Tài liệu Công tác xã hội với người di cư và nạn nhân buôn bán người
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Công tác xã hội với người di cư và nạn nhân buôn bán người", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
tai_lieu_cong_tac_xa_hoi_voi_nguoi_di_cu_va_nan_nhan_buon_ba.doc
Nội dung text: Tài liệu Công tác xã hội với người di cư và nạn nhân buôn bán người
- 1.BỘ LAO ĐỘNG – THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI Chủ biên: NGUYỄN HIỆP THƯƠNG TÀI LIỆU MÔN CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI NGƯỜI DI CƯ VÀ NẠN NHÂN BUÔN BÁN NGƯỜI 1 | P a g e Hà Nội, tháng 9 năm 2012
- BÀI 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI DI CƯ VÀ NẠN NHÂN BUÔN BÁN NGƯỜI (Thời gian: 10 tiết) 1. Di cư 1. 1. Kiến thức cơ bản về người di cư Di cư từ lâu đã trở thành mối quan tâm của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Sự di chuyển của công dân của một nước trong phạm vi lãnh thổ hoặc qua biên giới quốc gia là một trong những chủ đề quan trọng về chính sách, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Các dòng chảy của vốn, hàng hoá, thông tin qua biên giới giữa các quốc gia là điều không thể tránh khỏi. Cùng với những dòng chảy đó, các làn sóng lao động rời quê hương đi tìm những cơ hội kinh tế tốt hơn ngày càng gia tăng Có thể nói so với các nhân tố bất ổn chính trị, kinh tế - xã hội, chiến tranh, thảm họa thiên nhiên, biến đổi khí hậu thì các yếu tố kinh tế như thu nhập thấp, nghèo đói, thiếu việc làm và các lựa chọn mưu sinh là động lực chính trong quyết định di cư. Chênh lệch về mức sống, cơ hội có việc làm với thu nhập cao hơn ở trong nước đã thúc đẩy người dân di cư tìm những cơ hội mới, cho dù chỉ là tạm thời, ở nước ngoài. Di cư vì mục đích kinh tế là loại hình di cư nổi trội, đặc biệt trong điều kiện toàn cầu hoá và tự do kinh tế. Trong hơn hai thập kỷ qua, tranh thủ thời cơ thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những tác động tiêu cực của hai cuộc khủng khoảng tài chính khu vực và toàn cầu, Việt Nam đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi, thế và lực của đất nước vững mạnh thêm nhiều. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước và nâng cao chất lượng sống của nhân dân. Trong thời gian này, làn sóng di cư của lực lượng lao động từ nông thôn ra thành thị và tới các khu công nghiệp đã đóng một vai trò quan trọng đáp ứng nhu cầu lao động, đóng góp vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội ngày càng lớn của Việt Nam. Tuy nhiên, điều này dẫn tới tình trạng di cư gia tăng do sự chênh lệch giữa các vùng miền và giữa khu vực nông thôn và thành thị ngày càng lớn. Cùng với quá trình mở cửa và hội nhập quốc tế đã thúc đẩy nhu cầu và tạo điều kiện cho công dân Việt Nam đi lao động , học tập , du lịch, làm việc và cư trú ở nước ngoài. Sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại Thế giới (WTO), nhu cầu đi lại, làm ăn, học tập, lao động, du lịch 2 | P a g e
- của người dân ngày càng phong phú. Mặc dù chưa được thống kê đầy đủ nhưng số lượng công dân Việt Nam hiện đang lao động, học tập, sinh sống ở nước ngoài hiện đã lên đến nhiều triệu người. Thực tế đang đặt ra những thách thức không nhỏ đối với người di dân cả trong nước và quốc tế, đó là vấn đề an toàn, tiếp cận dịch vụ giáo dục, y tế, nhà ở, nghề nghiệp, thu nhập, chăm sóc, nuôi dạy con cái đòi hỏi phải có sự quan tâm, nghiên cứu để tìm ra phương pháp, cách thức trợ giúp người di cư một cách phù hợp để đảm bảo những quyền cơ bản của họ. 1.1.1. Khái niệm - Di cư Theo tổ chức Di cư quốc tế (IOM): Di cư là sự di chuyển của một người hay một nhóm người, kể cả qua biên giới quốc tế hay trong một quốc gia. Là sự di chuyển dân số, bao gồm bất kể loại di chuyển nào của con người, bất kể độ dài, thành phần hay nguyên nhân; nó bao gồm di cư của người tị nạn, người lánh nạn, người di cư kinh tế và những người di chuyển vì những mục đích khác, trong đó có đoàn tụ gia đình.1 - Người di cư Theo IOM thuật ngữ “ người di cư” thường được hiểu bao hàm mọi trường hợp di cư do cá nhân tự quyết đinh vì lý do “tiện ích cá nhân” mà không có sự can thiệp của nhân tố bắt buộc bên ngoài. Điều này cũng được áp dụng đối với những người và thành viên gia đình di chuyển tới một nước hoặc một vùng lãnh thổ để cải thiện điều kiện xã hội và vật chất của họ. 1.1.2. Các hình thức di cư. Có nhiều cách phân loại các hình thức di cư: - Căn cứ vào phạm vi di cư thì có hình thức di cư trong nước - di cư quốc tế; +Di cư trong nước: sự di chuyển người từ nơi này sang nơi khác trong một đất nước nhằm tạo lập một nơi cư trú mới. Việc di cư này có thể làm tạm thời hoặc lâu dài. Người di cư trong nước di chuyển nhưng vẫn trong nước đó như di cư từ nông thôn ra thành thị, từ khu vực này đến khu vực khác 1 Giải thích thuật ngữ về di cư – Luật di cư quốc tế tái bản lần 2, Hà Nội, 2011. 3 | P a g e
- +Di cư quốc tế: Sự di chuyển những người rời nước gốc hoặc nước cư trú thường xuyên để tạo lập cuộc sống mới tại nước khác kể cả tạm thời hoặc lâu dài như đi học tập, lao động, sinh sống ở nước ngoài. - Căn cứ vào thời gian di cư thì có di cư thời vụ- di cư ngắn hạn – di cư dài hạn + Di cư thời vụ: Là hình thức di cư đi lao động, tìm kiếm việc làm mà đặc điểm công việc, việc làm phụ thuộc vào điều kiện mùa vụ và chỉ được thực hiện trong một phần của năm + Di cư ngắn hạn: Là hình thức di chuyển đến một nơi mà không phải nơi mình cư trú thường xuyên trong khoảng thời gian ít nhất ba tháng nhưng chưa tới một năm, trừ trường hợp di chuyển vì mục đích giải trí, nghỉ lễ, thăm họ hàng, bạn bè, đi công việc hoặc chữa bệnh + Di cư dài hạn: Là hình thức mà người di cư chuyển đến một nơi không phải là nơi cư trú thường của học trong khoảng thời gian ít nhất một năm, do đó nơi đến trở thành nơi cư trú thường xuyên mới của họ. - Căn cứ vào mục đích di cư có hình thức di cư lao động- di cư hôn nhân, đoàn tụ gia đình – buôn bán người. + Di cư lao động: Sự di chuyển từ nơi này sang nơi khác (có thể trong phạm vi quốc gia hoặc quốc gia khác) với mục đích lao động, tìm kiếm việc làm để cải thiện, nâng cao đời sống. + Di cư hôn nhân – đoàn tụ gia đình: Sự di chuyển từ nơi này đến một nơi khác vì lí do hôn nhân hoặc một gia đình được tái hợp sau một thời gian bị chia cắt qua việc di cư cưỡng bức hay tự nguyện tại một nơi không phải là nơi ở gốc của họ. Như đi lấy chồng Hàn Quốc, Đài Loan, di cư sang Mỹ đoàn tụ gia đình sau chiến tranh + Buôn bán người ( xem phần 2) 4 | P a g e
- - Căn cứ vào luật pháp thì có hình thức di cư hợp pháp – không hợp pháp (bất hợp pháp) + Di cư hợp pháp: Là hình thức di cư diễn ra theo kênh hợp pháp và được công nhận, là hoạt động di cư có tổ chức, được thực hiện bởi cơ quan có thẩm quyền nhằm đảm bảo an toàn, tránh nguy cơ rủi ro cho người di cư. Như di cư đi xây dựng khu kinh tế mới, xuất khẩu lao động + Di cư không hợp pháp: Là hình thức di cư đến nơi cư trú mới không theo kênh hợp pháp và không được công nhận, không phù hợp với quy định của luật pháp nơi đi hay nơi đến. Như di cư tự do đến các vùng không theo quy định của nhà nước, di cư trái phép qua biên giới ( vượt biên), buôn bán người Di cư không hợp pháp có thể dẫn đến sự không an toàn, nhiều nguy cơ và rủi ro cao đối với người di cư Từ cách hiểu về thuật ngữ di cư hợp pháp và không hợp pháp có thể xác định thuật ngữ di cư an toàn và di cư không an toàn. + Di cư an toàn Di cư an toàn trước hết phải là di cư có tổ chức, di cư hợp pháp. Người tham gia di cư phải được tư vấn về những điều kiện cần thiết, thậm chí bắt buộc phải có trước khi tiến hành di cư: Hiểu biết về những thủ tục hành chính và các loại hồ sơ giấy tờ cần thiết của người muốn di cư. Nắm được những thông tin cơ bản về nơi cư trú mới. Được đào tạo về chuyên môn nghề nghiệp hoặc ngoại ngữ Được thông tin về những nguy cơ, cạm bẫy, tình huống có thể xảy ra, gặp phải trên con đường di cư, tại nơi cư trú mới Được trang bị một số kỹ năng sống để phòng ngừa và xử lý các tình huống bất ngờ xảy ra trong cuộc sống để họ có thể tự bảo vệ bản thân trước khi nhờ đến các cơ quan luật pháp. + Di cư không an toàn 5 | P a g e
- Di cư không an toàn là quá trình di cư trong đó người tham gia di cư không được thực hiện những yêu cầu tối thiểu nêu trên.Vì vậy nguy cơ gặp rủi ro khá cao và chính hiện tượng này đã tạo điều kiện cho nạn buôn người ngày càng phát triển. Thực tế cho thấy nhiều người di cư đã biết rõ con đường của mình không an toàn nhưng vẫn quyết định dấn thân và kết quả là thất bại, rơi vào đường dây buôn bán người. Đối tượng này phần lớn là phụ nữ và trẻ em. 1.2. Tình hình di cư ở Việt Nam hiện nay 1.2.1. Thực trạng di cư ở Việt Nam 1.2.1.1. Thực trạng di cư trong nước Theo báo cáo của Liên hợp quốc về tình hinh di cư trong nước ở Việt Nam dựa trên kết quả tổng điều tra dân số 2009 như sau: Dân di cư giữa các tỉnh tăng từ 1,3 triệu người năm 1989 lên 2 triệu người năm 1999 và lên 3,4 triệu người năm 2009. Nữ giới chiếm trên một nửa số dân di cư ở hầu hết các nhóm dân di cư. Đa số dân di cư, đặc biệt là dân di cư liên tỉnh, thuộc nhóm tuổi từ 15 đến 29 tuổi. Tỷ lệ đang học tiểu học và trung học cơ sở ở nhóm trẻ em di cư thấp hơn đáng kể so với nhóm trẻ em không di cư. Cụ thể: - Di cư, đặc biệt là di cư giữa các tỉnh đã tăng mạnh cả về số lượng và tỷ lệ hơn hẳn so với thập kỷ trước đó Di cư giữa các tỉnh hay nói cách khác di cư từ tỉnh này sang tỉnh khác tăng từ 1,3 triệu người năm 1989 lên 2 triệu người năm 1999 và lên 3,4 triệu người năm 2009. Một dự báo dân số đơn giản cho thấy, tất cả các dòng di cư sẽ tăng lên và cụ thể là dòng dân di cư giữa các tỉnh sẽ tăng lên gần 6 triệu người, chiếm 6,4% tổng dân số vào năm 2019 - Hiện tượng “nữ hóa di cư" Số liệu tổng điều tra cho thấy nữ giới chiếm trên một nửa số dân di cư ở hầu hết các nhóm dân di cư. Hơn nữa, tỷ lệ nữ trong nhóm dân di cư tăng, trong khi tỷ lệ này trong nhóm không di cư lại giảm qua ba thập kỷ gần đây. Nữ giới cũng có xu hướng di cư nhiều hơn ở các cấp hành chính thấp hơn (chẳng hạn di cư giữa các xã nhiều hơn di cư giữa các tỉnh). 6 | P a g e
- - Di cư từ các địa phương khác ra thành phố lớn tăng cao và có sự khác biệt về luồng di cư giữa các vùng và các tỉnh Số liệu tổng điều tra cho thấy các đô thị đông dân cũng chính là những nơi có nhiều người nhập cư. Ngoại trừ một số tỉnh là nơi tập trung các khu công nghiệp, những tỉnh có tỷ trọng dân nhập cư cao là những tỉnh có tỷ trọng dân số thành thị cao và ngược lại. Các khu vực có tỷ lệ đô thị hoá cao cũng là nơi có tỷ lệ dân nhập cư cao; các đô thị đặc biệt bao gồm các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương có tỷ trọng dân nhập cư cao nhất. Vùng Đông Nam Bộ là vùng nhập cư chủ yếu và tăng nhanh hơn trong giai đoạn 2004- 2009. Ngược lại, vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung và vùng Đồng bằng sông Cửu Long là nơi xuất cư chủ yếu và cũng tăng nhanh hơn trong giai đoạn 2004-2009. Tổng TĐT năm 2009 cho thấy dân nhập cư chiếm tới trên 10% tổng số dân ở một số tỉnh; đặc biệt, trên một phần ba số dân của tỉnh Bình Dương là người nhập cư. Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng một triệu người và Bình Dương có khoảng nửa triệu người nhập cư thuần. - Di cư từ nông thôn ra thành thị làm gia tăng khoảng cách giữa nông thôn và thành thị Số liệu TĐT dân số và nhà ở cho thấy dân không di cư sống ở thành thị có nhiều lợi thế hơn dân không di cư sống ở nông thôn: dân không di cư sống ở thành thị được đào tạo cao hơn, mức sống cao hơn, tỷ lệ người lớn đã hoàn thành bậc tiểu học cao hơn, tỷ lệ sử dụng nguồn nước sạch và hố xí hợp vệ sinh cao hơn. Các kết quả cũng cho thấy dân di cư từ nông thôn ra thành thị có nhiều lợi thế hơn dân không di cư sống ở nông thôn và đôi khi hơn cả dân không di cư sống ở thành thị. Một mặt, các kết quả TĐT cho thấy chất lượng sống của dân di cư từ nông thôn ra thành thị có những cải thiện đáng kể sau di cư do điều kiện sống ở khu vực thành thị cao hơn hẳn khu vực nông thôn. Mặt khác, các kết quả trên phần nào bị ảnh hưởng bởi tính chọn lọc của dân di cư: dân di cư từ nông thôn ra thành thị là những người khá giả hơn và có trình độ văn hóa và chuyên môn kỹ thuật cao hơn những người không di cư ở nông thôn nơi họ ra đi. Tính chọn lọc của di cư này góp phần làm gia tăng khoảng cách giữa nông thôn và thành thị thông qua di cư. - Di cư có ảnh hưởng đến tiếp cận giáo dục của trẻ em di cư trong độ tuổi đến trường Số liệu điều tra dân số cho thấy tỷ lệ đang học tiểu học và trung học cơ sở của trẻ em trong độ tuổi đến trường này ở nhóm trẻ em di cư thấp hơn đáng kể so với nhóm trẻ em không di cư. Khác biệt rõ ràng và lớn nhất được tìm thấy trong nhóm trẻ em di cư giữa các tỉnh. 7 | P a g e
