Tài liệu Chế tạo "Ống xả sạch" xử lý ô nhiễm trên ô-Tô

pdf 48 trang hapham 180
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Chế tạo "Ống xả sạch" xử lý ô nhiễm trên ô-Tô", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftai_lieu_che_tao_ong_xa_sach_xu_ly_o_nhiem_tren_o_to.pdf

Nội dung text: Tài liệu Chế tạo "Ống xả sạch" xử lý ô nhiễm trên ô-Tô

  1. Chế tạo "ống xả sạch" xử lý ô nhiễm trên ô-tô
  2. Chế tạo "ống xả sạch" xử lý ô nhiễm trên ô-tô Vừa qua, Bộ môn Cơ khí ô-tô, Trường đại học Kỹ thuật thuộc Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh đã bảo vệ xuất sắc đề tài "Nghiên cứu giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường trên các phương tiện giao thông đường bộ". Đề tài đã đưa ra giải pháp sử dụng một bộ lọc khí xả - "ống xả sạch" - để xử lý và loại bỏ các thành phần gây ô nhiễm trong khí xả của động cơ trước khi xả ra ngoài môi trường. Sau gần 5 năm nghiên cứu và thử nghiệm, đề tài đã đưa ra một cơ chế lọc và làm sạch muội than hoàn toàn mới. Với cơ chế này, diện tích thông qua của phần tử lọc lớn gấp 30 đến 50 lần tiết diện đường ống xả. Trong quá trình làm việc, muội than được làm sạch khỏi phần tử lọc một cách liên tục theo nguyên lý đẩy và quét bằng chính động năng của dòng khí xả. Muội than được thu hồi về đáy của bộ lọc dưới dạng bột. Các thử nghiệm trên bộ lọc khí xả mẫu cho thấy mức độ giảm độ mờ khói đạt được từ 17% đến 26% (trung bình đạt 22,4%). Phần tử lọc được làm sạch gần như hoàn toàn trong suốt quá trình thử nghiệm. Với nhiệt độ khí xả ở cuối đường ống xả khoảng 2100C, bộ lọc khí xả hoạt động bình thường, có kích thước nhỏ gọn (đường kính 250 x 300 mm) lắp đặt thuận lợi với cả các xe tải nhỏ và xe khách 12 chỗ ngồi. Thành công của đề tài làm "ống xả sạch" của Trường đại học Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh đã mở ra một giải pháp hữu hiệu, công nghệ đơn giản, ít tốn kém trong việc xử lý ô nhiễm môi trường trên các phương tiện giao thông đường bộ. Nếu được hoàn thiện và triển khai áp dụng rộng rãi, thì"ống xả sạch" sẽ đưa chất lượng khí xả của động cơ theo Tiêu chuẩn Việt Nam 6438-1998 từ mức 1 (85% lượng muội than) xuống mức 2 (còn 72% lượng muội than). Nguồn: Quân đội Nhân dân, ngày 5/1/2000 Xây dựng hệ thống xử lý nước thải bệnh viện Cần Đước Bệnh viện Đa khoa Cần Đước thuộc tỉnh Long An vừa xây dựng hệ thống xử lý nước thải bệnh viện với kinh phí 110 triệu đồng. Thiết bị do Viện Công nghệ hóa học TP. Hồ Chí Minh cung cấp. Hệ thống xử lý nước thải điều khiển tự động hoàn toàn với công suất 25 m3/ngày, bảo đảm xử lý toàn bộ khối lượng nước thải của bệnh viện trước khi thải ra ngoài. Đây là một trong những hệ thống xử lý nước thải đầu tiên được lắp đặt tại các bệnh viện đa khoa tuyến huyện của Long An nhằm bảo vệ môi trường khỏi bị ô nhiễm. Nguồn: Nhân dân, ngày 2/1/2000 Cần Thơ đưa vào sử dụng hệ thống xử lý nước thải bệnh viện theo phương pháp vi sinh hiếu khí Bệnh viện quân y 121, tỉnh Cần Thơ, vừa đưa vào sử dụng hệ thống xử lý nước thải bệnh viện theo phương pháp vi sinh hiếu khí kết hợp đông tụ hóa học theo công nghệ tiên tiến của Italia, do Bộ Quốc phòng đầu tư với tổng vốn 1,6 tỷ đồng. Đây là công trình xử lý nước thải bệnh viện có quy mô lớn nhất ở đồng bằng sông Cửu Long, với công suất lọc 200 m3 nước thải/ngày đêm. Công trình bao gồm bể chứa nước thải bệnh viện, các bồn vi sinh, bể lọc, hệ thống thải nước
  3. sau khi xử lý. Nước thải sau khi được xử lý sẽ được sử dụng cho trồng trọt và nuôi trồng thủy sản. Nguồn: TTXVN, ngày 8/12/1999 Các biện pháp sinh học làm sạch môi trường đất và nước Hiện nay, các phương pháp xử lý các loại nước thải đang rất được quan tâm. Một trong những giải pháp có nhiều triển vọng để xử lý nước thải là ứng dụng công nghệ sinh học về tảo trong xử lý nước thải để nuôi cá, làm phân bón,v.v Xuất phát từ thực tiễn đó, Viện Nghiên cứu ứng dụng Công nghệ thuộc Bộ KH,CN & MT, đã tiến hành ngiên cứu đề tài : “Sử dụng một số biện pháp sinh học để làm sạch môi trường đất và nước”. Trên cơ sở nghiên cưú đặc điểm hóa, ký, sinh học của nước như : Nhiệt độ, + - độ pH, tổng lượng chất rắn lơ lửng, độ đục, COD, BOD2, N-NH4 , N-NOx , 3- - PO4 , CL , H2S, Cu, Fe tổng, Zn, số vi sinh vật hiếu khí và kỵ khí, E.Coli, Coliform, v.v trong nguồn nước thải ở Hà Nội, Viện đã thử nghiệm nuôi trồng một số loài tảo, như Cholellapyrenoidosa, bèo hoa dâu Azollapinata, vi khuẩn lam cố định đạm Nostoc-N3 và Glocotrichia-Cl, các chế phẩm sinh học là một số vi sinh vật có khả năng cố định đạm như: Klebsiella, Extrasol và Agrofil. Các kết quả nghiên cứu cho thấy: -Nước thải đổ vào hồ của Hà Nội tại một số điểm nghiên cứu khá bẩn: BOD + cao gấp 2-5 lần, COD cao gấp 2-7 lần, N-NH4 cao gấp 4-14 lần so với tiêu chuẩn nước mặt của Việt Nam (TCVN), vi sinh vật Clostridium Welchi có nhiều (3,7x103 tb/100ml). -Nước thải bệnh viện và sinh hoạt chưa được xử lý đổ thẳng ra các kênh, mương hòa với nước thải công nghiệp, tạo thành dòng thải ô nhiễm nặng, với hàm lượng lớn các chất hữu cơ và vi sinh vật gây bệnh: COD cao gấp 10-20 lần, 4 + BOD cao gấp 4-12 lần, Coliform cao gấp 10-10 lần, N-NH4 cao gấp 25-50 lần so với TCVN 5942-1995). Qua nghiên cứu, đề tài đã đi đến kết luận như sau: 1, Tảo Chlorella sinh trưởng tốt trong các nguồn nước thải nghiên cứu với giải trị số COD dao động từ 200-700 mg/l. Tảo này phát triển tốt nhất trong nước thải sinh hoạt với giải trị số COD từ 200-400 mg/l, sinh khối đạt 400-1000mg tảo khô/l sau 5-6 ngày; 2, Tảo Chlorella có khả năng phân hủy COD và BOD rất cao đối với nước thải sinh hoạt trong điều kiện nuôi phòng thí nghiệm: COD giảm 84%, BOD giảm 90%; + 3- 3, Tảo Chlorella có khả năng loại bỏ N-NH4 , P04 rất cao trong nước thải sinh hoạt. Giá trị các chỉ số này trong nước thải sau khi xử lý phòng thí nghiệm + 3- đạt TCVN 5942-1995 : N-NH4 giảm 99%, PO4 giảm 98%; 4, Tảo Chlorella có khả năng hấp thụ Cu và Zn trong nước thải hỗn hợp với hiệu suất loại bỏ Cu đạt 94-95% sau 20 ngày và hiệu suất loại bỏ Zn đạt 97% sau 16 ngày;
  4. 5, Bèo hoa dâu Azollapinata có khả năng hấp thụ Co và Eu ở nông độ từ 5- 20 ppm và khả năng hấp thụ cao nhất khoảng 24 giờ sau khi nuôi bèo. Hầu như toàn bộ lượng Co và Eu được hấp thụ đều nằm ở phần lá bèo; 6, Vi khuẩn lam cố định đạm Nostc và Glocotrichia bón cho rau có tác dụng làm tăng sinh khối rau muống trong khi hàm lượng đạm tổng số ở mẫu thí nghiệm tương tự đối chứng, các tảo này còn làm tăng năng suất rau cải trồng trong dung dịch lên 10%; 7, Các chế phẩm vi sinh vật cố định đạm Klebsiella, Extrasol và Agrofil có thể đem sử dụng thay thế đạm urê vô cơ, để bón cho rau diếp và rau cải mà vẫn bảo đảm chỉ tiêu năng suất, hàm lượng đạm tổng số và không làm tăng hàm - lượng N-NO3 trong rau; 8, Nghiên cứu đề ra được mô hình vừa đơn giản, vừa gọn nhẹ trong phòng thí nghiệm sử dụng tảo để xử lý nước thải sinh hoạt, nhưng có hiệu quả làm giảm + 3- BOD tới 90%, COD tơi 84%, N-NH4 tới 99%, PO4 tới 98% và E.Coli tới 50%. Nguồn: Trungtâm Thông tin KH-CN Quốc gia, 17/1/2000 Nước uống lấy từ biển Các nhà khoa học tại Trung tâm Nghiên cứu Nguyên tử Bhabha (BARC), ấn Độ đã triển khai một công nghệ hạt nhân, có thể tách nước biển thành nước uống. Công nghệ này là kết quả của hơn 10 năm nghiên cứu và triển khai công nghệ nội sinh của BARC và có thể chiết tách lượng muối dư thừa trong nước lợ. Công nghệ có thể tạo ra một giải pháp lâu dài đối với vấn đề khan hiếm nước quanh năm ở các bang, như Tamil Nadu và Gujarat, một số vùng nội địa ở Andhra Pradesh và các sa mạc của Rajastthan. Trên cơ sở kết hợp giữa các trạm khử muối với các nhà máy điện hạt nhân ven biển, công nghệ sẽ không cần dùng nhiên liệu hoá thạch khan hiếm hay các kênh dẫn hoặc đập. Công nghệ sử dụng quy trình đốt nhiều giai đoạn (MSF) kết hợp với quy trình màng lọc ngược để khử muối, đảm bảo thu được nước ngọt với độ tinh khiết cao, như khai thác từ các nguồn nước truyền thống. Với hàng loạt thực nghiệm tiến hành ở các vùng nông thôn, công nghệ đã chứng minh ý tưởng cấp nước uống an toàn từ các nguồn nước lợ. Các thực nghiệm đã được tiến hành tại các trạm trình diễn cũng chứng minh được khả năng thực thị về kỹ thuật- kinh tế của công nghệ nội sinh này đối với các nhà máy quy mô lớn, vừa và nhỏ. Hiện nay, BARC có thể cung cấp know-how để lắp đặt các trạm khử nước mặn và nước lợ thương mại. Hiện nay một trạm khử nước mặn trình diễn đốt năng lược hạt nhân nhiều giai đoạn có màng lọc ngược, công suất 6300m3/ ngày đang được xây dựng tại nhà máy điện nguyên tử Madras ở Kalpakkam. Nguồn:Techmonitor vol16, No6, Nov-Dec 1999 Xử lý dòng thải công nghiệp phức hợp Ngành nghiệp hoá chất tạo ra nhiều dòng thải có các nồng độ cao các loại chất vô cơ giá trị (các axit, các bazơ, các muối kim loại), nhưng bị nhiễm bẩn với các mức
  5. thấp các phân tử hữu cơ độc tính cao. Phương thức xử lý hiện tại các dòng thải này chủ yếu là phương thức xử lý và chôn lấp tại bãi thải rất tốn kém. Nhiều phân tử hữu cơ trong các dòng thải có thể được phân huỷ nhờ các vi sinh vật, song các vi sinh vật đó không thể hoạt động trong các dòng thải có nồng độ kiềm/axit cao. Công ty công nghệ chiết lọc màng (MET)-một chi nhánh của khoa Hoá Kỹ thuật, đại học tổng hợp London, Vương quốc Anh đã phát triển hệ thống bể phản ứng sinh học, chiết kiểu màng lọc (EMB), dựa theo phương pháp tách chất hữu cơ từ các loại chất vô cơ, cho phép các phân tử hữu cơ được phân huỷ một cách có kiểm soát và xử lý riêng dòng thải vô cơ. Công ty hoá chất ICI thử nghiệm công nghệ này đầu tiên, và sau các đợt thử nghiệm, ICI đã lắp đặt một trạm thực nghiệm. Từ các thực nghiệm, MET không chỉ thu được kinh nghiệm thực tế về công nghệ, hiệu quả xử lý và chi phí của công nghệ dưới các điều kiện hiện trường, mà còn nhận được các yêu cầu hợp đồng của một công ty hoá chất lớn. Sau thành công tại công ty ICI, Công ty MET còn thắng thầu một dự án nữa với EIf Atochem. Công ty MET đang phải giải quyết một vấn đề xử lý của Eif Atochem, là xử lý các dòng thải chứa các chất hữu cơ có khả năng phân huỷ sinh học và các dung dịch axit aluminium chloride (AlCl3). Loại dòng thải này thường thấy trong quy trình sản xuất của ngành công nghiệp hoá chất. Công ty MET đã thành công trong việc tách và phân huỷ sinh học các chất hữu cơ, cho phép EIf Atochem tái chế được AlCl3 tinh khiết và bán lại làm sản phẩm xử lý nước. Như vậy, việc sử dụng công nghệ sinh học này đã giúp Eif Atochem có khả năng thay đổi những gì mà EIf phải chi phí tốn kém thành nguồn thu cho công ty, cho phép cải thiện đáng kể mặt kinh tế cho nhà máy. Nguồn: Techmonitor, vol16, No6, Nov-Dec 1999 Quy trình mới tiền xử lý bùn Các chuyên gia khử nước bùn của công ty Simon-Hartley và các kỹ sư nhiệt Cambi, Na Uy đã triển khai một quy trình mới xử lý bùn tại Anh. Hiện quy trình đang được lắp đặt tại các công trình xử lý nước của công ty Thames Water's Chartsey, ở Surey, dùng phương pháp nhiệt thuỷ phân để tiệt trùng bùn trước khi đem đổ ra đất nông nghiệp. Quy trình xử lý nhiệt thuỷ phân Cambi được coi là hiệu quả hơn phương pháp thuỷ phân sinh học để phân huỷ dưới điều kiện bình thường. Thuỷ phân sẽ tiệt trùng bùn và nhờ đó các vi khuẩn tạo ra khí mê tan hoạt động trong các chất thối rữa, sẽ không bị xáo trộn do lượng bùn mới đưa vào có hàm lượng khuẩn khác nhau. Kỹ thuật mới được cấp patent này sử dụng biện pháp phun dòng hơi nóng trực tiếp để đốt nóng bùn tới 1300C trong thời gian lưu nhiệt là 30 phút. Bằng việc tạo ra các nhiệt độ và áp suất không đổi trong quy trình xử lý, hệ thống này được coi đã tạo ra bùn cấp lý tưởng cho quá trình phân huỷ kỵ khí. Kết quả là có thể tăng được sản lượng sinh khí của các hệ thống phân huỷ tới mức quy trình xử lý Cambi có thể hoạt động hoàn toàn bằng năng lượng tái tạo từ hệ thống xử lý nhiệt thuỷ phân Cambi (CHP) được cấp điện bằng khí sinh học. Quy trình xử lý Cambi đang được lắp đặt tại Chertsey, là trung tâm xử lý tập trung bùn cặn từ 6 trạm
  6. xử lý nước. Nguồn:Techmonitor vol16, No6, Nov-Dec 1999 Xử lý đất bị ô nhiễm bằng thực vật Một cơ quan trực thuộc Chính phủ Anh có tên là "National Urban Forestry Unit" đã bắt đầu thực hiện một dự án trồng thử nghiệm một số loại cây có tác dụng ăn kim loại nặng tại vùng có nhiều nhà máy công nghiệp nặng ở xung quanh Birmingham của nước Anh. Cuộc thử nghiệm này nhằm tìm ra loại cây có khả năng lọc chất độc cao nhất trong số các loại cây: Cây liễu (willow), cây dương (poplar), cây cơm cháy (elder). Các loại cây này đã được các nhà nông học Anh dùng để làm sạch đất nhiễm bẩn vì sử dụng cho mục đích công nghiệp. Chúng được dùng tái tạo lại đất bị nhiễm các kim loại nặng như chì (lead), cađimi (cadmium), thủy ngân (mercury), đồng (copper), kẽm (zinc) và bo (boron). Sau khi hút các "chất độc" đối với đất và cây trồng trên, những loại cây đó sẽ bị biến dạng, và người ta sẽ chặt chúng hạ chúng - trả lại đất đã được làm sạch cho việc trồng trọt bình thường. Nguồn : Lao động , ngày 17/7/1999 Chương trình EC-ASEAN về Công nghệ thân thiện về sinh thái Chương trình cộng tác giữa Cộng đồng châu Âu (EC) và ASEAN đã xác định tiềm năng đáng kể -trong việc chuyển giao các công nghệ năng lượng sinh khối đã được kiểm chứng. EC đã tài trợ một phần cho một số dự án trình diễn quy mô đầy đủ tiến hành ở Đông Nam á trong khuôn khổ của chương trình hợp tác EC-ASEAN. Một số chức năng quan trọng của chương trình này là: • Cung cấp cho các công ty ASEAN và châu Âu các thông tin cập nhật liên quan đến thị trường năng lượng đang thay đổi rất nhanh ở các nước ASEAN; • Giám sát hiệu quả thực hiện về mặt kỹ thuật, kinh tế và môi trường của các dự án phát sinh khối đồng hành hiện có và các dự án mới; • Triển khai các dự án trình diễn quy mô đầy đủ để khuyến khích các công nghệ năng lượng sinh khối đã kiểm chứng trong các cơ sở công nghiệp gỗ và nông nghiệp ở ĐNA; và • Hỗ trợ các dịch vụ tư vấn kỹ thuật và kinh doanh trong khuôn khổ chương trình cho các công ty để lựa chọn những công nghệ thích hợp. Kết quả đạt được của chương trình thông qua các dự án đã được EU phê duyệt giai đoạn tiếp theo của chương trình. Trong giai đoạn này, ngoài việc chất thải của công nghiệp gỗ và nông nghiệp được sử dụng làm nhiên liệu, chương trình còn triển khai các dự án phát năng lượng đồng hành đốt bằng than và khí. Nguồn: VATI S UPDATE: Waste Technology, Nov-Dec 1999 Các mức tiết kiệm do công nghệ sạch mang lại Công ty Bangkok Springs Industrial, Thái Lan đã chứng minh các mức tiết kiệm có thể đạt được thông qua việc áp dụng các công nghệ sạch. Công ty này
