đi vào lịch sử nước Mỹ- ngày hoang mang cực độ của ngành tài chính Mỹ. Chỉ số công nghiệp Dow-Jones giảm 508,32 điểm, tương ứng 22,6%-mức giảm kỷ lục trong lịch sử TTCK. Hậu quả của nó không chỉ giới hạn trong phạm vi nước Mỹ mà còn mở rộng ra phạm vi toàn cầu và được xem là “Ngày thứ 2 đen tối”. Sau đó, TTCK được hồi sinh cho đến thời gian gần đây, vào năm 1997-1998 với cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á đã làm cho TTCK của các nước trong khu vực khủng hoảng phải đóng cửa nhiều ngày đã tác động mạnh mẽ đến các thị trường hùng mạnh trong và ngoài khu vực như New York, Tokyo Qua nhiều biến động, nhưng ngày nay TTCK thế giới vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ, trở thành một thể chế tài chính không thể thiếu trong đời sống kinh tế của những nước theo cơ chế thị trường. Đặc biệt là đối với các nước đang phát triển đang cần thu hút luồng vốn dài hạn lớn cho phát triển nền kinh tế quốc dân1. [18] 1.2.1.2 Thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán là thuật ngữ dùng để chỉ cơ chế hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán dài hạn như các loại trái phiếu, cổ phiếu và các công cụ tài chính khác như chứng chỉ quỹ đầu tư, công cụ phái sinh Thị trường chứng khoán là thị trường vốn dài hạn, tập trung các nguồn vốn cho đầu tư và phát triển kinh tế, do đó có tác động rất lớn đến môi trường đầu tư nói riêng 1 Đào Lê Minh (2002), Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và TTCK, NXB Chính trị quốc gia, trang 35.
  26. 15 và nền kinh tế nói chung. Mặt khác, TTCK là một thị trường cao cấp, nơi tập trung nhiều đối tượng tham gia với các mục đích, sự hiểu biết và lợi ích khác nhau; các giao dịch các sản phẩm tài chính được thực hiện với giá trị rất lớn. Đặc tính đó khiến cho TTCK cũng là môi trường dễ xảy ra các hoạt động kiếm lợi không chính đáng thông qua các hoạt động gian lận, không công bằng gây tổn thất cho các nhà đầu tư, tổn thất cho thị trường và cho nền kinh tế. Xuất phát từ vai trò quan trọng cũng như tính chất phức tạp của TTCK, việc điều hành và giám sát thị trường là vô cùng cần thiết để đảm bảo tính hiệu quả, công bằng và lành mạnh trong hoạt động của thị trường. 1.2.2 Chức năng và vai trò của thị trường chứng khoán 1.2.2.1 Chức năng của thị trường chứng khoán Xét về mặt hình thức, TTCK chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán. Do vậy, TTCK có những chức năng cơ bản sau: • Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Thông qua TTCK, Chính phủ và Chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội. • Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng Thị trường chứng khoán cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại hàng hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình. • Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô
  27. 16 Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng; ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, TTCK được gọi là “Phong vũ biểu” của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế. 1.2.2.2 Vai trò của thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán hoạt động đã trở thành một kênh đầu tư và huy động vốn hiệu quả. Chính vì vậy, nó giữ một vai trò rất quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, cụ thể là: • Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường càng cao. • Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp Thông qua giá của chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm • Hỗ trợ và thúc đẩy các công ty cổ phần ra đời và phát triển Thị trường chứng khoán hỗ trợ chương trình cổ phần hóa cũng như việc thành lập và phát triển của công ty cổ phần qua việc quảng bá thông tin, định giá doanh
  28. 17 nghiệp; bảo lãnh phát hành; phân phối chứng khoán một cách nhanh chóng, tạo tính thanh khoản cho chúng và như thế thu hút các nhà đầu tư đến góp vốn vào công ty cổ phần. Ngược lại, chính sự phát triển của mô hình công ty cổ phần đã làm phong phú và đa dạng các loại hàng hóa trên TTCK, thúc đẩy sự phát triển sôi động của TTCK. Có thể nói TTCK và công ty cổ phần là hai định chế song hành hỗ trợ nhau phát triển. • Thu hút vốn đầu tư nước ngoài Thị trường chứng khoán không những thu hút các nguồn vốn trong nước mà còn giúp Chính phủ và doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu công ty ra thị trường vốn quốc tế để thu hút thêm ngoại tệ. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua kênh chứng khoán là an toàn và hiệu quả vì các chủ thể phát hành được toàn quyền sử dụng vốn huy động cho mục đích riêng mà không bị ràng buộc bởi bất kỳ điều kiện nào của các nhà đầu tư nước ngoài. 1.2.3 Phân loại thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán những tài sản tài chính (cổ phiếu, trái phiếu ). Vì vậy, có rất nhiều cách để phân loại thị trường chứng khoán theo các tiêu thức phân loại khác nhau. Sau đây, là một số cách phân loại thị trường chứng khoán phổ biến hiện nay. 1.2.3.1 Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn Đối với thị trường chứng khoán ở bất kỳ quốc gia nào, dù mới hình thành hay đã phát triển nếu căn cứ theo tiêu thức phân loại này đều được cấu thành từ hai bộ phận thị trường với chức năng khác nhau đó là thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. ¾ Thị trường sơ cấp Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành của nhà phát hành. Chính vì vậy, thị trường sơ cấp có những vai trò và đặc điểm cơ bản sau: Vai trò của thị trường sơ cấp:
  29. 18 • Chứng khoán hóa nguồn vốn cần huy động, vốn của công ty được huy động qua việc phát hành chứng khoán ra công chúng. • Thực hiện quá trình chu chuyển tài chính trực tiếp đưa các khoản tiền nhàn rỗi tạm thời trong dân chúng vào đầu tư, chuyển tiền từ dạng ngắn hạn sang dạng vốn dài hạn. Đặc điểm của thị trường sơ cấp: • Là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành và đồng thời cũng tạo ra hàng hóa cho thị trường giao dịch. Trên bình diện toàn bộ nền kinh tế, thị trường sơ cấp làm tăng vốn đầu tư. • Những người bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp được xác định thường là Kho bạc nhà nước, Ngân hàng nhà nước, Công ty phát hành • Giá chứng khoán trên thị trường sơ cấp do tổ chức phát hành quyết định và thường được in ngay trên chứng khoán. ¾ Thị trường thứ cấp Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp nhằm đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành. Đặc điểm của thị trường thứ cấp: • Các khoản tiền thu được từ việc bán chứng khoán thuộc về nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán chứ không thuộc về nhà phát hành. • Giao dịch trên thị trường thứ cấp phản ánh nguyên tắc cạnh tranh tự do, giá chứng khoán trên thị trường thứ cấp do cung-cầu quyết định. • Là thị trường hoạt động liên tục, các nhà đầu tư có thể mua và bán các chứng khoán nhiều lần trên thị trường thứ cấp. Giữa thị trường sơ cấp và thứ cấp có mối quan hệ mật thiết với nhau, không thể tách rời nhau, là hai bộ phận cấu thành nên TTCK. Trong đó, thị trường sơ cấp là cơ sở, là tiền đề còn thị trường thứ cấp là động lực. Nếu không có thị trường sơ cấp thì không thể có chứng khoán để lưu thông trên thị trường thứ cấp và ngược lại không có thị trường thứ cấp thì thị trường sơ cấp sẽ khó hoạt động trôi chảy.
  30. 19 1.2.3.2 Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường Căn cứ theo tiêu thức này thì thị trường chứng khoán được phân thành thị trường tập trung (Sở giao dịch chứng khoán) và thị trường phi tập trung (thị trường OTC). ¾ Thị trường chứng khoán tập trung Là thị trường mà ở đó việc mua bán chứng khoán thông qua sở giao dịch chứng khoán. Các chứng khoán được tập trung tại một địa điểm; các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào quá trình ghép lệnh để hình thành nên phiên giao dịch. ¾ Thị trường chứng khoán phi tập trung Thị trường chứng khoán phi tập trung còn gọi là thị trường OTC (Over The Counter), dành cho những chứng khoán chưa niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán. Trên thị trường OTC, các giao dịch được tiến hành qua mạng lưới các công ty chứng khoán phân tán trên khắp quốc gia và nối với nhau bằng mạng điện tử. Giá trên thị trường được hình thành theo phương thức thoả thuận. 1.2.3.3 Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường Thị trường chứng khoán cũng có thể được phân thành các loại thị trường: thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh. ¾ Thị trường cổ phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi. ¾ Thị trường trái phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các trái phiếu đã được phát hành, bao gồm trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ. ¾ Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh: là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính khác như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn 1.2.4 Hàng hóa và các thành phần tham gia trên thị trường chứng khoán 1.2.4.1 Hàng hóa của thị trường chứng khoán Hàng hóa trên TTCK là các loại chứng khoán. Đó là những tài sản tài chính vì nó mang lại lợi ích và khi cần người sở hữu nó có thể chuyển nhượng để thu tiền về.