- Từ thực trạng về tình hình di cư trong nước của Việt Nam báo cáo cũng chỉ ra một khuyến nghị: - Dân di cư đã và đang tăng nhanh và chiếm một tỷ lệ đáng kể trong tổng dân số. Các cơ quan bộ ngành ở trung ương và địa phương khi xây dựng các kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở trung ương và địa phương cần quan tâm nhiều hơn đến số lượng và đặc điểm dân di cư. Mặt khác, các chiến lược nhằm giúp cải thiện cuộc sống và phát triển nhân lực dành cho người dân di cư cần phải được lồng ghép vào tất cả các chính sách, kể cả các kế hoạch phân bổ ngân sách có liên quan. - Để giảm sự cách biệt về điều kiện sống giữa nơi đi và nơi đến của dân di cư, các chính sách phát triển quốc gia và phát triển vùng cần phát huy tối đa những lợi ích do di cư mang lại và giảm thiểu những ảnh hưởng bất lợi và những khó khăn mà người dân nơi đi phải đối mặt. - Mặt khác cũng cần chú ý rằng hình thái dân số già hóa đã quan sát được trong nhóm di cư và không di cư ở nơi đến: Nơi đến nhận được nhiều lao động trẻ thông qua di cư trong khi nơi đi phải đối mặt với già hóa dân số và những hệ quả của nó như gia tăng tỷ lệ phụ thuộc, tăng hỗ trợ an sinh xã hội và chăm sóc sức khỏe cho người già. Vì vậy, việc phân bổ ngân sách quốc gia cho các tỉnh cần tính đến các yếu tố này nhằm giảm bớt sự cách biệt giữa nông thôn và đô thị, giữa nơi đi và nơi đến. - Cần phải cân nhắc việc sửa đổi các chính sách giáo dục để tạo cơ hội đến trường bình đẳng cho trẻ em di cư và không di cư. Tương tự, các chính sách tiếp cận đến các dịch vụ xã hội khác cần được chỉnh sửa để dỡ bỏ các rào cản trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội của người di cư tại nơi đến. 1.2.1.2. Thực trạng di cư ra nước ngoài Theo báo cáo của Bộ Ngoại Giao về tổng quan tình hinh di cư của công dân Việt Nam ra nước ngoài tháng 12/2011, thì có những hình thái di cư chủ yếu sau: Di cư lao động; di cư du học; di cư hôn nhân – gia đình; buôn bán người. Cụ thể : - Về di cư lao động: Theo báo cáo hiện có khoảng 500.000 lao động Việt Nam đang làm việc tại hơn 40 nước và vùng lãnh thổ, với khoảng hơn 30 ngành nghề khác nhau từ lao động đơn giản đến lao động kỹ thuật cao. Bình quân mỗi năm Việt Nam đưa được 80.000 lao động đi làm việc. Có 8 | P a g e
- 4 hình thức chủ yếu đưa người lao động đi làm việc tại nước ngoài là: Qua doanh nghiệp dịch vụ hoặc các tổ chức sự nghiệp được phép đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; qua doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu, đầu tư ra nước ngoài, qua doanh nghiệp đưa người đi làm việc dưới hình thức thực tập sinh nâng cao tay nghề; qua hợp đồng cá nhân. Trong đó chủ yếu đi theo hình thức các doanh nghiệp và các tổ chức sự nghiệp có chức năng và được cấp phép đưa lao động đi làm việc tại nước ngoài. Nhìn chung, lao động Việt Nam được thị trường nước ngoài chấp nhận,thu nhập của lao động của Việt Nam ở nước ngoài tương đối ổn định cao hơn ở trong nước khoảng 2 – 3 lần so với cùng trình độ, ngành nghề. Do vậy trong những năm sắp tới, xu hướng người lao động Việt Nam đi lao động ở nước ngoài vẫn còn nhu cầu lớn và vẫn có thể gia tăng. - Di cư du học: Du học sinh Việt Nam hiện nay có mặt tại 50 quốc gia, vùng lãnh thổ với con số trên 100.000 người. Trong đó 90% là học sinh đi học tự túc, còn 10% còn lại có học bổng từ các nguồn tài chính khác nhau của nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức chính phủ, phi chính phủ. Sự lựa chọn các nước đến học tập do nhiều yếu tố quy định. Ngoài yếu tố về học phí, trình độ phát triển, khoảng cách địa lý thì còn tùy thuộc vào ngành nghề học tập, đào tạo và tâm lý của gia đình và du học sinh. Tuy nhiên các nước du học sinh lựa chọn nhiều là Australia, Canada, Hoa Kỳ, Newzeland, Singapores, Nhật, Pháp, Trung Quốc Hiện nay, xu hướng các du học sinh, đặc biệt là các du học sinh tự túc là được ở lại các nước học tập làm việc, đặc biệt các nước châu âu, bắc mỹ, một số nước châu á có nền kinh tế phát triển.Vì thế, để làm tốt hơn nữa công tác đào tạo, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đòi hỏi chúng ta cần có cơ chế, chính sách phương thức kết nối, tiếp cận được với du học sinh Việt Nam trên toàn thế giới để có thể nắm bắt đầy đủ số liệu, tình hình cụ thể, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của du học sinh và có sự bảo hộ cần thiết đối với họ. - Di cư hôn nhân – gia đình: Ở Việt Nam, hôn nhân quốc tế hay hôn nhân có yếu tố nước ngoài là một vấn đề phổ biến, báo cáo của Bộ Tư Pháp, từ năm 2005 – 2010 số công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài là 133.289 người. Mặc dù việc các nước mà công dân Việt Nam kết hôn khoảng 50 quốc gia và vùng lãnh thổ, tuy nhiên tập trung chủ yếu là kết hôn với công dân Hàn Quốc, Đài Loan ( Trung Quốc). Bên cạnh việc hôn nhân tự nguyện, đúng luật pháp thì vẫn còn nhiều hiện tượng kết hôn mang tính chất thương mại, trái pháp luật. Mặc dù các cơ quan chức năng đã cố gắng thực hiện những hoạt động, các chính sách để đưa hoạt động 9 | P a g e
- này vào quy củ, tuy nhiên việc kết hôn không hợp pháp, trái pháp luật, mang tính chất thương mại vẫn đang có chiều hướng gia tăng Điều này dẫn đến nhiều nguy cơ tiềm ẩn cho những công dân Việt Nam ( đặc biệt là phụ nữ) khi kết hôn với công dân nước ngoài. 2. Nạn nhân của buôn bán người 2.1. Kiến thức cơ bản về nạn nhân của buôn bán người 2.1.1. Khái niệm * Buôn bán người Nạn buôn người là hoạt động thương mại bất hợp pháp và trở thành ngành công nghiệp tội phạm lớn thứ ba trên thế giới sau ma túy và mua bán vũ khí. Trong nhiều năm qua, thuật ngữ “buôn bán người” hay “buôn người” đã được sử dụng như những thuật ngữ bao trùm cho các hoạt động có liên quan khi một người khống chế hoặc giữ một người khác để buộc họ phải làm việc. Nạn nhân của hoạt động buôn người bất kể trước đó họ đã từng đồng ý, hay bị lừa gạt, cưỡng ép thì đều rơi vào tình trạng bị bóc lột hay rơi vào cảnh nô lệ. Theo điều 3, Nghị Định thư của Liên Hợp Quốc về phòng, chống và trừng phạt việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em bổ sung cho Công ước Liên Hợp Quốc về chống Tội phạm Có tổ chức Xuyên quốc gia thì việc buôn bán người bao gồm: "các hình thức tuyển dụng, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp, tiếp nhận người thông qua các biện pháp đe dọa, sử dụng vũ lực hoặc các hình thức khác như ép buộc, bắt cóc, lừa đảo, hoặc gian lận, lạm dụng quyền lực hoặc vị trí của nhóm dễ bị tổn thương hoặc thông qua việc nhận hoặc trả tiền cho người đang nắm quyền kiểm soát người khác, vì mục đích bóc lột."2. Công cụ quốc tế chính trong đấu tranh chống Buôn bán người là “Hiệp ước phòng chống, ngăn chặn và trừng phạt buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung vào Công ước của Liên Hiệp Quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Hiệp ước được Văn phòng Liên Hiệp Quốc tại Palermo, Ý sửa đổi năm 2000 và được gọi tắt là Hiệp ước Palermo. Điều 3 của Hiệp ước đã ghi rõ định nghĩa về buôn bán người được quốc tế chấp nhận. Theo đó, buôn bán người là “hình thức tuyển dụng, chuyên chở, chuyển giao, chứa 2 Bruno Maltoni, Di cư bất hợp pháp và buôn bán người: Thu thập dữ liệu, Hội thảo di cư quốc tế, Hà Nội, Việt Nam, 1- 2/6/2011.Nguồn 10 | P a g e
- chấp hoặc nhận người, bằng những công cụ như dây thừng, hay dùng lực hoặc các hình thức khác như cưỡng bức, ép buộc, bắt cóc, lừa gạt, dụ dỗ, lạm dụng quyền lực hay vị trí của nhóm yếu thế hay qua việc cho hoặc nhận hoặc hỗ trợ tiền để đạt được sự thoả thuận của một người để kiểm soát người khác vì mục đích bóc lột. Mục đích bóc lột bao gồm, ít nhất, bóc lột tình dục, lao động cưỡng bức hay cung cấp các dịch vụ không mong muốn, nô lệ hay các hình thức giống nô lệ, chiếm đoạt, hay cắt bỏ các cơ quan trên cơ thể” 3. Hiệp ước quy định, nếu xảy ra bất kể trường hợp, tình huống nào nói trên, sự chấp thuận của nạn nhân sẽ được xem như là không liên quan tới sự bóc lột có chủ ý. Ngoài ra, việc tuyển dụng, chuyên chở, chuyển giao, chứa chấp hay nhận trẻ em với mục đích bóc lột sẽ bị coi là một hoạt động buôn bán người. Định nghĩa này bao gồm ba thành tố cần thiết và có mối quan hệ tương quan: hành động (tuyển dụng, chuyên chở, v.v ), công cụ (đe doạ, sử dụng lực, lừa gạt, v.v ), và mục đích (bóc lột nạn nhân). Buôn bán là một quá trình phức tạp bao gồm nhiều hành động có mối quan hệ tương quan lẫn nhau. Như vậy, về cơ bản buôn bán người liên quan đến việc vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp người thông qua thông qua cưỡng chế, cưỡng ép hoặc lừa đảo và đẩy họ vào tình trạng bị bóc lột. Bóc lột được thực hiện dưới nhiều hình thức: bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động hoặc phục dịch, nô lệ hoặc làm việc tương tự như nô lệ hoặc giúp việc trong tình trạng nô lệ. Buôn bán người thường được thực hiện bởi những phương tiện chuyên chở nạn nhân qua biên giới (Buôn bán ra nước ngoài), nhưng nó cũng có thể xảy ra trên quê hương của nạn nhân cũng như ở một nơi mà nạn nhân tự nguyện đến vì muốn nhập cư hay tị nạn. Buôn bán ra nước ngoài có thể liên quan đến nhiều hơn một nước: một nước gửi, nơi nạn nhân được tuyển chọn, một nước trung chuyển, nơi lộ trình buôn bán đi qua, và một nước đích, nơi nạn nhân bị mua và bị bóc lột. Đối với trường hợp bị buôn bán trong nước, nạn nhân có thể bị chuyển tiếp liên tục từ tỉnh này sang tỉnh khác nhằm cắt mối liên hệ với gia đình và xã hội trước khi bị buôn bán. Đường dây buôn bán người diễn ra qua 3 giai đoạn nói chung: Một là, hành động tuyển chọn, chuyên chở, chuyển giao/trung chuyển, chứa chấp hay nhận người dưới hình thức ép buộc, cưỡng bức, doạ dẫm, lừa gạt, dụ dỗ, lạm dụng quyền lực hay khả năng dễ bị xâm hại; Hai là, kiểm soát nạn nhân thông qua việc cưỡng ép, doạ dẫm, lừa gạt, dụ dỗ, lạm dụng quyền lực hay khả năng dễ bị xâm hại; Ba là, bóc lột nạn 3 Bruno Maltoni, Di cư bất hợp pháp và buôn bán người: Thu thập dữ liệu, Hội thảo di cư quốc tế, Hà Nội, Việt Nam, 1- 2/6/2011.Nguồn 11 | P a g e
- nhân, cơ thể/sức lao động của nạn nhân. Mỗi nước trên thế giới, dù giầu hay nghèo, đều có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi loại hình phạm tội này, và mỗi người đều có thể trở thành nạn nhân của buôn bán người. Tuy nhiên, những người dễ bị tổn thương nhất là người nghèo, người thiếu cơ hội học tập và việc làm và những người đang sống trong xã hội chịu ảnh hưởng của nền chính trị không ổn định, phân biệt xã hội và tham nhũng, vì mong ước có những cơ hội tốt hơn khiến họ dễ bị lừa gạt, dụ dỗ bởi những lời hứa hão huyền về một cuộc sống tốt đẹp hơn của bọn buôn người và tiếp đó bị rơi vào vòng xoáy của chúng. *Nạn nhân của buôn bán người Nhu cầu về nhân công, dịch vụ giải trí và tình dục giá rẻ được cho là những nguyên nhân chính dẫn tới việc buôn bán người. Bên cạnh đó là các yếu tố về cơ hội, nguồn lực cũng như những bất bình đẳng về kinh tế và xã hội khiến nhiều người trở thành nạn nhân của đường dây buôn bán người. Một người được xác định là nạn nhân của buôn bán người khi người đó bị một đối tượng dụ dỗ, rủ rê, đưa đi khỏi địa phương đến một địa phương khác trong cùng một nước hoặc sang một nước khác và cuối cùng bị khai thác vì vụ lợi cá nhân hay tiền bạc. Theo Tuyên bố Liên Hiệp Quốc về những Nguyên tắc Pháp lý cơ bản đối với nạn nhân và Lạm dụng quyền lực, “Nạn nhân là những người, cá nhân hay tập thể, phải chịu những tổn hại, bao gồm cả thể chất và tinh thần, mất mát về tình cảm, tổn thất về kinh tế, hay sự tước đoạt dần các quyền con người cơ bản của họ, bằng những hành động vi phạm luật hình sự của nhà nước [ ]” 4. Định nghĩa này nhấn mạnh một số đặc điểm và dấu hiệu hữu ích trong việc nhận biết nạn nhân của buôn bán người. Một là, tổn thương về thể chất và tinh thần, nhìn chung có thể nhìn thấy trực tiếp trên cơ thể nạn nhân, đặc biệt trong trường hợp nạn nhân bị bóc lột tình dục và bán bộ phận trên cơ thể, và đặc biệt trong nhóm dễ bị tổn thương là phụ nữ và trẻ em. Hai là, mặc dù khó có thể nhận biết được nhưng những mất mát về tình cảm ảnh hưởng sâu sắc đến tất cả nạn nhân của buôn bán người. Ba là, nạn nhân của buôn bán người cũng phải gánh chịu những tổn thất về kinh tế do bị bóc lột sức lao động và số tiền họ phải trả cho đường dây buôn người để chúng sắp xếp việc trung chuyển nạn nhân đến nước đích. 4 4 Bruno Maltoni, Di cư bất hợp pháp và buôn bán người: Thu thập dữ liệu, Hội thảo di cư quốc tế, Hà Nội, Việt Nam, 1-2/6/2011.Nguồn 12 | P a g e
