Luận văn Phát triển du lịch Tây Nguyên đến năm 2020 đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Phát triển du lịch Tây Nguyên đến năm 2020 đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- luan_van_phat_trien_du_lich_tay_nguyen_den_nam_2020_dap_ung.pdf
Nội dung text: Luận văn Phát triển du lịch Tây Nguyên đến năm 2020 đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG BĐẠỘ IGIÁO HỌC DKINHỤC VÀ TẾ Đ TP.ÀO HTỒẠO CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH\[ T Ế TP. HỒ CHÍ MINH \[ NGUYỄN DUY MẬU NGUYỄN DUY MẬU PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÂY NGUYÊN ĐẾN NĂM 2020 ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÂY NGUYÊN ĐẾN KINH TẾ QUỐC TẾ NĂM 2020 ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP QU ỐC TẾ Chuyên ngành : Kinh tế Chính trị Mã số : 62.31.01.01 Chuyên ngành : Kinh tế Chính trị Mã số : 63.3.01.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. Nguyễn Minh Tuấn 2. TS. Nguyễn Văn Chiển TP.Thành HỒ ph CHÍố H MINHồ Chí Minh - NĂM - 2011 2011
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH \[ NGUYỄN DUY MẬU PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÂY NGUYÊN ĐẾN NĂM 2020 ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Chuyên ngành : Kinh tế Chính trị Mã số : 62.31.01.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: Hướng dẫn chính: TS. Nguyễn Minh Tuấn Hướng dẫn phụ: TS. Nguyễn Văn Chiển
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận án Nguyễn Duy Mậu
- MỤC LỤC PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG BIỂU DANH MỤC CÁC HÌNH LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG BIỂU DANH MỤC CÁC HÌNH PHẦN MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài luận án 1 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 2 3. Mục đích và ý nghĩa nghiên cứu của luận án 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4 5. Phương pháp nghiên cứu 5 6. Đóng góp mới của luận án 5 7. Bố cục luận án 7 CHƯƠNG 1 8
- CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DU LỊCH 8 1.1. Du lịch và thị trường du lịch 8 1.1.1. Du lịch và đặc điểm ngành du lịch 8 1.1.2. Thị Trường du lịch, chức năng và phân loại thị trường du lịch 13 1.1.2.1. Khái niệm chung về thị trường du lịch 13 1.1.2.2. Chức năng của thị trường du lịch 14 1.1.2.3. Phân loại thị trường du lịch theo một số tiêu thức thông dụng 15 1.1.3. Khái niệm về khách du lịch, loại hình du lịch 17 1.1.3.1. Khách du lịch 17 1.1.3.2. Loại hình du lịch 19 1.1.4. Khái niệm sản phẩm du lịch, điểm du lịch 23 1.1.4.1. Sản phẩm du lịch 23 1.1.4.2. Điểm du lịch 24 1.1.5. Kênh phân phối sản phẩm lữ hành trên thị trường du lịch quốc tế 25 1.1.5.1. Hệ thống các kênh phân phối sản phẩm lữ hành quốc tế 25 1.1.5.2. Hệ thống đại lý bán lẻ tại các thị trường gửi khách 27 1.1.5.3. Hệ thống các doanh nghiệp lữ hành tại các thị trường gửi khách 29 1.1.5.4. Hệ thống các doanh nghiệp lữ hành tại thị trường nhận khách 30 1.1.5.5. Một số vận dụng đối với các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam 31 1.2. Vị trí, vai trò của ngành du lịch đối với sự phát triển kinh tế - xã hội 32 1.2.1. Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào nghiên cứu dịch vụ du lịch .32 1.2.2. Vị trí của ngành du lịch 34 1.2.3. Vai trò của ngành du lịch 36 1.2.3.1. Vai trò của ngành du lịch đối với nền kinh tế 36 1.2.3.2. Vai trò du lịch trong lĩnh vực văn hoá - xã hội 39
- 1.2.4. Tác động giữa hội nhập kinh tế quốc tế và du lịch 41 1.3. Phát triển du lịch đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế 45 1.3.1. Phát triển bền vững 45 1.3.2. Phát triển du lịch bền vững 46 1.3.3. Các điều kiện phát triển du lịch 48 CHƯƠNG 2 50 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN TÂY NGUYÊN 50 2.1. Tổng quan về Tây Nguyên 50 2.1.1 Tài nguyên tự nhiên của Tây Nguyên 51 2.1.1.1. Địa hình, đất đai, khoáng sản 51 2.1.1.2. Thuỷ văn 51 2.1.1.3. Rừng Tây Nguyên 52 2.1.1.4. Khí hậu 53 2.1.2. Tài nguyên nhân văn của các tỉnh Tây Nguyên 54 2.1.2.1. Nếp sống nương rẫy 54 2.1.2.2. Lễ hội 55 2.1.2.3. Văn hóa kiến trúc 56 2.1.2.4. Văn hóa dân gian 58 2.1.3. Hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật 60 2.1.3.1. Về giao thông 60 2.1.3.2. Hệ thống cấp điện 62 2.1.3.3. Hệ thống cấp nước 62 2.1.3.4. Hệ thống bưu chính viễn thông 62 2.1.4. Cơ sở hạ tầng xã hội 62 2.1.4.1. Cơ sở đào tạo và nghiên cứu 62
- 2.1.4.2. Các công trình dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe 64 2.1.4.3. Hệ thống ngân hàng, tín dụng 64 2.1.5. Vị trí của du lịch Tây Nguyên trong hệ thống du lịch Việt Nam 64 2.1.5.1. Lợi thế so sánh của du lịch Tây Nguyên 64 2.1.5.2. Về tài nguyên du lịch 65 2.1.5.3. Về cơ sở hạ tầng 66 2.1.5.4. Vị trí, vai trò của du lịch Tây nguyên trong chiến lược phát triển vùng và quốc gia 66 2.1.5.5. Điều kiện kinh tế - xã hội 67 2.1.6. Các nguồn lực khác 69 2.2. Thực trạng hoạt động du lịch trên địa bàn Tây Nguyên 70 2.2.1. Khách du lịch và thu nhập từ du lịch 70 2.2.2. Cơ sở vật chất cho du lịch 76 2.2.3. Khai thác tài nguyên du lịch phát triển loại hình sản phẩm du lịch 78 2.2.4. Tổ chức không gian lãnh thổ 80 2.2.5 Công tác xúc tiến, quảng bá liên kết phát triển du lịch 81 2.2.6. Đầu tư phát triển du lịch 83 2.2.6.1. Chính sách thu hút đầu tư du lịch 83 2.2.6.2. Đầu tư phát triển du lịch 87 2.2.7. Đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực cho phát triển du lịch 89 2.2.8. Quản lý Nhà nước về du lịch và cơ chế, chính sách phát triển du lịch 90 2.3. Tác động của du lịch đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế 93 2.3.1. Tác động của du lịch đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội Tây Nguyên 93 2.3.2. Tác động của du lịch đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế 96
- 2.3.3. Tác động của du lịch với hội nhập kinh tế quốc tế 98 2.4. Đánh giá chung về các điểm mạnh, điểm yếu; cơ hội và thách thức trong phát triển du lịch Tây Nguyên 99 2.4.1. Điểm mạnh, điểm yếu 99 2.4.1.1.Điểm mạnh 99 2.4.1.2. Điểm yếu 103 2.4.2. Cơ hội và thách thức đối với phát triển du lịch các tỉnh Tây Nguyên đến năm 2020 108 2.4.2.1. Những cơ hội 108 2.4.2.2. Những thách thức 109 CHƯƠNG 3 PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÂY NGUYÊN ĐẾN NĂM 2020 TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 115 3.1. Dự báo phát triển du lịch thế giới, khu vực và Việt Nam đến năm 2020 115 3.1.1. Dự báo xu hướng phát triển du lịch thế giới và khu vực đến năm 2020 115 3.1.1.1. Tình hình chung của du lịch thế giới 115 3.1.1.2. Xu hướng phát triển của du lịch thế giới 116 3.1.1.3. Xu hướng phát triển du lịch vùng châu Á - Thái Bình Dương và Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 117 3.1.2. Định hướng phát triển kinh tế - xã hội Tây Nguyên đến năm 2020 122 3.2. Quan điểm, mục tiêu, định hướng và giải pháp phát triển du lịch Tây Nguyên đến năm 2020 125 3.2.1. Quan điểm phát triển du lịch 125 3.2.2. Mục tiêu phát triển du lịch 126 3.2.3. Định hướng phát triển du lịch 127 3.3. Các giải pháp để phát triển du lịch Tây Nguyên đến năm 2020 128 3.3.1. Xây dựng chiến lược thị trường cho phát triển du lịch Tây Nguyên 128
- 3.3.1.1 Thị trường mục tiêu của du lịch Tây Nguyên 129 3.3.1.2 Xác định chiến lược các sản phẩm du lịch 132 3.3.2. Giải pháp bảo vệ tài nguyên và môi trường du lịch 140 3.3.3. Giải pháp về công tác xúc tiến quảng bá du lịch 143 3.3.4. Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực cho du lịch 146 3.3.5. Giải pháp phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng 148 3.3.6. Giải pháp đầu tư và thu hút vốn đầu tư 150 3.3.7. Giải pháp tổ chức quản lý nhà nước về du lịch 155 3.3.8. Nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ khách sạn, nhà hàng 158 3.3.9. Phát triển các hình thức liên kết các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn khu vực Tây Nguyên 160 3.4. Kiến nghị 168 3.4.1. Kiến nghị với Chính phủ, các Bộ, Ngành 168 3.4.2. Kiến nghị đối với các cơ quan quản lý các tỉnh Tây Nguyên 169 KẾT LUẬN 170 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO A. Tiếng Việt B. Tiếng nước ngoài DANH MỤC PHỤ LỤC DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC PHỤ LỤC
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT AFTA Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (ASEAN Free Trade Area) APEC Tổ chức Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (Asia Pacific Economic Cooperation) ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asian Nations) BOO Đầu tư xây dựng - quản lý - sử dụng BOT Xây dựng - kinh doanh - chuyển giao BT Xây dựng - chuyển giao BTO Xây dựng - chuyển giao - kinh doanh CNH-HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CSHT Cơ sở hạ tầng CSHTKT Cơ sở hạ tầng kinh tế DNNVV Doanh nghiệp nhỏ và vừa DNNN Doanh nghiệp nhà nước ĐBDTTS Đồng bào dân tộc thiểu số FDI Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài GDP Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)
- HĐND Hội đồng nhân dân HNKTQT Hội nhập kinh tế quốc tế IMF Quỹ tiền tệ thế giới (International Monetary Fund) KT-XH Kinh tế - xã hội KTTT Kinh tế thị trường LHQ Liên hợp quốc NSNN Ngân sách nhà nước ODA Nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức QLNN Quản lý nhà nước XHCN Xã hội chủ nghĩa XDCB Xây dựng cơ bản UBND Uỷ ban nhân dân UNWTO Tổ chức Du lịch thế giới (World Tourism Organization) WB Ngân hàng thế giới (World Bank) WTO Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization)
- DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Diện tích và dân số các tỉnh Tây Nguyên 50 Bảng 2.2. Khí hậu khu vực Tây Nguyên 53 Bảng 2.3. Một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu của các tỉnh Tây Nguyên 68 Bảng 2.4. Lượng khách du lịch quốc tế đến Tây Nguyên 71 Bảng 2.5. Lượng khách du lịch nội địa tới Tây Nguyên đến năm 2010 72 Bảng 2.6. Doanh thu từ Du lịch 74 Bảng 2.7. Hiện trạng cơ sở lưu trú của Lâm Đồng giai đoạn đến năm 2010 77 Bảng 2.8: Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2008-2010 85 Bảng 2.9. Vốn đầu tư cho phát triển du lịch giai đoạn 2000 - 2010 của tỉnh Lâm Đồng 87 Bảng 2.10. Tỷ lệ khách quốc tế đến Tây Nguyên 106 Bảng 2.11. Tỷ lệ khách nội địa đến Tây Nguyên 106 Bảng 3.1. Dự báo tăng trưởng và cơ cấu kinh tế cả nước và vùng Tây Nguyên đến năm 2020 124
- DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 2.1. Thực tế khách quôc tế đến Tây Nguyên giai đoạn 2000 - 2010 71 Hình 2.2. Thực tế khách nội địa đến Tây Nguyên giai đoạn 2000 - 2010 73 Hình 2.3. Thực tế doanh thu từ du lịch của các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn 2000 - 2010 75
- 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận án Ngành du lịch Việt Nam trong một thời gian dài đã khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế quốc dân, đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế xã hội. Trong tiến trình đổi mới ở Việt Nam, du lịch đã và đang là ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh tăng trưởng và phát triển kinh tế, phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế nước ta. Trong quá trình hội nhập quốc tế, du lịch làm gia tăng sự hiểu biết, thân thiện, quảng bá nền văn hóa của Việt Nam với các nước. Có lẽ không ngành kinh tế nào có cơ hội phát triển và đóng góp vào quá trình hội nhập quốc tế như du lịch. Phát triển du lịch được nhìn nhận là “ngành công nghiệp không khói”, “con gà đẻ trứng vàng”, rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp. Tây Nguyên gồm 5 tỉnh: Đăk Lăk, Kon Tum, Gia Lai, Đăk Nông và Lâm Đồng chiếm 16,5% diện tích của cả nước, ở vào vị trí trung tâm nam Đông Dương, có những hành lang tự nhiên thông với nam Lào, đông bắc Campuchia, có hệ thống đường giao thông liên hoàn nối các tỉnh duyên hải miền Trung và Đông Nam bộ, có các cửa khẩu quốc tế trên tuyến hành lang Đông Tây và không quá xa các cảng nước sâu như cảng Dung Quất, Chân Mây, Nhơn Hội. Tây Nguyên có các vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh, có điều kiện phát triển nền kinh tế mở. Tây Nguyên có tiềm năng lớn về tự nhiên, xã hội nhân văn, từ sau ngày giải phóng (1975) nền kinh tế đã có sự chuyển biến sâu sắc, chuyển dần từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế chú trọng sản xuất hàng hóa, khai thác lợi thế về các nguồn lực đất đai, nhân lực, văn hóa bản địa Trong quá trình đó, du lịch là ngành kinh tế đang được “đánh thức dậy sau thời gian ngủ quên”, đã có những đóng góp nhất định cho sự tăng trưởng của nền kinh tế.
