Luận văn Quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn Thành phố Hà Giang
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn Thành phố Hà Giang", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_dat_dai_tren_dia_ban_thanh_pho.pdf
Nội dung text: Luận văn Quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn Thành phố Hà Giang
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TRỊNH THÀNH CÔNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ GIANG LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ KINH TẾ CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH Hà Nội - 2015
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TRỊNH THÀNH CÔNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ GIANG Chuyên ngành: Quản lý kinh tế Mã số: 60340410 LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ KINH TẾ CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ VĂN HÙNG Hà Nội - 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa được sử dụng ở bất kỳ công trình khoa học nào. Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc. Hà Nội, ngày 20 tháng 12 năm 2014 Tác giả Trịnh Thành Công
- LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ rất nhiệt tình và có hiệu quả từ Phòng Đào tạo - Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội; Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Giang; Phòng Tài nguyên và môi trường thành phố Hà Giang; các ban ngành liên quan trong thành phố; Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Hà Giang; Đảng ủy, Ủy ban nhân dân 08 phường, xã trên địa bàn và nhân dân thành phố Hà Giang, tỉnh Hà Giang. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến toàn thể các thầy giáo, cô giáo trong Trường đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội. Đặc biệt bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến Tiến sỹ Vũ Văn Hùng - Giảng viên Trường Đại học Thương mại, người đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong việc hoàn thành luận văn này. Hà Nội, ngày 20 tháng 12 năm 2014 Tác giả Trịnh Thành Công
- MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Lời cảm ơn DANH MỤC BẢNG i MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2 2.1. Mục đích nghiên cứu 3 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 3 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3 3.1. Đối tượng nghiên cứu 4 3.2. Phạm vi nghiên cứu 4 4. Kết cấu luận văn 5 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ ĐẤT ĐAI 6 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 6 1.2. Những vấn đề lý luận về quản lý nhà nƣớc về đất đai 9 1.2.1. Khái niệm và vai trò quản lý nhà nước về đất đai 9 1.2.2. Nội dung, công cụ và phương pháp quản lý nhà nước địa phương về đất đai . 14 1.2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước địa phương về đất đai 23 CHƢƠNG 2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 26 2.1. Phƣơng pháp luận của đề tài quản lý nhà nƣớc về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang 26 2.1.1. Chủ nghĩa duy vật biện chứng 26 2.1.2. Chủ nghĩa duy vật lịch sử 27 2.2. Các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể của đề tài quản lý nhà nƣớc về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang 27
- 2.2.1. Phương pháp trìu tượng hóa khoa học 27 2.2.2. Phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp 29 2.2.3 Phương pháp logic - lịch sử 30 2.2.4. Phương pháp thu thập, xử lý và phân tích dữ liệu thứ cấp 32 2.2.5. Phương pháp thống kê 33 2.2.5. Phương pháp so sánh 34 CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ GIANG GIAI ĐOẠN 2010 - 2013 35 3.1. Khái quát tình hình sử dụng đất trên địa bàn thành phố Hà Giang 35 3.1.1. Hiện trạng quỹ đất 35 3.1.2. Hiện trạng sử dụng các loại đất 36 3.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến quản lý nhà nƣớc về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang 43 3.2.1. Điều kiện tự nhiên của thành phố Hà Giang 43 3.2.2. Tình hình kinh tế, xã hội của thành phố Hà Giang 47 3.3. Thực trạng quản lý nhà nƣớc về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang giai đoại 2010 - 2013 56 3.3.1. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang giai đoạn 2010 - 2013 56 3.3.2. Đánh giá chung về thực trạng quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang giai đoạn 2010 - 2013 65 CHƢƠNG 4. ĐỊNH HƢỚNG MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ GIANG ĐẾN 2020 70 4.1. Định hƣớng và dự báo nhu cầu sử dụng đất trên địa bàn thành phố Hà Giang đến 2020 70 4.1.1. Định hướng phát triển kinh tế của thành phố Hà Giang đến 2020 70 4.1.2. Định hướng sử dụng đất trên địa bàn thành phố Hà Giang đến 2020 72 4.1.3. Dự báo nhu cầu sử dụng đất của thành phố Hà Giang đến 2020 74
- 4.2. Một số giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nƣớc về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang đến 2020 80 4.2.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền 80 4.2.2. Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính 81 4.2.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về đất đai 83 4.2.4. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào quản lý nhà nước về đất đai 84 4.2.5. Hoàn thiện các nội dung quản lý nhà nước về đất đai 87 KẾT LUẬN 93 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
- DANH MỤC BẢNG Trang Bảng 3.1. Kết quả thực tế việc sử dụng đất giai đoạn 2010 - 2013 41 Bảng 3.2. Cơ cấu kinh tế của thành phố Hà Giang giai đoạn 2010 - 2013 49 i
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố dân cư, xây dựng cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng. Trải qua nhiều thế hệ, nhân dân ta đã tốn bao công sức, xương máu mới tạo lập và bảo vệ vốn đất như ngày nay. Thật vậy, đất đai tồn tại từ xa xưa, từ trước khi xuất hiện loài người, qua nhiều thiên niên kỷ, con người người sống và tồn tại vĩnh hằng với đất. Đất đai gắn bó với con người một cách chặt chẽ. Đất đai thì có hạn mà có nguy cơ giảm đi do xu hướng khí hậu nóng lên làm mực nước biển dâng cao. Bên cạnh đó là việc sử dụng đất đai lãng phí, không hiệu quả, việc hủy hoại đất cũng như tốc độ gia tăng về dân số, đặc biệt là khu vực đô thị khu vực đông dân cư khiến cho đất đai khan hiếm ngày càng khan hiếm hơn. Trong khi đó quản lý nhà nước về đất đai nhất là chính quyền cấp địa phương nơi mà phần lớn thẩm quyền giải quyết thủ tục hành chính về đất đai được thực hiện ở đây. Nơi đây là mối quan tâm hàng đầu của các tầng lớp nhân dân. Vấn đề này cần được nghiên cứu một cách nghiêm túc, bằng những luận cứ khoa học để có những biện pháp, chính sách điều chỉnh phù hợp. Do đất đai là tài nguyên có hạn về số lượng, có vị trí cố định trong không gian, không thể thay thế và di chuyển được theo ý muốn chủ quan của con người. Chính vì vậy, việc quản lý và sử dụng tài nguyên quý giá này một cách hợp lý không những có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế đất nước mà còn đảm bảo cho mục tiêu chính trị và phát triển xã hội. Đất đai luôn là yếu tố không thể thiếu được đối với bất cứ quốc gia nào. Ngay từ khi loài người biết đến chăn nuôi, trồng trọt, thì vấn đề sử dụng đất đai không còn đơn giản nữa bởi nó phát triển song song với những tiến bộ của nền khoa học kỹ thuật, kinh tế, xã hội, chính trị Khi xã hội càng phát triển thì giá đất (giá Quyền sử dụng đất) ngày càng cao và luôn giữ được vị trí quan trọng. Do đó, việc quản lý đất đai luôn là mục tiêu quốc gia nhằm nắm chắc và quản lý chặt quỹ đất đai đảm bảo việc sử dụng đất đai tiết kiệm và có hiệu quả. 1
- Xuất phát từ vai trò của đất đai đối với sự sống, sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi vùng lãnh thổ đòi hỏi phải có sự quản lý của Nhà nước về nắm chắc, quản chặt tới từng thửa đất. Vì vậy cần phải có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước về đất đai. Ngoài ra trong điều kiện hiện nay khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, những yếu tố thị trường trong đó có sự hình thành và phát triển của thị trường bất động sản thì đất đai và nhà ở là nhu cầu vật chất thiết yếu của con người, tăng cường năng lực và hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đất đai được bắt nguồn từ nhu cầu khách quan của việc sử dụng có hiệu quả tài nguyên đất, đáp ứng nhu cầu đời sống xã hội. Đối với thành phố Hà Giang là trung tâm kinh tế, chính trị của tỉnh Hà Giang, cách biên giới Việt Nam - Trung Quốc 23 km và cách Hà Nội 318 km. Có ba phía Bắc, Tây và Nam giáp với huyện Vị Xuyên, phía Đông giáp huyện Bắc Mê. Thành phố được thành lập ngày 27 tháng 9 năm 2010 trên cơ sở mở rộng và nâng cấp thị xã Hà Giang. Diện tích tự nhiên của thành phố Hà Giang rộng 130,3 km² và có hơn 75 nghìn nhân khẩu gồm 22 dân tộc sinh sống. Thành phố Hà Giang có 05 phường và 03 xã là Phường Trần Phú; Phường Minh Khai; phường Nguyễn Trãi; phường Quang Trung; phường Ngọc Hà; xã Phương Thiện; xã Phương Độ và xã Ngọc Đường. Diện tích tự nhiên nói trên phần lớn là núi đá có hiệu quả sử dụng thấp, phần diện tích mặt bằng có hiệu quả sử dụng đất cao là dất ít. Trong những năm qua, đặc biệt trong giai đoạn từ năm 2010 tới nay, tình hình kinh tế - xã hội của thành phố Hà Giang phát triển mạnh mẽ, do đó quán trình biến động về đất đai rất lớn để phục phụ nhu cầu phát triển, đặc biệt là việc chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang các loại đất khác như: đất sản xuất kinh doanh; đất giao thông, thuỷ lợi; đất ở Tuy nhiên quá trình quản lý chưa theo kịp với tốc độ phát triển, hồ sơ địa chính bị lạc hậu chưa được thực hiện lại, năng lực quản lý đất đai còn hạn chế, tình hình đơn thư khiếu nại tố cáo liên quan đến đất đai lớn, đặc biệt là đơn thư vượt cấp. Vì vậy nâng cao hiệu quả Quản lý Nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang, tỉnh Hà Giang là cần thiết. 2
- Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện luật Đất đai cũng như các quy định khác của thành phố Hà Giang vẫn còn nhiều hạn chế trong khâu tổ chức thực hiện. Nhiều văn bản có tính chất pháp lý còn chồng chéo và mâu thuẩn, tình trạng chuyển dịch đất đai ngoài sự kiểm soát của pháp luật xảy ra. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình còn chậm, đặc biệt đối với đất ở . Đối với vấn đề cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đô thị và quyền sở hữu nhà ở việc triển khai còn chưa đồng bộ, kết quả đạt được thấp. Việc tranh chấp đất đai vẫn diễn ra dưới nhều hình thức, việc triển khai các khu dân cư mới ven đô thị lấy từ đất lúa, đất rừng còn đang diễn ra ở nhiều nơi. Đứng trước thực trạng đó, để đưa vào việc quản lý và sử dụng đất đai ngày càng có hiệu quả, góp phần vào công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, cần phải rút kinh nghiệm từ thực tế trong quá trình quản lý và sử dụng đất. Trên cơ sở đó, xây dựng các biện pháp nhằm quả lý và sử dụng đất hiệu quả hơn, bền vững hơn. Với mong muốn làm giảm bớt những khó khăn trong quản lý Nhà nước về đất đai của chính quyền thành phố Hà Giang. Xuất phát từ những lý do trên, để đánh giá được một cách đầy đủ và khoa học tình hình quản lý đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang. Đề tài “Quản lý nhà nƣớc về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang” được lựa chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Quản lý kinh tế. Đề tài nghiên cứu sẽ làm sáng tỏ vấn đề: Thế nào là quản lý nhà nước về đất đai? Làm gì để hoàn thiện công tác Quản lý Nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang? 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở xây dựng khung lý thuyết về quản lý nhà nước về đất đai; đánh giá thực tiễn công tác quản lý đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang, luận văn đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Phân tích cơ sở lý luận về quản lý nhà nước về đất đai, nội dung, các công cụ quản lý đất đai. 3
- - Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về đất đai và tình hình sử dụng đất tại thành phố Hà Giang trong khoảng thời gian từ 2010 đến 2013; từ đó đánh giá những kết quả đạt được và những tồn tại trong quản lý nhà nước về đất đai của chính quyền thành phố Hà Giang. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu có tính khả thi cao hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về đất đai tại thành phố Hà Giang và kiến nghị một số vấn đề đối với chính sách đất đai của Nhà nước. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của của luận văn gồm 2 nhóm: - Các chủ thể quản lý đất đai và sử dụng đất đai; - Đất đai. Luận văn nghiên cứu các nội dung và công cụ trong quản lý nhà nước về đất đai theo luật đất đai năm 2003 (Có đề cập một số nội dung mới của luật đất đai có hiệu lực từ 1.7.2014) và đánh giá tình hình sử dụng một số loại đất, nhiệm vụ quản lý và một số nội dung hướng đến công tác quản lý nhà nước trên địa bàn thành phố Hà Giang. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về nội dung: Luận văn nghiên cứu quản lý nhà nước địa phương về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang, do chính quyền cấp thành phố quản lý. - Phạm vi về không gian: Luận văn nghiên cứu quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang. - Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang giai đoạn 2010 - 2013 và đề xuất một số giải pháp chủ yếu hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang đến 2020. Sở dĩ đề tài chọn khoảng thời gian 2010 - 2013 để khảo cứu là vì thời điểm 4