- Cuối cùng, hoàn cảnh nô lệ của họ cũng thể hiện một rào cản trong việc thực thi các quyền con người cơ bản của nạn nhân. Ngoài ra, chính những nạn nhân của buôn bán người tự tìm đến những nơi không phải xuất xứ của họ định cư và sau đó, bị bóc lột và lao động khổ sai cũng gây khó khăn trong việc thực hiện quyền con người của họ. Nạn nhân của buôn bán người có thể ở trong các ngành và các môi trường khác nhau, cụ thể như sau: Công nghiệp mãi dâm; Môi trường làm việc gia đình; Công xưởng bóc lột sức lao động công nhân; Ngành xây dựng; Ngành nông nghiệp và nông trại; Ngư nghiệp; Ngành du lịch; Ăn xin 2.1.2 Các hình thức buôn bán người Trên thế giới, các hình thức chủ yếu của nạn buôn người gồm có: Một là, lao động cưỡng bức. Các nghiên cứu gần đây cho thấy phần lớn các hoạt động buôn bán người trên thế giới núp dưới hình thức lao động cưỡng bức. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) ước tính tỷ lệ nạn nhân bị buôn bán vì mục đích cưỡng ép tình dục với nạn nhân bị cưỡng bức lao động là 1/9. Lao động cưỡng bức, hay còn được gọi là nô lệ cưỡng bức có thể đã xảy ra khi những kẻ sử dụng lao động bất lương bóc lột những người lao động dễ bị tổn thương hơn do tỷ lệ thất nghiệp cao, nghèo đói, tội ác, phân biệt, tham nhũng, xung đột chính trị hay do nền văn hóa chấp nhận hoạt động này. Người nhập cư là đối tượng đặc biệt dễ bị tổn thương, nhưng người ta cũng có thể bị cưỡng ép lao động ngay tại chính đất nước mình. Những nạn nhân nữ của lao động cưỡng bức hay lao động trừ nợ, nhất là những phụ nữ và em gái làm nô lệ tại gia cũng thường xuyên bị bóc lột tình dục. Hai là, buôn người vì mục đích tình dục. Buôn người vì mục đích tình dục chiếm một tỷ lệ nhỏ hơn nhưng vẫn là một phần đáng kể trong toàn bộ các hình thức buôn bán người. Khi một người trưởng thành bị đe dọa, cưỡng ép hay lừa gạt làm mại dâm – hay tiếp tục bị buộc làm mại dâm do bị đe dọa – thì người đó là nạn nhân của hoạt động buôn người vì mục đích tình dục. Tất cả những ai tham gia vào quá trình tuyển dụng, chứa chấp, vận chuyển, tiếp nhận hay giành lấy đối tượng vì mục đích này đều là người phạm tội buôn bán người. Buôn người vì mục đích tình dục cũng có thể xảy ra bên trong phạm vi hình thức lao động trừ nợ khi phụ nữ và trẻ em gái bị ép buộc phải tiếp tục hoạt động mại dâm vì những khoản “nợ” bất hợp pháp xuất phát từ việc vận chuyển, tuyển dụng, thậm chí là “bán” họ, và những kẻ bóc lột yêu cầu họ phải trả trước khi được tự do. Cũng cần hiểu rõ rằng việc một người ban đầu tự nguyện tham gia hoạt động mại dâm không phải là yếu tố pháp lý có vai trò quyết định: nếu sau đó họ bị ép buộc hành nghề vì bị lừa gạt về mặt tâm lý hay cưỡng ép 13 | P a g e
- về thể chất thì họ vẫn là nạn nhân của hoạt động buôn người và cần được nhận những lợi ích được nêu trong Nghị định thư Palermo và các luật sở tại hiện hành. Ba là, lao động trừ nợ. Sử dụng các khoản nợ làm một hình thức để cưỡng ép hay đe dọa. Thông thường, hành vi này được gọi là “lao động trừ nợ” hay “làm công trừ nợ” và từ lâu đã bị luật pháp Hoa Kỳ nghiêm cấm - được quy định trong luật pháp Hoa Kỳ dưới tên peonage theo tiếng Tây Ban Nha - và Nghị định thư Palermo cũng đã yêu cầu hình sự hóa hoạt động này như là một hình thức buôn bán người. Người lao động trên khắp thế giới trở thành nạn nhân của lao động trừ nợ khi những kẻ buôn người hay chủ lao động gắn điều kiện bất hợp pháp rằng người lao động phải mặc nhiên chịu một khoản nợ ban đầu trước khi chính thức được nhận vào làm việc. Người lao động cũng có thể phải gánh một khoản nợ do các hệ thống lao động trừ nợ truyền thống hơn. Chẳng hạn như ở Nam Á, theo ước tính có hàng triệu nạn nhân bị buôn bán phải làm việc để trả các khoản nợ của ông cha họ. Bốn là, lao động di cư làm công để trừ nợ. Sự lạm dụng các hợp đồng và điều kiện lao động nguy hiểm đối với những lao động di cư không nhất thiết cấu thành hành vi buôn bán người. Tuy nhiên, các chi phí bất hợp pháp và các khoản nợ của họ ở nước nguồn, thông thường có sự hỗ trợ của các tổ chức lao động và người sử dụng lao động ở nước đến có thể là nguyên nhân dẫn đến tình trạng làm công trừ nợ. Trường hợp này xảy ra ngay cả khi người lao động làm việc cho chủ lao động với tư cách lao động ngắn hạn trong các chương trình làm việc tạm thời. Năm là, nô lệ tại gia. Một hình thức lao động cưỡng bức đặc biệt là những người lao động tại gia bị bắt làm nô lệ miễn cưỡng, họ làm việc trong môi trường không chính thống, cũng là nơi sinh sống và thường không làm việc cùng với những người lao động khác. Môi trường này thường tách biệt những người lao động tại gia khỏi xã hội, tạo thuận lợi cho việc bóc lột cưỡng ép vì chính quyền không thể dễ dàng kiểm tra các địa điểm thuộc sở hữu tư nhân như với những nơi làm việc chính thống. Các thanh tra và người lao động cho biết có rất nhiều trường hợp bị ốm đau mà không được chữa trị, và bi kịch hơn, đó là tình trạng lạm dụng tình dục lan tràn, trong một số trường hợp thì đây có thể là dấu hiệu của tình trạng nộ lệ miễn cưỡng. Sáu là, lao động trẻ em cưỡng bức. Phần lớn cả các tổ chức quốc tế và luật pháp của các nước đều thừa nhận trẻ em có thể tham gia vào một số loại hình công việc một cách hợp pháp. Tuy nhiên ngày càng có nhiều sự đồng thuận về việc cần xóa bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất. Việc mua bán trẻ em và lừa gạt trẻ em khiến các em rơi vào tình trạng bị cưỡng bức lao động hay lao động trừ nợ là một trong những hình thức lao động trẻ 14 | P a g e
- em tồi tệ nhất và cũng là những hình thức của nạn buôn người. Một trẻ nhỏ có thể là nạn nhân của hoạt động buôn người bất kể địa điểm bị bóc lột là ở đâu. Những dấu hiệu của việc trẻ em có thể bị cưỡng bức lao động bao gồm cả những trường hợp mà trẻ em có vẻ như bị một người không trong gia đình giữ, mà những công việc các em làm lại mang lại lợi ích vật chất cho một người khác không thuộc gia đình của các em đó và không cho các em được lựa chọn được rời đi. Các hành động đối phó với nạn buôn người cần được bổ sung nhưng không thay thế các biện pháp truyền thống chống lại lao động trẻ em, chẳng hạn như giáo dục. Tuy nhiên, khi trẻ em bị bắt làm nô lệ thì không thể để những kẻ lạm dụng các em thoát khỏi các hình phạt hình sự bằng cách thay thế bằng các biện pháp xử lý hành chính đối với những vi phạm về lao động trẻ em. Bảy là, lính trẻ em. Lính trẻ em có thể là một dấu hiệu của hành vi buôn bán người khi các lực lượng vũ trang tuyển dụng hay sử dụng bất hợp pháp trẻ em – bằng biện pháp cưỡng ép, gian lận hay đe dọa – nhằm mục đích biến các em thành lính tham gia chiến đấu hoặc để bóc lột lao động hoặc tình dục. Thủ phạm gây ra những vụ buôn bán này có thể là các lực lượng thuộc chính phủ, các tổ chức bán quân sự hoặc các nhóm phiến quân. Nhiều trẻ em bị bắt cóc bằng vũ lực và bị bắt đi lính. Những trẻ em khác bị bắt làm khuân vác, đầu bếp, bảo vệ, đầy tớ, người đưa tin hay gián điệp một cách bất hợp pháp. Những em gái có thể bị cưỡng ép kết hôn hay quan hệ tình dục với những người lính là nam giới. Cả lính trẻ em trai và gái đều thường xuyên bị lạm dụng tình dục và có nguy cơ cao bị lây nhiễm các bệnh truyền qua đường tình dục. Tám là, buôn bán trẻ em vì mục đích tình dục. Theo Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc, UNICEF, có đến hai triệu trẻ em phải hoạt động mại dâm trong ngành thương mại tình dục trên toàn cầu. Các hiệp ước và nghị định thư quốc tế đều bắt buộc phải hình sự hóa việc bóc lột tình dục trẻ em vì mục đích thương mại. Hành vi sử dụng trẻ em trong ngành thương mại tình dục bị luật pháp Hoa Kỳ, Nghị định thư Palermo và ở các quốc gia trên toàn thế giới nghiêm cấm. Không có bất kỳ một ngoại lệ hay lý giải về văn hóa hay kinh tế xã hội nào có thể ngăn cản việc giải cứu trẻ em khỏi tình trạng bị cưỡng bức tình dục. Nạn buôn người vì mục đích tình dục gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng với trẻ em, trong đó có những tổn thương lâu dài cả về sinh lý và tâm lý, bệnh tật (gồm cả HIV/AIDS), nghiện ma túy, mang thai ngoài ý muốn, suy dinh dưỡng, bị xã hội tẩy chay và có thể còn dẫn đến tử vong. 15 | P a g e
- Chín là, Buôn bán bộ phận trên cơ thể. Buôn bán bộ phận trên cơ thể liên quan đến việc buôn bán thương mại những cơ quan của con người hay tuyển chọn người với mục đích cắt bỏ và bán cơ quan của họ. Việt Nam vừa là nước nguồn vừa là nước đến của nam giới, phụ nữ và trẻ em bị buôn bán đặc biệt là vì mục đích cưỡng ép lao động hoặc cưỡng ép tình dục. Ở Việt Nam, có thể phân chia buôn bán người theo ba loại hình khác nhau. Một là, cưỡng ép tình dục. Những phụ nữ Việt Nam chủ yếu là từ các tỉnh phía Bắc sang Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia và Singapore để kết hôn bất hợp pháp và trẻ em bị bán sang Campuchia làm gái mại dâm. Có hai kiểu buôn bán phụ nữ để kết hôn phổ biến: thứ nhất, phụ nữ bị bán, bị xui khiến, bị lừa và đôi khi là bị bắt cóc mang sang biên giới phía Bắc của Việt Nam để làm vợ những người đàn ông sống ở những vùng xa xôi, hẻo lánh ở phía Nam Trung Quốc, số khác được môi giới kết hôn với những người đàn ông từ Đài Loan, Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc; thứ hai, phụ nữ bị buôn bán thông qua mạng lưới "đặt hàng cô dâu qua thư tín" để lấy những người đàn ông ở quốc gia khác vẫn chủ yếu là đàn ông châu Á. Phụ nữ và trẻ em Việt Nam bị bán sang các nước ở châu Á vì mục đích cưỡng ép tình dục thường bị lừa gạt bởi các cơ hội việc làm giả mạo và bị bán cho các nhà chứa ở biên giới với Campuchia, Trung Quốc và Lào, một số người sau đó bị đưa sang nước thứ ba như Thái Lan và Malaysia. Trẻ em Việt Nam ở các vùng nông thôn bị bóc lột tình dục vì mục đích thương mại, bị buộc phải bán hàng rong trên phố và đi xin ăn ở các thành phố lớn, các em thường là nạn nhân của những đường dây tội phạm có tổ chức, một số trẻ em Việt Nam là nạn nhân của các vụ cưỡng ép lao động và lao động trừ nợ ở các nhà xưởng quy mô gia đình. Việt Nam là đích đến của những khách du lịch tình dục trẻ em, theo báo cáo thì những người này đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Vương quốc Anh, Úc, châu Âu và Hoa Kỳ, tuy nhiên hoạt động này không được cho là sẽ lan rộng. Loại hình thứ hai là cưỡng bức lao động. Việt Nam là nước nguồn của nam giới và phụ nữ di cư sang nước ngoài để làm việc, chủ yếu thông qua các công ty xuất khẩu lao động nhà nước và các công ty xuất khẩu lao động tư nhân chủ yếu ở các nước như Malaysia, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, cũng như ở Thái Lan, Indonesia, Vương quốc Anh, Cộng hòa Séc, Nga và Trung Đông, và một số người đã rơi vào tình trạng bị cưỡng ép lao động. Loại hình thứ ba là trẻ em bị bán đi làm con nuôi; loại hình này dù chưa phổ biế nhưng luôn tiềm tàng và có khả năng gia tăng. 16 | P a g e
- Những loại hình buôn bán người này trước đó chỉ xuất hiện ở một số tỉnh biên giới quốc tế với Trung Quốc và Campuchia. Tuy nhiên, do giao thông ngày càng được cải thiện cùng với các chính sách biên giới mở đặc biệt là sự phát triển của du lịch và thương mại đã khiến hoạt động buôn bán người trở nên phức tạp và có nhiều loại hình đa dạng hơn, xuất hiện ở tất cả các tỉnh thành của Việt Nam. 2.1.3 Các nhóm đối tượng là nạn nhân của buôn bán người Nhiều quan niệm thông thường cho rằng chỉ có phụ nữ trẻ (trong độ tuổi từ 15 đến 35 tuổi) mới là nạn nhân của buôn bán người. Song, trên thực tế, bất kỳ ai cũng có thể trở thành nạn nhân của buôn bán người bao gồm cả phụ nữ, trẻ em và nam giới. Trẻ em đang ngày càng trở thành một nhóm đối tượng dễ bị tổn thương hơn, với những nạn nhân trung bình khoảng 10 tuổi. Nhìn chung cả phụ nữ và trẻ em bị buôn bán đều có trình độ giáo dục ở mức chưa hoàn thành tiểu học hoặc chưa hoàn thành ở cấp độ trung học cơ sở, trung học phổ thông. Bên cạnh đó là sự thiếu hụt các kinh nghiệm sống, các kỹ năng xã hội của các nạn nhân. Phụ nữ và trẻ em bị buôn bán từ Việt Nam thường là người Kinh, tuy nhiên trong nhiều trường hợp là người dân tộc thiểu số. Nhiều ý kiến cho rằng, người dân tộc thiểu số là nhóm người có nguy cơ ít bị buôn bán nhất vì họ sống ở những vùng xa xôi, hẻo lánh, có các hành vi di cư khác biệt, dù như vậy nhưng khi các địa điểm du lịch ngày càng được mở ra nhiều hơn, sự biệt lập về mặt địa lý của các nhóm dân tộc thiểu số cũng sẽ giảm xuống và những thay đổi về kinh tế xã hội sẽ khiến cho nạn nhân buôn bán người thuộc nhóm dân tộc thiểu số sẽ tăng lên. Buôn bán người luôn được hiểu như là một hệ quả của nghèo đói do đại đa số những phụ nữ và trẻ em bị buôn bán đều xuất phát từ các vùng nông thôn và từ các gia đình nông dân nghèo. Cha mẹ thông thường có trình độ học vấn thấp, giáo dục gia đình kém. Nhiều gia đình còn gặp phải những vấn đề như rượu chè, bạo lực, tàn tật, cha mẹ đơn thân, ly dị hoặc có cuộc sống không hạnh phúc. Trong nhiều trường hợp, thì phụ nữ trẻ em đã bị lừa gạt, ép buộc thậm chí bị bắt cóc, tuy nhiên, vẫn có những trường hợp phụ nữ và trẻ em đã đi tự nguyện với mục đích để có thu nhập đỡ đần cho gia đình ở lại quê hương. Phụ nữ bị buôn bán đề kết hôn bất hợp pháp, làm gái mại dâm hoặc làm các công việc giống như nô lệ khác. Buôn bán người làm mại dâm phổ biến nhất ở miền Nam, chủ yếu là buôn bán trẻ em và phụ nữ sang Campuchia. Trẻ em bên cạnh việc bị buôn bán cho ngành công nghiệp tình dục mà còn bị bán để đi ăn xin, làm giúp việc, xây dựng, lao động 17 | P a g e