- 2 Từ sau quá trình đổi mới (1986) du lịch được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần quan trọng cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập, du lịch các tỉnh Tây Nguyên bộc lộ những bất cập trong quá trình phát triển. Tuy được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn, song đóng góp của du lịch còn hạn chế trong tổng sản phẩm nội địa, thiếu sự phát triển bền vững, đầu tư chưa tương xứng với tiềm năng, sản phẩm du lịch nghèo nàn, đơn điệu, thị trường du lịch chậm được mở rộng, quản lý nhà nước còn yếu. Đặc biệt, du lịch Tây Nguyên thiếu sự phát triển đồng bộ, còn khép kín, chưa tạo ra quá trình liên kết vùng để vừa phát triển, vừa bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Quan điểm bảo vệ quốc phòng an ninh vững chắc đi liền với phát triển kinh tế ở Tây Nguyên chưa sinh động. Việc nghiên cứu một cách khoa học và có hệ thống để tìm ra giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển du lịch trên địa bàn Tây Nguyên là yêu cầu và nhiệm vụ cấp thiết. Xuất phát từ lý luận và thực tiễn, tác giả chọn đề tài: “Phát triển du lịch Tây Nguyên đến năm 2020 đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế”. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Tại Việt Nam, các công trình nghiên cứu là các luận án Tiến sĩ kinh tế đã bảo vệ thành công tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, đó là: - Đề tài: Điều kiện và giải pháp chủ yếu để phát triển du lịch Campuchia thành ngành kinh tế mũi nhọn (2004) của DukVanna. Luận án chủ yếu làm nổi bật các điều kiện về tự nhiên, kinh tế xã hội của Campuchia để phát triển du lịch; các giải pháp chủ yếu để đưa du lịch Campuchia thành ngành kinh tế mũi nhọn. Luận án đã đưa ra hệ thống các lý luận cơ bản về phát triển du lịch và những yếu tố để định giá du lịch Campuchia. - Đề tài luận án Tiến sĩ kinh tế: “Phát triển du lịch bền vững ở Phong Nha-Kẻ bàng” (2007) của Trần Tiến Dũng.
- 3 Luận án phân tích các quan niệm về hệ thống đánh giá về du lịch bền vững, các kinh nghiệm du lịch bền vững và không bền vững trên thế giới và đề xuất các giải pháp phát triển du lịch bền vững Phong Nha-Kẻ Bàng. Đây là luận án về du lịch bền vững ở một vùng du lịch cụ thể, có tính đặc trưng. Tuy nhiên, các quan niệm về du lịch bền vững cũng như chỉ tiêu đánh giá được tác giả quan tâm nghiên cứu. - Đề tài luận án Tiến sĩ kinh tế: “Hoàn thiện quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng” (2008) của Nguyễn Tấn Vinh. Đây là luận án đi sâu về quản lý nhà nước trên địa bàn một tỉnh, hệ thống hoá các lý thuyết về quản lý nhà nước trong du lịch và phân tích thực trạng quản lý nhà nước trong du lịch, đề xuất các giải pháp mang tính khả thi. Tác giả quan tâm đến các giải pháp quản lý nhà nước trong du lịch làm cơ sở khi nghiên cứu du lịch Tây Nguyên. - Đề tài luận án Tiến sĩ kinh tế: “Phát triển du lịch gắn với xoá đói giảm nghèo ở Lào Cai” (2010) của Phan Ngọc Thắng. Đề tài đi sâu phân tích các lý luận về phát triển du lịch, đặc trưng của luận án là gắn với quá trình xoá đói, giảm nghèo ở một địa phương, với các giải pháp khả thi. Cơ sở lý luận của luận án và giải pháp phát triển du lịch là những điểm mới cho tác giả nghiên cứu. - Đề tài luận án Tiến sĩ kinh tế: “Phát triển kinh doanh lưu trú du lịch tại vùng du lịch Bắc bộ của Việt Nam” (2011) của Hoàng Thị Lan Hương. Đề tài chủ yếu đi sâu vào phân tích kinh doanh lưu trú một lĩnh vực của kinh doanh du lịch, các giải pháp phát triển kinh doanh lưu trú là những đề xuất có giá trị khi nghiên cứu tại địa bàn Tây Nguyên. Đề tài nghiên cứu của luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu về phát triển du lịch trên địa bàn Tây Nguyên.
- 4 Qua nghiên cứu, tác giả thấy rằng các tài liệu đã nghiên cứu các lĩnh vực cụ thể của ngành du lịch, chủ yếu tập trung vào các nội dung để phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn của địa phương. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên đi sâu vào một lĩnh vực hoặc một địa phương, ví dụ như tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp du lịch, nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, quản lý nhà nước về du lịch, phát triển kinh doanh lưu trú trong du lịch Luận án nghiên cứu để tìm ra giải pháp phát triển du lịch trên địa bàn Tây Nguyên một cách tổng thể, toàn diện, điểm mới là nghiên cứu trên một địa bàn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Tác giả luận án kế thừa, vận dụng những luận điểm các công trình đã nghiên cứu trước đây, từ đó đưa ra hướng nghiên cứu cho mình. Mục tiêu của luận án là đưa ra các quan điểm phát triển, định hướng phát triển, giải pháp phát triển du lịch phù hợp với điều kiện phát triển của Tây Nguyên, chính vì vậy tác giả xây dựng cơ sở lý luận và phương pháp luận dựa trên các cứ liệu mà tác giả thu thập, phân tích, từ đó nâng cao tính khoa học và thực tiễn của luận án. 3. Mục đích và ý nghĩa nghiên cứu của luận án Trên cơ sở lý luận chung về du lịch, đề tài đi sâu phân tích, đánh giá tiềm năng và thực trạng về du lịch trên địa bàn Tây Nguyên. Từ đó đề xuất quan điểm, mục tiêu, giải pháp các kiến nghị phát triển du lịch Tây Nguyên đến năm 2020, góp phần đưa ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp quan trọng vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Tây Nguyên. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: ngành du lịch 5 tỉnh Tây Nguyên. - Phạm vi nghiên cứu: + Về không gian: toàn bộ hoạt động du lịch trên địa bàn Tây Nguyên + Về thời gian: Đánh giá thực trạng hoạt động du lịch trên địa bàn Tây Nguyên giai đoạn 2000 - 2010, định hướng và giải pháp phát triển đến năm 2020.
- 5 5. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng các phương pháp sau đây: - Phương pháp biện chứng duy vật: nghiên cứu phát triển du lịch Tây Nguyên trong mối quan hệ hữu cơ với du lịch thế giới, khu vực và Việt Nam, với các lĩnh vực hoạt động khác. - Phương pháp duy vật lịch sử: hoạt động du lịch được nghiên cứu giai đoạn 2001-2010 trong khu vực Tây Nguyên. - Phương pháp tổng hợp: toàn bộ hoạt động liên quan đến du lịch để khái quát và đánh giá. - Phương pháp hệ thống: phân tích hệ thống các hoạt động du lịch để đáp ứng thực trạng đi đến đưa ra các giải pháp phù hợp. - Phương pháp thống kê: sử dụng các số liệu đang hoạt động du lịch để phân tích và so sánh. - Phương pháp điều tra, khảo sát: tiến hành nghiên cứu một số thực tiễn hoạt động du lịch ở địa phương; phỏng vấn các doanh nghiệp và du khách về du lịch. 6. Đóng góp mới của luận án - Hệ thống hóa các khái niệm về du lịch, thị trường du lịch, chức năng và phân loại các thị trường du lịch. Đồng thời, luận án đưa ra 13 loại hình du lịch phổ biến hiện nay trên thế giới; làm rõ sản phẩm du lịch và mối quan hệ giữa tài nguyên du lịch hấp dẫn với sản phẩm du lịch hấp dẫn và thị trường du lịch hấp dẫn. Phân tích kênh phân phối sản phẩm lữ hành và hệ thống các doanh nghiệp lữ hành tại thị trường nhận khách và giữ khách, vận dụng cho các doanh nghiệp Việt Nam. Làm rõ những lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về dịch vụ, du lịch làm cơ sở lý luận cho định hướng phát triển du lịch. Phân tích vai trò của du lịch đối với tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và các tác động tới ngành kinh tế, xã hội khác. Tác động giữa hội nhập kinh tế quốc tế và du lịch, những yêu cầu nhằm đáp ứng phát
- 6 triển du lịch trong tiến trình hội nhập. Luận án làm rõ khái niệm, mục tiêu, nội dung và điều kiện phát triển du lịch bền vững. - Đánh giá toàn diện tiềm năng và cơ sở phát triển du lịch, vị trí, vai trò và lợi thế của du lịch Tây Nguyên trong phát triển vùng và quốc gia. Làm rõ thực trạng hoạt động du lịch trên địa bàn qua lượng khách và thu nhập từ du lịch; cơ sở vật chất cho du lịch; khai thác tài nguyên du lịch phát triển các loại hình sản phẩm du lịch. Luận án đánh giá về tổ chức không gian lãnh thổ, công tác xúc tiến, quảng bá liên kết; đầu tư phát triển du lịch; đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực và cơ chế, chính sách, quản lý nhà nước về du lịch. Đồng thời, luận án phân tích tác động của du lịch với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của du lịch Tây Nguyên. - Dự báo xu hướng phát triển du lịch thế giới, khu vực và Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030; định hướng phát triển kinh tế - xã hội Tây Nguyên đến năm 2020 làm cơ sở cho hoạch định phát triển du lịch Tây Nguyên. Luận án đề xuất bảy quan điểm phát triển, các mục tiêu và bảy định hướng để phát triển du lịch Tây Nguyên đến năm 2020. Luận án đưa ra chín giải pháp để phát triển du lịch Tây Nguyên đến năm 2020 trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Một là, xây dựng chiến lược thị trường du lịch. Hai là, bảo vệ tài nguyên và môi trường du lịch. Ba là, công tác xúc tiến và quảng bá du lịch. Bốn là, đào tạo nguồn nhân lực cho du lịch. Năm là, phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng. Sáu là, đầu tư và thu hút vốn đầu tư. Bảy là, tổ chức quản lý nhà nước về du lịch.
- 7 Tám là, nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ khách sạn, nhà hàng. Chín là, phát triển các hình thức liên kết các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn khu vực Tây Nguyên. Đồng thời để thực hiện tốt các giải pháp, luận án đã có 04 kiến nghị với Chính phủ, Bộ, Ngành và 03 kiến nghị với các cơ quan quản lý các tỉnh Tây Nguyên. 7. Bố cục luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung đề tài được chia làm 3 chương: • Chương 1. Cơ sở lý luận chung về du lịch. • Chương 2. Thực trạng hoạt động du lịch trên địa bàn Tây Nguyên. • Chương 3. Phát triển du lịch Tây Nguyên đến năm 2020 trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- 8 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DU LỊCH 1.1. Du lịch và thị trường du lịch 1.1.1. Du lịch và đặc điểm ngành du lịch Du lịch là một hiện tượng tồn tại cùng với sự phát triển của loài người, là một trong những nhu cầu ngày càng trở thành tất yếu giúp con người điều hòa cuộc sống của chính mình trong xã hội và tự nhiên. Sự xuất hiện nhu cầu du lịch xuất phát từ mong muốn tạm thời rời bỏ cuộc sống thường ngày, bằng phương tiện ôn hòa tới một nơi khác ngoài cư trú nhằm mục đích phục hồi sức khỏe, nâng cao hiểu biết và không nhằm tạo ra thu nhập. Từ thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX du lịch vẫn được coi là đặc quyền của tầng lớp giàu có, quý tộc và người ta chỉ coi đây là hiện tượng cá biệt trong đời sống kinh tế-xã hội. Thời kỳ này, người ta xem du lịch như một hiện tượng xã hội làm phong phú thêm cuộc sống và sự nhận thức của con người. Du lịch là tổng hợp các hiện tượng và mối quan hệ nảy sinh từ việc đi lại, lưu trú của những người ngoài địa phương nhằm mục đích nghỉ ngơi, tiêu dùng những thu nhập mà họ có được, không có mục đích định cư và hoạt động kinh tế. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động làm cho du lịch trở thành một hoạt động kinh tế. Du lịch với tư cách là một ngành kinh tế thực sự xuất hiện giữa thế kỷ XIX. Thời kỳ Ai Cập và Hy lạp cổ đại: hiện tượng đi du lịch đã xuất hiện, đó là các chuyến đi của các nhà chính trị và thương gia. Sau khi phát hiện ra nguồn nước khoáng có khả năng chữa bệnh, loại hình du lịch chữa bệnh xuất hiện. Du lịch thời kỳ này mang tính tự phát do các cá nhân tự tổ chức. Thời kỳ văn minh La mã: Người La mã tổ chức các chuyến đi tham quan các ngôi đền và Kim tự tháp Ai Cập, các ngôi đền ven Địa Trung Hải. Thời kỳ này xuất
- 9 hiện loại hình công vụ và tham quan. Đó là hành trình của các thương gia, các hầu tước, bá tước Con người bắt đầu muốn có các chuyến đi tìm hiểu thế giới xung quanh, điều đó thúc đẩy số người đi du lịch tăng lên và du lịch bắt đầu trở thành cơ hội kinh doanh. Thời kỳ phong kiến: Hoạt động du lịch hình thành rộng rãi hơn, các chuyến đi nhằm mục đích lễ hội ngắm cảnh, giải trí của các tầng lớp vua chúa, quan lại phát triển mạnh, các khu vực có giá trị chữa bệnh và phục hồi sức khoẻ thu hút khách du lịch. Các hoạt động buôn bán mở rộng ra nhiều nước, loại hình du lịch công vụ phát triển. Giai đoạn này, du lịch với tư cách là ngành kinh tế định hình rõ hơn. Thời kỳ cận đại: Du khách tập trung chủ yếu vào các nhà tư bản giàu có, giới quý tộc trong xã hội. Hoạt động du lịch và kinh doanh du lịch mới chỉ tập trung ở một số nước có nền kinh tế phát triển. Thời kỳ hiện đại: Sự phát triển của công nghệ và phát minh về khoa học tạo cho du lịch bước tiến nhanh chóng, đó là sự xuất hiện của xe lửa, ô tô và đặc biệt là máy bay, du lịch trở thành nhu cầu quan trọng đối với con người. Du lịch với tư cách là ngành kinh tế chỉ thực sự xuất hiện từ giữa thế kỷ XIX. Đó là năm 1841 Thomas Cook, người Anh tổ chức chuyến đi đông người lần đầu tiên đi du lịch trong nước, sau đó ra nước ngoài đánh dấu sự ra đời của tổ chức kinh doanh du lịch. Vào những năm 1880 các nước Pháp, Thụy Sĩ, Áo có các hoạt động kinh doanh khách sạn hiện đại rất phát triển. Đặc biệt từ những năm 1950 trở về đây, ngành du lịch phát triển mạnh mẽ và trở thành ngành kinh tế hết sức quan trọng của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Các thành tựu về khoa học đã thúc đẩy du lịch trở thành nhu cầu quan trọng không chỉ một bộ phận dân cư mà từ những năm 1950 trở đi, du lịch trở thành nhu cầu có tính phổ biến trong quảng đại quần chúng. Hoạt động du lịch gắn liền với cuộc sống hiện đại, khi thu nhập tăng lên, thời gian nghỉ ngơi kéo dài, cách mạng công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, du lịch là ngành kinh tế nền tảng quan trọng của một quốc gia phát triển. Khái niệm du lịch, tuy có nhiều cách hiểu
- 10 khác nhau song từ khi thành lập Hiệp hội quốc tế các tổ chức du lịch IUOTO (International Union of Travel Organition) năm 1925 tại Hà Lan thì dần được hoàn thiện. Nhìn từ góc độ kinh tế thì nhà kinh tế học Kalfiostic cho rằng: "Du lịch là sự di chuyển tạm thời của các cá nhân hay tập thể từ nơi ở đến nơi khác nhằm thoả mãn các nhu cầu tinh thần, đạo đức do đó tạo nên các hoạt động kinh tế". - Michael M.Coltman cho rằng: “Du lịch là quan hệ tương hỗ do sự tương tác của bốn nhóm: du khách, cơ quan cung ứng du lịch, chính quyền và dân cư tại các nơi đến du lịch tạo nên” [54]. - Hai giáo sư người Thụy Sĩ Hunziker và Krapf đã đưa ra một định nghĩa khá tổng quát: “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ và hiện tượng bắt nguồn từ việc đi lại và lưu trú tạm thời của con người, nơi họ lưu lại không phải là nơi ở thường xuyên hoặc là nơi làm việc kiếm tiền sinh sống”. - Theo IUOTO (International Union of Offinal Travel Organition): "Du lịch được hiểu là hoạt động du hành đến nơi khác với địa điểm cư trú của mình nhằm mục đích không phải để làm ăn, tức không phải làm một nghề hay một việc kiếm tiền sinh sống". Nói tóm lại, việc đưa ra nhiều định nghĩa về du lịch của các học giả là tuỳ vào từng góc độ tiếp cận của họ, nhưng không phải tất cả đều hoàn chỉnh. Vì vậy khái niệm được đưa ra của hội nghị Liên Hợp quốc về du lịch họp ở Roma- Italia(21/8 - 5/9/1963): “Du lịch là cả một quy trình gồm tất cả các hoạt động của du khách từ lúc dự trù chuyến đi cho đến lúc di chuyển và đến nơi cư trú, ăn ở, mua sắm, giải trí, giao tiếp, nghỉ ngơi đến lúc trở về nhà và hồi tưởng”. Định nghĩa này được đánh giá là đầy đủ vì vừa chỉ rõ được nhu cầu, mục đích của du khách và nội dung của hoạt động du lịch. Hội nghị quốc tế về thống kê du lịch ở Ottawa, Canada, 24-28/6/1991 đã đưa ra định nghĩa về du lịch như sau: “Du lịch là các hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài môi trường thường xuyên (nơi ở thường xuyên của mình) trong một
- 11 khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của chuyến đi không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi của vùng tới thăm”. Trong đó: “Môi trường thường xuyên” có nghĩa là loại trừ phạm vi các chuyến đi trong phạm vi của nơi ở (nơi ở thường xuyên) và các chuyến đi có tính chất thường xuyên hàng ngày (các chuyến đi thường xuyên định kỳ có tính chất phường hội giữa nơi ở và nơi làm việc và các chuyến đi phường hội khác có tính chất thường xuyên hàng ngày). “Khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch quy định trước” nghĩa là để loại trừ sự di cư trong một thời gian dài. Không phải là “tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi của vùng tới thăm” có nghĩa là loại trừ việc di cư để làm việc tạm thời. Từ góc độ nghiên cứu chúng tôi đưa ra định nghĩa: “Du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp bao gồm các hoạt động tổ chức, hướng dẫn du lịch, sản xuất trao đổi hàng hoá và dịch vụ của những tổ chức, xí nghiệp đặc biệt, nhằm đáp ứng nhu cầu về đi lại, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí và các nhu cầu khác của khách du lịch”. Thị trường du lịch có chức năng cơ bản là mua và bán các dịch vụ, hàng hoá du lịch. Thị trường du lịch tham gia vào quá trình tái sản xuất xã hội, tạo ra những điều kiện cần thiết cho sự cân bằng nền kinh tế quốc dân. Thị trường du lịch tạo ra các đòn bẩy kinh tế (ví dụ: giá cả, tỷ giá, tiền hoa hồng, phần trăm lợi tức ) kích thích mở rộng sản xuất và tiêu thụ. Điều đó có nghĩa là bằng cơ chế thị trường, bằng con đường kinh tế buộc các nhà sản xuất phải thay đổi sản xuất phù hợp với thị trường, phù hợp với yêu cầu của khách du lịch. Ngược lại, thị trường du lịch còn tác động đến khách du lịch bằng cách chỉ ra các sản phẩm bán trên thị trường du lịch có thể thoả mãn nhu cầu của họ.