- thực hiện đề tài, luật đất đai mới chưa có hiệu lực (luật đất đai mới chính thức có hiệu lực năm 1.7.2014), đây cũng là giai đoạn mà thành phố Hà Giang đang phát triển mạnh, đô thị hóa tăng nhanh, nhiều vấn đề và quan hệ mới về đất đai phát sinh. 4. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được kết cấu thành 4 chương: - Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về đất đai - Chương 2: Phương pháp nghiên cứu đề tài quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang - Chương 3: Thực trạng quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang giai đoạn 2010 - 2013 - Chương 4: Định hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang đến năm 2020. 5
- CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ ĐẤT ĐAI 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu Vấn đề quản lý đất đai trên thực tế đã có nhiều tác giả nghiên cứu, thể hiện ở nhiều công trình nghiên cứu khoa học các cấp, các bài viết trên các tạp chí và hội thảo quốc gia, quốc tế, sách chuyên khảo, tham khảo. Một số các công trình tiêu biểu sau: - Cuốn sách của tác giả Nguyễn Khắc Thái Sơn (2007): “Quản lý nhà nước về đất đai ”, Nhà xuất bản nông nghiệp Hà Nội đã cung cấp những kiến thức cơ bản về quá trình phát triển của công tác quản lý nhà nước về đất đai ở Việt Nam; chỉ rõ phương pháp, nội dung và công cụ quản lý nhà nước về đất đai. Tuy nhiên, cuốn sách này đề cập đến nội dung cơ bản của luật đất đai năm 2003. Thực tế hiện nay, khi luật đất đai năm 2013 đã được thực thi, cần có những nghiên cứu thực tiễn trong điều kiện mới ở một địa phương cụ thể. - Cuốn sách của tác giả Nguyễn Đình Bồng (2012), “quản lý đất đai ở Việt Nam 1945 - 2010), Nhà xuất bản chính trị Quốc gia đã đề cập đến vấn đề quản lý đất đai ở Việt Nam qua các thời kỳ từ Phong kiến và Pháp thuộc cho đến năm 2010, đặc biệt là giai đoạn 1986 - 2010. Mặc dù vậy, trong bối cảnh hiện nay khi mà luật đất đai 2013 có hiệu lực cần tìm hiểu và áp dụng vào quản lý đất đai thuộc một địa bàn cụ thể nhằm đạt hiệu quả cao nhất. - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của tác giả Nguyễn Khắc Thái Sơn (2006), “Đánh giá thực trạng và những giải pháp tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất đai tại huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên”, Trường Đại học Nông lâm. Đề tài đã hệ thống hóa những đặc trưng cơ bản của quản lý nhà nước về đất đai, làm rõ những quan hệ trong quản lý và sử dụng đất trên địa bàn huyện Đồng Hỷ, tỉnh 6
- Thái Nguyên; xây dựng và đánh giá quản lý nhà nước về đất đai của chính quyền huyện Đồng Hỷ bằng hệ thống chỉ tiêu đánh giá, từ đó đề xuất biện pháp quản lý thích hợp nhằm tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai của chính quyền cấp huyện. - Nguyễn Hữu Hoan (2014), “Quản lý nhà nước đối với quy hoạch sử dụng đất đai trên địa bàn huyện Phúc Thọ, Hà Nội”. Luận văn thạc sỹ Trường Đại học Thương mại của tác giả Nguyễn Đức Quý (2014), “Quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội”. Hai công trình đều tập trung nghiên cứu về vấn đề quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn khác nhau thuộc hai huyện của thành phố Hà Nội. Các tác giả đã chỉ rõ được thực trạng quản lý nhà nước về đất đai, đánh giá được những thành tựu và hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế từ đó làm cơ sở cho định hướng và những giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý đất đai tại địa phương. - Nguyễn Thị Thái (2011), “Quản lý nhà nước đối với các dự án bất động sản trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh”, luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Thương mại. Luận văn đã khái quát cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với các dự án đầu tư bất động sản trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ đó đưa ra những giải pháp quản lý nhà nước địa phương đối với các dự án đầu tư bất động sản của tỉnh đến năm 2015, tầm nhìn 2020. - Thông qua luận văn thạc sỹ: “Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định”, Trường Đại học Đà Nẵng, tác giả Ngô Văn Thanh đã phân tích thực trạng quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn thị xã An Nhơn, nhận diện và chỉ ra những nguyên nhân của các vấn đề còn tồn tại, đưa ra giải pháp để hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về đất đai tốt hơn, góp phần vào sự phát triển của thị xã An Nhơn nói riêng và tỉnh Bình Định nói chung. - Dương Thị Thơm (2012), “Nghiên cứu sự biến động đất nông nghiệp do ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội”, luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Khoa học tự nhiên. Tác giả đã nghiên cứu đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, nghiên 7
- cứu tình hình sử dụng đất nông nghiệp và phân tích sự biến động đất nông nghiệp do ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hóa - đô thị hóa ở huyện Sóc Sơn; dự báo sự biến động diện tích đất nông nghiệp đến năm 2020, từ đó đề xuất giải pháp bảo vệ và sử dụng hiệu quả tài nguyên đất nông nghiệp. Tuy vậy, sự biến động trong quá trình sử dụng đất đai ở mỗi địa phương cũng như tình hình phát triển kinh tế - xã hội cũng khác nhau nên cần có nghiên cứu cụ thể điều kiện ở mỗi địa phương để từ đó có giải pháp khả thi nhất cho quản lý nhà nước địa phương về đất đai. - Hoàng Nguyệt Ánh (2011), “Nghiên cứu giá đất ở phục vụ công tác quản lý tài chính về đất đai và phát triển thị trường bất động sản tại thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn”, luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Khoa học tự nhiên. Tác giả đã tổng hợp cơ sở lý luận và phương pháp xác định giá đất, phân tích tác động của giá đất đối với công tác quản lý tài chính đất đai và phát triển thị trường bất động sản tại thành phố Lạng Sơn, từ đó đề xuất một số giải pháp về giá đất ở đô thị phục vụ công tác quản lý tài chính đất đai và phát triển thị trường bất động sản trên địa bàn nghiên cứu. - Nguyễn Văn Xuyền (2012), “Thực tiễn thi hành pháp luật về quản lý nhà nước đối với đất đai tại huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang”, luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội. Tác giả đã đưa ra những lý luận cơ bản, các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước đối với đất đai, phân tích các vấn đề pháp lý và thực tiễn để tìm ra nguyên nhân thành công và những bất cập trong thực tiễn thi hành pháp luật về quản lý nhà nước đối với đất đai tại huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang, từ đó đề xuất những giải pháp tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với đất đai trên địa bàn huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang. Toám lại, có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề quản lý nhà nước về đất đai ở nhiều địa phương khác nhau. Mỗi đề tài đều đề cập đến một địa phương cụ thể, nhìn chung đều đã chỉ ra những bất cập nhất định trong công tác quản lý đất đai và trên cơ sở đó tìm ra nguyên nhân và những giải pháp nhằm tăng cường quản lý đất đai tại địa bàn nghiên cứu. Bên cạnh đó, các đề tài nghiên cứu này chỉ đề cập đến khoảng thời gian trước năm 2013, thời điểm luật đất đai năm 2013 chưa có hiệu 8
- lực thi hành. Nhằm hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về đất đai đối với địa bàn thành phố Hà Giang, cần tập trung vào những vấn đề sau: - Cần làm rõ những điểm mới trong luật đất đai năm 2013 trong nghiên cứu để thấy được những điều chỉnh về mặt pháp lý trong quản lý đất đai từ cấp Trung ương đến địa phương. Cụ thể là những điểm mới trong quản lý đất đai tại thành phố Hà Giang. - Cần làm rõ điều kiện kinh tế, chính trị và văn hóa, xã hội của tỉnh Hà Giang nói chung và thành phố Hà Giang nói riêng đến công tác quản lý đất đai tại đây. - Cần làm rõ thực trạng quản lý đất đai tại thành phố Hà Giang, những kết quả đạt được và những hạn chế cần khắc phục, nguyên nhân của nó và những giải pháp khả thi đưa ra. - Như vậy, đề tài nghiên cứu về quản lý đất đai ở các địa phương có nhiều tác giả đã đề cập, tuy nhiên chưa có đề tài nào đi sâu phân tích quản lý về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang. Vì vậy, trong luận văn này, tác giả đã tiếp tục kế thừa có chọn lọc những nghiên cứu trước đó và tập trung vào vấn đề cơ bản trong quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang nhằm góp phần vào sự phát triển chung của thành phố. 1.2. Những vấn đề lý luận về quản lý nhà nƣớc về đất đai 1.2.1. Khái niệm và vai trò quản lý nhà nước về đất đai 1.2.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về đất đai * Khái niệm đất đai Đất đai là điều kiện vật chất mà mọi sản xuất và sinh hoạt đều cần tới. Trong quá trình phát triển của xã hội loài người, sự hình thành và phát triển của mọi nền văn minh đều xây dựng trên nền tảng cơ bản là đất đai. Hội nghị quốc tế về môi trường tại Rio de Janerio, Brazil, 1993: “Đất đai là một diện tích cụ thể của bề mặt trái đất, bao gồm tất cả các cấu thành của môi trường sinh thái ngay trên và dưới bề mặt đó như: khí hậu bề mặt, thổ nhưỡng, dạng địa hình, mặt nước, lớp trầm tích sát bề mặt cùng với nước ngầm và khoáng sản trong lòng đất, tập đoàn động thực vật, trạng thái định cư của con người, 9
- những kết quả của con người trong quá khứ và hiện tại để lại’’. Theo khái niệm trên, đất đai có một số đặc điểm sau: - Đất đai có vị trí cố định: Con người không thể di chuyển đất đai theo ý muốn, vị trí cố định đã quy định tính chất vật lý, hóa học, sinh thái của đất đai. Tính cố định của vị trí đất đai đã buộc con người phải sử dụng đất tại chỗ. Mỗi mảnh đất có đặc điểm khác nhau về tính chất, khả năng sử dụng nên chúng có giá trị riêng. - Đất đai có hạn về diện tích: Đất đai do lịch sử tự nhiên hình thành, diện tích có tính bất biến. Hoạt động của con người có thể cải tạo được tính chất của đất, cải biến tình trạng đất đai nhưng không thể làm thay đổi diện tích đất đai theo ý muốn. Do tính hữu hạn về diện tích nên yêu cầu đặt ra là phải sử dụng đất có hiệu quả. - Tính lâu bền: Đất đai không bị hao mòn theo thời gian. Trong điều kiện sử dụng và bảo vệ hợp lý, chất lượng đất có thể nâng cao không ngừng và giá trị đất đai luôn có xu hướng tăng theo thời gian. - Đất đai có tính đa dạng, phong phú tùy thuộc vào mục đích sử dụng đất đai và phù hợp với từng vùng địa lý. * Khái niệm quản lý nhà nước - Quản lý là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Mỗi ngành khoa học đều đưa ra một khái niệm về quản lý dưới góc độ riêng của ngành mình. Tuy nhiên, về cơ bản Quản lý là một quá trình, trong đó chủ thể quản lý tổ chức, điều hành, tác động có định hướng, có chủ đích một cách khoa học và nghệ thuật vào khách thể quản lý nhằm đạt kết quả tối ưu theo mục tiêu đã đề ra thông qua việc sử dụng các phương pháp và công cụ thích hợp. Quản lý còn được hiểu là một hệ thống, bao gồm các thành tố: đầu vào, đầu ra, quá trình biến đổi đầu vào thành đầu ra, môi trường và mục tiêu. Các yếu tố trên luôn tác động qua lại lẫn nhau. Một mặt, chúng đặt ra các yêu cầu, những vấn đề quản lý phải giải quyết. Mặt khác, chúng ảnh hưởng đến hiệu lực và hiệu quả của quản lý. Quản lý bao gồm các yếu tố: Chủ thể quản lý nắm quyền lực và sử dụng quyền lực để tác động vào đối tượng quản lý; Đối tượng quản lý là những cá nhân, tổ chức 10
- thực hiện các quyết định quản lý; Mục tiêu quản lý là cái đích mà các chủ thể quản lý hướng tới; Quản lý muốn đạt được kết quả tối ưu phải đặt trong một môi trường cụ thể, với những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. - Quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà nước, được sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì, phát triển các mối quan hệ xã hội, trật tự pháp luật nhằm thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước. Chức năng, nhiệm vụ của nhà nước được thực hiện thông qua bộ máy nhà nước. Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương, được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất, tạo thành một chỉnh thể đồng bộ để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Quản lý nhà nước có thể phân thành: Quản lý nhà nước trung ương và quản lý nhà nước địa phương. Quản lý nhà nước trung ương là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của cơ quan quản lý cấp trung ương lên các mặt đời sống xã hội của đất nước nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để đạt được các mục tiêu đề ra. Đây là quản lý mang tính quyền lực cao nhất, làm cơ sở cho quản lý nhà nước địa phương thực hiện theo. Quản lý nhà nước địa phương là quá trình chính quyền địa phương triển khai thực hiện các quy định do cơ quan quản lý cấp trung ương ban hành, đồng thời ban hành các văn bản quy định về cơ chế chính sách liên quan đến hoạt động cần quản lý theo thẩm quyền sao cho phù hợp tình hình phát triển kinh tế xã hội của địa phương. * Khái niệm quản lý nhà nước về đất đai Xuất phát từ việc tìm hiểu khái niệm về quản lý, quản lý nhà nước, ta có khái niệm quản lý nhà nước về đất đai như sau: Quản lý nhà nước về đất đai là hoạt động tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các hành vi của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai để thực hiện và bảo vệ quyền sở hữu toàn dân về đất đai nhằm duy trì và phát triển các quan hệ đất đai theo trật tự pháp luật quy định. 11