- trong các doanh nghiệp nhỏ, làm việc trong các hầm mỏ hay trên tàu thuyền đánh cá. Bên cạnh nhiều trường hợp trẻ em bị lừa bán đoi khi cũng có những gia đình bán con cái của chính họ thông qua bọn mối lái để lấy tiền trang trải cuộc sống gia đình. Nạn buôn người hướng tới đối tượng nam giới vẫn chưa được nghiên cứu một cách rõ ràng và hệ thống, tuy nhiên, có những báo cáo và bài báo đã cung cấp thông tin về hình thức tuyển dụng lao động giống như buôn bán người đối với những công nhân tham gia vào các chương trình xuất khẩu lao động. Nhiều nam giới tình nguyện đi lao động ở nước ngoài phải trả một khoản chi phí ban đầu cho các dịch vụ và sau đó được tuyển vào làm việc tại các nhà máy ở nước ngoài. Họ rời khỏi Việt Nam bằng máy bay cùng với các loại giấy tờ hợp pháp trong đó có cả visa ra vào. Tuy nhiên, hầu hết những công nhân này không được hưởng những điều kiện làm việc ghi trong hợp đồng mà họ đã ký, khi họ đến nơi thì công việc thường không như họ mong đợi; thậm chí trong nhiều trường hợp, tiền lương họ được trả cũng không giống số tiền lương đã được ký kết trong hợp đồng. Kết quả là nhiều người trong số họ đã rời bỏ nơi ký kết hợp đồng để đi tìm việc nơi khác. Thế nhưng các giấy tờ hợp pháp của họ lại do công ty nơi mà họ ký kết hợp đồng nắm giữ vì vậy sau đó họ trở thành những người cư trú bất hợp pháp và luôn phải lẩn tránh cảnh sát. Nếu họ bị bắt thì lập tức bị giam giữ và trục xuất. Các công ty xuất khẩu lao động Việt Nam, hầu hết là các công ty nhà nước có thể áp dụng mức phí cao hơn mức phí mà luật pháp quy định, đôi khi người lao động phải trả cho các công ty tuyển dụng mức phí lên đến 10.000 đô-la Mỹ để sang nước ngoài làm việc, họ phải gánh những khoản nợ thuộc loại lớn nhất trong số những công nhân châu Á làm việc tại nước ngoài, khiến họ dễ rơi vào tình trạng bị lao động trừ nợ và lao động cưỡng bức, và khi sang đến nước đến, một vài công nhân mới nhận ra rằng họ bị bắt buộc phải làm việc trong những điều kiện dưới chuẩn, được trả lương rất ít hoặc không được trả lương và không được tiếp cận với kênh trợ giúp pháp lý đáng tin cậy nào. 2.2 Tình hình nạn buôn bán người ở Việt Nam hiện nay 2.2.1. Thực trạng nạn buôn bán người ở Việt Nam Hoạt động buôn bán người đang diễn ra ngày càng đa dạng và phức tạp, nó gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng vì xâm phạm đến những quyền cơ bản của con người như quyền tự do di chuyển, quyền lựa chọn, quyền kiểm soát bản thân Thực trạng buôn bán người có đặc điểm riêng theo từng quốc gia, khu vực. Hình thức phổ biến nhất là buôn bán phụ nữ và trẻ em để bóc lột tình dục. Ngoài ra thì phụ nữ và trẻ em cũng bị buôn bán vì nhiều mục đích khác như cưỡng bức lao động trong các ngành công nghiệp như khách sạn, nhà hàng, công trường xây dựng, lâm nghiệp, khai thác mỏ hoặc nông nghiệp, trong các 18 | P a g e
- công xưởng cùng các hình thức nhận con nuôi bất hợp pháp hay lấy các bộ phận của cơ thể. Nạn buôn người rất phổ biến, là hoạt động thương mại bất hợp pháp và trở thành ngành công nghiệp tội phạm lớn thứ ba trên thế giới sau ma túy và mua bán vũ khí, bọn tội phạm buôn người kiếm được 32 tỉ USD mỗi năm thông qua việc buôn và bán người5. Hậu quả của nạn buôn người rất ghê gớm. Nạn nhân phải hứng chịu những tổn thương về tâm sinh lý nặng nề do bị lạm dụng hãm hiễm, đe dọa, khủng bố gia đình và có thể dẫn đến cái chết. Tác hại của nó không chỉ ảnh hưởng đến cá nhân mà còn ảnh hưởng đến cả môi trường xã hội và an ninh của mỗi quốc gia. Theo Liên Hợp Quốc ước tính, vào năm 2010 có khoảng 2,5 triệu nạn nhân bị buôn bán trên toàn thế giới đa số là châu Á Thái Bình Dương. Theo các con số của ILO được thống kê vào tháng 5 năm 2011, trong số 2,7 triệu nạn nhân bị buôn bán có 80% là phụ nữ và trẻ em gái, 50% nạn nhân là trẻ em chưa đến tuổi vị thành niên, tuổi trung bình của những em gái bị bán làm nô lệ tình dục là khoảng 12 tuổi6. Nếu chỉ tính trong cấp độ khu vực thì trong vài thập kỷ vừa qua ở châu Á đã có khoảng 30 triệu phụ nữ và trẻ em bị buôn bán 7, con số này chỉ tính riêng những người bị buôn bán vì mục đích kết hôn, hay ép buộc làm những công việc rẻ mạt như giúp việc gia đình, làm nông nghiệp hay làm việc trong các nhà máy. Nằm ngay ở trung tâm của tiểu vùng sông Mekong (bao gồm các quốc gia Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanmar, Thailand cùng hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây Trung Quốc), từ đầu những năm 1990. Việt Nam đã trở thành nguồn cung cấp, là trung tâm trung chuyển và ở một mức độ nào đó, là điểm đến của các hoạt động buôn bán người xuyên quốc gia. Mặc dù rất khó để nắm bắt được chính xác quy mô của tình trạng buôn bán người do bản chất phi pháp cũng như những khó khăn trong việc xác định các hoạt động cấu thành của nó nhưng các cơ quan nhà nước và quốc tế vẫn khẳng định rằng nạn buôn người ở Việt Nam (chủ yếu là buôn bán phụ nữ ở trẻ em) rất trầm trọng và ngày một gia tăng. Sự gia tăng nhanh chóng của tệ nạn này có liên quan chặt chẽ tới tốc độ đô thị hóa cũng như quá trình hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế khu vực. Theo ước tính chính thức, đã có hàng chục ngàn phụ nữ và trẻ em bị bán sang Campuchia, Trung Quốc, Hồng Kong, Ma Cao, Đài Loan và các quốc gia khác ở châu Úc, châu Âu và Bắc Mỹ. Trong giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2006, cả nước phát hiện 568 vụ, 993 đối 5The Long View, Human Trafficking 2011, April 5, Nguồn: 6 7 Flamm, M.,2003 "Buôn bán phụ nữ và trẻ em ở Đông Nam Á", Báo cáo của UN 40(2), tr.34-37 19 | P a g e
- tượng phạm tội buôn bán phụ nữ, trẻ em. Trong số 1.518 nạn nhân, số phụ nữ bị lừa bán ở lứa tuổi từ 18 đến 35 chiếm đa số, gồm 511 vụ với 882 đối tượng tham gia .So với năm 2005, số vụ buôn bán phu nữ và trẻ em của năm 2006 được phát hiện nhiều hơn 72%; số đối tượng tăng 89% và số người bị hại tăng 138% 8. Từ năm 1998 đến năm 2007 trên địa cả nước đã xác định được 33 tuyến, 139 địa bàn trọng điểm thường diễn ra hoạt động buôn bán phụ nữ, trẻ em ra nước ngoài; đưa vào diện quản lý 2.048 đối tượng với 654 đối tượng có liên quan, lập danh sách 5.746 phụ nữ trẻ em bị buôn bán ra nước ngoài; 7.940 phụ nữ và trẻ em vắng mặt lâu ngày tại địa phương nghi đã bị bán. Theo báo cáo của chương trình hành động phòng chống tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em giai đoạn giai đoạn 2004-2010 có 4.793 nạn nhân là phụ nữ và trẻ em bị mua bán 9. Đây là số được phát hiện, giải cứu nên chưa phản ánh đúng số nạn nhân của tệ nạn này. Rất nhiều các báo cáo khác cũng cho thấy số lượng mua bán phụ nữ và trẻ em ở mức báo động. Thường trực Ban chỉ đạo 130/CP ra Kế hoạch 38/BCA (2005), Kế hoạch số 61/BCA 92008) chỉ đạo toàn quốc tổng điều tra, rà soát tội phạm và các đối tượng khác có liên quan đến buôn bán người, tình hình nạn nhân là phụ nữ, trẻ em bị buôn bán trở về tái hòa nhập cộng đồng giai đoạn 1998- 2008, qua đó đã lập danh sách 7.035 nạn nhân bị bán ra nước ngoài, 22.000 phụ nữ, trẻ em vắng mặt lâu ngày tại địa phương nghi bị buôn bán, 17.217 trẻ em Việt Nam cho người nước ngoài làm con nuôi, 251.492 phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài10 để xây dựng kế hoạch phòng ngừa và đấu tranh ngăn chăn, kịp thời hỗ trợ nạn nhân bị buôn bán tự trở về, hiện đang ở cộng đồng dân cư. Theo Báo cáo kết quả thực hiện chương trình 130/CP từ năm 2005 đến 2010 có 4.300 phụ nữ trẻ em bị mua bán. Riêng 6 tháng đầu năm 2009 đã xảy ra 191 vụ trong đó có 417 phụ nữ trẻ em bị buôn bán. Cũng theo báo cáo trên cho thấy trong tổng số nạn nhân thì trên 60% nạn nhân buôn bán tự trở về, 19% trở về qua con đường giải cứu, 21% qua con đường trao trả. Trong đó có 60% tổng số vụ mua bán sang Trung Quốc, 11% sang Campuchia, số còn lại sang Lào qua tuyến hàng không, tuyến biển để bán ra một số nước khác. Địa phương xảy ra tình trạng trên nhiều nhất là Hà Giang, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hà 8 Phan Thị Việt Thu, Thực trạng và giải pháp phòng chống tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em, 13/1/2008. Nguồn 9 Phan Thị Việt Thu, Thực trạng và giải pháp phòng chống tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em, 13/1/2008. Nguồn 10 22.000 trẻ em bị bán ra nước ngoài, 22/9/2011. Nguồn: phu-nu-tre-em-nghi-bi-ban-ra-nuoc-ngoai/7031537.epi 20 | P a g e
- Nội, Nghệ An, Lai Châu, Bắc Giang11. Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo Bộ đội Biên phòng phối hợp với lực lượng Công an các địa phương tổ chức điều tra, khảo sát tại địa bàn các tỉnh biên giới giáp Trung Quốc, Campuchia và Lào, qua đó đã xác định 115 xã nội biên có nạn nhân bị buôn bán, 6.678 người (bao gồm phụ nữ, trẻ em và cả nam giới) đi khỏi nơi cư trú không rõ nguyên nhân, trong đó có 4.678 người nghi bị buôn bán, bên cạnh đó xác định 249 cơ sở kinh doanh nhà hàng, khách sạn, vũ trường ở phía ngoại biên đối diện có biểu hiện hoạt động mại dâm và là nơi chứa chấp nạn nhân của bọn tội phạm buôn bán người. Tính đến thời điểm báo cáo (tháng 5/2010) Bộ đội Biên phòng các tỉnh, đã phối hợp với cơ quan chức năng của Trung Quốc, Lào, Campuchia giải cứu 201 nạn nhân, tiếp nhận 718 nạn nhân do các nước trao trả (chủ yếu là Trung Quốc), hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho 240 phụ nữ tự trở về. Hoàn chỉnh thủ tục bàn giao cho phía Trung Quốc 138 trong số 384 người do nước ngoài đẩy về. Tổ chức xác minh 561 trên 780 nạn nhân được giải cứu, xác minh 524 trên 718 nạn nhân được trao trả đảm bảo thời gian và thông tin phục vụ công tác đấu tranh khám phá tội phạm và hỗ trợ nạn nhân12. Hoạt động buôn bán phụ nữ trẻ em tập trung chủ yếu ở địa bàn biện giới. Trong số các vụ việc bị phát hiện, ở biên giới Việt – Trung là 50% còn biên giới Việt – Campuchia là khoảng 10%13. Hầu hết phụ nữ bị bán làm gái mại dâm tại các nước Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia, Singapore, Malaysia thậm chí sang một số nước châu Âu như CHLB Đức, CH Séc Theo báo cáo của các cơ quan đại diện của Việt Nam tại nước ngoài, trong 5 năm (từ năm 2005 đến 2010), các cơ quan đại diện ngoại giao đã tiến hành trực tiếp phỏng vấn và làm các thủ tục cần thiết, cấp giấy phép thông hành và hỗ trợ hồi hương cho trên 500 nạn nhân bị buôn bán về nước, trong đó nhiều nhất là Nam Ninh - Trung Quốc (157 người), Malayxia (120 người), Campuchia (73 người)14 Những người này được giải cứu qua những đợt truy quét tệ nạn của các cơ quan chức năng sở tại, qua thông tin do các cơ quan 11 Tuyển tập báo cáo sinh viên nghiên cứu Đà Năng 2010, tr.411-412 12 Phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em. Nguồn: va-giai-phap/language/vi-VN/Default.aspx 13 Phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em. Nguồn: 14 Phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em. Nguồn: 21 | P a g e
- trong nước cung cấp hoặc tự đến Cơ quan đại diện nhờ giúp đỡ. Theo báo cáo của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố, tính đến tháng 5/2010 số nạn nhân là phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nước ngoài trở về là 3.190 trường hợp, trong số đó 60% nạn nhân tự trở về, 25% được giải cứu, 15% tiếp nhận chính thức. Trong số 3.190 nạn nhân trở về có 2.532 nạn nhân được hỗ trợ tâm lý, khám sức khỏe và cung cấp thông tin, chính sách hỗ trợ; có 1.037 trường hợp nạn nhân nhận được kinh phí hỗ trợ tái hoà nhập cộng đồng và hỗ trợ học nghề từ nguồn ngân sách của nhà nước 15, các trường hợp còn lại đang trong quá trình làm các thủ tục chi hỗ trợ, ngoài ra còn có các trường hợp nạn nhân không muốn nhận sự hỗ trợ từ nhà nước. Những con số trên cho thấy rằng, buôn bán người đang ngày càng phức tạp. Buôn bán người luôn được hiểu như là một hệ quả của nghèo đói do những nạn nhân bị buôn bán đều xuất thân từ các vùng nông thôn và từ các gia đình nông dân nghèo, cha mẹ thường có trình độ học vấn rất thấp, giáo dục gia đình kém, hay có những vấn đề xã hội như rượu, chè, bạo lực gia đình, khuyết tật, cha mẹ đơn thân, ly dị hoặc có cuộc sống không hạnh phúc. Nạn nhân của buôn bán người vì thế không đơn thuần chỉ là những phụ nữ trẻ mà nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng trường hợp bị bán thường là những phụ nữ ở trong độ tuổi từ 15 cho đến 35 tuổi16, và bất kỳ ai cũng có thể bị buôn bán. Trẻ em đang ngày càng trở thành một nhóm đối tượng dễ bị tổn thương hơn, độ tuổi trung bình của trẻ em bị buôn bán là 10 tuổi17. Chủ yếu trẻ em bị buôn bán là các bé gái nhưng trong một số trường hợp lại là bé trai. Nhìn chung phụ nữ và trẻ em bị buôn bán đều không có trình độ giáo dục cao, chưa học hết tiểu học hoặc phổ thông cơ sở, thiếu hụt các kinh nghiệm sống và các kỹ năng xã hội. Bên cạnh nhóm nạn nhân thuộc dân tộc đa số (dân tộc Kinh) ở Việt Nam thì cũng có một số lượng lớn các đồn bào dân tộc thiểu số ở các vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa. Đây là nhóm có nguy cơ bị buôn bán cao nhất vì họ ở những nơi hẻo lánh, biệt lập về địa lý, trình độ kinh tế, xã hội thấp kém. Nam giới cũng là một đối tượng bị mua bán dù chưa có nhiều công trình nghiên cứu cụ thể về đối tượng này. Họ bị bán dưới hình thức tuyển dụng lao 15 Tổng kết 5 năm thực hiện đề án 3 chương trình 130/CP (2005-2010). Nguồn: 16Lê Bạch Dương, Khuất Thu Hồng, Viện nghiên cứu phát triển xã hội, Di dân và Bảo trợ xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ sang kinh tế thị trường(2008), NXB Thế giới, tr.209 17 Lê Bạch Dương, Khuất Thu Hồng, Viện nghiên cứu phát triển xã hội, Di dân và Bảo trợ xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ sang kinh tế thị trường(2008), NXB Thế giới, tr.209 22 | P a g e