  7. sản xuất mỗi tháng 1500 tấn lá nhíp ô tô -sử dụng chủ yếu cho xe tải con và lớn. Trước đây công ty sử dụng phương pháp sơn phun truyền thống cho nên thải ra một lượng sơn thải lớn. Bằng cách áp dụng kỹ thuật sơn "kết tủa điện" (Electro deposit paint - EDP) do Viện Công nghệ Môi trường Khu vực (RIET) cung cấp, công ty đã có khả năng hạ thấp lượng sơn thải phát sinh. Với phương pháp sơn EDP, sơn được làm nhiễm từ tính và do vậy, các lá nhíp kim loại hút trực tiếp sơn từ tính. Theo Công ty Bangkok Springs Industrial, quy trình sơn mới này rẻ tiền hơn và an toàn hơn cho công nhân. Thời hạn hoàn trả vốn đầu tư của công ty khoảng 2 năm. Nguồn: ASIA INVEST News, VATIS UPDATE: Waste Technology, Nov-Dec 1999 Xử lý nước ngầm nhiễm phèn Đây là giải pháp lọc nước áp dụng nguyên tắc phản ứng tạo tủa và lọc tinh mà không dùng hóa chất. Vật liệu lọc là viên bi và hạt nhỏ có tác dụng điều chỉnh độ pH trong nguồn nước, tạo thế oxy hóa khử cao để loại bỏ ion kim loại. Vật liệu có dạng viên bi nén đảm bảo độ bền cơ học, bền trong nước, không nhiễm bẩn, không gây độc hại khi cho nước đi qua. Tỷ lệ hao mòn về trọng lượng hàng năm của vật liệu dạng viên bi từ 5% đén 7%. Thiết bị có tên gọi là “Công nghệ 4M”, quy trình xử lý gồm 3 công đoạn chính sau đây: 1, Cấp oxy và khử khí: Đối với những hệ thống xử lý trực tiếp nguồn nước ngầm vừa khai thác, một trong các biện pháp cần thiết để khử sắt tan trong nước là cung cấp oxy dưới dạng giàn phun mưa hoặc bơm không khí vào hệ thống. Ngoài tác dụng cung cấp oxy, hệ thống này còn phải loại trừ các khí như CO2, CH4, H2S tan trong nước. 2, Phản ứng tạo tủa: Nước ngầm sau khi được bơm lên tiếp xúc với không khí qua giàn phun mưa (hoặc bằng cách bơm không khí vào), sẽ chuyển sang công đoạn phản ứng tạo tủa, độ pH của nước thay đổi và ổn định ở môi trường kiềm thích hợp nhờ tác dụng của vật liệu lọc. Thế oxy hóa khử trên bề mặt vật liệu tăng lên do sự hấp thu của các ion làm tăng nồng độ của chúng. Trong môi trường đó, cộng với tác dụng của các chất xúc tác chọn trong vật liệu lọc, quá trình chuyển hóa các ion Fe+2 tan trong nước thành các ion Fe+3 kết tủa theo các phản ứng hóa học trên xảy ra dễ dàng và nhanh chóng. Phần lớn các kết tủa bám trên bề mặt hạt lọc và được loại bỏ bằng xả rửa sau mỗi chu kỳ làm việc. 3, Lọc tinh: Vật liệu dùng để lọc tinh trong công đoạn này là cát chọn lọc chuyên dùng. Cơ chế lọc tinh bao gồm lọc hấp thu, hút tĩnh điện trên bề mặt vật liệu, lọc cơ học và lắng trong. Quá trình loại sắt còn có thể thực hiện ở công đoạn này, nếu nguồn nước có hàm lượng sắt cao, các hạt keo mịn lơ lửng, vẩn đục, mang màu, mùi sẽ được giữ lại nhờ cơ chế trên. Công nghệ này do TS. sinh học Võ Quang Tuyến, TS. công nghệ Nguyễn Quang Thắng và TS. hóa học Nguyễn Thạc Sửu phối hợp nghiên cứu sáng chế. Thiết bị xử lý nước ngầm nhiễm phèn 4M đáp ứng được nhu cầu nước sạch cho dân cư vùng ven TP. Hồ Chí Minh, vùng duyên hải miền Trung và vùng đồng bằng sông Cửu Long, nơi có nguồn nước nhiễm phèn khá lớn. Đây là giải pháp công nghệ lọc nước đã được kiểm nghiệm trong thực tế phù hợp với khả năng
  8. đầu tư, điều kiện và trình độ sử dụng của cộng đồng dân cư. Giải pháp này có ưu điểm là không sử dụng hóa chất trực tiếp, đa dạng hóa về công suất và đối tượng phục vụ, dùng trong hộ gia đình hoặc sản xuất công nghiệp. Hiện tại ở Việt Nam có sẵn nguồn nguyên liệu chế tạo hạt lọc, nhờ vậy mà giá thiết bị thấp, phù hợp với khả năng đầu tư của người dân vùng sâu, vùng xa. Bộ lọc 4M có nhiều loại với công suất khác nhau từ 300 lít/ngày đến 4000 lít/ngày, giá từ 600.000 đ/bộ đến 2.500.000 đ/bộ. Nguồn: Phụ san “Khoa học và Đời sống”, số 136/2000 Dùng trấu để sấy thóc và phát điện ở Long An Tổng Công ty Lương thực Miền Nam đang tiến hành lắp đặt dây chuyền đốt trấu để sấy thóc và phát điện tại Long An. Trung bình khi đốt 4 kg trấu, dây chuyền này sẽ tạo ra 1 kW điện. Hiện dây chuyền đã đạt được công suất 100 KWh điện và trung bình một giờ sấy được 10 tấn lúa. Dây chuyền này giúp các nhà máy xay xát gạo giải quyết lượng trấu thải ra đồng thời tiết kiệm được chi phí sấy thóc. Nguồn: Nhân dân, ngày 27/1/2000 Chuyển giao kỹ thuật túi ủ khí sinh học phục vụ đời sống nông dân Để giải quyết chất thải trong chăn nuôi gây ô nhiễm nguồn nước, không khí và đất đai, trường Đại học Nông lâm Thành phố Hồ Chí Minh (TP HCM) đã nghiên cứu và chuyển giao kỹ thuật túi ủ khí sinh học (Biogas) cho các trung tâm khuyến nông và các hộ nông dân. Điểm đáng chú ý của túi ủ bằng polyethylene là có thể lắp đặt nổi trên mặt nước, thuận tiện cho những vùng ngập nước hay vùng thường bị lụt với giá thành chỉ khoảng 800.000 đ/túi, thời gian hoàn vốn nhanh làm cho các nông hộ vừa và nhỏ có khả năng chi trả và chấp nhận kỹ thuật túi ủ bằng chất dẻo này. Ngoài ra, kỹ thuật lại đơn giản, dễ lắp đặt, dễ vận hành nên một số nông dân có thể tự mua vật liệu và lắp đặt cho mình và cho nhiều người khác. Kỹ thuật túi ủ này có khả năng xử lý chất thải của 3-4 con heo thịt hoặc 100 con gia cầm và chất thải của 5- 6 người trong gia đình, tạo đủ khí đốt cho sinh hoạt. Cho đến nay, trường Đại học Nông lâm TP. HCM đã lắp đặt và chuyển giao trên 8.500 túi ủ khí nói trên cho hơn 20 tỉnh, thành và chuyển giao cho một số nước láng giềng như Lào, Campuchia, Philippin và Bangladesh. Kỹ thuật túi ủ khí sinh học này vừa cải thiện môi trường, vừa tạo ra các sản phẩm có thể tái sử dụng trong chu trình khép kín VAC: nguồn chất đốt cho gia đình, nguồn phân hữu cơ bón cho cây trồng và nước thải của túi ủ dùng để nuôi tảo, các sinh vật sống trong nước tạo nguồn thức ăn cho cá. Kỹ thuật túi ủ biogas là một giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của mô hình VAC, góp phần thực hiện chương trình phát triển nông thôn mới và chương trình xoá đói giảm nghèo. Nguồn: Báo Kinh doanh & tiếp thị; số 186, ngày 17/1/2000 Tập đoàn Marubeni hợp tác với vinaplast để xử lý chất thải nhựa Tập đoàn Marubeni (Nhật Bản) vừa làm việc với Tổng Công ty (TCT) nhựa Việt Nam (Vinaplast) về việc hỗ trợ các dự án xử lý chất thải nhựa, bảo vệ
  9. môi trường. Theo đó hai nhà máy xử lý chất thải nhựa sẽ được xây dựng ở miền Bắc và miền Nam. Vốn xây dựng hai nhà máy này có thể lấy từ Quỹ Hỗ trợ Bảo vệ Môi trường của Nhật Bản. Theo ước tính, để xây dựng mỗi nhà máy như vậy, vốn đầu tư sẽ cần từ 5 đến 10 triệu USD. Theo kinh nghiệm của các nước, các nhà máy xử lý chất thải nhựa này sau khi xử lý các chất thải độc hại bám trên các sản phẩm nhựa đã qua sử dụng sẽ ép các loại nhựa tái chế này thành các thanh nhựa dùng làm ghế ngồi nơi công cộng hay rào chắn ở vườn hoa và công viên. Hiện tại, Việt Nam chưa có một nhà máy nào xử lý các phế thải nhựa đã qua sử dụng và nhiều cơ sở tư nhân đã mua phế liệu nhựa về rửa qua rồi tiếp tục ép lại thành các loại đồ dùng bằng nhựa để sử dụng trong gia đình và nhất là các bao túi xốp đựng thực phẩm và hàng hóa hàng ngày. Đây là những vật dụng có thể gây bệnh tật và tác hại tới sức khỏe người sử dụng. Nguồn: TBKTVN, ngày 17/1/2000
  10. Phát triển công nghệ năng lượng tái tạo Ngày 21/1/2000, tại Hà Nội, Viện Công nghệ Châu á (AIT) đã phối hợp với Viện Năng lượng và Phòng thí nghiệm mặt trời Solarlab, thuộc Viện Vật lý tổ chức Hội thảo về chính sách phát triển công nghệ năng lượng tái tạo ở Việt Nam. Hội thảo do Quỹ SIDA (Thuỵ Điển) tài trợ. Tại Hội thảo, các đại biểu đã nghe các đại diện của AIT, Viện Năng lượng và Solarlab trình bày về việc thực hiện chương trình công nghệ năng lượng tái tạo tại Châu á, trong đó có Việt Nam do SIDA tài trợ. Mục tiêu của chương trình này là thúc đẩy việc ứng dụng một số công nghệ năng lượng tái tạo hoàn thiện hoặc tương đối hoàn thiện ở các nước Châu á. Chương trình tập trung nghiên cứu 3 dạng công nghệ chính là pin mặt trời, sấy bằng năng lượng mặt trời, đóng bánh sinh khối và bếp đun viên ép. Nằm trong khuôn khổ của chương trình công nghệ năng lượng tái tạo, Việt Nam đã có 2 dự án là đóng bánh sinh khối và pin mặt trời đã được nghiên cứu ứng dụng vào thực tế tại Đồng Tháp và Hà Tây. Giai đoạn II của các dự án sẽ tiếp tục được thực hiện với mục tiêu hoàn thiện và phổ cập hơn nữa các ứng dụng trên cho các vùng nông thôn Việt Nam. Nguồn: TBKTVN, ngày 24/1/2000 Sản xuất phân sinh học từ than bùn và chất thải hữu cơ Tiến sĩ Nguyễn Đức Lương, thuộc Khoa Công nghệ thực phẩm, Đại học Kỹ thuật TP. Hồ Chí minh, đã nghiên cứu thành công quy trình sản xuất phân sinh học từ than bùn và chất thải hữu cơ. Qua quy trình xử lý nghiền, phối trộn, lên men,v.v 5 tấn than bùn sẽ cho ra 7,5 tấn phân sinh học có chứa chất kích thích tăng trưởng thực vật và tăng lượng vi sinh vật cho đất. Hiệu quả của 1 kg phân sinh học có tác dụng tương đương với 1,4 kg phân NPK nhưng giá rẻ hơn, chỉ từ 800-1.200 đồng/kg. Đây là đề tài đoạt giải ba hội thi sáng tạo kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh 1999. Nguồn: Nhân dân, ngày 18/1/2000 Thiết bị lọc bụi tĩnh điện bảo vệ môi trường cho doanh nghiệp Viện Máy và Dụng cụ công nghiệp thuộc Bộ Công nghiệp đã thiết kế, chế tạo và đưa vào sử dụng thử thiết bị lọc bụi tĩnh điện tại xưởng thu hồi kiềm của Công ty Giấy Đồng Nai với hiệu quả kinh tế - kỹ thuật cao. Thiết bị này hoạt động với lưu lượng khí thải 35.000 m3/giờ và đã làm giảm nồng độ bụi từ 50 g/m3 trước xử lý xuống chỉ còn 390 mg/m3 sau khi xử lý, đạt tiêu chuẩn môi trường về khí thải công nghiệp ở Việt Nam. Mỗi ngày thiết bị này còn thu hồi được từ 10-14 m3 dịch xút trị giá hàng trục triệu đồng. Giá thành chế tạo thiết bị này chỉ bằng 20% - 25% giá mua của nước ngoài và hằng năm việc sử dụng thiết bị lọc bụi tĩnh điện này đã tiết kiệm được hàng tỷ đồng do thu hồi lượng bụi kiềm. Nguồn: Nhâ n dân, 15/2/2000 Vât liệu DS3 dùng để khử nước mặt bị chua phèn ở vùng sâu, vùng xa của Đồng bằng sông Cửu Long Để góp phần giải quyết một phần khó khăn về nước sinh hoạt cho đồng bào vùng sâu, vùng xa ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), mới đây các chuyên gia ở Viện Hóa học đã triển khai đề tài "Xử lý nước phèn dùng cho sinh hoạt ở ĐBSCL". Mục
  11. đích là tìm ra phương pháp xử lý nước phèn đơn giản, dễ áp dụng cho các hộ gia đình sống ở các vùng có nước bị phèn, mặn ở ĐBSCL ĐBSCL có nhiều vùng mà nước bị phèn, mặn. Đại bộ phận dân cư ở những vùng này còn thiếu nước sạch dùng trong sinh hoạt hàng ngày. Nước sinh hoạt ở đây chủ yếu được lấy từ kênh, thậm chí rửa rau, vo gạo cũng dùng trực tiếp nước kênh mà không qua một khâu xử lý nước nào. Nước để uống và nấu ăn được giải quyết tùy hoàn cảnh từng gia đình và điều kiện giao thông. Một số hộ dự trữ được nước mưa, có thể dùng qua nhiều tháng; còn đa số hộ phải mua nước từ nơi khác chở tới với gía 1.000 đồng/gánh (dung tích một gánh khoảng 40 lít), tương đương 25.000 đồng/m3. Rất nhiều hộ khác ở vùng sâu, vùng xa mặc dù có tiền nhưng cũng không mua được nước, bởi thuyền không thể chở nước vào được. Tại những nơi đó, mọi người phải để nước đục lắng trong các lu chứa thì mới có nước dùng cho ăn, uống và sinh hoạt. Theo kết quả phân tích thì nước chứa trong các lu được lấy từ các con kênh, thường rất chua vì độ pH nhỏ hơn 5 (pH<5) và có chứa nhiều chất độc hại cho sức khỏe con người như các ion nhôm, sắt, các ion sulfat,v.v Mặc dù nhiều gia đình đã phải dùng tro, vôi để xử lý nước, nhưng chất lượng nước sau khi xử lý vẫn không đạt tiêu chuẩn cho phép dùng trong ăn, uống. Sau khi ăn, uống, người ta thường vẫn bị đau bụng. Trước thực tế đó, nhiều năm qua các chuyên gia của Viện Hóa học đã tập trung nghiên cứu làm sao có thể sử dụng các loại vật liệu dễ kiếm trong tự nhiên ở địa phương, hoặc một số loại hóa chất được dùng trong thực phẩm, để xử lý nước phèn, mặn nhằm đưa được độ pH của nó về gần 7, đồng thời tách được các ion sắt, nhôm ra khỏi nước bị chua phèn này. Trong thực tế, hiện nay có nhiều phương pháp xử lý nước phèn, mặn như: phương pháp trao đổi ion, thẩm thấu ngược, siêu lọc, điện thẩm để tách các loại ion tan trong nước, phương pháp cung cấp nhanh không khí vào nước để tách và loại bỏ sắt, chuyển sắt ở dạng Fe2+ về dạng Fe3+(hay người ta thường nói tắt là chuyển sắt 2 về sắt 3),v.v Tuy nhiên, các phương pháp này đều rất đắt tiền, khó áp dụng cho việc xử lý nước phèn ở các vùng sâu, vùng xa. Để khắc phục nhược điểm này, các chuyên gia đã xây dựng phương pháp mới dựa trên nguyên tắc tích số tan. Dùng một vật liệu rắn để cố định sắt 2 theo cơ chế tích số tan, mà không cần chuyển sắt 2 thành sắt 3 và dùng các vật liệu có khả năng hấp thụ một phần sulfat hoặc có khả năng liên kết với sulfat nhằm tạo ra một muối kép kém tan để tách và loại bỏ sulfat. Dụng cụ để xử lý nước phèn cũng rất đơn giản, đó là một thùng ống hình trụ, bằng nhựa cỡ 70-100 lít có khóa vòi nước phía dưới. Trong ống có các lớp (theo thứ tự từ dưới lên) là: sỏi to, trên là lớp cát dày 15-20 cm, tiếp theo là lớp vật liệu DS3 (dạng hạt, cỡ 2-4 mm) dày 20-30 cm, và trên cùng là lớp cát. Nước phèn được đổ vào thùng, sau đó cho chảy từ từ với lưu lượng cỡ 30-40 lít/giờ. Chất lượng nước sau khi xử lý được đánh gía là tốt, dùng được cho sinh hoạt gia đình. Công nghệ này đã được khảo sát thực nghiệm từ năm 1989 tại một số hộ gia đình tại tỉnh Long An thuộc ĐBSCL. Năm 1999 UBND huyện Thủ Thừa đã quyết định cho triển khai ứng dụng trên toàn huyện. Theo TS. Nguyễn Bá Trinh - chuyên gia của Viện Hóa học, thì vật liệu DS3 có tính năng tổng hợp, có khả năng loại trừ được các ion nhôm, sắt, sulfat và các chất hữu cơ độc hại khác. Khi nước phèn tiếp xúc với vật liệu DS3, độ pH của nước nhiễm phèn được chuyển về trung tính. Đó là điều kiện tiên quyết để chuyển nhôm về dạng hydroxit khó tan. Trong môi trường trung tính, sắt 2 dễ bị ôxy hóa thành sắt 3 và kết
