Tài liệu Hành vi con người và môi trường xã hội

pdf 97 trang hapham 2690
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Hành vi con người và môi trường xã hội", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftai_lieu_hanh_vi_con_nguoi_va_moi_truong_xa_hoi.pdf

Nội dung text: Tài liệu Hành vi con người và môi trường xã hội

  1. NỘI DUNG KHOÁ TẬP HUẤN DO KHOA PHỤ NỮ HỌC VÀ ĐẠI HỌC FORDHAM HOA KỲ PHỐI HỢP TỔ CHỨC Từ ngày 07/07/1997 đến 16/07/1997 3
  2. HÀNH VI CON NGƯỜI VÀ MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI NỘI DUNG TẬP HUẤN DO KHOA PHỤ NỮ HỌC VÀ ĐẠI HỌC FORDHAM - HOA KỲ PHỐI HỢP TỔ CHỨC Từ ngày 07/07/1997 - 18/07/1997 - @ @ @ - Nhằm giúp cho các giảng viên Khoa Phụ Nữ Học, các kiểm huấn viên, các cán bộ quản lý dự án phát triển cộng đồng cập nhật hóa kiến thức mới, và tăng kỹ năng chuyên môn. Khoa Phụ Nữ Học và Đại Học Fordham Hoa Kỳ phối hợp tổ chức hai đợt tập huấn tại trường Hoa Sen, số 8 Nguyễn Văn Tráng, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. - Đợt tập huấn 1: từ ngày 07/07/1997 đến 18/07/1997 do Tiến sĩ Robert Martin Chazin và Giảng viên Shela Berger Chazin giảng dạy, với chủ đề “Hành vi con người và môi trường xã hội” - Đợt tập huấn 2: từ ngày 04/08/1997 đến 13/08/1997 do Tiến sĩ Mary Ann Forgey và Tiến sĩ Carol S.Cohen giảng dạy, chủ đề “Thực hành Công tác xã hội chuyên nghiệp” NỘI DUNG TẬP HUẤN NGÀY THỨ NHẤT (07/07/1997) Hệ thống sinh thái (Ecology systems). KHÁI NIỆM VỀ HỆ THỐNG SINH THÁI: Hệ thống sinh thái gồm hai ý tưởng: Môi trường sinh thái của cá nhân khi cá nhân đó đang cố gắng để thích nghi với môi trường xung quanh; hệ thống khi nhìn vào mối tương quan của những bộ phận khác nhau. Ta phối hợp hai chữ nầy thành hệ thống sinh thái (Ecology systems). Cá nhân gắn chặt với gia đình, gia đình với cộng đồng, có những cá nhân rất mạnh có thể lay chuyển cả một hệ thống lớn. Hành vi con người rất phức tạp, không có một yếu tố nào duy nhất giải thích về 4
  3. hành vi con người. Chúng ta phải cố gắng kết hợp các lý thuyết về cá nhân, gia đình, nhóm, xã hội và lý thuyết về thế giới để hiểu về con người theo hệ thống sinh thái. Gia đình có ranh giới, chúng ta cũng có ranh giới, bất cứ hệ thống nào cũng có ranh giới, chúng ta nghĩ đến sự tương tác trong hệ thống để hiểu con người. Để hiểu một người bạn nào đó, chúng ta phải hiểu thế giới rộng hơn, phải hiểu gia đình người đó, nhóm bạn cũng làm việc, cộng đồng mà bạn đó đang tương tác. Hệ thống sinh thái của mỗi cá nhân đều độc đáo. Chúng ta suy nghĩ bằng hình ảnh hơn là trừu tượng, cách nhìn này sẽ mở rộng tầm nhìn của chúng ta để hiểu sự việc. Cha mẹ bị stress dẫn đến ngược đãi con cái hay cha mẹ thất nghiệp cũng ngược đãi con cái. - Nếu người ta có việc làm thì sẽ giảm bớt những vấn đề xã hội. Kinh tế là chỉ báo mạnh nhất đối với các vấn đề xã hội. Trong một hệ thống, ta quan tâm đến tổng thể nhiều hơn sự cộng lại của các bộ phận. Mọi hệ thống có nhiều bộ phận, gia đình là thành phần của cộng đồng. Có 4 thành tố đối với mọi hệ thống: 1. Hành vi. 2. Cấu trúc. 3. Văn hóa. 4. Diễn biến của hệ thống. Chúng ta luôn luôn quan tâm đến hành vi, cấu trúc, văn hóa, diễn biến của hệ thống. Mỗi hệ thống đều có thời gian sống và nghỉ ngơi. 1. Hành vi: có khi gọi là năng lượng mang tính tâm lý (thức ăn là năng lượng, sự nâng đỡ về tình cảm là năng lượng ), hành vi là cách sử dụng năng lượng của mình, ví dụ tôi đang trình bày. Nếu không có nhập năng lượng mới, hệ thống sẽ chết dần, mọi hệ thống đều phải mở ra để tiếp nhận năng lượng mới. Mọi hệ thống đều thay đổi nhưng không thay đổi quá nhanh luôn luôn có những lực lượng bên trong một hệ thống, luôn có sự sống và năng lượng, những năng lượng này đẩy và kéo lẫn nhau. Khi một xã hội, một gia đình gặp một áp lực quá lớn chúng tôi gọi là STRESS hay STRAW. Thí dụ: 5
  4. - Có một số vùng bị lụt, các cộng đồng bị lụt sống trong tình trạng stress, chính phủ phải biết để có chương trình yểm trợ. - Tôi là giảng viên, nếu tôi không có mặt thì nhà trường bị stress. Tất cả hệ thống đều có những lực lượng chống đối nhau, khi lực lượng cân đối sẽ có sự hài hòa, đó là một cách hiểu vấn đề để trị liệu. Thế nào là một gia đình sống một cách quân bình? Ở Trung Quốc, chính phủ có chính sách giới hạn số con có nhiều gia đình bị stress vì chính sách nầy. Sự cân đối của nền văn hoá bị tác động, bị phá hủy. Một ý kiến khác là sự thích nghi để sống còn, phải nhập năng lượng và phải biến nó thành một thành phần của bạn. Như thế bạn có hành động tương tác trong xã hội, bạn quan tâm đến phản ứng của người khác đối với mình. Thí dụ: Giảng viên vừa giảng vừa quan sát thái độ sinh viên để thay đổi cách giảng bài. Khi áp dụng phương pháp giải quyết nhanh: kỹ năng cần có là phải nghe như thế nào. Tôi phải là một hệ thống mở để đón nhận những gì mà các bạn bày tỏ trong phương pháp thực hiện nhanh. 2. Cấu trúc (kết cấu): Bất cứ hệ thống nào cũng có một bộ phận hay hệ thống bộ phận như trong cơ thể con người có nhiều hệ thống cơ cấu cũng có nghĩa là những ranh giới, nếu nghiên cứu về gia đình trước tiên phải biết về thành phần trong gia đình, những thành phần đó không bắt buộc là những gì hiện hữu mà có thể là những thành phần về tâm lý. Thí dụ: Làm việc với trẻ đường phố vấn đề quan tâm là gia đình khi đứa trẻ trở về và môi trường xung quanh. Làm việc với gia đình cần phải biết kết cấu của họ và mối quan hệ của gia đình đối với xã hội xung quanh. 3. Văn hóa (Culture) Bất cứ hệ thống nào cũng đều mang nét văn hóa riêng của nó. Trong hệ thống, hành vi văn hoá được thể hiện như thế nào? - Vai trò nam là gì? nữ là gì? 6
  5. - Văn hóa gia đình rất quan trọng để định hình một cá nhân, chúng ta không thể hiểu hết văn hoá gia đình đã ảnh hưởng đến chúng ta như thế nào. Trong gia đình Việt Nam, vị trí của người anh cả rất quan trọng, đó là nét văn hoá của gia đình Việt Nam. - Trong một đất nước, những vùng khác nhau có nền văn hóa khác nhau. Thí dụ Ở Mỹ, văn hóa miền Bắc và miền Nam khác nhau. 4. Diễn biến của hệ thống: Bất cứ một hệ thống nào cũng thay đổi theo thời gian nhưng bất kỳ trong hoàn cảnh nào cũng phải giữ được trạng thái tương đối ổn định. Không có một cơ cấu nào tồn tại như vậy mãi. Một ý liên quan đến sự tiến hoá đó là xã hội hoá (socialization). Thí dụ trong một gia đình, không thể có tình trạng tất cả mọi thành viên muốn làm gì cũng được hay trong một cơ quan không thể có tình trạng các nhân viên muốn làm gì thì làm. Bất kỳ một hệ thống nào cũng phải có những phương tiện để kiểm tra quản lý. Một trong những phương pháp mà chúng ta thể hiện sự quản lý đó là xã hội hóa. Xã hội hóa là một tiến trình. Thí dụ: Trong gia đình, cha mẹ giáo dục con cái, dạy cho con cái về văn hoá gia đình. Một ý khác mà chúng ta muốn nói đến là giao tiếp (communication). Bất cứ một hệ thống nào trong quá trình thay đổi và tiến hóa cũng có sự giao tiếp. LÝ THUYẾT VỀ VAI TRÒ (Role theory) Mỗi người chúng ta đều có nhiều vai trò mà chúng ta đảm nhận trong cuộc sống. Giống như những diễn viên trên sân khấu, họ phải đóng nhiều vai cùng một lúc. Thí dụ: Các bạn khi ở lớp học thì đóng vai trò là học viên nhưng đến khi về đến gia đình thì các bạn lại đóng một vai trò khác. - Mong đợi về vai trò (Expectation): Đó là cách xã hội qui định, qui ước về vai trò, về điều mong đợi mà vai trò đó thực hiện. Trong cùng một môi trường văn hóa thì mọi người có cùng một số mong đợi, những điều qui ước dành cho từng vai trò. - Thể hiện vai trò (Role performance): Đó là cách con người thể hiện vai trò của mình như thế nào. Thí dụ: 7
  6. Sinh viên có thể đánh giá giảng viên của mình bằng cách đánh giá xem giảng viên đó thực hiện vai trò của mình có đúng hay không? - Ý thức về vai trò (Role conception) đó là suy nghĩ của tôi về những gì các bạn mong đợi ở tôi. Đôi lúc cũng gặp rắc rối: chẳng hạn như đôi khi sinh viên suy nghĩ là tôi mong đợi ở họ những điều nầy, và họ cố gắng làm điều nầy nhưng tôi lại mong đợi ở họ những điều khác. - Sự linh động về vai trò (Fexibility) Tôi cởi mở để thay đổi vai trò của tôi. - Sự mơ hồ về vai trò (Role ambiguity) Thí dụ một người có vấn đề vì họ mơ hồ về vai trò, về những điều mà họ đảm nhận. - Sự mâu thuẫn về vai trò (Role conflict) Thí dụ Con tôi muốn khác, chồng tôi muốn khác nên tôi không thể hoàn thành vai trò cùng một lúc. Tôi muốn làm một người mẹ tốt, một người vợ tốt nhưng tôi không làm được nên tôi bỏ luôn. * Khi có mâu thuẫn về vai trò thì có vài phương cách để giải quyết: Phương cách 1: lờ đi hay trốn tránh. Phương cách 2: dung hoà. Phương cách 3: tránh đi không làm gì hết. Phương cách 4: từ bỏ vai trò của mình luôn. - Tính không liên tục của vai trò: Thí dụ: Ở Mỹ có vấn đề xã hội làsự gián đoạn vai trò của cha mẹ khi con cái lớn lên. Một khi đứa trẻ rời khỏi nhà vai trò của họ bị gián đoạn. Những người lớn tuổi nghỉ hưu không còn làm gì nữa, họ đau khổ vì vai trò của họ bị gián đoạn. - Áp lực về vai trò (Role strain): Thí dụ trong một gia đình, người cha phải đi xa cùng một lúc người mẹ phải đóng cả hai vai, thí dụ người mẹ bị ốm không thể chăm sóc cho con cái. Áp dụng việc học, chọn một vấn đề được quan tâm (vấn đề sáng nay vừa học) phân tích vấn đề đã chọn, sau đó phản hồi lại, chúng tôi muốn xem các bạn đã học vấn đề gì? Nhìn vấn đề với cặp mắt khác hơn thế nào? Giải thích vấn đề đó như thế nào? Khái niệm nào sáng nay đã có ích cho các bạn nhiều nhất? Nhóm 1: Trường hợp trẻ em hành nghề mại dâm. 8
  7. Hiện nay tệ nạn nầy đang gia tăng, dựa vào hệ thống và thông qua khái niệm đã học, chúng tôi phân tích và rút ra những vấn đề sau: Trẻ hành nghề mại dâm có rất nhiều lý do và tữ những lý do này, chúng tôi phân tích những lý do nào là chính và cần giải quyết theo từng cấp độ. - Cấp vi mô: + Đua đòi thích có tiền ăn xài. + Văn hoá thấp. + Bản thân các em bị ức chế về mặt tâm lý. - Cấp trung mô: + Các em bị chính cha mẹ đưa đi bán trinh. + Bạn bè rủ rê. + Trẻ bị người lớn dụ dỗ. + Trẻ sống trong môi trường có tệ nạn mại dâm. - Cấp vĩ mô: + Quan niệm phong kiến “Trọng nam khinh nữ” + Do quan niệm hiện nay “Mãi dâm với trẻ em an toàn, tránh bị AIDS” + Giải quyết sinh lý với trẻ em sẽ gặp may mắn trong làm ăn. + Luật pháp còn thiếu công bằng đối với người mua dâm, bán dâm và bọn ma cô tú bà. - Cách giải quyết: + Giải quyết mại dâm tùy từng cas cụ thể. + Vai trò của gia đình rất quan trọng để giải quyết. + Phải có sự tác động vào cá nhân, gia đình, cộng đồng. + Để nối kết trẻ với gia đình và cộng đồng cần có nhân viên xã hội. + Thay đổi luật pháp. 9
  8. Nhóm 2: Trường hợp trẻ bị ngược đãi về mặt tinh thần Giải quyết cas cụ thể, một học sinh cấp 3 sống trong một gia đình khá giả ở tỉnh X. Bản thân em học giỏi. Bố rất thương con nhưng lại có thái độ cứng rắn cộc cằn, gia trưởng, cấm đoán con cái vì ông cho rằng xã hội nhiều cạm bẫy nên đã hạn chế các mối quan hệ của con với bạn bè và môi trường xung quanh. Với sự kiểm soát quá chặt chẽ của gia đình, đứa trẻ đã bỏ nhà lên thành phố Hồ Chí Minh, em vào một câu lạc bộ. Ở câu lạc bộ người ta nhật xét thấy em có tính thích chứng tỏ mình, nhân viên xã hội tiếp cận gia đình giúp gia đình nhận thấy thái độ sai trái đối với con và giúp trẻ hồi gia một cách an toàn. Vận dụng dựa trên một số kỹ năng đã học: - Phân tích được các cấp độ. - Sự tương tác giữa thành viên trong hệ thống (cá nhân và gia đình). Về cá nhân: có sự mơ hồ về vai trò đứa bé có sự giằng xé về vai trò làm con và nhu cầu cá nhân. Về gia đình: - Mơ hồ về vai trò; người bố không nhận thức đúng về trách nhiệm làm cha. - Mâu thuẫn về vai trò trong gia đình. Giải thích theo thuyết âm dương - Sự cứng rắn của cha đưa đến Bùng nổ - Sự cương quyết của con Đứa bé được nhân viên xã hội nâng cao nhận thức đã trở về tác động với gia đình. Về xã hội: do văn hóa phương Đông, người cha luôn có sự áp đặt đứa bé. Giải pháp: - Nhân viên xã hội phải tạo ra năng lượng cho cá nhân trẻ, giúp cho người cha nhận rõ về vai trò, có nghĩa là phải xác định ranh giới của hệ thống cho cả cha và con. Khi tác động vào gia đình nên tác động vào người có uy tín trong gia đình. ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ NGHÈO ĐÓI ĐỐI VỚI SỨC KHỎE TÂM THẦN: 10