- động xuất khẩu ra nước ngoài. 2.2.2. Nguyên nhân buôn bán người Trẻ em, phụ nữ thậm chí là nam giới bị buôn bán vì nhiều mục đích khác nhau như làm gái mại dâm và kết hôn (hợp pháp và bất hợp pháp), làm nô lệ tình dục, giúp việc, ăn xin, làm việc trong các nhà máy, khu công nghiệp, hầm mỏ, tàu thuyền đánh cá thậm chí buôn bán trẻ em để làm con nuôi. Trong nhiều trường hợp, phụ nữ và trẻ em bị lừa gạt, ép buộc, thậm chí bị bắt cóc. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp phụ nữ hay trẻ em ra đi tự nguyện với mục đích là để có thu nhập đỡ đần cho gia đình ở quê hương. Một trong những bước ban đầu cần làm nhằm ngăn chặn buôn bán người là xem xét những nguyên nhân của nó. Như bất kỳ hành vi phạm tội có tổ chức nào, Buôn bán người xảy ra do nhiều nguyên nhân, thường là kết hợp. Những nguyên nhân này có thể được phân loại theo một vài tiêu chí. Ở đây, chúng tôi xin phân chia làm nguyên nhân trực tiếp, nguyên nhân tiềm ẩn và nguyên nhân sâu xa. Nguyên nhân trực tiếp liên quan đến những quyết định của cá nhân hay của gia đình họ do bị ảnh hưởng bởi mong ước có cuộc sống tốt hơn, tìm kiếm các cơ hội việc làm, và những vấn đề cá nhân như rượu chè và nghiện ma tuý. Bản thân nạn nhân của buôn bán người là chủ động tìm con đường thay đổi cuộc đời, kiếm kế sinh nhai. Không ít trường hợp cha mẹ hay gia đình bán con gái cho các chủ nhà chứa thông qua bọn mối lái. Rất nhiều trẻ em bị bán là con gái lớn hoặc con thứ hai trong các gia đình, và các em đều phải gánh trách nhiệm kinh tế nặng nề. Lòng hiếu thảo với cha mẹ thường được xem là động lực khiến nhiều phụ nữ và trẻ em dấn thân vào con đường làm gái mại dâm. Nguyên nhân tiềm ẩn là những điều kiện ảnh hưởng đến những quyết định cá nhân như bạo lực gia đình, nhu cầu có các dịch vụ nhất định và các hình thức lao độngMột số khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, đời sống nhân dân còn rất khó khăn, dân trí thấp, nhiều phụ nữ, trẻ em và gia đình họ ở trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, bị lôi cuốn vào quá trình tìm kiếm công việc làm ở đô thị hay ở nước ngoài. Buôn bán người luôn được hiểu như là một hệ quả của nghèo đói do đại đa số những phụ nữ và trẻ em đều xuất phát thân từ các vùng nông thôn và từ các gia đình nông dân nghèo. Cha mẹ thông thường có trình độ học vấn thấp; giáo dục gia đình kém. Nhiều gia đình còn gặp phải những vấn đề như rượu chè, bạo lực, tàn tật, cha mẹ đơn thân, ly dị hoặc có cuộc sống không hạnh phúc. Dân trí thấp, không hiểu biết, điều kiện kinh tế khó khăn khiến các nạn nhân dễ bị dụ dỗ, lôi kéo và bán ra nước ngoài. 23 | P a g e
- Nguyên nhân trực tiếp và tiềm ẩn có mối quan hệ chặt chẽ với mô hình kinh tế cung- cầu toàn cầu, nơi các cá nhân đáp ứng nhu cầu về tình dục thương mại như mãi dâm và khiêu dâm, và lao động không hợp pháp trong những khu vực như nhà máy, mỏ than, nhà hàng và chợ phố, và mua bán các bộ phận cơ thể. Nhu cầu đó tăng tỷ lệ với sự phát triển của hầu hết các ngành công nghiệp trên thế giới. Nguyên nhân sâu xa có liên quan đến nhân tố kinh tế-xã hội như nghèo đói, thiếu cơ hội học tập và vịêc làm, phân biệt đối xử, và bất bình đẳng giới. Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, nhiều mâu thuẫn trong đời sống kinh tế - xã hội nảy sinh, nhất là phân hoá giàu nghèo, tình trạng thất nghiệp. Do tác động ảnh hưởng của nhiều yếu tố xấu như các luồng văn hoá độc hại, các tệ nạn xã hội như mại dâm, ma tuý trong nước và khu vực; bọn tội phạm trong nước móc nối với tội phạm người nước ngoài khai thác lợi dụng các điều kiện này để hoạt động phạm tội. Chính điều này đã khiến các cá nhân trở thành nạn nhân của buôn bán người. Ngoài ra, những nguyên nhân sâu xa còn do hệ thống bảo vệ xã hội và pháp lý yếu kém cũng như nền chính trị không ổn định được thể hiện rõ qua chế độ độc tài, tham nhũng hay những xung đột vũ trang. Trên mức độ quốc tế, việc thất bại để nhận dạng, khởi tố và kết án bọn buôn người cũng như những yếu kém trong hệ thống bảo vệ biên giới quốc tế và thiếu chứng cứ pháp lý là những tác nhân có lợi cho sự gia tăng của buôn bán người. Cuối cùng, mặc dù các chiến lược thông tin về Buôn bán người được phổ biến rộng rãi nhưng cộng đồng vẫn chưa có đầy đủ nhận thức về hiện tượng này. Do các nhân tố này, những nạn nhân tiềm năng không có khả năng bảo vệ chính mình và tiếp tục “tiêu thụ” sản phẩm và hưởng thụ các dịch vụ được cung cấp thông qua các hoạt động liên quan đến buôn bán người. Những cán bộ làm công tác phòng chống buôn bán người còn nhiều thiếu sót. Nhận thức về tính nghiêm trọng, sự cần thiết và trách nhiệm phải tăng cường phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em ở nhiều cấp uỷ Đảng, chính quyền, Ban ngành, đoàn thể còn hạn chế. Công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em chưa được triển khai một cách toàn diện, đồng bộ; sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng thiếu chặt chẽ, cơ chế tổ chức bộ máy thực hiện chưa đáp ứng yêu cầu phòng chống tội phạm buôn bán người. Công tác truyền thông nâng cao nhận thức về buôn bán người và các hành vi lợi dụng buôn bán người chưa sâu sắc triệt để, hệ thống giúp đỡ các nạn nhân buôn bán người còn chưa được mở rộng. Đó là những nguyên nhân chính khiến cho nhiều người trở thành nạn nhân của buôn bán người. 24 | P a g e
- 2.2.3. Hậu quả của nạn buôn bán người ở Việt Nam Dù không thể thống kê toàn bộ về quy mô và thực trạng của nạn buôn bán người nhưng đều có một sự nhất trí chung về ảnh hưởng cũng như những hậu quả của nó đối với các quốc gia trên thế giới, vì đây được coi là vấn nạn toàn cầu. Buôn bán người để lại hậu quả đa chiều nghiêm trọng. -Đối với bản thân nạn nhân Một là, ảnh hưởng đối về mặt sức khỏe, một phần trăm lớn các nạn nhân bị buôn bán được cứu thoát (đặc biệt là các nạn nhân bị bán làm việc trong ngành công nghiệp tình dục) bị nhiễm HIV/AIDS, cũng như các bệnh lây truyền qua đường tình dục và bệnh lao. Những ảnh hưởng về mặt sức khỏe với nạn nhân có thể là do những hành động bạo lực dã man làm gãy xương, mất khả năng nhận thức. Những biến chứng liên quan đến việc phá thai, các vấn đề về dạ dày, sút cân, chấy rận, sự phiền muộn dẫn đến muốn tự sát, nghiện rượu và nghiện ma túy. Đa số nạn nhân đã bị tấn công bằng bạo lực hoặc bị cưỡng bức quan hệ tình dục và phần lớn trong số đó gặp phải sự mệt mỏi, có các triệu chứng về thần kinh, các vấn đề về dạy dày, đau lưng, chảy mủ âm đạo, các bệnh truyền nhiễm phụ khoa, ung thư cổ tử cung Bên cạnh những tổn thương về mặt thể chất, buôn bán người còn gây ra cho nạn nhân những tổn thương nghiêm trọng về tâm lý, phát triển lệch lạc về nhận thức và thường để lại những di chứng vĩnh viễn lâu dài. Việc phục hồi từ các chấn thương, nếu có cũng phải mất cả đời. Buôn bán người vi phạm quyền của con người của nạn nhân một cách nghiêm trọng như quyền được sống, quyền tự do và quyền được giải phóng khỏi mọi hình thức nô lệ. Buôn bán trẻ em vi phạm quyền thiêng liêng của trẻ em được lớn lên trong một môi trường được bảo vệ và quyền không bị lạm dụng hay bóc lột dưới bất cứ hình thức nào. Bên cạnh đó, những nạn nhân trở về được với cộng đồng thường bị bêu riếu hoặc tẩy chay, khó hòa nhập với cộng đồng, khó kiếm được kế sinh nhai bền vững. - Đối với gia đình nạn nhân và xã hội: Một là, buôn bán người dẫn đến nguy cơ phá vỡ cấu trúc gia đình – tế bào của xã hội. Cuộc sống hôn nhân của các cặp vợ chồng bị buôn bán cũng không được hạnh phúc và bền vững. Sự thất bại của những người đi xuất khẩu bị buôn bán gây lại hậu quả nặng nề cho gia đình. Gia đình bị khủng hoảng, nhà vợ ép ly dị do nợ nần. Ảnh hưởng đến con cái của nạn nhân bị buôn bán. Tình trạng chia cắt lâu dài của cha mẹ và con cái mang lại rất nhiều vấn đề, nghiêm trọng nhất là vấn đề tinh thần và tâm lý. Khiến trẻ em không nhận được sự giáo 25 | P a g e
- dục và yêu thương, chăm sóc đầy đủ từ cha mẹ của mình, điều này ảnh hưởng tới sự phát triển thể chất, tâm sinh lý của đứa trẻ. Đứa trẻ lớn lên trong sự thiếu thốn, khi lớn lên có nhiều nguy cơ mắc phải nhiều bệnh tật, tham gia vào tệ nạn xã hội Hai là, lợi nhuận từ việc buôn người khiến cho tệ nạn này bén rễ ở một cộng đồng nhất định và cộng đồng này sau đó lại bị khai thác nhiều lần như một nguồn cung cấp nạn nhân. Nguy cơ trở thành nạn nhân của bọn buôn người khiến các nhóm dễ trở thành nận nhân như phụ nữ và trẻ em phải trốn đi làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc học hành và cơ chế gia đình họ. Thất học khiến cơ hội phát triển kinh tế trong tương lai của nạn nhân giảm đi và làm tăng nguy cơ họ bị tiếp tục buôn bán. Mặt khác, nạn buôn người làm gia tăng hệ thống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Những nơi mà có tội phạm có tổ chức phát triển thì chính phủ và luật pháp trở nên yếu kém và mất tác dụng. Tiếp đó nó làm suy yếu nguồn vốn con người của các quốc gia và kìm hãm sự phát triển của quốc gia đó. Do vậy, các quốc gia trên thế giới cần phải thúc đẩy sự hợp tác cao độ trong việc phòng chống nạn buôn bán người. Tóm tắt bài học: 26 | P a g e
- BÀI 2 NHỮNG VẤN ĐỀ GẶP PHẢI VÀ NHU CẦU CỦA NGƯỜI DI CƯ VÀ NẠN NHÂN CỦA BUÔN BÁN NGƯỜI (Thời gian: 12 tiết) 1. Những vấn đề gặp phải và nhu cầu của người di cư 1.1 Những vấn đề gặp phải của người di cư Như chúng ta đã biết, có nhiều loại hình di cư khác nhau, theo đó những khó khăn gặp phải của người di cư cũng sẽ có sự khác biệt. Tuy nhiên, loại hình di cư phổ biến nhất ở Việt Nam là di cư nông thôn – đô thị, chiếm 53% trong tổng số các cuộc di cư, chủ yếu là di cư tới Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh 18. Nhìn chung, có thể khái quát những vấn đề gặp phải của người di cư trên một số phương diện như sau: 1.1.1 Khó khăn về cư trú Theo kết quả điều tra di cư Việt Nam năm 2004, vấn đề nhà ở được cho là khó khăn lớn nhất của người di cư khi chuyển tới một địa bàn mới (60,3%) 19. 65% người di cư đang sống trong những ngôi nhà tạm, hơn 55% sống trong nhà trọ hoặc nhà cho thuê20. Cũng theo điều tra những người di cư ở ba thành phố lớn là Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh năm 2004, có tới 64% người di cư trong mẫu nghiên cứu sống tại các khu nhà trọ dành chủ yếu cho người di cư; 29,2% sống ngay tại nơi làm việc và chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ sống cùng họ hàng hoặc sống tại nhà riêng 21. Một điều rõ ràng là những người di cư đang phải sống trong những điều kiện dưới mức tối thiểu. Chẳng hạn, nhà trọ thường chỉ là phòng phụ trong các căn nhà mà chủ nhà cho thuê theo ngày. Một số khác thì ngủ ở bất kỳ nơi nào như trong công viên, dưới gầm cầu, trên vỉa hè Với những nhóm thợ xây dựng, việc sống ngay tại 18 TS. Lê Bạch Dương, Đổi mới, bảo trợ xã hội và di cư nông thôn ra thành thị, Kỷ yếu hội thảo “Di dân và nhu cầu bảo trợ xã hội của người di dân ở Việt Nam”, trang 11 19 Tổng cục Thống kê, UNFPA, chất lượng cuộc sống của người di cư ở Việt Nam, trang 24 20 UNFPA, Di cư trong nước: Hiện trạng ở Việt Nam, HN, 2007, trang 16 21 TS. Lê Bạch Dương, Đổi mới, bảo trợ xã hội và di cư nông thôn ra thành thị, trang 21 27 | P a g e
- nơi làm việc là một phương án thuận tiện và kinh tế nhất bởi vì họ không phải trả tiền thuê nhà. Đi liền với khó khăn này là những vấn đề liên quan tới thiếu nước, điện, ăn uống không đảm bảo, mất vệ sinh. Người di cư thường ít được sử dụng nước sạch và không có điều kiện vệ sinh tốt như người không di cư. Những người di cư sống ngay tại nơi làm việc dựng chỗ ngủ tạm, mua thức ăn và những vật dụng cần thiết từ những người bán hàng rong. Trong nhóm di cư, những người lớn tuổi và những người không có trình độ học vấn hoặc trình độ học vấn thấp thường lo lắng về vấn đề nhà ở, điện, nước nhiều hơn so với những người trẻ tuổi và những người có trình độ học vấn cao. Bởi lẽ do trình độ học vấn thấp, không có tay nghề, người di cư chủ yếu làm những công việc chân tay nên nguồn thu nhập của họ khá ít ỏi, trong khi còn phải tiết kiệm chi phí để gửi về gia đình ở quê nên họ chí có thể bỏ ra một phần thu nhập ít ỏi cho nơi ở của mình, hoặc nếu không thì không phải chi trả là tốt nhất. Do vậy, điều kiện sống cơ bản của họ thường không được đảm bảo. Trong khi đó tiếp cận điện, nước dường như là vấn đề nhỏ với nhiều người có trình độ học vấn cao do họ có khả năng huy động những nguồn lực cần thiết, họ hiểu về các th ủ tục, đơn từ xin cấp điện, nước tốt hơn, do họ có công việc tốt hơn và vì vậy được sống ở những khu nhà tốt hơn. Như vậy, vấn đề rất lớn mà người di cư gặp phải là cuộc sống tạm bợ, điều kiện ăn ở thiếu thốn, thiếu vệ sinh. Trong nhóm người di cư này, những trẻ em lang thang đường phố hay di cư cùng cha mẹ cũng ở trong tình trạng tương tự. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển của các em. 1.1.2. Khó khăn về việc làm và thu nhập Tình trạng phát triển không đồng đều, chênh lệch về thu nhập và mức sống là những nhân tố chủ yếu thúc đẩy việc di cư từ nông thôn ra thành thị. Thành phố mang lại nhiều cơ hội việc làm phong phú hơn, cũng như mức thu nhập cao hơn nhiều những gì người di cư có thể kiếm được ở quê nhà. Tuy nhiên, đối với người di cư nói chung, quá trình để họ hòa nhập vào nền kinh tế đô thị không hoàn toàn là dễ dàng khi hầu hết bị “mắc kẹt” trong bẫy đói nghèo thành phố do chỉ có thể kiếm được công ăn việc làm bấp bênh với thu nhập thấp. Khó khăn về thu nhập và việc làm là khó khăn mà phần lớn người di cư gặp phải và là khó khăn chủ yếu nhất của họ. Khi đến nơi ở mới, người di cư tuy không mất nhiều thời gian để tìm kiếm việc làm, nhưng công việc của họ phần lớn là thu nhập thấp, không ổn định. 28 | P a g e