  31. 20 Chứng khoán bao gồm: trái phiếu, cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư và chứng khoán phái sinh. a. Trái phiếu Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền xác định, thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn. Trên trái phiếu có ghi mệnh giá, lãi suất định kỳ và kỳ hạn của trái phiếu. Trái phiếu có những đặc điểm chính sau: • Trái phiếu là một loại giấy nợ do Chính phủ hay doanh nghiệp phát hành để huy động vốn dài hạn. Cuối kỳ đáo hạn phải trả lại vốn gốc cho trái chủ. • Được hưởng lãi cố định và không phụ thuộc kết quả kinh doanh nên ít rủi ro. • Trường hợp khi công ty bị phá sản, người sở hữu trái phiếu được ưu tiên trả nợ trước cổ đông. Có rất nhiều loại trái phiếu tùy thuộc vào cách phân loại. Tuy nhiên, căn cứ vào chủ thể phát hành có thể chia trái phiếu ra thành 2 loại: Trái phiếu chính phủ: do Chính quyền trung ương hay địa phương phát hành nhằm mục đích bù đắp các khoản chi đầu tư của ngân sách, quản lý lạm phát hoặc tài trợ cho các công trình, các dự án của nhà nước. Trái phiếu doanh nghiệp: Do các doanh nghiệp phát hành (có điều kiện của UBCKNN) nhằm mục đích đầu tư dài hạn cho doanh nghiệp. b. Cổ phiếu Cổ phiếu do công ty cổ phần phát hành ra công chúng để huy động vốn khi hội đủ các điều kiện quy định. Cổ phiếu là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận các quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc vốn của tổ chức phát hành. Cổ phiếu có hai loại là cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. Nhưng trên TTCK thì chủ yếu lưu hành cổ phiếu thường. ¾ Cổ phiếu thường Cổ phiếu thường hay còn gọi là cổ phiếu phổ thông là giấy chứng nhận cổ phần, người mua cổ phiếu được gọi là cổ đông. Cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường là một trong
  32. 21 những người chủ của doanh nghiệp nên được thụ hưởng kết quả kinh doanh cũng như chịu mọi rủi ro trong kinh doanh. Cổ phiếu thường có những đặc điểm cơ bản sau: • Cổ phiếu thường là chứng nhận góp vốn do đó không có kỳ hạn và hoàn vốn. • Cổ tức của cổ phiếu tùy thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. • Nếu công ty bị phá sản, cổ đông thường là người cuối cùng được hoàn vốn. • Giá trị cổ phiếu biến động rất nhanh, nhất là trên thị trường thứ cấp, do nhiều nhân tố nhưng cơ bản là hiệu quả kinh doanh và giá trị thị trường của công ty. Các loại cổ phiếu thường Phần lớn cổ phiếu của các công ty cổ phần là cổ phiếu thường với những đặc điểm nêu trên, nhưng đôi khi công ty cũng phát hành những loại cổ phiếu thường khác với những đặc điểm riêng từ sự khác biệt liên quan đến quyền bầu cử hay quyền được hưởng cổ tức. Cổ phiếu thường gồm các loại sau: Cổ phiếu thường loại “A”: là loại cổ phiếu phát hành ra công chúng và được hưởng cổ tức nhưng không có quyền bầu cử. Cổ phiếu thường loại “B”: thường được gọi là cổ phiếu sáng lập viên, có quyền bầu cử nhưng chỉ được hưởng cổ tức khi khả năng sinh lợi của công ty đã đến một giai đoạn tăng trưởng nhất định. Cổ phiếu thường có gộp lãi: tức là người sở hữu cổ phiếu không nhận cổ tức bằng tiền mặt mà sẽ nhận được cổ tức bằng một số cổ phiếu có giá trị tương đương mới phát hành mà không phải góp thêm vốn. Ngoài ra, tùy đặc điểm của công ty mà còn có những loại cổ phiếu thường khác như: cổ phiếu “thượng hạng” (Blue chip stocks), cổ phiếu tăng trưởng (Growth stocks), cổ phiếu thu nhập (Income stocks), cổ phiếu chu kỳ (Cyclical stocks) ¾ Cổ phiếu ưu đãi Cổ phiếu ưu đãi là loại chứng khoán có đặc điểm vừa giống với trái phiếu vừa giống cổ phiếu thường. Chứng nhận cổ đông được ưu tiên so với cổ đông thường về mặt tài chính nhưng bị hạn chế về quyền hạn đối với công ty góp vốn như không được tham gia ứng cử và bầu cử vào HĐQT hoặc Ban Kiểm soát công ty; nhưng được ưu tiên chia
  33. 22 cổ tức và trả nợ trước cổ đông thường trong trường hợp công ty bị phá sản. Cổ phiếu ưu đãi có những đặc điểm sau: • Là chứng khoán vốn không có kỳ hạn và không hoàn lại vốn. • Cổ phiếu ưu đãi được ấn định tỷ lệ lãi cố định tính trên mệnh giá. Các loại cổ phiếu ưu đãi theo Luật doanh nghiệp Việt Nam bao gồm: Cổ phiếu ưu đãi biểu quyết: là cổ phiếu có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ phần phổ thông và số phiếu do Điều lệ công ty quy định. Cổ phiếu ưu đãi cổ tức: là cổ phiếu được trả cổ tức với mức cao hơn so với mức cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hàng năm. Cổ phiếu ưu đãi hoàn lại: là loại sẽ được công ty hoàn lại vốn góp bất kỳ lúc nào theo yêu cầu của người sở hữu hoặc theo điều kiện được ghi tại cổ phiếu. c. Chứng chỉ quỹ đầu tư Theo Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ thì Quỹ đầu tư chứng khoán là quỹ hình thành từ vốn góp của những người đầu tư ủy thác cho công ty quản lý quỹ quản lý và đầu tư tối thiểu 60% giá trị tài sản của quỹ vào chứng khoán. Việc huy động vốn vào quỹ đầu tư được thực hiện theo những cách thức sau: • Cách thứ nhất, một công ty được thành lập theo quy định của pháp luật hiện hành sẽ phát hành các cổ phần ra công chúng. Khi mua cổ phần, người đầu tư sẽ trở thành cổ đông của quỹ và có đầy đủ quyền do pháp luật quy định. Quỹ có tư cách pháp nhân, được gọi là quỹ đầu tư dạng công ty. • Cách thứ hai, một công ty quản lý quỹ sẽ huy động vốn bằng cách lấy tổng vốn huy động chia thành các phần bằng nhau, mỗi phần tương ứng với một chứng chỉ quỹ, công ty sẽ bán các chứng chỉ ra công chúng. Theo mô hình này, người mua chứng chỉ quỹ sẽ không tham gia vào quá trình ra quyết định đầu tư mà ủy thác việc quản lý cho công ty. Quỹ chỉ đơn thuần là một khoản tiền, không có tư cách pháp nhân. Công ty quản lý quỹ sẽ đảm nhận cả hai khâu huy động và đầu tư vốn vào các chứng khoán. Dựa trên hình thái vận động của vốn, có thể phân loại quỹ đầu tư thành quỹ đóng và quỹ mở.
  34. 23 Đối với Quỹ đóng, các chứng chỉ quỹ chỉ được phát hành một lần với một số lượng xác định. Quỹ đóng không mua lại chứng chỉ quỹ khi nhà đầu tư có nhu cầu bán lại và cũng không phát hành bổ sung. Nhà đầu tư sẽ mua bán chứng chỉ quỹ trên thị trường TTCK tập trung giống như bất kỳ một loại chứng khoán niêm yết nào khác. Đối với Quỹ mở, quỹ mở liên tục phát hành chứng chỉ quỹ ra công chúng, số lượng có thể không hạn chế và sẵn sàng mua lại chứng chỉ quỹ khi nhà đầu tư có nhu cầu bán. Chứng chỉ quỹ mở không giao dịch trên thị trường thứ cấp mà giao dịch thẳng với các đại lý được ủy quyền của Quỹ. d. Các chứng khoán phái sinh Chứng khoán phái sinh là những công cụ tài chính được phát hành trên cơ sở những công cụ đã có như cổ phiếu, trái phiếu nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận. Các công cụ phái sinh cũng được mua bán trên thị trường bao gồm hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn, chứng quyền, quyền mua cổ phần. ¾ Hợp đồng tương lai (Future contracts) Hợp đồng tương lai là một cam kết bằng văn bản về việc người bán sẽ chuyển giao một tài sản hay chứng khoán cụ thể vào một ngày nào đó trong tương lai cho người mua với mức giá thỏa thuận tại thời điểm hiện tại. Để tránh thiệt hại có thể xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng, vào lúc ký kết cả hai bên liên quan đều được yêu cầu ký quỹ nhằm bảo đảm thực hiện hợp đồng. ¾ Hợp đồng quyền chọn (Option contracts) Hợp đồng quyền chọn là một hợp đồng được ký kết giữa một bên là “người ký phát” và một bên là người mua hợp đồng, trong đó cho phép người mua hợp đồng được quyền mua hoặc bán cho người ký phát một số lượng chứng khoán với giá cả nhất định và trong một thời hạn quy định trong tương lai. Quyền chọn có hai loại là quyền chọn mua và quyền chọn bán. Hợp đồng quyền chọn cung cấp quyền cho người sở hữu nó chứ không phải nghĩa vụ mua hoặc bán. Vì vậy, người chủ của quyền chọn có thể thực hiện hay không
  35. 24 thực hiện quyền trong thời gian hiệu lực của hợp đồng. Nếu không thực hiện, người chủ quyền chọn có thể bán nó trên TTCK. ¾ Chứng quyền (Warrants) Chứng quyền là loại chứng khoán được phát hành kèm theo trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi, cho phép người nắm giữ chứng khoán đó được quyền mua một khối lượng cổ phiếu phổ thông nhất định mới phát hành với mức giá đã được xác định trước trong một thời kỳ nhất định. Người nắm giữ chứng quyền có thể giữ lại trái phiếu bán chứng quyền và ngược lại hoặc giữ lại cả hai, hoặc bán cả hai. Thị giá của chứng quyền tùy thuộc vào các yếu tố như giá chuyển đổi, thời hạn còn lại của chứng quyền. ¾ Quyền mua cổ phần (Rights) Quyền mua cổ phần hay còn gọi là quyền tiên mãi là một chứng khoán ghi nhận quyền dành cho cổ đông của công ty cổ phần được mua trước một số lượng cổ phiếu nhất định mới phát hành tương ứng với tỷ lệ cổ phần họ đang nắm giữ. Người nắm giữ quyền mua cổ phiếu có thể sử dụng để mua cổ phiếu mới hoặc bán cho người khác trên TTCK và nếu quá hạn thì xem như bị hủy bỏ. Giá của quyền mua cổ phiếu phụ thuộc vào nhiều yếu tố như giá trị, thời hạn còn lại của quyền 1.2.4.2 Các thành phần tham gia trên thị trường Chứng khoán Các tổ chức và cá nhân tham gia TTCK có thể được chia thành ba nhóm sau: nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan đến chứng khoán. ¾ Nhà phát hành Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua TTCK. Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán - hàng hoá của TTCK bao gồm: • Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu Chính phủ và trái phiếu địa phương. • Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty. • Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu, chứng chỉ thụ hưởng phục vụ cho hoạt động của họ.