- Như vậy quản lý nhà nước về đất đai là tổng hợp các hoạt động của cơ quan Nhà nước về đất đai: Đó là các hoạt động trong việc nắm và quản lý tình hình sử dụng đất đai; trong việc phân bố đất đai vào các mục đích sử dụng theo chủ trương của Nhà nước; trong việc kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng đất. Quản lý nhà nước về đất đai là một công việc phức tạp, với sự tham gia quản lý trực tiếp và gián tiếp bởi nhiều cơ quan quản lý khác nhau từ trung ương đến địa phương: Quản lý nhà nước cấp trung ương đối với đất đai là quản lý quyền lực cao nhất, điều chỉnh mọi quan hệ trong quản lý đất đai. Quản lý nhà nước địa phương đối với đất đai là hoạt động quản lý dựa theo nguyên tắc phục tùng từ quản lý trung ương. Quản lý nhà nước địa phương đối với đất đai là sự triển khai thực hiện các quy định quản lý từ trung ương sao cho phù hợp với tình hình cụ thể của địa phương. Vì vậy, khái niệm quản lý nhà nước địa phương về đất đai được hiểu như sau: Quản lý nhà nước địa phương về đất đai là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền, trên cơ sở quyền lực lên các mối quan hệ về đất đai của chính quyền địa phương dựa theo thẩm quyền được pháp luật quy định nhằm đảm bảo đất đai được sử dụng hiệu quả, phù hợp với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương. 1.2.1.2. Vai trò quản lý nhà nước về đất đai Đất đai là tặng vật quý giá mà thiên nhiên ban tặng, không do con người tạo ra. Đất đai không tự sinh ra và cũng không tự nhiên mất đi, nó chỉ chuyển hoá từ mục đích sử dụng này sang mục đích sử dụng khác nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người. Lịch sử phát triển của nhân loại luôn gắn liền với đất đai. Tất cả các cuộc chiến tranh trên Thế giới và các cuộc đấu tranh dựng nước, giữ nước đều có liên quan đến đất đai bởi đất đai là yếu tố cấu thành lên mỗi quốc gia, là điều kiện không thể thiếu đối với môi trường sống và mọi ngành kinh tế. 12
- Đất đai là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, có đất đai mới có các hoạt động sống diễn ra. Đất đai ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống sinh thái của con người và các sinh vật trên trái đất. Đất đai là địa bàn phân bố dân cư, địa bàn sản xuất của con người. Trong công nghiệp, đất đai có vai trò là nền tảng, cơ sở, địa điểm để tiến hành các thao tác, hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất đai có vai trò đặc biệt, không những là địa điểm thực hiện quá trình sản xuất mà nó còn là tư liệu lao động để con người khai thác và sử dụng. Trong mọi nền kinh tế - xã hội thì lao động, tài chính, đất đai và các nguồn tài nguyên là ba nguồn lực đầu vào và đầu ra là sản phẩm hàng hóa. Ba nguồn lực này phối hợp với nhau, tương tác lẫn nhau, chuyển đổi qua lại để tạo nên một cơ cấu đầu vào hợp lý, quyết định tính hiệu quả trong phát triển kinh tế. Ngày nay, đất đai trở thành nguồn nội lực quan trọng, nguồn vốn to lớn của mọi quốc gia. Có thể khẳng định rằng, đất đai là tài nguyên quan trọng, không thể thay thế được nhưng đất đai chỉ có thể phát huy vai trò của nó dưới những tác động tích cực của con người một cách thường xuyên. Ngược lại, đất đai không phát huy tác dụng nếu con người sử dụng đất một cách tùy tiện. Dù trong thực tế, mỗi quốc gia đều có cách tiếp cận riêng, thống nhất với đặc điểm chung của đất đai và hoàn cảnh lịch sử của mình song mọi cách tiếp cận đều nhằm mục tiêu bảo đảm nguồn lực đất đai để phát triển kinh tế đất hiệu quả và xác lập quyền bình đẳng về sử dụng đất đai để tạo ổn định kinh tế - xã hội. Do đó, đất đai trở thành mối quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia. Chính vì vậy, vai trò của nhà nước trong việc quản lý đất đai thể hiện ở những điểm sau: Thứ nhất, đảm bảo sử dụng đất đai hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả. Đất đai được sử dụng vào tất cả các hoạt động của con người, tuy có hạn chế về mặt diện tích nhưng sẽ trở thành năng lực sản xuất vô hạn nếu biết sử dụng hợp lý. Nhờ có quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất, từng diện tích đất sẽ được giao cho các đối tượng cụ thể để thực hiện các mục tiêu quan trọng của nhà nước địa phương. 13
- Thứ hai, bảo vệ quyền lợi và lợi ích chính đáng của các đối tượng sử dụng đất đai trong quan hệ về đất đai thông qua việc tổ chức thực hiện chính sách pháp luật về đất đai. Bằng công cụ pháp luật, cơ quan quản lý điều chỉnh hành vi của các đối tượng sử dụng đất, khuyến khích việc sử dụng đất đúng mục đích, phát huy nguồn lực đất. Bên cạnh đó, pháp luật sẽ là cơ sở để phát hiện những hành vi gây tổn hại đến tài nguyên đất, đưa ra các chế tài xử lý đối với những hành vi này. Thứ ba, nâng cao khả năng sinh lời của đất để góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội của địa phương và bảo vệ môi trường thông qua việc thực hiện các chính sách về đất đai như chính sách giá đất, chính sách thuế, chính sách đầu tư, Chính sách về đất đai là công cụ để cơ quan nhà nước thực hiện vai trò quản lý của mình trong từng giai đoạn nhất định. Thứ tư, thông qua việc giám sát, kiểm tra quản lý và sử dụng đất đai, cơ quan quản lý sẽ nắm bắt tình hình biến động về sử dụng từng loại đất, đối tượng sử dụng đất. Từ đó, phát hiện những mặt tích cực để phát huy, điều chỉnh và giải quyết những sai phạm, kịp thời sửa chữa những sai sót gây ách tắc trong quá trình thực hiện. 1.2.2. Nội dung, công cụ và phương pháp quản lý nhà nước địa phương về đất đai 1.2.2.1. Nội dung quản lý nhà nước địa phương về đất đai Là tổng hợp các hoạt động của cơ quan Nhà nước địa phương về đất đai. Đó là các hoạt động trong việc nắm và quản lý tình hình sử dụng đất đai, trong việc phân bổ đất đai vào các mục đích sử dụng đất theo chủ trương của Nhà nước của địa phương, trong việc kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng đất đai. Muốn đạt được mục tiêu quản lý, Nhà nước cần phải xây dựng hệ thống cơ quan quản lý đất đai có chức năng, nhiệm vụ rõ ràng để thực thi có hiệu quả trách nhiệm được Nhà nước phân công, đồng thời ban hành các chính sách, chế độ, thể chế phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước đáp ứng được nội dung quản lý nhà nước về đất đai. Điều này thể hiện chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là quản lý mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội trong đó có quản lý đất đai. Mục đích 14
- cuối cùng của Nhà nước và người sử dụng đất là làm sao khai thác tốt nhất tiềm năng của đất đai để phục vụ cho các mục tiêu kinh tế, xã hội của đất nước, của địa phương. Vì vậy, đất đai cần phải được thống nhất quản lý theo quy hoạch và pháp luật. * Ban hành văn bản dưới luật về quản lý, sử dụng đất đai Văn bản dưới luật là văn bản do các cơ quan nhà nước ở địa phương có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó các quy tắc chung được Nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. Đây là những văn bản không chỉ cung cấp thông tin mà còn thể hiện ý chí mệnh lệnh của chính quyền địa phương đối với người sử dụng đất nhằm thực hiện các quy định luật lệ của Nhà nước. Việc xây dựng văn bản dưới luật về quản lý, sử dụng đất đai là một nội dung quan trọng không thể thiếu trong hoạt động quản lý nhà nước địa phương về đất đai. Dựa trên việc ban hành các văn bản dưới luật này, chính quyền địa phương buộc các đối tượng sử dụng đất phải thực hiện các quy định theo một khuôn khổ. Văn bản dưới luật về quản lý, sử dụng đất biểu hiện quyền lực của chính quyền địa phương về đất đai, nhằm lập lại một trật tự pháp lý theo mục tiêu nhất định. Nhưng văn bản dưới luật về đất đai phải vừa thể hiện ý chí của cơ quan ban hành, vừa thể hiện được nguyện vọng của đối tượng sử dụng đất đai. Quản lý đất đai muốn đạt được hiệu quả cao thì các văn bản được ban hành cần phải đảm bảo thống nhất, minh bạch, rõ ràng và đồng bộ. * Xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai Quy hoạch sử dụng đất là việc phân bổ và khoanh vùng đất đai theo không gian sử dụng cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, trên cơ sở tiềm năng đất đai và nhu cầu sử dụng đất của các ngành, lĩnh vực đối với từng vùng kinh tế - xã hội và đơn vị hành chính trong một khoảng thời gian xác định. Thực chất là quá trình hình thành các quyết định nhằm tạo điều kiện đưa đất đai vào sử dụng bền vững phát huy lợi thế của thổ nhưỡng và lãnh thổ để mang lại lợi ích cao, thực hiện đồng thời hai chức năng: điều chỉnh các mối quan hệ đất đai 15
- và tổ chức sử dụng đất như tư liệu sản xuất đặc biệt. Mục đích chung của quy hoạch sử dụng đất theo lãnh thổ hành chính là đáp ứng nhu cầu đất đai một cách tiết kiệm, khoa học, hợp lý và có hiệu quả. Quy hoạch sử dụng đất được lập cho giai đoạn 10 năm. Kế hoạch sử dụng đất là việc phân chia quy hoạch sử dụng đất theo thời gian để thực hiện trong kỳ quy hoạch sử dụng đất. Kế hoạch sử dụng đất cụ thể hóa quy hoạch, tập trung những nguồn lực vào giải quyết có hiệu quả những vấn đề của kế hoạch trong từng thời kỳ. Nội dung kế hoạch sử dụng đất bao gồm khoanh định việc sử dụng từng loại đất trong từng thời kỳ kế hoạch (từ tổng thể đến cụ thể, từ quy hoạch đến kế hoạch); điều chỉnh kế hoạch sử dụng đất đai cho phù hợp với quy hoạch. Kế hoạch sử dụng đất được lập cho giai đoạn 5 năm. * Quản lý giao đất, thu hồi và chuyển mục đích sử dụng đất Chính quyền địa phương được quyền giao đất và cho phép chuyển mục đích sử dụng đất cho các đối tượng sử dụng đất phù hợp với thẩm quyền của từng cấp chính quyền địa phương. Giao đất là công việc của chính quyền địa phương trao quyền sử dụng đất bằng quyết định hành chính và bằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất. Họ sẽ là người sử dụng, khai thác trực tiếp đất đai với nhiệm vụ phải sử dụng đất đúng mục đích, đúng thời hạn sử dụng và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính đối với cơ quan chức năng. Giao đất được chia làm hai loại: Giao đất không thu tiền sử dụng đất và giao đất có thu tiền sử dụng đất dựa vào các tiêu chí đất nông nghiệp hay đất phi nông nghiệp, đất dùng cho lợi ích công cộng hay lợi ích kinh doanh. Việc giao đất và chuyển mục đích sử dụng đất phải căn cứ vào quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất. Thu hồi đất và việc chính quyền địa phương ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho đối tượng sử dụng đất theo quy định. Chính quyền địa phương sẽ tiến hành thu hồi đất đối với những trường hợp: Thực hiện giải phóng mặt bằng, sử dụng đất vào mục đích an ninh quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; Đối tượng được giao đất sử dụng không đúng mục đích; Không thực hiện nghĩa vụ khi sử dụng đất hoặc hết thời hạn thuê đất. 16
- * Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Lập và quản lý hồ sơ địa chính, tổ chức đăng ký và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là biện pháp nhằm theo dõi tình hình sử dụng và biến động của đất đai, đồng thời thiết lập quyền sử dụng đất hợp pháp cho người sử dụng đất, tạo cơ sở pháp lý cần thiết để người sử dụng và cơ quan quản lý đất đai thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là việc ghi nhận quyền sử dụng đất hợp pháp đối với một thửa đất xác định vào hồ sơ địa chính nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải được thực hiện thường xuyên liên tục để có thể phản ánh kịp thời những biến động của đất đai. Hồ sơ địa chính và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cung cấp thông tin đầy đủ nhất, là cơ sở để bảo vệ các quyền của người sử dụng đất khi xảy ra tranh chấp cũng như nghĩa vụ tài chính mà họ phải tuân thủ theo quy định của pháp luật. * Quản lý tài chính về đất đai Là việc sử dụng công cụ tài chính để quản lý đất đai, nó không chỉ đơn thuần là quản lý giá đất, các khoản thu từ đất để tăng thu ngân sách mà còn là công cụ để khuyến khích sử dụng đất một cách hợp lý, tiết kiệm và ngày càng hiệu quả. Đồng thời điều tiết và quản lý quyền sử dụng đất nói riêng, thị trường bất động sản nói chung nhằm phát triển thị trường này một cách lành mạnh, hiệu quả và bền vững, góp phần ngăn chặn nạn đầu cơ đất đai, đảm bảo công bằng về tài chính trong sử dụng đất và phân phối nguồn tài nguyên đất. Nhiệm vụ của chính quyền địa phương là thực hiện các khoản thu và chi về đất đai theo quy định của Nhà nước, đảm bảo nguồn tài chính được sử dụng đúng mục đích và hiệu quả. Nguồn thu ngân sách của chính quyền địa phương về đất đai chủ yếu từ các khoản thu bao gồm: tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế nhà đất, thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất, phí và lệ phí trong quản lý, sử dụng đất đai và tiền thu từ đấu giá quyền sử dụng đất. * Quản lý thị trường quyền sử dụng đất Thị trường quyền sử dụng đất là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch quyền sử dụng đất, tại đó người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá 17