- Theo kết quả Điều tra Di cư Việt Nam năm 2004, đối với những người di chuyển để tìm việc, khoảng 9/10 người tìm được việc trong tháng đầu tiên sau khi chuyển đến và ¼ có được việc làm trong tuần đầu tiên. Tuy nhiên từ thời điểm đó cho đến nay, chắc chắn việc tìm được việc làm không còn dễ dàng như vậy, đặc biệt tại các thành phố lớn. Theo điều tra của Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội (ISDS) tiến hành với 917 người tại TP Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đà Nẵng, 45,4% người di cư gặp khó khăn về việc làm do thu nhập thấp (45,4%) và đây là khó khăn chính (21,7%), do thu nhập không ổn định (37,3%) và là khó khăn chính xếp vị trí thứ hai (14,8%). 27,4% gặp vấn đề về công việc không ổn định và 25% không thể tìm được việc 22. 22,9% là tỷ lệ khó khăn mà người di cư gặp phải sau khi chuyển đến về không tìm được việc làm theo kết quả Điều tra Di cư Việt Nam năm 2004. Đây là khó khăn xếp vị trí thứ ba sau khó khăn về điện, nước của người di cư sau khi chuyển đến. Do đó, tìm kiếm việc làm phù hợp là khó khăn đầu tiên vì người lao động thường thiếu vốn, trình độ chuyên môn tay nghề hạn chế. Đa số những người di cư tìm việc làm có học vấn thấp, ít hoặc chưa được đào tạo về chuyên môn, nghề nghiệp. Vì vậy, những công việc họ kiếm được ở thành phố phần lớn là bấp bênh, thu nhập thấp và không ổn định, nơi làm việc không an toàn, mất vệ sinh. Khoảng 53% số người di cư không có thu nhập hàng tháng ổn định và đó là một trong những nguyên nhân kinh tế của tình trạng dễ bị tổn thương của họ. Nhưng bất chấp thu nhập thấp và không ổn định, người di cư vẫn phải chu cấp cho gia đình, ở quê hay đã theo họ ra thành phố. Một khi việc gửi tiền chu cấp cho gia đình đã trở thành một nhiệm vụ bắt buộc thì những người di cư này lại càng lâm vào tình cảnh nợ nần và phải mạo hiểm. Thêm vào đó, họ phải chịu áp lực từ mối quan hệ giữa người lao động và sử dụng lao động cũng như phải cạnh tranh khắc nghiệt giữa những người cùng có nhu cầu tìm việc làm. Theo điều tra chọn mẫu tại 4 tỉnh: Thái Bình, Tiền Giang, Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh về ảnh hưởng của di cư nông thôn – thành thị tại các địa phương đi và địa phương đến năm 2008 của ISDS, cơ cấu nghề nghiệp của người di cư như sau: 22 TS. Lê Bạch Dương, Đổi mới, bảo trợ xã hội và di cư nông thôn ra thành thị, Kỷ yếu hội thảo “Di dân và nhu cầu bảo trợ xã hội của người di dân ở Việt Nam”, trang 20 29 | P a g e
- Hình: Cơ cấu nghề nghiệp của người di cư (Nguồn: Lê Bạch Dương, Nguyễn Thanh Liêm - Viện Nghiên cứu phát triển xã hội, Từ nông thôn ra thành phố - Tác động kinh tế - xã hội của di cư ở Việt Nam) Công việc có số người di cư tham gia nhiều nhất là làm trong các nhà máy, xí nghiệp, lao động tay chân thuê mướn hàng ngày, dịch vụ tư nhân. Cụ thê đối với nhóm làm việc tại các nhà máy, trên 50% làm việc trong các công ty may mặc và giày dép, máy móc và điện tử chiếm 20%, chế biến thực phẩm và hàng hóa đông lạnh chiếm 10%, số còn lại tham gia sản xuất hàng hóa như đồ nhựa, đồ gỗ, Hầu hết công nhân làm việc trên dây chuyền sản xuất là nữ giới. Mặc dù tính chọn lọc của di cư đảm bảo là các gia đình nông thôn lựa chọn những thành viên có tiềm năng lao động cao nhất để lên làm việc ở thành phố, vốn, nhân lực của những người di cư vẫn ở mức thấp, tạo ra những rào cản cho việc tiếp cận những việc làm có thu nhập cao hơn. Hơn nửa một số người di cư trong nghiên cứu trên chỉ có thể kiếm những việc làm ở khu vực kinh tế phi chính thức. Cụ thể là có trên 1% thợ xây dựng tổ chức theo nhóm nhỏ hoặc do một nhà thầu tư nhân phụ trách, đầu bếp, bồi bàn hay người lau dọn tại nhà hàng (trên 10%), cửu vạn hoặc các loại hình lao động chân tay (13%), số còn lại làm xe ôm, người giúp việc, bảo vệ Một tỷ lệ đáng kể người di cư phải làm các công việc nặng nhọc (xây dựng, bốc vác) và các công việc ngoài trời (công trường xây dựng, chợ trời, 30 | P a g e
- trên đường phố). Như vậy tình trạng phổ biến là người di cư không có lựa chọn nào khác ngoài các công việc gọi là 3K (khó khăn, không sạch sẽ và không an toàn). Như vậy với nhóm lao động tự do tức là tự tạo việc làm, không phụ thuộc vào người khác, họ có nguy cơ bị mại chỗ mất vốn, mất lãi, phải cạnh tranh khắc nghiệt giữa những người có cùng nhu cầu việc làm. Còn đối với nhóm lao động phụ thuộc, tức người lao động làm việc dưới sự điều hành, quản lý của người khác, tình trạng công việc của họ không ổn định, phụ thuộc vào các đơn đặt hàng, ngày có, ngày không (VD: khuân vác, phụ hồ ); họ phải phụ thuộc vào chủ, tính chất làm công ăn lương, thu nhập thường thấp hơn những người ở tại chỗ cùng làm một công việc và có nguy cơ bị chủ ép làm thêm giờ, thêm việc, bị trả lương chậm hoặc không đủ, bị xúc phạm danh dự và nhân phẩm. Đặc biệt, trẻ em cũng là một đối tượng di cư, các em thường phải tham gia lao động sớm, làm các công việc nặng nhọc, giúp việc, rửa bát, phục vụ cửa hàng, mua bán phế thải vụn, đánh giầy, bán xổ số, bán hàng rong và các em là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi, khó khăn nhất về việc làm như bị trả lương thấp hơn, bị bóc lột sức lao động, 1.1.3. Khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội Không chỉ phải sống trong điều kiện không ổn định, người di cư còn không được hưởng lợi từ bất kỳ một chính sách xã hội đặc biệt nào, không có công đoàn, không được hưởng bảo hiểm y tế và cũng không được hưởng bảo hiểm xã hội. Khi di cư, do không đăng ký hộ khẩu và phần lớn không đăng ký tạm trú, tạm vắng với nơi đến nên người di cư không được hưởng những chính sách xã hội, phúc lợi xã hội. Cơ hội tiếp cận với các dịch vụ y tế, giáo dục rất hạn chế, không đảm bảo được an ninh. Nếu theo Luật Lao động, những người công nhân làm việc được trả lương phải có hợp đồng lao động với chủ sử dụng lao động, tuy nhiên theo kết quả nghiên cứu của ISDS 23 chỉ có 36% người lao động may mắn có hợp đồng lao động, còn lại đối với những người tự doanh hay lao động tay chân trong khu vực kinh tế phi chính thức thì không có hợp đồng lao động. Nhưng một điều đáng lưu ý là chủ lao động rất hạn chế trong việc cung cấp bảo trợ cần thiết cho công nhân. Kết quả điều tra cho thấy có đến 38% công nhân có việc làm nhưng không nhận được bất kỳ sự hỗ trợ nào từ phía chủ sử dụng lao động. Mặc dù người lao động di cư phải làm những công việc khó khăn, nặng nhọc nhưng họ không nhận được bất kỳ một sự bảo trợ xã hội nào như chăm sóc sức khỏe hay bảo hiểm. 23 TS. Lê Bạch Dương, Đổi mới, bảo trợ xã hội và di cư nông thôn ra thành thị, trang 24 31 | P a g e
- Hơn nữa với nguồn thu nhập thấp, do vậy khả năng tiếp cận với các dịch vụ y tế của họ gặp rất nhiều khó khăn. Đây là mối quan tâm và khó khăn gặp phải của tất cả người di cư. Đối với những người di cư có con cái thì vấn đề khó khăn rất lớn họ gặp phải là không có trường học cho con. Muốn cho con học trường công, họ phải có hộ khẩu nhưng điều này là không thể. Còn nếu muốn học trường tư thì khả năng kinh tế của họ rất khó đảm bảo cho con theo học được. Như vậy, trong quá trình di cư, trẻ em là một trong những nhóm đối tượng gặp nhiều khó khăn và rất dễ bị tổn thương. Khi cha mẹ, những người bảo trợ cho các em bị hạn chế các cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội, bảo trợ xã hội thì bản thân các em là người chịu ảnh hưởng trực tiếp vì liên quan đến cơ hội chăm sóc sức khỏe, cơ hội học tập, cơ hội tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí. Với khó khăn trong việc đăng ký hộ khẩu, hệ lụy tiếp theo của người di cư là họ khó có cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn để thực hiện công việc của mình. Theo điều tra di cư 2004, 60% người di cư trong độ tuổi 35 – 39 cho biết gặp khó khăn khi tiếp cận vốn và đây là một vấn đề cấp bách bởi nhu cầu tiền bạc của họ lớn hơn do họ có nhiều nhân khẩu ăn theo. Hơn nữa, khi trình độ học vấn không cao, không có khả năng tìm được việc làm nhiều tiền, họ không có đủ thế chấp vay nợ và quan trọng là không có đủ thông tin cần thiết để tiếp cận vốn vay thông qua các kênh chính thức. 1.1.4. Những khó khăn về pháp lý Hiện nay, mặc dù việc đăng ký hộ khẩu đã được tạo điều kiện thuận lợi hơn trước rất nhiều. Khi người di cư có thời gian sinh sống ở nơi đến trong thời gian liên tục, có công việc làm ổn định, có chỗ ở cố định trong một thời gian, họ có thể được đăng ký hộ khẩu. Tuy nhiên, đó chỉ là với những người có nhu cầu chuyển hẳn tới định cư tại nơi đến. Còn phần lớn những người di cư là di cư lao động, di cư tạm thời, do vậy họ vẫn giữ hộ khẩu thường trú tại quê hương và không có hộ khẩu tại nơi đến. Chính điều này đã gây khó khăn rất nhiều cho cuộc sống của họ. Đối với những người di cư thực hiện lao động tự do, họ không chịu sự ràng buộc quản lý nơi cư trú, không tham gia vào một tổ chức/hội nghề nghiệp nên có nguy cơ bị xâm hại cơ thể, tính mạng, tài sản và không có sự bảo trợ xã hội. Khi không có hộ khẩu thường trú, họ gặp phải các khó khăn liên quan đến việc mua đất, mua nhà, việc học hành của con cái, tiếp cận cơ sở y tế, đăng ký bảo hiểm y tế, vay vốn, 32 | P a g e
- cấp đất, đăng ký ô tô, xe máy, đăng ký kinh doanh Đây là những khó khăn về mặt pháp lý mà họ phải đối mặt khi di cư. 1.1.5. Nguy cơ về sức khỏe (thể chất, tinh thần) Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng người di cư ngày càng dễ bị tổn thương về sức khỏe do họ thường phải sống và làm việc trong những điều kiện không được đảm bảo. Với áp lực phải tiết kiệm tối đa mọi chi phí về nơi cư trú, ăn ở, sinh hoạt để giành tiền tiết kiệm gửi về cho gia đình ở quê và điều này đã tác động tiêu cực đến sức khỏe của họ. Đối với những người lao động tự do, nghề nghiệp không theo thời gian biểu nhất định, cường độ lao động thất thường, nhiều khi quá sức nên ảnh hưởng rất lớn tới sức khỏe (ốm đau, nhiễm bệnh ) Khi gia đình có con cái đi di cư, khi đó trẻ em chủ yếu là lang thang đường phố để kiếm sống gửi về cho bố mẹ, anh chị em ở quê. Tình trạng sức khỏe của các em cũng bị ảnh hưởng rất nhiều do điều kiện sống và làm việc khắc nghiệt. Trong quá trình di cư, tình trạng sức khỏe của nam giới thường xấu hơn so với phụ nữ. Sự suy giảm sức khỏe quan sát được ở nam giới sau khi di cư thường ở mức độ cao hơn so với phụ nữ. Điều này có thể lý giải một phần là do hậu quả của việc lơ là, không quan tâm đến sức khỏe qua những hành vi như uống rượu, hút thuốc, quan hệ tình dục ít được bảo vệ, phản ánh vấn đề tinh thần khi người di cư sống xa nhà, ảnh hưởng của ô nhiễm, điều kiện sống và làm việc không tốt. Các công việc như phụ hồ, bốc vác đòi hỏi phải thức khuya, dậy sớm liên tục hoặc tăng cường độ lao động, do đó có thể dẫn tới bị quá sức, ốm đau, bệnh tật, tai nạn nghề nghiệp. Vì vậy, nguy cơ mắc bệnh lao, phổi, các bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS là rất rõ ràng ở những người di cư. Các nghiên cứu đã chứng minh tình trạng xa gia đình và cô đơn do di cư thường khiến người di cư tìm đến các dịch vụ mại dâm, các mối quan hệ tình dục ngoài hôn nhân, trong khi đó tỷ lệ sử dụng bao cao su của người di cư rất thấp và hậu quả là người di cư rất dễ bị nhiễm HIV/AIDS. Do đó khi những người di cư trở về quê nhà, họ có khả năng làm lây truyền cho vợ, bạn tình, thậm chí một cách gián tiếp có thể làm lây truyền sang cả con cái. Hơn nữa, do khả năng tiếp cận với các dịch vụ y tế hạn chế do không có bảo hiểm y tế và chi phí khám chữa bệnh cao nên người di cư ít sử dụng tới các dịch vụ y tế mà chủ yếu tự chữa trị bệnh khi đau ốm. Theo kết quả nghiên cứu của ISDS, 76% nữ giới và 70% nam giới di cư tự chữa bệnh và thực tế cho thấy hiện không có bất cứ một cơ chế nào bảo vệ sức khỏe của người di cư. Họ phải đối mặt với vấn đề sức khỏe và tự xoay sở từ thu nhập ít ỏi kiếm dược từ những công việc bấp bênh, không ổn định. 33 | P a g e