  36. 25 ¾ Nhà đầu tư Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên TTCK. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức. • Các nhà đầu tư cá nhân: Là những người có vốn nhàn rỗi tham gia TTCK với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. • Các nhà đầu tư có tổ chức: thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường và được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm. • Nhà môi giới-Công ty chứng khoán: là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán có thể đảm nhận một hoặc nhiều các nghiệp vụ chính là bảo lãnh phát hành, môi giới, tự doanh, quản lý quỹ đầu tư và tư vấn đầu tư chứng khoán. ¾ Các tổ chức liên quan đến thị trường chứng khoán • Ủy ban chứng khoán: Cơ quan này được thành lập để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với TTCK. • Sở giao dịch chứng khoán: Thực hiện vận hành thị trường thông qua bộ máy tổ chức bao gồm nhiều bộ phận khác nhau phục vụ trên Sở giao dịch chứng khoán. • Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán: được thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích cho các công ty thành viên và cho toàn ngành chứng khoán nói chung. 1.2.5 Cơ chế điều hành và nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán 1.2.5.1 Cơ chế điều hành và giám sát thị trường chứng khoán Nhìn chung các tổ chức tham gia quản lý và giám sát TTCK gồm 2 nhóm: các cơ quan quản lý của Chính phủ và các tổ chức tự quản. ¾ Các cơ quan quản lý của Chính phủ Đây là các cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động của TTCK. Nhìn chung, các cơ quan này chỉ thực hiện các chức năng quản lý chung chứ không trực tiếp điều hành và giám sát thị trường. Các cơ quan này có thẩm quyền ban hành các quy định điều chỉnh hoạt động trên thị trường tạo cơ sở cho các tổ chức tự quản trực tiếp thực hiện các chức năng điều hành và giám sát thị trường của mình.
  37. 26 Ủy ban chứng khoán là cơ quan quản lý chuyên ngành của Nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán với các chức năng sau: • Thực hiện các quy định quản lý ngành chứng khoán của Bộ Tài chính. • Kiểm soát mọi vấn đề trong hoạt động thị trường như đăng ký chứng khoán, giám sát các công ty niêm yết, phát hiện và xử lý các trường hợp gian lận. • Quản lý trực tiếp các tổ chức tự quản, giám sát hoạt động của các tổ chức này. • Thanh tra đối với các cá nhân hay tổ chức để đảm bảo lợi ích chung của công chúng trong trường hợp có sự vi phạm pháp luật. ¾ Các tổ chức tự quản Nhìn chung, các tổ chức tự quản gồm Sở giao dịch và Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán. Sở giao dịch là tổ chức tự quản bao gồm các công ty chứng khoán thành viên, trực tiếp điều hành và giám sát hoạt động giao dịch chứng khoán thực hiện trên Sở. Sở giao dịch thực hiện một số chức năng sau: • Điều hành các hoạt động giao dịch diễn ra trên Sở. • Giám sát, theo dõi các giao dịch giữa các công ty thành viên và khách hàng. • Hoạt động điều hành và giám sát của Sở giao dịch phải phù hợp với quy định. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức của các công ty chứng khoán được thành lập với mục đích tạo ra tiếng nói chung cho toàn ngành kinh doanh chứng khoán và đảm bảo lợi ích chung của TTCK. Hiệp hội có các chức năng sau: • Điều hành và giám sát thị trường giao dịch phi tập trung. • Đưa ra các quy định chung cho các công ty chứng khoán thành viên. • Thu nhận và điều tra các khiếu nại của khách hàng liên quan đến TTCK. • Đề xuất và gợi ý với các cơ quan quản lý Nhà nước các vấn đề về TTCK. 1.2.5.2 Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán Hoạt động của thị trường chứng khoán được dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau: • Nguyên tắc cạnh tranh (nguyên tắc đấu giá) Giá cả trên TTCK phản ánh quan hệ cung-cầu về chứng khoán và thể hiện tương quan
  38. 27 cạnh tranh giữa các công ty. Trên thị trường sơ cấp, các nhà phát hành cạnh tranh với nhau để bán chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư, các nhà đầu tư được tự do lựa chọn các chứng khoán theo các mục tiêu của mình. Trên thị trường thứ cấp, các nhà đầu tư cũng cạnh tranh tự do để tìm kiếm cho mình một lợi nhuận cao nhất và giá cả được hình thành theo phương thức đấu giá. Khi thực hiện nguyên tắc đấu giá bao giờ cũng tuân thủ theo các thứ tự ưu tiên về giá (giá đặt mua cao nhất và giá chào bán thấp nhất), về thời gian, về khách hàng (ưu tiên nhà đầu tư cá nhân trước), về quy mô lệnh. • Nguyên tắc công bằng Công bằng có nghĩa là mọi người tham gia thị trường đều phải tuân thủ những qui định chung, được bình đẳng trong việc chia sẻ thông tin và trong việc gánh chịu các hình thức xử phạt nếu vi phạm vào những qui định đó. • Nguyên tắc công khai Chứng khoán là loại hàng hoá trừu tượng nên TTCK phải được xây dựng trên cơ sở hệ thống công bố thông tin tốt. Theo luật định, tổ chức phát hành có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin đầy đủ theo chế độ thường xuyên và đột xuất thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, Sở giao dịch, các công ty chứng khoán và các tổ chức liên quan. Việc công khai thông tin về TTCK phải thỏa mãn các yêu cầu: (1) Chính xác, (2) Kịp thời, (3) Dễ tiếp cận. • Nguyên tắc trung gian Nguyên tắc này có nghĩa là các giao dịch chứng khoán được thực hiện thông qua tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư không mua trực tiếp của nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới kinh doanh, các công ty chứng khoán mua-bán chứng khoán giúp khách hàng hoặc kết nối các khách hàng với nhau qua việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình. • Nguyên tắc tập trung Các giao dịch chứng khoán chỉ diễn ra trên sở giao dịch và trên thị trường OTC dưới sự kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tự quản.
  39. 28 Các nguyên tắc trên đây nhằm đảm bảo cho giá cả chứng khoán được hình thành một cách thống nhất, công bằng cho tất cả các bên giao dịch. Do đó, ở hầu hết các nước trên thế giới hiện nay, mỗi nước chỉ có một Sở giao dịch chứng khoán duy nhất. Tuy nhiên, người dân ở mọi miền đất nước đều có thể tiếp cận thị trường thông qua các phòng giao dịch của công ty chứng khoán mở tới tại các điểm dân cư. 1.3 LÝ THUYẾT THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ Trong những năm 1950, lần đầu tiên người ta sử dụng máy tính trong phân tích các hiện tượng kinh tế. Tuy vậy, những nhà nghiên cứu đã thất bại trong việc tìm ra quy luật phát triển kinh tế mang tính chu kỳ nếu chỉ dựa trên sự phân tích một vài biến số kinh tế. Nghiên cứu sự biến động của giá cổ phiếu cũng không phải là một ngoại lệ. Năm 1953, lần đầu tiên Maurice Kendall công bố nghiên cứu của mình về giá của cổ phiếu. Theo kết quả này, giá của cổ phiếu thay đổi ngẫu nhiên, không có quy luật và không thể dự đoán được. Bằng một loạt nghiên cứu của các nhà khoa học, người ta nhận thấy rằng chính sự thay đổi ngẫu nhiên này là biểu hiện của một thị trường hiệu quả. Những nghiên cứu đã chỉ ra rằng chính sự cạnh tranh giữa các nhà đầu tư đã dẫn đến một thị trường hiệu quả. Lý thuyết thị trường hiệu quả đã có những ứng dụng nhất định trong việc xây dựng chính sách đầu tư1. [17] 1.3.1 Lý thuyết thị trường hiệu quả và tính ngẫu nhiên của thị trường 1.3.1.1 Lý thuyết thị trường hiệu quả (Efficient market theory) Khái niệm tính hiệu quả của thị trường rất phổ biến từ những năm 60 của thế kỷ 20. Thị trường hiệu quả được hiểu theo ba khía cạnh đó là: (1) Phân phối hiệu quả, (2) hoạt động hiệu quả và (3) thông tin hiệu quả. Một thị trường chỉ được coi là hiệu quả hoàn toàn khi nó đồng thời đạt được hiệu quả trên cả ba mặt trên. 1 Lê Thị Mai Linh (2003), Phân tích và đầu tư chứng khoán, Nxb Chính trị quốc gia, trang 285-291.