- 12 Du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp và có một số đặc điểm sau: - Du lịch là ngành phụ thuộc vào tài nguyên du lịch. Bất cứ một du khách nào, với động cơ và hình thức du lịch ra sao thì yêu cầu có tính phổ biến phải đạt được đối với họ là được tham quan, vui chơi giải trí, tìm hiểu thưởng thức các giá trị về thiên nhiên, lịch sử, văn hoá, xã hội của một xứ sở. Đó là các bãi biển đầy ánh nắng, các thác nước, các núi non hang động kỳ thú, các giống loài động thực vật quý hiếm, các thành quách lâu đài, các đền chùa với nhiều kiến trúc cổ và những ngày lễ hội; các trung tâm kinh tế, văn hoá lớn; các rừng quốc gia, các khu di chỉ Tài nguyên du lịch có loại do thiên nhiên tạo ra nhưng có loại do quá trình phát triển lịch sử qua nhiều thế hệ của con người tạo ra. Đây chính là cơ sở khách quan để hình thành nên các tuyến, điểm du lịch. - Du lịch là ngành kinh doanh tổng hợp phục vụ nhu cầu tiêu dùng đa dạng của khách du lịch. Những người đi du lịch dù thuộc đối tượng nào và với nguồn tiền của cá nhân hay tập thể thì trong thời gian đi du lịch, mức tiêu dùng của họ thường cao hơn so với tiêu dùng bình quân của đại bộ phận dân cư. Chưa kể một bộ phận lớn khách du lịch quốc tế là các tầng lớp thượng lưu: những thương gia, những nhà kinh doanh, trí thức, chính khách giàu có. Vì vậy ngành du lịch, phải là một ngành kinh doanh tổng hợp phục vụ cho các nhu cầu về nghỉ ngơi, đi lại, ăn uống, tham quan, giải trí, mua hàng và các dịch vụ khác của khách sao cho vừa thuận tiện, an toàn,vừa sang trọng, lịch sự và có khả năng đáp ứng các nhu cầu dịch vụ ở mức độ cao cấp. - Du lịch là ngành ngoài kinh doanh và dịch vụ ra còn phải bảo đảm nhu cầu an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội cho du khách, cho địa phương và các nước đón nhận du khách. - Ngành du lịch là một ngành kinh tế - xã hội - dịch vụ có nhiệm vụ phục vụ nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ ngơi, có hoặc không kết hợp với các hoạt động chữa bệnh, thể thao, nghiên cứu khoa học và các dạng nhu cầu khác. Như vậy đây là một ngành đặc biệt có nhiều đặc điểm và tính chất pha trộn nhau tạo thành một tổng
- 13 thể rất phức tạp. Hoạt động của ngành du lịch vừa mang đặc điểm của một ngành kinh tế, vừa mang đặc điểm của một ngành văn hoá - xã hội. 1.1.2. Thị Trường du lịch, chức năng và phân loại thị trường du lịch 1.1.2.1. Khái niệm chung về thị trường du lịch Đối với du lịch thì nghiên cứu thị trường du lịch là vấn đề rất quan trọng. Một số tác giả cho rằng: "Thị trường là một nhóm người tiêu dùng đang có nhu cầu và sức mua chưa được đáp ứng và mong được thoả mãn” hoặc “Thị trường là tổng số nhu cầu (hoặc tập hợp nhu cầu về một loại hàng hoá nào đó) là nơi diễn ra các hoạt động mua bán hàng hoá bằng tiền tệ” [50]. Đây là quan niệm thiên về người mua, lấy nhu cầu người tiêu dùng làm căn cứ chủ yếu để định nghĩa thị trường. Một số tác giả khác khi nhấn mạnh vai trò của thị trường đối với hoạt động của các doanh nghiệp đã khẳng định: “Thị trường chính là một môi trường kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào trong nền kinh tế thị trường” và “là sự thể hiện ngắn gọn cho quá trình mà ở đó tất cả các quyết định của các gia đình về tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ, của các doanh nghiệp về sản xuất cái gì và như thế nào và của người lao động về làm việc bao nhiêu và cho doanh nghiệp nào được điều chỉnh bởi sự biến động của giá cả” [55]. Nhìn chung, các tác giả trên đứng trên từng góc độ khác nhau để định nghĩa thị trường. Trên giác độ chung nhất có tác giả định nghĩa: “Thị trường là nơi mua bán hàng hoá, là nơi gặp gỡ để tiến hành hoạt động mua bán giữa người mua và người bán”. Nhưng khi trao đổi hàng hoá phát triển thị trường không chỉ là những địa điểm đặc biệt, người bán và người mua để gặp gỡ trao đổi trực diện mà còn có các dạng thị trường khác, ví dụ: chức năng của thị trường được thực hiện thông qua điện thoại, các phương tiện thông tin, báo chí Vì vậy định nghĩa như trên dường như không còn bao quát đủ. Chúng tôi thống nhất với khái niệm chung về thị trường sản phẩm của kinh tế học hiện đại, theo đó: “Thị trường là một quá trình trong đó người bán và người mua, tác động qua lại nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá cần trao đổi”. Như vậy thị trường chứa tổng số cung, tổng số cầu và cơ cấu của tổng cung và cầu
- 14 về một loại hàng hoá nhất định trong một không gian và thời gian cụ thể. Theo đặc điểm của các sản phẩm khác nhau được mua bán trên thị trường, người ta phân thị trường thành thị trường hàng hoá và thị trường dịch vụ. Thị trường du lịch là một loại của thị trường dịch vụ. Cũng như thị trường nói chung, hiện nay có rất nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau về thị trường du lịch, tuỳ theo các góc độ khác nhau. Đứng trên giác độ “người mua” người ta định nghĩa “Thị trường du lịch là tập hợp (tổng số) các nhu cầu về một thể loại nào đó (nhu cầu du lịch biển, nhu cầu du lịch núi, nhu cầu du lịch chữa bệnh )”. Đứng trên giác độ: “người bán” hay của các đơn vị kinh doanh du lịch có tác giả định nghĩa: “Thị trường du lịch là các nhóm khách hàng đang có nhu cầu mong muốn và sức mua về sản phẩm du lịch nhưng chưa được đáp ứng”. Các định nghĩa như trên nhìn chung đều quan tâm đến người mua vì đó là tiếng nói quyết định trên thị trường. Nhưng đứng trên góc độ nghiên cứu kinh tế, khi nghiên cứu thị trường du lịch nếu chỉ quan tâm đến khách tiêu thụ (cầu) thôi thì chưa đủ mà đồng thời phải nghiên cứu những yếu tố của khả năng cung ứng (cung) và đặt nó trong điều kiện có sự hoạt động của các quy luật của thị trường, đặc biệt là quy luật cạnh tranh, vì vậy phải có định nghĩa tổng quát hơn về thị trường du lịch. Theo cách hiểu đơn giản thông thường nhất: “Thị trường du lịch là nơi diễn ra các hoạt động mua bán sản phẩm du lịch” [55]. Theo chúng tôi thị trường du lịch cũng nằm trong thị trường hàng hoá nói chung và có một số nét đặc trưng riêng. Từ khái niệm thị trường của kinh tế học hiện đại đã được trình bày ở trên, chúng tôi định nghĩa: “Thị trường du lịch là một quá trình trong đó khách du lịch và các đơn vị kinh doanh du lịch tác động qua lại nhau để xác định giá cả và khối lượng hàng hoá - dịch vụ du lịch cần trao đổi”. 1.1.2.2. Chức năng của thị trường du lịch - Một là chức năng thực hiện và công nhận hàng hóa.
- 15 Trên thị trường du lịch hàng hóa biểu hiện giá trị thông qua giá cả. Giá cả sản phẩm du lịch phản ánh các chi phí sản xuất cần thiết để sản xuất ra sản phẩm. Khi sản phẩm được thực hiện qua mua bán, giá cả thị trường của sản phẩm biểu hiện sự hấp dẫn của nó là chỉ số cho các doanh nghiệp về kinh doanh. - Hai là chức năng thông tin về kinh tế. Thị trường du lịch sẽ cho khách du lịch và doanh nghiệp thấy các sản phẩm du lịch về giá cả, chủng loại, chất lượng, mức độ hài lòng sự tiếp nhận của họ với sản phẩm. Trong một nền kinh tế mà các thông tin dựa trên sự trung thực thì các thông tin thị trường sẽ làm cho khách du lịch quyết định các chuyến đi của họ. - Ba là chức năng điều tiết và dự báo. Thị trường du lịch là một hệ thống kinh tế mà trong đó các yếu tố như giá cả, lợi nhuận, lãi suất, tỉ giá tác động đến nhà sản xuất, làm cho quy trình sản xuất của sản phẩm du lịch càng phù hợp hơn, giá cả hợp lý làm cho khách hàng chấp thuận. Cạnh tranh làm cho chi phí sản xuất và tỷ suất lợi nhuận ở các thị trường du lịch có khác nhau. Vì vậy, việc di chuyển vốn vào đầu tư các công việc khác sẽ xuất hiện. Thị trường du lịch xuất hiện các sản phẩm du lịch mới, hấp dẫn hơn với khách du lịch làm cho thị trường du lịch càng phong phú, đa dạng. Quy luật cạnh tranh trong du lịch cũng như các thị trường khác làm cho doanh nghiệp luôn luôn phải đổi mới, tự thích ứng với những thị trường mới. Chính vậy, thị trường du lịch với chức năng dự báo sẽ giảm những thiệt hại và rủi ro cho nhà sản xuất và người tiêu dùng. Trong nền kinh tế thị trường, thị trường du lịch có thể cân bằng cung cầu, tuy vậy, vai trò của nhà nước với bàn tay hữu hình trong việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô và chiến lược phát triển, trong việc thúc đẩy các công cụ kinh tế, luôn là yếu tố quyết định hiệu quả trong kinh doanh du lịch. 1.1.2.3. Phân loại thị trường du lịch theo một số tiêu thức thông dụng Thị trường du lịch không bao giờ đồng nhất mà bao gồm nhiều loại, mỗi loại có những đặc điểm khác nhau. Để có cơ sở nhận thức về vai trò đặc điểm của từng
- 16 loại thị trường, giúp cho việc nghiên cứu, phân tích thị trường du lịch và xây dựng chiến lược tiếp thị, hoạt động kinh doanh đúng đắn, phù hợp thì việc phân loại thị trường là rất cần thiết và quan trọng. - Phân loại theo tiêu chí địa lý - kinh tế - chính trị Dưới góc độ một quốc gia căn cứ vào không gian địa lý, chính trị, thị trường du lịch được phân chia thành thị trường du lịch quốc tế và thị trường du lịch nội địa. + Thị trường du lịch quốc tế Là thị trường mà ở đó cung thuộc về một quốc gia, cầu thuộc về một quốc gia. Trên thị trường này các doanh nghiệp du lịch của một quốc gia kết hợp với doanh nghiệp của nước khác đáp ứng nhu cầu du lịch của công dân nước ngoài, theo đó quan hệ tiền - hàng được hình thành và thực hiện vượt qua biên giới quốc gia. Ví dụ: Hiện nay Việt Nam có 103 công ty du lịch quốc tế kết hợp với các công ty du lịch nước ngoài khác để cung cấp phục vụ theo nhu cầu của họ. + Thị trường du lịch nội địa Là thị trường mà ở đó cung và cầu đều nằm trong lãnh thổ của một nước. Trên thị trường nội địa mối quan hệ nảy sinh do việc thực hiện các dịch vụ hàng hóa du lịch là mối quan hệ kinh tế trong một quốc gia. Nó phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế của quốc gia đó và quan hệ tiền hàng chỉ di chuyển từ khu vực này sang khu vực khác. - Phân loại theo thực trạng thị trường Căn cứ vào tình hình thực tế và tiềm năng chưa khai thác hết chúng ta có thị trường du lịch thực tế và thị trường du lịch tiềm năng. + Thị trường du lịch thực tế Là thị trường mà dịch vụ hàng hoá du lịch thực hiện được và ở thị trường này mọi nhu cầu của khách du lịch có thể được đáp ứng một cách đầy đủ.