  9. Ở Mỹ có một số nghiên cứu về nghèo đói và sức khỏe tâm thần của trẻ em, nghèo đói làm giảm sức khỏe tâm thần trẻ em và người lớn và ảnh hưởng đến sự phát triển của con người. Người ta có đo lường sức khoẻ tâm thần của trẻ em, thiếu niên và người lớn. Và chúng ta biết rõ về ảnh hưởng của nghèo đói đối với sự nhận thức, lao động, học đường, sức khỏe về mặt cảm xúc. - Đối với trẻ em: Nghèo đói có một ảnh hưởng rất mãnh liệt đối với trí thông minh của trẻ em, làm giảm đi trí thông minh và khả năng truyền đạt, và nhiều vấn đề về hành vi. - Đối với thiếu niên ảnh hưởng đến việc học, học càng ngày càng dở, bỏ trường sớm. Trẻ lớn lên trong sự nghèo đói làm giảm khả năng tìm việc làm. + Trẻ em trong gia đình nghèo có nhiều vấn đề về tinh thần, sức khỏe, thể chất khó khăn trong mối quan hệ với cha mẹ, thầy giáo, người lớn (trẻ em nghèo ở Mỹ có xu hướng bị loại khỏi trường học vì các hành vi của chúng). Trong những cuộc nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi mời sinh viên và cha mẹ đánh giá, cho điểm về hành vi của trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy nghèo đói có liên quan mật thiết đến vấn đề của hành vi, và từ 5 đến 8 tuổi trẻ em trong gia đình nghèo thua kém các trẻ em trong gia đình có thu nhập, và trẻ em trong gia đình có thu nhập chút đỉnh không giỏi bằng trẻ em trong gia đình có thu nhập khá. Trẻ em nghèo hay quậy phá hung hãn hơn những đứa khác (cũng như chúng ta nói đàn ông lớn tuổi bực bội đánh vợ) chúng phải quậy để xổ những bực bội của chúng, có nhiều vấn đề về tâm thần hơn. + Trẻ ở tuổi dậy thì: Các cuộc nghiên cứu cho thấy nghèo đói có ảnh hưởng gián tiếp đến hành vi con người, ảnh hưởng đến cha mẹ. Cha mẹ gia đình nghèo dễ xô xát mâu thuẫn, đánh nhau hơn, trẻ em dễ bị ảnh hưởng. Trẻ vị thành niên diễn tả sự bực bội của mình bằng hai cách: thứ nhất bằng vấn đề nội tâm, trầm cảm lo âu và cách thứ hai bên ngoài chúng tỏ ra hung hãn hơn, có nhiều vấn đề về hành vi hơn, đi vào quậy phá, gặp nhiều rắc rối, ở trường và trong khu xóm, chúng tôi gọi là hành vi nguy cơ như hút thuốc lá, sử dụng chất ma túy, uống rượu. Hành vi này đặt trẻ mới lớn rơi vào nguy cơ làm cho tình trạng trầm trọng hơn. Khi điều tra ở các trẻ mới lớn thì thấy trẻ em trong gia đình nghèo, hiện tượng này nặng hơn. - Nghèo đói đối với người lớn: Tình trạng nghèo đói làm cho người lớn gặp sự căng thẳng triền miên và trở thành văn hoá của người lớn trong nghèo đói, sự thiếu thốn liên tục, những nhu cầu không thỏa mãn được, nó trở thành những trở ngại, những đe dọa cho phúc lợi của họ, họ không có những khủng hoảng trầm trọng lớn thí dụ tối 11
  10. không đủ ăn và sự thiếu thốn nhu cầu cơ bản nầy liên tục và ở vài nước có lúc người ta đàn áp những người nghèo nầy. Ở Mỹ, có từ “đổ lỗi cho nạn nhân”, nghĩa là trừng phạt người đi vào cộng đồng để có quan hệ tình dục với trẻ em nghèo chứ không trừng phạt những đứa trẻ nầy vì các em là nạn nhân của cuộc sống nghèo đói và đi vào mãi dâm để sống còn. Chúng ta không thể đến để chỉ trích, phê phán, kết tội các em. Song song đó lại có những biện pháp trừng phạt đối với người nghèo. Và có khi sự chịu đựng này không được nữa, thì người ta bùng nổ ra, có thể người đó bị khủng hoảng tâm thần và vi phạm tội nào đó. Thường người ta mòn mỏi về sự nghèo đói và mức độ của stress khó thấy hơn, người ta thụ động chịu chấp nhận số phận, họ cảm thấy sự tuyệt vọng và vô vọng, họ tự cô lập họ đối với người khác. Trong ngôn ngữ của lý thuyết về vai trò có từ gọi là sự co rút vai trò (role contraction). Thành ra cha mẹ nghèo ngưng lập gia đình, ngưng không tìm việc làm, trẻ em nghèo ngưng không muốn học nữa. Cách người ta thích nghi với hoàn cảnh là sự từ từ khép kín, từ từ bỏ cuộc, sự thay đổi này thường nằm ở bên trong và thường chúng ta không nhận ra được. Trong các cuộc nghiên cứu, stress là sự căng thẳng đè nén của nghèo đói tăng theo năm tháng, kết quả là rối loạn bệnh tật về tâm lý nặng hơn, có những vấn đề cảm xúc tâm lý nghiêm trọng hơn, việc nầy xảy ra gấp 2,5 so với người có tiền. Họ bị trầm cảm, sự trầm cảm này nếu không là bệnh lý thì cũng sẽ là trầm cảm triền miên. Nếu ta quan sát vấn đề trầm cảm giữa nam và nữ thì nữ thường bị nặng hơn. Ở Mỹ, tỉ lệ li dị cao, thường người mẹ phải gánh trách nhiệm nuôi con, trong gia đình người mẹ là chủ gia đình (đặc biệt là trong gia đình nghèo) vấn đề trầm cảm nhiều hơn giới khác nhiều. Khi ta bàn về cộng đồng, điều này tệ hại hơn khi người phụ nữ phải một mình nuôi con mà không có sự hỗ trợ khác, không gia đình, không có bạn thân, không có các dịch vụ về trẻ em. Nhưng sự thiếu thốn nầy đàn bà bị nặng hơn nhiều, không chỉ là trầm cảm họ có thể bị tâm thần phân liệt (bệnh tâm thần nặng nhất). Nguyên nhân rối loạn tâm lý sâu nầy đó là stress triền miên của nghèo đói vì không thấy lối ra nào hết, họ tự cô lập với xã hội và những người có vấn đề sức khoẻ tâm thần này dễ đi vào nghiện ngập, đối với nam họ dễ ngược đãi phụ nữ và trẻ em nhiều hơn. Nghiên cứu cho thấy có sự liên quan giữa nghèo đói và sức khoẻ tâm thần, nhưng người ta chưa thấy rõ tiến trình nghèo đói thâm nhập vào hệ thống của chúng ta thế nào, chúng ta không thấy con đường nghèo đói len lỏi vào chúng ta, có thể nó khác nhau ở từng giai đoạn, có thể khi còn bé sự thiếu dinh dưỡng đã tác động đến trí thông minh, đến bộ não của 12
  11. các em. Có những ví dụ cho thấy sự stress triền miên tác động đến cơ thể của chúng ta và người ta nghĩ rằng có những yếu tố về hóa học làm con người mất đi khả năng chống bệnh. Chúng ta đang nói con đường nghèo đói đi đến cá nhân. Đối với những trẻ em còn ở trong bụng mẹ và trẻ sơ sinh không đủ dinh dưỡng, khi trẻ lớn lên, sự căng thẳng của bố mẹ hoặc những bậc cha mẹ quá khó khăn, quá cứng rắn đã ảnh hưởng đến hành vi của trẻ. Tuy nhiên không phải người nghèo nào cũng bị ảnh hưởng như thế vì mỗi người đều có cách đối kháng. Có 3 nhân tố giúp chúng ta có khả năng đối kháng: Tính khí của mỗi người. Khả năng suy nghĩ. Có nguồn năng lực cao và có tính năng động, có khả năng tập trung suy nghĩ lại. - Những tính khí đó giúp mỗi người chúng ta đối đầu với những khó khăn căng thẳng do nghèo đói mang đến. - Có sự ủng hộ của gia đình, những gia đình có sự ấm cúng thương yêu cho ta những tình cảm tốt đẹp, cho chúng ta tình đoàn kết sự đồng tình trong gia đình và quan trọng nhất là có một người nào đó trong gia đình quan tâm chăm sóc đến chúng ta, người đó có thể là anh chị, cô dì chú bác ông bà, giúp chúng ta có khả năng đối đầu. - Sự bảo vệ từ bên ngoài hệ thống, bên ngoài gia đình: Một người nào đó bên ngoài gia đình quan tâm giúp đỡ có thể là người thầy, hàng xóm, nhà thờ hoặc một người lớn tuổi nào đó. 13
  12. CÁC HỆ THỐNG TƯƠNG TÁC TRONG MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI CÁC LỰC XÃ HỘI Chính trị Kinh tế Môi trường Ý thức hệ MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI HỆ THỐNG HỆ THỐNG TRUNG MÔ VĨ MÔ Các cơ sở Gia đình Nhóm định chế Văn hoá HỆ THỐNG VI MÔ Các tổ chức (Cá nhân) Cộng đồng MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC HỆ THỐNG TÂM -SINH - XÃ HỘI Hệ thống vĩ mô Giả Hệ thống trung mô Giá thuyết ý Gia đình Nhóm trị văn thức hộ hoá Hệ thống vi mô (Cá nhân) Mạng lưới 14c ủa cha Nơi mẹ làm việc của cha mẹ
  13. Hệ thống Hệ thống sinh học xã hội Hệ thống tâm lý 15
  14. NỘI DUNG TẬP HUẤN NGÀY HAI (8/7/1997) - NGHÈO ĐÓI (Con đường mà sự nghèo đói thâm nhập vào đầu óc trẻ em, thanh niên, và người lớn). Về trẻ nhỏ, về dinh dưỡng: Qua nghiên cứu, chúng ta biết là trẻ nhỏ sống trong sự nghèo đói thì không được phát triển thể chất tốt. Ảnh hưởng của sự nghèo đói đối với trẻ nhỏ có mức độ nghiêm trọng hơn so với tuổi thanh niên và người lớn. Yếu tố thứ nhất là thiếu dinh dưỡng, thứ hai là đứa trẻ không tập trung chú ý trong việc học tập. Sống trong cảnh nghèo đói trẻ em nghèo có thể bị ảnh hưởng do môi trường không trong sạch, thiếu vệ sinh, và do môi trường vệ sinh xung quanh. Ở Mỹ, có những chung cư người ta sơn tường bằng chất chì và có những đứa trẻ bốc sơn tường để ăn, khi bốc ăn chất chì sẽ ảnh hưởng đến trí óc của trẻ. Những đứa trẻ trong vùng nghèo đói có dịp tiếp xúc với hóa chất độc. Một trong những vấn đề chúng tôi gọi là rối loạn về sự thiếu tập trung chú ý (Attention dificit disorder) có thể là đứa trẻ rất linh hoạt nhưng không thể ngồi yên, không thể tập trung. Các bệnh có thể thấy ở trẻ em như suyễn, ở những nhà có nhiều côn trùng mang mầm bệnh. Có những trẻ không bị ảnh hưởng nghiêm trọng như vậy nhưng vấn đề suy nghĩ và học hành, một con đường của sự nghèo đói là thông qua môi trường dinh dưỡng kém thiếu vệ sinh. Nghèo đói thâm nhập vào gia đình từ đó ảnh hưởng đến trẻ nhỏ. Trẻ nhỏ phụ thuộc vào gia đình, vào bố mẹ, thông qua đó sử dụng nguồn tài nguyên vĩ mô. Những gia đình nầy là những gia đình không có khả năng để sử dụng nguồn tài nguyên của xã hội. Khi họ đấu tranh để có tài nguyên mà đứa trẻ cần thiết, chính trong quá trình đấu tranh đó, những bậc cha mẹ nầy thường không được mạnh khỏe về tình cảm, về thể chất, về tâm lý so với những bậc cha mẹ có khả năng tìm việc làm và tiếp cận được những nguồn tài nguyên ngoài xã hội. Các bậc cha mẹ trong gia đình nghèo ra ngoài xã hội thì gặp khó khăn và có vấn đề cho nên họ trở nên khó chịu, do đó có ảnh hưởng đến trẻ, những bậc cha mẹ này thường cứng rắn, nghiêm khắc, không lắng nghe lý lẽ mà luôn luôn áp đặt. Các nghiên cứu cho thấy các bậc cha mẹ có khó khăn thường là kết quả của sự nghèo đói và ảnh hưởng lên trẻ. Chúng ta cần phải có nhận thức khi làm việc với những bậc cha mẹ, cần tách biệt những mục đích mà cha mẹ đang muốn hướng tới, với những phương tiện để đạt tới mục đích của họ. Trong thí dụ ngày 16
  15. hôm qua các bạn đưa ra về người bố và đứa con: nếu tôi được làm việc với người cha đó ở Mỹ, tôi sẽ chỉ cho ông biết là tôi rất tôn trọng mục đích của ông, tôi sẽ chỉ cho ông ta thấy ông là người cha tốt bởi vì ông muốn bảo vệ gìn giữ đứa con khỏi bị ảnh hưởng xấu ở bên ngoài. Vấn đề ở đâây là ông sử dụng phương tiện để đạt mục đích tốt của mình thì không có hiệu quả, điều để có thể làm việc được, để tạo quan hệ với người cha đó là tôn trọng điều đúng, điều tốt ở ông ta đó là ông ta là một người cha tốt điều thứ hai là ông ta muốn có điều tốt cho đứa con của ông ta. Vấn đề của ông ta là ông muốn con khỏe mạnh và thành công trong cuộc đời, chúng ta làm việc với ông ta và cung cấp cho ông một số kỹ năng và một số phương cách để tạo ra một sự giúp đỡ, một kỹ luật thích hợp cho đứa con. Về trẻ em mãi dâm vị thành niên có thể do cha mẹ bán đi, có thể do gia đình đó muốn bảo vệ các thành viên còn lại trong gia đình thoát đói nên phải hy sinh đứa trẻ. Ở đây mục đích có thể là mục đích tốt, đó là sự sống còn của toàn gia đình nhưng phương tiện mà họ sử dụng là cái điểm mà khi ta làm việc với gia đình này ta giúp để họ thay đổi, gia đình này còn có cách làm khác để sống còn không? Nếu ta nghĩ xấu về gia đình đó và đánh giá họ hoặc nghĩ xấu về đứa trẻ đó, ta sẽ không tham gia với họ một cách tôn trọng. Cũng có những trường hợp cha mẹ bán con đi vì cờ bạc, cần tiền để trả nợ, cần tiền để nghiện ngập, hay những giá trị đối với họ là những điều họ muốn hay họ thích. Chúng ta cần giúp họ thay đổi những quan niệm về giá trị của họ và lúc đó mục đích cũng sẽ khác đi và phương tiện cũng khác đi - đó là con đường mà chúng ta phải trải qua. Về cơ cấu gia đình: Khi đứa trẻ lớn lên trong một gia đình không đủ cha mẹ cũng tạo ra vấn đề. Trong một gia đình chỉ có một cha hoặc chỉ có một mẹ thì họ không đủ thời gian để chăm sóc trẻ nghĩa là người đó không kiểm soát, không đem lại tài nguyên cho đứa trẻ. Những gia đình đơn thân này lại ít được sự hỗ trợ của xã hội, cảm thấy bị cô lập nhiều hơn đối với thế giới bên ngoài, họ cảm thấy xuống tinh thần. Khi sự việc xảy ra nó ảnh hưởng toàn bộ tới những đứa trẻ trong gia đình đó. Trong một lĩnh vực nghiên cứu khác là những rối loạn bên trong gia đình, những gia đình đối phó với nạn bạo hành, nghiện ngập, AIDS, vô gia cư dĩ nhiên đứa trẻ sống trong những gia đình này bị ảnh hưởng và những gia đình này không có nguồn lực về tài nguyên để chăm lo cho trẻ, họ không có những năng lượng cần thiết để nuôi dưỡng để quan tâm đến trẻ, tạo cho trẻ một cảm giác an toàn. Trong những gia đình đó, cha hoặc mẹ bỏ đi, trẻ bị bỏ bê, bị ngược đãi, trẻ sống trong gia đình có cha hoặc mẹ nghiện ngâäp, trầm cảm tất cả điều đó đem lại cho đứa trẻ sự nghèo đói vào tuổi vị thành niên. 17
  16. Mối tương tác giữa gia đình và trẻ vị thành niên Căng thẳng về kinh tế, stress tác động ảnh hưởng đến cách cha mẹ đối xử với con cái, vì đứa trẻ lớn lên nó cảm nhận được sự căng thẳng kinh tế mà cha mẹ nó đang có, cha mẹ sổ những bực bội vào con mình, trong những gia đình này có những mâu thuẫn về gia đình hơn, nó làm giảm chất lượng của việc làm cha mẹ, làm tăng sự căng thẳng giữa cha mẹ với con cái mới lớn. Trong những gia đình này việc hoà nhập văn hoá mới rất khó khăn, đặc biệt là những bậc cha mẹ. 18