- cả và số lượng của quyền sử dụng đất được giao dịch. Điều kiện để đối tượng nắm quyền sử dụng đất được tham gia vào thị trường bất động sản là có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đất không có tranh chấp, quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án trong thời hạn sử dụng đất. Nhiệm vụ của chính quyền địa phương là tạo điều kiện cho thị trường quyền sử dụng đất phát triển một cách vững chắc, để làm được điều này, cần phải tiến hành một loạt các hoạt động: tổ chức đăng ký giao dịch, tổ chức đăng ký phát triển quỹ đất, tổ chức đăng ký dịch vụ hỗ trợ thị trường, thực hiện các biện pháp bình ổn giá, chống đầu cơ, Ngoài ra, còn phải quản lý dịch vụ cung cấp thông tin đất đai như: thông tin về thửa đất, về quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất và tình trạng thực hiện các quyền của người sử dụng đất được cung cấp công khai cho người có yêu cầu. * Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật và giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai. Thanh tra đất đai là việc điều tra, xem xét để làm rõ việc vi phạm pháp luật đất đai và kiến nghị biện pháp xử lý. Kiểm tra đất đai là việc xem xét tình hình thực tế về quản lý, sử dụng đất đai để đánh giá, nhận xét. Mục đích của thanh kiểm tra là thúc đẩy quá trình thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật về đất đai, phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về đất đai; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để đề xuất sửa đổi và bổ sung cho ngày càng hoàn thiện hơn. Giải quyết tranh chấp, khiếu nại và tố cáo đất đai là biện pháp nhằm điều chỉnh các mối quan hệ đất đai theo đúng pháp luật, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, đem lại công bằng cho chủ sử dụng đất. Trong quá trình sử dụng đất không tránh khỏi việc xảy ra tranh chấp, kiện tụng giữa các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân với nhau. Đặc biệt trong giai đoạn kinh tế thị trường như hiện nay, đất đai ngày càng có giá trị lớn, tranh chấp đất đai ngày càng phức tạp nếu không có cơ chế giải quyết sẽ mất ổn định kinh tế - xã hội. Lúc này, chính quyền địa phương đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp, khiếu nại diễn ra tại địa phương. Khuyến khích 18
- các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải ở cơ sở luôn là biện pháp ưu tiên hàng đầu khi thực hiện công tác này. 1.2.2.2. Công cụ quản lý nhà nước địa phương về đất đai * Công cụ pháp luật Pháp luật là công cụ không thể thiếu của các cơ quan quản lý nhà nước từ cấp trung ương xuống cấp chính quyền địa phương. Cơ quan quản lý nhà nước luôn thực hiện quyền lực của mình bằng các văn bản quy phạm pháp luật để tác động vào ý chí, điều chỉnh hành vi của đối tượng quản lý. Trong công tác quản lý đất đai, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật bao gồm: - Cấp trung ương: Các văn bản luật do Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất nhà nước ban hành theo hình thức và thủ tục được quy định trong Hiến pháp, đó là những văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất. Hoặc các văn bản dưới luật như Pháp lệnh và Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Lệnh và Quyết định của Chủ tịch nước; Nghị Quyết và Nghị định của Chính phủ; Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của Bộ trưởng; - Cấp địa phương: Các văn bản dưới luật là công cụ có vai trò quan trọng nhất và được sử dụng phổ biến để duy trì trật tự an toàn xã hội trong lĩnh vực đất đai. Các văn bản dưới luật về đất đai của chính quyền địa phương gồm có Nghị quyết của Hội đồng nhân dân; Quyết định, chỉ thị của Ủy Ban nhân dân các cấp. Các văn bản được ban hành để thi hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan quản lý nhà nước cấp trung ương hoặc văn bản do Ủy ban nhân dân ban hành để thi hành Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp. Vấn đề đất đai gắn chặt với lợi ích vật chất và tinh thần của mọi đối tượng sử dụng đất nên dễ nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Trong các mâu thuẫn đó có những vấn đề phải dùng đến quyết định quản lý mới xử lý được. Do đó, các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành phải rõ ràng, đồng bộ và phù hợp với nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân, hệ thống lưu trữ thông tin đất đai chính xác, cùng với một đội ngũ viên chức chuyên nghiệp mới xử lý và quản lý tốt vấn đề đất đai. * Công cụ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai 19
- Trong công tác quản lý nhà nước về đất đai, công cụ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là công cụ quản lý quan trọng và là một nội dung không thể thiếu được trong công tác quản lý nhà nước về đất đai ở tất cả các cấp quản lý. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đảm bảo cho việc lãnh đạo, chỉ đạo của chính quyền địa phương có sự thống nhất trong quản lý về đất đai. Quy hoạch, kế hoạch khi được phê duyệt là cơ sở pháp lý để quyết định mục đích sử dụng đất. Đây là công việc khó khăn và tốn kém cần có sự phối hợp thực hiện của nhiều cơ quan quản lý. Từ đó, chính quyền địa phương sẽ kiểm soát được mọi diễn biến về tình hình đất đai, ngăn chặn được việc sử dụng đất sai mục đích, lãng phí. Đồng thời, thông qua quy hoạch, kế hoạch buộc các đối tượng sử dụng đất chỉ được phép sử dụng trong phạm vi ranh giới của mình. Quy hoạch đất đai được lập theo vùng lãnh thổ và theo các ngành. Quy hoạch đất đai theo vùng lãnh thổ là quy hoạch sử dụng đất đai được lập theo các cấp hành chính gồm: quy hoạch sử dụng đất đai của quốc gia, quy hoạch sử dụng đất đai cấp tỉnh, quy hoạch sử dụng đất đai cấp huyện và quy hoạch sử dụng đất đai cấp xã. Quy hoạch đất đai theo ngành là quy hoạch sử dụng đất được lập theo các ngành như: quy hoạch sử dụng đất đai ngành nông nghiệp, công nghiệp, du lịch, giao thông, * Công cụ chính sách Từ góc độ quản lý nhà nước, chính sách là những cách thức tác động của Nhà nước vào các lĩnh vực của đời sống xã hội để đạt được mục tiêu định hướng. Chính sách điều chỉnh những quan hệ ít mang tính ổn định, mềm dẻo, linh động. Chính sách có tác động nhanh, kịp thời và toàn diện đến nhận thức, thái độ và hành vi của đối tượng bị tác động. Đặc biệt, chính sách điều chỉnh động cơ, tạo động lực cho hành vi, hoạt động của các cá nhân và từng nhóm đối tượng cụ thể. Chính sách là một công cụ quan trọng để chính quyền địa phương thực hiện quản lý về đất đai sao cho hiệu quả. Các chính sách chủ yếu liên quan đến đất đai được áp dụng là chính sách thuế, chính sách giá đất, chính sách đầu tư, Trong đó, 20
- chính sách thuế nhằm đảm bảo các nguồn thu từ đất đai, chính sách giá đất phục vụ cho việc giải phóng mặt bằng, đấu giá quyền sử dụng đất, chính sách đầu tư tác động đến việc phân phối lại nguồn lực đất đai sao cho hiệu quả. Các chính sách liên quan đến đất đai tác động đến các đối tượng sử dụng đất làm cho họ thấy được nghĩa vụ và trách nhiệm trong việc sử dụng đất đai. Đây còn là công cụ quản lý đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện quyền bình đẳng giữa các đối tượng sử dụng đất và kết hợp hài hòa giữa các lợi ích. Vì vậy, hệ thống chính sách đất đai cần được quy định đơn giản, rõ ràng, minh bạch nhằm nâng cao trách nhiệm và đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người sử dụng đất. 1.2.2.3. Phương pháp quản lý nhà nước địa phương về đất đai * Phương pháp hành chính Là phương pháp tác động mang tính trực tiếp. Phương pháp này dựa vào mối quan hệ tổ chức của hệ thống quản lý, mà thực chất đó là mối quan hệ giữa quyền uy và sự phục tùng. Phương pháp quản lý hành chính về đất đai là cách thức tác động trực tiếp của cơ quản quản lý thông qua các quyết định dứt khoát có tính chất bắt buộc bằng các mệnh lệnh hành chính lên các chủ thể quản lý và đối tượng sử dụng đất trong quan hệ đất đai. Nó đòi hỏi người sử dụng đất phải chấp hành nghiêm chỉnh, nếu vi phạm sẽ bị xử lý theo pháp luật. Trong quản lý nhà nước địa phương về đất đai, phương pháp hành chính có vai trò to lớn, xác lập được kỷ cương trật tự trong xã hội. Là khâu nối liền hoạt động giữa các bộ phận có liên quan và giải quyết các vấn đề đặt ra trong công tác quản lý một cách nhanh chóng, kịp thời. Khi sử dụng phương pháp hành chính phải gắn chặt chẽ quyền hạn và trách nhiệm của các cấp quản lý nhà nước về đất đai khi ra quyết định, đồng thời phải làm rõ, cụ thể hóa chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan Nhà nước tại địa phương và từng cá nhân. Mọi cấp quản lý, mọi tổ chức, mọi cá nhân khi ra quyết định phải hiểu rõ quyền hạn của mình đến đâu và trách nhiệm của mình như thế nào khi sử dụng quyền hạn đó. Các quyết định hành chính do con người đặt ra, muốn có 21
- kết quả và hiệu quả cao cần phải có tính khoa học, có đầy đủ thông tin liên quan cần thiết, tuyệt đối không thể là ý kiến chủ quan của con người. * Phương pháp kinh tế Phương pháp kinh tế về quản lý đất đai là cách thức tác động gián tiếp của cơ quan nhà nước vào đối tượng sử dụng đất thông qua các lợi ích kinh tế. Mặt mạnh của phương pháp kinh tế ở chỗ nó tác động vào lợi ích của đối tượng bị quản lý làm cho họ phải suy nghĩ, tính toán và lựa chọn phương án hoạt động có hiệu quả nhất vừa đảm bảo lợi ích của mình, vừa đảm bảo lợi ích chung của xã hội. Từ đó, đối tượng chịu sự tác động sẽ tự giác, chủ động hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, không cần có sự tác động thường xuyên như phương pháp hành chính. Chính quyền địa phương tác động lên đối tượng quản lý trên cơ sở các phạm trù kinh tế, các đòn bẩy kinh tế, các định mức kinh tế - kỹ thuật như miễn giảm tiền sử dụng đất, ghi nợ tiền sử dụng đất, hạn mức giao đất. Vì vây, phương pháp kinh tế là phương pháp mềm dẻo nhất, dễ thu hút đối tượng quản lý và ngày càng được sử dụng phổ biến. Phương pháp kinh tế giúp nâng cao trách nhiệm của tổ chức, cá nhân đồng thời giúp cho cơ quan quản lý nhà nước giảm bớt được nhiều công việc hành chính như kiểm tra, đôn đốc có tính chất sự vụ hành chính. Vì vậy, sử dụng phương pháp này vừa tiết kiệm được chi phí quản lý, vừa giảm được tính cứng nhắc hành chính, vừa tăng cường tính sáng tạo của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. * Phương pháp tuyên truyền, giáo dục Là cách thức tác động của Nhà nước vào nhận thức và tình cảm của con người nhằm nâng cao tính tự giác và lòng nhiệt tình của họ trong quản lý đất đai nói riêng và trong hoạt động kinh kế - xã hội nói chung. Tuyên truyền, giáo dục là một trong các phương pháp không thể thiếu trong công tác quản lý nhà nước bởi vì đối tượng quản lý là con người mà con người là tổng hòa của nhiều mối quan hệ xã hội và ở họ có nhiều đặc điểm tâm lý đa dạng. Do đó, cần phải có nhiều phương pháp tác động khác nhau trong đó có phương pháp tuyên truyền giáo dục. 22
- Trong thực tế, phương pháp tuyên truyền, giáo dục được sử dụng kết hợp với các phương pháp khác, hỗ trợ cùng phương pháp khác để nâng cao hiệu quả công tác. Nếu tách rời phương pháp giáo dục với các phương pháp khác, tách rời giáo dục với khuyến khích lợi ích vật chất, tách rời giáo dục với cưỡng chế bắt buộc thì hiệu quả của công tác quản lý sẽ không cao, thậm chí không thể thực hiện được. Nhưng nếu kết hợp tốt, kết hợp nhịp nhàng, linh hoạt phương pháp giáo dục với các phương pháp khác thì hiệu quả công tác quản lý sẽ rất cao. 1.2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước địa phương về đất đai 1.2.3.1. Điều kiện tự nhiên của địa phương Đất đai là sản phẩm của tự nhiên, do tự nhiên tạo ra vì vậy việc quản lý đất đai bị chi phối bởi điều kiện tự nhiên. Điều kiện tự nhiên ở đây chủ yếu xét đến các yếu tố như: khí hậu, nhiệt độ, ánh sáng, lượng mưa, không khí, khoáng sản dưới lòng đất, Nó ảnh hưởng lớn đến công tác điều tra, đo đạc, khảo sát, đánh giá đất. Công tác đo đạc, khảo sát, đánh giá đất được thực hiện trên thực địa, nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi, nó sẽ được tiến hành nhanh chóng, chính xác và tiết kiệm được kinh phí cho nhà nước. Do đất đai có tính cố định, mỗi vùng miền lại có một đặc điểm điều kiện tự nhiên khác nhau, vì vậy khi tiến hành điều tra, khảo sát đo đạc đất đai cần phải nghiên cứu điều kiện tự nhiên của từng địa phương để đưa ra phương án thực hiện có hiệu quả nhất. 1.2.3.2. Hệ thống luật pháp về đất đai Kinh tế càng phát triển, các mối quan hệ sử dụng đất đai càng phức tạp đòi hỏi hệ thống luật pháp nói chung và hệ thống luật pháp về đất đai nói riêng phải đồng bộ, rõ ràng, cụ thể để công tác quản lý nhà nước được hiệu quả và thuận lợi. Bên cạnh đó, pháp luật sẽ tạo điều kiện cho nhà nước thực hiện được vai trò điều tiết và quản lý nền kinh tế, quản lý và kiểm tra hoạt động liên quan đến đất đai và xử lý các hành vi vi phạm. Ngoài ra, pháp luật còn xác lập, củng cố và hoàn thiện những cơ sở pháp lý của Nhà nước, đặc biệt là trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai nhằm phát huy cao nhất hiệu lực của cơ quan quản lý. 1.2.3.3. Tình hình kinh tế, xã hội của địa phương 23