  12. tủa dưới dạng hydroxit sắt 3. Một phần sắt 2 còn lại bị hấp thụ lên hydroxit, một phần bị cố định lên vật liệu DS3 theo cơ chế tích số tan. Trong điều kiện độ pH của nước không cao, sulfat bị hấp thụ lên DS3 hoặc lên hydroxit. Vật liệu DS3 là một loại vật liệu có chứa carbon nên nó có khả năng hấp thụ một ít các chất hữu cơ, đặc biệt là các chất có tính hydropholic cao, nhờ đó mà nó có thể hấp thụ các vết xăng dầu, hoặc thuốc trừ sâu có thể có trong nước phèn. Một đặc tính nữa của vật liệu DS3 là khả năng cố định chì - một kim loại nặng rất độc và thường có nhiều trong nước phèn. Điểm quan trọng là vật liệu này rất rẻ tiền và dễ kiếm. Công nghệ sản xuất DS3 và lắp ráp thùng lọc có thể tiến hành ở ngay địa phương. Vật liệu DS3 có thể sử dụng lâu dài và tái sinh. Thực tế đã chứng minh rằng một thùng lọc chứa 15 kg vật liệu DS3, có thể lọc mỗi ngày 100 lít nước phèn, thời gian sử dụng kéo dài trên 3 năm. Giá thành mỗi thùng lọc, nếu sản xuất nhiều, có thể chỉ dưới 300.000 đ/thùng, trong đó chi phí mua vật liệu chiếm khoảng 50%. Chi phí xử lý ước tính ở mức 2.000-3.000 đ/m3 nước, tức là chỉ vào khoảng 150 đồng/gánh nước. Nguồn: TBKTVN, ngày 18/2/2000 Phương pháp kiểm tra đơn giản chất lượng nước giếng khoan nông thôn Để đảm bảo an toàn cho sức khỏe trong sinh hoạt hàng ngày của con người, cần phải kiểm nghiệm và xử lý thích hợp nước giếng khoan. Việc đánh giá chất lượng nguồn nước thường dựa vào các chỉ tiêu cơ bản sau đây: - Các chỉ tiêu về vật lý: độ đục, độ màu, độ cứng, nhiệt độ, mùi vị, hàm lượng chất rắn,v.v - Các chỉ tiêu về hóa học: độ pH, độ ôxy hóa, hàm lượng sắt, mangan, clorua sulfat, các hợp chất của nitơ, iốt, fluo, v.v - Các chỉ tiêu vi sinh vật: số vi trùng E.Coli gây bệnh, các loại rong tảo, vi rút,v.v Nếu muốn có thông tin đầy đủ và chính xác về chất lượng nguồn nước mà bạn đang sử dụng, bạn nên mamg mẫu nước đến các cơ sở kiểm nghiệm chất lượng nước của Trung ương hoặc địa phương để kiểm tra. Tuy nhiên, một vài phương pháp kiểm tra đơn giản dưới đây sẽ phần nào giúp bạn nhận biết, đánh giá sơ bộ một số chỉ tiêu về chất lượng nguồn nước mà bạn đang sử dụng. Về màu sắc: Nếu nguồn nước có màu vàng là nước có nhiều chất mùn humic, có màu đen là nước có hàm lượng mangan cao, có màu đỏ là nước bị nhiễm sắt và thường làm vàng quần áo trắng khi giặt, còn các loài thủy sinh vật làm cho nước có màu xanh lá cây, v.v Về mùi: nước thiên nhiên có thể có mùi đất, mùi tanh do có muối đồng, sắt, nước có mùi clo do nước có CL2,, CLO2, nước có mùi amôniac do có NH4, nước có mùi trứng thối do có H2S, v.v hoặc có mùi đặc trưng do chất có nguồn gốc hữu cơ tồn tại trong nước. Về vị: Nước có thể có vị mặn, ngọt, chát, v.v tuỳ theo thành phần và hàm lượng các muối hoà tan trong nước. Xác định độ trong của nước bằng độ sâu cột nước tối đa mà qua nó từ trên nhìn
  13. xuống, người ta đọc được chữ ở dạng tiêu chuẩn hay thấy rõ chữ thập. Tương ứng với nó là hàm lượng cặn trong nước thông qua thang đục silic. Độ cứng của nước được biểu thị bằng hàm lượng các iôn Canxi, Magiê có trong nước. Nước có độ cứng cao thường giặt tốn xà phòng và tốn các chất tẩy rửa, hại quần áo, nấu thức ăn lâu chín, dụng cụ đun nước thường có lớp cặn bám ở đáy và ở thành. Hàm lượng chất rắn trong nước bao gồm các chất hữu cơ, vô cơ trong nước thông qua chỉ tiêu lượng cặn toàn phần được xác định bằng cách cho bay hơi 1 lít mẫu nước, sấy ở nhiệt độ 1050C - 1100C cho đến khi khối lượng không đổi. Kiểm tra độ pH của nước có thể sử dụng chất chỉ thị màu là quỳ tím. Theo qui trình trên, bạn có thể tự kiểm tra chất lượng nguồn nước của bạn so với một số tiêu chuẩn vệ sinh đối với chất lượng nước cấp cho sinh hoạt ở vùng nông thôn (TCVN 5500-91) như sau: -Độ trong: lớn hơn 25 cm -Màu (Thang màu coban): 100 -Mùi, vị (đậy kín sau khi đun 50-600C): 0 -Độ cứng (tính theo mg CaCO3/l) : 500 -Hàm lượng cặn sấy khô (mg/l) : 1000 -Hàm lượng sắt (mg) : 0,5 -Hàm lượng Mangan (mg/l) : 0,1 -pH= 6,5-8,5 (Nếu đạt chỉ số này, quỳ tím gần như không đổi màu). Nguồn: Khoa học & Đời sống, số 10/2000
  14. Nghiên cứu tận dụng cặn bùn dầu thô làm nhiên liệu lỏng Trong những năm gần đây, ở Viêt Nam cùng với sự nâng cao sản lượng dầu thô khai thác, sự gia tăng lượng cặn bùn dầu lắng đọng dưới đáy các tàu chứa dầu trung gian ngày càng lớn. Trước đây, định kỳ tàu chứa cặn bùn được đưa sang nước ngoài để súc rửa và xử lý với chi phí rất cao. Hiện nay, chúng ta đã tự túc việc súc rửa các tàu chứa dầu thô. Để giải quyết lượng cặn bùn thải ra từ quá trình súc rửa này, vấn đề được đặt ra là chọn phương án xử lý và sử dụng như thế nào để vừa giải quyết được vấn đề ô nhiễm môi trường (không thải bỏ) và vừa sử dụng được chất thải một cách có ích. Dựa vào đặc tính cặn bùn dầu thô Việt Nam là "sạch", nhiêù parafin, nhiệt trị cao, các tác giả của đề tài nghiên cứu ở Trường Đại học Kỹ thuật thuộc ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh đã chọn phương án sử dụng cặn bùn làm nhiên liệu lỏng, có công nghệ đơn giản phù hợp với tình hình nước ta hiện nay. Đối với các phương án khác như hướng sản phẩm, làm bitum hay các sản phẩm làm chất độn trong xây dựng không phù hợp vì cặn bùn dầu của Việt Nam rất ít asphalt và nhiều parafin. Để tái chế ra parafin thì chi phí để thực hiện khá cao, còn đối với hướng tiêu hủy như thiêu đốt hay dùng phương pháp vi sinh thì chi phí đầu tư và vận hành lớn mà không sử dụng được chất thải một cách có ích. Trong nghiên cứu này, mẫu khảo sát là mẫu cặn bùn thải ra từ quá trình súc rửa tàu chứa dầu thô của mỏ Bạch Hổ do Viện Kỹ thuật Nhiệt đới và Bảo vệ Môi trường Tp. Hồ Chí Minh cung cấp. Sơ đồ qui trình: Phương án xử lý và sử dụng cặn bùn làm nhiên liệu lỏng được tiến hành theo sơ đồ dưới đây: Cặn bùn dầu thô  Lọc nóng (loại bỏ: rác, hạt rắn lớn)  Sa lắng nhiệt (loại bỏ: nước, tạp chất cơ học)  Cặn "sạch"  Pha trộn (cùng nhiên liệu nền)  Nhiên liệu lỏng Kết quả xử lý cặn sau quá trình lọc và sa lắng đối với mẫu cặn bùn nói trên cho thấy rằng sau khi xử lý cặn bùn rất "sạch". Hàm lượng nước và tạp chất cơ học còn lại gần như không đáng kể. Ngoài ra, hàm lượng lưu huỳnh, nhựa và asphalt đều giảm xuống rõ rệt. Nếu so với tiêu chuẩn chất lượng về dầu FO của Petrolimex Sài Gòn thì hầu hết các thông số chỉ tiêu của cặn sạch và mẫu FO đều đạt mức quy định. Duy chỉ có nhiệt độ đông đặc của cặn dầu sạch là vượt quá chỉ tiêu quy định cho dầu FO. Như vậy, đây chính là thông số quyết định đến tỷ lệ pha trộn tối đa giữa cặn và dầu FO. Kết quả xác định nhiệt độ đông đặc của các hỗn hợp khảo sát cho thấy với tỷ lệ cặn bùn trong hỗn hợp dưới 22% khối lượng thì hỗn hợp khảo sát mới đạt chỉ tiêu về điểm đông đặc. Đây là thông số chính giới hạn tỷ lệ đưa cặn bùn vào dầu FO và chứng minh cho hàm lượng parafin cao trong cặn bùn dầu thô Việt Nam.Tuy nhiên, cần lưu ý rằng điểm đông đặc (nhiệt độ đông đặc) Max+210C cho dầu FO là chỉ tiêu sử dụng cho miền Nam, còn tại một số vùng khác như ở miền Bắc hay trên cao nguyên thì điểm đông đặc cho phép là thấp hơn nên tỷ lệ cặn bùn đưa vào dầu FO cũng sẽ phải thấp hơn. Tóm lại, phương pháp xử lý bằng quá trình kết hợp lọc-sa lắng cho phép tách các
  15. loại nước và các tạp chất vô cơ với hiệu quả cao. Quy trình này có thể áp dụng với thiết bị đơn giản và thực hiện được ở trong nước. Cặn sạch đi từ bùn dầu thô Việt Nam do rất sạch và nhiệt trị cao nên đáp ứng khả năng sử dụng để pha trộn với dầu FO làm nhiên liệu lỏng. Tỷ lệ pha trộn cho phép là max 22% mẫu cặn sạch khảo sát (ứng với chỉ tiêu điểm đông đặc là +220C). Phương pháp xử lý này dễ áp dụng để sử dụng cặn bùn làm nhiên liệu lỏng là phù hợp với đặc tính của cặn bùn dầu thô Việt Nam và hoàn toàn khả thi trong điều kiện hiện nay của nước ta. Nguồn: T/C Hóa học, T.37,số 2/1999 Chế tạo máy ép trấu thành thanh nhiên liệu Viện Năng lượng thuộc Bộ Công nghiệp đã nghiên cứu và chế tạo thành công máy ép trấu trục vít có bộ phận gia nhiệt khuôn ép dùng để ép các phế thải - phụ phẩm nông nghiệp thành nhiên liệu ở dạng thanh với nhiệt năng cao, tiện lợi trong vận chuyển. Máy có các chỉ tiêu kỹ thuật tương đương với máy cùng loại của Thái Lan và Bangladesh sản xuất nhưng giá thành chế tạo rẻ hơn nhiều lần. Máy ép trấu này hoạt động theo nguyên lý: Trấu sau khi xay xát được rót thẳng vào hệ thống cấp liệu. Máy ép hoạt động nhờ một động cơ điện công suất 11 kW, trục vít quay trong khuôn ép với tốc độ thích hợp. Xung quanh khuôn ép được gia nhiệt bằng ba vòng điện trở có công suất từ 6-8 kW nhằm làm mềm trấu, giảm ma sát và lực ép, đồng thời làm chảy li-nhin có sẵn trong nguyên liệu thô để tạo độ kết dính. Nhờ đó, sản phẩm sau khi ép thành thanh nhiên liệu chắc, bóng và có thể thay đổi chiều dài. Hiện nay, máy này đang được ứng dụng thử nghiệm tại thị trấn Trôi thuộc tỉnh Hà Tây. Giá thành sản xuất 1kg thanh nhiên liệu trấu tương đương với giá củi trên thị trường (khoảng 400-450đ/kg). Sau khi công nghệ này được hoàn thiện, ước tính có thể phát triển gần 10.000 máy ép trấu này ở khắp trong cả nước. Mỗi năm, ước tính có khoảng gần 2 triệu tấn trấu được thải ra từ các cơ sở xay xát trong cả nước. Nguồn: Lao động, ngày 2/3/2000 Xử lý chất thải hữu cơ nguy hại Công ty Hutsman Corporation, Mỹ, đang ứng dụng công nghệ oxi hoá nước siêu tới hạn (Supercritical water oxidation - SCWO ) thay thế việc thiêu đốt các chất thải lỏng ở nhà máy hoá dầu của công ty tại Texas. Lò phản ứng tại nhà máy chứa khoảng 4.500 kg hợp kim Nikel, có thể phá huỷ khoảng 99,7% chất thải hữu cơ hiện diện trong quy trình hoá dầu và nước rửa xả đáy của nhà máy. Trong quy trình xử lý này, chất thải hữu cơ thể lỏng được đốt nóng vượt các giới hạn nhiệt độ và áp suất tới hạn (374oC và 22,1 MPa), làm cho các hoá chất hữu cơ có thể hoà tan tại nhiệt độ và áp suất đó, rồi bị oxy hoá. Công nghệ ô xi hoá nước siêu tới hạn này có thể xử lý bất kỳ chất thải hữu cơ nào quá đặc xử lý bằng các quy trình ôxy hoá sinh học, hay quy trình oxy hoá tiên
  16. tiến, cũng như quá loãng để thiêu đốt, không kinh tế. Nguồn: Waste techology, Jan- Feb 2000 Polyme lọc trong nước đục, lắng tách tạp chất Một trong các biện pháp có hiệu quả cao của hóa học xử lý nước được các nước Châu Âu và Mỹ, Nhật sử dụng là dùng polime kết lắng (flocculant). Gọi là chất kết lắng vì khi cho một lượng rất nhỏ polime (chỉ vài phần triệu, ít hơn rất nhiều lần so với phèn) vào nước đục, nó kết các hạt không tan lơ lửng thành khối nặng lắng xuống, nước trở nên trong. Nếu tạp chất là chất tan trong nước, người ta tiến hành làm đục hóa nó bằng một phản ứng kết tủa thích hợp và sau đó tách nó ra khỏi nước bằng polyme kết lắng. Gặp một loại bùn lỏng, polyme kết lắng được đưa vào để tách kiệt nước làm cho nó trở thành khối sệt lỏng để chuyển thành dạng khô và có thể tiếp tục xử lý dưới dạng thể rắn. Polyme kết lắng còn đóng vai trò quan trọng trong khâu rửa, phân tách các chất trong quá trình tinh luyện các sản phẩm, nhất là tinh luyện các oxyt kim loại và tuyển khoáng. Bản chất hóa học của polyme kết lắng tổng hợp là polyacrylamit và copolyme của nó. Cơ chế của quá trình kết lắng là sự trung hòa điện tích các hạt lơ lửng nhờ điện tích trái dấu của polyme kết lắng. Polyme ở dạng bột có tính ổn định trong bảo quản tối thiểu một năm, dung dịch loãng của nó nên dùng càng nhanh càng tốt nhằm hạn chế tối đa sự thủy phân nhóm chứa amit thành amoni. Nó không ăn mòn các vật liệu sắt thép, chất dẻo, gỗ, sành sứ, thủy tinh. Nước ta, có nhà máy nước Lào Cai hiện đang sử dụng trong sản xuất nước sinh hoạt, các nhà máy đường dùng làm trong dịch mía, một số xí nghiệp tuyển quặng dùng cho nước tuyển khoáng và quay vòng nước rửa than, các xí nghiệp thực phẩm dùng trong việc lên men bia, rượu (xử lý 1 triệu lít bia chỉ mất 60.000đ). Sản phẩm hiện đang bán trên thị trường Hà Nội là polyacrylamit của Công ty Aron Nhật Bản, đã được thử tại Công ty cấp thoát nước Thái Bình cho kết quả tốt về chất lượng nước thành phẩm lẫn giá thành. Do chi phí thấp, cách làm đơn giản, chất lượng nước thành phẩm cao, phương pháp xử lý nước dùng polyme kết lắng có vị trí hàng đầu trong công nghệ làm sạch và làm trong nước, đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng nước cho các mục đích khác nhau. Nguồn: Kinh doanh và tiếp thị, Ngày 9/8/1999 Công nghệ xử lý bao kín chất thải độc hại bằng nhựa PE Trung tâm thí nghiệm quốc gia Brookhaven (BNL), Mỹ đã triển khai quy trình