  17. Nghèo đói tác động đến xóm giềng: Trẻ sống trong khu xóm chỉ có những người nghèo mà thôi và có những gia đình ổn định, trẻ ít có nguy cơ. Nếu sống trong những cộng đồng nghèo hoặc không nghèo, không có một sự bảo trợ cho đứa trẻ, những hành vi tiêu cực có tính lây lan, trẻ trong các khu xóm không tốt sẽ gặp những trẻ khác có hành vi tiêu cực và bắt chước, do áp lực của nhóm bạn. Một nghiên cứu đã nêu lên được mối quan hệ giữa khu xóm nghèo và trẻ mới lớn. Ở những xóm nghèo này tỉ lệ thất nghiệp cao, trường không có, người dân bị cô lập với thế giới bên ngoài, có những tấm gương không tốt, có những thành kiến đối với người nghèo, có những ảnh hưởng xấu của các nhóm. Tất cả các cái này hòa trộn với sự nghèo đói, tạo ra ảnh hưởng xấu đối với trẻ. Mối tương quan giữa nghèo đói và người trung niên Kết quả nghiên cứu chỉ rất rõ sự căng thẳng về kinh tế ảnh hưởng đến người lớn, nhiều cuộc nghiên cứu chứng minh rằng thất nghiệp là chỉ báo rõ ràng nhất đó là sự xuống tinh thần, trầm cảm đối với cả nam lẫn nữ, đặc biệt là đối với những cha mẹ có con còn nhỏ. Sống trong cảnh nghèo các cặp vợ chồng hay gặp rắc rối, thường hay cãi nhau liên tục về số tiền ít ỏi của mình. Các cuộc nghiên cứu này cũng nói lên rằng phụ nữ có con là những người dễ bị tổn thương nhất. Có một công việc để làm ảnh hưởng rất nhiều đến tâm lý, nếu có một công việc thích thú, sự dễ chịu của bạn về tâm lý - tình cảm sẽ phát triển còn những người không làm việc hay không tìm ra việc họ dễ bị stress, buồn bực nhiều hơn. Cuộc nghiên cứu này cũng nói rằng phụ nữ ra bên ngoài làm việc thì những người đó có cuộc sống gia đình hạnh phúc hơn, họ thường thích thú với công việc của mình, chắc chắn họ cảm thấy hạnh phúc. Ở Mỹ, công tác là một cơ hội, một công việc để có nhiều mối quan hệ với người khác. Phụ nữ nghèo nếu có việc làm sẽ có những tác động tích cực nhiều hơn. Đối với những phụ nữ nghèo ở khu xóm nghèo ít có mối quan hệ tốt. Văn hóa: văn hóa nối kết mọi người lại với nhau, văn hóa bao gồm hành vi con người trong đời sống bên ngoài, bao gồm những giá trị mà chúng ta trân trọng, và những chuẩn mực bình thường mà chúng ta đối với nhau cái gì là thích hợp. Văn hoá là phong thái, phong cách, cách chúng ta chào hỏi lẫn nhau, cái giá trị đạo đức mà chúng ta trân trọng. Văn hoá là công cụ để người ta liên hệ với nhau. Văn hoá hình thành tiến trình thành nhân của mình, văn hóa ảnh hưởng từ vĩ mô trung mô đến vi mô đối với chúng ta, giúp chúng ta thẩm định giá trị của nhau. 19
  18. Gia đình là đơn vị giá trị, bản chất của văn hoá để truyền đạt văn hóa cho cá nhân trong gia đình, cho nên nếu gia đình có rắc rối thì gia đình không có khả năng truyền đạt những kỹ năng xã hội hoá cho con cái trong gia đình, gia đình gặp rắc rối thường xã hội hoá con cái một cách méo mó. Thí dụ: Ăn cắp để kiếm sống. Các công cụ mà xã hội sử dụng dựa vào giác quan như nghe, thấy, ngửi, có những công cụ làm tăng sự sử dụng giác quan của chúng ta và điện thoại giúp ta nói được rất xa, chúng làm cho sự vật gần chúng ta hơn. Có những công cụ giúp chúng ta tăng cường kỹ năng vận dụng của chúng ta, làm cho chúng ta di chuyển rất xa, và có những sản phẩm văn hoá giúp cho chúng ta suy nghĩ tốt hơn, và chúng ta đang học để tăng cường khả năng học của chúng ta. Các cộng đồng Có những nghiên cứu khác cho thấy cộng đồng ảnh hưởng đến bệnh tâm thần. Ở những cộng đồng đông đúc dân cư, dễ bị tâm thần hơn, tâm thần phân liệt ở thành phố cao hơn nông thôn, tỉ lệ khác nhau ở các tầng lớp khác nhau, giai cấp thấp nhất là giai cấp dễ bị tâm thần nhất? Tại sao? Vì bởi có những căng thẳng triền miên đeo đẳng đối tượng đó suốt cuộc đời. Công nghiệp phát triển, nhà máy mọc nhiều, mọi người đổ dồn lên thành phố tìm việc. Trước tiên ai là người sống trong cộng đồng, người nghèo làm xuống cấp vấn đề giáo dục. Cộng đồng nghèo có hai vai trò của trẻ em là đi học và học nghề để trở thành người lớn tốt, bị đẩy ra ngoài đường và đi vào con đường tội phạm. Cộng đồng này xã hội hoá gia đình và gia đình lại là nơi xã hội hoá đứa trẻ mặc dầu cộng đồng có ảnh hưởng nhưng ảnh hưởng của gia đình vẫn là mạnh nhất. Những người giúp đỡ nằm bên ngoài của cộng đồng, hành động đó cũng có thể giúp gia đình qua cơn khó khăn nhưng lại làm yếu đi sự giúp đỡ của cộng đồng đối với gia đình, ngoài sự giúp đỡ gia đình vẫn cần sự giúp đỡ trong mạng lưới ở cộng đồng, nghiên cứu cho thấy nếu cha mẹ có sự ứng xử tốt thì sẽ có lối hành xử tốt với con cái. Một đặc điểm ở cộng đồng có ảnh hưởng đến trẻ em là: 1. Sự di chuyển của mọi người đi và đến cộng đồng. 2. Tuổi 3. Cấu trúc của gia đình trong cộng đồng. 20
  19. Những vấn đề này đều ảnh hưởng đến sự ngược đãi trẻ, đến hành vi sử dụng ma túy. Tuy nhiên, có những cha mẹ có những hành vi không tốt đối với con cái, cha mẹ ngăn cản làm cho trẻ không phát triển một cách bình thường, cơ hội phát triển bị giới hạn. Trong những gia đình lành mạnh có nhiều thiết chế xã hội, tất cả mọi người đều hỗ trợ những giá trị lành mạnh, họ khuyến khích trẻ tuân thủ những giá trị đó. Trong cộng đồng không được lành mạnh thì ít có sự quan hệ cha mẹ giúp con cái sử dụng cộng đồng. Cộng đồng nghèo có nhiều sự bạo hành: Hàng ngày có những cuộc cạnh tranh sống còn, lối sống có nhiều âu lo căng thẳng triền miên, có những vấn đề tệ nạn khác gắn liền với căng thẳng này, trẻ em có thể nhìn thấy những bạo lực như bắn súng trên đường phố, điều làm cho những khó khăn này có thể giảm là một hệ thống cơ chế xã hội lành mạnh được phát triển thêm ra. Chính những người trong khu phố liên kết nhau lại để xây dựng tầng vĩ mô. Ở Mỹ có những người thị trưởng dùng sức mạnh đề đạt với Trung Ương trao quyền lại cho vùng, ví dụ: người ở vùng nghèo tập trung lại để đòi hỏi những dịch vụ như dịch vụ y tế, những nhà do chính quyền đài thọ xây cất. Cho nên khi làm việc với cộng đồng chúng ta phải tìm hiểu năng lực cộng đồng trên gia đình, và giúp người dân trong cộng đồng cùng hợp tác làm việc với nhau để ngày một nâng cấp lên. Chương trình này được gọi là “Cuộc chiến chống lại nghèo đói”. Cha mẹ trong gia đình nghèo trở thành những cha mẹ tốt hơn, tạo ra cho trẻ đi học sớm hơn, nhân viên xã hội cần phải làm việc với cha mẹ để nâng kỹ năng làm cha mẹ, nâng cao các dịch vụ cho người dân trong cộng đồng để họ ý thức tạo sự gắn bó với nhau. Đây là một thí dụ - Bạn làm gì với trẻ cũng sẽ ảnh hưởng đến sự lớn lên của trẻ. - Trẻ tự tin tự đánh giá mình tích cực. - Công tác xã hội tạo được sự tự tin nơi trẻ thì trẻ sẽ thành công. - Sự hỗ trợ khác đó là thông tin, nhân viên xã hội, bác sĩ, thầy giáo, láng giềng, thông tin cho trẻ, giúp trẻ thì đó là sự hỗ trợ tốt nhất. - Hỗ trợ về mặt công cụ, nếu không có họ hỗ trợ. Thảo luận nhóm Các học viên chia thành 3 nhóm nhỏ, sử dụng những điều đã học, chọn một cộng đồng (hoặc một phường, quận, thành phố) nghiên cứu những vấn đề: - Xác định nhu cầu và vấn đề của cộng đồng. 21
  20. - Chọn mục tiêu. - Trong cộng đồng chọn thì có những tài nguyên và sức mạnh nào. - Xác định những tài nguyên còn tiềm ẩn. - Thiết lập một chiến lược để giải quyết. - Thẩm định giá trị chiến thuật chiến lược thành công cỡ nào, tại sao thành công? Nhóm 1 1. Chọn cộng đồng Phường 14, Quận 8 (Buôn bán phổ thông) 2. Nhu cầu chính: có công ăn việc làm Vấn đề: nhiều vấn đề xảy ra: trẻ suy dinh dưỡng, bỏ học nhiều, trình độ văn hóa thấp, không tay nghề, môi trường ô nhiễm. - Tính bảo thủ của người nông dân. - Tệ nạn xã hội. Vấn đề cần quan tâm: trẻ suy dinh dưỡng, bỏ học, không có tay nghề. 3. Mục tiêu: tạo việc làm ổn định cho người dân. 4. Tài nguyên cộng đồng: - Cộng đồng là ốc đảo, tài nguyên xung quanh có thể tạo công ăn việc làm. - Người dân rất siêng năng cần cù. 5. Tiềm năng tiềm ẩn: Mối quan hệ gắn bó giữa con người với con người (văn hoá nông thôn, tình làng nghĩa xóm) 6. Chiến lược: - Tạo việc làm ổn định tăng thu nhập cho người dân + Những tổ hợp nhóm nhỏ do cá nhân quản lý (giúp họ bằng cách vay tín dụng xóa đói giảm nghèo) 7. Sau 3 năm sẽ đạt 60% Góp ý của Giảng viên * Nên cắt mục tiêu thành những mục tiêu ngắn trước mắt để họ có thể nhìn thấy thành quả ngay. * Tôi nhận thấy cộng đồng này gắn bó với nhau rất tốt, nhóm phụ nữ đã thường xuyên vãng gia nắm tình hình trong cộng đồng để hỏi xem mỗi thành viên trong cộng đồng có thể làm gì để giúp ích cho họ. Thí dụ một thành viên có thể dạy một nghề mình biết để đóng góp cho cộng đồng, một thành viên khác có học vấn cao có thể dạy trẻ trong cộng đồng, dùng chính sức mạnh trong cộng đồng để hỗ trợ cho 22
  21. cộng đồng. Nhóm cộng đồng sẽ cho những thành viên này những phiếu chấm công để được hưởng những quyền lợi gì đó về sau, có thể trong cộng đồng có một người nào đó có phương tiện chuyên chở hỗ trợ cho cộng đồng, họ được chấm công để được hưởng một dịch vụ nào đó miễn phí chẳng hạn như dịch vụ y tế, Nhóm 2 1. Chọn Phường10, Quận 8 2. Vấn đề: - Ô nhiễm môi trường, vệ sinh công cộng trên sông (thói quen văn hoá tập quán làm tăng thêm sự ô nhiễm). - Nhà nước sắp giải toả các nhà vệ sinh trên sông. Nhu cầu: có nhà vệ sinh riêng cho từng hộ dân (những nhà ở đất liền). 3. Mục tiêu: hỗ trợ xây nhà vệ sinh cho từng hộ dân, có một nhà vệ sinh riêng cho mỗi hộ trong đất liền. 4. Tài nguyên: - Sức mạnh trong cộng đồng, lao động có tay nghề, trong cộng đồng hầu hết người dân đều yêu thích lao động. - Có sự tham gia đóng góp tài chính của dân. 5. Tiềm năng tiềm ẩn: - Những hộ khá tự xây nhà vệ sinh lấy. - Hộ khá tương trợ cho hộ nghèo xây dựng cầu. (họ phải thay đổi thói quen vì nhà nước sẽ giải tỏa các nhà vệ sinh trên sông) 6. Chiến lược: - Giáo dục và tuyên truyền. - TaÏo điều kiện để mỗi nhà có nhà vệ sinh riêng bằng cách động viên và cho họ vay tiền. - Tác động vào những đối tượng quan tâm trong cộng đồng. 7. Thay đổi ý thức cần phải có thời gian. Góp ý của Giảng viên 23
  22. * Nếu không có sự hỗ trợ của cơ quan, ta có thể thay đổi thói quen của họ bằng cách chỉ cho họ thấy thói quen làm ô nhiễm môi trường ảnh hưởng đến sức khoẻ con em họ, nếu họ coi trọng người lớn tuổi, tình trạng ô nhiễm sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ. Nếu họ coi trọng tổ tiên ta sẽ chỉ cho họ thấy sự ô nhiễm ảnh hưởng đến trẻ em, mà tổ tiên thì rất coi trọng đến sức khoẻ trẻ em. 24
  23. Nhóm 3 1. Chọn cộng đồng Cầu Hàn - Tân Thuận Tây. 2. Nhu cầu - Cần đầu tư vốn để tạo công ăn việc làm Cải thiện hạ tầng cơ sở như cải thiện điện, nước, đường sá, nhà trẻ, chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, phòng chống AIDS. Vấn đề: Mãi dâm, nghèo đói, thất học, cho vay nặng lãi. 3. Mục tiêu - Tạo việc làm để giảm mãi dâm. - Dạy học để giảm thất học. 4. Tài nguyên: - Có cơ sở may, xí nghiệp đông lạnh, một vựa muối nhỏ, Hội Phụ Nữ mạnh. - Chính quyền hỗ trợ tích cực (chủ tịch là chủ dự án). 5. Tiềm năng tiềm ẩn: - Hội bảo trợ, phát triển niềm tin bằng tôn giáo, dùng dư luận quần chúng để làm trong sạch môi trường 6. Chiến lược: * Trước mắt - Dạy nghề, dạy chữ cho thanh thiếu niên (giới thiệu những em muốn học nghề đến trung tâm dạy nghề của quận). - Vận động chính quyền giáo dục thường xuyên cho người dân để nâng cao nhận thức. * Thời gian: 1 năm cho vấn đề dạy chữ dạy nghề 1 năm thay đổi nhận thức cộng đồng Giảng viên nhận xét kết quả buổi thảo luận Chúng ta đã bàn với nhau suốt hai ngày về tầm vĩ mô, trung mô và vi mô, về những lý thuyết và những cách làm việc tại cộng đồng. Qua buổi thảo luận hôm nay chúng tôi rất thích thú và phấn khởi về sự hiểu biết của anh chị trong cộng đồng. Mỗi nhóm có thể đi cùng với chúng tôi về Mỹ để dạy về Phát Triển Cộng Đồng ở Đại Học. 25
  24. NỘI DUNG TẬP HUẤN NGÀY BA (9/7/1997) - Nhóm. + Cấu trúc nhóm. + Văn hoá nhóm. - Gia đình, cơ cấu gia đình. + Chức năng gia đình. + Cơ cấu gia đình. + Văn hoá gia đình. + Biểu đồ sinh thái. + Quyền lực trong gia đình. 1. NHÓM: 1.1 Cấu trúc nhóm: Khi bàn về nhóm có hai cách suy nghĩ: - Tìm hiểu vai trò của nhóm có thể có trong xã hội vĩ mô thế nào? và cũng có thể tìm hiểu những gì xảy ra cho con người ngay trong các nhóm? Đó là vai trò của nhóm trong cộng đồng và xã hội. - Và cách nhìn thứ hai mang tính vi mô nghĩa là những gì xảy ra cho cá nhân ngay trong nhóm. Định nghĩa về nhóm mang tính cấu trúc, khi người ta làm việc với nhau và tương tác lẫn nhau và với thời gian, sẽ xuất hiện cấu trúc. Nhóm có một ranh giới bên ngoài và ít nhất là một ranh giới bên trong, nghĩa là có những tiêu chuẩn để xác định ai là thành viên trong nhóm và ai không là thành viên trong nhóm. Cũng có những tiêu chuẩn khác để xác định ranh giới nhóm. Đối với một nhóm cần phải tìm hiểu ranh giới để phân biệt nhóm với bên ngoài. Khi người ta tương tác với nhau người ta bắt đầu phân biệt các thành viên. Thí dụ như ở Đại học, những người có kiến thức nằm ở bên trong hoặc ở trong quân đội người có vị trí cao nhất là tướng thường đứng ở trung tâm. Và vòng bên trong là vị trí của lãnh tụ. ranh giới bên ngoài 27 ranh giới bên trong