  40. 29 • Thị trường được xem là hiệu quả về mặt phân phối khi các các nguồn tài nguyên khan hiếm được phân phối để sử dụng một cách tốt nhất. Điều này có nghĩa là chỉ những người trả giá cao nhất cho các nguồn tài nguyên đó mới giành được quyền sử dụng chúng. Đối với thị trường vốn nói chung và TTCK nói riêng, vai trò của nó là phân phối các nguồn vốn có thể đầu tư sao cho có hiệu quả nhất. • Thị trường được xem là hiệu quả về mặt hoạt động khi các chi phí giao dịch trong thị trường đó được quyết định theo quy luật cạnh tranh. Nói cách khác, thị trường này được đặt trong môi trường cạnh tranh giữa các nhà tiếp thị và nhà môi giới kiếm lợi nhuận thông thường (không phải lợi nhuận độc quyền) thông qua các hoạt động của mình. Khi chi phí giao dịch bằng 0 thì thị trường được coi là hiệu quả. Tuy nhiên trên thực tế, các thị trường sẽ không tồn tại nếu chi phí hoạt động của những người vận hành thị trường không được bù đắp. • Thị trường được coi là hiệu quả về mặt thông tin nếu thị giá hiện hành phản ánh đầy đủ và tức thời tất cả các thông tin có ảnh hưởng tới thị trường. Tuy ba mặt cấu thành của thị trường hiệu quả này có sự gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau, nhưng trong lý thuyết thị trường hiệu quả người ta giả định là thị trường chứng khoán có hiệu quả về mặt phân phối và hiệu quả hoạt động. Vì vậy, chúng ta chỉ xét thị trường này trong điều kiện hiệu quả về mặt thông tin. Khi nói đến thị trường hiệu quả thì đồng nghĩa với quan điểm là thị trường hiệu quả về mặt thông tin. Từ đó, giả thiết về thị trường hiệu quả được phát biểu như sau: Thị trường hiệu quả là thị trường trong đó giá cả của chứng khoán đã phản ánh đầy đủ tức thời tất cả các thông tin hiện có trên thị trường. Khi giả thiết này đúng có nghĩa là giá cả chứng khoán được xác định tại mức công bằng và phản ánh đầy đủ thông tin hiện có trên thị trường; việc giá chứng khoán tăng hay giảm là do và chỉ do nó phản ứng đối với các thông tin mới. Mà theo định nghĩa, thông tin mới là các thông tin không thể dự đoán được. Do vậy, sự thay đổi về giá chứng khoán do tác động của các thông tin mới cũng là không thể dự đoán được. Tức là, giá chứng khoán thay đổi một cách ngẫu nhiên và không dự đoán được.
  41. 30 Tuy nhiên, cũng cần phân biệt về tính ngẫu nhiên của biến động giá với sự bất hợp lý về mức giá. Nếu giá cả được hình thành một cách hợp lý thì chỉ những thông tin mới mới làm giá đó thay đổi. [17] 1.3.1.2 Học thuyết về tính ngẫu nhiên (Random Walks) Giả sử Maurice Kendall khám phá ra rằng giá của cổ phiếu có thể dự đoán được trước và có thể sử dụng phương pháp của ông để dự đoán được giá cổ phiếu thì các nhà đầu tư sẽ nhanh chóng tìm cách đạt được lợi nhuận bằng cách mua khi giá có khuynh hướng tăng và bán khi giá có khuynh hướng giảm. Nhưng trong thực tiễn, tình trạng này không thể tồn tại một cách lâu dài. Sự phán đoán về khả năng tăng giá trong tương lai sẽ ngay lập tức làm giá hiện tại tăng. Nói cách khác, giá cổ phiếu sẽ phản ứng ngay đối với bất kỳ thông tin mới nào được tiềm ẩn trong dự đoán của mô hình. Nói một cách khái quát, người ta có thể thấy rằng: bất cứ một thông tin nào được sử dụng để dự đoán diễn biến của cổ phiếu đều đã được phản ánh hoàn toàn trong giá của cổ phiếu đó. Chừng nào còn có những thông tin khác chỉ ra rằng giá cổ phiếu đang bị đánh giá dưới giá trị, các nhà đầu tư sẽ đổ xô vào việc mua chứng khoán này và ngay lập tức giá cổ phiếu đó sẽ được đẩy lên ở mức hợp lý mà tại đó lợi suất của nó đúng bằng lợi suất bình thường đủ để bù đắp cho rủi ro của cổ phiếu đó. Nhưng giả thiết rằng, tất cả những thông tin đều có thể tiếp cận được, giá của cổ phiếu chỉ tăng hay giảm khi xuất hiện những thông tin được xem là mới. Những thông tin mới là thông tin không thể dự đoán được, nếu là loại thông tin dự đoán được thì dự đoán đó đã sẵn sàng được phản ánh vào trong giá của cổ phiếu. Vì vậy, giá của cổ phiếu khi nhận được những thông tin mới cũng sẽ thay đổi không thể dự đoán được. Đây chính là cốt lõi của lý luận cho rằng giá của cổ phiếu diễn biến một cách ngẫu nhiên (Random Walk). Cần thiết phải phân biệt tính ngẫu nhiên của việc thay đổi giá với tính không hợp lý trong mức giá. Nếu giá được xác lập một cách hợp lý thì chỉ những thông tin mới mới tạo ra sự thay đổi giá. Vì vậy, tính ngẫu nhiên sẽ là kết quả tất yếu của giá khi giá này đã bao hàm tất cả những thông tin hiện tại. Nếu giá của cổ phiếu có thể dự
  42. 31 đoán được thì đây là bằng chứng thị trường không hiệu quả, bởi vì các thông tin chưa được phản ánh vào trong giá. Vì vậy, một thị trường được coi là hiệu quả nếu giá của cổ phiếu phản ánh tất cả các thông tin hiện có trên thị trường. [17] 1.3.1.3 Các dạng của thị trường hiệu quả Sự phân chia các mức độ của thị trường hiệu quả là dựa trên mức độ khác nhau của tiêu thức mà những thông tin đã phản ánh trong giá chứng khoán. Có ba mức độ thị trường hiệu quả gồm: • Mức độ thứ nhất: Thị trường hiệu quả dạng yếu (Weak Form) Hiệu quả dạng yếu giả định rằng giá cả chứng khoán đã phản ánh đầy đủ và kịp thời những thông tin trong quá khứ về giao dịch của thị trường như khối lượng giao dịch, giá cả chứng khoán Xem xét một ví dụ như sau: Giả sử thị trường tồn tại một quy luật trong quá khứ như sau: giá của chứng khoán giảm vào ngày giao dịch cuối cùng của năm và tăng lên trong ngày giao dịch đầu tiên của năm mới. Dưới những giả thuyết của dạng yếu, thị trường sẽ nhanh chóng nhận thức điều này và các nhà đầu tư sẽ đồng loạt mua chứng khoán vào ngày cuối năm để bán chúng vào ngày đầu tiên của năm sau. Vì vậy, ngay lập tức quy luật cung-cầu sẽ gây sức ép buộc giá cả trở về trạng thái cân bằng và xóa bỏ hiện tượng này. Khi dạng yếu của thị trường tồn tại thì các nhà phân tích kỹ thuật trở nên bị vô hiệu hóa. Các nhà phân tích kỹ thuật thường theo dõi sự thay đổi của giá cổ phiếu qua một loạt các thời điểm khác nhau. Nếu họ nhận ra sự biến động giá tuân theo một số dạng nhất định, thì dự đoán rằng điều này sẽ được lặp lại theo cùng quy luật trong tương lai. Để làm được điều này, các nhà phân tích sử dụng các phương pháp phân tích để phân tích giá cả quá khứ của cổ phiếu, từ đó dự đoán cho giá tương lai. Tuy nhiên, nếu trường hợp dạng yếu của thị trường tồn tại thì không có bất kỳ những thông tin nào trong quá khứ có tác dụng để dự đoán cho tương lai. Bất cứ một thông tin nào có được trong quá khứ đều đã được nghiên cứu bởi hàng nghìn nhà phân tích trên thị trường. Những chuyên gia này đã hành động theo cách mà họ đã tìm ra và điều này được phản ánh rất nhanh trong giá cổ phiếu. Giả sử những thông tin này chứa đựng những dấu
  43. 32 hiệu về tương lai, khi đó tất cả các nhà đầu tư sẽ tìm cách để khai thác triệt để dấu hiệu này. Cuối cùng, những thông tin này trở thành sự hiểu biết của tất cả công chúng và do vậy giá của cổ phiếu sẽ nhanh chóng được điều chỉnh thăng bằng lại. • Mức độ thứ hai: Thị trường hiệu quả dạng trung bình (Semi Strong Form) Hiệu quả dạng trung bình giả định rằng giá của chứng khoán đã phản ánh tất cả các thông tin liên quan đến công ty được công bố ra công chúng. Ngoài những thông tin trong quá khứ, những thông tin cơ bản của công ty mà công chúng đầu tư có thể dễ dàng thu được như năng lực sản xuất, chất lượng quản lý, báo cáo tài chính, bí quyết sản xuất, dự đoán thu nhập, mô hình kế toán. Những thông tin cần thiết của các công ty đang cạnh tranh và những dự đoán khác về tình hình hoạt động và tình hình tài chính đều đã được phản ánh trong giá của cổ phiếu. Nếu bất cứ nhà đầu tư nào cũng có được những thông tin từ nguồn thông tin đại chúng thì tức là nó đã sẵn sàng được phản ánh trong giá của chứng khoán. Ngoài ra, những thông tin mang tính chất dự đoán như các đánh giá dự báo, tin đồn đều được nhà đầu tư đưa vào để xác định giá. Nếu thị trường hiệu quả dạng trung bình tồn tại, không có hình thức phân tích nào (kể cả phân tích cơ bản lẫn kỹ thuật) có khả năng đem lại cho nhà đầu tư lợi nhuận siêu ngạch nếu việc phân tích chỉ dựa trên những số liệu từ nguồn được công bố ra công chúng và những thông tin dự đoán mà cả thị trường đều biết. Xem xét một ví dụ như sau: một nhà phân tích sử dụng bảng tổng kết tài sản của công ty nhằm tìm kiếm lợi nhuận siêu ngạch sẽ không thể mang lại kết quả như mong muốn bởi những thông tin dạng này dễ dàng kiếm được do hàng nghìn nhà phân tích trên thị trường. Hành động của các nhà phân tích này nhanh chóng làm giá cả chứng khoán được điều chỉnh để phản ánh những thông tin cần thiết trong bảng tổng kết tài sản. Quá trình tương tự như vậy cũng sẽ diễn ra cho tất cả các thông tin khác đã được công bố ra công chúng. • Mức độ cao nhất: Thị trường hiệu quả dạng mạnh (Strong Form) Hiệu quả dạng mạnh giả định rằng giá của cổ phiếu đã phản ánh tất cả những thông tin cần thiết có liên quan đến công ty, thậm chí cả những thông tin nội gián. Điều này nói lên rằng các thị trường phản ứng nhanh với bất kỳ thông tin nào, kể cả những thông tin