  17. xử lý bao kín bằng nhựa polyetylen (PE) có tỷ trọng thấp, để xử lý an toàn các chất thải hỗn hợp có mức phóng xạ thấp và nguy hiểm. Phương pháp này đảm bảo tính ổn định trong thời gian dài hơn so với các công nghệ rắn hoá truyền thống. Phương pháp xử lý này sử dụng một thiết bị đùn ép đơn xoắn để khuấy trộn, đốt nóng và ép đùn chất thải vào các vật đựng thích hợp, rồi sau đó hạ nhiệt độ và làm cứng chất thải thành dạng chất thải rắn. Một thiết bị trộn động lực, dùng năng lượng ma sát để làm nóng chẩy polyme, cũng có thể dùng thay cho thiết bị đùn ép. Nhựa PE là một chất trơ, chịu nhiệt và thẩm thấu thấp, có khả năng chống chịu cao vói hoạt tính hoá chất, phân huỷ vi sinh và phá huỷ do bức xạ. Một số ứng dụng bao kín bằng polymer gồm: •  Bao kín vi mô: Nhựa PE được đốt nóng trên điểm nóng chảy và kết hợp với chất thải khô, tạo ra một hỗn hợp đồng nhất. Sau đó khối này được làm mát, trở thành dạng chất thải rắn nguyên khối, trong đó chất thải dạng hạt nhỏ, nằm xen trong mạng polyme. Các muối Nitrat, bùn cặn, tro lò đốt, nhựa trao đổi ion, và các axit boric, sulphat kali có thể được xử lý bằng phương pháp này. • Bao kín vĩ mô: Nhựa PE nóng chảy được rót vào thùng chứa chất thải, có chất thải kích cỡ lớn, được sắp xếp có khe hở. Sau khi làm mát, nhựa PE sẽ tạo lớp rắn bao quanh chất thải. Phương pháp này rất lý tưởng đối với các chất rắn chì phóng xạ và chất thải vụn hỗn hợp. • Chất dính kết polyme sulfur là chất chịu nhiệt, có thể dễ bị nóng chảy, tạo ra chất lỏng có độ nhớt ở 1200 C. Công nghệ bao kín của trung tâm BNL có thể sử dụng chất dính kết polyme để rắn hoá tro bay từ lò thiêu đốt rác nhiều hơn 2,5 lần công nghệ sử dụng chất dính kết thuỷ lực và có các thuộc tính nén, sức căng và độ bền hơn hẳn. Ngoài ra, Trung tâm BNL còn triển khai và đặc trưng hoá các loại nhựa hoặc polyme cố định bằng nhiệt, sử dụng cho quá trình bao kín chất thải hỗn hợp nguy hiểm và chất thải phóng xạ, cũng như làm chất liệu các thùng đựng chất thải. Các chất liệu này có tính bền hoá học và vật lý, sử dụng tốt, có độ nhờn, nhưng đắt. Các chất liệu này có các thuộc tính phù hợp dưới dạng chất lỏng và rắn. Trung tâm BNL còn đưa ra các loại thuỷ tinh mới và các chất gốm-thuỷ tinh, tính toán theo các công thức phốphát tiên tiến, để xử lý chất thải và chất thải hỗn hợp có mức thấp. Một nhược điểm chính của thuỷ tinh silic-bo là phải có nhiệt độ cao (1200-15000C) mới nấu chảy thuỷ tinh. Các thành phần thuỷ tinh thay thế nóng chảy được ở các nhiệt độ từ 450 đến 9000 C. Nguồn: Non-convention Energy, Mar/Apr 2000 Dự án xử lý chất thải công nghiệp vùng Bộ Công nghiệp vừa đề xuất dự án xây dựng cơ sở xử lý chất thải nguy hại tập trung, quy mô vùng cho cụm công nghiệp Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu, với tổng số vốn đầu tư 23 triệu USD. Viện Hoá học Công nghiệp là cơ quan thực hiện dự án với sự phối hợp của Công ty Phát triển cơ sở hạ tầng (SONADEZ1), Cục Môi trường, các Sở Công nghiệp, Khoa học-Công nghệ - Môi trường ở 2 tỉnh Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu. Thời gian thực
  18. hiện dự án là 1 năm, với tổng chi phí khảo sát và lập luận chứng kinh tế - kỹ thuật khoảng 150.000 USD. Mục tiêu của dự án là quản lý các chất thải rắn và lỏng của các khu công nghiệp thuộc hai tỉnh, bao gồm các khâu: thu gom, lưu giữ, vận chuyển, chôn lấp chất thải đặc biệt nguy hại. Dự án này dự kiến, sẽ sử dụng nguồn vốn ODA từ Quỹ DANlDA của Đan Mạch để đầu tư phát triển dự án. Nguồn: TBKTVN, ngày 6/3/2000 Nhà máy xử lý rác thải y tế được đưa vào hoạt động Sáng 5/4/2000, Nhà máy xử lý rác thải y tế của Tp.Hồ Chí Minh đã chính thức được khánh thành tại Bình Hưng Hòa, Bình Chánh, Tp.HCM. Nhà máy này có tổng vốn đầu tư là 22,05 tỷ đồng, trong đó vốn vay từ nguồn tín dụng ưu đãi của Chính phủ Bỉ là 17,8 tỷ đồng dùng để mua thiết bị lò đốt, vốn đối ứng của ngân sách Tp.HCM là 4,25 tỷ đồng dùng để xây dựng nhà xưởng, các công trình phụ trợ và 4 xe chuyên dùng để chở rác thải y tế. Nhà máy này dùng thiết bị do Công ty Basse Sambre-EIR cung cấp, có công suất 7 tấn rác y tế/ngày, đốt bằng nhiên liệu gas hoá lỏng, có hệ thống xử lý khói thải theo công nghệ hàng đầu của châu Âu. Rác thải y tế sẽ được đốt qua hai giai đoạn: giai đoạn đầu, rác thải y tế được đốt trong nhiệt độ 7000C, tiếp theo đó chúng được chuyển sang đốt ở giai đoạn sau để đốt phần còn lại với nhiệt độ là 10000C và sau đó phần thải còn lại được xử lý để đưa ra ngoài mà không gây ô nhiễm môi trường. Nhà máy này sẽ phục vụ cho việc xử lý rác thải y tế thải ra từ 51 bệnh viện, 33 phòng khám khu vực, 282 trạm y tế phường, xã và gần 4.000 phòng mạch tư nhân với tổng số khoảng 12.420 giừơng bệnh. Hiện nay, Công ty Môi trường Đô thị Tp.HCM thu gom được lượng rác thải y tế bình quân khoảng 4 tấn/ngày. Hiện nay, các cơ sở y tế trong cả nước, kể cả y tế tư nhân mỗi ngày thải ra ước khoảng 150 tấn rác thải y tế, trong đó có 24,5 tấn chất thải y tế nguy hại. Cả nước mới có 2 nhà máy xử lý rác thải y tế, đó là nhà máy xử lý rác thải bệnh viện của Hà Nội đã được xây dựng xong cuối năm 1998 với công suất 4,8 tấn rác/ngày, phục vụ được cho 22 bệnh viện và nhà máy xử lý rác thải y tế của Thành phố Hồ Chí Minh nói trên. Ngoài ra mới có 9 bệnh viện được lắp đặt lò đốt rác y tế bằng thiết bị trong hoặc ngoài nước. Cả nước có tất cả 830 bệnh viện. Nguồn: TBKTVN, ngày 7/4/2000 Hệ thống xử lý nước thải Ngành dệt nhuộm Nước thải dệt nhuộm- nguồn ô nhiễm nguy hiểm Mức độ ô nhiễm của ngành dệt nhuộm phụ thuộc rất lớn vào các yếu tố như liều lượng hóa chất sử dụng, công nghệ dệt nhuộm và tình trạng thiết bị trong dây chuyền sản xuất. Có thể nêu một số tác nhân gây ô nhiễm chính như các chất tẩy rửa, H2SO4, NaCl, NaOCl, Na2SO4, Na2S, Na2S2O4, hợp chất vòng thơm, tạp chất dầu thải ra từ khâu giặt. Còn ở khâu nấu thì các nguồn ô nhiễm bao gồm: formaldehyde, K2Cr2O7, kim loại nặng, halogen hữu cơ, thuốc nhuộm, Na2S2O4 và CH3COOH. Đối với các khâu hoàn tất thì
  19. nguồn gây ô nhiễm là từ các chất nhũ hoá, chất làm mềm, chất tạo phức và dầu thải,v.v Các nguồn ô nhiễm này sẽ ảnh hưởng lớn đến quá trình phân hủy của các vi sinh vật làm sạch nước, đồng thời cũng ảnh hưởng đến cả quá trình quang hợp của thực vật thủy sinh gây ra tình trạng thiếu oxy hoà tan trong nước. Ngoài ra, các ion kim loại còn kết hợp với các gốc hữu cơ tạo thành các phức chất gây ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống thủy sinh và nhất là sức khỏe con người. Điều đặc biệt nguy hiểm là sự có mặt của clo hoạt tính trong nước thải, sẽ kết hợp với các chất hữu cơ vòng thơm tạo nên những hợp chất gây ung thư. Giải pháp xử lý: Công nghệ SBR. Thạc sỹ Lê Thượng Mãn, Giám đốc Trung tâm Công nghệ mới ALFA, cho biết sau một thời gian nghiên cứu, Trung tâm đã thiết kế và chế tạo thành công hệ thống xử lý nước thải của ngành dệt nhuộm. Theo đó hệ thống này được vận hành theo chế độ hoàn toàn tự động và hoạt động theo công nghệ SBR (Sequencing Batch Reactor). Nguyên lý hoạt động của hệ thống xử lý này bao gồm 4 giai đoạn. Đầu tiên nước thải nhuộm được chảy vào bể điều hoà (có tác dụng ổn định nồng độ của nước thải và trữ đủ lượng nước thải để phục vụ cho quá trình lắng). Tiếp theo, từ bể điều hoà, nước thải được bơm vào thiết bị lắng có thể tích 5 m3. Tại đây, quá trình lắng được thực hiện với sự có mặt của các hoá chất keo tụ và tạo bông. Các hoá chất này dược bơm vào thiết bị lắng từ bồn chứa hoá chất bằng các máy bơm hoá chất chuyên dùng. Cũng trong giai đoạn này quá trình khuấy được áp dụng để tăng cường sự tiếp xúc giữa nước thải và hoá chất. Quá trình lắng được thực hiện khoảng từ 1 – 2 giờ. Nước thải trong sau khi lắng được tách riêng ra khỏi bùn lắng bằng cơ cấu gạn, sau đó nó được bơm qua thiết bị lọc áp lực trước khi thải vào hệ thống cống chung của thành phố. Sau cùng, phần bùn lắng sẽ được xả định kỳ vào các túi vải để lọc tách bỏ bùn và nước thải. Đến đây, nước thải lại được đưa trở lại bể điều hoà, riêng phần bùn lắng được mang đi đổ chung với rác thải sinh hoạt của đơn vị. Theo Ban giám đốc Trung tâm ALFA thì tính đến nay đã có 9 cơ sở dệt nhuộm gồm: cơ sở Ngọc Hải, Hưng Thịnh, Đức Hùng, Hiệp Phong, Xuân Hiệp, Xuân Thành, Đức Thịnh, Công Thành, Tài ở Phường 19, Quận Tân Bình, TP.HCM lắp đặt hệ thống xử lý nước thải với công nghệ SBR này. Điều đáng mừng là nước thải từ các doanh nghiệp này sau khi xử lý đã đạt tiêu chuẩn thải vào môi trường. Kết quả xét nghiệm lý hóa mẫu nước của Viện Vệ sinh Y tế công cộng cho thấy: Trước khi xử lý: pH = 6,15; COD = 1955 mg/l, BOD5 = 100 mg/l, SS = 117 mg/l; Sau khi xử lý: pH = 5,88, COD = 150 mg/l, BOD5 = 65 mg/l, SS = 6 mg/l. Vài điều lưu ý tr ong vận hành và bảo trì Quá trình vận hành nên lưu ý là cần phải luôn đảm bảo có đủ hóa chất ( ít nhất cho 2 mẻ = 200 lít dung dịch) trong hai bồn chứa hóa chất keo tụ và trợ keo tụ. Do hệ thống vận hành theo chế độ tự động nên việc bảo trì cần được thực hiện thường xuyên để đảm bảo cho hệ thống hoạt động tốt và ngăn ngừa các sự cố. Đối với hệ thống đường ống, cần thường xuyên kiểm tra để ngăn ngừa tình trạng rò rỉ, hoặc nghẽn cống. Trong trường hợp các máy bơm đang hoạt động nhưng không bơm được nước thải thì cần kiểm tra lại nguồn điện, hay động cơ bơm,v.v Định kỳ 3 tháng phải kiểm tra và bôi trơn các vòng bi của mô tơ khuấy hóa chất (ở bồn hóa chất) và mô tơ khuấy bể phản ứng và lắng kết hợp. Thiết bị
  20. phản ứng và lắng kết hợp và bồn chứa hóa chất cũng cần súc rửa định kỳ 3 tháng/lần bằng nước sạch có áp lực lớn hơn 2kg/cm2. Trong thời gian 30 phút, cần phải mở van xả đáy để xả hết nước rửa. Về thiết bị lọc, do lượng cặn bùn phát sinh khá nhiều nên hai ngày/lần phải tiến hành rửa lọc bằng cách vận hành bơm rửa lọc với nước sạch, đóng và mở các van để xả bùn trên bề mặt lớp vật liệu lọc trong khoảng 20 phút. Nguồn: Bản tin KH-KT-KT Tp.Hồ Chí Minh, Số 23/1999 Lò đốt rác thải y tế LĐ-45 được chế tạo tại Việt Nam Công ty Cổ phần Thiết bị Thương mại (COMECO) đã chế tạo thành công lò đốt rác thải y tế LĐ-45. Đây là loại lò nhiệt độ cao dùng nhiên liệu dầu diesel DO , ứng dụng kỹ thuật đốt 2 lần tại buồng đốt sơ cấp và thứ cấp. Hệ thống quạt ly tâm và các đường ống có van kiểm soát cung cấp không khí cho quá trình đốt. Thành phần khí thải của lò đốt này đạt tiêu chuẩn môi trường Việt Nam. Lò đốt rác thải y tế LĐ-45 này dễ vận chuyển, lắp đặt, vận hành đơn giản. Giá thành chỉ bằng một phần tư giá thành của thiết bị cùng loại do nước ngoài sản xuất. Nguồn: Thị trường-giá cả-vật tư, Số 49/2000
  21. Hệ thống tự động ghi và cảnh báo độ nhiễm độc của nước thải công nghiệp Tác giả là PGS-TS Phạm Thượng Hàn cùng tập thể cán bộ khoa học Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, Viện Kỹ thuật thiết bị điện và Công ty thoát nước Hà Nội. Trên cơ sở nghiên cứu về ô nhiễm môi trường nước, các tác giả đã xác định được các thông số cơ bản cần phải đo và cảnh báo, từ đó đã đề xuất phương pháp đo, giới hạn đo,v.v đảm bảo độ chính xác. Có các phương pháp: Đo điện dẫn (phần lớn các chất độc hại do các ngành công nghiệp thải ra đều hòa tan trong nước dưới dạng các ion, kim loại, axít, bazơ hoặc muối; nồng độ các chất này càng lớn thì độ dẫn điện trong nước càng lớn); đo bằng siêu âm; đo độ hấp thụ tia cực tím, ánh sáng tán xạ; đo độ pH,v.v Hệ thống có các mạch đo, các đầu đo (sensor) phù hợp và đấu nối với máy tính. Những thông tin nhận được từ các đầu đo sẽ được xử lý trên máy tính và hiển thị trên màn hình hoặc qua hệ thống báo hiệu bằng còi, bằng đèn giúp cho việc giám sát được dễ dàng. Các giá trị đo có thể được in ra giấy hay ghi trong ổ đĩa cứng của máy tính để tiện cho việc theo dõi, thống kê. Nguồn: Lao động, 8/5/2000 Chế tạo sợi hoạt tính hấp thụ khói xe có động cơ Kết quả quan trắc môi trường tại một số thành phố lớn như Tp. Hồ Chí Minh cho thấy mức ô nhiễm không khí đã vượt quá giới hạn cho phép. Một trong những nguồn ô nhiễm khó khắc phục là khói thải từ các phương tiện giao thông có động cơ. Tại Tp. Hồ Chí Minh, số lượng xe gắn máy có đăng ký đã lên đến con số gần 1,5 triệu chiếc, chưa kể số xe lưu thông không đăng ký và hơn 130.000 ô tô các loại. Để giải quyết vấn đề ô nhiễm, các cơ quan chức năng đã có một số biện pháp hành chính nhưng kết quả vẫn thấp, mức ô nhiễm vẫn không ngừng tăng lên. Theo các chuyên gia môi trường, ngoài các biện pháp quản lý như hạn chế giờ giấc, phân luồng lưu thông, kiểm tra phương tiện chỉ cho phép các phương tiện đảm bảo tiêu chuẩn lưu thông, cấm các loại xe cơ giới tự tạo,v.v cần có các giải pháp công nghệ để khắc phục. Hiện tại, trên thế giới đã có một số giải pháp như sử dụng xe hơi chạy bằng điện, năng lượng mặt trời hoặc gas, nhưng chi phí tương đối cao. Tại Việt Nam, trước mắt cần phải giải quyết vấn đề này bằng phương pháp đơn giản, rẻ tiền. Viện Công nghệ Hóa học thuộc Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia đã tiến hành đề tài nghiên cứu : ”Chế tạo vật liệu hấp thu khói thải ô tô, xe máy” là một nghiên cứu mới của Viện. Thành phần trong khói thải của xe có động cơ chủ yếu là xăng, dầu, nhớt không kịp cháy phụt ra, xăng dầu cháy dở dang phân hủy thành các chất hữu cơ phân tử có dạng khí, các khí cháy do ôxy kết hợp với nhiên liệu. Ngoài ra, có khi do thiếu ôxy, một lượng than chưa kịp cháy thoát ra thành bụi than, và cuối cùng là một số chất vô cơ như chì, khí từ lưu huỳnh trong dầu mỏ và ôxit nitơ trong không khí.