  25. Khi đến với nhóm người ta sẽ để ý đến người lãnh tụ nhiều hơn. Bước đầu khi nhóm mới hình thành, các nhóm viên chưa để ý đến nhau, khi bước vào nhóm chúng ta biết tới một vài người có vị trí đặc biệt trong nhóm, chúng ta vẫn ý thức được về chúng ta và với những người chung quanh, chúng ta ý thức một cách chung chung không rõ rệt lắm. Khi nhóm viên có sự tương tác, họ bắt đầu biết nhau, bây giờ họ không chỉ để ý đến người lãnh tụ, họ bắt đầu đánh giá lẫn nhau. Cách xếp hạng phụ thuộc cái gì họ cho là có giá trị. Thí dụ: trong Đại học, người có ý kiến sáng tạo nhất được xếp ở vị trí cao. Vị trí và vai trò nhóm giúp chúng ta hiểu hành vi trong nhóm. Đối với các nhóm muốn hoạt động tốt, có hai vai trò phải được thực hiện: - Vai trò mang tính công cụ (vai trò hoạt động chuyên môn). - Vai trò mang tính tình cảm (vai trò hỗ trợ tình cảm). Trong nhóm phải có người đóng vai trò công cụ và có người đóng vai trò tình cảm. Người đóng vai trò công cụ thúc đẩy nhóm đạt được mục tiêu để hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng nếu trong nhóm chỉ có người thúc đẩy công việc để đạt được mục đích thì cũng có khó khăn. Trong nhóm muốn hoạt động tốt cần có người quan tâm đến tình cảm, tâm lý, quan tâm đến xúc cảm của nhóm viên. Chẳng hạn như người đó phát hiện trong nhóm có người muốn phát biểu nhưng họ còn nhút nhát, người đó sẽ đề nghị nhóm viên đó phát biểu, không những thế người đó còn nói lên những điểm tích cực của các nhóm viên khác để họ tương tác với nhóm. Trong nhóm, một người khó có thể đóng một lúc cả hai vai trò. Nhóm được đánh giá tốt khi cả hai vai trò này cùng hiện diện. Ngoài ra có những vai trò khác mà người ta cũng cần phải quan tâm, đó là những vai trò chỉ nhằm phục vụ cho bản thân mình mà thôi, không quan tâm đến người khác, những người này thường không thích thỏa hiệp với ai cả, họ luôn luôn bất đồng với mọ người, tạo mâu thuẫn, họ độc quyền, thích nắm quyền lực, đối với những người này nhóm cần phải đối phó với họ để nhóm tiếp tục hoạt động. Có những nhóm người ta phân vai cho nhau để cô lập một vài nhóm viên, họ coi những nhóm viên này như những con chiên ghẻ chẳng làm được việc gì cả. Nhân viên xã hội cần phải nhạy bén trước những hiện tượng này, giúp cho các nhóm viên cởi mở nhìn nhau một cách tích cực hơn. Cũng có khi cá nhân 28
  26. gặp những khó khăn rắc rối trong nhóm chẳng hạn có người vụng về trong hoạt động tập thể và hoạt động xã hội. Ở các nhóm trẻ em điều này có thể xảy ra. Chúng ta nên quan tâm đến hành vi của cá nhân trong nhóm vì những hành vi của cá nhân trong nhóm phản ảnh chính xác hành vi của họ ở ngoài xã hội. Mặc dù họ có những biểu hiện khác đi nhưng sớm hay muộn thông qua sự tương tác nhóm, họ sẽ biểu hiện con người thật của họ, họ sẽ biểu hiện những vấn đề mà họ từng có trong quan hệ với người khác, vì vậy nhóm trở thành một tiểu thế giới. Khi chúng ta giúp cá nhân thể hiện hành vi ứng xử tích cực bên ngoài thì bên trong chúng ta cũng dạy cho họ biết cách ứng xử tiêu cực. Chẳng hạn chúng ta có thể mời các nhóm viên nói lên cảm xúc của họ về hành vi của từng người và mời nhóm viên khác giúp cho người đó, tập cho người đó có những hành vi mới. Những hành vi này người ta nói nó mang tính chức năng nhiều hơn, nghĩa là hiệu quả hơn vì đã giúp cho họ có được những điều mà họ mong muốn. Các nhóm thường có xu hướng chia thành nhiều tiểu nhóm. Khi chúng ta tập họp thành nhóm thì không nên quá đông vì có thể họ sẽ không tập trung, chia thành nhiều tiểu nhóm. Thường mỗi nhóm nên có từ 6 - 12 thành viên. Khi bàn về hành vi, năng lực hay năng động nhóm, phần lớn các nhóm có những áp lực từ bên ngoài hay từ bên trong. Nếu nhóm hoạt động tốt thì các áp lực đó trở thành cân bằng hơn, đó là sự gắn bó chặt chẽ giữa các nhóm viên. Khi làm việc với nhóm có hai điểm cần quan tâm, chẳng hạn như nhóm có người có ý kiến này, người kia có ý kiến kia, người khác không đồng ý với cả hai người trước, như thế có sự dấn thân vào nhóm. Nhưng lúc này cần có lực lượng cân bằng trở lại và khi có sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau nhóm dễ dàng thỏa hiệp hơn. Có những người tạo được sự thỏa hiệp và tìm ra giải pháp cho sự khác biệt giữa nhóm viên. Khi thành lập nhóm, người ta quan tâm gắn bó lẫn nhau. Tuy nhiên trong nhóm sẽ có những bất đồng, những sự khác biệt vì làm sao có hai người nhìn thế giới giống nhau có những suy nghĩ và cảm xúc hoàn toàn giống nhau. Khi bạn thật sự dấn thân và bộc lộ suy nghĩ của bạn, chắc chắn sẽ có những va chạm đối với người khác, đó là điều tốt, tốt hơn mọi người làm thinh, và không tham gia. Thứ nhất chúng ta hãy cố gắng tạo ra sự gắn bó với nhau trong nhóm để cùng xử lý các khác biệt và mâu thuẫn luôn phải được cân bằng bởi sự gắn bó với nhau. Nhiều nhóm lại không có sự mâu thuẫn từ bên trong mà lại có những mâu thuẫn xã hội từ bên ngoài. 29
  27. Trong các nhóm, người ta mong mỏi hai điều đó là sự tương tác và sự mâu thuẫn (đây là sự biểu hiện tham gia tích cực hết mình của các thành viên). Nhưng mâu thuẫn luôn luôn được cân bằng bởi sự quan tâm gắn bó của các thành viên. Khi làm việc với nhóm, nhân viên xã hội phải chỉ rõ cho nhóm thấy được hai mặt này. Internal Dysfunctional Cohesive Functional Hành vi tạo mâu thuẫn (hành Hành vi tạo gắn bó vi phản chức năng) - Giao tiếp cởi mở. - Phát biểu nông cạn - Mọi người chú ý tôn trọng ý - Các thành viên phê phán kiến của nhau. lẫn nhau, không chú ý lắng - Tất cả mọi thành viên đều có nghe ý kiến của nhau. cơ hội phát biểu ý kiến - Hành vi áp đặt khống chế - Tất cả các thành viên được hành vi khác. tham gia làm quyết định, tất cả - Hành vi quyết định đưa ra ý kiến được phát biểu đều một cách vội vàng, không được, xem xét đưa ra quyết xem xét các phương án khả định. thi khác. - Tập trung chú ý vào những - Đặt trọng tâm chú ý vào điều tốt (cần khen ngợi ý kiến những điểm không tốt. tốt) - Khi các thành viên tranh - Khuyến khích mọi thành giành nhau để nói, ai cũng viên tham gia, khuyến khích giành thời gian để nói (muốn từng người một, khuyến khích người khác im để mình nói) mỗi thành viên phát biểu ý - Có một vài thành viên kiến của mình chứ không phải không thấy gây rối loạn, phát biểu dùm người khác. thiếu trách nhiệm về hành vi - Các thành viên trong nhóm của mình. cư xử đúng mực, họ chịu trách - Các thành viên không quan nhiệm về hành vi của mình, 30
  28. tâm đủ đến các thành viên chịu trách nhiệm về công việc khác, cảm xúc của thành về nhóm, không đổ thừa cho viên khác. người khác khi họ cư xử không đúng. - Những thành viên trong nhóm rất tế nhị đối với cảm xúc của thành viên khác, họ ủng hộ tình cảm cho nhóm, họ tạo nên một không khí an toàn để mỗi thành viên cảm thấy có thể phát biểu 31
  29. 1.2 Văn hoá nhóm: Mỗi nhóm đều tạo nên văn hoá riêng của riêng, nên nhóm có cách riêng để làm, có cách riêng để thích nghi. Văn hoá có hai phần vật chất và không vật chất. Nếu ta tham gia một nhóm nghèo mà bạn có một xuất xứ khác, bạn rất khó giao tiếp, khó hiểu được văn hoá của nhóm đó. Khi làm việc với nhóm, chúng ta nên biết về văn hoá của nhóm đó nếu nhóm đó đã từng làm việc với một nhân viên xã hội khác trước chúng ta, có thể là thành viên trong nhóm sẽ nói với chúng ta là cách chúng ta làm việc với họ không đúng. Nếu một giảng viên bị bệnh nghỉ mà tôi phải dạy thế thì những sinh viên sẽ nói với tôi là: Cách thầy dạy không giống cách thầy cũ đã dạy hoặc Thầy nói nhiều hơn giáo viên cũ Họ có thể phát biểu như vậy bởi vì trong quá trình làm việc trước đây họ đã tạo nên văn hoá riêng. Nếu mà tôi chú ý một chút là trước khi vào dạy ở lớp đó tôi nên có một nghiên cứu về văn hoá của lớp đó. Một điều khác chúng ta nói về hệ sinh thái, ngoài văn hoá ra chúng ta còn nói về sự tiến hóa. Khi một nhóm đi tìm sự cân bằng của mình, nhóm sẽ thay đổi theo thời gian. Giai đoạn phát triển của nhóm: - Giai đoạn băét đầu. - Giai đoạn giữa. - Giai đoạn kết thúc. Các hành vi của nhóm ở từng giai đoạn đều khác nhau. Thí dụ: Khi nhóm mới thành lập mọi thành viên rất là ngại phát biểu, tham gia. Ở giai đoạn đầu nhóm viên phát biểu rất cạn và hời hợt. Công việc của nhân viên xã hội là giúp họ thay đổi vai trò để họ tham gia giải quyết vấn đề của họ. Khi bước vào giai đoạn giữa các thành viên cởi mở với nhau hơn, chịu phát biểu ý kiến và đây cũng là lúc xảy ra nhiều mâu thuẫn đó là lúc văn hoá được tạo thành, là cách qui định họ phải làm việc với nhau như thế nào. Mọi người cảm thấy là mình gắn bó với nhóm quan tâm đến nhóm, hiểu được mục đích của nhóm và tất cả mọi người đều tham gia để mục đích của nhóm có thể đạt được. Lúc đó mọi người đã có khả năng diễn đạt ý kiến của mình, họ sẽ bảo vệ lẫn nhau, sẽ tôn trọng lẫn nhau. Nếu trong giai đoạn đầu, nhân viên xã hội làm tốt công việc của mình thì ở giai đoạn nầy họ chỉ việc ngồi chơi để cho nhóm tự tham gia. Vào giai đoạn cuối của nhóm: 32
  30. Tôi không muốn họ có mối ràng buộc, tôi muốn họ có thể cắt đứt mối ràng buộc và gần nhau hơn và nghĩ đến việc họ sẽ làm gì trong hướng sắp tới. Và công việc của nhân viên xã hội ở giai đoạn cuối thì khác nhau. Nói rõ hơn thì công việc của nhân viên xã hội khi làm việc với nhóm ở ba giai đoạn đều khác nhau. 33
  31. 2. GIA ĐÌNH Gia đình là nhóm sơ cấp trong đó các thành viên có trách nhiệm và sống chung với nhau, trách nhiệm có tính cách hỗ tương, và tính chất sơ cấp của gia đình là sự gặp mặt đối diện với nhau, cùng chia sẻ những nếp sống bình thường, những qui chế bình thường có liên hệ đến những hành vi mà xã hội mong đợi. Cái quan trọng là những thành viên trong gia đình có ảnh hưởng lẫn nhau rất mãnh liệt so với người ngoài. Chúng ta có thể phân tích gia đình theo nhiều lối khác nhau: có thể phân tích gia đình dựa theo chức năng của từng người, trách nhiệm từng người hoặc theo cấu trúc gia đình. Có thể xem xét cách tổ chức gia đình như thế nào, có thể xét đến gia đình hạt nhân không, hoặc xem xét gia đình hạt nhân với nguồn gốc của nó. Và có thể xét liên hệ với gia đình rộng lớn hơn theo thế hệ hay huyền thoại về thế hệ và chúng ta có thể nhìn gia đình theo khía cạnh văn hoá tập quán riêng của gia đình, cách thích ứng và thay đổi của gia đình, cách thay đổi mà ta có thể thấy được, quan sát được. Trước mắt chúng ta nhìn gia đình như một tổ chức có chức năng xã hội hoá con người và chức năng kiểm soát xã hội. Vì gia đình là một đơn vị nhỏ hơn của khối lớn hơn là xã hội, cho nên gia đình đã diễn dịch văn hoá và xuyên qua gia đình văn hoá xã hội truyền đến các thành viên trong gia đình (gia đình là một tiểu hệ thống của hệ thống lớn hơn). 2.1 Chức năng của gia đình: - Định nghĩa của sự xã hội hoá là chức năng của gia đình là cách dạy cho trẻ những vai trò, những giá trị hành vi tức là văn hoá. - Gia đình đã xã hội hóa trẻ bằng cách dùng ngôn ngữ để dạy các luật lệ, phong cách, tập quán, dạy bằng cách uyển chuyển nhẹ nhàng ngắn ngần để đưa trẻ vào cuộc sống xã hội. Việc làm chính yếu của gia đình là dạy cho trẻ có đủ những tập quán để hòa nhập văn hóa, để cho trẻ có thể hoà nhập vào các tiểu nhóm khác và đạt đến mục tiêu xã hội của nó. Gia đình có chức năng xã hội cơ bản này bởi vì gia đình có chức năng bảo tồn sự sống còn của con người, giòng giống con người. Gia đình là nhóm xã hội đầu tiên quan trọng nhất mà sự học hỏi đầu tiên của con người ở đó. Trong môi trường gia đình đó, đứa trẻ bắt đầu học cách học như thế nào và trẻ dạy cho cha mẹ biết cách dạy như thế nào. 34
  32. Hầu hết việc xã hội hóa xảy ra trong thời niên thiếu. Chính trong giai đoạn này trẻ thâu nhận được những nền tảng cơ bản của sự dạy dỗ để trẻ có được những niềm tin, những hành vi và những thái độ cơ bản của cuộc sống của trẻ. Đó là nơi mà trẻ bắt đầu học cách tương tác với người khác, gia đình dạy cho trẻ những hành vi nào được chấp nhận và hành vi nào không phù hợp. Gia đình giúp dạy trẻ cách để diễn đạt nhu cầu, mong muốn của mình cho người khác biết. Gia đình được mong đợi có chức năng kiềm chế kiểm soát bằng cách dạy cho trẻ cách cư xử nào là thích hợp, cách cư xử nào là không thích hợp để giúp trẻ tránh được những hành vi không thích hợp, không được xã hội chấp nhận. Môi trường gia đình cho những chức năng: sự giáo dục, hỗ trợ, hướng dẫn, môi trường an ninh và an toàn để cho trẻ nương nhờ. Ở Mỹ có ba cách làm cha mẹ: + Cách 1: Cha mẹ dễ dãi: cho phép trẻ tự lập, cha mẹ không hướng dẫn rõ ràng, họ tránh không kiểm soát con cái. + Cách 2: Cha mẹ dùng quyền lực, độc đoán: cha mẹ có những ý tưởng rõ ràng, trẻ phải cư xử thế nào, họ đặt ra những luật lệ và buộc trẻ phải làm theo, họ nhấn mạnh con cái phải tuân thủ lý lẽ họ đề ra, cách này có sử dụng quyền lực để dạy con cái. + Cách 3: Cách trung gian: cha mẹ có sự kiểm soát, có sự hỗ trợ một cách liên tục của cha mẹ nhưng con cái được tham gia, trong lối này cha mẹ giúp con phát triển sự tự lập của mình. 35