- - Phát triển kinh tế làm cho cơ cấu sử dụng các loại đất có sự thay đổi. Khi nhu cầu sử dụng loại đất này tăng lên sẽ làm cho nhu cầu sử dụng loại đất kia giảm đi, đồng thời sẽ có loại đất khác được khai thác để bù đắp vào sự giảm đi của loại đất đó. Sự luân chuyển đất thuận lợi sẽ tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế diễn ra. Quản lý nhà nước về đất đai từ đó cũng phải đổi mới để phù hợp với cơ cấu kinh tế mới, đáp ứng được yêu cầu tình hình thực tế. - Yếu tố văn hóa xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng trong tổ chức điều hành quản lý xã hội và tăng cường chức năng quản lý của Nhà nước về mọi lĩnh vực nói chung cũng như về lĩnh vực đất đai nói riêng. Các yếu tố như việc làm, dân số, môi trường, xóa đói giảm nghèo, ảnh hưởng rất lớn đến công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi, giao đất và công tác thanh tra, kiểm tra giải quyết tranh chấp, vi phạm đất đai. 1.2.3.4. Bộ máy tổ chức và nguồn nhân lực quản lý đất đai của địa phương Tổ chức bộ máy nhà nước quản lý về đất đai của chính quyền địa phương có tác động trực tiếp tới việc quản lý đất đai trên địa bàn. Việc bộ máy được tổ chức một cách khoa học theo hướng tinh giản, có sự phân công rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn sẽ tạo hiệu quả trong quản lý, giải quyết vấn đề càng nhanh chóng, thuận lợi. Tuy nhiên, công tác quản lý của bộ máy sẽ gặp khó khăn lớn nếu một khâu, một cấp quản lý trong hệ thống không đảm bảo được yêu cầu công việc được giao. Vì vậy, muốn quản lý hiệu quả, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đất đai phải được tổ chức thật phù hợp về cơ cấu, có sự phân chia trách nhiệm, quyền hạn cụ thể, đồng thời phải có hướng dẫn, bám sát của các ban ngành chức năng. Bên cạnh việc tổ chức bộ máy quản lý, trình độ, đạo đức của đội ngũ cán bộ quản lý cũng ảnh hưởng trực tiếp tới công tác quản lý nói chung và quản lý đất đai nói riêng. Cán bộ quản lý là người trực tiếp tham gia vào công tác quản lý nhà nước về đất đai ở cấp chính quyền địa phương và cũng là người tiếp xúc trực tiếp với đối tượng sử dụng đất, tiếp thu nguyện vọng của quần chúng nhân dân về các vấn đề liên quan đến đất đai. Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý có chuyên môn, 24
- trình độ và tận tâm với công việc là điều kiện tiên quyết để tạo thuận lợi cho quản lý nhà nước về đất đai ở cấp địa phương. 1.2.3.5. Ý thức chấp hành luật pháp về đất đai của người sử dụng đất ở địa phương Tổ chức kinh tế và hộ gia đình, cá nhân là đối tượng tiếp nhận sự tác động của chính quyền địa phương trong hoạt động quản lý đất đai. Hoạt động quản lý đất đai ở địa phương xét cho cùng là điều chỉnh các hoạt động của đối tượng sử dụng đất nhằm đảm bảo các đối tượng sử dụng đất tuân thủ đúng pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ trong quá trình sử dụng đất. Sự hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật đất đai của người sử dụng đất sẽ giúp cho công tác quản lý về đất đai của chính quyền địa phương được thực hiện một cách dễ dàng và hiệu quả. 25
- CHƢƠNG 2 CÁC PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 2.1. Phƣơng pháp luận của đề tài quản lý nhà nƣớc về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang 2.1.1. Chủ nghĩa duy vật biện chứng Phép biện chứng duy vật là phương pháp cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin được sử dụng với nhiều ngành khoa học khác nhau, trong đó có ngành quản lý kinh tế. Phương pháp này đòi hỏi khi xem xét các hiện tượng, các quá trình nghiên cứu phải đặt trong mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, thường xuyên vận động, phát triển không ngừng chứ không bất biến. Quá trình phát triển là quá trình tích lũy về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất. Phép biện chứng duy vật coi nguồn gốc của sự phát triển là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Phép duy vật biện chứng tuân thủ nguyên tắc vật chất quyết định ý thức, vì vậy cũng đòi hỏi khi xem xét các hiện tượng và quá trình kinh tế gắn liền với những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Từ nội dung và yêu cầu của phương pháp duy vật biện chứng, đề tài nghiên cứu vấn đề quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang phải đặt trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của giai đoạn từ 2010 - 2013, định hướng đến 2020. Mối quan hệ tác động lẫn nhau được thể hiện cụ thể: Mối quan hệ giữa các nội dung và hiện tượng: Mối quan hệ mật thiết giữa Luật đất đai với các văn bản dưới luật của chính quyền thành phố Hà Giang trong việc quản lý ở cấp nhà nước địa phương về đất đai. Nó thể hiện mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, cấp nhà nước trung ương và nhà nước địa phương về vấn đề quản lý nhà nước về đất đai. Đó là mối quan hệ giữa điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của thành phố Hà Giang với chính sách, giải pháp mà chính quyền thành phố Hà Giang đưa ra nhằm thực hiện có hiệu quả công tác quản lý đất đai và suy cho cùng quản lý đất đai cũng là nhằm phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Mối quan hệ trong từng nội dung, hiện tượng: Trong mỗi nội dung của đề tài, vấn đề quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang luôn được 26
- nghiên cứu gắn với vấn đề đặc điểm của địa phương là một thành phố thuộc tỉnh miền núi, trình độ phát triển kinh tế xã hội còn khiêm tốn. 2.1.2. Chủ nghĩa duy vật lịch sử Chủ nghĩa duy vật lịch sử của C. Mác là thành tựu vĩ đại của tư tưởng khoa học và thực chất của quan niệm duy vật lịch sử về lịch sử là những vấn đề mang tính nguyên lý. Trong sản xuất, con người phải có mối quan hệ với nhau đó là quan hệ sản xuất trên cả 3 mặt: sở hữu, quản lý và phân phối. Quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định sẽ mâu thuẫn với chính quan hệ sản xuất mà trước đây đã từng phù hợp với nó. Từ chỗ là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất đó đã kìm hãm sự phát triển của nó và khi đó một sự thay đổi lớn tất yếu phải diễn ra. Trong một phạm vi hẹp, có thể hiểu lực lượng sản xuất ở đây là tình hình phát triển kinh tế xã hội của thành phố Hà Giang ngày càng cao, những thành tựu đạt được về mặt kinh tế đã thúc đẩy sự hoàn thiện các chính sách phát triển kinh tế xã hội nhằm điều chỉnh và quản lý tốt hơn mối quan hệ giữa người và người, trong đó có quan hệ về đất đai và nổi bật là quan hệ về vấn đề sở hữu quyền sử dụng đất, sử dụng đất. Đề tài quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang đề cập đến thực trạng mối quan hệ xã hội liên quan đến đất đai trong từng điều kiện cụ thể của địa phương. 2.2. Các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể của đề tài quản lý nhà nƣớc về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang 2.2.1. Phương pháp trừu tượng hóa khoa học Nghiên cứu đề tài Quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang theo cách tiếp cận Quản lý kinh tế. Phương pháp trừu tượng hóa khoa học được sử dụng phổ biến ở nhiều ngành là lĩnh vực khoa học. Nó chính là phương pháp tạm gạt bỏ những nhân tố thứ yếu, không bản chất tập trung nghiên cứu những nhân tố bản chất, chủ yếu từ đó rút ra quy luật vận động của các hiện tượng kinh tế. Thực tế cho thấy, vấn đề quản lý đất đai là vấn đề phức tạp, nó chịu ảnh hưởng của 27
- nhiều yếu tố, nhiều chiều cạnh từ khách quan đến chủ quan, muốn đạt được hiệu quả quản lý nhà nước địa phương về đất đai trước hết cần nghiên cứu kỹ nó chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố nào? Trong đó những yếu tố nào là cơ bản, quan trọng nhất. Chẳng hạn như yếu tố tự nhiên, kinh tế đến các vấn đề xã hội. Để đạt được mục tiêu và những nhiệm vụ cụ thể đặt ra, đề tài tập trung vào khía cạnh tự nhiên, kinh tế - xã hội của vấn đề quản lý đất đai. Đề tài Quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang thông qua phép duy vật biện chứng trình bày một cách có hệ thống các phạm trù và những quy luật chung về sự phát triển của kinh tế xã hội thành phố Hà Giang gắn với quản lý đất đai rút ra những giải pháp chỉ đạo hoạt động của con người về vấn đề này. Quá trình nghiên cứu này được thể hiện: Một là, vấn đề quản lý đất đai vừa mang tính phổ biến vì nó là vấn đề cơ bản của tất cả các địa phương, tất cả các quốc gia nhưng nó cũng là vấn đề đặc thù của mỗi địa phương vì điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội khác nhau. Áp dụng quan điểm này cần phải xây dựng quan điểm toàn diện và phù hợp, sử dụng đồng bộ các phương pháp, biện pháp, các phương tiện để giải quyết vấn đề. Thực hiện chính sách chung toàn diện và chính sách có trọng điểm, vừa chú ý giải quyết mặt tổng thể, vừa lựa chọn những vấn đề trọng tâm liên quan đến quản lý đất đai để tạo đà cho sự quản lý có hiệu quả các vấn đề khác. Hai là, nguyên lý về tính phát triển của thế giới được thể hiện qua sự vận động, biến đổi không ngừng và đều có xu hướng phát triển, chuyển hóa. Đối với hoạt động Quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang cũng phải nắm được khuynh hướng vận động, biến đổi tương lai của nó, đồng thời nhận thức rõ phát triển là quá trình hoàn thiện các chính sách quản lý đất đai từ trung ương đến địa phương theo hướng hợp lý hóa, thực tiễn hóa và phù hợp với xu thế phát triển của thời đại . Bên cạnh đó cũng cần thấy rõ sự phát triển là quá trình đầy mâu thuẫn, sự ra đời của cái mới rất khó khăn và tất yếu phải có đấu tranh. Vì vậy, để luật đất đai mới ra đời, văn bản hướng dẫn thi hành và một loạt các chính sách, biện pháp quản lý đất đai ra đời đòi hỏi phải có sự kế thừa, phát huy cái mới, cái hợp lý để 28
- những chính sách này thực sự đi vào cuộc sống và góp phần vào sự quản lý đất đai ở chính quyền địa phương thực sự có hiệu quả. 2.2.2. Phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp Phân tích, trước hết là phân chia cái toàn thể của đối tượng nghiên cứu thành những bộ phận, những mặt, những yếu tố cấu thành giản đơn hơn để nghiên cứu, phát hiện ra những thuộc tính và bản chất của từng yếu tố đó, và từ đó giúp chúng ta hiểu được đối tượng nghiên cứu một cách mạch lạc hơn, hiểu được cái chung phức tạp từ những bộ phận đó. Nhiệm vụ của phân tích là thông qua cái riêng để tìm ra cái chung, thông qua hiện tượng để tìm ra bản chất, thông qua cái đặc thù để tìm ra cái phổ biến. Tổng hợp là quá trình ngược lại với quá trình phân tích, nhưng nó lại hỗ trợ cho quá trình phân tích để tìm ra cái chung và cái khái quát. Từ những kết quả nghiên cứu từng mặt, phải tổng hợp lại để có nhận thức đầy đủ, đúng đắn cái chung, tìm ra được bản chất, quy luật vận động của đối tượng nghiên cứu. Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp gắn bó chặt chẽ quy định và bổ sung cho nhau trong nghiên cứu và có cơ sở khách quan trong cấu tạo, trong tính quy luật của bản thân sự vật. Trong phân tích, việc xây dựng một cách đúng đắn tiêu thức phân loại làm cơ sở khoa học hình thành đối tượng nghiên cứu bộ phận ấy có ý nghĩa rất quan trọng. Trong nghiên cứu tổng hợp vai trò quan trọng thuộc về khả năng liên kết các kết quả cụ thể (có lúc ngược nhau) từ sự phân tích, khả năng trừ tượng, khái quát nắm bắt được định tính từ rất nhiều khía cạnh định lượng khác nhau. Phương pháp phân tích được sử dụng chủ yếu trong chương 3 và chương 4 của luận văn. Ở chương 3, phương pháp phân tích được sử dụng để phân tích tình hình sử dụng đất trên địa bàn thành phố Hà Giang thông qua việc làm rõ hiện trạng sử dụng đất bao gồm cả đất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất đang sử dụng và đất chưa sử dụng. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang tập trung vào các yếu tố: điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội. Đặc biệt, phương pháp phân tích được sự dụng để phân tích thực trạng quản 29