  22. Việc chế tạo vật liệu hấp thu các chất thải độc hại này dựa theo nguyên lý hấp thu của than hoạt tính, nhưng sử dụng than hoạt tính không tiện lợi vì than hoạt tính tồn tại dạng hạt, bột trong quá trình sử dụng sẽ bị vỡ ra thành bụi. Vì thế, tác giả đề tài đã nghiên cứu tìm ra một loại sợi hấp thu đặc biệt có khả năng hoạt tính thay cho than. Đó là loại sợi từ thiên nhiên hoặc sợi tổng hợp, có cấu trúc ái dầu, vì ở đây chủ yếu là hút dạng dầu, sau đó tạo độ xốp cao như độ xốp của than hoạt tính, tiếp theo là hoạt hóa bề mặt của lỗ xốp bằng hóa chất để có được bề mặt gồ ghề, xơ xốp, tăng diện tích hấp thụ. Công nghệ chế tạo sợi hoạt tính qua các công đoạn: làm trương nở tối đa sợi có sẵn kích thước với dung môi thích hợp, ly tâm cho lượng dung môi thừa loại ra, chỉ giữ lại lượng dung môi giữa các đại phân tử. Tiếp theo là sấy chân không ở nhiệt độ cao trong thời gian vừa phải để dung môi bay ra và làm cho các đại phân tử không kết lại được, từ đó độ xốp của mỗi sợi tăng lên tối đa. Công đoạn tiếp theo là để nguội, làm rỗ bề mặt của các lỗ xốp bằng hóa chất rồi làm khô trở lại. Khi đã có vật liệu hấp thu khói thải, vấn đề còn lại là chế tạo ra các sản phẩm phù hợp từ vật liệu này để gắn vào xe gắn máy, xe du lịch hoặc xe tải cho phù hợp và tiện sử dụng. Từng miếng sợi hoạt tính được gắn vào ống pô của xe, chúng sẽ hút hết khói thải do động cơ xả ra. Để giữ lại phần lớn khói thải của 100 CC xi lanh ô tô, xe máy cần lượng sợi hấp thu 25-30 g. Như vậy, một chiếc xe du lịch 4 chỗ ngồi có dung tích 1000 CC, cần 250- 300 g sợi hoạt tính, sử dụng trong khoảng 1 tháng (lưu thông hơn 1000 km). Tương tự, một chiếc xe gắn máy có dung tích 50 CC, chỉ cần 1 miếng sợi hoạt tính khoảng 13-15g, sử dụng trong 1 tháng. Miếng sợi hoạt tính được gắn vào ống pô sẽ không làm ảnh hưởng đến động cơ và tốc độ, nhất là chỉ lưu thông trong thành phố với tốc độ dưới 60 km/giờ. Về hiệu quả, giải pháp này đã được kiểm nghiệm tại Viện Nghiên cứu Khoa học Bảo hộ Lao động , ngoài khả năng hấp thu gần hết khói thải, sợi hoạt tính còn giữ lại 60-85% chì có trong xăng. Theo tính toán chi phí sản xuất, một miếng sợi hoạt tính gắn vào xe 100 phân khối, sử dụng trong 1 tháng chỉ mất khoảng 3.000 đồng, việc thay thế dễ dàng.Nếu hơn 1 triệu xe gắn máy và đa số ô tô ở Tp. Hồ Chí Minh sử dụng vật liệu mới này, có lẽ bầu không khí của thành phố sẽ được cải thiện đáng kể. Nguồn: Phụ san Khoa học và Đời sống, số 132/1999 Sản phẩm ván ép từ bã mía không đủ cung cấp cho thị trường Thời gian gần đây, người tiêu dùng trong nước ưa chuộng và sử dụng ngày càng nhiều sản phẩm ván ép từ bã mía của Công ty đường Hiệp Hòa (Long An) sản xuất để làm nội thất nhà ở gia đình và công sở Nhà nước. Qua sử dụng, người tiêu dùng có kết luận cho rằng sản phẩm ván ép từ bã mía của Công ty đường Hiệp Hòa đạt chất lượng không thua kém ván ép từ gỗ dăm của các nước như Thailand, Malaysia, Indonesia về độ kết dính và các tiêu chuẩn khác. Do vậy, lượng ván ép từ bã mía của Công ty sản xuất từ năm 1998 và 1999 đều không đủ cung cấp cho thị trường trong nước. Hiện tại ,TP. Hồ Chí Minh có một tổng đại lý nhận bao tiêu dài hạn toàn bộ sản phẩm ván ép từ bã mía của Công ty đường Hiệp Hòa (Long An) cho biết, số lượng ván ép thường xuyên không đủ bán. Nhờ khép kín dây chuyền sản xuất nên hiện nay toàn bộ 125.000 tấn bã mía của nhà
  23. máy đường Hiệp Hòa chẳng những không đủ để dùng, mà nhà máy còn phải thành lập một đội 50 người chuyên đi thu mua thêm bã mía của các nhà máy khác về phục vụ cho việc sản xuất ván ép và phấn đấu trong năm 2000 sẽ sản xuất từ 8.000 đến 8.500 m3 ván ép. Nguồn: Nhân dân, 22/5/2000 Trồng nấm và sản xuất phân vi sinh bằng bã mía ở Việt Nam, sản lượng mía cây những năm gần đây đạt khoảng 10 triệu tấn/năm. Nếu lượng mía này dùng sản xuất đường sẽ thải ra khoảng 2,5 triệu tấn bã mía, 300.000 tấn bùn lọc, 30.000 tấn tro mía cùng hàng triệu lít nước thải. Trong chiến lược phát triển nông nghiệp đến năm 2000, ngành mía đường dự kiến nâng mức sản xuất lên 20 triệu tấn/năm, đồng nghĩa với việc chất thải tăng lên tương ứng. Với một lượng chất thải mía đường lớn như vậy, việc đưa ra hướng giải quyết các chất thải này như một nguồn nguyên liệu mới và đặt vấn đề tái sử dụng cho các mục đích khác nhau như: tạo nguồn năng lượng mới, làm thức ăn gia súc, sản xuất phân bón hữu cơ, sản xuất hóa chất,v.v để phục vụ đời sống con người là một thành công lớn của các nhà khoa học Việt Nam. Nguyên lý của phương pháp trồng nấm này là sử dụng các vi sinh vật có sẵn trong tự nhiên, có khả năng phân hủy cellulose và một vài chất có hại trong việc trồng nấm. Tuy nhiên, trồng nấm trên bã mía khác nhiều so với kỹ thuật trồng nấm trên rơm rạ, bông phế thải vì thành phần chính của bã mía chủ yếu là cellulose, hemicellulose và được lignin bao bọc làm cho bã mía khó phân giải. Việc trồng nấm trên nguyên liệu bã mía không đòi hỏi kỹ thuật cao và phương tiện đắt tiền, vốn lại thấp nên với một hộ nông dân bình thường cũng có thể sản xuất được. Bằng những kết quả thực nghiệm, các nhà khoa học đã chứng minh rằng: đầu tư cho một tấn bã mía để sản xuất nấm mất 1,4 triệu đồng, sau một tháng có thể thu về 650 kg nấm tươi và cho lãi hơn ba triệu đồng. Như vậy, không những giải quyết được vấn đề môi trường mà còn đem lại lợi ích kinh tế cũng như giải quyết việc làm cho xã hội. Để tận dụng triệt để nguyên liệu, tạo thành chu trình sử dụng tài nguyên khép kín, bên cạnh việc sử dụng bã mía trồng nấm thì bã thải của nó được dùng làm phân vi sinh bón trở lại cho cây mía và một số cây rau khác. Vì thành phần bã thải có chứa hàm lượng N, P, K nhất định nên sau khi thu hoạch nấm, bã thải được bổ sung thêm một số vi lượng rồi cho lên men bảy ngày. Kết quả nghiên cứu này đã được áp dụng thử nghiệm tại Nông trường 1A - Đại học Quốc gia Hà Nội và có những tín hiệu đáng mừng. Đây là đề tài bảo vệ luận án thạc sĩ của học viên Trần Thị Phương, Bộ môn Sinh thái Tài nguyên, khoa Môi trường, Đại học Khoa học tự nhiên. Luận văn của chị đã được hội đồng chấm thi đánh giá xuất sắc. Thành công này có ý nghĩa rất lớn trong việc giải quyết vấn đề ô nhiễm của ngành mía đường cũng như tạo việc làm, góp phần nâng cao đời sống của bà con vùng nguyên liệu mía. Nguồn: Nhân dân, 24/5/2000
  24. Thành Phố Hồ Chí Minh lắp đặt hệ thống giám sát không khí tự động đầu tiên ở Việt Nam Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường TP. Hồ Chí Minh đang tiến hành lắp đặt hệ thống giám sát tự động chất lượng không khí đạt tiêu chuẩn quốc tế đầu tiên tại Việt Nam. Hệ thống bao gồm một mạng lưới bốn trạm giám sát không khí cố định với 1,6 tấn thiết bị trị giá 409.000 USD nhập từ Đan Mạch như máy giám sát bụi, hệ thống không khí, thiết bị phân tích, máy ghi dữ liệu, dụng cụ lọc, đầu dò gió, đầu dò nhiệt độ, áp suất, độ ẩm, bức xạ,v.v được đặt ở quận 3, quận 5, quận Thủ Đức và quận Tân Bình. Các trạm này hoạt động liên tục, tự động báo các thông số NO/NO2, SO2, CO, O3 và bụi về trung tâm điều hành, giúp cơ quan chức năng theo dõi, quản lý chất lượng không khí, góp phần báo động ô nhiễm, nghiên cứu tác động của ô nhiễm không khí tới sức khỏe, điều tra nguồn phát thải ô nhiễm kể cả việc đếm mật độ xe, xác định dự án, nghiên cứu quản lý giao thông,v.v Đây là một phần của dự án về quản lý môi trường nhằm quy hoạch định hướng mạng lưới giám sát chất lượng không khí tại TP. Hồ Chí Minh do Chính phủ Đan Mạch hỗ trợ. Dự tính, hệ thống giám sát mới sẽ hoạt động vào khoảng tháng 7/2000. Nguồn: Nhâ n dân, 18/5/2000 Giải pháp mới trong việc xử lý khí cacbonic Những cuộc tranh luận về môi trường trên thế giới đang có xu hướng thay đổi. Người ta không còn bàn cãi về những tác động của con người đối với tự nhiên hay việc Trái đất đang nóng lên do “Hiệu ứng nhà kính”. Điều mà các nhà khoa học quan tâm hiện nay là con người sẽ làm gì để bảo vệ môi trường sống của mình. Khí nhà kính là nguyên nhân gây nên “hiệu ứng nhà kính”, làm tăng nhiệt độ toàn cầu. Điều đáng lo ngại là lượng khí cácbonic trong không khí đang tăng nhanh do sử dụng chất đốt phục vụ nhu cầu sản xuất và sinh hoạt ngày càng tăng. Từ lâu, chính phủ các nước và các tổ chức môi trường đã cố gắng ngăn chặn sự gia tăng này bằng những biện pháp tiết kiệm nhiên liệu hay chuyển sang sử dụng các nguồn năng lượng mới. Tuy nhiên, trên thực tế, nhu cầu về chất đốt trên thế giới không hề giảm, mà ngược lại, ngày càng tăng theo đà phát triển của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là trong lĩnh vực khai thác và sản xuất dầu mỏ. Trước tình hình đó, các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu để đưa ra một giải pháp mới: cô lập lượng khí cacbonic thải ra trong các “bồn chứa” thiên nhiên sẵn có, cụ thể là trong lòng đất hoặc dưới đáy biển. Tại một trong những mỏ khí đốt ở khu khai thác dầu và khí đốt Sleipner ở ngoài khơi, cách bờ biển Na Ựy 240 km, mỗi tuần 20.000 tấn khí cacbonic được đưa vào các lỗ trống của một lớp sa thạch ở độ sâu 1000 m dưới mặt nước biển. Một trong các túi khí tại đây có chứa 9% khí cacbonic, trong khi lượng cho phép là không quá 2,5%. Thay vì tách lượng khí cacbonic thừa khỏi khí đốt rồi giải phóng chúng ra ngoài không khí, những người điều hành ở đây quyết định nén lượng khí đó lại rồi bơm chúng xuống 1 cái giếng trên lớp sa thạch dày 200 m sau khi đã hút hết nước mặn trong giếng đi. Mối lợi đối với môi trường của Na Ựy là quá rõ: gần 1 triệu tấn cacbonic được cô lập ở Sleipner chiếm tới 3% lượng khí nhà kính thải ra ở nước này. Tuy nhiên, thành
  25. công lớn nhất của chủ nhân các mỏ dầu ở đây lại không nằm ở khía cạnh đó. Vào năm 1996, chính phủ Na Ựy quy định mức thuế đánh trên lượng khí cacbonic thải ra là 50 ỰSD/tấn. Như vậy, sau 3 năm, số tiền thuế có thể lên đến 50 triệu ỰSD. Thay vì trả số tiền này, họ đã đầu tư 80 triệu ỰSD vào thiết bị nén khí và chuẩn bị các giếng chứa khí cacbonic. Vì thế, chỉ sau một năm rưỡi, các nhà sản xuất sẽ hoàn toàn thu lại vốn. Tại một mỏ khí khác trong vùng biển Barents ở phía bắc Na Ựy, khí cacbonic lại được bơm vào lòng đất. Đây là quá trình ngược lại của việc khai thác dầu và khí đốt ra khỏi lòng đất. Trên thực tế, thao tác này ngày nay khá phổ biến ở nhiều khu vực khai thác trên thế giới. Khí cacbonic được bơm xuống các túi dầu làm tăng độ hoạt động của dầu, từ đó giúp tăng năng suất của giếng. Trong năm 1998, có 43 triệu tấn khí cacbonic đã được bơm xuống 65 mỏ dầu trên khắp nước Mỹ cũng với mục đích trên. Thế nhưng con số 43 triệu tấn vẫn là quá nhỏ bé nếu so với tiềm năng dự trữ khí cacbonic của các thành hệ địa lý như: các tầng đá ngậm nước mặn (như trường hợp mỏ khí tại Sleipner), những vỉa than không khai thác được, túi dầu hoặc túi khí đã cạn, những hang động,v.v trên khắp thế giới. Tuy nhiên, “bồn chứa” lớn nhất mà thiên nhiên ban tặng cho con người vẫn là biển cả. Đại dương hoà tan khoảng khoảng 40.000 tỷ tấn khí cacbonic, so với 750 tỷ tấn trong không khí, nhưng dung tích của nó còn vượt xa con số đó. Nếu chỉ dựa vào các chu trình tự nhiên thì sau vài trăm năm nữa, 85% lượng khí cacbonic trong không khí hôm nay cũng sẽ được hoà tan vào biển cả. Vấn đề của chúng ta là đẩy nhanh quá trình đó. Các nhà khoa học đang xem xét khả năng bơm trực tiếp khí cacbonic xuống biển ở độ sâu từ dưới 1000 m, nơi mà nhiệt độ nước biển giảm đáng kể theo độ sâu. Tầng nước biển lạnh hơn và mặn hơn này rất khó hoà tan với lớp nước bề mặt và khí cacbonic sẽ được giữ lại một cách có hiệu quả. Khí cacbonic có thể được đưa xuống biển theo hai cách : hoà tan vào nước biển ở độ sâu trung bình 1000- 2000 m hoặc bơm xuống độ sâu 3000 m để tạo nên cái gọi là “hồ cacbonic”, giữ chúng lại nơi đại dương trong khoảng thời gian tối đa. Tuy có nhiều giải pháp được đưa ra xem xét, song chúng ta cũng cần quan tâm đến những tác hại có thể có đối với môi trường khi tiến hành những biện pháp kỹ thuật này. Các cấu trúc địa lý được dùng làm nơi cô lập khí cacbonic cần phải có sự bền vững cần thiết để bảo đảm sự an toàn, vì không những khí cacbonic có thể bị rò rỉ ra ngoài không khí mà còn có thể xảy ra mối nguy hiểm là một khối khí cacbonic khổng lồ nếu được giải phóng ra bất ngờ sẽ “ thổi” sạch khí oxy ra khỏi một khu vực rộng lớn (do khí cacbonic nặng hơn khí oxy), làm cho động vật và con người bị chết ngạt. Trong trường hợp khí cacbonic được đưa xuống biển, nó có thể làm giảm độ pH của nước biển từ 8 xuống còn từ 5-7. Một sự thay đổi độ axit như vậy sẽ gây nguy hiểm cho những sinh vật phù du, vi khuẩn và các loài sinh sống dưới đáy biển nếu chúng không di chuyển đến được những vùng nước có độ axit yếu hơn. Để khắc phục vấn đề này, người ta phải phân tán lượng khí cacbonic bơm xuống biển trên một diện rộng. Cuối cùng, tất cả các phương pháp này đều có chung một trở ngại là còn quá mới mẻ và tốn kém, đặc biệt là trong khâu tách khí cacbonic. Cách làm phổ biến nhất hiện nay là dùng dung dịch monoethanolamine (MỌA) trong tháp hấp thụ khí nhà kính. Khí cacbonic trong đó sẽ phản ứng với MỌA ở nhiệt độ trong phòng để tạo thành một hỗn hợp không bền vững. Hỗn hợp này sẽ được đun nóng tới 1200C ở tháp phân tích để giải phóng khí cacbonic.