  33. Qui chuẩn: Gia đình giúp xã hội hóa xuyên qua qui chuẩn trong gia đình, và qui chuẩn này chính là những luật lệ mà gia đình đặt ra là hành vi nào được chấp nhận, hành vi nào không được chấp nhận? Qui chuẩn mạnh nhất, quan trọng nhất là những qui chuẩn không nói ra rõ ràng, chỉ để cho chúng ta hiểu, nghĩ và mường tượng mà thôi vậy mà đứa trẻ lại hiểu những qui chuẩn này, nhưng trẻ không được nói ra. Có những qui chuẩn được nói một cách rõ ràng phân minh, đó là những điều mà cha mẹ nói là con phải làm như thế này Cái quan trọng là những qui chuẩn đó phải được áp dụng rõ ràng cho tất cả mọi thành viên trong gia đình một cách thích hợp. Gia đình này có các qui chuẩn khác đối với gia đình kia. Đối với gia đình có chức năng bị xáo trộn, qui chuẩn trong gia đình này không giúp cho các thành viên trong gia đình ứng xử với nhau một cách có hiệu quả và thích hợp. Thí dụ: Một gia đình có những qui chuẩn không thích ứng như: người lớn được phép nói dối còn con nít thì không, người lớn có thể ăn hối lộ nhưng trẻ con thì không được. Đó là những ví dụ về những gia đình có lối hành xử không thích hợp. Gia đình hoàn thành trách nhiệm xã hội hóa bằng cách phân vai cho các thành viên, gia đình là hệ thống các vai trò. Vai trò là những cái gia đình giao cho các thành viên để hành xử với nhau trong các nhiệm vụ của gia đình. Vai trò là tổng hợp các nhiệm vụ trong gia đình. Vai trò là những cái mà văn hoá đòi hỏi các thành viên, xuyên qua vai trò đó, và gia đình là môi trường mà các vai trò được học hỏi, được giao phó và được thực hiện. Vai trò thay đổi theo tuổi, khả năng và nhu cầu theo từng giai đoạn đời sống. Vai trò có thể thấy rõ ràng hay có thể chỉ mường tượng, hiểu ngầm; vai trò cũng có thể có dạng dưới hình thức tình cảm, vai trò có quan hệ đến giới, nó có thể uyển chuyển qua lại, có thể cứng ngắc, những điều kiện này tùy thuộc cách sống của gia đình. Trong một gia đình có lối sống lành mạnh thì sự biến đổi có phần uyển chuyển tùy hoàn cảnh tùy nhu cầu. Nên nhớ vai trò này là sự trao đổi, vai trò này được phát sinh ra từ mối liên hệ giữa những người trong gia đình, từ sự mong đợi giữa người này đối với người kia. Trong cơ cấu gia đình phải có sự phân vai, với sự phân vai quan trọng cho mỗi cá nhân để có thể hành xử đồng thời cũng cần thiết cho sự gắn bó trong gia đình. Không một vai trò nào hiện hữu một cách đơn độc không có sự hỗ trợ của gia đình. Vì vậy mỗi gia đình phải có sự phân vai để giữ sự quân bình trong gia đình. 36
  34. Có những gia đình không được mạnh, sự phân vai không được rõ ràng, tự phát một cách ngẫu nhiên, trong việc phân vai gia đình đó thường không được tổ chức một cách hoàn thiện, gia đình khi bị căng thẳng hoặc nếu bị một áp lực bên ngoài dễ dàng bị phá vỡ. Đồng thời có những vai trò không được phân vai một cách không hợp lý (Thí dụ như đứa nhỏ phải đi kiếm tiền nuôi gia đình). Để các thành viên thực hiện tốt vai trò thì trong một gia đình hoàn chỉnh phải có sự uyển chuyển vai trò trong gia đình. Những gia đình lộn xộn về vai trò là những gia đình khi có sự bất đồng ý kiến thì gia đình đó có nguy cơ và các vai trò được thể hiện một cách không hợp lý, không thích ứng bởi vì lẽ ra người đó không phải là người hành xử người đóng vai trò đó. Thí dụ: Ở Mỹ, khi một gia đình có người cha hoặc mẹ nghiện rượu thì họ không còn khả năng phán xử, không còn đóng vai trò người cha hay người mẹ. Trẻ trong gia đình phải đóng vai trò cha mẹ và trẻ phải dấu kín chuyện, trẻ trong gia đình đó thay vì phải đóng đúng vai trò xã hội của nó thì nó phải đáp ứng lại người cha hay người mẹ nghiện rượu và dấu nỗi đau của mình vì người cha hay mẹ nghiện rượu. Những đứa trẻ nầy về sau nó thường có những vấn đề riêng của nó. Có 4 dạng vai trò trong gia đình - Những người xông xáo trong gia đình. - Những người theo đuôi. - Những người cản trở (chống đối). - Những người đứng nhìn. 2.2. Cơ cấu gia đình Cấu trúc gia đình gồm có những tiểu hệ thống và những ranh giới, cấu trúc gia đình liên quan đến tổ chức của các mối liên hệ giữa các tiểu hệ thống này. Gia đình thực hiện chức năng thông qua các tiểu hệ thống. Trong một gia đình, tiểu hệ thống quan trọng nhất đó là cặp vợ chồng, trong đó có tiểu hệ thống khác đó là bố mẹ của gia đình và tiểu hệ thống khác nữa đó là con cái. Tiểu hệ thống rõ ràng là cặp vợ chồng. Để tạo nên một gia đình phải có ranh giới ở ba tiểu hệ thống, họ phải duy trì ranh giới của tiểu hệ thống để mà duy trì mối quan hệ. 37
  35. Tiểu hệ thống bố mẹ qui định nghĩa vụ làm cha mẹ nuôi dưỡng con cái và hướng dẫn con cái. Tiểu hệ thống con cái Tiểu hệ thống vợ chồng cũng là tiểu hệ thống bố mẹ. Trong một gia đình hoạt động bình thường ở Mỹ, bố mẹ là cặp vợ chồng ở trung tâm gia đình và có một ranh giới để phân biệt bố mẹ với con cái. Ranh giới này là một số quyền, một số trách nhiệm mà bố mẹ có, và con cái không có. Ở những gia đình không có hoạt động tốt thì trong ranh giới gia đình, chỉ có hoặc bố hoặc mẹ. Một gia đình không hành xử đúng trong ranh giới quyền hạn là gia đình chỉ có người nắm giữ, còn người khác thì ở ngoài ranh giới đó. Ngoài gia đình, còn có ranh giới được coi là lãnh thổ của gia đình. Lãnh thổ gia đình bao gồm những chiều kích không gian và hành vi lãnh thổ gia đình là một ý thức về nơi chốn và sự phụ thuộc, gia đình là môi trường vừa cho cảm giác gắn bó và vừa tạo ra môi trường vật chất thật sự, nơi mà mình ở (gia đình có hai ý nghĩa: một là ý nghĩa của sự gắn bó của gia đình, thứ hai là môi trường vật chất mà mọi người sống ở đó). Những nhân viên xã hội khi làm việc với gia đình cần phải đến gia đình nơi mà họ sinh sống, đó là một cách để hiểu thêm về gia đình. Ranh giới có một số mục đích: ranh giới nằm ngoài bố mẹ với con cái, có nghĩa là con cái là một nhóm có quan hệ với nhau và bố mẹ có quan hệ vợ chồng với nhau. Và trên ranh giới giữa bố mẹ với con cái có lối mở, từ đó bố mẹ có thể thực hiện chức năng của mình. Có những người, ngoài bố mẹ, cũng có thể thực hiện chức năng trong gia đình. Thí dụ khi bố mẹ đi làm, ông bà thay cha mẹ làm những nhiệm vụ trong gia đình, đó là sự luân chuyển chức năng trong ranh giới. Ranh giới gia đình tạo cho mọi người hiểu và phân bổ trách nhiệm ai làm việc gì? Điều đó cho thấy khi bố mẹ bị ốm, đứa con lớn giữ trách nhiệm như bố mẹ, đó là sự luân chuyển nhận trách nhiệm tạm thời trong một hoàn cảnh như vậy. Đứa trẻ không chỉ học từ bố mẹ, ngay trong tiểu hệ thống, anh em quan hệ với nhau, giữa con cái với nhau cũng có sự giáo dục lẫn nhau. Trong hầu hết các nền văn hoá, đứa con cả có vị trí đặc biệt trong tiểu hệ thống con cái. Vai trò giới Các ranh giới phải rõ ràng, phải thẩm thấu được, không phải lúc nào cũng khép kín, những ranh giới này bao gồm những thành tố mà ta không thấy được. 38
  36. Nếu các thành viên trong gia đình tương tác với nhau trong một bầu không khí khép kín, vấn đề đó có thể là tốt và không tốt. Cũng có khi người ta rời gia đình về mặt thể chất, có những thành viên đi vào gia đình như một đứa con nuôi chẳng hạn hay nuôi hộ một đứa trẻ khác, có những thành viên sống riêng một thời gian nhưng vẫn được coi là thành viên của gia đình. Khi có một người cha hay một người mẹ rời bỏ gia đình và tình trạng như thế này thì gọi là có sự mơ hồ về ranh giới, nghĩa là nhân vật có thể còn hay không còn trong gia đình. Nếu cha mẹ đó phải đi làm việc kiếm sống cho gia đình, hay là đi quân đội, ở tù thì họ vẫn được xem là thành phần của gia đình. Đối với gia đình là phải bảo vệ ranh giới, đó là một nổ lực rất lớn. Gia đình, xã hội lại ủng hộ việc này là vì xã hội tạo điều kiện cho những cuộc lễ lạc trong gia đình như là đám ma hay đám cưới Ở Mỹ có ngày giỗ cha, có ngày giỗ mẹ. Có 3 loại gia đình dựa trên các loại ranh giới 1. Gia đình ranh giới mở: đó là những ranh giới rõ ràng nhưng dễ thâm nhập; những gia đình này khách khứa đông, họ trao đổi thông tin một cách tự do 2. Gia đình ranh giới khép kín: ranh giới này khó thâm nhập, cửa luôn luôn khóa, người ta rất nghi ngại đối với người lạ, cha mẹ kiểm soát con ghê gớm. Ở Mỹ họ dấu số điện thoại mình, họ không thích sự thâm nhập của nhân viên xã hội, họ không thích cho biết những thông tin về họ. 3. Gia đình không ranh giới: những gia đình loại này ai muốn làm gì thì làm. Các loại gia đình này phát triển dựa trên lịch sử và nền văn hóa của gia đình đó và loại ranh giới này phản ảnh phong cách riêng của gia đình và hệ thống giá trị của gia đình đó. Chúng ta nên giúp cho các gia đình tạo ra một ranh giới rõ ràng đó là loại gia đình mở. 2.3. Văn hóa trong gia đình và các vai trò Văn hóa trong gia đình ảnh hưởng tới vai trò, các qui chuẩn, luật lệ trong gia đình. Văn hóa ở Việt Nam: - Gia đình là một đơn vị quan trọng hơn cá nhân, cá nhân là thứ yếu trong gia đình. - Mục đích cá nhân không quan trọng bằng mục đích gia đình (giữ sỉ diện cho gia đình là một qui chuẩn của giá trị xã hội, gia đình giữ vấn đề riêng tư của mình để giữ sỉ diện). 39
  37. - Sự phụ thuộc lẫn nhau (từ khi sinh đến chết, gia đình là chỗ dựa của con người). Sự tôn trọng gia đình, trách nhiệm đối với gia đình thể hiện qua sự chăm sóc người già là một giá trị, hiếu và biết ơn là giá trị truyền thống của Việt Nam. Cốt lõi của đời sống gia đình là mối quan hệ chủ yếu giữa cha mẹ - con cái. Anh cả giáo dục hướng dẫn em, em phải vâng lời anh chị - Giá trị của sự phụ thuộc lẫn nhau quan trọng hơn giá trị độc lập trong gia đình cho nên thứ bậc trong gia đình và tuân người trên quan trọng hơn sự tự khẳng định mình. - Có sự đầu tư rất lớn cho trẻ em, cho trẻ nhiều tự do nhưng bắt nó phải tuân thủ tuyệt đối luật lệ gia đình tổ tiên. - Vai trò người cha là lo kiếm sống và có quyền lực với con cái và người mẹ là người chăm sóc giáo dục nên phải dịu dàng. - Nhiều giá trị gia đình Việt Nam dựa trên Khổng giáo đã được lưu truyền qua các thế hệ - Ýù thức về đại gia đình không chỉ dựa vào gia đình hạt nhân mà còn liên hệ với các thành viên trong đại gia đình là cha mẹ ông bà. - Việc tôn thờ tổ tiên cũng là một phần của truyền thống. - Theo chế độ phụ hệ. - Khi gia đình có sinh hoạt trục trặc, không khớp với thứ bậc, người trị liệu giúp cho các tình hình ăn khớp với thứ bậc. Những giá trị khác có ảnh hưởng đến gia đình Việt Nam: Nhân, lễ, nghĩa, trí tín, chí, trung hiếu, chí tình, lý, dũng. Chúng ta cần phải hiểu sự quân bình giữa các giá trị nầy trong gia đình. Thí dụ trong những gia đình truyền thống, giá trị đặt nặng ở lòng hiếu nghĩa của con cái đối với cha mẹ. Trong hôn nhân, gia đình đó có thể do truyền thống qui định vai trò cho nam, cho nữ; chúng ta cần phải biết để hiểu gia đình đó. Xem xét quan hệ gia đình từ thế hệ này sang thế hệ khác: Khi chúng ta xem xét gia đình như là một hệ thống, chúng ta xem xét các mối liên hệ ràng buộc giữa các thành viên trong gia đình ở cả quá khứ và hiện tại của hệ thống gia đình nầy. Thông thường hệ thống gia đình bao gồm nhiều tiểu hệ thống, những tiểu hệ thống nầy ảnh hưởng đến tiểu hệ thống khác và ngược lại. Hệ thống gia đình đan xen với hệ thống khác. Điều gì xảy ra khi có một hành vi trong gia đình thì sẽ có những ảnh hưởng đến các thành viên khác và gia đình sẽ chịu ảnh hưởng của tổ chức khác ở tầm vĩ mô bên ngoài xã hội. 40
  38. Cách nhìn các mối liên hệ từ thế hệ nầy đến thế hệ khác: Chúng ta là ai, chúng ta nghĩ gì, chúng ta chọn công việc gì, chúng ta liên quan với ai, chịu ảnh hưởng của thế hệ trước chúng ta, điều mà thế hệ trước dạy cho chúng ta. Do đó gia đình của chúng ta và gia đình khác chịu ảnh hưởng của nền văn hoá đã được thiết lập từ nhiều thế hệ trước: Khi chúng ta xem xét gia đình trong hệ thống sinh thái thì chúng ta xem xét hình thái này theo thời gian như thế nào. Cuộc sống của chúng ta cũng như cuộc sống của con cái chúng ta rất giống cuộc sống ông bà của chúng ta. Bản đồ thế hệ biểu hiện mối quan hệ khi chúng ta xem xét gia đình hay con người trong mối quan hệ từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chúng ta nhìn vào một gia đình và cá nhân như là một đường thẳng. Khi chúng ta nghiên cứu, chúng ta nhìn vào con người thì một mặt, người đó tự cá biệt hoá tách khỏi tập thể, nhưng mặt khác người đó có phần hoà nhập vào gia đình và từng gia đình cũng vậy, cũng có cuộc sống riêng của mình nhưng vẫn chịu ảnh hưởng và liên kết với các thế hệ khác (nghĩa là chúng ta vừa là ta vừa là chúng ta). Nhưng khái niệm nầy là những khái niệm mang tính văn hoá và các giá trị ở Mỹ thì nhấn mạnh sự độc lập và sự riêng biệt, còn những vấn đề văn hoá khác nhấn mạnh đến cái gì chung, hoà nhập với nhau. Ở Mỹ, chúng tôi xã hội hoá trẻ bằng cách đưa chúng đến sự độc lập. Dĩ nhiên những khái niệm của chúng tôi cũng không thể dùng nguyên xi vào những nền văn hoá khác. Chẳng hạn như ở Việt Nam thì những giá trị về nghĩa vụ gia đình thì được đặt nặng hơn còn ở Mỹ chúng tôi đặt nặng sự độc lập của cá nhân. Nhưng bất kể ở nền văn hoá nào thì tất cả chúng ta đều muốn cả hai điều. Một điều chúng ta muốn có bản sắc riêng của mình và điều khác thì chúng ta muốn một sự gắn bó với một tập thể rộng hơn, chính là muốn có một mối quan hệ gắn bó ấm cúng. Và sự cân bằng nầy là tùy thuộc vào hệ thống giá trị xã hội và gia đình bạn. Một người có bản sắc cá nhân nhiều, quyết định của người đó có khả năng thực hiện nhiều hơn. Họ có thể phân biệt được giữa tình cảm và lý trí họ có thể liên hệ với người khác mà không sợ đánh mất mình. Họ có thể ứng phó với stress mà không sợ bị thương tổn. Một người ít có khả năng chứng tỏ mình thường bồn chồn nôn nóng, gặp khó khăn khi phải phân biệt giữa tình cảm và lý trí, trong quan hệ người đó thường phụ thuộc, người đó rất khó tự lập, khó có quyết định độc lập và khi quan hệ với những người xung quanh, họ khó ý thức được về các ranh giới. Khi một người xuất thân từ một gia đình có khuynh hướng không có độc lập, người đó có xu hướng chọn bạn giống như môi trường của mình. Thường người bạn ở mức độ phân biệt giống như mình. 41