- 17 + Thị trường du lịch tiềm năng Là thị trường mà ở đó còn thiếu một số điều kiện để có thể thực hiện được một số các loại hàng hóa dịch vụ du lịch. Ví dụ như thiếu các kiểu,các loại, các chất lượng sản phẩm du lịch chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hoặc giá cả vượt quá khả năng thanh toán của người tiêu dùng. - Phân loại theo dịch vụ du lịch Căn cứ vào dịch vụ du lịch có thể phân chia các loại thị trường du lịch gắn với việc tổ chức nhằm tạo ra và tiêu thụ các dịch vụ đó. Và theo cách phân chia này có bao nhiêu loại dịch vụ du lịch thì cũng sẽ có bấy nhiêu thị trường du lịch. + Thị trường lưu trú: khách sạn, resort + Thị trường vận chuyển: Máy bay, tàu hỏa, xe bus + Thị trường vui chơi, giải trí Nếu có thể phân chia thêm, người ta phân loại theo đặc điểm về kinh doanh lữ hành. Phân loại theo kinh doanh lữ hành: Thị trường Inbound (nước ngoài vào), thị trường Outbound (ra nước ngoài). Tóm lại, có thể phân loại thị trường theo nhiều cách khác nhau bằng cách kết hợp với các tiêu thức đã nêu trên và sự phân loại thị trường không đóng khung ở một chuẩn mực nào cả tùy theo nhận thức hoặc quan điểm của nhà nghiên cứu. 1.1.3. Khái niệm về khách du lịch, loại hình du lịch 1.1.3.1. Khách du lịch Khách thăm viếng (visitor): Hội nghị LHQ về du lịch và lữ hành quốc tế tổ chức tại Roma - Italia, năm 1963, đã đề nghị một thuật ngữ chung cho khách thăm viếng: "Bất kỳ người nào đến thăm một quốc gia khác hơn quốc gia mà người đó đang sống với bất kỳ lý do nào khác hơn là để làm việc hưởng lương tại quốc gia mà người đó đến thăm".
- 18 Khách thăm viếng được chia ra làm 2 loại: khách du lịch và khách tham quan. - Khách du lịch (Tourist): là khách thăm viếng (visitor) lưu trú tại một quốc gia khác (hoặc ở một nơi thường xuyên) trên 24 giờ và nghỉ lại qua đêm với mục đích cuộc hành trình có thể xếp loại vào một trong những tên gọi sau: giải trí (leisure), tiêu khiển (recreaction), nghỉ lễ (holiday), thể thao (sport), sức khoẻ (health), học tập (study), tôn giáo (religion), gia đình (family), công tác (mission), hội nghị (meeting) - Khách tham quan (Ecursionist): còn gọi là khách thăm viếng một ngày (day visitor). Là khách thăm viếng lưu lại một khu vực dưới 24 giờ. Những người đi đến một quốc gia khác hoặc một nơi khác bằng tàu thủy theo tuyến (cruise ship) cũng được gọi là khách tham quan. Nhân viên của thủy thủ đoàn hay phi hành đoàn nếu không lưu trú tại khu vực đó cũng được gọi là khách tham quan (ngoại trừ họ nghỉ ngơi tại khách sạn). Khách du lịch quốc tế: Luật du lịch Việt Nam năm 2005 theo điều 34 chương V, những người được thống kê là khách du lịch quốc tế phải có những đặc trưng cơ bản sau: - Là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch (khách Inbound) - Công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch (khách Outbound). - Mục đích chuyến đi của họ là tham quan, thăm thân nhân, tham dự hội nghị, đi công tác, khảo sát thị trường, thể thao, chữa bệnh, hành hương, nghỉ ngơi . Khách tham quan quốc tế (International Excursionist): Một người đáp ứng các tiêu chuẩn trên nhưng không ở qua đêm được gọi là khách tham quan quốc tế.
- 19 Khách du lịch nội địa (Domestic tourist): Bất kỳ người nào ngụ tại một quốc gia nào, bất kể quốc tịch gì đi du lịch đến một nơi khác với chỗ thường trú của mình trong phạm vi quốc gia trong thời gian 24 giờ hay một đêm và vì bất kỳ lý do nào khác hơn là thực hiện một hoạt động trả công tại nơi đến thăm. Khách tham quan nội địa (Domestic Excursionist): Một người đáp ứng được các tiêu chuẩn của khách du lịch nội địa nhưng không ở qua đêm, được gọi là khách tham quan nội địa. 1.1.3.2. Loại hình du lịch a. Căn cứ vào đặc điểm địa lý: Điểm đến du lịch có thể nằm ở các vùng địa lý khác nhau. Việc phân loại theo đặc điểm địa lý của điểm du lịch cho phép chúng ta định hướng được công tác quy hoạch, xây dựng, tổ chức, triển khai phục vụ nhu cầu khách du lịch. Theo tiêu chí này có thể có các loại hình du lịch sau - Du lịch miền biển Mục đích chủ yếu của du khách là tìm về với thiên nhiên, tham gia các hoạt đông du lịch biển, thể thao và các trò chơi trên biển ( lặn biển, lướt ván,, lái môtô nước, nhảy dù, bóng chuyền bãi biển ). Điều kiện thuận lợi đối với du lịch miền biển là vào mùa hè, với nhiệt độ trên 20oC. Bên cạnh đó, các điều kiện về chất lượng nước biển, bãi biển và độ dốc của thềm biển cũng là yếu tố rất cần thiết cho du lịch biển. - Du lịch miền núi Là loại hình du lịch đáp ứng nhu cầu du lịch của du khách về việc tham quan các thắng cảnh ở miền núi, các hoạt động thể thao và nhu cầu nghỉ dưỡng của khách du lịch. - Du lịch đô thị Các thành phố, các trung tâm hành chính cũng có sức hấp dẫn bởi các công
- 20 trình kiến trúc mỹ thuật, nền văn hóa đặc sắc nghệ thuật độc đáo có tầm cỡ quốc gia và thế giới. Mặt khác, đô thị cũng là trung tâm thương mại của đơn vị hành chính, nơi tập hợp nhiều điểm vui chơi giải trí. Vì vậy không chỉ thu hút khách trong nước mà còn cả đối với khách quốc tế. b. Căn cứ vào mục đích chuyến đi: - Du lịch tham quan Tham quan là hành vi quan trọng của con người để nâng cao hiểu biết về thế giới chung quanh. Đối tượng tham quan có thể là một dạng tài nguyên du lịch tự nhiên hoặc tài nguyên du lịch nhân văn, hay một cơ sở nghiên cứu khoa học, cơ sở sản xuất - Du lịch nghỉ dưỡng Mục đích nghỉ ngơi phục hồi sức khỏe của khách du lịch đôi khi chỉ đơn giản là muốn gần với thiên nhiên và thay đổi môi trường sống hàng ngày. Ngày nay nhu cầu du lịch nghỉ dưỡng càng lớn do sức ép của công việc căng thẳng, do môi trường ô nhiễm, do các quan hệ xã hội số người đi nghỉ trong năm cũng tăng lên rõ rệt và số người đi nghỉ cuối tuần ở các nước công nghiệp phát triển chiếm 1/3 dân số. Địa điểm cho nơi nghỉ dưỡng thường là những nơi có không khí trong lành, khí hậu mát mẻ, dễ chịu, phong cảnh đẹp như các bãi biển, vùng núi, nông thôn - Du lịch khám phá Tùy theo mức độ và tính chất chuyến du lịch mà có thể chia ra thành du lịch tìm hiểu và du lịch mạo hiểm. Du lịch tìm hiểu về thiên nhiên, môi trường, về lịch sử, phong tục tập quán Ở một mức độ cao hơn, du lịch mạo hiểm dựa trên những nhu cầu thể hiện mình, tự rèn luyện, tự khám phá khả năng của bản thân . Du lịch mạo hiểm để lại những cảm xúc thích thú, đặc biệt trong giới trẻ. Những vách núi cheo leo, những ghềnh thác, hang động, cánh rừng với môi trường hoang dã là những nơi lý thú cho những người thích du lịch mạo hiểm.
- 21 - Du lịch sinh thái Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa, gắn với giáo dục môi trường có sự đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương. Du lịch sinh thái phải đóng góp vào bảo tồn thiên nhiên và phúc lợi cho cộng đồng địa phương. Du lịch sinh thái gắn liền với phát triển bền vững của du lịch, trong việc sử dụng tài nguyên một cách bền vững bao gồm tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn, kiểm soát và đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế. - Du lịch văn hóa - nghiên cứu Loại hình du lịch này gắn liền với việc mở rộng, nâng cao sự hiểu biết cho khách du lịch, thông qua chuyến đi để tham quan tìm hiểu các di tích lịch sử, kiến trúc, kinh tế xã hội, phong tục tập quán của cộng đồng các địa phương trong nước và quốc tế mà họ đến thăm. Loại hình này rất được phát triển ở các nước có nền văn minh cổ đại đặc sắc như Ai Cập, Hy Lạp, Ý, Ấn Đô, Trung Quốc . Khách du lịch đôi khi là những nhà khoa học, chuyên gia nghiên cứu, sinh viên đi du lịch với mục đích nghiên cứu khoa học. - Du lịch chữa bệnh Mục đích điều trị bệnh và phục hồi sức khỏe là nhu cầu quan trọng của khách du lịch. Ngày nay, nhiều nước đã kết hợp có hiệu quả việc khai thác sử dụng nước khoáng, tắm biển, tắm bùn, đi thay đổi khí hậu chữa bệnh bằng phương pháp y học cổ truyền cũng như kết hợp việc giải phẩu chỉnh hình, thẩm mỹ - Du lịch lễ hội - các sự kiện đặc biệt Ngày nay, lễ hội là một yếu tố rất thu hút khách du lịch. Tham gia vào lễ hội, khách du lịch có dịp hòa mình vào không khí tưng bừng của hoạt động này. - Du lịch công vụ Là loại hình kết hợp các chuyến đi làm việc với nghỉ ngơi, là loại hình mà ngành du lịch rất quan tâm. Họ là những người đi công tác, dự hội nghị, hội thảo
- 22 chuyên đề, hội chợ, dự kỷ niệm các ngày lễ lớn Loại khách du lịch này có nhu cầu cao về dịch vụ lưu trú, ăn uống, phòng họp, hệ thống dịch thuật, khu vực triển lãm và các chương trình tham quan du lịch, vui chơi giải trí - Du lịch thể thao Sở thích và nhu cầu khách du lịch thường gắn liền với một số môn thể thao, ngoài ra chơi thể thao với mục đích nâng cao thể chất, phục hồi sức khỏe, tự thể hiện mình hoặc đơn giản chỉ để giải trí. Các hoạt động thể thao như săn bắn, câu cá, chơi golf, đánh tennis, bóng chuyền bãi biển, bơi lặn, trượt tuyết là những môn thể thao ưa thích và thịnh hành nhất hiện nay. - Du lịch có tính chất xã hội Loại hình này được nảy sinh do nhu cầu giao tiếp xã hội nhằm mục đích viếng thăm người thân, bạn bè, về thăm quê hương, dự đám cưới, đám tang Loại hình này phát triển ở các quốc gia có nhiều kiều bào ở nước ngoài như: Trung Quốc, Ấn Độ, Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Việt Nam - Du lịch tôn giáo Mục đích của loại hình du lịch này nhằm thỏa mãn những nhu cầu tín ngưỡng và thực hiện các nghi thức tôn giáo của tín đồ hay tham quan tìm hiểu tôn giáo của những người không cùng tôn giáo. Điểm đến của các chương trình này là những thánh địa, nhà thờ, chùa chiền, đình miếu - Du lịch quá cảnh Đối tượng này chỉ dừng chân trong một thời gian ngắn (do máy bay chuyển đổi phương tiện giao thông, tiếp nhiên liệu, nhận thêm khách, đổi đường bay ), không quá 24h để đi đến một nơi khác. - Du lịch MICE (Meeting Incentive Conference Event) Là loại hình du lịch kết hợp của du khách giữa mục đích đi dự hội nghị, hội thảo, triển lãm, tham gia các sự kiện chính là việc sủ dụng các dịch vụ du lịch và
- 23 tham quan du lịch. Đối tượng các du lịch MICE là các doanh nhân, chính khách, người có vị trí trong các tập đoàn, công ty, tổ chức những người có yêu cầu cao về chất lượng của dịch vụ du lịch. Đó là những khách hàng có khả năng chi trả cao, đưa lại thu nhập lớn cho các tổ chức kinh doanh du lịch (các công trình nghiên cứu chỉ ra lợi nhuận của du lịch MICE cao gấp từ 5 đến 8 lần các loại hình du lịch khác). 1.1.4. Khái niệm sản phẩm du lịch, điểm du lịch 1.1.4.1. Sản phẩm du lịch Sản phẩm du lịch bao gồm cả yếu tố hữu hình và vô hình. Trong đó yếu tố vô hình thường chiếm tỷ trọng cao. Theo ISO 9004:1991 “Dịch vụ là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa nhà cung cấp và khách hàng, cũng nhờ các hoạt động của người cung cấp để đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng. Dịch vụ thể hiện bằng tính hữu ích và có giá trị kinh tế”. Chất lượng phục vụ là phù hợp nhu cầu của khách hàng, giữa kỳ vọng của khách hàng và khả năng đáp ứng. Chỉ tiêu đánh giá là: Sự tin cậy, sự bảo đảm, sự đồng cảm và tính hữu hình. Từ đó chúng tôi cho rằng: “Sản phẩm du lịch bao gồm các dịch vụ du lịch, các hàng hóa và tiện nghi cung cấp cho du khách, nó tự tạo nên bởi sự kết hợp các yếu tố tự nhiên, cơ sở vật chất và lao động du lịch tại một vùng một địa phương nào đó”. Sản phẩm du lịch có các đặc điểm sau: - Sản phẩm du lịch gắn với tài nguyên du lịch. Tài nguyên du lịch bao gồm các yếu tố của tự nhiên và các hoạt động sáng tạo của con người. Tài nguyên du lịch là một yếu tố quan trọng cùng với dịch vụ du lịch và hàng hóa du lịch tạo ra sản phẩm du lịch. Ta có thể thấy: Tài nguyên du lịch hấp dẫn tạo ra các sản phẩm du lịch hấp dẫn, sản phẩm du lịch hấp dẫn tạo ra thị trường du lịch hấp dẫn [54].