  26. Nguồn: Phụ san Khoa học&Đời sống, số 144/2000 Mô hình xử lý nước thải trong chế biến thủy sản đạt hiệu quả cao Phương án nâng cao hiệu quả công nghệ xử lý nước thải trong chế biến thủy sản (CBTS) bằng phương pháp dùng bùn hoạt tính kết hợp với sử dụng chế phẩm ỌM (vi sinh vật) với chi phí tối thiểu áp dụng cho các cơ sở CBTS tại Việt Nam do kỹ sư Nguyễn Viết Hòa đề suất. Tác giả đã nghiên cứu phương pháp xử lý đã được áp dụng trên thế giới và các hệ thống xử lý hiện đang hoạt động tại một số doanh nghiệp CBTS tại ở Việt Nam và đưa ra sơ đồ công nghệ hệ thống xử lý nước thải CBTS kết hợp giữa các phương pháp cơ học và sinh hóa bùn hoạt tính và chế phẩm ỌM. Chế phẩm ỌM không những hạn chế được mùi hôi mà còn làm tăng hiệu quả xử lý và tốc độ phân hủy. Nhờ đó, khả năng xử lý triệt để hơn so với các hệ thống đang được sử dụng tại các cơ sở CBTS. Ngoài ra, tác giả đã xác định được các thông số tối ưu như lượng bùn, liều lượng ỌM, tải trọng, thời gian lưu,v.v cho hệ thống xử lý này. Nguyên lý hoạt động của hệ thống xử lý này như sau: Nước thải trong sản xuất và vệ sinh công nghiệp sau khi qua song chắn rác đến bể ổn định để tách tạp chất thô và một phần tạp chất lơ lửng. Từ đây, nước thải được bơm vào bể xử lý kỵ khí để phân hủy một phần lớn chất bẩn bằng bùn hoạt tính có lẫn chế phẩm ỌM. Sau đó, nước thải được dẫn đến bể chứa. Tại đây, nước thải được trộn đều với bùn hoạt tính và bị phân hủy bởi oxy trong không khí nhờ 4 máy nén khí. Sau đó, nước thải cùng bùn hoạt tính đi vào bể lắng để tách bùn. Một phần lớn bùn hoạt tính từ bể lắng sẽ được đưa trở lại các bể xử lý kỵ khí và bể chứa bằng bơm bùn. Phần bùn còn lại được bơm bùn thứ hai đưa về máy ép bùn để làm phân bón. Phần nước trong được chuyển qua và trộn với clorua vôi ở máng trộn rồi khử khuẩn tại bể khử khuẩn. Cuối cùng, nước thải được dẫn vào cống thải chung của thành phố. Qua thử nghiệm, các loại nước thải này đạt tiêu chuẩn thải ra môi trường theo qui định trong các tiêu chuẩn của Nhà nước. Theo tác giả, sơ đồ xử lý này có những ưu điểm sau: 1. Hệ thống này đảm bảo đủ các khối xử lý như : cơ học, sinh hóa, khử khuẩn và xử lý cặn. Do đó, hệ thống sẽ đảm bảo chất lượng nước thải xả ra môi trường. 2. Hệ thống gọn, cần ít mặt bằng xây dựng, mức sử dụng năng lượng thấp hơn nhiều so với các hệ thống xử lý khác mà lại đạt hiệu quả cao hơn. 3. Nhờ có chế phẩm ỌM được đưa vào quá trình xử lý nên hệ thống làm giảm tối đa mùi hôi thối đặc trưng của các cơ sở CBTS do các sản phẩm thủy sản bị phân hủy. 4. Hệ thống xử lý cho phép thu hồi khí sinh học (metan) để tận dụng làm khí đốt. 5. Kinh phí đầu tư cho hệ thống xử lý này thấp hơn so với các hệ thống xử lý hiện đang được sử dụng tại các doanh nghiệp từ 1,5 đến 2,5 lần. Đầu tư khoảng 740 triệu đồng cho một hệ thống xử lý nước thải như trên với qui mô 500 m3/ngày đêm, trong khi các hệ thống xử lý khác cần từ 1,5 đến 2 tỷ đồng với công suất tương tự. Các doanh
  27. nghiệp CBTS của Việt Nam chưa có hệ thống xử lý nước thải có thể nghiên cứu áp dụng phương pháp xử lý này. Nguồn : Phụ san Khoa học và Đời sống, số 132/1999
  28. Đổi mới công nghệ chiếu sáng - giải pháp tiết kiệm điện hiệu quả cao Mức tiêu thụ điện dùng cho sinh hoạt tăng rất nhanh trong 5 năm qua. Ngoài nguyên nhân do lưới điện mở rộng, mức sống được nâng cao, có một nguyên nhân quan trọng nữa là do trang thiết bị dùng để chiếu sáng ở nước ta vẫn còn lạc hậu, hiệu suất thấp, vừa gây tốn kém cho người dùng điện vừa gây khó khăn cho việc cung cấp điện. Thực trạng này đang đặt vấn đề đổi mới công nghệ chiếu sáng trên toàn quốc trở nên hết sức cấp thiết. Điện dùng cho sinh hoạt phổ cập nhất hiện nay là dùng cho chiếu sáng. Có thể nói, lưới điện kéo đến đâu thì việc đầu tiên là dùng để thắp sáng ở đó. Như vậy, công nghệ chiếu sáng là công nghệ sử dụng điện phổ cập nhất ở nước ta. Tuy nhiên, công nghệ chiếu sáng hiện nay đang thịnh hành ở nước ta lại là công nghệ đã lỗi thời, tiêu tốn nhiều điện mà hiệu quả chiếu sáng lại thấp. Công nghệ chiếu sáng bao gồm: bóng đèn, chấn lưu cho đèn huỳnh quang, chóa đèn và cách bố cục hợp lý hệ thống chiếu sáng. Bóng đèn thông dụng dùng cho chiếu sáng trong nhà có 3 loại: bóng đèn sợi đốt, đèn huỳnh quang (đèn ống) và đèn huỳnh quang compact (đèn huỳnh quang thu gọn). Các chuyên gia đang thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học-công nghệ cấp Nhà nước: "Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả" đã đưa ra so sánh, với cùng công suất điện như nhau nếu như đèn sợi đốt cho độ sáng là 1, thì đèn huỳnh quang là 4 và đèn huỳnh quang compact là 5. Khi dùng đèn sợi đốt, điện năng chuyển sang quang năng chỉ có khoảng 5%, còn lại là nhiệt năng. Vì vậy, dùng loại đèn này không những cho hiệu quả chiếu sáng thấp mà còn làm nóng không khí trong phòng. Trong các phòng có điều hòa không khí mà dùng bóng đèn sợi đốt (đèn chùm, đèn trần, đèn tường) thì không những lãng phí điện cho chiếu sáng mà còn tăng chi phí điện, bởi vì máy điều hòa phải tải nhiệt (do đèn sợi đốt sản ra) ra ngoài. Theo kết quả của cuộc điều tra mới đây, trên toàn quốc hiện đang sử dụng khoảng 30 triệu bóng sợi đốt. Nếu 80% bóng sợi đốt 100 W được thay bằng bóng huỳnh quang 40w (có độ sáng tương đương) thì tổng công suất tiêu thụ giảm 1.440 MW, trong khi đó công suất của Nhà máy thủy điện Hoà Bình là 1.920 MW. Nếu tính hệ số sử dụng đồng thời là 50% thì tổng công suất tiêu thụ giảm 720 MW (công suất Nhà máy điện Phả Lại 2 là 600 MW), với thời gian thắp sáng 5 giờ/ngày thì sẽ tiết kiệm 1,3 tỷ KWh/năm, bằng một nửa sản lượng điện một năm của Nhà máy điện Phả Lại 1. Về đèn huỳnh quang: Hiện nay, ở Việt Nam đang dùng phổ biến loại bóng đèn huỳnh quang với đường kính 32mm (ký hiệu T10), trong khi các nước trong khu vực dùng phổ biến loại bóng đèn huỳnh quang có đường kính 26mm (ký hiệu T8). Công suất của bóng T8 giảm 10% so với công suất của bóng T10, nhưng độ sáng tăng 12%. Chấn lưu điện dùng cho bóng T10 có công suất tiêu thụ là 11W. Nếu thay bằng chấn lưu tổn hao thấp 5,5W như dùng cho T8 thì tổng công suất giảm đối với 1 đèn huỳnh quang là 9,5W (thay cả bóng và chấn lưu). Theo kết quả điều tra, hiện nay trên toàn quốc đang dùng khoảng 30 triệu bóng huỳnh quang. Nếu chuyển 100% bóng T10 sang T8 với chấn lưu tổn hao thấp thì công suất tiêu thụ sẽ giảm là 285 MW, với thời gian thắp sáng 5 giờ/ngày thì một năm sẽ tiết kiệm 520 triệu KWh. Bóng đèn huỳnh quang compact có ưu điểm là công suất chiếu sáng cao (20 W
  29. nhưng độ sáng ngang với bóng 100 W sợi đốt), tuổi thọ 10.000 giờ (gấp 10 lần bóng sợi đốt), gọn nhỏ và lắp vừa với các đui đèn sợi đốt, nhưng giá thành khá cao (khoảng 80 đến 120 ngàn đồng/bóng có công suất 12-20W). Theo các chuyên gia, nếu dùng bóng compact ở những nơi có thời gian chiếu sáng trên 6 giờ/ngày (hành lang, đường đi, nhà hàng, khách sạn,v.v ), với giá điện từ 1.300 đến 1600 đ/KWh và thời gian thắp sáng trên 12 giờ/ngày thì chỉ sau 4 tháng là hoàn vốn. Loại bóng đèn này càng phát huy hiệu quả ở các khách sạn, nhất là ở các phòng có dùng điều hòa không khí. Về chóa đèn: theo các chuyên gia, chỉ nên dùng các loại chóa đèn có phản quang và không nên sử dụng chóa đèn có hộp nhựa che bóng đèn. Đối với chiếu sáng đường sá nên dùng loại đèn Sodium cao áp 150W thay cho loại thủy ngân cao áp 250W có độ chiếu sang tương đương. Một km đường với 20 đèn như vậy, công suất tiêu thụ giảm được 2 KW. Kết quả thu được từ một số dự án trình diễn tại một số khách sạn ở Hà Nội và Tp.HCM mới đây cho thấy, việc thay đổi công nghệ chiếu sáng đã mang lại nhiều lợi ích như: giảm chi phí điện năng tới 60%, giảm công bảo dưỡng (thay bóng đèn) do tuổi thọ bóng đèn cao, giảm công suất tiêu thụ, nhờ đó giảm tải cho hệ thống điện và giảm phát thải khí nhà kính,v.v Nguồn: TBKTVN, 22/5/2000 Công nghệ mới thu hồi bụi trong sản xuất ximăng lò đứng Công ty ximăng Sài Sơn và Trường Đại học Bách khoa Hà Nội vừa nghiên cứu và hoàn thiện đề tài về công nghệ: “Xử lý thu hồi bụi trong quá trình sản xuất ximăng theo công nghệ lò đứng”. Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường Hà Tây đã nghiệm thu và đánh giá đề tài này thuộc loại xuất sắc. Quy trình công nghệ của phương pháp này như sau: Lắng khô kết hợp với lắng ướt; dùng quạt hút bụi, khí xuống 2 hầm lắng khô được xây dưới đất. Sau đó khói lò qua 3 gian lắng ướt, tại đây được phun nước với áp lực 2kg/cm2 để trộn với khói bụi làm lắng được cả những hạt bụi nhỏ. Khi gặp nước, khí độc SO2 cũng bị loại bỏ. Kết quả là đề tài đã xây dựng được công nghệ xử lý bụi hiệu quả cao, hiệu suất lọc đạt trên 90% lượng bụi khí, tận thu hơn 80% bụi khí lò (mỗi ngày bình quân thu 3,5 tấn bột bụi quay trở lại sản xuất, làm lợi hàng trăm triệu đồng một năm). Lượng bụi và tỷ lệ các loại khí độc SO2, NO2, CO giảm nhiều lần so với trước khi có hệ thống lọc bụi; bảo đảm đạt các chỉ tiêu về môi trường theo tiêu chuẩn VN 5973-1995. Đây là công nghệ xử lý bụi tốt nhất đối với nhà máy sản xuất ximăng lò đứng, chi phí đầu tư ít hơn nhiều so với phương án khác. Nguồn: Lao động, 10/7/2000 Tháp xử lý nước theo phương pháp ô-xy hóa Từ trước đến nay, các nhà máy nước thường dùng dàn mưa, sàn đập để xử lý nước dùng cho sinh hoạt. Cách xử lý này khó hòa trộn ô-xy và cần diện tích lớn cho xây dựng, trong khi đất đô thị lại ít, chật hẹp,v.v Mới đây, Trung tâm Phát triển công nghệ cao, thuộc Viện Khoa học vật liệu, đã nghiên cứu, chế tạo tháp ô-xy hóa cao tải để xử lý nước sinh hoạt. Nước ngầm được bơm hút từ lòng đất vào tháp, trên đỉnh có gắn bộ chức năng hút ô-xy hóa từ không khí, nước được trộn ô-xy và thúc đẩy quá trình ô-xy hóa. Nhờ vậy, nước sẽ nhận đủ lượng ô-xy tham gia phản ứng ô-xy hóa
  30. chuyển hóa sắt trong nước và giải phóng sun-phua hydrô. Dùng thiết bị này tạo khả năng hòa trộn ô-xy tốt hơn, tiết kiệm diện tích xây dựng và giá thành xây dựng chỉ bằng 2/3 so với xây dựng dàn mưa, sàn đập bằng bê-tông. Nguồn: Nhân dân, 27/7/2000 2 triệu đô la cho khử chất phụ gia xăng dầu (MTBE) Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ sẽ cam kết tài trợ hai dự án để khử chất phụ gia xăng dầu methyl tertiary-butyl ether (MEBE) ra khỏi các nguồn cấp nước cộng đồng. Cơ quan này sẽ cấp 1 triệu đôla cho các dự án thử nghiệm ở Long Island, New York và 1 triệu USD cho Santan Monica, California, nơi mà các nguồn cấp nước ngầm đã bị ô nhiễm do sự rò rỉ của các thùng chứa khí ngầm. Các khu vực này được lựa chọn bởi vì đây là những nơi bị nhiễm bẩn nhất trên toàn quốc. Người phụ trách EPA, Carol Browner cho biết "Để bảo vệ sức khỏe cộng đồng và môi trường, chính quyền Clinton-Gore đã kêu gọi Quốc hội loại bỏ MTBE ra khỏi xăng dầu, và chúng ta đã bắt đầu các hành động điều chỉnh nhằm mục đích loại bỏ MTBE", "Tuy nhiên, trong khi chờ đợi, phải có các hành động để giúp các cộng đồng thực sự bị ảnh hưởng bởi sự rò rỉ MTBE". New York sẽ sử dụng nguồn kinh phí được cấp ở 50 địa điểm tại Long Island. Các nguồn quỹ ở Santa Monica sẽ được dùng để giúp đỡ bù đắp chi phí ước tính 150 triệu USD để khôi phục nguồn nước ngầm và các nguồn cấp nước thay thế. MTBE được sử dụng ở nhiều nhà máy tinh lọc dầu để tuân thủ theo Đạo luật Không khí sạch kêu gọi sử dụng các chất oxy hóa trong các loại nhiên liệu. Do những lo ngại về ô nhiễm nước, chính quyền đã bắt đầu các hành động điều chỉnh để kiểm soát MTBE theo Đạo luật Kiểm soát các Chất Độc hại. Nguồn: ENN, 25/07/2000 Áp dụng công nghệ làm sạch ô nhiễm dầu mỏ bằng phương pháp phân hủy sinh học Viện Công nghệ Sinh học (Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ quốc gia) đã nghiên cứu và đưa vào áp dụng đạt kết quả tốt công nghệ làm sạch ô nhiễm dầu mỏ bằng phương pháp phân hủy sinh học. Đây là đề tài khoa học cấp Nhà nước giai đoạn 1996-2000 do tiến sĩ Đặng Thị Cẩm Hà làm chủ nhiệm. Trên cơ sở điều tra cơ bản các yếu tố môi trường và lựa chọn được tập đoàn vi sinh vật có khả năng phân hủy dầu cả trong điều kiện hiếu khí và kỵ khí, tập thể các nhà khoa học thực hiện đề tài đã chế thử hai chế phẩm Oilcleanser 1 (dạng lỏng) và NPB1 (Oilcleanser 2 dạng rắn nhẹ, xốp). Quy trình công nghệ nói trên đã và đang được triển khai áp dụng có hiệu quả tại kho K130, và ba kho khác của Công ty Xăng dầu B12 ở Quảng Ninh. Thành công này mở ra triển vọng áp dụng ở quy mô toàn quốc. Nguồn: Sài Gòn giải phóng, 1/8/2000