  39. Trong quan hệ gia đình, gia đình cần tiếp nhận cả hai: một bên tự khẳng định cá nhân độc lập, một bên là quan hệ gắn bó chặt chẽ. Gia đình-văn hóa-vị trí-tuổi ảnh hưởng đến nhận thức của bạn Trong một gia đình mà quan hệ trở thành một khối, quyện chặt vào nhau thì trẻ sẽ khó phát triển độc lập. Trong gia đình các thành viên không nói chuyện với nhau, mỗi người tự làm việc riêng, họ sẽ bỏ lờ đi những vấn đề riêng tư của nhau. Khi ta nhìn đến xuất xứ của gia đình, cái ta nhìn trước là gia đình hạt nhân, rồi sau đó là gia đình khác xuyên qua những thế hệ trước, và ta tìm ra mô hình (mẫu). Chúng ta sẽ thấy những trường hợp là các thành viên trong gia đình không có quan hệ với nhau, ta sẽ tìm thấy được những mối liên hệ tay ba. Thí dụ trong một gia đình không được thuận hoà, cha mẹ phải giải quyết những khó khăn, trục trặc với nhau, cụ thể là người mẹ rất chán nản chồng và trở thành gần gũi thân thiện với đứa con trai của mình hơn và người cha đó cảm thấy bị lẻ loi đơn độc và thế là người cha phê phán nghiệt ngã người mẹ và đứa con trai của mình. Trong trường hợp nầy, đứa con bị kéo vào vòng liên hệ để giải quyết những khó khăn của cặp vợ chồng nầy. Và có khi theo mẹ nhưng lại muốn làm hoà với cha trong trường hợp tay ba này, cả hai bên cha mẹ đều chống lại đứa con. Đứa trẻ trở thành con vật tế thần khi cặp vợ chồng nầy đã giải quyết những mâu thuẩn trở lại hoà thuận với nhau. Khi ta nhìn gia đình xuyên qua các thế hệ các mẫu trong đời sống của thế hệ đó, ta phát hiện xem có mối liên hệ tay ba không và tìm những khuôn mẫu nào đó trong các thế hệ. Những khó khăn trong gia đình đó ra đời và hình thành thế nào xuyên qua các thế hệ? Ngoài ra, ta xem xét gia đình tiến hoá như thế nào? Ta nhìn tới sự trung thành không được biểu hiện rõ hoặc những cảm giác mang ơn, thoát nợ đối với những người ở thế hệ trước ra sao? Thí dụ: Trẻ em sinh ra ở Việt Nam sau chiến tranh, có thể một số trẻ sẽ cảm thấy mang ơn những người đã chịu khổ trong chiến tranh. Có những tổn thương mất mát xảy ra từ những thế hệ trước vẫn có ảnh hưởng đến thệ hệ hiện tại. Có những câu truyện, những huyền thoại được lưu truyền từ thế hệ nầy sang thế hệ khác. 2.4. BIỂU ĐỒ SINH THÁI (ECO MAP) 42
  40. Sinh thái là một khoa học, nghiên cứu về vật sống và môi trường sống. Sinh thái ở đây là nghiên cứu đối tượng và gia đình trong môi trường sống của gia đình và mối tương quan của gia đình với các cơ cấu khác. Ở Mỹ, chúng tôi có câu “Một cái hình bằng nghìn cái chữ”. Dù là cách thể hiện bằng hình, quan hệ gia đình trong môi trường đột biến. Chúng ta muốn biết những mối liên kết giữa gia đình đối với những hệ thống khác chúng ta có thể hiểu được qua biểu đồ sinh thái. Thí dụ: Chúng ta muốn biết gia đình có kết cấu với công việc hay không? Chúng tôi dùng các ký hiệu để xác định mối liên hệ nầy. Nếu đường nối của chúng ta là một đường đậm thì có nghĩa là mối liên kết nầy chặt chẽ. Một hệ thống khác mà gia đình có thể kết cấu, đó là trường hợp gia đình nầy có trẻ nhỏ còn đi học mà sự kết cấu nầy lại thiếu một bà mẹ thì có thể có vấn đề, gia đình có cả ông bà hay họ hàng, nếu ta thấy các đường nối có dấu gạch chéo thì chúng ta biết mối quan hệ giữa gia đình với họ hàng hai bên có vấn đề căng thẳng. Có những hệ thống khác như là hàng xóm, tôn giáo, hệ thống chính trị Dấu hiệu tốt giữa gia đình với hàng xóm là đường gạch đậm, dấu nầy càng tốt hơn nếu có những mũi tên, điều nầy chứng tỏ có quan hệ tốt giữa gia đình với hàng xóm. Nếu trong gia đình lớn cùng có hoạt động, có mũi tên một chiều thì ta phải đặt câu hỏi, có thể gia đình lớn nầy rất hào phóng. Khi nhân viên xã hội thực hiện bản đồ sinh thái, chúng ta cùng ngồi với thân chủ. Khi gia đình cùng tham gia, họ sẽ hiểu và nhận thức được những vấn đề mà trước đây họ không hiểu một cách rõ ràng. Trong vòng tròn lớn nhất là gia đình, ta cùng tìm hiểu mối quan hệ giữa gia đình và hàng xóm, nếu mối quan hệ nầy chặt chẽ thì ta cũng nên tìm hiểu người hàng xóm nầy là ai, bởi vì chúng ta cần phải tìm hiểu mối quan hệ đối với mọi người xung quanh của gia đình nầy vì chúng ta cần tìm hiểu về gia đình nầy nhiều hơn. Ta có thể không thâm nhập được vào gia đình nầy, nhưng qua những hình ảnh, ta thấy mối quan hệ giữa gia đình nầy với người hàng xóm là đường thẳng đậm nét, và thông qua người hàng xóm ta có thể hiểu rõ về gia đình nầy (bởi vì người hàng xóm nầy qua mối liên hệ họ đã thâm nhập vào gia đình nầy). Nếu tôi biết người nào đó trong gia đình có mối liên hệ rất chặt chẽ với thầy giáo hay một cá nhân nào đó ở trường, tôi có thể tìm người đó để tiếp cận với gia đình nầy. Nếu chúng ta biết là gia đình nầy rất tôn trọng tín ngưỡng và tôi biết tên người lãnh đạo tôn giáo của họ, chúng ta có thể nhờ người lãnh đạo nầy để qua đó giúp đỡ chúng ta biết thêm thông tin về gia đình nầy. 43
  41. Trong khu phố, tổ trưởng dân phố là ai, nếu nắm đươc những người có uy tín trong hệ thống này thì tôi càng có nhiều tài nguyên để mà sử dụng những công việc của mình. Khi chúng ta làm việc với gia đình, ta muốn sử dụng các công cụ của gia đình nầy, bạn nên dành thời gian đến gia đình nầy để họ trực tiếp nói cho bạn nghe, họ diễn tả mối quan hệ của gia đình họ. Chúng ta cần đặt tên cho những hệ thống thông thường. Ở Mỹ những hệ thống được biểu hiện bằng những vòng tròn, chúng tôi không biết những hệ thống nầy có phù hợp với văn hoá Việt Nam hay không? Các bạn có thể thêm vào một số hệ thống, một số tổ chức ở Việt Nam cho phù hợp (Ở Việt Nam có những hệ thống nằm ngoài gia đình như tổ Dân phố, tổ Phụ nữ, Công an khu vực, mà các nước khác không có). Khi làm công tác xã hội, dù làm việc một ngày, chúng ta cũng nên có bản đồ để cùng với đối tượng làm việc với chúng ta. Đôi khi chúng ta cũng nên để cho đối tượng có một bản đồ để họ đem về nhà nghiên cứu. Khi họ gặp lại chúng ta, họ sẽ trình bày cho chúng ta biết mối liên hệ mà họ sống trong gia đình và họ tự nhìn thấy vấn đề của gia đình họ và họ sẽ cải thiện mối quan hệ trong gia đình tốt hơn. Đây cũng là công cụ dùng trong trị liệu gia đình. Chu kỳ sống của gia đình: Đây là một khía cạnh khác của gia đình, là một hệ thống luôn chuyển biến, chúng ta nhìn vào chu kỳ phát triển của gia đình cũng như sự tiến hoá của gia đình. Gia đình sống trong trạng thái vừa đổi mới vừa vẫn như cũ, một chu kỳ sống của gia đình theo hệ thống, tác động âm dương, có 2 lực lượng thúc đẩy lẫn nhau: một là vẫn như thế, hai là thay đổi. - Gia đình hạt nhân: bắt đầu là cuộc hôn nhân của hai người và nó nới rộng dần và trở nên phức tạp hơn khi có con cái vì phải lao động, có trách nhiệm hơn về mặt tài chính. Và gia đình trở lại tình trạng đơn giản khi con cái lớn lên và rời gia đình. Một gia đình đang lớn lên rồi sau đó teo lại dần, điều nầy xảy ra khi một thành viên bước vào giai đoạn chuyển tiếp. Gia đình thường phải đối phó với sự căng thẳng khi gia đình lớn lên hoặc khi gia đình teo lại. Khi hai vợ chồng mới có đứa con đầu tiên họ cũng rất căng thẳng và khi con họ lớn lên họ cũng gặp không ít khó khăn. Cha mẹ già phải chăm sóc phụng dưỡng hay bệnh tật thì gia đình cần phải tăng cường khả năng để xử lý vấn đề đó. 44
  42. Có hai lý thuyết mô tả đỉnh cao của sự căng thẳng và cảm xúc trong gia đình trong đó có sự thay đổi về tài chính, khi có biến đổi như ly hôn, bệnh tật, sự căng thẳng lên tới tột đỉnh mà người ta gọi là đỉnh cao của đời sống tình cảm. Và sự nghèo đói cũng có thể tạo ra sự căng thẳng. Lý thuyết chu kỳ của gia đình: Đó là sự tương tác giữa gia đình và xã hội và tạo nên sự thay đổi cả hai hệ thống. Có 3 giai đoạn các thành viên sống trong gia đình (chúng ta hiểu khái niệm gia đình trong tổng thể của nó bao gồm những người đang sống trong gia đình và cả những thế hệ đi trước và cả lịch sử của dòng tộc). - Mô hình 1: Khi một thành viên trong gia đình được ủy thác (đại diện). - Mô hình 2: Khi mà quốc gia và gia đình chia sẻ quyền lực. - Mô hình 3: Khi gia đình không còn một quyền lực nào cả, khi con cái của họ làm điều gì sai trái, thì chính quyền lấy con của họ gởi cho các cơ sở. Cố giữ quân bình giữa trạng thái và khả năng giữ nguyên trạng không có sự thay đổi. Mặc dù khả năng giữ quân bình của gia đình bị tác động bởi bên ngoài. Điều nầy thật khó khăn giữa hai ý tưởng, một bên là muốn thay đổi và một bên muốn giữ nguyên trạng. Gia đình có khi phải nới rộng, có khi phải bước tới, có khi phải trở lùi và khả năng thích ứng nầy rất là cần thiết cho gia đình. Các gia đình khác nhau thì có khả năng thích ứng khác nhau. Một gia đình không hoạt động tốt, không có khả năng thích ứng là một gia đình không thể có sự thay đổi diễn ra trong gia đình và ngoài xã hội. Tính chất của hệ thống là khả năng giữ nguyên trạng của sự việc đó là các luật trong gia đình, những ý nghĩa mà mọi người hiểu nhau một cách thống nhất những giá trị mà họ trông chờ lẫn nhau. Không có yếu tố nầy thì gia đình không giữ vững được sự sống của mình. Khả năng của gia đình là để thay đổi và tách được của một hệ thống. Muốn vậy, nó tùy thuộc vào sự cởi mở của gia đình. Để đối phó với vấn đề và tìm ra giải pháp thì các gia đình phải có tính chất cởi mở. Sự cấu kết trong gia đình thông qua các luật lệ, hệ thống giá trị và liên thế hệ của gia đình, là những nhân tố giúp gia đình giữ vững trạng thái nguyên trạng và khả năng giúp cho gia đình thay đổi và thích ứng. Trong gia đình hoạt động không tốt hoặc họ có quá nhiều yếu tố không thể thay đổi, và gia đình có người nghiện rượu thì luôn luôn bị xáo trộn. Trong gia đình xáo trộn, đứa trẻ hay bị sợ hãi, chúng 45
  43. không biết là cha mẹ nó có thể trở lại trạng thái bình thường để tiếp tục chăm sóc nó hay không? Đối với những gia đình này chúng ta có thể sắp xếp lại chỗ ở và tìm việc làm. Giảng viên kể lại kinh nghiệm giải quyết một cas Có một thân chủ 40 tuổi sống chung với mẹ và người mẹ luôn nói chuyện với anh ta như lúc anh ta lên 10 tuổi và bà mẹ nầy không thích những người bạn gái của anh ta và cũng không thích anh ta ra khỏi nhà. Anh ta đã tạo ra sự thay đổi bằng cách đi uống rượu và hay đi chơi vì anh ta không thể chấp nhận một tình trạng như vậy mãi. Chúng tôi phải giúp cả hai mẹ con chấp nhận sự đổi mới. Bà mẹ hàng ngày luôn trông chờ những cú điện thoại của con gọi về. Chúng tôi giúp bằng cách để cho anh ta mỗi ngày gọi điện thoại cho mẹ giảm dần để bà quen dần với sự thay đổi này. Chúng tôi thường đến nhà trò chuyện để giúp cho bà quen dần với tình trạng mới. 2.5. Quyền lực trong gia đình: Ai có quyền lực trong cấu trúc quyền lực? Có quyền lực liên quan đến giao tiếp trong gia đình, có những luật lệ trong gia đình qui định người nào được nói chuyện với ai, về việc gì? Đôi khi luật đó được nêu ra rõ ràng, đôi khi chỉ là sự quy định ngầm với nhau. Ví dụ: Đôi khi trong gia đình chỉ một số người được biểu lộ cảm xúc, còn những người khác không có quyền. Để hiểu một gia đình, chúng ta cần hiểu hai luật về giao tiếp trong gia đình để tìm hiểu ai là người có quyền lực trong gia đình. Khi ta tìm hiểu về một gia đình chúng ta tìm hiểu quan hệ qua lại trong gia đình đó. Một trong những lý thuyết làm việc với gia đình là lý thuyết giao tiếp. Chúng ta không thể nào không giao tiếp, tất cả các thành viên chúng ta đều là một hình thức giao tiếp. Khi các thành viên chúng ta đang ngồi đây đều là một hình thức giao tiếp. Ví dụ: Khi cãi nhau, người chồng tức bỏ đi và lý luận Tôi phải đi vì cô ta không để cho tôi yên. Người vợ thì cho rằng Tôi không để yên vì anh ta không chịu nghe và bỏ đi. Cách nhấn mạnh vấn đề của hai người có hai điểm nhấn khác nhau: 46
  44. - Cách nhấn của vợ là hành vi của bà ta chỉ là phản ứng lại hành vi của ông chồng - Và cách nhấn của ông chồng chỉ phản ứng lại những hành vi của bà vợ. Khi chúng ta giao tiếp thì chữ và nghĩa phải đi đôi với nhau. Khi ta thấy một người có cử chỉ và hành động không đi đôi với nhau có nghĩa là chữ và nghĩa không khớp nhau làm cho nội dung mất giá trị. Thí dụ người mẹ miệng nói yêu con nhưng bà ta lại xô đứa con ra khi nó muốn quấn quít bà ta. Thí dụ: Tôi nói với sinh viên của tôi là bạn có thể nói một cái gì đó rất là bộc phát rất là tự nhiên, thì tôi cho bạn điểm xuất sắc môn học. Bây giờ bạn muốn nói cái gì đó hết sức bộc phát. Sinh viên nói: Hôm nay vui quá. Tôi trả lời: điều đó bạn đã nghĩ tới rồi, bởi vì bạn không có tự nhiên, không có bộc phát, ý tôi muốn bạn không nghe lời tôi. Nghĩa là bạn không thể thắng tôi. Nếu gia đình có tình trạng nầy thì rất là tiêu cực cho đứa trẻ. Thí dụ: Người cha than vãn là con không có công ăn việc làm, ông mắng con: “Con phải là người đàn ông, con phải làm việc chứ” Và người mẹ trả lời: “Công việc gì nó làm đều nguy hiểm, dưới sức của nó”. Đứa con trả lời là nó “chán quá”. Cả hai cha mẹ đều nói “Con ngu lắm”. Nếu mà nó không làm việc thì cha nó la nó, còn nếu nó chọn một công việc thì mẹ nó lại chê công việc đó, và nếu đứa trẻ than phiền về việc nầy thì cha mẹ nói là nó ngu. Điều này có xảy ra trong gia đình Việt Nam không? Khi làm việc với gia đình, chúng ta nên quan sát sự truyền thông giao tiếp trong gia đình và các bạn làm sao tìm cách để họ truyền thông có hiệu quả nghĩa là sự truyền thông trước sau như một, có sự phản hồi, song song đó, chúng ta cũng cần phát hiện những loại truyền thông có vấn đề. Nếu giúp gia đình về mặt truyền thông giao tiếp thì chúng ta giúp họ truyền thông một cách rõ ràng, tránh những sự hiểu lầm và tìm cả những cái méo mó để giúp họ thẳng thắn chia sẻ ý tưởng và cảm xúc với nhau, chúng ta tìm hiểu cả nghĩa rộng lẫn nghĩa bóng của vấn đề, giúp họ cách diễn giải vấn đề của nhau, giúp họ xử lý những mâu thuẫn của nhau, tránh kéo thêm một thành phần thứ ba vào cuộc. 47