  44. 33 mang tính chất nội bộ hay cá nhân, làm cho khả năng tìm kiếm lợi nhuận siêu ngạch khó xảy ra. Như vậy, thị trường hiệu quả dạng mạnh không cho phép tồn tại phân tích kỹ thuật lẫn cơ bản. Về vấn đề này, có nhiều quan điểm không đồng nhất. Một số ý kiến tranh luận rằng, chỉ có một bộ phận nhỏ những cá nhân có thể có được những thông tin quan trọng trước khi chúng được công bố ra công chúng, do đó họ có thể sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch. Nhưng thực tế, hầu như ở tất cả các nước, những hành động như vậy bị xem là vi phạm pháp luật. Do vậy, hình thái thị trường này khó đứng vững. Hình vẽ 1.2 dưới đây mô tả mối quan hệ các thông tin dưới các dạng hiệu quả khác nhau của thị trường. Tất cả các thông tin, kể cả thông tin nội bộ Các thông tin đại chúng Thông tin về giá CK trước đây Hình 1.2 Mối quan hệ về thông tin dưới các dạng thị trường hiệu quả Cần phân biệt tính hiệu quả của thị trường và tính hoàn hảo của thị trường. Một thị trường được coi là hoàn hảo nếu có các đặc điểm chính sau: (1) Không có chi phí giao dịch; (2) Không có thuế (liên quan đến công ty cũng như thu nhập cá nhân); (3) Các tài sản có thể chia ra thành những phần rất nhỏ; (4) Thông tin miễn phí và có thể được tiếp cận ngay lập tức đối với tất cả mọi người; (5) Các cá nhân luôn cố tìm cách tối đa hóa lợi nhuận của mình; (6) Có vô vàn người bán và người mua nên không một ai trong số
  45. 34 họ có thể ảnh hưởng đến giá; (7) Các cá nhân tham gia thị trường có thể vay hoặc cho vay với một lãi suất duy nhất. [23] 1.3.2 Thị trường hiệu quả Trên các thị trường chứng khoán phát triển, mặc dù có nhiều bằng chứng có thể chứng minh rằng thị trường là hiệu quả, nhưng cũng có một số trường hợp đặc biệt vẫn có thể tìm thấy trong thực tế để chứng minh rằng thị trường không hiệu quả. Một số trường hợp cụ thể trong thực tế có thể xem xét sau đây1: [17] ¾ Ảnh hưởng của ngày nghỉ Đây là một ảnh hưởng nhỏ, chưa thể giải thích rõ ràng nhưng lại rất có ý nghĩa về mặt thống kê. Qua thống kê, người ta nhận thấy rằng giá cổ phiếu có khuynh hướng giảm vào ngày thứ sáu cuối tuần và vào phiên giao dịch của sáng thứ hai đầu tuần. Chính vì hiện tượng này gắn liền với giá mở cửa ngày thứ hai nên tên gọi được đặt là ảnh hưởng của ngày nghỉ. Mặc dù đến nay chưa có lời giải thích thỏa đáng nào cho hiện tượng này, nhưng một lý do có thể đưa ra là những tin tức xấu có thể thường xuất hiện vào cuối tuần. Tuy nhiên, sau khi trừ chi phí giao dịch, lợi nhuận thu được từ ảnh hưởng này hầu như không đáng kể vì giá của cổ phiếu chênh lệch rất thấp. ¾ Ảnh hưởng của tháng giêng Theo số liệu thống kê cho thấy thu nhập của cổ phiếu trong tháng giêng cao hơn các tháng khác trong năm. Người ta chưa đưa ra một lý do nào cho vấn đề này. Một giải thích được đưa ra là các nhà đầu tư muốn bán những chứng khoán bị giảm giá vào cuối năm để khấu trừ vào thuế trước khi kết thúc năm tài khóa. Những nhà đầu tư này chưa sử dụng ngay số tiền thu được từ việc bán cổ phiếu trên để mua cổ phiếu mới cho đến đầu năm sau. Tại thời điểm đầu năm mới, sức ép cho nhu cầu của việc mua vào cổ phiếu đã tạo ra hiện tượng tăng giá chứng khoán. Do vậy, 1 Lê Thị Mai Linh (2003), Phân tích và đầu tư chứng khoán, Nxb Chính trị quốc gia, trang 295-297.
  46. 35 nếu ai đó mua chứng khoán vào cuối năm và bán chúng vào đầu năm sau sẽ có thể thu được khoản lợi tức cao hơn, hiện tượng này được gọi là ảnh hưởng tháng giêng. ¾ Ảnh hưởng của các công ty nhỏ Qua các nghiên cứu của các nhà kinh tế học cho thấy, đầu tư vào các công ty nhỏ thường cho lợi suất cao hơn các công ty lớn. Người ta thấy rằng ảnh hưởng của công ty nhỏ và ảnh hưởng tháng giêng có sự liên hệ chặt chẽ với nhau. Lợi suất phụ trội trong tháng giêng lại thường xuyên xuất hiện đối với các công ty nhỏ. Hiện tượng này được giải thích như sau: • Các công ty nhỏ ít được các nhà phân tích chú ý. Điều này làm cho một số nhà đầu tư có thể thu được lợi nhuận khi khám phá và khai thác các thông tin có lợi. • Các công ty nhỏ thường có độ rủi ro cao hơn các công ty lớn. Những nhà đầu tư tham gia cuộc chơi với loại cổ phiếu này cũng là những người dám chấp nhận rủi ro cao hơn và dĩ nhiên lợi nhuận thu được phải cao hơn để bù đắp rủi ro này. 1.3.3 Kết luận về thị trường hiệu quả Một thị trường chứng khoán được coi là hiệu quả nếu tất cả những thông tin có thể biết đã được phản ánh trong giá của chứng khoán. Tính hiệu quả của thị trường biểu hiện ở các cấp độ khác nhau, tùy thuộc vào loại thông tin được phản ánh trong giá chứng khoán. Một thị trường hiệu quả dạng yếu nếu những diễn biến về giá trước đó không cho phép dự đoán được sự thay đổi giá trong tương lai. Thị trường hiệu quả dạng trung bình có liên quan đến cả những thông tin không phải thuộc về quá khứ, đó là tất cả những thông tin liên quan đến công ty được công bố ra công chúng. Hiệu quả dạng mạnh của thị trường là loại có liên quan đến cả nhóm các nhà đầu tư đặc biệt- những người có thông tin nội gián. Tóm lại, một thị trường được xem là hiệu quả sẽ có những biểu hiện thông qua các đặc trưng chính sau đây: • Thứ nhất, giá chứng khoán thay đổi kịp thời và chính xác đối với những thông tin mới và có một số lượng lớn nhà đầu tư biết tối đa hóa lợi nhuận.
  47. 36 • Thứ hai, sự thay đổi tỷ suất lợi nhuận được quyết định bởi sự thay đổi của lãi suất đầu tư phi rủi ro và phụ phí rủi ro. Mọi sự thay đổi của giá chứng khoán xuất phát từ các sự kiện khác đều ngẫu nhiên không dự đoán trước được. • Thứ ba, những nguyên tắc hoặc kinh nghiệm đều không thể áp dụng để thu được lợi nhuận siêu ngạch. • Thứ tư, các nhà đầu tư chuyên nghiệp không thể dùng các hình thức phân tích chuyên nghiêp (phân tích cơ bản và kỹ thuật) để thu được lợi nhuận siêu ngạch cả trên hai phương diện cá nhân cũng như tổ chức. [17] 1.3.4 Kiểm định mức độ hiệu quả của thị trường Trong suốt nửa thế kỷ qua, các học giả đã tìm ra rất nhiều phương pháp để kiểm định mức độ hiệu quả của thị trường. Chẳng hạn để kiểm tra hiệu quả dạng yếu người ta khảo sát hệ số tự tương quan của suất sinh lợi, suất sinh lợi của những ngày đặc biệt trong tuần, trong năm. Đối với hiệu quả dạng trung bình, người ta khảo sát ảnh hưởng của việc công bố các thông tin tài chính công ty (lợi nhuận, cổ tức, chia tách cổ phiếu ) đến giá của cổ phiếu. Còn việc kiểm tra hiệu quả dạng mạnh thì rất khó, thậm chí khó đến mức hình thành ra một số phản đề của lý thuyết thị trường hiệu quả như Lý thuyết đại lý (Agency theory) và Cai quản công ty (Coporate governance). [23] 1.3.4.1 Kiểm định thống kê về tính độc lập của tỷ suất sinh lợi Giả thiết thị trường hiệu quả cho rằng tỷ suất sinh lợi của chứng khoán qua thời gian sẽ độc lập với tỷ suất sinh lợi của chứng khoán khác vì thông tin mới đến thị trường một cách ngẫu nhiên, độc lập và giá chứng khoán được điểu chỉnh một cách nhanh chóng theo các thông tin này. Các thông tin độc lập với nhau làm cho giá của các phiên, đợt giao dịch độc lập với nhau, chuỗi thời gian của giá có tính chất ngẫu nhiên (Random walk). Mức biến động giá giữa ngày t và (t-1) không cho phép dự báo biến động giá giữa ngày t và (t+1). Sử dụng Kiểm định thống kê về tính độc lập để xem xét tỷ suất sinh lợi ngày t có tương quan với tỷ suất sinh lợi ngày (t-1), (t-2), (t-3) hay không.