- Như vậy hiển nhiên những người di cư là những người rất dễ ốm đau và mắc bệnh do không được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe phù hợp và kịp thời. Do đó, trong bối cảnh các dịch vụ y tế tự trả tiền ngày càng nhiều thì đương nhiên người di cư, nhất là trẻ em càng dễ gặp rủi ro và tổn thương về sức khỏe. Liên quan đến những nguy cơ về sức khỏe, một vấn đề gặp phải của người di cư chính là nguy cơ bị bạo lực về thể chất, tinh thần và tình dục. Họ có nguy cơ bị bạo lực từ chính những người sử dụng lao động hay những thế lực xã hội đen, hoặc từ chính những người dân sở tại khi cùng cạnh tranh một công việc. Bên cạnh những nguy cơ về sức khỏe thể chất, những khó khăn về tâm lý của người di cư cũng khá lớn. Vấn đề đầu tiên gặp phải là nỗi nhớ nhà, nhớ gia đình của người di cư. Theo kết quả Điều tra của ISDS về đổi mới, bảo trợ xã hội và di cư nông thôn ra thành thị thì 45,3% người di cư gặp phải khó khăn là nhớ nhà. Đây là khó khăn xếp vị trí thứ ba mà người di cư gặp phải. Đây là trạng thái tâm lý rất dễ hiểu của người di cư. Tiếp theo, họ dễ có tâm trạng bất an, lo lắng và sợ hãi bởi khi bước vào một môi trường mới hoàn toàn, họ rất bỡ ngỡ và thiếu những kỹ năng để tự bảo vệ bản thân. Họ lo lắng về công việc của bản thân, sợ hãi trước những đe dọa, gây hấn của những thế lực xã hội đen, lo lắng cho gia đình, con cái ở nhà hay lo lắng cho cả gia đình khi đi theo mình di cư Họ rất căng thẳng khi đến nơi ở mới, môi trường mới, công việc mới. Họ cũng rất lo lắng, nghi ngại về mối quan hệ tình cảm, sự thủy chung với chồng/ vợ/ bạn tình khi di cư. Không chỉ vậy, người di cư còn gặp phải sự kỳ thị của người bản địa cũng như có sự tự kỳ thị với chính bản thân mình. Tất cả những khó khăn này ảnh hưởng rất lớn tới sức khỏe tinh thần của người di cư, là những vấn đề mà họ phải đối mặt khi thực hiện quyết định di cư. 1.1.6. Những khó khăn khác - Nguy cơ dễ mắc phải các tệ nạn xã hội Bên cạnh những khó khăn trên, một số nghiên cứu đã cho thấy một quan điểm khá phổ biến rằng người di cư có nguy cơ cao mắc phải các tệ nạn xã hội (buôn lậu, buôn bán, vận chuyển ma túy, mại dâm ), bị bóc lột tình dục và trở thành nạn nhân của nạn buôn bán người. Chân ướt chân ráo đến thành phố, người di cư rất dễ bị các đối tượng xấu rủ rê, lôi kéo, mua chuộc, lừa gạt tham gia vào các hoạt động phi pháp. Khi nền kinh tế mở cửa và hội nhập với thị trường toàn cầu thì việc xuất khẩu các mặt hàng đã trở thành trọng tâm dẫn đến thành công trong phát triển. Buôn bán người, bao gồm buôn bán trẻ em, phụ nữ đã trở 34 | P a g e
- thành một lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu quan trọng đã cho thấy tính phức tạp của nền kinh tế thị trường với nhiều rủi ro cho người di cư. - Khó khăn về hòa nhập, thích nghi Khó khăn về hòa nhập (do sự khác biệt văn hóa, lối sống, ngôn ngữ .) cũng là vấn đề lớn mà người di cư phải đối mặt. Khi tới một môi trường mới khác biệt hoàn toàn với môi trường nơi đi, người di cư phải thay đổi rất nhiều thói quen, nếp sống, sinh hoạt bị đảo lộn và do đó họ phải mất thời gian để thích nghi với văn hóa, lối sống mới. Đồng thời khi chưa hình thành thói quen, theo quy tắc sống ở nơi đến, nhất là tại các đô thị hay một đất nước khác, họ có thể vi phạm luật giao thông, gặp tai nạn, vi phạm pháp luật - Nguy cơ xảy ra xung đột trong quá trình giao tiếp, làm việc Trong quá trình sinh hoạt, làm việc của người di cư sẽ không tránh khỏi những vấn đề xung đột, va chạm nảy sinh giữa người di cư với chủ lao động, với những người dân bản địa, chính quyền sở tại và những lực lượng khác. - Những vấn đề nảy sinh trong gia đình của người di cư Di cư tác động rất lớn tới gia đình của người di cư, do vậy người di cư gặp phải những khó khăn nảy sinh từ chính gia đình mình như tình cảm vợ/chồng do xa mặt cách lòng nên bị phai nhạt, dễ có những quan hệ ngoài hôn nhân. Đặc biệt sự quan tâm đối với con cái của người di cư bị giảm sút mạnh nên ảnh hưởng rất nhiều tới con cái, đặc biệt khi gia đình có mẹ di cư thì con cái phải làm nhiều việc nhà hơn, dễ trở nên nóng giận hơn, có những hành vi tiêu cực nhiều hơn Vì vậy người di cư phải lường trước tất cả những khó khăn, trở ngại, thử thách trên để có thể đối phó với những vấn đề này khi quyết định di cư. 1.2. Nhu cầu của người di cư Di cư là một sự lựa chọn, một quyết định để thay đổi cuộc sống với mong muốn có công việc làm tốt hơn, thu nhập cao hơn, chất lượng cuộc sống được cải thiện hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực thì di cư cũng có những ảnh hưởng tiêu cực tới bản thân người di cư, gia đình, cộng đồng, xã hội nơi đi và nơi đến. Do đó, người di cư gặp khá nhiều khó khăn, trở ngại trong quá trình di cư. Vì vậy để có thể đối mặt với những vấn đề đó, người di cư có nhu cầu thực hiện việc di cư an toàn. 1.2.1. Được hỗ trợ thông tin 35 | P a g e
- Để di cư an toàn, nhu cầu đầu tiên của người di cư là được hỗ trợ về thông tin trên các phương diện sau: - Thông tin cơ bản về nơi cư trú mới như văn hóa, lối sống, ngôn ngữ, sinh hoạt, giao tiếp để giúp quá trình hòa nhập của họ dễ dàng hơn, nhất là với những người xuất khẩu lao động hoặc kết hôn qua môi giới hôn nhân với người nước ngoài lại càng cần những thông tin này. - Thông tin về việc làm, về những địa chỉ tin cậy để xin tư vấn về di cư để tránh bị “cò”và “công ty ma” lừa đảo. Trước khi quyết định di cư, họ cần dựa vào mạng lưới xã hội của mình như bạn bè, người thân ở thành phố hay những người đã di cư, đã từng làm việc ở thành phố để giới thiệu với những cơ sở, chủ lao động phù hợp, hay được giới thiệu tới những trung tâm giới thiệu việc làm, công ty xuất khẩu lao động đảm bảo an toàn, tin cậy, hoặc Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, các tổ chức đoàn thể khác. - Thông tin, kiến thức và kỹ năng để đối mặt với những thay đổi ở nơi đến. Được thông tin về những nguy cơ, cạm bẫy, tình huống có thể xảy ra, gặp phải trên con đường di cư, tại nơi cư trú mới - Thông tin về chính sách, pháp luật, thủ tục hành chính và các loại hồ sơ giấy tờ cần thiết của người muốn di cư, liên quan đến xuất khẩu lao động, môi giới hôn nhân, hôn nhân với người nước ngoài Ngoài ra, họ có nhu cầu được đào tạo về chuyên môn nghề nghiệp hoặc ngoại ngữ, được trang bị một số kỹ năng sống để phòng ngừa và xử lý các tình huống bất ngờ xảy ra trong cuộc sống để họ có thể tự bảo vệ bản thân trước khi nhờ đến các cơ quan luật pháp. 1.2.2. Đảm bảo sinh hoạt, lao động trong môi trường an toàn, vệ sinh Tất cả người di cư đều mong muốn tại nơi ở mới họ được sống và làm việc trong một môi trường an toàn, đảm bảo những nhu cầu căn bản như điện, nước sạch và thức ăn hợp vệ sinh để có thể đảm bảo cho sức khỏe, có khả năng tái sản xuất sức lao động, tránh bị bệnh tật. Theo thuyết nhu cầu của Maslow, đây là những nhu cầu cơ bản, ở thang bậc thứ nhất trong thang bậc nhu cầu của con người. 1.2.3. Tiếp cận với các dịch vụ xã hội tại nơi đến Với những khó khăn khi không có hộ khẩu thường trú tại nơi đến nên người di cư đã bị hạn chế rất nhiều khả năng tiếp cận với các dịch vụ xã hội. Do vậy, nhu cầu của họ là làm sao có thể tiếp cận được với các dịch vụ y tế để chăm sóc, khám, điều trị bệnh khi cần bởi lẽ 36 | P a g e
- họ là nhóm có nguy cơ cao về tổn hại sức khỏe do phải làm việc trong môi trường độc hại, khắc nghiệt, điều kiện sống thiếu thốn, áp lực nhiều. Vì vậy, nếu người di cư rất co nhu cầu được cấp bảo hiểm y tế để thực hiện chăm sóc sức khỏe cho bản thân. Những người di cư có nhu cầu đảm bảo cho con cái có thể tiếp cận với giáo dục, được đi học ở các bậc học khác nhau như những người có hộ khẩu tại nơi đến. Khi đến môi trường mới mang theo cả gia đình, lo lắng rất lớn của người di cư là tìm được nơi học cho con của mình trong điều kiện kinh phí hợp lý, có thể chi trả được phù hợp với hoàn cảnh của gia đình. Hiện nay khối các trường dân lập được mở ra rất nhiều, không có hộ khẩu thì trẻ em vẫn có thể đi học được, tuy nhiên học phí của những trường này rất cao, chỉ phù hợp với những người di cư đã có công ăn việc làm ổn định, còn với những người di cư có trình độ học vấn và nghề nghiệp không ổn định thì thực sự đó là khó khăn lớn và họ đều mong mỏi có được trường học phù hợp cho con cái của mình, đảm bảo quyền học tập của các con. 1.2.4. Có công việc làm, thu nhập ổn định Những người quyết định di cư, họ có nhiều mục đích khác nhau, nhưng một trong những mục đích phổ biến nhất là có được việc làm tốt hơn, kiếm được nhiều tiền hơn. Do vậy, điều mà phần lớn tất cả những người di cư mong muốn là khi tới nơi ở mới họ sẽ tìm được công việc làm có thu nhập tốt hơn, cao hơn, có công việc làm phù hợp với khả năng và ổn định, an toàn. Đây là nhu cầu có thể nói là lớn nhất để đảm bảo thực hiện được những nhu cầu khác. Có công việc, có thu nhập họ mới có thể gửi tiền về gia đình, mới có thể trang trải cuộc sống ở nơi đến, mới có thể tìm được chỗ ở sạch sẽ, an toàn, hợp vệ sinh, có được những nhu cầu tối thiểu như ăn, ở, mặc Vì vậy họ rất cần có sự hỗ trợ từ các trung tâm giới thiệu việc làm, công ty xuất khẩu lao động đảm bảo tin cậy để bảo trợ, giúp họ tìm được công việc phù hợp. Hiện nay đã xuất hiện rất nhiều những công ty ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu này, tuy nhiên trên thực tế uy tín, chất lượng các công ty, trung tâm này chưa cao, người di cư chưa tiếp cận được và chưa đáp ứng được nhu cầu của họ. Đồng thời, họ cũng rất có nhu cầu được hỗ trợ giới thiệu việc làm trong những trường hợp rủi ro như bị buôn bán, bị lừa gạt Là một trong những nhóm đối tượng dễ bị tổn thương, bị các đối tượng xấu lừa gạt, ăn quỵt, người di cư rất mong muốn có những cơ quan, tổ chức sẽ hỗ trợ được cho họ công ăn việc làm khi có những bất trắc, rủi ro xảy đến với họ. 1.2.4. Được chăm sóc sức khỏe 37 | P a g e
- Với nguồn thu nhập ít ỏi, không có cơ hội được tiếp cận với các dịch vụ xã hội, không hiểu rõ về nơi đến, không có thông tin trong khi sức khỏe bị ảnh hưởng lớn, có nguy cơ mắc nhiều các bệnh nhiễm khuẩn, ốm đau, bệnh tật, người di cư vẫn luôn có mong muốn rất lớn là được chăm sóc sức khỏe, được khám chữa bệnh miễn phí. Hiện nay đã có một số ít dự án đã thực hiện các chương trình khám lưu động để khám chữa bệnh miễn phí cho những nhóm dân cư di biến động, tuy nhiên những chương trình này còn rất ít, trên phạm vi hẹp và cũng chưa đáp ứng được nhu cầu của nhóm đối tượng này. 1.2.4. Được hỗ trợ tâm lý Trước những vấn đề khó khăn về tâm lý như nhớ nhà, lo lắng cho cuộc sống của bản thân và gia đình ở quê, căng thẳng, sợ hãi tại môi trường mới, những người di cư rất mong muốn nhận được sự tư vấn, hỗ trợ về tâm lý để họ có thể giải quyết những khó khăn của mình, yên tâm sinh hoạt, làm việc tại nơi ở mới. Họ không thể biết tới những cơ sở dịch vụ, trung tâm tư vấn tâm lý và cũng không có kinh phí để chi trả cho những loại hình dịch vụ này. Do đó, rất cần có những sự trợ giúp chuyên nghiệp của CTXH cho các nhóm đối tượng này. 1.2.5. Tham gia các hoạt động giải trí Để tránh nguy cơ tham gia vào các tệ nạn xã hội, nhất là đối với nam giới để tránh tham gia vào những hoạt động mại dâm, những người di cư rất cần tới những hoạt động vui chơi, giải trí lành mạnh để họ quên đi nỗi nhớ nhà, nỗi cô đơn khi di cư như các hoạt động thể thao, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ tại nơi ở mới. Tuy nhiên, có lẽ đối với những người di cư đây là nhu cầu khá “xa xỉ” cho dù cũng rất cần thiết của họ. Vì vậy, rất cần có những chương trình, dự án can thiệp để trợ giúp cho nhóm đối tượng này. 2. Những vấn đề gặp phải và nhu cầu của nạn nhân bị buôn bán 2.1. Những vấn đề gặp phải của nạn nhân bị buôn bán 2.1.1. Bị lạm dụng, bóc lột sức lao động và ngược đãi Đối với những người đi lao động xuất khẩu trở thành nạn nhân của buôn bán người bị cưỡng bức làm việc trong ngành nông nghiệp, bị cưỡng bức làm việc trên tàu biển và bị cưỡng bức làm việc chăm sóc người già trong gia đình và thường xuyên đổi chủ. Nạn nhân bị cưỡng ép lao động trong lĩnh vực nông nghiệp được đưa sang Đài Loan bằng visa du lịch chứ không phải visa làm việc nhưng họ không hề biết điều này. Đến Đài Loan họ bị chở đến những vùng xa xôi hẻo lánh và bị bắt làm việc 15 tiếng một ngày không được nghỉ. Họ chỉ nhận được một ít thức ăn và không có chút thu nhập nào. Sau ba tháng họ bị đưa đến đồn 38 | P a g e
