Tài liệu Hướng dẫn thực hiện trợ giúp pháp lý trong các vụ việc liên quan đến bạo lực gia đình

pdf 150 trang hapham 2660
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Hướng dẫn thực hiện trợ giúp pháp lý trong các vụ việc liên quan đến bạo lực gia đình", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftai_lieu_huong_dan_thuc_hien_tro_giup_phap_ly_trong_cac_vu_v.pdf

Nội dung text: Tài liệu Hướng dẫn thực hiện trợ giúp pháp lý trong các vụ việc liên quan đến bạo lực gia đình

  1. CƠ QUAN PHÒNG CHỐNG MA TÚY BỘ TƯ PHÁP VÀ TỘI PHẠM CỦA LIÊN HỢP QUỐC CỤC TRỢ GIÚP PHÁP LÝ (UNODC) TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TRONG CÁC VỤ VIỆC LIÊN QUAN ĐẾN BẠO LỰC GIA ĐÌNH (Dành cho người thực hiện trợ giúp pháp lý) Hà Nội, Tháng 3/2012
  2. MỤC LỤC Trang LỜI GIỚI THIỆU 4 PHẦN I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH 9 1. Giải thích thuật ngữ 10 2. Nhận thức về nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ 14 3. Những lầm tưởng và quan niệm sai lệch về bạo lực gia đình 15 4. Vòng tròn bạo lực 17 5. Lý do khiến nạn nhân chấp nhận sống chung với bạo lực 18 6. Hậu quả của bạo lực gia đình 18 PHẦN II. KHUNG PHÁP LÝ 20 1. Quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý 22 2. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 25 3. Các chế tài hình sự và hành chính 32 4. Các quy định có liên quan của pháp luật dân sự 36 PHẦN III. PHƯƠNG PHÁP NHẬN DIỆN VÀ KỸ NĂNG GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC CÓ DẤU HIỆU BẠO LỰC GIA ĐÌNH 43 1. Hiểu biết của nạn nhân về bạo lực gia đình 45 2. Phát hiện bạo lực gia đình 47 a. Nạn nhân đến tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý để yêu cầu trợ giúp pháp lý trong vụ việc bạo lực gia đình 48 b. Phụ nữ đến yêu cầu trợ giúp pháp lý về vấn đề khác nhưng phát hiện có dấu hiệu chứng tỏ họ là nạn nhân bạo lực gia đình 48 c. Chủ động phát hiện các trường hợp bạo lực gia đình 50 d. Chuyển tuyến 51 3. Kỹ năng phỏng vấn ban đầu đối với nạn nhân 52 a. Kỹ năng phỏng vấn ban đầu 52 b. Thu thập thông tin 54 c. Bảo an toàn và hỗ trợ nạn nhân 55 4. Tổng quan về loại vụ việc và khả năng hỗ trợ của các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý 56 PHẦN IV. KỸ NĂNG THỰC HIỆN TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHO NẠN NHÂN BẠO LỰC GIA ĐÌNH TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ 62 1. Kỹ năng đại diện, bảo vệ quyền lợi cho nạn nhân bạo lực gia đình trong các vụ án hình sự 62 2
  3. 2. Kỹ năng thực hiện trợ giúp pháp lý cho bị cáo trong vụ án hình sự 73 PHẦN V. KỸ NĂNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHO NẠN NHÂN BẠO LỰC GIA ĐÌNH TRONG CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ 76 1. Kỹ năng đại diện, bảo vệ quyền lợi cho nạn nhân bạo lực gia đình trong các vụ ly hôn 76 2. Kỹ năng trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực gia đình trong vụ việc đòi bồi thường thiệt hại 81 3. Kỹ năng trợ giúp cho nạn nhân trong việc đề nghị áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc 83 PHẦN VI. KỸ NĂNG THAM GIA QUÁ TRÌNH HÒA GIẢI VỤ VIỆC LIÊN QUAN ĐẾN BẠO LỰC GIA ĐÌNH 86 1. Sàng lọc các vụ việc bạo lực gia đình để bảo đảm