  48. 37 Những người ủng hộ thị trường hiệu quả cho rằng tương quan này bằng 0 cho tất cả các kết hợp. Do vậy, sẽ kiểm định tính tương quan giữa các biến trong phương trình sau1: ROItj = β0 + Σβirt-i + εi (1.1) [46] Trong đđó: ROItj: Tỷ suất sinh lợi của chứng khoán j ở ngày t rt-i: Tỷ suất sinh lợi chứng khoán j ở ngày t-i β0: Hệ số tự do (tung độ gốc) βi: Hệ số mô hình εi: Sai số của hồi quy (nhiễu ngẫu nhiên) Tiến hành kiểm định giả thuyết về tính tương quan của các biến trong phương trình (1.1) với độ tin cậy là 95% (mức ý nghĩa α = 5%). Khi không có mối liên hệ tuyến tính giữa các biến trong phương trình (1.1) thì hệ số βi = 0 và ngược lại nếu βi ≠ 0 có mối liên hệ tuyến tính giữa các biến trong phương trình. Như vậy, nếu giữa các biến trong mô hình (1.1) có sự tương quan thì thị trường không hiệu quả. [8] 1.3.4.2 Các tiêu chí xem xét mức độ hiệu quả của thị trường Để xem xét mức độ hiệu quả của thị trường, người ta thường xem xét dựa trên những tiêu chí cơ bản sau đây: (1) Phân phối chuẩn của tỷ suất sinh lợi. (2) Hệ số tương quan tỷ suất sinh lợi của các chứng khoán trên thị trường. (3) Hệ số tự tương quan của tỷ suất sinh lợi. (4) Quy mô thị trường và độ thanh khoản của thị trường. [24] ¾ Tỷ suất sinh lợi của chứng khoán Tỷ suất sinh lợi của chứng khoán (ROI) được tính theo công thức sau đây: 1 Robert S.Pindyck, Daniel L.Rubinfeld (1991), Econometric Models and Economics forcasts, 3rd Edition, McGraw-Hill Inc, pp.63-64.
  49. 38 (P1 – P0) + DPS ROIJ = (1.2) P0 Trong đó: ROIJ: Suất sinh lợi của chứng khoán J P0: Giá đóng cửa đầu năm của chứng khoán J P1: Giá đóng cửa cuối năm của chứng khoán J DPS: Cổ tức trong năm của chứng khoán J (Dividend per share) Bản chất của tỷ suất sinh lợi chứng khoán đó là tỷ suất sinh lợi không phải là một đại lượng cố định mà luôn biến động (phụ thuộc vào giá thị trường) và mang tính chất ngẫu nhiên. Chính vì vậy, tỷ suất sinh lợi của chứng khoán phải được xem như một biến ngẫu nhiên (Random variable). ¾ Phân phối chuẩn Biến ngẫu nhiên X có kỳ vọng là μ, phương sai là σ2. Nếu X có phân phối chuẩn thì nó được ký hiệu như sau: X ~ N(μ,σ 2 ) Dạng hàm mật độ xác xuất của phân phối chuẩn như sau: 1 ⎛ 1 (x − μ) 2 ⎞ f (x) = exp⎜− ⎟ (1.3) ⎜ 2 ⎟ σ 2π ⎝ 2 σ ⎠ Tính chất của phân phối chuẩn: 1) Hàm mật độ xác suất của phân phối chuẩn đối xứng quanh giá trị trung bình. 2) Xấp xỉ 68% diện tích dưới đường pdf nằm trong khoảng μ±σ, xấp xỉ 95% diện tích nằm dưới đường pdf nằm trong khoảng μ±2σ và xấp xỉ 99,7% diện tích nằm dưới đường pdf nằm trong khoảng μ±3σ. 3) Nếu đặt Z = (X-μ)/σ thì ta có Z~N(0,1). Z gọi là biến chuẩn hoá và N(0,1) được gọi là phân phối chuẩn hoá. [20] 4) Định lý giới hạn trung tâm 1: Một kết hợp tuyến tính các biến có phân phối chuẩn, trong một số điều kiện xác định cũng là một phân phối chuẩn. 5) Định lý giới hạn trung tâm 2: Dưới một số điều kiện xác định, giá trị trung bình mẫu của một biến ngẫu nhiên sẽ gần như tuân theo phân phối chuẩn.
  50. 39 6) Mô men của phân phối chuẩn: Mô men bậc ba: E[(X-μ)3]= 0 Mô men bậc bốn : E[(X-μ)4]= 3σ4 Mô men bậc 3 và bậc 4 của phân phối xác suất được sử dụng trong hai số đo hình dạng của phân phối xác suất là Skewness (độ bất cân xứng) và Kurtosis (độ nhọn). Độ bất cân xứng (S): Độ nhọn (K): 3 4 n n 1 ⎛ x i − X ⎞ 1 ⎛ x i − X ⎞ S = ∑⎜ ⎟ (1.4) K = ∑⎜ ⎟ (1.5) n i=1 ⎝ σˆ ⎠ n i=1 ⎝ σˆ ⎠ Đối với một phân phối chuẩn thì Skewness = 0 và Kurtosis = 3 (Một phân phối có K lớn hơn 3 là nhọn và nhỏ hơn 3 là phẳng). 7) Dựa vào kết quả ở mục (6), người ta có thể kiểm định xem một biến ngẫu nhiên có tuân theo phân phối chuẩn hay không bằng cách kiểm định xem S có gần 0 và K có gần 3 hay không. Đây là nguyên tắc kiểm định quy luật chuẩn Jarque-Bera (JB). 2 n ⎡ 2 (K − 3) ⎤ JB = ⎢S + ⎥ (1.6) 6 ⎣ 4 ⎦ 2 JB tuân theo phân phối χ với hai bậc tự do (df =2). [40] ¾ Hệ số tương quan Hệ số tương quan đo lường mối quan hệ tuyến tính giữa hai biến ngẫu nhiên X và Y. Hệ số tương quan tổng thể được định nghĩa như sau1: [20] cov(X,Y) cov(X,Y) ρ xy = = (1.7) var(X) var(Y) σ x σ y ρ sẽ nhận giá trị nằm giữa -1 và 1. Nếu ρ = -1 thì mối quan hệ là nghịch biến hoàn hảo, nếu ρ = 1 thì mối quan hệ là đồng biến hoàn hảo. Nếu là mẫu, thì hệ số tương quan mẫu là: 1 Trần Bá Nhẫn, Đinh Thái Hoàng (2006), Thống kê ứng dụng trong quản trị-kinh doanh và nghiên cứu kinh tế, Nxb Thống kê, trang 183-186.
  51. 40 S 1 n r = XY XY (1.8) với SXY = ∑()X i − X ()Yi − Y (1.9) SXSY n −1 i=1 ¾ Hệ số tự tương quan của tỷ suất sinh lợi Hệ số tự tương quan cho thấy khả năng có thể dự báo được thị trường hay không. Nếu hệ số này gần với giá trị 0 thì giá của ngày hôm nay độc lập với giá của ngày hôm qua, thị trường không thể dự báo. Còn nếu hệ số tự tương quan dương nghĩa là hôm nay tăng giá (hoặc giảm giá) thì sẽ dự báo được ngày mai cũng sẽ tăng giá (hoặc giảm giá). Ngược lại, hệ số này âm có nghĩa là hôm nay tăng giá (hoặc giảm giá) thì sẽ dự báo được ngày mai giá sẽ giảm (hoặc tăng). [24] Công thức tính hệ số tự tương quan như sau: Cov( y , y ) E( y − μ )( y − μ ) t t +k t y t+k y (1.10) ρ = = 2 k δ δ yt yt+k δ y Trong đó: ρk: Hệ số tự tương quan Yt: Tỷ suất sinh lợi ngày t của chứng khoán μy: Tỷ suất sinh lợi trung bình k: Số ngày chênh lệch tính hệ số δy: Độ lệch chuẩn tỷ suất sinh lợi (δy được quan niệm bằng δy+k nếu dãy số dài). Ví dụ, với k = 1 sẽ tính hệ số tự tương quan của hai dãy tỷ suất sinh lợi: dãy thứ nhất từ ngày giao dịch thứ 2 với dãy thứ 2 từ ngày giao dịch thứ 3. 1.4 MỘT SỐ KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN CỦA TRUNG QUỐC, HÀN QUỐC VÀ THÁI LAN Hiện nay ở các quốc gia trên thế giới, thị trường chứng khoán được hình thành theo hai cách phổ biến: (1) TTCK được hình thành một cách tự phát phù hợp với kinh tế thị trường; (2) TTCK được hình thành với sự hỗ trợ của Nhà nước.