- cảnh sát như những người nhập cư bất hợp pháp và sau đó bị trục xuất. Khi trở về quê những người này cố tìm về công ty đã tuyển dụng họ nhưng công ty này đã biến mất. Cách duy nhất để người lao động trả các khoản nợ là quay trở lại đi xuất khẩu lao động. Còn những người lao động bị cưỡng bức làm việc trên tàu biển Đài Loan khi công ty quản lý tàu gặp một số khó khăn về tài chính và không trả lương cho họ. Khi công nhân đình công đòi quyền lợi thì họ bị trả về Việt Nam mà không nhận được bất cứ một khoản bồi thường nào. Những kẻ buôn người cũng thường đưa những người xuất khẩu lao động vào làm việc trong mạng lưới chăm sóc người già phi pháp. Khi công nhân rơi vào tay của bọn môi giới này, họ phải thay đổi chủ hầu như hàng tháng và được nhận rất ít tiền, thậm chí là không được nhận chút tiền lương nào. Người lao động không bao giờ được thông báo thời gian họ sẽ làm với một chủ lao động là bao lâu. Nếu họ dám đặt câu hỏi, lập tức bị đuổi về nước ngay lập tức. Một số người lao động rơi vào tình trạng này đã phải bỏ trốn. Đối với những nạn nhân bị buôn bán để kết hôn thì họ sang nước ngoài vừa làm vợ vừa làm người giúp việc trong gia đình. Thông thường họ phải làm việc 9 tiếng một ngày và phải đảm nhiệm các công việc nội trợ của gia đình. Hầu hết trong số họ không dành dụm được tiền, rất ít có thể tiết kiệm tiền và gửi về cho gia đình. Phần lớn họ bị chồng và những người trong gia đình chồng hành hạ về mặt thể xác, bị đánh đập dã man khiến họ bị tổn thương về tinh thần trầm trọng. Một số trường hợp phụ nữ bị ốm đau mà không được chăm sóc, họ bị ép triệt sản vì đã có một con (đối với phụ nữ lấy chồng Trung Quốc. Vất vả về kinh tế cộng với những khác biệt về văn hóa càng làm đắng cay thêm hoàn cảnh của họ. Những phụ nữ và trẻ em bị bán làm mại dâm thì còn gặp những khó khăn nhiều hơn. Có những phụ nữ bị buôn bán làm việc trong ngành công nghiệp tình dục nói rằng họ phải phục vụ ít nhất 5 khách hàng trong một ngày, số khác phải phục vụ nhiều hơn. Bên cạnh đó, họ thường phải chịu những hình phạt về thể xác để răn đe nếu họ có biểu hiện không vâng lời chủ hay cố tình trốn thoát. Nếu những phụ nữ này mang bầu, lập tức sẽ bị triệt sản và sau đó có thể quay trở lại làm việc ngay lập tức. Họ hoàn toàn bị điều khiển bởi người chủ và bọn ma-cô. Một số người còn bị nhốt trong phòng và bị canh gác nghiêm ngặt. Đôi khi họ cũng được cho ra chợ đi chơi nhưng dưới sự giám sát của bọn maco. Chủ chứa cũng thường điều họ sang phục vụ tại một nhà chứa theo yêu cầu của khách hàng. Nhiều người phụ nữ không còn phù hợp làm gái mại dâm nữa sẽ bị bán đi làm vợ cho những người đàn ông nghèo ở Trung Quốc. Đôi khi, chính những người cảnh sát địa phương về nguyên tắc có thể bảo vệ họ nhưng lại lạm dụng họ. Vì thế, các nạn nhân buôn bán người rất sợ bị cảnh sát bắt và bị lạm dụng bởi họ là những người cư trú bất hợp pháp 39 | P a g e
- 2.1.3. Bị mắc vào các tệ nạn xã hội Những tệ nạn xã hội mà nạn nhân bị buôn bán có thể mắc phải khi tham gia các hoạt động trong đường dây buôn bán người dù chủ ý không không chủ ý. Họ là làm việc trong các đường dây mại dâm, thậm chí cả buôn bán ma túy qua biên giới, và họ là những người cư trú bất hợp pháp khi ra nước ngoài. Do đó, họ là đối tượng truy lùng của cảnh sát và chính quyền sở tại. 2.1.4. Nguy cơ về sức khỏe Các nạn nhân bị buôn bán hầu như đều trải qua những tổn thương thể chất nặng nề do bị bóc lột sức lao động, bị lạm dụng, ngược đãi đánh đập Họ phải chịu các chấn thương nghiêm trọng về tay chân, cơ bắp, xương, dạ dày, não bộ Làm việc trong môi trường bị đánh đập, cưỡng bức, khổ sở lâu dần khiến cho các nạn nhân luôn ở trong trạng thái mệt mỏi, đau lưng, loét dạ dày, đau đầu, nhận thức kém Một số nạn nhân còn bị khuyết tật, không có khả năng vận động, đi lại hoạt động như bình thường. Những nạn nhân bị lạm dụng tình dục liên tục và thường xuyên thường mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục (như giang mai, HIV/AIDS ), các tổn thương phụ khoa (như viêm nhiễm âm đạo, viêm cổ tử cung, rách âm hộ ). Một số hành động như phá thai, cưỡng bức triệt sản gây khó khăn cho người phụ nữ trong việc làm mẹ, ảnh hưởng đến hoạt động sinh lý của người phụ nữ Các bệnh truyền nhiễm như bệnh lao, phổi cũng là mối nguy cơ của những nạn nhân bị buôn bán. 2.1.5. Tổn thương, sang chấn về tâm lý Bên cạnh những nguy cơ về sức khỏe thể chất, các nạn nhân bị buôn bán còn chịu những tổn thương sang chấn nặng nề về mặt tâm lý. Khi bị bắt, bị lừa gạt và bị bán ra nước ngoài, hầu như các nạn nhân đều có tâm lý sợ hãi, hoang mang, lo lắng, muốn lẩn trốn, thậm chí có nhiều người còn muốn tìm đến cái chết. Khi gánh chịu những hình phạt về thể chất, bị cưỡng ép, lạm dụng, cưỡng ép khủng bố họ lại càng bị tổn thương nặng nề. Xa quê hương, gia đình, sự nhung nhớ, mặc cảm, tủi hổ và mong muốn trở lại quê hương khiến những nạn nhân luôn ở trong tình trạng mất cân bằng, ổn định về tâm lý. Những người bị buôn bán trở về thì lại phải đối mặt với sự kỳ thị và phân biệt ở quê nhà. Nữ thì bị cho là làm gái mại dâm để kiếm tiền, nam thì bị coi là ngu đần vì rơi vào tay bọn buôn người. 40 | P a g e
- 2.1.6. Khó khăn khi hòa nhập cộng đồng Cộng đồng có nhiều quan niệm trái ngược về những nạn nhân bị buôn bán trở về. Trong đó có những quan điểm tiêu cực, nghi ngờ phụ nữ bị buôn bán bị ép làm mại dâm dù biết là họ bị ép bán ngoài ý muốn. Mặt khác, những người phụ nữ này cũng được thương hại thậm chí được khâm phục vì đã có trách nhiệm làm tròn bổn phận phụ nữ của họ là lập gia đình, sinh con và giúp đỡ gia đình bằng cách gửi tiền về. Tuy nhiên, tựu chung lại, những nạn nhân bị buôn bán trở về vẫn còn gặp nhiều khó khăn và không dễ dàng để tái hòa nhập với cộng đồng. Một là, đa số họ phải chịu những lời đồn đại thị phi không tốt, sự phân biệt kỳ thị từ phía cộng đồng. Bị buôn bán hay "sang Trung Quốc" đồng nghĩa với việc làm gái mại dâm, thích tiền và sẵn sàng bán thân. Dù trong số những phụ nữ bị buôn bán không ít người bị gia đình xa lánh nhưng cộng đồng vẫn có cái nhìn khác về họ. Điều này khiến những nạn nhân gặp không ít các vấn đề về tâm lý, lo sợ, ngại giao tiếp, ngại tham gia các hoạt động cộng đồng. Trẻ em khi đi đến trường cũng bị ảnh hưởng rất nhiều từ bạn bè, thầy cô giáo. Sống trong môi trường bị hắt hủi, xa lánh họ thường có những suy nghĩ tiêu cực, thậm chí lại dấn thân vào các con đường tệ nạn xã hội hay quay trở lại nơi họ bị buôn bán. Hai là, khó khăn trong việc làm các thủ tục giấy tờ tại địa phương. Những nạn nhân bị buôn bán trở về rất khó khi đăng ký hộ khẩu. Việc đăng ký hộ khẩu còn liên quan đến quyền cấp đất, nếu không có hộ khẩu thì họ không có quyền được nhận đất đai từ cộng đồng. Khó khăn lớn nhất là họ không còn ruộng. Họ có thể ở với bố mẹ và anh chị em nhưng họ vẫn cần ruộng đất để sinh nhai. Hộ khẩu còn liên quan đến khả năng tiếp cận với hầu hết các dịch vụ xã hội, chẳng hạn như làm giấy khai sinh hay đăng ký cho con nhập học tại các trường địa phương. Có nạn nhân cho rằng cô đã có giấy chứng nhận của bệnh viện nơi sinh con, có hộ khẩu nhưng bố của đứa bé thì lại ở bên Trung Quốc vì thế mà chính quyền địa phương cho rằng đứa trẻ là người Trung Quốc và không chứng nhận giấy khai sinh cho đứa bé. Đến mười năm trời, người phụ nữ đó vẫn không thể khai sinh cho con, đi học cũng chỉ có giấy chứng nhận của bệnh viện. Chỉ còn cách duy nhất là đăng ký kết hôn với một người đàn ông Việt Nam và khai sinh cho con, tuy nhiên việc này cũng không dễ dàng thậm chí còn tốn không ít tiền. Việc đăng ký hộ khẩu còn khiến những nạn nhân bị buôn bán trở về không được tham gia vào hoạt động của các hội đoàn thể ở Việt Nam. Cụ thể là họ không được nhận những trợ giúp chính thức từ Hội Phụ nữ địa phương. Các cán bộ Hội lo lắng rằng nếu tình trạng này không được cải thiện thì rất có thể những người phụ nữ đó sẽ quay trở lại Trung Quốc. Không có sự hướng dẫn chỉ đạo của cấp trên thì ngay cả 41 | P a g e
- công an địa phương muốn giúp đỡ cũng không thể đăng ký cho họ và con cái là dân địa phương được. Tình trạng này gây nên sự bất bình trong cộng đồng vì những người phụ nữ này trước đây từng là dân địa phương nay lại không thể đăng ký hộ khẩu. Không có hộ khẩu thậm chí một số người còn không được ở ngay chính trong ngôi nhà của họ. Nhiều phụ nữ phải xin phép chính quyền địa phương ở tạm trong các nhà trẻ không sử dụng của địa phương với những khoản chi phí nhất định. Không được đăng ký hộ khẩu những người này bị mất quyền công dân, thậm chí họ còn là nạn nhân của những hành xử không đúng mực của công an địa phương. Chẳng hạn, một nạn nhân bị buôn bán nay trở về địa phương thường xuyên bị công an tra hỏi thậm chí còn bị đưa về đồn. Hiếm khi những người phụ nữ này dám phản đối các hành vi sai trái của chính quyền và công an địa phương bởi vì bản thân họ tự cho rằng mình đã có hành vi vi phạm pháp luật khi vượt biên mà không có giấy phép. Theo nghiên cứu của tổ chức Lao động quốc tế (ILO) nhiều phụ nữ Việt Nam bị buôn bán sang Trung Quốc thường bị chính quyền Trung Quốc vây bắt và đưa về Việt Nam (tại những điểm bất hợp pháp dọc theo biên giới) hoặc chính thức cho hồi hương về Việt Nam qua cửa khẩu quốc tế. Vì hầu hết những người bị buôn bán đều không có hộ chiếu hay chứng minh thư nhân dân nên họ không có đủ những điều kiện cần thiết để các nhân viên tại các cửa khẩu biên giới Việt Nam chấp nhận cho họ hồi hương một cách chính thức. Ba là, khó khăn về kinh tế để duy trì cuộc sống lâu dài cho những nạn nhân bị buôn bán. Những nạn nhân không còn đất đai, đa số họ không có những khoản tiền cần thiết để làm ăn duy trì cuộc sống. Khi được hỏi về kế hoạch trong tương lai, đa số các nạn nhân bị buôn bán cân nhắc về khả năng tiếp tục quay trở lại con đường cũ. Rõ ràng là việc phải đương đầu với những khó khăn về kinh tế và những kỳ thị xã hội của địa phương khiến họ không còn con đường nào khác. Những hỗ trợ mà nạn nhân bị buôn bán nhận được sau khi trở về địa phương thì có sự đóng góp của Hội phụ nữ địa phương. Đây là cơ quan đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức của cộng đồng về nhu cầu thông cảm và hỗ trợ cho những nạn nhân bị buôn bán đã trở về để họ có thể tái hòa nhập cộng đồng. Các thành viên của Hội phụ nữ có trách nhiệm tiếp cận các nạn nhân, tìm hiểu nhu cầu của họ, tư vấn cho họ các vấn đề kinh tế, tâm lý, xã hội và giúp họ thành lập các câu lạc bộ đồng đẳng để có thể hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau. Nhiều hội phụ nữ đã thành lập các chương trình tiết kiệm và quỹ tín dụng để hỗ trợ cho những phụ nữ bị buôn bán trở về có số vốn nhất định để cải thiện cuộc sống. Tuy nhiên, như trên đã đề cập, do các cản trở về giấy tờ hộ khẩu cộng với nguồn ngân sách có hạn nên số vốn cho nạn nhân vay là không nhiều, vì thế hiệu quả không cao. Nhiều nạn nhân trở về do gặp phải những khó khăn như vậy, dù họ có ý nghĩ quay trở lại nước ngoài nhưng cũng không biết là mình sẽ làm gì để sống, họ sẽ làm việc cho ai 42 | P a g e
- hay họ sẽ kiếm được bao nhiêu tiền. Điều này nói lên vòng luẩn quẩn của những nạn nhân bị buôn bán, trong đó ba gồm cả khả năng họ có thể bị bán lần nữa. 2.2. Nhu cầu của nạn nhân bị buôn bán 2.2.1. Nhóm nạn nhân bị buôn bán chưa trở về Với những nạn nhân bị buôn bán chưa trở về thì nhu cầu đầu tiên của họ là được bảo vệ an toàn về tính mạng. Hầu hết những nạn nhân bị buôn bán đều do bị lừa, bị bắt buộc, bị cưỡng ép, họ không chấp nhận hoàn cảnh của mình. Do vậy để khống chế họ những kẻ môi giới, buôn bán người buộc phải sử dụng những biện pháp bạo lực mạnh, thậm chí đe dọa tính mạng. Các nạn nhân của buôn bán người thường đều từng phải trải qua thời gian bị cưỡng bức, bị tra tấn, nợ nần, bị giam cầm bất hợp pháp, bị bạn bè và gia đình đe dọa, bị các hình thức bạo lực về thể chất, tình dục và tâm lý khác. Bọn buôn người sử dụng rất nhiều thủ đoạn để làm cho nạn nhân sợ hãi và biến họ thành nô lệ. Một vài kẻ buôn người nhốt nạn nhân ở trong phòng. Những việc làm thường xuyên nhất của bọn buôn người là: Cô lập nạn nhận khỏi xã hội, cộng đồng; hạn chế tiếp xúc với người bên ngoài và đảm bảo chắc chắn tất cả những liên lạc được giám sát và kiểm soát tự nhiên; Cô lập nạn nhân khỏi các thành viên trong gia đình và cộng đồng của họ; Tịch thu hộ chiếu, thị thực và/hoặc các giấy tờ tuỳ thân; Dùng hoặc đe doạ bạo lực với nạn nhận và/hoặc gia đình của nạn nhân; Đe doạ để nạn nhân cảm thấy hổ thẹn với gia đình; Đe doạ nạn nhân bằng những lời nguyền tà phép; Lừa gạt nạn nhân để họ tin rằng họ sẽ bị bỏ tù, trục xuất, hoặc lưu đày do vi phạm quy định nhập cư nếu họ liên lạc với chính quyền; Kiểm soát tiền của nạn nhân. Do đóm nạn nhân cần nhất là được bảo đảm an toàn. Bên cạnh những nạn nhân bị cưỡng bức, bị lừa gạt bán sang nước ngoài thì cũng có một số lớn trong đó chủ động sang nước ngoài với hy vọng có một cuộc sống tốt đẹp hơn và khi phải đối mặt với sự lạm dụng và lừa dối, họ đã chủ động tìm cách trốn chạy trở về nước. Nhưng cuộc trốn chạy của họ cũng gian nan và gặp đầy nguy hiểm. Một số người không thể nào trốn thoát được vì họ đã vào quá sâu nội địa nước ngoài, nên bị giám sát chặt chẽ. Một số lớn các nạn nhân nhờ được sự giúp đỡ của những người dân địa phương hoặc được những người Việt Nam mà họ tình cờ gặp được. Một số ít trường hợp may mắn được chính gia đình của họ liên hệ với kẻ buôn bán, trả cho họ một khoản tiền và đưa họ trả về. Như vậy, nhu cầu lớn thứ hai của những nạn nhân bị buôn bán là được hỗ trợ trốn thoát, quay trở về với gia đình. 43 | P a g e