  45. CHĂM SÓC TÔN SỨC KHOẺ H ỘI LIÊN GIÁO HIỆP PHỤ GIA ĐÌNH/HỘ TỔ DÂNNỮ PHỐ VUI CHƠI GIẢI TRÍ NGIAỘI DU ĐNGÌNH T Ậ P HUẤN NGÀY TƯ (10/7/1MỞ R997)ỘNG BẠN BÈ HÀNG TRƯỜNG XÓM HỌC - Lễ nghi và các chức năng của gia đình. - Những vấn đề của gia đình. - Biểu đồ thế hệ. Chung quanh các thế hệ, chúng ta phát hiện một mô hình với những sự thay đổi. Các mô hình ứng xử nầy được truyền từ thế hệ nầy sang thế hệ khác như thế nào? Thế hệ trước đã ảnh hưởng lên gia đình như thế nào? Cách gia đình thiết kế, xây dựng và giải thích ra sao? Ngày nay, người ta nhìn vào thực tế để lý giải. Các thành viên trong gia đình cùng chia sẻ những kỳ vọng với nhau. Những sự chia sẻ nầy là sự kết hợp kinh nghiệm của gia đình trong thế hệ của mình. Thí dụ: Các thế hệ bị bách hại nhiều thì gia đình thường hay nghi ngờ. Hệ thống niềm tin của gia đình sẽ ảnh hưởng đến gia đình và cách gia đình tạo mối quan hệ giao tiếp với môi trường xung quanh và ảnh hưởng đến cả hành vi của các thành viên trong mối quan hệ với nhau. Chúng ta có thể phát hiện được cách ứng xử của gia đình thông qua các dịp lễ tiệc. 48
  46. NGHI LỄ TRONG GIA ĐÌNH: Nghi lễ trong gia đình (nói theo nghĩa rộng là tôn giáo) là nghi thức tôn giáo được tổ chức như thế nào? đó cũng là nghi thức chào hỏi nhau, cách ứng xử trong lúc xem đá bóng. Cũng có những nghi lễ không bắt buộc tính xây dựng tạo ra sự đồng cảm cho mọi người bằng một cái nền chung. Các đặc điểm của nghi lễ: - Sự lập đi lập lại: có tính cách hành động và có những phong cách ứng xử mang ý nghĩa biểu tượng, có những trật tự và cách biểu hiện những nghi thức này có bắt đầu, có kết thúc. Có khi có những hành động tự phát nhưng nó cũng là một nghi thức. Và các nghi thức có chức năng khơi dậy những cảm xúc, mang tính tập thể vì những nghi thức này mang ý nghĩa xã hội và nó mang thông điệp riêng của nó. Thí dụ Ở Mỹ, có ngày lễ Tạ ơn, họ ăn Gà Tây. Mỗi một nghi thức đều mang tính tiến trình xã hội, đó là khuôn mẫu để con người tương tác và truyền thông cho nhau và một nghi thức kéo dài trong một thời gian thì liên kết lại với nhau, nó được chấp nhận và đánh giá cao. Các nghi thức trở thành một phần của cuộc sống gia đình. Và một phần của lịch sử gia đình, các nghi thức là cốt lõi của nền văn hóa và là cốt lỏi của đời sống gia đình. Chức năng của nghi lễ mang tính củng cố, biến đổi và liên kết con người lại với nhau. Tính chức năng củng cố, gìn giữ, bảo vệ của nghi thức có chức năng giữ gìn niềm tin của gia đình, và các nghi thức có thể mang đến sự thay đổi bằng cách đưa vào cách nhìn khái niệm hóa thực tế. Khi tìm hiểu các gia đình, ta tìm xem họ có đủ tính nghi thức không? hay họ bị trói buộc quá khắc khe bởi nghi thức, hay nghi thức này không còn ý nghĩa nữa, điều cần làm là ta giúp cho gia đình này sử dụng nghi thức một cách hiệu quả, để đem lại ý nghĩa giúp gia đình hoạt động tốt hơn. Thông qua đó, gia đình có thể biểu lộ tập quán và các giá trị của mình. Tạo sự đoàn kết gia đình, có khi giúp cho người đang trải qua khủng hoảng gì đó và nếu một gia đình có một hình thức nghi lễ quá khắc khe, quá khô cứng, ta giúp họ thực hiện một cách cởi mở hơn. Ở Việt Nam đám giỗ là ngày mọi người thường tụ lại để cùng tưởng nhớ lại người đã khuất. Các nhân viên xã hội ở Mỹ khi làm việc với gia đình, họ kiểm tra xem gia đình đó cần một nghi thức nào đó để giúp họ thực hiện những vấn đề mà họ chưa làm được. Ở Mỹ có một nhân viên xã hội làm việc với một gia đình có đứa con gái bị giết chết chặt ra từng khúc vứt xác khắp nơi, không tìm đủ thân thể. Bà mẹ bị suy sụp tinh thần, cha uống rượu, anh cô bé quyết chí tìm ra kẻ giết người. Gia đình bị rã 49
  47. ra, mỗi người tách riêng, không ai ngồi lại với nhau, không có một tri thức nào giúp họ ứng xử với cú xốc này để kết thúc vấn đề và tiếp tục sống. Người nhân viên xã hội biết gia đình này không theo một tôn giáo nào hết, nhân viên xã hội tự tạo cho gia đình này một nghi thức riêng đối với trường hợp này để chữa lành họ. Nhân viên xã hội bảo mỗi người trong gia đình viết một bức thư cho cô gái đã chết. Trong bức thư đó họ bày tỏ cảm xúc của mình đối với đứa bé và nhờ linh hồn của cô bé giúp đỡ để họ lành vết thương lòng mà tiếp tục sống. Sau đó mỗi người đọc những bức thư của mình cho mọi người cùng nghe. Người này nghe người kia đọc bức thư của họ và mọi người cùng đáp ứng những câu hỏi của người kia đặt ra. Họ ép những lá thư này vào trong quyển sách có hình ảnh đứa bé và những vật sở hữu của đứa bé và họ bỏ mọi thứ vào một cái hộp và đi cùng nhau đến nơi mà trước khi cô gái chết họ thường nghỉ hè. Họ chôn cái hộp này, họ có đám tang theo kiểu riêng của họ và họ tạm biệt đứa bé và họ có thể tiếp tục sống. Sau đám tang đó, người mẹ không cần phải đi vào bệnh viện tâm thần nữa bởi vì bà ta đã vượt qua được, người cha không còn nghiện rượu. Người gặp khó khăn nhất là người anh vì nó không đủ khả năng chứng minh kẻ giết em nó. Và những thành viên trong gia đình đó đã được phục hồi. Nghi thức đã giúp họ vượt qua cú sốc. Đó là cách chúng ta giúp cho những gia đình có những nghi thức tối cần thiết để họ có thể vượt qua những vấn đề của gia đình. Những vấn đề của gia đình Một vấn đề của gia đình có thể liên quan đến một số áp lực. Một áp lực có thể do chu kỳ phát triển tiến hóa của gia đình đó. Thí dụ gia đình mới có thêm một đứa trẻ. Ông hay bà không thể sống độc lập hoặc là một đứa con ở tuổi mới lớn, có thể một vấn đề cá nhân trong gia đình hạt nhân hay trong gia đình lớn cũng có thể tạo nên rắc rối trong gia đình. Mỗi chu kỳ thay đổi của gia đình có thể đem đến một sự hụt hẫng, mất mát nào đó, có thể là tang tóc, và có một vài dấu hiệu thoái hóa ở một vài thành viên trong gia đình. Ví dụ: Một gia đình có thêm một đứa con mới thì đứa lớn cũng có thể có nhiều biểu hiện muốn bắt chước hành vi của em nó (Thí dụ như đứa lớn không muốn vào nhà cầu mà nó muốn tiểu tiện như em nó). - Khi một thành viên trong gia đình bị tai nạn, bị bệnh thì các thành viên trong gia đình phải tái thích ứng về vai trò để bù đắp cho khó khăn này, cũng có thể áp lực đó từ bên ngoài vào gia đình. Ví dụ người cha bị khủng hoảng trong việc làm, hoặc người mẹ mất một người bạn tốt, hoặc cha đánh bạc bị 50
  48. mắc nợ. Và có một áp lực khác là áp lực bên ngoài lên toàn gia đình. Ví dụ gia đình phải dời nhà khi người cha không còn làm việc ở chỗ cũ nữa, lũ lụt, cháy nhà, không có chỗ cư ngụ. Trước tất cả áp lực này gia đình phải có khả năng thích nghi. Một áp lực từ bên ngoài thí dụ như ông bà dọn về ở chung, tái kết hôn cha mẹ ghẻ hay anh em ở dòng khác. Đó là những áp lực từ bên ngoài ảnh hưởng đến cấu trúc gia đình. Có những vấn đề chúng ta tưởng tượng nó chỉ ảnh hưởng đến một hành vi, điều đó không đúng, và đôi khi chúng ta thấy một hành vi khủng hoảng đối với gia đình thì đã có những thay đổi trong hệ thống mà chúng ta phải tìm hiểu hệ thống đó đáp ứng với gia đình đó như thế nào. Nhân viên xã hội cần tạo niềm tin, tạo hy vọng cho người để họ tiếp tục sống và hành động. BIỂU ĐỒ THẾ HỆ: Đây là công cụ để đánh giá gia đình, để nhìn ra hệ thống tình cảm gia đình, để tìm ra những yếu tố tìm hiểu văn hoá của gia đình nầy, là cách để tổ chức và phân định các thành viên trong gia đình, qua các thế hệ. Các biểu đồ nầy có thể đúc kết các hoạt động thông tin của gia đình trong một giai đoạn nào đó rất hiệu quả. Chúng ta có thể lấy ra những mẫu (mô hình) trong gia đình nầy. Thí dụ việc uống rượu có thể ở thế hệ này, có thể ở thế hệ trước hoặc ở những thế hệ trước. Biểu đồ nầy ít nhất có 3 thế hệ và trong biểu đồ nầy ta cần ghi lại những nguồn gốc về tôn giáo của gia đình, sắc tộc của gia đình và cũng như trong chu kỳ đời sống gia đình ta cần ghi lại những biến cố quan trọng trong gia đình như sự mất mát, chết chóc trong gia đình, nếu gia đình di chuyển chổ ở cũng ghi chú vào mối liên hệ giữa các thành viên trong gia đình. Các bạn có thể tìm ra khi nào nó có mối liên hệ tay ba, hay sự gần gũi cấu kết của các thành viên hay là ghi nhận lại bằng dấu hiệu mà những người đã không còn liên hệ với nhau nữa. Đây là những dấu hiệu được dùng trong biểu đồ. đàn ông vợ chồng chung sống không chính thức đàn bà có ảnh hưởng với nhau người đàn ông đã chết (quan hệ chặt chẽ) không còn liên hệ với nhau ly hôn 51 ly thân mâu thuẫn
  49. Xuyên qua những dấu hiệu nầy không chỉ nhìn thấy mối liên hệ giữa hai người với nhau mà còn thấy rõ mối liên hệ của nhiều người với nhau. Khi làm việc với một gia đình, ai là thân chủ của ta thì ta khoanh tròn dấu hiệu của người đó lại. Làm sao để thực hiện biểu đồ nầy? Nói chung phải có sự đồng ý của thân chủ, và thân chủ cung cấp thông tin thì ta mới có thể ghi nhận đầy đủ xuyên qua biểu đồ thế hệ. Chúng ta cần phải có những ghi nhận bên cạnh các thành viên trong gia đình, nếu có người trùng tên qua nhiều thế hệ thì xem xét coi những người trùng tên này có những điểm đặc biệt nào giống nhau không. Khi vẽ biểu đồ thế hệ cần nói rõ đặc điểm, tuổi tác, nămsinh, việc làm của từng người. MẪU BIỂU ĐỒ THẾ HỆ John Mar 52 Sue Bob Tin
  50. CÁC KÝ HIỆU CỦA BIỂU ĐỒ THẾ HỆ đàn ông đàn bà mất cưới nhau thân thiết ly dị xa cách N ỘI DUNG TẬP HUẤN NGÀY NĂM (11/7/1 997) ly thân xung đột - Trẻ em bị ngược đãi và thiếu chăm sóc. + Đặc điểm của những cha mẹ hay đánh đập con. - Trẻ em bị lạm dụng tình dục. sống chung - Ly hôn - Các lý thuyết về nhân cách và hình thành nhân cách. 1. TRẺ EM BỊ NGƯỢC ĐÃI VÀ THIẾU CHĂM SÓC: Ở Mỹ, trong sự ngược đãi có sự ngược đãi về thể chất, không được chăm sóc đầy đủ, không có được những dịch vụ y tế chăm sóc, không được khuyến khích và giúp đỡ để học, bị bóc lột để làm những 53
  51. công việc nặng nhọc hoặc nhiều giờ, tiếp xúc với những tình huống xã hội xấu: những vấn đề chúng ta thường nói là những vấn đề trẻ em không được quan tâm, bị bỏ bê, ngoài ra còn có những trẻ em bị ngược đãi, bị lạm dụng tình dục. Vấn đề trẻ em không được chăm sóc đầy đủ, nội dung chính là do thiếu nguồn tài nguyên, hoặc là lỗi của cha mẹ hay người chăm sóc có khả năng nhưng không hoàn thành trách nhiệm để cho đứa trẻ có được sự chăm sóc tối thiểu, người chăm sóc không thực hiện được cho trẻ hưởng thụ được nguồn tài nguyên như y tế, dinh dưỡng, nhà ở, sự hướng dẫn, tình thương, và sự quan tâm. Đó là tình trạng trẻ hoàn toàn không có người chăm sóc hay không được chăm sóc đầy đủ. Đó không phải là hành động cố tình tạo nên sự thiệt hại cho trẻ và đó là việc thiếu hành động cần thiết cho trẻ. Trẻ thiếu nguồn để sống sót, bao gồm cả việc thiếu sự theo dõi và hướng dẫn, thí dụ như khuyến khích trẻ đi học mỗi ngày và sự ủng hộ về mặt tình cảm đó là những vấn đề do ảnh hưởng nạn nghèo đói, cái nghèo làm cho cha mẹ thiếu khả năng cung cấp. Trẻ không được chăm sóc là trẻ tự kiếm sống lang thang, không ai kiểm soát, một số trường hợp khác trẻ không được ai giám sát, ta thấy trẻ không được ăn mặc sạch sẽ, dơ bẩn trông mất vệ sinh, những yêu cầu về sức khỏe, về nha khoa, về dinh dưỡng không được đáp ứng và từ đó dẫn đến những hậu quả về thể chất nếu trẻ không được chăm sóc ở mức độ nghiêm trọng. Một trong những hậu quả của sự thiếu chăm sóc là trẻ không có khả năng lớn hơn. Trẻ lớn không nổi khi còn trong nôi. Nó ảnh hưởng đến khả năng phát triển tâm lý, vận động và một ảnh hưởng khác lên trẻ em là trẻ bé hoài không phát triển đầy đủ về mặt tâm lý xã hội, và điều này có thể ảnh hưởng trẻ từ 18 tháng đến 16 tuổi. Và người ta nghĩ rằng trẻ bị bỏ rơi về tình cảm tạo ra cho trẻ lớn chậm (được gọi những chú lùn tâm lý xã hội, khi trẻ nhỏ hơn sự phát triển của trẻ bình thường, thấp nhất là 5%) có những trẻ bị bỏ bê nên bộ xương không tăng trưởng, sự trưởng thành về xương, qui trình lớn lên và cứng cáp của xương chậm. Ngoài ra, trẻ có hành vi phản xã hội như hành vi hoạt động một cách thoái hóa, chúng có thể có những khó khăn trong khi nói chuyện, trong giao tiếp. Đó là những dấu hiệu của những trường hợp nghiêm trọng. Có những đặc điểm biểu hiện của cha mẹ bỏ bê con cái là cha mẹ bị sống cô đơn, cô lập. Vì sống cô độc nên cha mẹ có khó khăn trong việc tiến hành công việc hàng ngày một mình không ai giúp đỡ, đặc biệt thứ hai là họ còn giận dữ tức tối là lúc nhỏ họ không được chăm sóc đầy đủ. Vì vậy cha mẹ rất khó khăn để nhìn thấy những nhu cầu của con cái. Những cha mẹ này thường sống một tâm trạng rất trầm cảm, không đáp ứng được những nhu cầu của con cái. 54