  52. 41 Đối với các quốc gia thuộc khu vực Châu Á, cụ thể là ở ba quốc gia có xuất phát điểm thị trường giống với Việt Nam đó là Trung Quốc, Hàn Quốc và Thái Lan, TTCK được hình thành một cách có ý thức với sự hỗ trợ ngay từ ban đầu của Nhà nước để TTCK được xây dựng ổn định và phát triển bền vững. Kinh nghiệm phát triển thị trường của các nước này cho thấy1: ¾ Tạo môi trường pháp lý đầy đủ và phù hợp là yếu tố rất quan trọng làm cho thị trường chứng khoán có thể duy trì và phát triển bền vững. Nói chung, luật pháp ở các nước này được ban hành từng bước phù hợp với giai đoạn phát triển của thị trường chứng khoán. Cụ thể như, Ở Hàn Quốc, luật pháp đã thúc đẩy thị trường vốn, trong đó chú ý đến chính sách khuyến khích của Nhà nước đối với các công ty niêm yết trên TTCK. Với quan điểm điều hành TTCK rất linh hoạt, Chính phủ Hàn Quốc đã có những thay đổi phù hợp với thực tế để điều chỉnh trong khuôn khổ pháp lý, nhằm giải quyết được yêu cầu của TTCK, đồng thời tránh được xu hướng cứng nhắc, bị động Nhờ vai trò điều hành bằng luật pháp của Hàn Quốc khá hiệu quả, nên TTCK Hàn Quốc đã phát triển liên tục. Từ một thị trường mới nổi đến này TTCK Hàn Quốc đã trở thành thị trường phát triển. Ở Trung Quốc, từ năm 1990, Chính phủ đã sớm soạn thảo, ban hành luật chứng khoán và thành lập cơ quan Nhà nước về quản lý TTCK. Ngoài ra, Chính phủ Trung Quốc còn đề ra và thực hiện đồng bộ có hiệu quả nhiều chính sách khác nhau, tác động trực tiếp đến TTCK như chính sách tín dụng ưu đãi, tư nhân hoá doanh nghiệp, khuyến khích đầu tư nước ngoài, đào tạo nâng cao nguồn nhân lực và nhà đầu tư ¾ Mô hình Sở giao dịch chứng khoán được lựa chọn phù hợp với thực tiễn Các nước này cũng đã thành công trong việc xây dựng mô hình cho TTCK như Hàn Quốc bắt đầu từ năm 1998, có khoảng 95% khối lượng giao dịch và thực hiện lệnh ở Sở Giao dịch chứng khoán đã được tự động hoá; Sở Giao dịch chứng khoán Thái Lan đã được tự động hoá hoàn toàn; Sở Giao dịch chứng khoán Trung Quốc cũng được tự động hoá khâu giao dịch và thanh toán. Ở các nước này, xu hướng thống nhất các Sở 1 Tổng hợp từ Tạp chí chứng khoán Việt Nam các số 1,2,6/2006, Tạp chí Đầu tư chứng khoán hàng tuần năm 2006, Tạp chí Thành đạt số 6/2006 và một số website liên quan.
  53. 42 Giao dịch chứng khoán với nhau để hình thành một TTCK thống nhất đã trở nên rõ ràng. Cách làm này vừa thực hiện được năng lực sẵn có, vừa đáp ứng được nhu cầu hiện đại hoá và tiết kiệm chi phí. ¾ Kinh nghiệm tổ chức Sở Giao dịch chứng khoán và thị trường giao dịch mở Kinh nghiệm này của Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc về mô hình tổ chức sở giao dịch và thị trường giao dịch mở cũng là kinh nghiệm quý báu. Sở Giao dịch chứng khoán Hàn Quốc là công ty cổ phần với sự tham gia của Nhà nước; Sở Giao dịch chứng khoán Thái Lan là công ty cổ phần với quyền niêm yết chính cổ phiếu của mình; Sở Giao dịch chứng khoán Thượng Hải là tổ chức kinh tế 100% vốn sở hữu của Nhà nước với mục tiêu là hỗ trợ ban đầu cho Sở Giao dịch chứng khoán hoạt động phục vụ dịch vụ thị trường, phù hợp với xu hướng xây dựng nền kinh tế thị trường. Kinh nghiệm của các nước này cũng chỉ ra rằng, ngay từ đầu việc giao dịch các chứng khoán chưa niêm yết là nhu cầu thực tế. Tuy nhiên, chỉ khi đạt đến một trình độ kinh tế nhất định, thị trường giao dịch chứng khoán có niêm yết mới được hình thành. Vì vậy, có thể thành lập một khu vực giao dịch thứ hai ở TTCK cho các công ty chưa đủ điều kiện niêm yết với các tiêu chuẩn giảm nhẹ. Quá trình mở cửa TTCK được áp dụng ở các nước cũng là kinh nghiệm tốt, mang lại hai lợi ích: (1) Sở Giao dịch chứng khoán thu được nhiều phí giao dịch hơn, nhờ tăng hoạt động giao dịch của các đối tác nước ngoài; (2) Thu hút, tận dụng tiềm năng nguồn vốn quốc tế. Thị trường chứng khoán của các nước đã thực hiện việc mở cửa để thu hút vốn nước ngoài, ứng dụng mạnh mẽ sự tiến bộ của công nghệ thông tin trong hoạt động giao dịch. Các nước phát triển TTCK thành công như Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc đều áp dụng chính sách khuyến khích các công ty niêm yết ở Sở Giao dịch chứng khoán. Đồng thời, để tăng nguồn cung cấp hàng hoá cho TTCK, Chính phủ các nước đã đẩy mạnh cổ phần hóa và khuyến khích các công ty đăng ký giao dịch chứng khoán trên TTCK; Giảm các loại thuế hành chính liên quan đến việc phát hành và mua bán chứng khoán cho các công ty có chứng khoán đăng ký trên thị trường
  54. 43 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Chương 1 đã hệ thống khái quát về TTTC và các thành phần của TTTC. Đồng thời, đã làm nổi bật được tổng quan lý thuyết về TTCK, một thị trường bậc cao của TTTC. Qua đó cho thấy được vai trò rất quan trọng của TTCK đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước trong quá trình tự do hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Chương 1 cũng đã hệ thống hóa một cách khá rõ ràng về mặt lý luận của lý thuyết thị trường hiệu quả và các tiêu chí cũng như cách thức để kiểm định mức độ hiệu quả của thị trường. Đây chính là cơ sở lý thuyết quan trọng làm căn cứ để đánh giá tình hình thị trường và phân tích mức độ hiệu quả TTCK Việt Nam được trình bày trong chương 2 và chương 3 tiếp theo của đề tài. Bên cạnh đó, trong chương 1 cũng đã trình bày tổng hợp một số kinh nghiệm phát triển TTCK của một số nước trong khu vực rất gần gũi với Việt Nam cụ thể là Trung Quốc, Hàn Quốc và Thái Lan để làm cơ sở tham khảo nhằm đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của TTCK Việt Nam trong tương lai.
  55. 44 Chương 2: ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
  56. 45 Nội dung chương 2 trình bày chi tiết kết quả nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam kể từ ngày đầu thành lập đến nay. Thông qua kết quả đánh giá thực trạng hoạt động của thị trường sẽ làm tiền đề để tiếp tục kiểm định mức độ hiệu quả của thị trường chứng khoán Việt Nam trong chương 3 tiếp theo. Kết luận về thực trạng hoạt động của thị trường chứng khoán trong chương này sẽ là một trong những cơ sở quan trọng để đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam trong tương lai được trình bày trong chương 4 của Luận văn này. 2.1 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 2.1.1 Sự hình thành và phát triển của Ủy ban chứng khoán Nhà nước Xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán là một mục tiêu quan trọng được Đảng và Nhà nước rất quan tâm nhằm xác lập một kênh huy động vốn dài hạn cho mục tiêu đầu tư và phát triển đất nước. Ngày 29/06/1995, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 361/QĐ-TTg thành lập Ban chuẩn bị tổ chức TTCK giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo và chuẩn bị điều kiện cần thiết cho việc xây dựng TTCK Việt Nam. Ngày 28/11/1996, Ủy ban chứng khoán Nhà nước được thành lập theo Nghị định số 75/CP của Chính phủ , UBCKNN là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng tổ chức và quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK. Nghị định số 90/2003-CP ban hành ngày 12/08/2003 đã thay thế Nghị định số 75/CP đã trao cho UBCKNN đầy đủ chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của một cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK. Cơ cấu tổ chức của UBCKNN theo Nghị định số 90/2003-CP bao gồm: • Lãnh đạo UBCKNN: Chủ tịch và các Phó chủ tịch, các ủy viên kiêm nhiệm. • Các Vụ và Trung tâm chức năng, Văn phòng, Thanh tra và Tạp chí chứng khoán có nhiệm vụ tham mưu giúp Chủ tịch UBCKNN thực hiện quản lý các lĩnh vực thuộc về chứng khoán và TTCK. Sau khi được thành lập, UBCKNN đã thực thi các chức năng và nhiệm vụ đạt nhiều kết quả, thể hiện tốt vai trò là cơ quan tổ chức và vận hành thị trường chứng khoán Việt
  57. 46 Nam. Tuy nhiên, nhằm tăng cường hiệu quả nhiệm vụ điều phối hoạt động của các Bộ ngành chức năng trong việc thúc đẩy sự phát triển của TTCK, ngày 19/02/2004 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 66/2004/NĐ-CP chuyển UBCKNN trực thuộc Bộ Tài chính. Việc chuyển UBCKNN vào Bộ Tài chính là một bước đi hợp lý trong quá trình phát triển TTCK ở Việt Nam. Với vai trò là cơ quan điều hành chính sách tài chính vĩ mô, cơ quan quản lý và phát triển thị trường tài chính, việc hoạch định và ban hành các chính sách quản lý nhà nước về TTCK của Bộ Tài chính và UBCKNN sẽ nhanh nhạy và hiệu quả hơn. Đồng thời, các chính sách tài chính khác được triển khai từ Bộ Tài chính sẽ tạo thêm sự đồng bộ và gắn kết đảm bảo yếu tố an toàn cho hoạt động của TTCK và các thị trường tài chính khác. 2.1.2 Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/07/1998 của Thủ tướng Chính phủ. TTGDCK Tp.HCM chính thức đi vào hoạt động 20/07/2000 và thực hiện phiên giao dịch chứng khoán đầu tiên vào ngày 28/07/2000, đã đánh dấu một cột mốc quan trọng trong đời sống kinh tế-xã hội của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Sự ra đời của TTGDCK Tp.HCM có ý nghĩa rất lớn trong việc tạo thêm một kênh huy động vốn dài hạn phục vụ nhu cầu CNH-HĐH đất nước, là một sản phẩm của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. TTGDCK Tp.HCM được Chính phủ giao cho một số chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn quản lý điều hành hệ thống giao dịch chứng khoán niêm yết tập trung tại Việt Nam. Đó là tổ chức, quản lý và điều hành việc mua-bán chứng khoán; quản lý điều hành hệ thống giao dịch; thực hiện hoạt động quản lý niêm yết, công bố thông tin, giám sát giao dịch, hoạt động đăng ký, lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán và một số hoạt động khác. Để thực hiện tốt các chức năng đó, Trung tâm có cơ cấu tổ chức đồng bộ bao gồm Ban giám đốc và các phòng ban chức năng, bao gồm: phòng Giám sát giao dịch, phòng Quản lý niêm yết, phòng Quản lý thành viên, phòng Công nghệ thông tin, phòng Thông tin thị trường, phòng Hành chính tổng hợp, phòng Kế toán, Trung tâm Đăng ký-Lưu ký-Thanh toán bù trừ và Ban quản lý dự án.