- lý đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang giai đoạn 2010 - 2013 bao gồm thực trạng phương pháp quản lý, thực trạng thực hiện các nội dung quản lý nhà nước địa phương về đất đai. Ở chương 4, phương pháp phân tích được sử dụng để phân tích định hướng và dự báo nhu cầu sử dụng đất trên địa bàn thành phố Hà Giang đến 2020, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về đất đai đến 2020 thông qua các giải pháp cụ thể như nhằm thực hiện các nội dung và phương pháp quản lý đất đai của chính quyền thành phố. Phương pháp tổng hợp được sử dụng chủ yếu trong chương 3 khi tổng hợp, đánh giá những kết quả đạt được và những hạn chế, nguyên nhân hạn chế và những vấn đề đặt ra cần giải quyết về vấn đền quản lý đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang. Bên cạnh đó, phương pháp này cũng được sử dụng nhằm tổng hợp các văn bản dưới luật của chính quyền thành phố Hà Giang trong việc quản lý đất đai trên địa bàn. 2.2.3. Phương pháp logic - lịch sử Phương pháp lịch sử là phương pháp xem xét sự vật, hiện tượng theo đúng trật tự thời gian như nó đã từng diễn ra trong quá khứ (phát sinh, phát triển và kết thúc). Là phương pháp xem xét và trình bày quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng lịch sử theo một trình tự liên tục và nhiều góc cạnh, nhiều mặt trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác. Phương pháp này hướng đến mục tiêu tái hiện trung thực bức tranh quá khứ của sự vật, hiện tượng thể hiện ở mô tả đầy đủ, cụ thể tính chất quanh co, phức tạp, bao gồm những cái ngẫu nhiên, cái tất yếu và tính đa dạng. Yêu cầu đối với phương pháp lịch sử là đảm bảo tính liên tục về thời gian của các sự kiện, làm rõ điều kiện và đặc điểm phát sinh, phát triển và biểu hiện của chúng, làm sáng tỏ các mối liên hệ đa dạng của chúng với các sự việc xung quanh. Phương pháp lịch sử xem xét rất kỹ các điều kiện xuất hiện và hình thành ra nó, làm rõ quá trình ra đời, phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến hoàn thiện của các sự vật hiện tượng. Đồng thời, đặt quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ nhiều sự vật hiện tượng tác động qua lại, thúc đẩy hoặc hỗ trợ lẫn nhau trong suốt quá trình vận động của chúng. Phương pháp lịch sử là phương pháp quan 30
- trọng trong nghiên cứu, vì khi xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng phải coi trọng các quan điểm lịch sử, các sự vật, hiện tượng tương đồng đã xảy ra trước đó. Đề tài Quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang sử dụng phương pháp này để nghiên cứu sự phát triển của các văn bản quản lý đất đai nói chung và của chính quyền địa phương nói riêng theo hướng nâng cao chất lượng quản lý đất đai phục vụ phát triển kinh tế xã hội trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng của công tác quản lý đất đai. Bên cạnh đó, khi xem xét, đánh giá sự hợp lý của chính sách đều đặt trong điều kiện của sự phát sinh, phát triển và kết thúc của một văn bản quy phạm pháp luật. Chẳng hạn, luật đất đai 2003 phù hợp với giai đoạn 2003 - 2013, nhưng trong bối cảnh, điều kiện hiện nay có nhiều điểm không còn phù hợp và sự ra đời của luật đất đai năm 2013 (chính thức có hiệu lực 1.7.2014) là sự hợp lý và nó bắt đầu cho một giai đoạn mới quản lý đất đai theo quy định mới. Đây là phương pháp xem xét và trình bày quá trình quản lý đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang theo một trình tự liên tục và nhiều mặt. Sử dụng phương pháp này yêu cầu phải đảm bảo tính liên tục về thời gian, làm rõ các điều kiện về quản lý đất đai trên tổng thể những quy định chung. Đồng thời, đặt vấn đề quản lý đất đai trong quan hệ tương tác qua lại, thúc đẩy hoặc cản trở lẫn nhau trong quá trình phát triển. Bằng phương pháp này có thể cho ta thấy được bức tranh toàn diện về vấn đề quản lý đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang thời gian 2010 - 2013. Phương pháp logic, theo Ăng ghen, phương pháp logic không phải là cái gì khác phương pháp lịch sử, chỉ có điều là nó thoát khỏi những hình thức lịch sử và những ngẫu nhiên, pha trộn. Lịch sử bắt đầu từ đâu, quá trình tư duy cũng phải bắt đầu từ đó và sự vận động tiếp tục thêm nữa của nó chẳng qua là sự phản ánh quá trình lịch sử dưới một hình thức trừu tượng và nhất quán về mặt lý luận. Nó là phản ánh đã được uốn nắn theo những quy luật mà bản thân quá trình lịch sử thực tế đã cung cấp, hơn nữa mỗi một nhân tố đều có thể xem xét ở cái điểm phát triển mà ở đó quá trình đạt tới chỗ hoàn toàn chín muồn, đạt tới cái hình thức cổ điển của nó. Phương pháp logic là phương pháp xem xét, nghiên cứu các sự kiện lịch sử dưới 31
- dạng tổng quan, nhằm vạch ra bản chất, khuynh hướng tất yếu, quy luật vận động của lịch sử. Khác với phương pháp lịch sử, phương pháp logic không đi sâu vào toàn bộ diễn biến, những bước quanh co, thụt lùi lịch sử mà, nó bỏ qua những cái ngẫu nhiên có thể xảy ra mà nắm lấy bước phát triển tất yếu, nắm lấy cái cốt lõi của sự phát triển, nghĩa là nắm lấy quy luật lịch sử. Như vậy, phương pháp locgic cũng phản ánh quá trình lịch sử nhưng phản ánh dưới hình thức trừu tượng và khách quan bằng lý luận. Có nghĩa là phương pháp logic trình bày sự kiện một cách khái quát trong mối quan hệ đúng quy luật, loại bỏ những chi tiết không cơ bản. Đó là hình thức đặc biệt phản ánh quá trình lịch sử. Luận văn trình bày các sự việc và đưa ra những nhận định đã có chú ý đến sự vận động logic của phát triển kinh tế xã hội gắn với quản lý đất đai, chỉ ra quy luật xu hướng vận động của nó. Chẳng hạn, vấn đề quản lý thị trường quyền sử dụng đất ngoài những yếu tố chủ quan của chủ thể quản lý còn phải tôn trọng các yếu tố của thị trường trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường. Luận văn sử dụng phương pháp logic để xem xét, nghiên cứu các sự kiện lịch sử của vấn đề quản lý đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang để từ đó rút ra kinh nghiệm trong quản lý đất đai phù hợp hơn với tình hình thực tiễn thay đổi 2.2.4. Phương pháp thu thập, xử lý và phân tích dữ liệu thứ cấp Để thông tin được thu thập một cách chính xác, hợp lý và có giá trị, các yêu cầu của việc xác định dữ liệu các loại dữ liệu thu thập phải được xác định rõ ràng xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu. Khi sử dụng phương pháp này tác giả xác định dữ liệu được tuân thủ các yêu cầu: Những thông tin chứa đựng trong dữ liệu phù hợp và đủ làm rõ mục tiêu nghiên cứu. Dữ liệu thứ cấp là dữ liệu do người khác thu thập, sử dụng cho các mục dích có thể là khác với mục đích nghiên cứu của đề tài này. Dữ liệu thứ cấp có thể là dữ liệu chưa xử lý (còn gọi là dữ liệu thô) hoặc dữ liệu đã xử lý. Như vậy, dữ liệu thứ cấp không phải do người nghiên cứu trực tiếp thu thập. Ưu điểm của dữ liệu thứ cấp là dễ tìm kiếm và tìm kiếm nhanh đây là điểm ưu việt hẳn của dữ liệu thứ cấp. Thuộc tính này được quyết định bởi chỗ dữ liệu thứ 32
- cấp đã tồn tại sẵn và vấn đề chỉ đơn thuần là phát hiện ra chúng. Vì vậy, thời gian tập hợp dữ liệu thứ cấp chính là thời gian để tìm kiếm chúng và thường chỉ mất vài giờ hoặc vài ngày. Chi phí tiêu tốn cho việc thu thập dữ liệu thứ cấp ít hơn rất nhiều so với lượng tiền cần thiết để có được các dữ liệu sơ cấp. Sở dĩ như vậy là vì dữ liệu thứ cấp phần lớn có trong các thư viện, mà với các nguồn này thì chi phí thấp hơn nhiều, thậm chí bằng không. Kể cả các nguồn dữ liệu từ Chính phủ thì chi phí cũng không đáng kể hoặc không phải trả phí. Dữ liệu thứ cấp có tính sẵn sàng và thích hợp. Đặc tính này phản ánh tính ưu việt của thông tin từ các dữ liệu thứ cấp ở chỗ, chúng có thể được dùng ngay vào một mục tiêu cụ thể nào đó mà không phải mất, hoặc mất rất ít thời gian công sức để gia công, chế biến và xử lý chúng. Dữ liệu thứ cấp góp phần làm tăng giá trị của những dữ liệu sơ cấp hiện hữu. Tác dụng này chủ yếu được thể hiện ở chỗ việc thu thập dữ liệu thứ cấp ban đầu đã giúp cho việc định hướng và xác định mục tiêu thu thập dữ liệu sơ cấp của nhà nghiên cứu. Vì những ưu điểm của nó, tác giả thu thập dữ liệu thứ cấp phục vụ cho đề tài nghiên cứu thông qua việc nghiên cứu các luận văn đã nghiên cứu trước có cùng chủ đề hoặc các nghiên cứu trên các phương tiện truyền thông, các báo cáo của các cấp ban ngành liên quan đến vấn đề quản lý đất đai. Phương pháp này được sử dụng cho chương 1 khi tác giả muốn xây dựng một khung khổ lý thuyết cho vấn đề quản lý đất đai một cách có hệ thống làm cơ sở cho việc nghiên cứu ở chương 3. Ở chương 3, tác giả sử dụng phương pháp này nhằm tập hợp các số liệu tại các phòng ban chức năng liên quan đến quản lý nhà nước về đất đai tại thành phố Hà Giang, sau đó phân tích, tổng hợp để có được các đánh giá, kết luận. 2.2.5. Phương pháp thống kê Phương pháp này sử dụng nhiều ở chương 1, chương 2 và chương 3 của luận văn. Chương 1, luận văn thống kê mô tả các công trình nghiên cứu đã công bố có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến đề tài, cơ sở lý luận về công tác quản lý đất đai. Chương 2, luận văn mô tả các phương pháp nghiên cứu được sử dụng cùng với nội dung phương pháp, ý nghĩa của phương pháp đối với việc đạt được mục tiêu nghiên 33
- cứu. Chương 3, sau khi thu thập số liệu, tiến hành thống kê, mô tả và tổng hợp các số liệu, dữ liệu, luận văn đưa ra những đánh giá về thực trạng quản lý đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang. 2.2.6. Phương pháp so sánh Đây là phương pháp được sủ dụng rộng rãi để phân tích các hiện tượng kinh tế xã hội mang tính quá trình giữa hiện tượng này với hiện tượng khác, thời gian này với thời gian khác, đối tượng này với đối tượng khác, quy định này với quy định khác. Luận văn đề cập trực tiếp đến các quy định dưới luật của chính quyền thành phố, các quy định này theo thời gian cũng được thay thế bởi các quy định khác cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Vì vậy, sự so sánh sẽ làm bật lên những nội dung cần thay đổi và nó làm cơ sở cho việc đánh giá hiệu quả quản lý đất đai. Hay ở cấp độ vĩ mô, luật đất đai mới ra đời năm 2013 cũng cho thấy những điểm mới so với luật đất đai năm 2003. Sự so sánh này ở một vài điểm sẽ giúp cho luận văn không chỉ đạt được mục tiêu cập nhật mà còn giúp tác giả có cơ sở quan trọng trong việc phân tích ở chương 3 và đưa ra giải pháp ở chương 4. 34
- CHƢƠNG 3 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ GIANG GIAI ĐOẠN 2010 - 2013 3.1. Khái quát tình hình sử dụng đất trên địa bàn thành phố Hà Giang Công tác quản lý đất đai ở nước ta có từ rất sớm, song nó thật sự đi vào trọng tâm từ đầu thập kỷ 80 trở lại đây. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, công tác quản lý đất đai cũng có sự thay đổi, nhất là từ khi có Luật Đất đai ra đời năm 1993, Luật Đất đai sửa đổi năm 1998, 2001, Luật Đất đai 2003 và Luật Đất đai 2013 ra đời đã làm cho công tác quản lý đất đai ngày càng hoàn thiện và ổn định. Thành phố Hà Giang là trung tâm văn hóa, chính trị, kinh tế của tỉnh Hà Giang đã được đô thị hoá tương đối hoàn thiện, diện tích đất toàn thành phố thuộc nhóm đất phi nông nghiệp với tổng diện tích là 1.287,58 ha (số liệu kiểm kê đất đai 2013). 3.1.1. Hiện trạng quỹ đất Tổng diện tích đất tự nhiên của thành phố Hà Giang là: 13.392,80 ha, trong đó: - Đất nông nghiệp 11.437,19 ha, chiếm 85,40% tổng diện tích tự nhiên. + Đất sản xuất nông nghiệp 1.808,16 ha, chiếm 15,81% tổng diện tích đất nông nghiệp. + Đất lâm nghiệp 9.546,07 ha, chiếm 83,47% tổng diện tích đất nông nghiệp. + Đất nuôi trồng thuỷ sản 82,82 ha, chiếm 0,72 % tổng diện tích đất nông nghiệp. - Đất phi nông nghiệp có 1.282,80 ha, chiếm 9,58% tổng diện tích đất tự nhiên trong đó: + Đất ở 343,26 ha, chiếm 26,76% tổng diện tích đất phi nông nghiệp. + Đất chuyên dùng 607,71 ha, chiếm 47,37% tổng diện tích đất phi nông nghiệp. + Đất tôn giáo, tín ngưỡng 0,36 ha, chiếm 0,03% tổng diện tích đất phi nông nghiệp. + Đất nghĩa trang, nghĩa địa 49,17 ha, chiếm 3,83% tổng diện tích đất phi nông nghiệp. 35
- + Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng 282,30 ha, chiếm 22,01% tổng diện tích phi nông nghiệp. - Đất chưa sử dụng có 672,81 ha, chiếm 5,02 % diện tích đất tự nhiên, trong đó: + Đất bằng chưa sử dụng 26,17 ha, chiếm 3,89% diện tích đất chưa sử dụng. + Đất đồi núi chưa sử dụng 516,05 ha, chiếm 76,70% diện tích đất chưa sử dụng. + Núi đá không có rừng cây 130,59 ha, chiếm 19,41% diện tích đất chưa sử dụng. 3.1.2. Hiện trạng sử dụng các loại đất 3.1.2.1. Đất nông nghiệp Theo số liệu kiểm kê đất đai năm 2012 đất nông nghiệp toàn thành phố là 11.437,19ha, chiếm 85,40% tổng diện tích tự nhiên. Đất nông nghiệp của thành phố được sử dụng cho các mục đích cụ thể sau: Đất sản xuất nông nghiệp 1.808,16 ha; Đất lâm nghiệp 9.546,07 ha; Đất nuôi trồng thuỷ sản 82,82 ha; Đất nông nghiệp khác 0,14 ha. Hiện trạng sử dụng một số loại đất chính sau: * Đất trồng lúa Đất chuyên trồng lúa có diện tích 894,24 ha, chiếm 60,17% diện tích đất trồng cây hàng năm (chiếm 6,68% diện tích đất tự nhiên), nhiều vùng trong thành phố đã được xây dựng công trình thuỷ lợi đảm bảo đủ nước tưới cho diện tích lúa, chuyển một số diện tích 1 vụ lên 2 vụ. Năng suất lúa năm 2012 thành phố Hà Giang là: 53,7 tạ/ha đạt 104,27% so với mục tiêu Đại hội XV đề ra (Nghị quyết Đại hội đề ra 51,5 tạ/ha). Sản lượng lúa toàn thành phố năm 2012 là: 3.652 tấn. Diện tích lúa phân bố ở các xã: Phương Độ; Phương Thiện; Ngọc Đường và phường Quang Trung. Bao gồm: + Đất chuyên trồng lúa nước có diện tích 426,87 ha. Loại đất này tập trung chủ yếu ở các xã Phương Độ; Phương Thiện; Ngọc Đường. + Đất trồng lúa nước còn lại có diện tích 467,37 ha. Toàn bộ diện tích đất này tập trung xã: Phương Độ; Phương Thiện; Ngọc Đường và phường Quang Trung. 36