- 24 Sản phẩm du lịch hấp dẫn lúc nào và bao giờ cũng là yếu tố quyết định điểm đến (destination) của khách du lịch. Khách du lịch lựa chọn chuyến đi của mình phải trả lời câu hỏi: đi đâu? Bao giờ? Và bao nhiêu (ngày)? Chính vì vậy, sản phẩm du lịch hấp dẫn là yếu tố quan trọng nhất của thị trường du lịch, quyết định thành công hay thất bại của kinh doanh du lịch. Cùng với quá trình phát triển của khoa học kỹ thuật, tài nguyên du lịch cũng được khai thác, tôn tạo và tái tạo làm tăng giá trị của sản phẩm du lịch. Có thể thấy ở một số quốc gia, tài nguyên du lịch chưa hấp dẫn song công nghệ quảng bá, công nghệ tổ chức làm cho sản phẩm du lịch tăng tính hấp dẫn. - Sản phẩm du lịch gắn liền giữa sản xuất và tiêu dùng, thường là không dịch chuyển được. Vì vậy khách du lịch phải đến tại địa điểm có sản phẩm du lịch để tiêu dùng các sản phẩm đó, thỏa mãn nhu cầu của mình. Đặc điểm này làm cho sản phẩm du lịch gắn với khả năng không thay đổi được, tính đồng nhất giữa thời gian sản xuất và thời gian tiêu dùng sản phẩm. - Tính mau hỏng và không dự trữ được cũng là một đặc điểm của sản phẩm du lịch. Như trên đã nói thời gian sản xuất và thời gian tiêu dùng trùng nhau nên sản phẩm du lịch không như các sản phẩm bán hàng khác, quá trình tạo ra sản phẩm du lịch cũng là quá trình tiêu dùng hết sản phẩm đó. Sản phẩm du lịch quyết định hiệu quả kinh doanh du lịch. Thị trường du lịch càng có nhiều sản phẩm đa dạng càng thu hút khách du lịch. Tuy nhiên chu kỳ sống của sản phẩm du lịch cũng như các sản phẩm khác cũng trải qua 4 giai đoạn: phát triển, tăng trưởng, bão hòa, suy thoái. Chất lượng kinh doanh du lịch là kéo dài thời gian tăng trưởng, giảm thời gian suy thoái. 1.1.4.2. Điểm du lịch Là khu vực có những đặc trưng tự nhiên hoặc nhân văn có sức hấp dẫn du khách đến tham quan du lịch. Điểm du lịch có thể là một thị trấn, thị xã, thành phố hoặc cơ sở kinh doanh, khuôn viên giải trí, bảo tàng
- 25 Thành phố Hồ Chí Minh không chỉ được xem là điểm du lịch với những tài nguyên về tự nhiên và nhân văn phong phú mà còn là một điểm đến hấp dẫn du khách quốc tế, là sự lựa chọn hàng đầu khi họ đến Việt Nam. Điều đó được thể hiện qua các yếu tố để xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh là điểm đến hấp dẫn trong lòng du khách quốc tế. Theo Tổng cục Du lịch, Việt Nam có 43 điểm du lịch cấp quốc gia và cấp vùng; Trong đó vùng du lịch Bắc bộ có 15 điểm du lịch; vùng du lịch Bắc Trung bộ có 7 điểm du lịch; vùng du lịch Nam Trung bộ và Nam bộ có 21 điểm du lịch, trong đó Tây Nguyên có 3 điểm cấp quốc gia là nội thành Đà Lạt, Langbiang (Lâm Đồng) và hồ Yaly thuộc tỉnh Gia Lai. 1.1.5. Kênh phân phối sản phẩm lữ hành trên thị trường du lịch quốc tế Để hiểu rõ vai trò và hoạt động của các doang nghiệp lữ hành trên thị trường quốc tế làm cơ sở cho việc phân tích những chính sách và biện pháp khai thác và mở rộng thị trường du lịch quốc tế. Cách đặt vấn đề này có thể không giống với cách tiếp cận marketing truyền thống. Nhưng nếu chú ý tới những cách biệt vốn có giữa cung và cầu du lịch như sự cách biệt rất lớn về không gian giữa cung (tài nguyên du lịch, cơ sơ kinh doanh du lịch) và cầu (khách du lịch); tính chất tổng hợp của cầu du lịch và tính độc lập riêng rẽ của cung; tính cố định của cung và tính cơ động của cầu; tính chất phức tạp của môi trường pháp lý tại các thị trường gửi khách thì cách tiếp cận các kênh phân phối sẽ là phù hợp. Tính chất và cơ chế hoạt động của hệ thống phân phối sản phẩm du lịch quốc tế có ảnh hưởng quyết định tới việc lựa chọn các biện pháp marketing thích hợp. Đi chệch khỏi những kênh phân phối, các biện pháp marketing sẽ không có hiệu quả, thậm chí gây những ảnh hưởng tiêu cực. 1.1.5.1. Hệ thống các kênh phân phối sản phẩm lữ hành quốc tế Các chương trình du lịch trọn gói ra nước ngoài là sản phẩm của các công ty lữ hành chủ yếu được bán qua hệ thống các kênh phân phối sản phẩm du lịch quốc tế. Bên cạch các chương trình du lịch trọn gói các công ty lữ hành còn bán các sản
- 26 phẩm du lịch khác như vé máy bay, đăng ký chỗ trong khách sạn và các dịch vụ lẻ khác qua kênh phân phối này. Vì vậy, kênh phân phối sản phẩm lữ hành được định nghĩa là “Những hình thức phối hợp của các tổ chức và cá nhân nhằm cung cấp các dịch vụ du lịch của nhà cung cấp tới khách du lịch tiềm năng một cách thuận tiện và dễ dàng hơn” [54]. Các kênh phân phối có một số chức năng cơ bản là: - Mở rộng điểm tiếp xúc và cơ hội tiếp cận sản phẩm cho khách du lịch. - Góp phần thúc đẩy quá trình mua sản phẩm của khách du lịch. - Giảm thiểu chi phí bán sản phẩm. - Phân tán rủi ro. Theo cách phân phối thông thường nhất, kênh phân phối có 2 loại cơ bản. Một là, kênh phân phối trực tiếp (kênh ngắn nhất) từ các nhà cung cấp (sản xuất) hàng hoá dịch vụ tới khách hàng bỏ qua các phần tử trung gian. Hai là, kênh gián tiếp có sự tham gia của các tổ chức phân phối: các doanh nghiệp bán buôn và bán lẻ. Kênh phân phối sản phẩm du lịch quốc tế cũng gồm hai loại tương tự. Xuất phát cách biệt vốn có giữa cung và cầu du lịch, phần lớn các sản phẩm du lịch được phân phối qua các kênh gián tiếp. Phần lớn các chuyến du lịch nước ngoài của khách du lịch quốc tế được thực hiện thông qua các kênh phân phối gián tiếp. Số khách đi du lịch thường qua kênh gián tiếp. Trong năm 1998 ở Pháp là 60%, ở Đức là 47%, Ý là 67%, Anh là 60%, Hà Lan là 50% và Mỹ là 7%. Như vậy, phần lớn các sản phẩm du lịch quốc tế đều được phân phối qua các phần tử trung gian. Đối với những điểm đến xa như Việt Nam thì tỷ lệ nói trên còn cao hơn nhiều. Theo Burkart và Medlik, 90% số khách du lịch Anh quốc đã sử dụng dịch vụ của các tổ chức trung gian khi đi du lịch nước ngoài. Vấn đề quan trọng ở đây là cấu trúc chi tiết của kênh phân phối cũng như vai trò của các thành phần trong kênh phân phối. Kênh phân phối sản phẩm các chương trình du lịch quốc tế trọn gói được công bố trong những công trình nghiên cứu gần đây nhất của các nhà nghiên cứu Nhật Bản Yashuhiro Watanabe và Masato Toyoda
- 27 (Trung tâm ASEAN). Kênh phân phối sản phẩm lữ hành quốc tế phân định rất rõ ràng giữa hệ thống phân phối sản phẩm tại quốc gia nơi khách du lịch cư trú (thị trường gửi khách - thị trường nguồn) với hệ thống cung cấp sản phẩm tại điểm đến (thị trường nhận khách). Sự phân định này thể hiện tính chuyên môn hoá và phân công lao động xã hội rất cao trong du lịch. Giữa các nhà cung cấp sản phẩm du lịch trực tiếp tại các điểm đến (khách sạn, nhà hàng, tài nguyên du lịch ) và khách du lịch quốc tế. Ba thành phần chủ yếu tham gia vào kênh phân phối sản phẩm là: - Các đại lý bán lẻ tại thị trường gửi khách. - Các doanh nghiệp lữ hành tại các thị trường gửi khách. - Các doanh nghiệp lữ hành tại các thị trường nhận khách. Mỗi khâu trong kênh phân phối tận dụng và phát huy hết lợi thế kinh doanh của mình để tồn tại và phát triển nhằm củng cố vai trò của mình trong hệ thống phân phối sản phẩm du lịch quốc tế. Mặt khác, chúng cũng phối hợp chặt chẽ với nhau đảm bảo cung cấp cho thị trường những sản phẩm tốt với chi phí thấp nhất. 1.1.5.2. Hệ thống đại lý bán lẻ tại các thị trường gửi khách Mặc dù hai hệ thống đại lý du lịch lớn trên thế giới là American Express và Thomas Cook đều bắt đầu hoạt động của mình trong cùng một năm 1841, nhưng phải đến sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, các đại lý du lịch mới bắt đầu có vai trò đáng kể trên thị trường du lịch thế giới. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, bắt nguồn từ sự phát triển bùng nổ của hàng không dân dụng trên phạm vi toàn cầu, hoạt động bán vé máy bay đã tạo điều kiện cho hệ thống các đại lý du lịch lớn mạnh và chiếm lĩnh vị trí then chốt trên thị trường gửi khách du lịch quốc tế. Tại đây, đại lý du lịch là đại lý của các nhà cung cấp chủ yếu sau: Công ty lữ hành, hãng hàng không, khách sạn, các nhà cung cấp du lịch khác (tàu biển, bảo hiểm ). Các chương trình du lịch trọn gói là sản phẩm chủ yếu của các công ty lữ hành tiêu thụ thông qua các đại lý du lịch. Các công ty lữ hành có vai trò như những nhà sản xuất,
- 28 còn các đại lý du lịch như những đại lý bán hàng của lữ hành nhằm thu tiền hoa hồng. Theo Victor T.C.Miiddleton thì hệ thống các đại lý du lịch tại các thị trường gửi khách có những chức năng cơ bản sau đây: - Là điểm bán hoặc cách tiếp cận thuận tiện cho khách du lịch khi mua hay đặt trước các dịch vụ du lịch. - Phân phối các ấn phẩm quảng cáo thông tin. - Trưng bày và thể hiện các cơ hội lựa chọn cho khách du lịch. - Tư vấn và giúp đỡ khách du lịch trong việc lựa chọn sản phẩm thích hợp. - Thực hiện các dịch vụ bán sản phẩm thông qua các thủ tục cần thiết và nhập dữ liệu vào hệ thống thông tin. - Là nguồn cung cấp thông tin cho các nhà cung cấp. - Tham gia và bổ sung cho các hoạt động khuếch trương của nhà cung cấp. - Tiếp nhận và giúp đỡ các phàn nàn và khiếu nại của khách. Hiện nay, hầu như toàn bộ các chương trình du lịch trọn gói của các doanh nghiệp lữ hành được bán thông qua các đại lý du lịch. Những chức năng trên đã đảm bảo cho các đại lý du lịch đóng vai trò không thể thiếu trong các kênh phân phối. Họ là người trực tiếp quan hệ và có ảnh hưởng sâu sắc tới quá trình ra quyết định mua sản phẩm của khách du lịch. Trải qua một quá trình hoạt động lâu dài, các đại lý đã xây dựng được những mối quan hệ gắn bó thậm chí mang tính cá nhân đối với khách du lịch. Không ai khác ngoài các đại lý du lịch hiểu rõ hơn nhu cầu của khách. Một đại lý du lịch có thể bán sản phẩm của nhiều công ty lữ hành khác nhau. Vì vậy, việc họ giới thiệu hay tư vấn cho khách như thế nào về sản phẩm của các doanh nghiệp lữ hành có tác động trực tiếp tới quyết định của khách du lịch. Giữa các doanh nghiệp lữ hành và các đại lý du lịch (trong phạm vi một quốc gia) luôn tồn tại một mối quan hệ mật thiết. Mối liên kết này còn được thắt chặt hơn bởi sự phức tạp của hệ thống pháp lý và những quy định chặt chẽ của các Hiệp hội kinh doanh du lịch (Ví dụ: Hiệp hội Đại lý Du lịch Anh quốc, ABTA). Các đại lý du lịch
- 29 chỉ bán sản phẩm của các công ty lữ hành của quốc gia, hoặc thậm chí của hiệp hội kinh doanh đó. Vì vậy, khả năng thâm nhập tới hệ thống các đại lý du lịch (chưa nói đến khách du lịch) tại thị trường gửi khách của các công ty lữ hành từ các quốc gia nhận khách rất thấp. 1.1.5.3. Hệ thống các doanh nghiệp lữ hành tại các thị trường gửi khách Các doanh nghiệp lữ hành tại các thị trường gửi khách (thường được gọi là các doanh nghiệp lữ hành gửi khách) có vai trò quyết định trong việc thu hút khách đi du lịch tại các thị trường này. Sản phẩm du lịch trọn gói được bán trên thị trường mang thương hiệu của các công ty lữ hành đó. Các doanh nghiệp lữ hành gửi khách có những chức năng chủ yếu sau đây: - Nghiên cứu điều tra nhu cầu của thị trường, xây dựng những sản phẩm tốt nhất để đáp ứng sự trông đợi và đòi hỏi của khách du lịch. Nếu như các đại lý du lịch có mối quan hệ trực tiếp với từng khách hàng cá nhân thì doanh nghiệp công ty lữ hành lại phải nắm bắt được những xu hướng tiêu dùng du lịch trên phạm vi rộng lớn hơn vì sản sản phẩm của họ được bán không chỉ qua một đại lý mà qua cả hệ thống đại lý. Sản phẩm của họ phải hấp dẫn khách du lịch trên phạm vi một vùng, một quốc gia, thậm chí cả quốc tế. Các doanh nghiệp lữ hành có thể thông qua các đại lý du lịch để tìm hiểu và khảo sát nhu cầu của thị trường. - Khai thác tối đa giá trị của các tài nguyên du lịch nhằm xây dựng những chương trình du lịch có sức thu hút đối với khách du lịch. Các doanh nghiệp lữ hành gửi khách phải kết hợp với các doanh nghiệp lữ hành nhận khách tại các địa điểm trên cả hai phương diện: cung cấp thông tin và tổ chức thực hiện. Các doanh nghiệp lữ hành nhận khách là những nguồn cung cấp thông tin chủ yếu nhất cho các doanh nghiệp lữ hành gửi khách về các tuyến điểm du lịch, các tài nguyên du lịch mới. Đồng thời họ là người trực tiếp giám sát và tổ chức thực hiện việc cung cấp các dịch vụ mặt đất tại các điểm du lịch. Sự phối kết hợp của hai loại hình doanh nghiệp lữ hành này về thực chất là sự phân công lao động chuyên môn hoá trong du lịch.