  58. 47 Trong những ngày đầu mới thành lập, trung tâm gặp rất nhiều khó khăn trong qua trình vận hành như các văn bản pháp quy điều chỉnh hoạt động của TTCK còn chưa đồng bộ, nhiều bất cập, nguồn nhân lực chưa có kinh nghiệm trong quản lý, điều hành; sự hiểu biết của công chúng đầu tư về TTCK còn rất hạn chế Tuy nhiên, với sự chỉ đạo kịp thời, hiệu quả của Chính phủ, các Bộ ngành liên quan, của UBCKNN cùng với sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ nhân viên, hoạt động của trung tâm ngày càng phát triển, đảm bảo thực hiện tốt vai trò tổ chức và điều hành các hoạt động giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung thông suốt, an toàn và hiệu quả. Tiến tới nâng cấp thành Sở giao dịch chứng khoán của Việt Nam vào năm 2007 như lộ trình đã được phê duyệt. 2.1.3 Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội Ngày 11/07/1998, Thủ tướng ban hành Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg về việc thành lập 02 Trung tâm giao dịch chứng khoán trực thuộc UBCKNN. Theo quyết định này, Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội là một đơn vị sự nghiệp có thu, Trung tâm có các nhiệm vụ chính sau: • Tổ chức, quản lý và điều hành việc mua bán chứng khoán. • Quản lý, điều hành hệ thống giao dịch chứng khoán. • Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ việc mua-bán chứng khoán, dịch vụ đăng ký-lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán. Việc xây dựng mô hình hoạt động cụ thể cho TTGDCK Hà Nội có ý nghĩa rất quan trọng đó là vừa đáp ứng nhu cầu huy động vốn của nền kinh tế vừa phải phù hợp với quy mô và lộ trình phát triển TTCK Việt Nam. Ngày 05/08/2003, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010. Theo đó, TTGDCK Hà Nội được xác định là thị trường giao dịch cổ phiếu đăng ký giao dịch, chuẩn bị điều kiện để sau năm 2010 chuyển thành thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung (OTC) của Việt Nam. Ngày 08/03/2005, TTGDCK Hà Nội đã chính thức khai trương hoạt động tại Tp.Hà Nội, đánh dấu thêm một bước tiến mới của TTCK Việt Nam.
  59. 48 2.2 TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA Qua 6 năm hoạt động, TTCK Việt Nam đã có sự phát triển mạnh về nhiều mặt, từ lúc chỉ có 2 loại cổ phiếu (REE và SAM) trong phiên giao dịch đầu tiên, đến nay đã có trên 750 loại chứng khoán được niêm yết và đăng ký giao dịch trên TTCK tập trung. Trên TTCK phi tập trung (OTC) cũng có hàng trăm loại chứng khoán khác đang được giao dịch sôi động. Đặc biệt, từ vài trăm nhà đầu tư trong những ngày đầu của thị trường đến nay đã có hơn 67 nghìn tài khoản giao dịch chứng khoán niêm yết được mở, chưa kể hàng chục nghìn nhà đầu tư tiềm năng hiện đang tham gia giao dịch các loại chứng khoán chưa niêm yết điều đó thể hiện sự tăng trưởng và phát triển mạnh của thị trường, cho thấy một sự phát triển lạc quan của TTCK Việt Nam trong tương lai. 2.2.1 Tình hình giao dịch tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp.Hồ Chí Minh 2.2.1.1 Hoạt động niêm yết trên thị trường chứng khoán a. Tình hình niêm yết chứng khoán Kể từ khi thị trường bắt đầu giao dịch phiên đầu tiên vào ngày 28/7/2000 với 2 loại cổ phiếu được niêm yết là REE và SAM với tổng giá trị niêm yết là 270 tỷ đồng. Đến nay qua 6 năm hoạt động, số chứng khoán niêm yết tại TTGDCK Tp.HCM đã lên đến con số hàng trăm bao gồm các loại cổ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ quỹ đầu tư với tổng giá trị niêm yết lên đến hơn 115.000 tỷ đồng. Có thể khái quát tình hình niêm yết chứng khoán tại TTGDCK Tp.HCM qua số liệu bảng 2.1. Qua số liệu thống kê ở bảng 2.1 cho thấy, tính đến hết ngày 31/07/2006 đã có 741 loại chứng khoán được niêm yết tại TTGDCK Tp.HCM với tổng giá trị niêm yết lên tới 115.141,6 tỷ đồng. Trong đó bao gồm 107.103,8 tỷ đồng trái phiếu các loại chiếm tỷ trọng hơn 93% tổng giá trị niêm yết toàn thị trường và 8.037,8 tỷ đồng cổ phiếu và chứng chỉ quỹ đầu tư của 45 công ty cổ phần và 01 công ty quản lý quỹ. Trái phiếu chính phủ vẫn là loại chứng khoán chiếm tỷ trọng lớn nhất cả về khối lượng
  60. 49 niêm yết và giá trị niêm yết. Tổng số trái phiếu phát hành sơ cấp và niêm yết trên thị trường ngày càng tăng nhanh qua các năm. Bảng 2.1: Quy mô niêm yết chứng khoán toàn thị trường chứng khoán (Tính đến ngày 31/07/2006) Toàn Chứng chỉ Chỉ tiêu ĐVT Cổ phiếu Trái phiếu thị trường quỹ đầu tư 1. Số CK niêm yết Loại CK 741 45 1 695 Tỷ trọng % 100 6,07 0,13 93,80 2. Khối lượng niêm yết CK 1.877.785.950 773.778.270 30.000.000 1.074.007.690 Tỷ trọng % 100 41,21 1,60 57,19 3. Giá trị niêm yết Tỷ đồng 115.141,6 7.737,8 300 107.103,8 Tỷ trọng % 100 6,72 0,26 93,02 “Nguồn: Phòng Thông tin thị trường – TTGDCK Tp.HCM” Hoạt động giao dịch trái phiếu thứ cấp từ cuối năm 2003 đến nay đã có nhiều khởi sắc, nhất là kể từ ngày 16/08/2004 khi TTGDCK Tp.HCM bỏ phương thức giao dịch khớp lệnh chuyển sang áp dụng phương thức giao dịch thỏa thuận cho toàn bộ trái phiếu niêm yết trên thị trường và áp dụng thời gian thanh toán T+1 kể từ ngày 01/02/2005 (trước đây là T+4). Bên cạnh đó, việc áp dụng nghiệp vụ giao dịch trái phiếu có kỳ hạn (repo) của các Công ty chứng khoán thành viên cũng góp phần đáng kể vào việc đẩy mạnh giao dịch thứ cấp của trái phiếu. Để thấy rõ hơn tình hình niêm yết cổ phiếu và chứng chỉ quỹ đầu tư cụ thể trên thị trường trong thời gian qua, có thể nghiên cứu qua số liệu bảng 2.2. Qua số liệu thống kê ở bảng này cho thấy, tính đến hết ngày 31/07/2006 đã có tổng cộng 45 công ty cổ phần và 01 quỹ đầu tư niêm yết cổ phiếu, chứng chỉ quỹ tại TTGDCK Tp.HCM với tổng giá trị niêm yết trên 7.564 tỷ đồng (tính theo giá trị tại thời điểm các tổ chức đăng ký niêm yết). Số lượng công ty niêm yết mới qua các năm chưa nhiều, bình quân giá trị niêm yết trên thị trường qua 6 năm khoảng trên 1.200 tỷ đồng. Trong đó, chỉ tính