- * Đất trồng cây hàng năm còn lại Đất trồng cây hàng năm còn lại có diện tích 591,87 ha, chiếm 39,83% diện tích đất trồng cây hàng năm (chiếm 4,42% diện tích đất tự nhiên). Đất trồng cây hàng năm còn lại diện tích tập trung chủ yếu ở các xã: Phương Độ; Phương Thiện; Ngọc Đường và phường Quang Trung. Đất trồng cây hàng năm của thành phố chủ yếu như: Ngô, rau chuyên canh Năm 2012 đất trồng ngô có diện tích 230,00 ha. Năng suất ngô năm 2012 đạt 38,0 tạ/ha. Sản lượng ngô năm 2012 đạt 805,0 tấn. * Đất trồng cây lâu năm Năm 2012 diện tích đất trồng cây lâu năm trên địa bàn toàn thành phố có 322,05 ha, chiếm 17,81% diện tích đất sản xuất nông nghiêp (chiếm 2,80% diện tích đất tự nhiên). Diện tích đất trồng cây lâu năm được sử dụng vào các mục đích: - Đất trồng cây công nghiệp lâu năm: Có diện tích 53,89 ha, chiếm 16,73% diện tích đất trồng cây lâu năm. Đất trồng cây công nghiệp lâu năm chủ yếu là cây chè - Đất trồng cây ăn quả lâu năm: Hiện tại trên địa bàn loại cây này chưa được chú trọng nhiều, toàn thành phố có 10,76 ha, chiếm 3,34% diện tích đất cây lâu năm. Loại đất này tập trung chủ yếu ở xã Ngọc Đường; Phương Độ và phường Nguyễn Trãi. - Đất trồng cây lâu năm khác 257,40 ha, chiếm 79,93% diện tích đất cây lâu năm. Diện tích này nằm rải rác trong khu dân cư đô thị, khu dân cư nông thôn và thường được trồng nhiều loại cây trồng khác nhau, hiệu quả sử dụng thấp. Do đó trong những năm tới cần đầu tư cải tạo xây dựng thành các vùng thâm canh, chuyên canh các cây có giá trị kinh tế cao. * Đất rừng phòng hộ Theo kiểm kê đất đai năm 2012, đất rừng phòng hộ có diện tích 3.196,71 ha, chiếm 33,49% diện tích đất lâm nghiệp (chiếm 23,87% diện tích tự nhiên), được phân bố nhiều ở các xã Ngọc Đường; Phương Độ; Phương Thiện. Trong đó: - Đất có rừng tự nhiên phòng hộ: 2.657,51 ha; - Đất có rừng trồng phòng hộ 342,09 ha; - Đất khoanh nuôi phục hồi rừng phòng hộ 197,11 ha; 37
- * Đất rừng đặc dụng Theo kiểm kê đất đai năm 2012, đất rừng đặc dụng có diện tích 1.751,53 ha, chiếm 18,35% diện tích đất lâm nghiệp (chiếm 13,08% diện tích tự nhiên), được phân bố ở xã Phương Độ, Phương Thiện và phường Quang Trung. Rừng đặc dụng tập trung nhiều nhất ở xã Phương Độ với 1.403,80 ha rừng tự nhiên đặc dụng. * Đất rừng sản xuất Theo kiểm kê đất đai năm 2012, đất rừng sản xuất có diện tích 4.597,83 ha, chiếm 48,16% diện tích đất lâm nghiệp (chiếm 34,33% diện tích tự nhiên). Đất rừng sản xuất có tất cả các xã, phường. Đất rừng sản xuất tập trung nhiều ở các xã Ngọc Đường, Phương Độ, Phương Thiện và phường Quang Trung . Trong đó: - Đất có rừng tự nhiên sản xuất 2.387,45 ha; - Đất có rừng trồng sản xuất 1.135,76 ha; - Đất khoanh nuôi phục hồi rừng sản xuất 930,62 ha; - Đất trồng rừng sản xuất 144,00 ha; * Đất nuôi trồng thuỷ sản Đất nuôi trồng thuỷ sản có diện tích 82,82 ha, chỉ chiếm 0,72% diện tích tự nhiên chủ yếu là diện tích các ao hồ, sông suối nhỏ trong các hộ gia đình được tận dụng để nuôi cá nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt tại chỗ của nhân dân nên năng suất chưa cao. 3.1.2.2. Đất phi nông nghiệp Tổng diện tích đất phi nông nghiệp của toàn thành phố là 1.282,80 ha, chiếm 9,58% diện tích đất tự nhiên. Diện tích, cơ cấu các loại đất phi nông nghiệp như sau: - Đất ở 343,26 ha, chiếm 26,76 % đất phi nông nghiệp. - Đất chuyên dùng: 607,71 ha, chiếm 47,37% đất phi nông nghiệp. - Đất tôn giáo, tín ngưỡng 0,36 ha, chiếm 0,03% đất phi nông nghiệp. - Đất nghĩa trang, nghĩa địa: 49,17 ha, chiếm 3,83% đất phi nông nghiệp. - Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng: 282,30 ha, chiếm 22,01% đất phi nông nghiệp. 38
- Hiện trạng sử dụng một số loại đất chính sau: * Đất ở: Có 343,26 ha, chiếm 26,76% diện tích đất phi nông nghiệp. Đất ở của thành phố chủ yếu là đất ở đô thị. Tập trung nhiều ở các phường Quang Trung; Trần Phú; Ngọc Hà; Nguyễn Trãi; Minh Khai. Đất ở nông thôn có 111,25 ha, chiếm 32,41% diện tích đất ở. Trung bình diện tích đất ở trên một khẩu là 67,48 m2 (Trong đó: Trung bình diện tích đất ở đô thị trên một khẩu là 59,18 m2). * Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp có diện tích là 20,82 ha, chiếm 3,43% diện tích đất chuyên dùng (chiếm 0,16% diện tích đất tự nhiên). Bao gồm đất trụ sở cơ quan ban ngành và tổ chức chính trị xã hội, các công trình sự nghiệp của tỉnh, thành phố, phường, xã. Diện tích đất xây dựng trụ sở cơ quan công trình sự nghiệp tập trung chủ yếu ở phường Nguyễn Trãi (Trụ sở các sở, ngành của tỉnh Hà Giang). * Đất quốc phòng Năm 2012 đất quốc phòng có diện tích là 175,78 ha, chiếm 28,92% diện tích đất chuyên dùng (chiếm 1,31% diện tích tự nhiên). Trụ sở cơ quan và các căn cư quân sự được xây dựng ở phường Nguyễn Trãi; Ngọc Hà; Quang Trung và xã Phương Thiện; Phương Độ. * Đất an ninh Có diện tích 18,52 ha, chỉ chiếm 3,05% diện tích đất chuyên dung (chiếm 0,14% diện tích tự nhiên). Diện tích đất an ninh của thành phố bao gồm trụ sở công an tỉnh Hà Giang; trụ sở công an thành phố Hà Giang; trại giam Phù Ninh; khu pháp trường (Ngọc Đường) và trụ sở công an các phường của thành phố. * Đất cơ sở sản xuất kinh doanh Năm 2012 đất cơ sở sản xuất kinh doanh có diện tích 23,31 ha, chiếm 0,17% diện tích tự nhiên. *Đất sản xuất vật liệu xây dựng, gốm sứ Theo kết quả kiểm kê đất đai năm 2010 đất sản xuất vật liệu xây dựng, gốm sứ có diện tích 29,25 ha, chiếm 0,22% diện tích đất tự nhiên. * Đất để xử lý, chôn lấp chất thải nguy hại 39
- Có diện tích 1,29 ha, chiếm diện tích nhỏ so với diện tích phi nông nghiệp. Diện tích đất để xử lý, chôn lấp chất thải nguy hại hiện nay thành phố có nhà máy xử lý rác thải nằm trên địa bàn phường Minh Khai và bãi rác phường Nguyễn Trãi. Còn lại các xã, phường trong thành phố chưa có đất để xây dựng bãi rác và xử lý rác thải. * Đất nghĩa trang, nghĩa địa Có diện tích là 49,17 ha, chiếm 0,37% diện tích đất tự nhiên. Diện tích đất nghĩa trang, nghĩa địa năm 2012 bao gồm: Nghĩa trang Cầu Phát; nghĩa trang tập trung xã Ngọc Đường; nghĩa trang phường Quang trung; nghĩa trang phường Nguyễn Trãi và nghĩa trang xã Phương Thiện; Phương Độ. * Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng Có diện tích 282,30 ha, chiếm 22,01% diện tích đất phi nông nghiêp (chiếm 2,11% diện tích đất tự nhiên). * Đất phát triển hạ tầng Có 338,74 ha, chiếm 55,95% diện tích đất chuyên dùng (chiếm 2,53 % diện tích đất tự nhiên). Đất phát triển hạ tầng bao gồm diện tích đất dùng vào xây dựng công trình hạ tầng kỹ thuật (như giao thông, thủy lợi, đất công trình năng lượng, đất công trình bưu chính viễn thông); công trình hạ tầng xã hội (văn hóa, y tế, giáo dục - đào tạo, thể dục - thể thao, đất cơ sở nghiên cứu khoa học, đất cơ sở dịch vụ xã hội), đất chợ. Tình hình sử dụng đất phát triển hạ tầng năm 2012 bao gồm các loại đất sau: + Đất giao thông: 239,79 ha, chiếm 70,52% diện tích đất phát triển hạ tầng. + Đất thuỷ lợi: 9,14 ha, chiếm 2,69% diện tích đất phát triển hạ tầng. + Đất công trình năng lượng: 6,42ha, chiếm 1,89% diện tích đất phát triển hạ tầng. + Đất công trình bưu chính, viễn thông: 0,76 ha, chiếm 0,22% diện tích đất phát triển hạ tầng. + Đất cơ sở văn hoá: 38,27 ha, chiếm 11,25% diện tích đất phát triển hạ tầng. + Đất cơ sở y tế: 6,19 ha, chiếm 1,82% diện tích đất phát triển hạ tầng. 40
- + Đất cơ sở giáo dục - đào tạo: 30,72 ha, chiếm 9,03% diện tích đất phát triển hạ tầng. + Đất cơ sở thể dục - thể thao: 3,78 ha, chiếm 1,11% diện tích đất phát triển hạ tầng. + Đất cơ sở dịch vụ - xã hội: 2,13 ha, chiếm 0,63% diện tích đất phát triển hạ tầng. + Đất chợ: 1,54 ha, chiếm 0,45% diện tích đất phát triển hạ tầng. 3.1.2.3. Đất chưa sử dụng Theo số liệu kiểm kê đất đai năm 2010 trên địa bàn thành phố có 672,81 ha đất chưa sử dụng, chiếm 5,02% diện tích tự nhiên, trong đó: - Đất bằng chưa sử dụng: 26,17 ha, chiếm 3,89% diện tích chưa sử dụng. - Đất đồi núi chưa sử dụng: 516,05 ha, diện tích này trong thời kỳ quy hoạch sẽ tiến hành khai thác, cải tạo đưa quỹ đất này đưa vào sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp và trồng rừng. - Núi đá không có rừng cây: 130,59 ha, chiếm tỷ lệ nhỏ trong diện tích đất chưa sử dụng. Bảng 3.1: Kết quả thực tế việc sử dụng đất giai đoạn 2010 - 2013 Đơn vị tính: ha Diện tích đến các năm (ha) STT Chỉ tiêu Mã đất Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 1 2 3 4 5 6 7 1 Đất nông nghiệp NNP 11,437.19 11,437.21 11,479.71 11,981.18 Trong đó: 1.1 Đất trồng lúa LUA 894.24 894.26 894.13 894.13 Trong đó: Đất chuyên trồng LUC 426.87 426.87 426.56 426.56 lúa nước 1.2 Đất trồng cây lâu năm CLN 322.05 322.05 321.21 320.83 1.3 Đất rừng phòng hộ RPH 3,196.71 3,196.71 3,313.79 3,052.00 1.4 Đất rừng đặc dụng RDD 1,751.53 1,751.53 1,680.30 1,823.70 41
- 1.5 Đất rừng sản xuất RSX 4,597.83 4,597.83 4,597.51 5,218.80 1.6 Đất nuôi trồng thuỷ sản NTS 82.82 82.82 82.73 82.71 2 Đất phi nông nghiệp PNN 1,282.80 1,282.08 1,286.13 1,287.58 Trong đó: Đất xây dựng trụ sở cơ 2.1 CTS 20.82 20.82 20.82 20.82 quan, công trình sự nghiệp 2.2 Đất quốc phòng CQP 175.78 175.78 175.78 175.78 2.3 Đất an ninh CAN 18.52 18.52 18.52 18.52 2.4 Đất khu công nghiệp SKK 0.00 0.00 0.00 0.00 Đất cơ sở sản xuất kinh 2.5 SKC 23.31 23.31 23.31 23.31 doanh Đất sản xuất vật liệu xây 2.6 SKX 29.25 29.25 29.25 29.25 dựng gốm sứ Đất cho hoạt động khoáng 2.7 SKS 0.00 0.00 0.00 0.00 sản 2.8 Đất di tích danh thắng DDT 0.00 0.00 0.00 0.00 Đất để xử lý, chôn lấp chất 2.9 DRA 1.29 1.29 1.29 1.29 thải nguy hại 2.10 Đất tôn giáo, tín ngưỡng TTN 0.36 0.36 0.36 0.36 2.11 Đất nghĩa trang, nghĩa địa NTD 49.17 49.17 49.17 49.17 Đất có mặt nước chuyên 2.12 SMN 282.30 282.30 282.30 282.30 dùng 2.13 Đất phát triển hạ tầng DHT 338.74 340.03 340.06 340.14 Trong đó: - Đất cơ sở văn hóa DVH 38.27 38.27 38.47 38.47 - Đất cơ sở y tế DYT 6.19 6.19 6.19 6.19 - Đất cơ sở giáo dục - đào DGD 30.72 30.72 29.97 29.97 tạo 42
- - Đất cơ sở thể dục - thể DTT 3.78 3.78 4.51 4.51 thao 2.14 Đất ở ODT 332.01 343.26 346.56 347.93 3 Đất chƣa sử dụng CSD 672.81 672.81 626.96 124.04 Nguồn: Báo cáo kết quả thực hiện Kế hoạch sử dụng đất 2010-2013 của Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Giang Bảng 3.1 cho thấy từ năm 2010 - 2013 diện tích nhóm đất phi nông nghiệp của thành phố không có sự thay đổi. Nguyên nhân là do nhu cầu sử dụng đất của thành phố không có sự thay đổi, tình hình sử dụng đất của thành phố trong giai đoạn này không có sự biến động nhiều và tình hình quản lý đất của thành phố đã đạt được kết quả tương đối hiệu quả. 3.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến quản lý nhà nƣớc về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang 3.2.1. Điều kiện tự nhiên của thành phố Hà Giang 3.2.1.1 Vị trí địa lý Năm 1832, Hà Giang thuộc về tỉnh Tuyên Quang. Từ ngày 20/8/1891, Pháp chia tách tỉnh Tuyên Quang thành 2 tỉnh là Hà Giang và Tuyên Quang, bộ máy cai trị được đặt trên địa bàn thị xã Hà Giang, thị xã Hà Giang trở thành trung tâm của tỉnh Hà Giang và tên gọi thị xã Hà Giang được hình thành từ đó. Năm 1976, Hà Giang sáp nhập với Tuyên Quang thành tỉnh Hà Tuyên, thị xã Hà Giang trở thành tỉnh lị của tỉnh Hà Tuyên. Năm 1991 Hà Tuyên lại được chia tách ra thành tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang, lúc này thị xã Hà Giang trở lại là thị xã tỉnh lị tỉnh Hà Giang như cũ. Ngày 27/9/2010, theo Nghị quyết số 35/NQ - CP, thành phố Hà Giang chính thức được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã Hà Giang với diện tích tự nhiên 13.392,8 ha và 71.687 nhân khẩu. Thành phố có 8 đơn vị hành chính gồm 5 phường: Trần Phú, Minh Khai, Nguyễn Trãi, Quang Trung, Ngọc Hà và 3 xã : Ngọc Đường, Phương Thiện, Phương Độ. 43