hòa giải là phương án lựa chọn tối ưu 86 2. Hòa giải vụ việc liên quan đến bạo lực gia đình 90 PHẦN VII. VẤN ĐỀ PHỐI HỢP – MỐI QUAN HỆ GIỮA TỔ CHỨC THỰC HIỆN TRỢ GIÚP PHÁP LÝ VÀ CÁC CƠ QUAN, TỔ CHỨC CÓ LIÊN QUAN 97 1. Các cơ quan có trách nhiệm ứng phó với bạo lực gia đình 97 2. Mối quan hệ giữa trợ giúp pháp lý và các dịch vụ hỗ trợ khác dành cho nạn nhân bạo lực gia đình 99 PHỤ LỤC 102 1. Tóm tắt các tiêu chuẩn/quy định quốc tế có liên quan 102 2. Luật Trợ giúp pháp lý và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định về quyền được trợ giúp pháp lý 106 3. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 110 4. Nghị định số 110/2009/NĐ-CP ngày 10/12/2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bạo lực gia đình 125 5. Tóm tắt một số quy định của Bộ luật Hình sự 141 6. Xác định mức độ nghiêm trọng của vụ việc và biện pháp xử lý : hình sự, hành chính hoặc biện pháp khác 144 7. Các quy định về Hòa giải trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 150 3
  4. LỜI GIỚI THIỆU Bạo lực gia đình là một vấn đề với đầy đủ các khía cạnh mang tính giáo dục, kinh tế, pháp lý và sức khỏe. Nó cũng là một vấn đề có liên quan tới quyền con người – xuyên suốt giữa các nền văn hóa, tôn giáo, ranh giới địa lý và mức độ phát triển kinh tế xã hội khác nhau. Đây là một thực tế tại Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác. Tầm quan trọng của việc xử lý bạo lực gia đình đã được Chính phủ Việt Nam nhìn nhận với bằng chứng cụ thể là việc thông qua Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 và nhiều văn bản pháp luật, chính sách khác. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 chính thức khẳng định bạo lực gia đình là hành vi không được chấp nhận và không nên xem đó là “vấn đê riêng tư”. Để ngăn ngừa có hiệu quả và giảm những tác động của bạo lực gia đình, các quy định của pháp luật cần phải được nghiêm chỉnh thi hành và cần có cơ chế theo dõi, giám sát việc thi hành đó. Phòng, chống bạo lực gia đình là trách nhiệm của mỗi người và toàn xã hội. Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm cụ thể trong việc bảo đảm có sự ứng phó toàn diện, mang tính phối hợp và linh hoạt đối với bạo lực gia đình. Trợ giúp pháp lý giữ một vai trò quan trọng trong sự ứng phó tổng thể đó. Là người thực hiện trợ giúp pháp lý, các bạn là đội ngũ thực hiện việc bảo vệ nạn nhân, truy cứu trách nhiệm theo đúng pháp luật đối với người có hành vi bạo lực, bảo đảm việc tiếp cận công lý, khắc phục hậu quả cũng như bảo đảm hệ thống tư pháp đáp ứng những nhu cầu đặc biệt và xoa dịu phần nào những tổn thương mà nạn nhân bạo lực gia đình đã phải chịu. Nạn nhân bạo lực gia đình chủ yếu là nữ giới, do đó họ gặp rất nhiều khó khăn khi tiếp cận với các dịch vụ pháp lý cũng như sự bảo vệ. Ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, sự bất bình đẳng giới dai dẳng và nền văn hóa mà ở đó “sự thống trị” của nam giới đối với phụ nữ được chấp nhận, đã dung túng, coi bạo lực gia đình là điều đương nhiên và phải giữ im lặng về điều đó. Vì vậy, cần có những nỗ lực không ngừng nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng về vấn đề này và thay đổi thái độ để bạo lực gia đình không còn là một vấn đề cần phải che đậy, những người phụ nữ chịu ảnh hưởng của bạo lực gia đình có thể tìm kiếm sự trợ giúp và hỗ trợ. Mặc dù Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã có hiệu lực từ năm 2008, nhưng việc coi bạo lực gia đình là “chuyện riêng của gia đình” và quan niệm cho rằng xã hội cũng như chính quyền không nên can thiệp vẫn tồn tại ở nhiều nơi. Bạo lực gia đình cũng là một vấn đề mà phụ nữ thường giấu kín, e ngại khi đề cập, chia sẻ hoặc tìm kiếm sự hỗ trợ. Nguyên nhân là do kỳ thị, thiếu cơ chế hỗ trợ và ứng phó nhạy cảm, thiếu sự hỗ trợ từ phía các thành viên gia đình và 4
  5. cơ quan chức năng hoặc lo sợ hậu quả đối với chính bản thân họ và con cái họ.1 Việc chấp nhận các hành vi bạo lực gia đình được củng cố bởi tư tưởng văn hóa ở Việt Nam. Điều này được phản ánh trong hệ thống cơ quan tư pháp, công an, tòa án, viện kiểm sát và trong tư tưởng của một số cán bộ của các cơ quan này. Vì vậy, việc nâng cao nhận thức của người thực hiện trợ giúp pháp lý về bạo lực gia đình là vấn đề hết sức quan trọng. Cuốn Tài liệu này được xây dựng dành cho đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý. Dù bạn là người thực hiện trợ giúp pháp lý ở cơ sở, là chuyên gia về pháp luật, là Cộng tác viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, là thành viên Ban chủ nhiệm Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý hay cán bộ của các tổ chức đăng ký tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý, Tài liệu này sẽ cung cấp các thông tin giúp bạn có thể thực hiện trợ giúp pháp lý có hiệu quả cho đối tượng là nạn nhân trong những vụ việc có dấu hiệu bạo lực gia đình. Tháng 10/2010, Cục Trợ giúp pháp lý đã thực hiện một cuộc khảo sát về thực trạng trợ giúp pháp lý cho nữ giới là nạn nhân bạo lực gia đình cũng như nhu cầu bồi dưỡng nâng cao kiến thức và kỹ năng thực hiện trợ giúp pháp lý trong những vụ việc có dấu hiệu bạo lực gia đình2. Vào thời điểm đó, việc người đến yêu cầu trợ giúp pháp lý có phải là nạn nhân bạo lực gia đình hay không không được xem là một tiêu chí khi xác định diện đối tượng theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý. Mặc dù vậy, 1/3 trên tổng số người thực hiện trợ giúp pháp lý được phỏng vấn khẳng định họ đã từng tham gia giải quyết vụ việc bạo lực gia đình, phần lớn trong số họ trả lời đã từng giải quyết 01 - 03 vụ việc có dấu hiệu bạo lực gia đình trong 12 tháng trở lại đây3. Theo Kết quả khảo sát, dù vụ việc trợ giúp pháp lý có được xác định là vụ việc bạo lực gia đình hay không, người thực hiện trợ giúp pháp lý vẫn tiến hành gặp gỡ tiếp xúc với nạn nhân, đặc biệt là trong những vụ ly hôn, trong lĩnh vực hôn nhân gia đình. Một Cộng tác viên trợ giúp pháp lý khi được phỏng vấn cho biết “Cứ 10 vụ ly hôn thì 08 vụ có dấu hiệu bạo lực gia đình”. Tuy nhiên, không phải tất cả người thực hiện trợ giúp pháp lý đều có thể phát hiện hay nhận biết nạn nhân của bạo lực gia đình, thậm chí ngay cả nạn nhân cũng không coi những gì người khác làm đối với mình là bạo lực gia đình hay vi phạm pháp luật nên không tìm đến và yêu cầu được trợ giúp pháp lý. Tuy nhiên, trong thời gian tới vì rất nhiều lý do, người thực hiện trợ giúp pháp lý có thể đối mặt với số lượng ngày càng tăng của các vụ việc bạo lực gia 1 Kết quả Nghiên cứu Quốc gia về Bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Việt Nam năm 2010 – Báo cáo Tóm tắt (do Tổng cục Thống kê thực hiện với sự hỗ trợ của Liên hợp quốc trong Chương trình hợp tác về Bình đẳng giới giữa Chính phủ Việt Nam và Liên Hợp quốc), trang 5. 