  31. Tái chế nhựa xốp bằng dung môi tự nhiên Tại Nhật Bản, mỗi năm tiêu thụ hơn 400.000 tấn nhựa xốp (bọt biển) dùng để bọc đồ điện tử gia dụng, khay đựng thức ăn, hộp đựng thủy sản,v.v Nếu không tái chế lượng nhựa xốp thải bỏ này thì chúng sẽ gây ô nhiễm môi trường, gây tình trạng lãng phí nguyên liệu. Gần đây, người ta chỉ biết phương pháp đun nóng và cán nát để tái chế nhựa xốp. Phương pháp tái chế này làm thoái hóa những tính năng cơ học trong nhựa xốp, làm giảm 30-40% sức bền và khả năng chống sóc, khiến nhựa xốp tái chế cứng và không đủ tiêu chuẩn để sử dụng trong đóng gói hàng điện tử và việc đốt chúng cũng gây ra khí rất độc ảnh hưởng tới sức khoẻ con người và môi trường . Sau nhiều năm nghiên cứu, các nhà khoa học Nhật Bản đã tái chế thành công nhựa xốp bằng phương pháp dung môi tự nhiên, đó là chất Limônin - một loại dầu thực vật tự nhiên được chiết xuất từ vỏ cam, quýt. Phương pháp tái chế bằng limônin giảm được 30% thán khí so với phương pháp tái chế cũ. Quá trình tái chế không gây độc hại cho sức khỏe con người và môi trường. Cấu trúc phân tử limônin và polixtirin ( nguyên liệu dùng để làm thành xốp) giống nhau. Do đó, khi nhỏ dung môi limônin, chỉ có nhựa xốp là tan, các tạp chất khác như bụi bẩn, nhãn dán,v.v còn nguyên vẹn nên dễ dàng tách riêng chúng ra. Quá trình tái chế này xảy ra ở nhiệt độ bình thường, hạn chế tối đa hiện tượng giảm trọng lượng phân tử mà thường hay xảy ra ở phương pháp tái chế bằng cách đun nóng. Nhựa xốp tái chế theo phương pháp này có chất lượng tốt như sản phẩm nhựa xốp làm mới. Sau 3 phút hòa tan trong dung môi limônin, khối lượng nhựa xốp chỉ còn lại bằng 1/20 khối lượng nhựa xốp ban đầu, khiến cho việc thu gom và vận chuyển đơn giản và tiết kiệm chi phí vận tải rất nhiều. ở Tokyo, các xe tải của Công ty tái chế đi từng cửa hàng thu gom nhựa xốp đã qua sử dụng rồi cho hòa tan vào dung môi limônin trong hệ thống lắp đặt sẵn tại thùng xe. Sau đó, tại nhà máy, hỗn hợp này được đun nóng trong lò để làm bốc hơi chân không, khiến limônin bốc hơi và phân tách pôlixtirin. Chất pôlixtirin được kéo thành những thanh dài, mỏng, làm nguội trong nước sau đó được cắt thành dạng viên, làm nguyên liệu để tái chế nhựa xốp. Sau quá trình làm lạnh, 99% chất limônin được thu hồi để sử dụng lại. Quy trình tái chế này tiết kiệm được rất nhiều nhiên liệu, nguyên vật liệu và cực kỳ hiệu quả. Nguồn:Khoa học và Đời sống, Số 33(1338)/2000
  32. Bộ đầu đo sinh học có độ nhạy cao xác định nhanh dư lượng thuốc bảo vệ thực vật Thuốc bảo vệ thực vật ngày càng được sử dụng rộng rãi để phòng trừ sinh vật gây tác hại cho cây trồng, nông sản và đồng thời nó đã mang lại nhiều hiệu quả tốt. Tuy nhiên, thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) cũng gây ô nhiễm cho con người và môi trường, đặc biệt nguy hiểm là khi sử dụng thuốc BVTV không đúng quy định như sử dụng quá liều lượng, không tuân thủ đúng thời gian cách ly sau khi phun thuốc BVTV,v.v đối với những nhóm thuốc có độ độc cao hoặc nhóm thuốc cấm sử dụng. Người bị nhiễm thuốc BVTV liều lượng cao có thể gây nên ngộ độc cấp tính mà thường biểu hiện: mẩn ngứa, đau đầu, chóng mặt, nôn,v.v Trong trường hợp bị nhiễm độc nặng có thể dẫn đến tử vong. Tuy nhiên, hậu quả nguy hiểm của thuốc BVTV ở độc tính tích lũy. Đối với nhóm người thường xuyên tiếp xúc với thuốc BVTV hàng ngày như: người sản xuất, đóng gói thuốc BVTV, những nông dân thường xuyên tiếp xúc với thuốc, thường xuyên ăn hoặc uống thực phẩm hoặc nước bị nhiễm thuốc,v.v , một lượng nhỏ thuốc này sẽ nhiễm vào cơ thể qua đường hô hấp, đường tiêu hóa, ngấm qua da của người. Mặc dù phần lớn thuốc BVTV bị phân hủy tự nhiên, bị đào thải ra ngoài cơ thể, nhưng nhiều chất trong số đó phân hủy kém như nhóm thuốc có Clo hữu cơ, có khả năng tích lũy trong cơ thể của con người và gây nên bệnh mãn tính với những triệu chứng như: người mệt mỏi, mất khả năng điều hòa phản xạ, giảm số lượng và chất lượng tinh trùng dẫn đến suy giảm hoặc mất khả năng sinh sản. Đã có nhiều nghiên cứu xác định sự liên quan giữa bệnh ung thư và dị dạng với nhóm thuốc BVTV chứa Clo hữu cơ. Thuốc trừ vật hại thuộc nhóm lân hữu cơ và carbamat tuy có độ phân hủy tốt nhưng là chất gây độc thần kinh, gây ức chế hoạt tính enzym cholinexterasa. Người tiếp xúc nhiều với loại thuốc này sẽ thường xuyên bị đau đầu và trong trường hợp bị nhiễm nặng sẽ bị suy nhược thần kinh hoặc bị giảm trí nhớ. Để ngăn ngừa và hạn chế hậu quả xấu nói trên, ngoài biện pháp an toàn lao động, còn cần phải tăng cường kiểm soát dư lượng thuốc BVTV; Thường xuyên kiểm tra đánh giá dư lượng thuốc trong rau, hoa quả, thực phẩm, trong cơ thể của nhóm người tiếp xúc nhiều và trong môi trường sống như: trong nước, đất, động vật, thực vật. Cho tới nay, phương pháp xác định sự tồn lưu thuốc BVTV thường dùng là phương pháp sắc khí ký. Ưu điểm của phương pháp này là giới hạn xác định thấp, tính đặc hiệu cao. Song, phương pháp này sử dụng thiết bị đắt tiền và chỉ thực hiện được ở trung tâm phân tích, vì đòi hỏi cán bộ sử dụng thiết bị có tay nghề cao . Mặt khác, việc xử lý mẫu cũng đòi hỏi thiết bị chuyên dùng và thời gian cho nên gây nhiều tốn kém khi phải vận chuyển và bảo quản số lượng lớn mẫu. Để khắc phục những trở ngại trên, gần đây người ta sử dụng phương pháp xác định dư lượng thuốc BVTV bằng kỹ thuật miễn dịch và enzym. Ưu điểm của phương pháp này là nhanh, đơn giản, có thể tiến hành xác định ngay tại hiện trường. Theo hướng này, trong thời gian vừa qua các cán bộ nghiên cứu của Phòng Công nghệ gen động vật, Viện Công nghệ Sinh học, Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia đã thành công tạo ra phương pháp xác định thuốc trừ cỏ 2,4-dichlorophenoxyacetic acid (2,4-D) bằng kỹ thuật miễn dịch trên phiến nhựa (ELISA) và trên que thử. Giới hạn xác định và thời gian đo của kỹ thuật ELISA lần lượt là 1 ppb (1 (g/l) và 2 giờ, còn đối với que thử tương ứng là 20 ppb (20 (g/l) và 2,5 giờ. Các kết quả này đạt yêu cầu phân tích mà "Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5942-
  33. 1995) quy định. Các phương pháp này là ổn định và có thể áp dụng đo mẫu thực tế. Hiện tại, các cán bộ của Phòng Công nghệ gen động vật đang nghiên cứu hoàn thiện phương pháp xác định 2,4-D trong đất và trong thực phẩm, xác định thuốc trừ sâu nhóm lân hữu cơ và nhóm carbamat trong rau, hoa quả bằng kỹ thuật enzym. Mục tiêu tiếp theo của những nghiên cứu này là sử dụng chất tải trung gian để chuyển và khuếch đại tín hiệu miễn dịch, enzym thành tín hiệu điện, chế tạo bộ đầu đo nhạy cảm sinh học (biosensor) dùng xác định nhanh dư lượng thuốc BVTV trong rau, hoa quả, thực phẩm tại cửa khẩu, các quầy bán các sản phẩm . Với dụng cụ này, những người thường xuyên tiếp xúc với thuốc BVTV hàng ngày có thể tự kiểm tra dư lượng thuốc BVTV trong nước tiểu của mình. Các nhà môi trường có thể sử dụng để xác định nhanh và đánh giá dư lượng thuốc BVTV trong nước, trong đất, trong cơ thể động vật và thực vật tại hiện trường. Trong tương lai không xa, ngay tại quầy bán rau, hoa quả và thực phẩm, các bà nội trợ và người tiêu dùng sẽ có thể biết được một cách nhanh chóng dư lượng thuốc BVTV có hay không trong các sản phẩm mà họ cần dùng. Nguồn: Viện Công nghệ Sinh học,Trung tâm KHTN&CNQG Sử dụng nguồn năng lượng tiếng ồn để giảm ô nhiễm Tiếng ồn từ trước đến nay vẫn được coi như là một loại ô nhiễm âm thanh, gây rất nhiều tác hại đối với sức khỏe con người, đặc biệt là các dạng bệnh nghề nghiệp khi phải làm việc trong môi trường có độ ồn cao. Nhưng đối với các nhà khoa học ở Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Los Alamos (Mỹ) thì những sóng âm thanh có tần số cực lớn đó còn chứa một nguồn năng lượng kỳ diệu, sau khi nhà vật lý học Scott Backhaus thử nghiệm thành công một loại động cơ mới được gọi là động cơ nhiệt âm học. Trên thực tế, động cơ nhiệt âm học của Backhaus có nguyên lý hoạt động tương tự như động cơ xe hơi thông thường hay tuốc-bin khí vì cùng dựa trên nguyên tắc chuyển nhiệt năng thành cơ năng. Tuy nhiên, có điểm khác biệt là động cơ nhiệt âm học không sử dụng xăng hay khí đốt mà sử dụng sóng âm được nén chặt. Chính ở trạng thái này, sóng âm trở thành một loại pít tông đặc biệt. Hơn nữa, loại động cơ này sẽ không đòi hỏi phải có những bộ phận chuyển động như các loại động cơ thông thường và có thể sản xuất bằng những loại vật liệu rẻ tiền. Nguyên tắc hoạt động của động cơ nhiệt âm học tương tự như động cơ hơi nước sử dụng hồi đầu thế kỷ 19. Theo sáng kiến của R.Stirling người Scotlen thì loại động cơ đó cũng gồm có một buồng kín tuyệt đối, được bơm đầy một loại khí có thể chuyển động được theo hai luồng đối lập nhau. Sự chuyển động của hai luồng khí từ vùng nóng sang vùng lạnh và ngược lại sẽ được duy trì liên tục nhờ hai pít tông hoạt động dựa trên nguyên lý các khối khí nở ra khi gặp nhiệt độ cao và co lại khi trở về nhiệt độ bình thường. Nhưng rồi sáng kiến của R. Stirling bị quên lãng, khi động cơ nổ ra đời. Đến năm 1979, người ta mới nhớ đến phát minh này khi nhà vật lý người Mỹ, Peter Ceperley ở trường đại học Geoge Mason de Fairfax thuộc bang Virginia đưa ra ý tưởng thay các pit tông bằng sóng âm thanh. Trước hết, về bản chất, âm thanh cũng là một dạng chuyển động. Sở dĩ chúng ta nghe được âm thanh là nhờ sóng âm lan truyền trong không khí làm rung màng nhĩ theo nhiều tần số khác nhau. Giáo sư Peter Ceperley đã quyết định giao cho Scott Backhaus tập trung vào nghiên cứu, thử nghiệm ý tưởng này. Sau khi nghiên cứu kỹ mô hình của
  34. R.Stirling, Backhaus tự thiết kế một mẫu động cơ riêng theo ý mình. Mẫu thiết kế của ông gồm một hộp cộng hưởng có hình dáng giống như chiếc gậy đánh bóng chày và được làm bằng thép. Bộ phận thứ hai của động cơ là một buồng kín bằng kim loại có gắn bộ trao đổi nhiệt mà bên nóng luôn luôn đảm bảo nhiệt độ ở khoảng 7000C và bên lạnh giữ nhiệt độ ở 200C. Tiếp theo, Backhaus bơm đầy khí hêli nén vào động cơ. Bộ trao đổi nhiệt có cấu tạo giống như những giàn loa công suất lớn. Chúng sẽ tạo ra âm thanh rồi truyền vào hộp cộng hưởng. Khi dội lại, âm thanh sẽ được khuếch đại lên tới mức cực mạnh. Tất nhiên, đó là những gì xảy ra bên trong động cơ, còn ở bên ngoài động cơ, người ta chỉ nghe thấy tiếng rung nhè nhẹ như khi đi cạnh một chiếc xe hơi đang chạy chậm. Điều này có được là nhờ lớp vách ngăn bằng thép có bề dày 6 mm vừa đủ để chịu áp lực của khí hêli bị nén chặt bên trong và cũng đủ để đảm bảo độ cách âm lý tưởng. Trước mắt, động cơ nhiệt âm học sẽ được sử dụng ở nhiều quy mô khác nhau. Người ta có thể chế tạo những động cơ nhiệt âm học khổng lồ dùng cho các nhà máy sản xuất khí hóa lỏng, nhưng cũng có thể sản xuất những động cơ nhiệt âm học loại nhỏ để phát điện dùng cho một gia đình. Hiện tại, các nhà khoa học của Trung tâm Los Alamos đang cộng tác với hãng vận chuyển khí đốt Cryenco Inc. để chế tạo một động cơ nhiệt âm học khổng lồ dài 12 m và đường kính 1,2 m dùng cho việc sản xuất khí hóa lỏng với công suất làm lạnh và hóa lỏng gần 1.900 lít khí tự nhiên/ngày. Nguồn: Khoa học và Đời sống, Số 33(1338)/2000 Thiết bị xử lý nước thải bệnh viện Liên hiệp Khoa học, Sản xuất Công nghệ Hóa học (UCE) vừa nghiên cứu thành công thiết bị xử lý nước thải bệnh viện theo nguyên lý module, hợp khối và tự động hóa. Số module cần thiết được lắp đặt tùy thuộc tổng lưu lượng nước thải. Trong quá trình xử lý nước thải có sử dụng một số chế phẩm đặc hiệu như chế phẩm vi sinh và chất tụ keo tốc độ cao PACN-95. Nhờ có những chế phẩm nêu trên mà tốc độ phân hủy chất hữu cơ tăng từ 7 - 9 lần, giảm kích thuớc thiết bị. Nước thải từ các bể phốt của bệnh viện được dẫn vào bể chứa theo hệ thống cống riêng. Sau đó nước thải được bơm vào trạm xử lý nước thải. Hệ thống xử lý của thiết bị có thể đạt hiệu suất xử lý 90% đối với BOD5, 80% đối với SS và 99% đối với cô-li-phom. Nước thải sau khi xử lý đạt tiêu chuẩn loại A của Việt Nam (TCVN 5945 - 95). Nguồn: Nhân dân ĐT, 25/8/2000 Sản xuất chất dẻo sinh học từ sắn Phủy trong tự nhiên, chất dẻo sinh học từ sắn lại có thể dễ dàng phân hủy trong một thời gian ngắn. Một trong những con đường có thể tạo ra chất dẻo sinh học (bioplastic) là việc sử dụng vi khuẩn tổng hợp thành các chất polyhydroxyakanoit (PHA). Trong tương lai, khi công nghệ gen phát triển, người ta có thể chuyển nạp các gen của vi khuẩn có khả năng tổng hợp PHA vào các loại cây giàu tinh bột, cây lấy dầu như sắn, đậu tương một cách rộng rãi thì việc sản xuất các PHA tự nhiên sẽ dễ dàng hơn. Khi đó, các chất dẻo sinh học sẽ có giá khoảng 1-2 USD/kg. Với giá này nó có thể cạnh tranh ngay cả với các loại chất dẻo được sản xuất bằng phương pháp hóa dầu.