- Thành phố Hà Giang nằm giữa 2 dãy núi Cấm và Mỏ Neo, cách Hà Nội 318km về phía Bắc theo quốc lộ 2. Phía Đông thành phố Hà Giang giáp huyện Bắc Mê; ba mặt Tây, Nam, Bắc đều giáp huyện Vị Xuyên. Là tỉnh lỵ của tỉnh Hà Giang trong toạ độ địa lý từ 22045' đến 22048' vĩ độ Bắc và từ 104047' đến 105003' kinh độ Đông. Cách cửa khẩu Thanh Thuỷ 23 km và cách thành phố Tuyên Quang khoảng 153 km. Trên địa bàn thành phố có Quốc lộ 2 là tuyến giao thông huyết mạch trong trục trung chuyển giữa vùng kinh tế Tây Nam của Trung Quốc và các tỉnh miền Bắc Việt Nam. 3.2.1.2. Địa hình, địa mạo - Là vùng đồi núi thấp, thung lũng sông Lô càng xuống phía Nam càng được mở rộng. Độ cao trung bình từ 50 - 100m. Nằm trong vùng chuyển tiếp của thành phố núi đá vùng cao và các thành phố núi đất vùng thấp, thành phố Hà Giang có địa hình tương đối phức tạp theo hướng nghiêng dần từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông. - Địa hình chủ yếu là các dạng đồi thấp, rừng già xen kẽ các cánh đồng lúa, soi bãi chạy dọc đôi bờ sông, suối. Địa hình này được tập trung nhiều ở khu vực phía Tây xã Phương Độ, một phần ở xã Ngọc Đường và phường Quang Trung. Địa hình này có độ cao thay đổi từ 100 - 700 m, địa hình đồi bát úp hoặc lượn sóng thuận lợi cho phát triển các loại cây công nghiệp dài ngày và cây ăn quả. - Địa hình thung lũng: Gồm các dải đất bằng thoải hoặc lượng sóng ven sông Lô và sông Miện. Các loại đất trên địa hình này được hình thành từ các sản phẩm bồi tụ (phù sa và dốc tụ). Do địa hình khá bằng phẳng có điều kiện giữ nước và tưới nước nên hầu hết đất đã được khai thác trồng lúa và hoa màu. Địa hình này tập trung nhiều ở phía Bắc xã Phương Độ, Phương Thiện dọc theo Quốc lộ 2, khu vực giáp ranh phường Ngọc Hà và xã Ngọc Đường. Đây là vùng đất đai phì nhiêu thích ứng với nhiều loại cây trồng, trên địa bàn thành phố Hà Giang có sông Lô, sông Miện chảy qua. Nhìn chung, địa hình của Thành phố là địa hình thuận lợi nhất cho việc phát triển kinh tế xã hội và sinh hoạt của người dân trong tỉnh Hà Giang. 3.2.1.3. Khí hậu 44
- - Khu vực thành phố Hà Giang thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa miền núi và á nhiệt đới, mỗi năm chia ra làm 2 mùa rõ rệt. - Nhiệt độ bình quân cả năm 22,70C, nền nhiệt độ được phân hoá theo mùa khá rõ rệt, trong năm có 5 tháng nhiệt độ trung bình nhỏ hơn 200C (tháng 12 đến tháng 4 năm sau); tổng tích ôn đạt trên 8.2000C. - Lượng mưa bình quân hằng năm 2.430 mm nhưng phân bố không đồng đều. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 hàng năm, lượng mưa chiếm khoảng 90% tổng lượng mưa cả năm, đặc biệt tập trung vào các tháng 7, 8, 9 nên thường gây úng ngập cục bộ ở các vùng thấp trũng. - Lượng bốc hơi bình quân của thành phố bằng 63,8% lượng mưa trung bình hàng năm. Đặc biệt trong mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau lượng bốc hơi hàng tháng cao hơn lượng mưa từ 2 - 4 lần, gây khô hạn cho cây trồng vụ đông xuân. - Độ ẩm không khí bình quân cả năm khoảng 84%, trong đó tháng lớn nhất là 87% (tháng 7 và tháng 8) mùa khô, độ ẩm trung bình chỉ còn khoảng 79% (tháng 3). Độ ẩm cao không diễn ra vào các tháng cuối mùa đông mà diễn ra vào các tháng cuối mùa hạ (tháng 7 và 8). - Sương muối và mưa đá chỉ xuất hiện đột xuất, ít ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt. 3.2.1.4. Chế độ thuỷ văn Thành phố Hà Giang là một đơn vị hành chính của tỉnh Hà Giang có lượng ao hồ ít, trước đây trong thành phố cũng có một số ao, hồ tuy nhiên do yêu cầu phát triển, yêu cầu đô thị hóa nên đã bị lấn chiếm, san lấp xây dựng nhà cửa. Với nếp sống ngày càng văn minh của người dân đô thị thì yêu cầu nước sạch đối với người dân ngày càng lớn hơn. Hiện nay, nước dùng cho sinh hoạt của nhân dân chủ yếu là nước sạch, nguồn nước chủ yếu là từ sông Lô, sông Miện được qua một hệ thống lọc khá hoàn chỉnh, đảm bảo tiêu chuẩn, chất lượng. Những hộ không có điều kiện sử dụng nước máy đều tự khoan cho gia đình một hệ thống giếng 45
- khoan với bể lọc tại chỗ, tuy nhiên không loại bỏ được những chất độc hại được hoàn toàn nhưng phần nào cũng đảm bảo vệ sinh. Thành phố Hà Giang chịu ảnh hưởng chủ yếu của chế độ thuỷ văn của hệ thống các sông và suối nhỏ, trong đó sông Lô là lớn nhất, đoạn chảy qua thành phố dài gần 30 km, mực nước mùa cạn là 96,74 m, mùa lũ là 101,0 - 104 m. Lưu lượng dòng chảy trung bình 156 m3/giây, cao nhất là 1.760 m3/giây, thấp nhất là 105 m3/giây. Tốc độ dòng chảy lớn nhất là 1,29m/giây, tốc độ dòng chảy nhỏ nhất mùa cạn kiệt là 0,17m/giây. Sông Miễn bắt nguồn từ Bát Đại Sơn suống thành phố Hà Giang đổ vào sông Lô tại phường Trần Phú, chiều dài sông khoảng 58 km, đoạn qua thành phố Hà Giang dài khoảng 9 km. Đặc điểm của các sông, suối ở đây là lòng hẹp và khá dốc, do đó trong điều kiện mưa lớn và tập trung đã tạo nên dòng chảy mạnh, gây lũ lớn, ảnh hưởng đến sản xuất và giao thông. 3.2.1.5. Cảnh quan thiên nhiên và tiềm năng du lịch Nằm ở độ cao khoảng 500m so với mực nước biển, đất đai ở thành phố Hà Giang được hình thành trên một số loại phiến thạch, tơi xốp, nhiều màu, thích hợp trồng các loại cây công nghiệp và cây dược liệu. Thành phố Hà Giang có các cây trồng chủ lực như lúa chất lượng cao, rau an toàn, chè và thảo quả. Trên địa bàn thành phố có 14 Hợp tác xã và 533 cơ sở sản xuất công nghiệp - thủ công nghiệp. Thành phố Hà Giang là địa phương có vị trí thuận lợi vì là điểm nối của nhiều tuyến giao thông đi qua như: quốc lộ 2 từ Hà Nội qua thành phố tới cửa khẩu quốc gia Thanh Thuỷ, quốc lộ 34 tới Cao Bằng, quốc lộ 279 tới Lào Cai, quốc lộ 4C Thành phố Hà Giang có nhiều khu du lịch thu hút du khách như: khu du lịch sinh thái Thạch lâm viên, khu du lịch sinh thái Trường xuân, công viên nước Hà Phương, khu du lịch Bồng Lai, khu du lịch Thể thao Hà Yên, núi Cấm ngoài ra, thành phố Hà Giang còn có các làng văn hoá du lịch dân tộc Tày thôn Tha, xã Phương Độ; Bản Tùy, xã Ngọc Đường và thôn Tiến Thắng, xã Phương Thiện. Du khách khi đến thành phố Hà Giang được thưởng thức những món đặc sản như: bánh 46
- cuốn trứng, thịt treo gác bếp, cháo ấu tẩu, các món rau rừng, rượu ngô, rượu mật ong bạc hà, bò, gà đồi, dê núi, lợn đen vùng cao 3.2.1.6. Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên và cảnh quan thiên nhiên * Thuận lợi: - Vị trí địa lý của thành phố có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội đặc biệt là trong lĩnh vực: thương mại, du lịch. Với các khu du lịch sinh thái phát triển, làng văn hóa du lịch, khu vui chơi giải trí tạo điều kiện phát triển và nâng cao đời sống nhân dân. - Hệ thống giao thông thuận tiện cho việc đi lại của người dân, trao đổi hàng hoá cũng như tiếp cận những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới. * Khó khăn: - Một số khu dân cư phân bố lộn xộn, phát triển không theo quy hoạch, nhiều ao, hồ bị san lấp để xây dựng nhà cửa, ảnh hưởng đến hệ thống thoát nước của thành phố, gây nên hiện tượng ngập úng khi mưa. - Một số khu vực bị ô nhiễm ảnh hưởng đến môi trường sống của người dân. Bụi bẩn, tiếng ồn trong xây dựng, khí độc cũng gây ảnh hưởng đến sức khoẻ người dân. - Vào mùa mưa, trên tuyến giao thông quốc lộ 34 từ thành phố Hà Giang vào huyện vùng sâu Bắc Mê thường xảy ra tình trạng lũ ống, lũ quét cục bộ ở nhiều nơi và sạt lở đất, đá gây ách tắc giao thông. 3.2.2. Tình hình kinh tế, xã hội của thành phố Hà Giang 3.2.2.1. Tình hình kinh tế của thành phố Hà Giang Thực hiện Nghị Quyết Đảng bộ lần thứ 15 về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố Hà Giang, trong những năm qua đã gặp không ít những khó khăn thử thách. Song dưới sự chỉ đạo sát sao của cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương, sự phấn đấu vươn lên của các cấp, các ngành, nhân dân các dân tộc trong thành phố, nền kinh tế của thành phố vẫn tiếp tục tăng trưởng, đời sống của nhân dân trong thành phố cơ bản được ổn định về nhiều mặt. 47
- - Nền kinh tế từ năm 2010 - 2013 liên tục tăng trưởng ổn định và năm sau luôn cao hơn năm trước, tốc độ tăng trưởng GDP của thành phố năm 2010 là 17,22%, năm 2011 đạt 17,86%, năm 2012 thực hiện đạt 18,08%, năm 2013 thực hiện đạt 18,52%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tăng tỷ trọng các ngành du lịch, dịch vụ, thương mại - công nghiệp xây dựng. Cụ thể: Khu vực dịch vụ luôn đóng vai trò chủ đạo từ 65% năm 2005 lên 70,22% năm 2010 và 70,44% năm 2011. Trong khi đó công nghiệp thủ công nghiệp - xây dựng chiếm 23,97% năm 2010; 24,12% năm 2011. Hiện, lĩnh vực Nông, lâm nghiệp - Thuỷ sản chỉ chiếm 5,81% năm 2010 và giảm xuống còn 5,44% năm 2011. Cơ cấu ngành kinh tế: + Nông nghiệp - lâm nghiệp: 5,81% đạt 98,31% so với chỉ tiêu Đại hội (Chỉ tiêu Đại hội XV: 5,91%). + Công nghiệp - xây dựng: 23,97% đạt 100,12% so với chỉ tiêu Đại hội (Chỉ tiêu Đại hội XV: 23,94%). + Thương mại - dịch vụ: 70,22% đạt 100,10% Nghị quyết đề ra (Nghị quyết Đại hội XV: 70,15%). - Tổng sản lượng lương thực có hạt năm 2010 là 4.548,2 tấn, năm 2011 là 4.479,6 tấn, năm 2012 là 4.269,10 tấn. Tổng sản lượng lương thực năm 2013 đạt 62,78% so Nghị quyết đề ra (Nghị quyết Đại hội XV: 6.800 tấn). - Thu ngân sách trên địa bàn thành phố năm 2010 là 24,32 tỷ đồng, năm 2011 là 110,00 tỷ đồng vượt 22,22% so Nghị quyết đề ra (Nghị quyết Đại hội XV: 90,0 tỷ đồng). - Thu nhập bình quân đầu người năm 2011 là 7,0 triệu đồng, năm 2012 đạt 15,5 triệu đồng, đạt 103,33% so với Nghị quyết đề ra (Nghị quyết Đại hội XV: 15,0 triệu đồng). - Tỷ lệ hộ nghèo giảm giảm từ 1,22% năm 2005 xuống 0,42% năm 2011 (theo tiêu chí cũ). Tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí mới năm 2010 còn 6,35%; năm 2012 giảm còn 3,73%. - Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2010 là 1,2%. Tỷ lệ tăng dân số tự 48
- nhiên các năm qua luôn luôn giảm. Năm 2011 tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 1,10%. Năm 2012 tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 1,08%. * Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Bảng 3.2: Cơ cấu kinh tế của thành phố Hà Giang giai đoạn 2010 - 2013 Chỉ tiêu Đơn vị Năm Năm Năm Năm tính 2010 2011 2012 2013 Nông - lâm nghiệp % 19,42 12,00 5,81 5,44 Công nghiệp - xây dựng % 18,57 23,00 23,97 24,12 Thương mại - dịch vụ % 62,01 65,00 70,22 70,44 Nguồn: Báo cáo thống kê hàng năm của chi cục thống kê thành phố Theo bảng 3.2, cơ cấu ngành kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng trong ngành thương mại - dịch vụ và giảm dần tỷ trọng của ngành nông - lâm nghiệp; GDP của ngành nông, lâm sản chiếm 19,42% giảm xuống 12,0% năm 2011 và tiếp tục giảm 5,81% năm 2012 và 5,44% năm 2013. Tỷ trọng của ngành Thương mại - dịch vụ tăng từ 62,01% năm 2010 lên 65% năm 2011 và tăng lên mức 70,22% năm 2012 và 70,44% năm 2013. * Khu vực công nghiệp và xây dựng Khu vực kinh tế công nghiệp và xây dựng của thành phố trong thời gian vừa qua đã đạt được một số thành tựu nhất định, bước đầu đã có những bước chuyển biến tích cực trong sản xuất và thu hút nguồn lực để đầu tư phát triển. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2009 đạt 127,70 tỷ đồng, năm 2010 đạt 148,00 tỷ đồng, năm 2011 đạt 175,50 tỷ đồng, năm 2012 đạt 194,40 tỷ đồng, đến năm 2013 đã tăng lên 326,00 tỷ đồng vượt 6,60%. Tốc độ tăng giá trị sản xuất Công nghiệp - xây dựng bình quân 14,0%/năm, chiếm 23,97% trong cơ cấu kinh tế của thành phố. * Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công: Giá trị xản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp năm 2013 là 424,5 tỷ đồng, tăng 26,3% so năm trước. Hoạt động của các cơ sở sản xuất công nghiệp - thủ công nghiệp được phát triển mở rộng, đa ngành đa nghề. Chất lượng sản phẩm hàng hóa được nâng cao đáp ứng nhu cầu của thị trường. Các cơ sở sản xuất như nhà máy xi măng, nhà máy nước, nhà máy gạch tuy nen, cơ 49
- sở sản xuất ván ép nhân tạo, khuôn nhôm kính tiếp tục mở rộng qui mô phát triển ổn định. Khu vực nông thôn sản xuất thủ công nghiệp đã dần hình thành, có 185 hộ của các thôn vùng cao các xã Phương Độ và Phương Thiện đầu tư máy chế biến chè mi ni, doanh thu hàng năm đạt trên 2, 5 tỷ đồng. - Các loại hình sản xuất, kinh doanh trên lĩnh vực công nghiệp - xây dựng phát triển ngày càng phong phú và đa dạng. Tính đến nay, trên địa bàn thành phố có 805 cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp hoạt động có hiệu quả, doanh thu năm sau cao hơn năm trước. - Công tác xây dựng cơ bản luôn được quan tâm, chú trọng đầu tư có trọng tâm, trọng điểm. Đã hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng nhiều đầu điểm công trình từ các chương trình dự án và các nguồn vốn trên địa bàn như Chương trình 135/TTg; kiên cố hoá kênh mương; Đường bê tông nông thôn; Cầu treo; kiên cố hoá trường học; kiến thiết thị chính năm 2013 tổng giá trị xây dựng cơ bản đạt 132,7 tỷ đồng, đạt 115% kế hoạch, tăng 78,6% so với năm trước. Bằng các chương trình dự án và tuyên truyền vận động nhân dân phát huy nội lực, hết năm 2013 toàn thành phố đã có số hộ gia đình được sử dụng điện đạt 100%. Xây dựng được 30 trụ sở tổ, cụm dân cư, mở mới đường giao thông nông thôn loại B được 66,0 Km, lát được 74.000 m2 gạch vỉa hè, đường nội thị được bê tông nhựa 88,0 km, đường nội thị có hệ thống chiếu sáng 101,5 km. Những năm gần đây, ngành công nghiệp - xây dựng đã đạt được nhiều thành quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế của thành phố. Đây là ngành chiếm tỷ trọng tương đối trong cơ cấu kinh tế của thành phố. Góp phần tạo công ăn việc làm ổn định cho nhiều lao động tại địa phương và đem lại nguồn thu nhập cao cho người dân trên địa bàn thành phố. Việc đầu tư xây dựng các công trình kiên cố, không những chỉ góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân mà còn giúp việc sử dụng đất được ổn định hơn, quy mô và hợp lý hơn. Cần phát huy hơn nữa nội lực ngành công nghiệp và xây dựng góp phần nhanh chóng vào sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá của thành phố. * Khu vực kinh tế thương mại - dịch vụ 50