2 Để biết thêm các thông tin về khảo sát, vui lòng xem Báo cáo kết quả thực trạng trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực gia đình và nhu cầu tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực thực hiện trợ giúp pháp lý đối với vụ việc liên quan đến bạo lực gia đình của người thực hiện trợ giúp pháp lý ở cơ sở do Cục Trợ giúp pháp lý và UNODC thực hiện tháng 10/2010 (sau đây gọi là Báo cáo khảo sát). 3 Báo cáo khảo sát cho thấy có 35,34% người được phỏng vấn khẳng định họ đã tham gia giải quyết vụ việc bạo lực gia đình và 88,65% trong số đó trả lời họ đã từng giải quyết 01 - 03 vụ việc có dấu hiệu bạo lực gia đình trong 12 tháng trở lại đây. (Xem thêm ở Báo cáo khảo sát). 5
  6. đình. Trước hết, trong tháng 3/2011, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 07/2011/TT-BTP ngày 31/3/2011 hướng dẫn bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức cán bộ và hoạt động trợ giúp pháp lý (sau đây gọi tắt là Thông tư số 07/2011/TT-BTP). Theo quy định tại Điều 12 của Thông tư, trong số người được trợ giúp pháp lý là nữ giới theo Điều 2 Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý thì nữ giới là nạn nhân bạo lực gia đình được các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý ưu tiên sử dụng nguồn lực để trợ giúp pháp lý. Thứ hai, có một chiến dịch truyền thông cộng đồng nhằm nâng cao nhận thức và khuyến khích nạn nhân bạo lực gia đình tìm kiếm sự hỗ trợ từ phía các cơ quan nhà nước. Thứ ba, ở mức độ nào đó, người thực hiện trợ giúp pháp lý đã được nâng cao nhận thức và tăng cường kỹ năng trong việc nhận diện nạn nhân bạo lực gia đình khi người được trợ giúp pháp lý đến yêu cầu trợ giúp pháp lý trong các lĩnh vực khác nhau, chẳng hạn như trong các vụ việc ly hôn. Khảo sát cũng chỉ ra rằng những thông tin về bạo lực gia đình mà người thực hiện trợ giúp pháp lý xác định được chưa dựa vào kiến thức hay kinh nghiệm của họ mà phần lớn là do nạn nhân cung cấp4. Ngoài ra, khảo sát cũng cho thấy, người thực hiện trợ giúp pháp lý phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức khi thực hiện trợ giúp pháp lý đối với vụ việc bạo lực gia đình, như: Nạn nhân còn do dự, e ngại khi chia sẻ các thông tin về tình trạng của họ; Nhận thức và hiểu biết của người thực hiện trợ giúp pháp lý về Luật Phòng, chống bạo lực gia đình và các văn bản pháp luật được áp dụng trong quá trình giải quyết vụ việc bạo lực gia đình còn hạn chế; Nạn nhân rút lui hoặc từ bỏ quyền được bảo vệ của họ; Thiếu sự phối hợp với sự hỗ trợ từ phía các cơ quan, tổ chức có liên quan. Kết quả khảo sát nêu bật nhu cầu cần nâng cao kiến thức của người thực hiện trợ giúp pháp lý về các quy định của pháp luật hiện hành để ứng phó kịp thời với nạn bạo lực gia đình cũng như xây dựng, tăng cường năng lực cho họ để thực hiện trợ giúp pháp lý có hiệu quả đối với các vụ bạo lực gia đình. Những người được phỏng vấn trong cuộc khảo sát đã đề nghị được tập huấn, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng trợ giúp pháp lý trong việc thực hiện trợ giúp pháp lý các vụ việc bạo lực gia đình. Tài liệu này được xem là bước đầu tiên nhằm hiện thực hóa mục tiêu này. 4 148/160 người được phỏng vấn, theo Báo cáo Kết quả khảo sát 6