  35. Nguồn: Lao động, 26/7/2000 Kiểm tra nhanh độc tố gây ung thư Viện Công nghệ sau thu hoạch vừa kết hợp với Phòng miễn dịch học Viện Pasteur hoàn thành đề tài nghiên cứu sản xuất cột sắc ký ái lực miễn dịch để kiểm tra nồng độ Aflatoxin trong nông sản thực phẩm. Aflatoxin là một loại chất độc gây ung thư cao có trong ngô, lạc, ý dĩ, hạt bông, gạo, sữa bò, thức ăn gia súc,v.v Chất độc này thâm nhập vào cơ thể người thông qua lưới thức ăn: có thể do người ăn trực tiếp các thức ăn được chế biến từ các sản phẩm nói trên hoặc có thể từ thịt gia súc chuyển vào cơ thể người do thức ăn gia súc, gia cầm được chế biến từ các nông sản trên. Lâu nay, tại các nhà máy chế biến thức ăn gia súc, người ta thường dùng các phương pháp phát hiện Aflatoxin cũ như sắc ký lỏng cao áp có giá thành cao và khó thực hiện nếu điều kiện thí nghiệm không đầy đủ. Cột sắc ký ái lực miễn dịch do hai Viện nói trên nghiên cứu sản xuất là loại thiết bị đơn giản dễ sử dụng , thời gian thực hiện từ 20-30 phút với giá thành chỉ bằng một phần ba phương pháp cũ và hiệu suất sử dụng lại cao gấp ba lần phương pháp cũ. Phương pháp mới đã được sử dụng tốt tại các đơn vị chế biến thức ăn gia súc ở TP.Hồ Chí Minh. Nguồn: Lao động, 14/8/2000 Sản xuất hyđro từ tảo xanh Sau hơn chục năm nghiên cứu, mới đây các nhà nghiên cứu khoa học đã thông báo về phát minh chủ chốt: Họ nuôi cấy một loại tảo xanh có tên là Chlamydomonas, thường tìm thấy ở lớp váng ở ao, hồ, cắt nguồn cung cấp ôxy và lưu huỳnh của nó, kết quả đã tạo ra một "chuyển mạch phân tử" trong các tế bào, buộc tảo phải tiêu thụ nhiên liệu tích trữ của nó cùng với nước và ánh sáng mặt trời. Phản ứng hóa học này đã sinh ra những bọt khí hyđrô như là một phụ phẩm. Từ lâu, các nhà khoa học đã biết rằng tảo đã có thể sản ra khí hyđrô, nhưng sản lượng chưa bao giờ đạt tới như trong những thí nghiệm gần đây. Nhà sinh vật học T.Melis ở Đại học California nói: "Công việc này cũng tương tự như tìm kiếm được dầu. Đây quả là một điều rất đáng phấn khởi, một điều khó có thể tin được". Khi các nguồn năng lượng hóa thạch ít đi và mối quan tâm tới môi trường tăng lên thì những công nghệ năng lượng tái tạo này có lẽ sẽ hấp dẫn hơn. Từ lâu, một số chuyên gia năng lượng đã coi hyđrô là một nguồn năng lượng tái tạo tuyệt vời. Các nhà chế tạo ôtô đã thử nghiệm dùng các pin nhiên liệu, trong đó hyđrô kết hợp với ôxy để tạo ra điện năng, cũng như các động cơ đốt trong dùng hyđrô thay xăng. Nguồn: Lao động, 8/8/2000 Khai thác đất than bùn làm phân bón sinh học Huyện Tri Tôn, thuộc tỉnh An Giang hiện có trữ lượng đất than bùn rất lớn. Đây là nguồn nguyên liệu sản xuất được phân bón sinh học chất lượng cao, thích hợp với
  36. hoa màu và cây ăn quả. Hiện nay, huyện đã giao cho hợp tác xã Phước Nông thuộc Hội làm vườn tỉnh An Giang khai thác nguồn đất than bùn này. Vừa qua Hợp tác xã Phước Nông đã sản xuất, cung cấp 100 tấn phân sinh học cho các huyện chuyên canh màu ở An Phú, Chợ Mới và 100 tấn cho huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang bón cho cây hồ tiêu, bước đầu cho thấy cây màu và hồ tiêu phát triển nhanh, nhiều quả, sai hạt, bà con nông dân bắt đầu tiếp nhận loại phân bón này. Nguồn: Nhân dân, 8/8/2000 Thiết bị xách tay đo kim loại trong đất
  37. Phòng thí nghiệm nghiên cứu Naval (NRL) thông báo đã được cấp bằng sáng chế một thiết bị đo nhanh hơn và an toàn hơn các nồng độ các kim loại trong đất ở các môi trường có chất thải . Phát minh của NRL được gọi chính thức là “xuyên độ kế hình côn sử dụng bộ cảm biến kim loại huỳnh quang tia X” là một máy nghiên cứu phổ huỳnh quang tia X kiểu xách tay, có thể sử dụng để thực hiện phép đo bằng huỳnh quang theo thời gian thực tế các mẫu đất và trầm tích. Bằng việc sử dụng xuyên độ kế tích phân dải hình côn để xuyên tới bề mặt, các phép đo bằng phương pháp huỳnh quang có thể thực hiện, mà không cần loại bỏ bất kỳ mẫu thử nào. Tuy nhiên, thay vì phải sử dụng một nguồn phóng xạ, một ống tia X thu nhỏ được cấp điện bằng một biến thế cách li đặt bên ngoài ống xuyên độ kế có đường kính khoảng ≤ 2 inch. Tia X xuyên qua một cửa sổ truyền tia X, loại đặc biệt vào trong đất hoặc trầm tích dưới mặt đất. Kết quả là tia X từ các kim loại trong đất hay trầm tích phản hồi qua cùng cửa sổ đó tới một bộ phát hiện. Tín hiệu sau đó được truyền trở lại bề mặt, và tại đây các tia X được phân tích để xác định nồng độ các kim loại trong đất. Phép đo quang phổ huỳnh quang thời gian thực ngay tại hiện trường các mẫu đất và trầm tích này cho phép tiến hành được các phân tích hiện trường các địa điểm chất thải nguy hại và các trầm tích dưới lòng đất và dưới mặt nước. Theo NRL, kỹ thuật huỳnh quang tia X làm cho người vận hành có khả năng xác định sự hiện diện của các kim loại với các nồng độ rất nhỏ (dưới 100 phần triệu tính theo trọng lượng) thường phát hiện được ở địa điểm nhiễm bẩn môi trường. Máy này đặc biệt có tác dụng đối với các cuộc khảo sát ban đầu về nhiễm bẩn của các địa điểm hay vị trí chất thải nguy hại. Nguồn: Associated Link Thiết bị loại trừ arsen trong nước sinh hoạt Tháng 2 năm 1999, UNICEF đã khuyến cáo việc nhiễm arsen (hay còn gọi là thạch tín) trong nước, uống hàng ngày, gây nguy hiểm cho sức khỏe con người ở các nước, như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái-lan, Bangladesh, Đài Loan. ở Việt Nam, ngay sau đợt kiểm tra chính thức đầu tiên tại Hà Nội theo yêu cầu của UNICEF vào tháng 6/1999 đã phát hiện 6 giếng khoan, trong đó 4 giếng khoan thuộc phường Quỳnh Lôi, một giếng ở khu vực Thanh Nhàn và một giếng ở Thanh Trì bị nhiễm Arsen với nồng độ từ 0,1 - 0,2 mg/l, quá cao so với tiêu chuẩn nước sạch của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đặt ra năm 1998 là 0,01 mg/l. Hậu quả của sự ô nhiễm này đã khiến nhiều người dân trong khu vực mắc bệnh nan y về hệ tuần hoàn, hệ thần kinh,v.v Trước thực trạng trên, từ 1999 đến nay, các đợt kiểm tra liên tiếp được tổ chức ở nhiều nguồn nước trên địa bàn thành phố Hà Nội. Một nhu cầu bức bách đặt ra là cần phải có thiết bị loại trừ độc tố Arsen trong nước sinh hoạt cho mỗi gia đình trong khu vực nước bị ô nhiễm. Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hoan ở Trung tâm Phân tích Môi trường thuộc Viện Hóa học Công nghiệp đã hoàn thành việc chế tạo thiết bị kiểm tra Arsen trong nước và đã chính thức đưa ra thị trường thiết bị này sau một thời gian kiểm nghiệm. Thiết bị loại trừ chất Arsen trong nước có cấu tạo rất đơn giản, chế tạo bằng nhựa PVC, có dạng hình ống và có thể lắp trực tiếp vào đường ống dẫn nước theo chiều ngang hoặc theo chiều dọc tùy theo địa hình. Khi qua thiết bị, nước sẽ được lọc qua 2 tầng: tầng trên là vật liệu bằng khoáng vật có sẵn trong tự nhiên để loại bỏ
  38. Arsen. Sau đó, nước sẽ chảy xuống tầng thứ hai là cát để lọc cho trong và sạch. Công suất của thiết bị có thể lọc từ 20 - 100 lít/giờ tùy theo lượng Arsen có trong nước. Nếu tính trung bình một ngày sử dụng hết một khối nước thì một năm thiết bị tiêu hết khoảng 200 gam vật liệu khử Arsen. Như vậy, sau 10 năm mới phải bổ sung vật liệu lọc một lần mà giá vật liệu này lại rất rẻ, chỉ 10 nghìn đồng/1kg. Tuy nhiên, để kéo dài thời gian sử dụng, mỗi năm phải làm sạch vật liệu bằng cách sục cặn, rửa ngược một lần. Qua 6 lần thay đổi, ông Hoan mới định hình được thiết bị lọc Arsen như hiện nay. Thiết bị được phân chia làm 3 loại: loại 30 kg với giá 500 nghìn đồng, loại 25 kg với giá 450 nghìn đồng và cũng loại 25 kg, nhưng để lắp theo chiều ngang với giá 420 nghìn đồng. Thiết bị này chỉ dùng cho nước đã qua xử lý rồi, nước đã qua xử lý do nhà máy nước cung cấp, nhưng vẫn còn độc. Còn xử lý nước trực tiếp ở nguồn thì phải sử dụng biện pháp khác, thiết bị này không loại bỏ 100% chất Arsen. Theo đông y, Arsen với liều lượng rất nhỏ sẽ có tác dụng chữa nhiều bệnh về khí huyết. Đánh giá một chiều đối với chất arsen là thiên lệch, do đó thiết bị của ông vẫn để lại arsen với nồng độ cho phép. Cấu tạo thiết bị bằng nhựa PVC có thể dễ vỡ và gây rò rỉ khó có thể thay thế bằng nguyên liệu khác. Nếu dùng kim loại, chẳng hạn như inox, nó sẽ dần dần bị thủng do ăn mòn điện hóa. Cho nên sử dụng bền hay không thiết bị lọc chất Arsen bằng nhựa PVC, phụ thuộc chủ yếu vào ý thức của người sử dụng. Thiết bị lọc Arsen này nói chung đáp ứng được nhu cầu khẩn cấp của UNICEF và Tổ chức Y tế Thế giới: đơn giản và phù hợp với thu nhập của người tiêu dùng. Tuy nhiên, trước khi lắp đặt thiết bị, cần kiểm tra mẫu nước để có thể chọn kích cỡ của thiết bị lọc sao cho phù hợp và an toàn. Nguồn: Hà Nội mới, 10/9/2000 Thiết bị lọc nước mặn, nước lợ thành nước ngọt Sau gần ba năm nghiên cứu, các nhà khoa học thuộc Trung tâm Phát triển Công nghệ cao, Viện Khoa học Vật liệu thuộc Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ Quốc gia đã thành công trong việc chế tạo một loại thiết bị lọc nước mặn, nước lợ thành nước ngọt. Thiết bị này hoạt động theo nguyên tắc nước mặn đi qua một hộp kín có hai điện cực, giữa hai điện cực có rất nhiều ngăn do các màng trao đổi i-on dương và âm tạo thành để ngăn không cho các ion Ca, Mg, Na, Al,v.v đi qua và lọc muối ra khỏi nước. Đặc điểm của công nghệ này là máy không giữ lại muối mà tách muối đưa ra ngoài nên rất thuận tiện cho việc bảo quản máy. Công suất của thiết bị là 10 lít/giờ và hoạt động ở điều kiện nước biển có hàm lượng muối từ 8 gr/l trở xuống. Qua thử nghiệm, chạy một lần thiết bị có thể loại được 60% muối và sau ba lần lọc, lượng muối chỉ còn 20%. Hiện nay Trung tâm đang tiếp tục hoàn thiện để nâng cao hiệu suất lọc và giảm giá thành chế tạo máy. Loại máy lọc nước này sẽ giúp cho các đơn vị quân đội đóng trên các đảo như quần đảo Trường Sa chủ động được nguồn nước ngọt phục vụ đời sống trong sinh hoạt hàng ngày. Nguồn: Quân đội nhân dân, 4/9/20000