  52. Bạo hành trẻ em: Bạo hành trẻ em là đánh đập đến nỗi trẻ bị thương tích. Cái lý do mà cha mẹ đánh là quan trọng bởi vì có sự phân chia mơ hồ giữa kỷ luật con cái và đánh đập con cái, giữa cố tình làm hại đứa nhỏ và lỡ đập con cái. Nếu cha mẹ lỡ tay thì không kéo dài, còn cố tình thì sự đánh đập kéo dài. Hậu quả là những vết bầm trên cơ thể, những lằn xước lên da trẻ, và đôi khi cả dấu răng cắn và xương bị nứt, những vết thương trên đầu và những nội thương bên trong của ngũ tạng đứa trẻ. Ở Mỹ có những trường hợp những đứa trẻ mới sanh hay khóc làm cha mẹ bực bội, cha mẹ có thể lắc đứa trẻ quá mạnh thì đứa trẻ có thể bị tổn thương cổ, não bộ lúc lắc, có thể bị tổn thương về não và đứa trẻ có thể chết. Hiện có một cas, cha là bác sĩ, bị đưa ra toà (người mẹ sau khi sinh con đứa trẻ mới sanh khóc hoài). Hiện giờ người ta chưa xác định được ai là thủ phạm gây ra cái chết cho con, cha hay mẹ. Cas này bị lôi ra ánh sáng vì có sự nghi ngờ gắn liền khi cặp vợ chồng nầy đã yêu cầu cố giữ nó sống bằng hệ thống nhân tạo; đến khi đứa bé chết, người ta mổ xác đứa bé để xét nghiệm thì thấy não bị vỡ vụn. Với tư cách là nhà công tác xã hội để quyết định đứa trẻ có bị bạo hành hay không chúng ta nên nghĩ đến những câu hỏi sau đây: Điều thứ nhất: - Có phải là đứa trẻ ở lứa tuổi đó bị đánh đập quá thường xuyên đối với lứa tuổi đó hay không? - Có phải là đứa trẻ không chỉ bị một vết thương mà thôi, mà cùng một lúc có nhiều loại vết thương - Có phải là loại thương tích đứa nhỏ bị là một mẫu mà thường được lập đi lập lại hay không? (thí dụ như vết phỏng) - Vết thương mà đứa trẻ bị, có thể cha mẹ cắt nghĩa một cách không hợp lý không? - Hãy lắng nghe kỹ cách cha mẹ cắt nghĩa (lối giải thích của cha mẹ có hợp lýkhông?) Điều thứ hai là quan sát đến hành vi của đứa trẻ, đây là những hành vi mang tính cực đoan. - Đứa trẻ có hành vi quá sức tuân thủ ý kiến cha mẹ: thí dụ đứa trẻ lúc nào cũng ngồi yên lặng một chỗ, đứa trẻ tránh mọi sự đụng chạm xung đột với cha mẹ, tránh không làm cha mẹ giận, lúc nào cũng quan sát canh chừng cha mẹ. - Đứa nhỏ có tính hay gây hấn, rất đòi hỏi, sống động và đứa trẻ làm bất cứ điều gì để cha mẹ quan tâm đến nó. - Hành vi đứa trẻ bị thay đổi vai trò, nó có những hành vi như cha mẹ lo lắng cho con cái. - Trẻ có những hành vi rất là phụ thuộc cha mẹ để cha mẹ không có phản ứng gì cả. 55
  53. Những đứa trẻ thuộc 4 dạng vừa rồi, sự phát triển năng lực của nó chậm vì năng lực của nó đã dồn vào sự đối phó với cha mẹ. (Ví dụ như ngôn ngữ của nó không được phát triển tốt). Những đứa trẻ bị bạo hành có cách ứng đối với người lạ bằng một trong hai cách: - Có thể đối với mọi người nó rất thân thiện hoặc hay gây hấn, nó dễ dàng làm quen với mọi người. - Nó ngồi yên lặng thinh không tiếp xúc với ai, nó nghi ngờ mọi người. Dấu hiệu về vấn đề ăn uống bị rối loạn. Ta có thể thấy hành vi ăn uống của trẻ rất bình thường. Thí dụ đứa trẻ ngồi ăn uống rất lịch sự, rất hợp lý chỉ vì nó sợ bị đòn. Cách chơi của trẻ có thể cho thấy nó bị bạo hành. Nó có thể diễn tả tình cảm của nó xuyên qua các trò chơi, nó có thể ngồi yên một chổ, tránh giao tiếp vơi trẻ khác, hoặc là chơi nhưng có tính gây hấn như để diễn tả những bực tức mà nó mang đến từ nhà. Một dấu hiệu đó là nó không thể kiểm soát được sự tiểu tiện của nó (tiểu trong quần hay đái dầm vào đêm) hoặc nó không thể kềm chế được những sự bực tức, nằm vạ, làm mình làm mẩy, làm trận làm thượng và có thể có những hành động rất bất thường. Đặc điểm của những cha mẹ hay đánh đập con cái: Những người này thường có những nhu cầu quan trọng là được chăm sóc vì họ chưa được chăm sóc. Họ tự đánh giá mình rất thấp, họ khiến cho người khác ruồng bỏ họ, khinh thường họ, vì họ không biết làm sao để kiếm được sự hỗ trợ và họ thấy họ không xứng đáng nhận được sự hỗ trợ khác. Tình trạng của họ là tình trạng của cha mẹ mong muốn sự hỗ trợ của người khác. Trong khó khăn đó, họ không thể đáp ứng nhu cầu của con cái. Thường những cha mẹ này lúc bé, chính họ bị bạo hành hay bỏ rơi, họ sống cô độc, họ tự đánh giá họ thấp, họ không có được sự hỗ trợ nên sự căng thẳng này càng ngày càng cao và đổ trút sự căng thẳng lên đầu trẻ con. Và có khi cha mẹ bạo hành khó khăn nghiêm khắc với con cái, đứa nhỏ bị kiểm soát ngặt nghèo và khó khăn, đó là một phần cha mẹ tự muốn kiểm soát mình thông qua đứa nhỏ. Trong trường hợp những cha mẹ như vậy, những đứa trẻ bị tàn tật thì nếu đứa trẻ này có nguy cơ bị bạo hành nhiều hơn vì cha mẹ phải lo âu trong sự đáp ứng của trẻ này nhiều hơn. Thêm vào đó cha mẹ thường bị bạo hành lúc nhỏ cho nên họ cũng không biết cách để đáp ứng nhu cầu của trẻ như thế nào. Nếu họ không được chăm sóc lúc nhỏ thì bây giờ họ cũng không biết cách chăm sóc đứa nhỏ. Trong môi trường sống cũng có những ảnh hưởng đến những cha mẹ bạo hành trẻ con. Và trong mối liên hệ vợ chồng cũng có ảnh hưởng đến trẻ con, thường là mối quan hệ tay ba, mối liên hệ hai vợ chồng không tốt đẹp, họ dùng đứa con coi như vật tế thần để giải quyết vấn đề của 56
  54. họ. Trong trường hợp sự căng thẳng đến mức độ tột đỉnh và có những biến cố rất nghiêm trọng (nghèo đói triền miên, cha mẹ đơn thân, mất việc ) Trong trường hợp căng thẳng như vậy cha mẹ cảm thấy căng thẳng và bạo hành con cái. Có khi cha mẹ bạo hành con cái vì họ chưa được học kỹ năng cần thiết tối thiểu để làm cha mẹ, không biết thức ăn dinh dưỡng cần thiết và chăm sóc y tế như thế nào cả. Có nhiều cha mẹ cứ nghĩ cho ăn cho ngủ là đủ mà không quan tâm đến nhu cầu tâm lý tình cảm của trẻ. Có nhiều cha mẹ không được sự chỉ dẫn là nên nói chuyện với trẻ chứ không nên đánh trẻ. Và những cha mẹ không có khả năng nhìn mình tách biệt ra khỏi đứa con, hoặc ngược lại. Họ thường đổ lỗi cho con. Và những cha mẹ này thiếu khả năng lý giải vấn đề cái nào được, cái nào không được. Họ khó quyết định, họ không biết chọn hướng nào để thay đổi. Và có những cha mẹ không thể nào kiểm soát được họ, họ rất nóng vội, không chờ đợi được và đánh con ngay tức thì. Nếu cha mẹ nghiện rượu hay nghiện thuốc và sự nghiện ngập của những người này làm họ bị thu hút hết sự quan tâm đến con cái, gây nên nạn bạo hành con cái. Trong trường hợp những cas bạo hành đối với con cái nhân viên xã hội phải làm gì? - Tìm cách thu thập thông tin càng nhiều càng tốt - Thẩm định hoàn cảnh này - Có chương trình mục tiêu để làm việc, tìm ra cách trị liệu để coi trị liệu này có hiệu quả không? Nếu không có hiệu quả, phải đổi cách trị liệu khác. Đôi khi chỉ cần trị liệu một thời gian ngắn, đôi khi cần một thời gian dài để giáo dục. Những cái nhân viên xã hội cần tìm là: - Có bằng cớ rõ ràng về nạn bạo hành con và nạn bạo hành này nguy hiểm cho trẻ, cần phải thẩm định mức độ nguy cơ của trẻ, cần phải coi đứa trẻ trong giai đoạn này có những hành vi tự hủy hoại cuộc đời nó không? Tìm rathật sự của nạn bạo hành này xảy ra lâu chưa. Cần thẩm định xem cha mẹ có ý định sửa đổi hay không, cha mẹ này có muốn ruồng bỏ con cái họ không hay họ khổ sở về bạo hành? Cha mẹ có bị khủng hoảng về mặt tình cảm tâm lý không? Cha mẹ có hợp tác tốt với bạn hay không? Cha mẹ có những vấn đề tâm lý xã hội quá nghiêm trọng không? Cha mẹ có bị cô lập và không được hỗ trợ hay không? Chính khi qui tụ được hết những yếu tố này ta có thể kết luận đứa trẻ có nguy cơ bị bạo hành hay không? Bạn cần chỉ cho cha mẹ nhận ra những cảm giác của chính họ và những sự kiện nào xảy ra đã dẫn đến bạo hành; cần chỉ cho cha mẹ những dấu hiệu báo động trước khi bạo hành xảy ra để họ có thể học 57
  55. được những kỹ năng khác thay thế, để ứng phó với sự giận dữ trong lòng một cách khác đi. Chỉ cho họ biết cách phán đoán về mình. Nếu cha mẹ dốt nát, ta cũng dạy cho họ cách dạy con. Đối với những cha mẹ có khó khăn trong cách diễn tả bằng lời nói đối với con ta hướng dẫn cho họ cách nói chuyện, trao đổi với con, nên dạy họ các kỹ năng quản lý con cái sao cho thích hợp và điều duy nhất là dạy họ tổ chức một môi trường sống thích hợp hơn. Ta có thể đem đến cho họ nguồn tài nguyên từ cấp vĩ mô, có thể đem đến cho họ một bác sĩ để chăm sóc cho đứa trẻ. Tìm cách để cha mẹ vươn lên không bị cô lập, giúp họ nói chuyện với cha mẹ bạn bè, và dạy cha mẹ kỹ năng để kiểm tra chính mình để chống lại sự giận dữ và đồng thời dạy cho trẻ em thấy những gì xảy ra không phải lỗi tại nó để nó có thể chấp nhận được chuyện đó. Nếu sự giúp đỡ của họ không hiệu quả, bạn có thể nhớ tới sự hỗ trợ của cộng đồng, tòa án. 2. LẠM DỤNG TÌNH DỤC TRẺ EM Định nghĩa: Lạm dụng tình dục bao gồm sự tiếp xúc (tương tác) giữa đứa trẻ và người lớn, trong đó đứa trẻ bị kích thích tình dục cho người khác, trẻ từ 18 tuổi trở xuống. Khi người lớn, lớn hơn trẻ 5 tuổi trở lên và người đó có quyền lực trên đứa nhỏ. Người lớn có quyền lực trên đứa nhỏ này, sử dụng quyền lực của họ để thoả mãn tình dục và giúp người khác thoả mãn tình dục. Loạn luân là một hình thức đặc biệt của lạm dụng tình dục, là sự tiếp xúc, hay sự giao hợp giữa một đứa nhỏ và một thành viên trong gia đình không phải là người phối ngẫu. Lạm dụng tình dục cũng có thể là những hình ảnh khiêu dâm hay những cử chỉ mang tính tình dục, hay người lớn phô bày bộ phận sinh dục của mình, hay vuốt ve sờ mó bộ phận sinh dục, tình dục bằng miệng, giao hợp và bất cứ hình thức tiếp xúc sinh dục nào khác. Trong mối quan hệ mang tính loạn luân, không chỉ là những người có quan hệ máu mủ mà có thể là người không phải ruột thịt như cha ghẻ, dượng ghẻ, cô dì chú bác, người tình của cha mẹ. Trẻ có nguy cơ nhiều hơn đối với những người trẻ quen biết, tin cậy. Trẻ thì dễ bị lạm dụng tình dục vì chúng không có cơ sở thông tin để hiểu biết, không có chỗ nào để dựa, vì chúng nhỏ nên chúng sợ và đứa nhỏ nằm dưới sự kiểm soát của người lớn, nó muốn được làm vui lòng người lớn, nó nuốn được chăm sóc, muốn được có cảm giác an toàn. Ở Mỹ, 60% lạm dụng tình dục trẻ em xảy ra trong gia đình và phần lớn các trường hợp còn lại là do những người quen biết và những người lạm dụng tình dục trẻ em thường là những người thích làm tình với trẻ em. Trong gia đình có thể có mối 58
  56. quan hệ loạn luân giữa anh em, có khi đứa trẻ bị đối phó với những căng thẳng từ nhiều người, không có sự an ủi, có khi là anh truyền em nối, và thường là sự loạn luân giữa anh em nghiêm trọng hơn là trường hợp vi phạm là người lớn. Mối quan hệ loạn luân thực hiện theo các bước: 1. Bước đầu: người lớn (người vi phạm) thăm dò xem họ có thể tới gần đứa nhỏ không và đứa nhỏ đáp ứng thế nào? 2. Nếu trẻ có vẻ cởi mở, họ bước tới một bước là giao hợp. Từ từ dần tới mối quan hệ sâu sắc hơn về tình dục. 3. Và họ tìm cách làm cho đứa trẻ phải giữ bí mật, bằng cách họ hăm dọa hoặc đổ tội cho đứa trẻ hoặc nói đây là chuyện riêng của mình để dấu diếm sự việc. Và nếu trẻ cho biết tình hình này thì sẽ có sự phát hiện. Sự phát hiện này có thể do sự tình cờ, đứa bé không nói nhưng một ai đó hay gia đình có thể phát hiện. Và sự phản ứng của sự phát hiện này có thể tạo ra sự căng thẳng cho gia đình và trẻ. Người phạm tội luôn luôn chối, đứa trẻ cảm thấy là đứa tội lỗi, bất an. Gia đình có thể giận dữ với trẻ và người vi phạm. Cảm thấy tội lỗi vì không bảo vệ được trẻ. Có nhiều gia đình lờ luôn không muốn quan tâm đến vấn đề. Có những kết cấu trong gia đình đặt đứa trẻ trong cảnh nguy cơ. Gia đình này bị xã hội cô lập, có khi ranh giới gia đình không rõ ràng, hành vi của người cha đối với đứa trẻ không được bình thường lắm, hay là trong phòng không đóng cửa, hình như trong gia đình này không ai tôn trọng sự riêng tư của người khác, hoặc ngược lại có biểu hiện của sự bí mật, có sự dấu diếm. Có tình trạng những đứa con gái bị lạm dụng tình dục nhưng không được sự quan tâm của chính người lạm dụng tình dục. Có khi người cha lạm dụng tình dục đứa con mà người mẹ lại giận dữ với con. Người mẹ và con có khoảng cách với nhau, có mâu thuẫn giữa cha và mẹ. Người cha và con gái có sự quan hệ thân thiết dẫn đến có sự quan hệ tình dục. Vì mối quan hệ tâm lý giữa mẹ và con đã thiếu rồi cho nên khi có chuyện quan hệ tình dục, đứa con không nói với mẹ được nên người mẹ rất là giận con, cho nên không thể giúp con được. Một nguy cơ khác là khi nào có người dượng ghẻ trong gia đình, khi mẹ bệnh hoạn vắng nhà cũng là một yếu tố nguy cơ khác. Rượu cũng là một yếu tố khác và có nhiều khi chính kẻ lạm dụng tình dục lại có một lịch sử bị lạm dụng. Đó là một nhân tố lớn, nguy cơ lớn cho đứa trẻ bị lạm dụng tình dục. Đây là một vài đặc điểm của người cha lạm dụng tình dục: 59