- 30 - Kết hợp chặt chẽ với các hãng hàng không nhằm có được những chuyến bay thuận tiện và mức giá phù hợp nhất. Ngoài những hãng hàng không của riêng mình, các doanh nghiệp lữ hành gửi khách cũng sử dụng dịch vụ của các hãng hàng không khác trong các chương trình trọn gói. Trong những năm gần đây việc sử dụng các chuyến bay thuê vận chuyển khách du lịch ngày càng phổ biến. Các doanh nghiệp lữ hành gửi khách luôn thực hiện dịch vụ bán vé máy bay quốc tế vì đem lại nguồn thu nhập khá lớn. - Tác động tới khách du lịch qua các hoạt động maketing. Các doanh nghiệp lữ hành gửi khách là những người trực tiếp điều tiết thị trường thông qua các sản phẩm mới, các chính sách khuyến mại (có thể phối hợp với nhà cung cấp du lịch), tạo dựng các trào lưu du lịch mới. Khi các nước phát triển áp dụng chính sách nghiêm ngặt hơn nhằm đảm bảo quyền lợi của khách du lịch là công dân của các nước này thì vai trò của các doanh nghiệp lữ hành gửi khách ngày càng tăng lên và họ chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyền lợi của khách du lịch khi đi theo các chương trình trọn gói. 1.1.5.4. Hệ thống các doanh nghiệp lữ hành tại thị trường nhận khách Hệ thống các doanh nghiệp lữ hành tại các điểm đến được gọi là doanh nghiệp lữ hành nhận khách. Các doanh nghiệp này chủ yếu đảm nhận việc tổ chức thực hiện các chương trình du lịch đã được các doanh nghiệp lữ hành gửi khách bán cho khách du lịch. Các doanh nghiệp lữ hành nhận khách thực hiện các chức năng sau đây: - Cung cấp thông tin, ý tưởng và những sản phẩm cho các doanh nghiệp lữ hành gửi khách. Các doanh nghiệp lữ hành nhận khách phải nắm rõ hệ thống các tài nguyên du lịch, các nhà cung cấp dịch vụ du lịch để từ đó có những xây dựng, những chương trình du lịch hấp dẫn nhất cung cấp cho các đối tác của mình là các doanh nghiệp lữ hành gửi khách. Thường xuyên cập nhật và cung cấp thông tin có liên quan cho các doanh nghiệp lữ hành gửi khách cũng là một chức năng quan trọng.
- 31 - Tổ chức giám sát và thực hiện chương trình. Các doanh nghiệp lữ hành nhận khách là đại diện của các doanh nghiệp lữ hành gửi khách đảm bảo thực hiện đúng những điều cam kết về các dịch vụ và hàng hoá du lịch đã được ghi trong chương trình của khách du lịch. Hai vấn đề có ý nghĩa quyết định là chất lượng và giá cả. - Phối hợp với các tổ chức du lịch quốc gia thực hiện các hoạt động khuếch trương cho đất nước như một điểm đến hấp dẫn. Đây là một hoạt động có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy nhu cầu du lịch đến một quốc gia. Các doanh nghiệp lữ hành gửi khách khó có điều kiện quảng bá cho một quốc gia hay một điểm đến trên phạm vi rộng lớn. Xây dựng hình ảnh của đất nước như một điểm du lịch hấp dẫn là công việc của các tổ chức quốc gia về du lịch và các doanh nghiệp lữ hành nhận khách. 1.1.5.5. Một số vận dụng đối với các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam Theo kết quả nghiên cứu, kênh phân phối chủ yếu sản phẩm lữ hành quốc tế đến Việt Nam hiện nay cũng như trong 5 năm tới được thể hiện ở sự phối hợp giữa các doanh nghiệp lữ hành gửi khách và nhận khách là một trong những vấn đề cơ bản của kinh doanh lữ hành trong điều kiện hiện nay. Hiện nay, một số doanh nghiệp lữ hành gửi khách thiết lập hệ thống chi nhánh, đại diện tại Việt Nam để trực tiếp tổ chức và giám sát thực hiện cung cấp các dịch vụ cho khách của họ tới Việt Nam. Các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam đứng trước nguy cơ là có thể bị mất nguồn khách cho dù lượng khách quốc tế đến Việt Nam ngày càng tăng. Nói cách khác là các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam đang có nguy cơ bị loại bỏ khỏi kênh phân phối sản phẩm lữ hành quốc tế đến Việt Nam. Các doanh nghiệp lữ hành nhận khách Việt Nam phải thể hiện được vai trò của mình trên mọi phương diện để đảm bảo rằng sự hợp tác này đem lại lợi ích cho chính các doanh nghiệp lữ hành gửi khách. Theo Coase, trong lý thuyết về các hãng (Theory of The Firms) chỉ rõ, nếu hai thực thể A và B có mối liên kết mua bán trên
- 32 thị trường thì chúng sẽ tồn tại độc lập khi chi phí trao đổi thông qua thị trường nhỏ hơn so với chi phí trao đổi nếu chúng nhập làm một thực thể. Như vậy, nếu các doanh nghiệp lữ hành gửi khách có lợi hơn (chi phí phục vụ thấp hơn) khi hợp tác với các doanh nghiệp lữ hành nhận khách Việt Nam so với tự tổ chức thực hiện tại các điểm đến thì mối quan hệ phối hợp này sẽ bền vững. Điều này phụ thuộc vào các doanh nghiệp nhận khách Việt Nam. Bởi vậy họ còn cung cấp đầy đủ thông tin, có những ý tưởng độc đáo và xây dựng những sản phẩm tốt nhất cho các đối tác gửi khách nhằm tạo ra được sự phụ thuộc lợi ích giữa hai bên. Mặt khác,các doanh nghiệp lữ hành nhận khách Việt Nam cũng phải đóng vai trò chủ động hơn nhằm phát huy tối đa năng lực của mình, thắt chặt hơn nữa mối quan hệ với các doanh nghiệp lữ hành gửi khách . 1.2. Vị trí, vai trò của ngành du lịch đối với sự phát triển kinh tế - xã hội 1.2.1. Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào nghiên cứu dịch vụ du lịch Hoạt động du lịch ban đầu chỉ có ít người tham gia, dần dần số người tham gia ngày càng nhiều, thời gian càng lâu và mục đích ngày càng đa dạng. Lúc này, du lịch trở thành một ngành kinh tế quốc dân, thuộc lĩnh vực dịch vụ. Đó là kết quả của quá trình phát triển của phân công lao động xã hội của loài người. Quá trình phát triển của phân công lao động xã hội là quá trình phân, tách nền sản xuất xã hội thành những khu vực, ngành, phân ngành khác nhau và liên kết chúng ta theo những cách thức mới, trật tự mới phù hợp với trình độ phát triển của kinh tế - xã hội của từng thời kỳ, giai đoạn khác nhau. Khi nghiên cứu lịch sử phát triển của phân công lao động xã hội Mác đã chỉ ra ba hình thức phân công: Phân công chung, phân công đặc thù và phân công các biệt. Phân công chung là phân nền kinh tế quốc dân thành những ngành lớn như: Nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ Đó là phân nền sản xuất xã hội thành những ngành kinh tế lớn, ngành kinh tế cấp I. Phân công đặc thù là phân công trong nội bộ ngành kinh tế lớn (cấp I) thành những ngành sản xuất kinh doanh hẹp hơn, hình
- 33 thành nên những ngành cấp II, ngành cấp III. Chẳng hạn, ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch, nhà hàng khách sạn và các dịch vụ tiêu dùng cá nhân khác còn phân công cá biệt là loại phân công trong một đơn vị sản xuất, kinh doanh Như vậy, dưới tác động của phân công lao động xã hội, nền kinh tế quốc dân của mỗi nước sẽ hình thành một hệ thống ngành kinh tế ngày càng phức tạp, bao gồm nhiều ngành, nhiều lĩnh vực cấu thành. Trong đó, mỗi ngành, mỗi lĩnh vực có vị trí, vai trò khác nhau, thực hiện những chức năng khác nhau đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, tạo thành cơ cấu kinh tế của mỗi nước. Xét cơ cấu tiêu dùng, ngay từ thế kỷ XIX, Ăngghen đã cho rằng tỷ lệ chi tiêu cho những nhu cầu cơ bản, thiết yếu trong gia đình sẽ giảm xuống, đồng thời chi tiêu cho những nhu cầu về văn hoá - tinh thần như giải trí, du lịch sẽ gia tăng theo quy luật nhu cầu tăng lên. Sản phẩm của ngành dịch vụ du lịch là một sản phẩm kinh tế đặc biệt, là kết quả của quá trình lao động của người lao động trong khu vực dịch vụ du lịch. Quá trình lao động dịch vụ du lịch là quá trình kết hợp sức lao động, đối tượng lao động và công cụ lao động để tạo ra sản phẩm du lịch. Thời gian lao động xã hội cần thiết của người lao động trong dịch vụ du lịch kết tinh trong hàng hóa. Chính lao động cụ thể của người lao động tạo nên giá trị sử dụng của sản phẩm. Sản phẩm của quá trình lao động này là sản phẩm vô hình, khó có thể nhận biết qua trực quan mà là mức độ thỏa mãn hài lòng của khách hàng khi sử dụng các sản phẩm trên. Nhu cầu mà sản phẩm dịch vụ du lịch mang lại có thể là sự khám phá, hiểu biết, cảm nhận, sự hồi tưởng, hồi phục sức khỏe sau một thời gian lao động căng thẳng Thông qua tận hưởng các yếu tố tinh thần, vật chất Khách du lịch thỏa mãn các yêu cầu mà mình kỳ vọng. Hàng hóa dịch vụ, du lịch được lưu hành trên thị trường, nó có đầy đủ các thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị sử dụng của hàng hóa dịch vụ du lịch là công dụng của nó, như nói ở trên, thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người. Nhu cầu
- 34 đó có thể là vật chất hoặc tinh thần. Kinh tế càng phát triển, thu nhập lao động ngày càng tăng, nhu cầu hưởng thụ các sản phẩm phi vật chất ngày càng tăng. Các loại hình du lịch sinh thái, du lịch văn hóa - lịch sử, du lịch nghiên cứu ngày càng phát triển. Giá trị của hàng hóa dịch vụ là do lao động trừu tượng của người lao động kết tinh lại trong hàng hóa. Trên thị trường, giá cả thị trường biểu hiện thông qua trao đổi, mua bán. Hàng hóa dịch vụ du lịch tuân theo yêu cầu của qui luật giá trị, qui luật cung cầu và qui luật cạnh tranh. Quy luật giá trị trong kinh tế cũng như trong hoạt động du lịch đòi hỏi việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Đó là thời gian để sản xuất một hàng hóa trong điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với trình độ kỹ thuật trung bình, trình độ khéo léo trung bình và cường độ lao động trung bình. Cạnh tranh trong hoạt động dịch vụ du lịch là quá trình ganh đua giữa những người sản xuất hàng hóa, nhằm tìm kiếm những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa. Cạnh tranh làm giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất lao động, đổi mới phương pháp quản lý, buộc người sản xuất phải nhạy bén với thị trường, làm tăng chất lượng sản phẩm dịch vụ du lịch. Trên thị trường, sản phẩm dịch vụ du lịch chịu ảnh hưởng lớn của qui luật cung cầu. Giá cả thị trường là cân bằng của lượng cung và lượng cầu. Khi giá cả sản phẩm du lịch thay đổi làm thay đổi lượng cầu của khách du lịch. Chính vì vậy, nhà sản xuất phải tìm cách hạ giá thành để kích thích tiêu thụ các sản phẩm dịch vụ du lịch. Tóm lại, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin với phương pháp luận khoa học, đã xây dựng và phát triển các học thuyết kinh tế, làm luận cứ khoa học cho các hoạt động kinh tế trong đó có hoạt động du lịch. 1.2.2. Vị trí của ngành du lịch Ở nhiều nước, du lịch ngày càng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nhiều nhà kinh tế trên thế giới nói rằng: thế kỷ XXI là “Thế kỷ của ngành du
- 35 lịch”, trong đó du lịch có vai trò hết sức to lớn. Thế giới ngày nay đang diễn ra hai xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế lớn: Xu hướng chuyển từ khu vực sản xuất vật chất sang khu vực dịch vụ, diễn ra chủ yếu ở các nước công nghiệp tiên tiến nhất. Trong nền kinh tế của những nước này, tỷ trọng khu vực dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đã vượt hơn so với tỷ trọng khu vực sản xuất vật chất và thu hút phần lớn số lao động xã hội. Xu hướng này gắn liền với những điều kiện của nền kinh tế phát triển cao và nhất là do tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển như vũ bão trên thế giới. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá diễn ra ở các nước đang phát triển. Trọng tâm của sự chuyển dịch ở đây chủ yếu là trong nội bộ khu vực sản xuất vật chất, theo hướng tăng sản xuất công nghiệp so với nông nghiệp. Nhưng sự gia tăng này lại thực hiện trong điều kiện xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật vào đời sống kinh tế - xã hội của các quốc gia, nên đã xuất hiện khả năng thực hiện một lúc hai xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở một nước. Việc kết hợp thực hiện hai quá trình được coi là một thuộc tính của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá ở các nước đang phát triển hiện nay. Quy luật có tính phổ biến của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên thế giới hiện nay là: giá trị ngành dịch vụ ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong tổng sản phẩm xã hội và trong số người có việc làm. Do vậy, các nhà kinh doanh khi đi tìm hiệu quả của đồng vốn đã phát hiện ra rằng du lịch là một lĩnh vực kinh doanh hấp dẫn so với các ngành kinh tế khác, du lịch đem lại tỷ suất lợi nhuận cao, vốn đầu tư vào du lịch tương đối ít so với các ngành công nghiệp nặng, giao thông vận tải kỹ thuật lại không quá phức tạp nhưng đạt hiệu quả cao. Trong thời đại ngày nay, ngành du lịch trên thế giới đang có bước phát triển mạnh mẽ và giá trị đem lại không thua kém ngành dầu lửa và ô tô.
- 36 1.2.3. Vai trò của ngành du lịch 1.2.3.1. Vai trò của ngành du lịch đối với nền kinh tế a. Ảnh hưởng của du lịch đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế - Du lịch là một trong những ngành kinh doanh đạt hiệu quả cao so với nhiều ngành kinh tế khác do ngành du lịch có tỷ suất lợi nhuận cao, vốn đầu tư ít và thời gian thu hồi vốn nhanh hơn. Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, ngành du lịch thực hiện việc “xuất khẩu tại chỗ” đạt nguồn thu ngoại tệ lớn với hiệu quả cao. Hơn nữa, sự phát triển ngành du lịch còn thúc đẩy và tạo điều kiện cho nhiều ngành kinh tế - xã hội khác phát triển, đồng thời làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của nhiều vùng kinh tế có các tuyến, điểm du lịch. Phát triển ngành du lịch còn góp phần tích cực tạo việc làm cho một lực lượng lao động xã hội và cải thiện đời sống cho nhân dân nói chung. - Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên thế giới diễn ra theo quy luật: Tỷ trọng khu vực I trong GDP sẽ giảm dần và tỷ trọng khu vực II và khu vực III sẽ tăng lên. Bên cạnh các dịch vụ tài chính, tín dụng, pháp lý, bưu chính, viễn thông, tư vấn, kiểm toán, các dịch vụ du lịch, bảo hiểm, chăm sóc sức khoẻ đã phát triển mạnh. Thực trạng đó nói lên vai trò ngày càng quan trọng của ngành dịch vụ nói chung và ngành du lịch nói riêng trong nền kinh tế - xã hội. - Đóng góp của ngành du lịch trong GDP: Trên phạm vi toàn thế giới, du lịch được coi là ngành công nghiệp to lớn, sử dụng nhiều lao động nhất và cũng là một ngành có mức thu nhập quan trọng cho ngân sách của các quốc gia. UNWTO dự báo mức đóng góp trực tiếp hay gián tiếp của ngành du lịch vào GDP thế giới sẽ lên tới 12,5% vào năm 2010. Tại khu vực Đông Á - Thái Bình Dương, thu nhập du lịch bao gồm cả chi phí vận chuyển, của Inđônêsia và Philippin chiếm từ 8-15% GDP, của Malaysia và Thailand chiếm từ 19 - 21% GDP, của Singapore và Hồng Kông đều chiếm trên 21% GDP. Bên cạnh những hiệu quả to lớn về kinh tế - xã hội, cần phải phòng ngừa và khắc phục những chỗ tiêu cực do hoạt động du lịch gây ra. Đó là việc ô nghiễm môi
- 37 trường thiên nhiên và xã hội như phá hoại cảnh quan, làm suy thoái thuần phong mỹ tục, lây lan dịch bệnh, truyền nhiễm AIDS Thậm chí trên thực tế không ít người lợi dụng du lịch để tiến hành các hoạt động phi pháp như: buôn lậu, buôn hàng quốc cấm, nhập cảnh trái phép, thực hiện các hoạt động tình báo, phá hoại, phản động Chi tiêu du lịch liên quan đến nhiều lĩnh vực, quan hệ đến nhiều ngành trong nền kinh tế và tác động qua lại lẫn nhau. Khi ngành du lịch phát triển, nó có ảnh hưởng sâu sắc đối với nền kinh tế và biến đổi theo nhiều dạng khác nhau tuỳ theo những thay đổi trong thị hiếu của du khách cũng như cơ cấu của nền kinh tế. Nghiên cứu ảnh hưởng của du lịch, người ta vận dụng nhiều phương pháp khác nhau. Tuy nhiên cho đến nay, phương pháp chính vẫn là áp dụng khái niệm “số nhân trong du lịch” (Tourism Multiplier) của nhà kinh tế học người Anh John Maynard Keynes và phương pháp “phân tích nhập lượng - xuất lượng” (Input - Output analysis) của Wassily Leontief. Giá trị của số nhân du lịch cho chúng ta thấy tổng thu nhập được tạo ra sau nhiều lần giao dịch trong mối quan hệ với số tiền chi tiêu ban đầu của du khách quốc tế đem vào nền kinh tế. Trong khi đó để dự đoán một cách trực tiếp ảnh hưởng của sự gia tăng chi tiêu du lịch, người ta cũng có thể sử dụng một ma trận nhập lượng - xuất lượng về nhu cầu trực tiếp, nó cho thấy nhu cầu đầu vào đối với mỗi đơn vị đầu ra của ngành du lịch. b. Quan hệ giữa du lịch đối với các lĩnh vực khác trong nền kinh tế - Du lịch với các ngành nghề sản xuất - xuất khẩu: Đối với hàng tiêu dùng, việc mở cửa du lịch, thu hút nhiều khách quốc tế đến thăm để một trong những phương thức để xuất khẩu hàng hoá tại chỗ thông qua các cửa hiệu miễn thuế (free duty shops) ở sân bay, bến cảng. Đối với hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống, du lịch phát triển sẽ kích thích, khôi phục các ngành nghề truyền thống, thủ công mỹ nghệ tại địa phương, đem lại công ăn việc làm cho người dân. - Du lịch với đầu tư, sử dụng nhân công: Việc thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài để xây dựng cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế quốc gia đồng thời xây dựng cơ sở vật chất cho phục vụ hoạt động kinh doanh du lịch là cần thiết và có
- 38 lợi cho cả đôi bên. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư trong ngành du lịch thường cao nên có khả năng hấp dẫn vốn đầu tư trong nước cũng như nước ngoài. Ngoài ra du lịch là ngành sử dụng nhiều lao động. Chính vì vậy, du lịch được các quốc gia, các nhà kinh tế coi là một trong những phương thức hữu hiệu để giải quyết nạn thất nghiệp hiện nay (trung bình một phòng khách sạn từ 1 đến 5 sao tạo ra 1,3 chỗ làm trực tiếp và 5 chỗ làm gián tiếp). - Du lịch và giao thông vận tải: Giao thông vận tải phát triển tốt đã trở thành động lực thúc đẩy người ta đi du lịch nhiều hơn vì giao thông vận tải còn cung cấp một loại dịch vụ cơ bản, dịch vụ vận chuyển, phục vụ cho du khách trong cuộc hành trình. - Du lịch và viễn thông, tin học: Sự tiến bộ thần kỳ của công nghệ thông tin và viễn thông trong thời gian qua đã góp phần thay đổi sâu sắc nếu không muốn nói là một cuộc cách mạng trong cung cách tổ chức, kinh doanh của ngành du lịch. Số liệu thống kê đã cho thấy những quốc gia phát triển du lịch hàng đầu thế giới cũng là quốc gia có ngành viễn thông và công nghệ thông tin phát triển mạnh nhất. - Du lịch và vấn đề đô thị hoá: Phát triển đô thị tạo nên cơ sở hạ tầng chung cho nền kinh tế nhưng cũng đồng thời tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật, cung cấp thêm tài nguyên cho ngành du lịch. Ngược lại, phát triển du lịch tại địa phương sẽ kích thích các ngành nghề có liên quan phát triển làm thay đổi nhanh chóng cảnh quan đô thị, gia tăng nguồn thu cho ngân sách - giúp địa phương có điều kiện tăng thêm đầu tư, đẩy nhanh quá trình phát triển đô thị. - Du lịch và các ngành nghề khác: Đối với thuế, du lịch có mối quan hệ rất nhạy cảm. Vì vậy, một chính sách thuế vừa động viên được nguồn thu của du lịch vào ngân sách, vừa khuyến khích du lịch phát triển, để kích thích các ngành khác phát triển theo điều cần nghiên cứu. Đối với hải quan, công an, ngoại giao: thái độ, cung cách đối xử của cán bộ viên chức nhà nước trong quá trình xin duyệt thủ tục xuất, nhập cảnh, khai báo thủ tục hải quan ở các cửa khẩu sẽ tạo hình ảnh ban đầu khó quên trong lòng du khách, thu hút họ đến thăm nhiều hơn hoặc ngược lại gây
- 39 tâm lý chán nản cho du khách, không thu hút họ trở lại. 1.2.3.2. Vai trò du lịch trong lĩnh vực văn hoá - xã hội Vai trò của du lịch đối với quá trình xóa đói, giảm nghèo: Hoạt động du lịch diễn ra ở các vùng, miền khác nhau nên nó trở thành công cụ quan trọng tác động tới tình trạng đói nghèo của các quốc gia ở nông thôn và thành thị. Du lịch với những hoạt động phong phú của nó sẽ tạo ra các cơ hội phát triển cho người nghèo tại cộng đồng của họ, vì nếu không họ sẽ di chuyển đến các đô thị vốn có cơ hội để sinh sống hơn. Du lịch sẽ cung cấp các kỹ năng sống cho cho người nghèo, tạo cho họ có công ăn việc làm và thu nhập. Chính vì vậy, phát triển du lịch ở các vùng nông thôn và miền núi không chỉ góp phần phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, môi trường mà còn giảm thiểu tình trạng di cư về các đô thị lớn làm công ảnh hưởng các cân đối vĩ mô và quản lý đô thị. Thực tế cho thấy, các khu vực và các nước nghèo thường có lợi thế so sánh trong phát triển du lịch. Đó là các tài nguyên du lịch phong phú, các giá trị về di sản văn hoá, âm nhạc, đời sống hoang dã và môi trường, khí hậu Vì vậy, hơn ngành kinh tế nào khác, du lịch tạo nên thu nhập qua hệ thống cung cấp hàng hoá, dịch vụ. Các sản phẩm du lịch được tiêu dùng ở nơi sản xuất. Điều này tạo nên khả năng sản xuất cho các sản phẩm mà du lịch tiêu thụ và cần đáp ứng. Du lịch tác động làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiều hướng giảm dần khu vực I, gia tăng khu vực II và khu vực III. Tỷ trọng khu vực I giảm làm cho dân cư di chuyển sang khu vực II và khu vực III. Ở các nước phát triển, đã xuất hiện tình trạng khu vực I khan hiếm nhân công, giá cả lao động tăng, thu nhập nhờ đó cũng được tích lũy. Khả năng tiếp nhận và sử dụng lao động trong khu vực hoạt động du lịch tăng lên rất cao cả hai nguồn lao động: lao động trực tiếp phụ vụ tại các cơ sở du lịch và lao động gián tiếp từ các ngành kinh tế khác. Chính vì vậy, phát triển du lịch không chỉ mang lại nguồn thu cho ngành du lịch mà còn tác động làm gia tăng nguồn thu ở các ngành khác. Tại Việt Nam, ở những địa phương phát triển du lịch, những hộ sản xuất
- 40 nghề nông đã chuyển biến mạnh mẽ, chuyên canh các sản phẩm phục vụ cho du lịch, nhờ đó thu nhập gia tăng, nhiều hộ đã thoát nghèo. Đầu mối giao lưu văn hoá giữa các cộng đồng: Mỗi dân tộc trên thế giới có nền văn hoá truyền thống riêng và được tích tụ từ lâu đời. Du lịch là một hình thức quan trọng để các dân tộc giao lưu văn hoá với nhau. Những yếu tố văn minh trong nền văn hóa nhân loại càng kích thích phát triển những nét độc đáo của văn hoá dân tộc, văn hóa dân tộc phát triển góp phần làm phong phú, đa dạng nền văn hoá nhân loại, nâng cao trí thức con người và làm cho các dân tộc “xích lại” gần nhau hơn. Thông qua việc tiêu thụ các sản phẩm du lịch, du khách được mở rộng kiến thức, hiểu biết thêm được nhiều điều mới lạ về văn hóa nghệ thuật, phong tục tập quán của các địa phương, của các quốc gia. Hơn nữa, khi du khách thực hiện cuộc hành trình là đã truyền bá văn hoá của cộng đồng mà họ đang sinh sống, đồng thời chính du lịch văn hoá và khách du lịch góp phần khám phá kho tàng văn hoá của nhân loại. Việc phát triển ngành du lịch không chỉ mang lại hiệu quả to lớn về kinh tế - xã hội. Trước hết, đó là hiệu quả về mặt xã hội đối với mỗi con người, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, việc phát triển du lịch nội địa còn có tác dụng nâng cao lòng yêu quê hương đất nước, giáo dục truyền thống dân tộc. Mặt khác thông qua hoạt động du lịch tăng cường được các mối quan hệ xã hội, tình hữu nghị và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, quốc gia góp phần bảo vệ hoà bình thế giới. Du lịch chỉ có thể phát triển trong điều kiện hoà bình và thiện chí chứ không thể phát triển trong điều kiện chiến tranh và thù địch. Phương tiện giáo dục và hoạt động xã hội: Ngày nay các chuyến du lịch học tập có chủ đích vào cuối tuần hay kỳ nghỉ hè là biện pháp hữu hiệu để giúp học viên củng cố kiến thức, tiếp thu ở giảng đường. Ngoài ra khi thực hiện các chuyến du lịch, người ta có dịp trực tiếp đối thoại, tìm hiểu lẫn nhau giữa du khách hoặc với cộng đồng dân cư tại nơi đến du lịch, nên con người có cơ hội để thông cảm, hiểu
- 41 biết nhau hơn. Sự kết hợp với các hoạt động xã hội làm cho chuyến du lịch trở nên có ý nghĩa hơn. Tăng cường sức khoẻ, nâng cao chất lượng cuộc sống: Do tác động của công nghiệp hoá, người lao động thiếu tiếp xúc với thiên nhiên, nên họ khao khát, tìm nơi yên vắng, môi trường sinh thái trong lành để thư giãn, nghỉ ngơi hoặc giải trí, du lịch. Cùng với nhịp sống lao động dồn dập của xã hội công nghịêp hiện đại đã làm xuất hiện những căn bệnh như: căng thẳng thần kinh, huyết áp cao, bệnh nghề nghiệp Vì lý do đó, các công ty, các xí nghiệp trên thế giới thường khuyến khích công nhân của họ đi du lịch giải trí để phục hồi sức khỏe. 1.2.4. Tác động giữa hội nhập kinh tế quốc tế và du lịch Ngày nay, phát triển du lịch trong bối cảnh hội nhập quốc tế đang đặt ra cho các quốc gia nhiều cơ hội và thách thức. Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn kết nền kinh tế và thị trường của một quốc gia với nền kinh tế và thị trường thế giới và khu vực thông qua các biện pháp tự do hóa và mở của thị trường trên các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương. Hội nhập kinh tế quốc tế có nội dung rộng hơn và cao hơn tự do hóa thương mại: i) Tự do hóa lưu chuyển các yếu tố tham gia quá trình sản xuất, kinh doanh như vốn, công nghệ, nhân công; ii) Thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; iii) Thực hiện các biện pháp thuận lợi hóa thương mại và đầu tư; iv) Thuận lợi hóa và tự do hóa việc đi lại của doanh nhân; v) Xây dựng các tiêu chuẩn thống nhất và hợp chuẩn; vi) Giải quyết các tranh chấp thương mại theo qui định quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế là sự phát triển cao của phân công lao động quốc tế. Do sự phát triển của khoa học và công nghệ, do quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới đã làm cho phân công lao động quốc tế phát triển mạnh cả về chiều rộng và chiều sâu. Đến lượt nó, phân công lao động quốc tế đã hình thành một khuôn khổ mới cho sự phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế của các quốc gia. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra những cơ hội phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia. Thứ nhất, tăng khả năng tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ của mỗi quốc gia nhờ mở
- 42 rộng thị trường ngoài nước. Hội nhập kinh tế quốc tế làm cho mỗi nước có khả năng tiếp cận với công nghệ, vốn, quản lý với trình độ tiên tiến, góp phần nâng cao khả năng sản xuất trong nước và và vị thế cạnh tranh của mỗi quốc gia. Thứ hai, tăng khả năng thu hút vốn nước ngoài, bao gồm vốn vay, ODA, FDI cũng như công nghệ cao nhờ cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh như một hệ quả tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế là sự phối hợp mang tính chất liên quốc gia giữa hai hay nhiều nhà nước độc lập, có chủ quyền hay nhiều hiệp định kinh tế-thương mại. Hội nhập quốc tế được xem như giải pháp trung hòa giữa hai xu hướng tự do hóa mậu dịch và bảo hộ mậu dịch của hai trường phái kinh tế đối lập nhau giữa trường phái tân cổ điển và trường phái chủ nghĩa dân tộc mới. Hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đầu tư theo hướng chuyên môn hóa sản xuất, khai thác tối đa lợi thế so sánh của mỗi nước, thúc đẩy giao lưu và trao đổi khoa học, kinh nghiệm quản lý, giảm dần khoảng cách phát triển giữa các quốc gia. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra cơ hội dỡ bỏ dần các rào cản về thuế quan, phi thuế quan, tạo nên khuôn khổ kinh tế và pháp lý phù hợp với tiến trình tự do hóa đa phương, góp phần phát triển hệ thống thương mại đa phương cả về chiều rộng và chiều sâu. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, du lịch được xem là lĩnh vực có nhiều ưu thế tham gia vào sân chơi toàn cầu. Trước hết du lịch là ngành trụ cột trong thương mại quốc tế tham gia vào tiến trình mở cửa và tự do hóa thương mại của các quốc gia. Du lịch là cầu nối cho thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài. Trong định hướng thương mại của các nước công nghiệp mới, các quốc gia này đều xác định du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn, là ngành “Công nghiệp không khói”. Với thế mạnh tổ chức các chuyến du lịch nghỉ dưỡng, hội nghị, hội thảo du lịch làm phương tiện kết nối đầu tư giữa nước nhà đầu tư ngoài nước với trong
- 43 nước. Nhờ vào du lịch, dòng vốn FDI, ODA có cơ hội di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác. Trong hội nhập kinh tế quốc tế, du lịch làm cho văn hóa của các quốc gia có dịp được giới thiệu, đó là những tài nguyên nhân văn tinh túy đưa đến bạn bè quốc tế. Du lịch là cầu nối tình hữu nghị, hợp tác và thân thiện giữa các quốc gia. “Du lịch là hộ chiếu đi tới hòa bình và hữu nghị” (tuyên bố Manila về du lịch). Du lịch còn là phương tiện thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo trên bình diện thế giới. Tác động sâu sắc từ phát triển du lịch làm cho bộ phận lớn dân cư có việc làm trực tiếp và gián tiếp từ du lịch; thu nhập xã hội từ du lịch tăng nhanh do phát triển các ngành nghề phụ vụ du lịch. Du lịch trong nền kinh tế hội nhập đòi hỏi phải nâng cao dân trí cho lao động trong ngành. Du lịch trong nền kinh tế hội nhập hướng đến chất lượng quốc tế về dịch vụ, về cơ sở hạ tầng phục vụ, trình độ quản lý và năng lực tổ chức. Chính vì vậy, hội nhập đòi hỏi du lịch phải từng bước hiện đại hóa, hệ thống hóa và chất lượng hóa. Đến lượt nó, du lịch phát triển làm cho hội nhập của các quốc gia càng đi vào chiều sâu, hiệu quả và giảm dần khoảng cách phát triển. Tuy nhiên, phát triển du lịch trong điều kiện hội nhập có nhiều thách thức. Đó là do trình độ phát triển của các quốc gia không đồng đều, do vậy năng lực cạnh tranh yếu làm cho các nước đang phát triển mất dần lợi thế trong phát triển. Các nước đang phát triển sẽ lệ thuộc vào sân chơi của các nước lớn. Trên thị trường du lịch, cũng như trong nền kinh tế, cạnh tranh sẽ làm cho qui luật lợi nhuận có xu hướng giảm sút hình thành. Thị trường du lịch cũng chính là thị trường cạnh tranh gay gắt nhất, do du lịch hội tụ các yếu tố của đầu tư và thương mại quốc tế. Hội nhập sẽ tác động mạnh đến các tài nguyên nhân văn, mặt tích cực được khai thác, phát triển, tôn tạo. Tuy vậy, do yếu tố hướng ngoại, vì vậy bản sắc văn hóa của số sản phẩm du lịch sẽ bị ảnh hưởng, thậm chí phai nhạt. - Du lịch cầu nối hoạt động đầu tư thương mại thế giới: có thể nói khách đầu
- 44 tiên là các thương nhân, thông qua con đường du lịch các quan hệ kinh tế được hình thành. Du lịch là chiếc cầu nối thực sự cho thương mại quốc tế và thu hút đầu tư nước ngoài. - Du lịch, ngành đi đầu trong việc thực hiện chính sách mở cửa hội nhập, cầu nối của hợp tác, hoà bình và hữu nghị; nhờ các cuộc tiếp xúc gặp gỡ thường xuyên giữa con người do du lịch mang lại mà người ta có thể tiến tới thiết lập bầu không khí ôn hoà, lòng khoan dung trong xã hội, một yếu tố tâm lý cần thiết để giải quyết các mâu thuẫn, xung đột giữa các dân tộc. Nói cách khác, du khách cũng chính là những đại sứ của hòa bình và hữu nghị. - Khi đánh giá vai trò của một ngành kinh tế trong nền kinh tế thị trường của một nước nhất là một ngành có tính chất dịch vụ như du lịch thì cần phải xem xét trên mặt kinh tế và xã hội. Bởi vì du lịch có mặt tích cực và mặt “không tích cực”. Đó là việc kinh doanh du lịch (đặc biệt là du lịch quốc tế) nếu phát triển không đúng hướng có thể gây ra “ô nhiễm” môi trường kinh tế, văn hoá và xã hội, do yếu tố “tiêu cực” từ bên ngoài thâm nhập vào. Do vậy cần phải có chiến lược phát triển du lịch đúng hướng, vừa phát triển kinh tế, vừa giữ gìn cảnh quan môi trường lành mạnh, quan hệ xã hội và bảo đảm an ninh quốc gia. Phát triển du lịch trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nhằm đáp ứng những yêu cầu sau: - Trước hết là mở rộng và thâm nhập thị trường du lịch thế giới. Trong khuôn khổ WTO, ngành du lịch phải tham gia vào chính sách mở cửa thị trường, các doanh nghiệp du lịch trong nước tham gia vào sân chơi toàn cầu. Ngược lại, phải mở cửa để các đối tác trên thế giới tham gia cung cấp dịch vụ du lịch ở Việt Nam. - Ngành du lịch phải đáp ứng với việc tham gia sâu vào các tổ chức quốc tế trong khuôn khổ đa phương như tiểu vùng Mê Kông mở rộng (GMS), diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC). UNWTO, Hiệp hội du lịch châu Á Thái Bình Dương (PATA) nhằm quảng bá vị thế, tạo hình ảnh trên thị trường du lịch thế giới.
- 45 - Tăng cường hợp tác song phương và đa phương để tranh thủ nguồn vốn, công nghệ, kinh nghiệm phát triển du lịch, đào tạo nhân lực, hợp tác xúc tiến quảng bá, khai thác các thị trường trọng điểm. - Phát triển du lịch đòi hỏi phải hoàn thiện đồng bộ khuôn khổ pháp lý để phù hợp với những qui định của UNWTO và các nước ASEAN. - Triển khai xây dựng chiến lược phát triển du lịch; cải thiện môi trường đầu tư để thu hút đầu tư trực tiếp vào du lịch; tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch nhằm tăng sức hấp dẫn và chất lượng sản phẩm. Nhanh chóng thiết lập đại diện tại thị trường trọng điểm, nghiên cứu thị trường đối tác, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến nâng cao hình ảnh du lịch. - Nâng cao chất lượng điểm đến, xây dựng ASEAN là điểm đến chung hấp dẫn, hướng tới xây dựng cộng đồng vào năm 2015. 1.3. Phát triển du lịch đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế 1.3.1. Phát triển bền vững Năm 1980 tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN) lần đầu đưa ra khái niệm “Phát triển bền vững”. Theo IUCN thì “Phát triển bền vững cần phải nhắc đến hiện tượng khai thác nguồn tài nguyên tái tạo và không tái tạo, đến các điều kiện thuận lợi cũng như khó khăn trong việc tổ chức các kế hoạch hành động ngắn hạn và dài hạn đan xen nhau”. Định nghĩa này chú trọng việc sử dụng các tài nguyên nhưng chưa đưa ra khái niệm toàn diện về phát triển bền vững. Đến năm 1987 Ủy ban liên hợp quốc và môi trường và phát triển (UNCED) đưa ra khái niệm phát triển bền vững. Theo UNCED, “ phát triển bền vững thỏa mãn những nhu cầu của hiện tại nhưng không làm giảm khả năng thỏa mãn nhu cầu của các thế hệ mai sau”. Như vậy phát triển bền vững là sự hòa nhập, đan xen và thỏa mãn 3 hệ thống tương tác là hệ tự nhiên, hệ kinh tế và hệ văn hóa - xã hội. Phát triển bền vững không cho phép dành ưu tiên cho hệ này mà gây ra sự tàn phá đối với hệ khác. Sự phát triển bền vững tạo sự cân bằng ba mặt:
- 46 - Sự bền vững về kinh tế: Duy trì trong dài hạn hiệu quả cho mọi hoạt động kinh tế, tạo nên sự thịnh vượng cho cộng đồng dân cư. - Sự bền vững về xã hội: Lợi ích được phân phối công bằng, giảm nghèo được chú trọng lâu dài. Tạo sự bình đẳng cho tất cả mọi người. Tôn trọng các nền văn hóa khác nhau. - Sự bền vững về môi trường: Bảo vệ, quản lý các nguồn tài nguyên, giảm thiểu sự ô nhiễm môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học và các tài nguyên thiên nhiên khác. 1.3.2. Phát triển du lịch bền vững Phát triển du lịch bền vững là xu thế phát triển của du lịch thế giới, là quá trình tối đa hóa lợi ích kinh tế, không làm tổn hại đến tài nguyên, không làm ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường. Du lịch bền vững không thể tách rời phát triển bền vững. Du lịch bền vững đáp ứng nhu cầu của khách du lịch, ngành du lịch và cộng đồng địa phương nhưng không ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng nhu cầu của thế hệ mai sau. Tại Hội nghị về môi trường và phát triển của Liên Hợp quốc tại Riode Janeiro năm 1992, Tổ chức du lịch thế giới (UNWTO) đã đưa ra định nghĩa: Du lịch bền vững là việc phát triển các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu hiện tại của khách du lịch và người dân bản địa trong khi vẫn quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên cho việc phát triển hoạt động du lịch trong tương lai. Du lịch bền vững sẽ có kế hoạch quản lý các nguồn tài nguyên nhằm thỏa mãn các nhu cầu kinh tế, xã hội, thẩm mỹ của con người, trong khi đó vẫn duy trì được sự toàn vẹn về văn hóa, đa dạng sinh học, sự phát triển của các hệ sinh thái và các hệ thống hỗ trợ cho cuộc sống con người. Mục tiêu của du lịch bền vững chúng ta có thể khai thác bao gồm:
- 47 - Đạt mục tiêu kinh tế làm đầu, ở việc gia tăng đóng góp của du lịch vào GDP địa phương. - Đảm bảo tính công bằng xã hội trong phát triển, làm cho cộng đồng người dân được hưởng thụ. - Cải thiện chất lượng cuộc sống cho cộng đồng bản địa, sự phát triển của du lịch mang lại sự phồn thịnh cho nền kinh tế địa phương. - Tối đa hóa nhu cầu cần đáp ứng của du khách. - Duy trì chất lượng môi trường: giảm thiểu ô nhiễm không khí, sự tàn phá tài nguyên thiên nhiên, duy trì đa dạng sinh học và đa dạng văn hóa. Phát triển du lịch bền vững là quá trình phát triển chú trọng trên cả 3 mặt: kinh tế, xã hội và môi trường. Quan tâm đền phát triển kinh tế là khả năng duy trì kinh tế dài hạn và quá trình này mang lại tối đa hóa lợi ích cho cộng đồng địa phương. Tuy nhiên, phát triển kinh tế không phải bằng bất cứ giá nào mà phải quan tâm đến công bằng xã hội và môi trường. Môi trường được hiểu hàm ý rất rộng. Đó là môi trường tự nhiên, kinh tế, văn hóa, chính trị và xã hội là những yếu tố quan trọng tạo nên các sản phẩm du lịch đa dạng, độc đáo. Trong nền kinh tế hiện đại, du lịch được gọi là “ngành công nghiệp không khói” với ý nghĩa là ngành du lịch bền vững đạt được 3 mục tiêu: hiệu quả về kinh tế, hiệu quả về môi trường, hiệu quả về văn hóa - xã hội. Đó là ngành công nghiệp sạch gắn với các loại hình du lịch tương thích với du lịch bền vững, với các nguyên tắc phát triển dài hạn cân bằng với các mục tiêu về môi trường và xã hội. Phát triển du lịch bền vững là mục tiêu dài hạn, cần phải có chiến lược phát triển cân bằng, quan tâm đến toàn cục, phối hợp đồng bộ các doanh nghiệp du lịch, chính quyền, khách du lịch và cộng đồng bản địa. Ngày nay, phát triển du lịch bền vững là yếu tố không thể thiếu của phát triển bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Với tư cách là ngành kinh tế - dịch vụ, du lịch hướng đến mục tiêu phát triển
- 48 bền vững trên 3 trụ cột: kinh tế, môi trường và xã hội. Quá trình kinh doanh hướng tới tối đa hóa lợi nhuận nhưng vẫn đảm bảo về môi trường, sinh thái và xã hội. Đó là quá trình phát triển cân bằng, không vì lợi ích kinh tế mà làm tổn hại đến môi trường và sự hưởng thụ của cộng đồng dân cư. Đạt được mục tiêu kinh tế, đảm bảo công bằng xã hội và duy trì chất lượng môi trường. Đó là ngành du lịch xanh, bền vững, “ngành công nghiệp không khói” mà nó được tôn vinh. 1.3.3. Các điều kiện phát triển du lịch Phát triển du lịch đòi hỏi phải có những điều kiện chung và các điều kiện riêng biệt. - Điều kiện chung: Tình hình phát triển kinh tế, xã hội, chính trị và các quan hệ kinh tế. Trong mỗi quốc gia, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là định hướng quan trọng cho các chính sách phát triển, bao gồm dài hạn và ngắn hạn, với các dự báo, mục tiêu, quan điểm phát triển. Ngành du lịch không thể phát triển khi không có các chiến lược phát triển. Khi kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị phát triển tạo điều kiện cho du lịch phát triển. Ngược lại, du lịch không thể phát triển khi thu nhập quốc dân của dân cư thấp, mức sống và điều kiện sống khó khăn. Muốn phát triển du lịch, ngoài đường lối và chính sách phát triển, người dân phải sẵn sàng cho du lịch, tức là họ dùng một phần thu nhập cho việc đi du lịch. Điều kiện chính trị ổn định, an toàn xã hội đảm bảo, đất nước hòa bình, thịnh vượng, mở cửa, quan hệ quốc tế tốt đẹp là những yếu tố quan trọng cho du lịch phát triển. - Điều kiện về tài nguyên du lịch, bao gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn. Vai trò của tài nguyên du lịch trong việc tạo nên sản phẩm du lịch là hết sức quan trọng. Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm địa hình, địa mạo, thổ nhưỡng, khí hậu, thảm thực vật, thủy văn, rừng, động thực vật Tạo nên các yếu tố cấu thành tự nhiên của sản phẩm du lịch. Tài nguyên du lịch nhân văn bao gồm các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể, các công trình kiến trúc, các di tích lịch sử, các thành tựu chính trị, kinh tế, các hoạt động văn hóa Tài nguyên du