  7. Mục tiêu của tài liệu Tài liệu này được xem là công cụ thiết thực cung cấp những chỉ dẫn cần thiết về kiến thức và kỹ năng cho người thực hiện trợ giúp pháp lý trong việc thực hiện trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực gia đình để nâng cao chất lượng dịch vụ pháp lý miễn phí hỗ trợ cho nạn nhân bạo lực gia đình. Đối tượng sử dụng Tài liệu Đối tượng sử dụng Tài liệu bao gồm: Trợ giúp viên pháp lý; Cộng tác viên là luật sư; Cộng tác viên trợ giúp pháp lý khác; Chuyên viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước (Trung tâm); Tư vấn viên pháp luật; Thành viên Ban chủ nhiệm Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý; Công chức của Sở Tư pháp có liên quan đến việc thực hiện trợ giúp pháp lý. Phạm vi của Tài liệu Tài liệu tập trung vào bạo lực đối với phụ nữ trong các mối quan hệ gia đình và quan hệ như vợ chồng. Người gây ra bạo lực đối với phụ nữ có thể là chồng, chồng cũ hoặc bạn tình hay các thành viên trong gia đình như con trai, mẹ chồng hoặc những thành viên khác. Mặc dù các hình thức bạo lực gia đình khác cũng rất nghiêm trọng, tuy nhiên Tài liệu chủ yếu tập trung vào bạo lực gia đình đối với phụ nữ trong các mối quan hệ gia đình của họ. Thực tế cho thấy, phần lớn nạn nhân bạo lực gia đình là nữ giới. Mặc dù các số liệu thống kê rất đa dạng nhưng nghiên cứu cũng chỉ ra rằng số vụ bạo lực gia đình mà nạn nhân là nữ giới chiếm khoảng 95% tổng số vụ việc bạo lực gia đình5. Sự bất bình đẳng giới dai dẳng và nền văn hóa mà ở đó duy trì sự thống trị của nam giới đối với nữ giới sẽ còn tiếp tục mang lại hậu quả là số lượng nữ giới bị bạo hành tăng lên và việc đòi quyền lợi của họ sẽ bị hạn chế. Nữ giới là nạn nhân bạo lực gia đình cần một sự hỗ trợ và bảo vệ đặc biệt do tính chất thân mật và riêng tư của các mối quan hệ mà ở đó diễn ra tình trạng bạo lực. Tài liệu này không nhằm giải quyết tình trạng bạo lực gia đình đối với trẻ em. Vì để xác định, đánh giá và ứng phó với tình trạng này cần phải có những 5 Tài liệu tập huấn về Quyền con người của Luật sư Bang Minnesota. Theo số liệu thống kê của Canada, phụ nữ là nạn nhân bạo lực gia đình chiếm 83% trong tổng số vụ bạo lực gia đình: Số liệu Thống kê của Canada về “Bạo lực gia đình ở Canada”: Tập hợp số liệu thống kê năm 2008. 7
  8. kỹ năng đặc thù nhất định. Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận khách quan rằng trẻ em là người chứng kiến tình trạng bạo lực gia đình đối với mẹ của chúng, do đó, chúng cũng là nạn nhân. Vì vậy rất cần một sự can thiệp toàn diện để sự hỗ trợ, bảo vệ người mẹ cũng bao gồm cả việc đáp ứng các yêu cầu cần thiết của trẻ em. Bố cục của Tài liệu Tài liệu được chia thành các Phần như sau: Lời giới thiệu Phần I: Khái quát chung về bạo lực gia đình Phần II: Khung pháp lý Phần III: Kỹ năng, phương pháp xác định và giải quyết vụ việc có dấu hiệu bạo lực gia đình Phần IV: Một số kỹ năng thực hiện trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực gia đình trong các vụ án hình sự Phần V: Một số kỹ năng thực hiện trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực gia đình trong các vụ việc dân sự Phần VI: Một số kỹ năng thực hiện trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực gia đình trong các vụ hòa giải Phần VII: Vấn đề phối hợp – mối quan hệ giữa các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và các cơ quan, tổ chức có liên quan Phụ lục Tài liệu nhằm cung cấp cho người thực hiện trợ giúp pháp lý và các cán bộ có liên quan những hướng dẫn thực tế, cụ thể và hữu ích. Mỗi Phần sẽ có tóm tắt những vấn đề quan trọng được đề cập đến. Tài liệu này do Cục Trợ giúp pháp lý - Bộ Tư pháp xây dựng với sự hỗ trợ của Cơ quan phòng chống Ma túy và Tội phạm của Liên Hợp quốc tại Việt Nam (UNODC). Tài liệu được xây dựng trên cơ sở kết quả khảo sát được tiến hành vào tháng 10/2010 về thực trạng trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực gia đình và nhu cầu tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực thực hiện trợ giúp pháp lý đối với vụ việc liên quan đến bạo lực gia đình của người thực hiện trợ giúp pháp lý ở cơ sở. Cuộc khảo sát và Tài liệu này là các hoạt động trong khuôn khổ Dự án “Tăng cường năng lực cho các cơ quan hành pháp và tư pháp chống bạo lực trong gia đình ở Việt Nam” (VNM/T28) và là một phần trong Chương trình chung về Bình đẳng giới của Liên Hợp quốc. 8
  9. PHẦN I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH Tóm tắt nội dung chính 1. Bạo lực gia đình là hành vi cố ý cũng là hành vi có ý thức. 2. Bạo lực gia đình là một hình thức bạo lực trên cơ sở giới xuất phát từ quan niệm và niềm tin lâu đời rằng người phụ nữ luôn thấp kém hơn và phụ thuộc vào nam giới. 3. Phụ nữ là nạn nhân bạo lực gia đình chiếm tỉ lệ cao (95%) trong tổng số vụ bạo lực gia đình. 4. Bạo lực gia đình chủ yếu liên quan đến những hành vi lặp đi lặp lại; bao gồm các hình thức lạm dụng, bạo hành khác nhau. 5. Có 04 hình thức bạo lực gia đình chủ yếu là bạo lực: về thể xác, về tâm lý, về tình dục và về kinh tế. 6. Người gây ra bạo lực sử dụng rất nhiều loại hành vi khác nhau để đạt được quyền lực và sự kiểm soát đối với nạn nhân. 7. Người gây ra bạo lực, nạn nhân và mối quan hệ giữa người gây ra bạo lực, nạn nhân. 8. Nhận thức về động cơ thúc đẩy bạo lực gia đình và những rào cản mà nạn nhân gặp phải khi tìm kiếm sự hỗ trợ sẽ giúp ích cho người thực hiện trợ giúp pháp lý trong việc ứng phó/giải quyết một cách hiệu quả hơn các vụ bạo lực gia đình. 9
  10. 1. Giải thích thuật ngữ Khái niệm bạo lực gia đình có được định nghĩa trong Luật không? Câu trả lời là Có. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình quy định về giải thích thuật ngữ tại Điều 1 Khoản 2: “Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình”. Bạo lực trong gia đình là hiện tượng một hay nhiều thành viên dùng quyền lực và bạo lực trong cả một quá trình để thực hiện hành vi làm cho thành viên khác trong gia đình đau đớn về thể xác, bị khủng hoảng về tinh thần và bị bế tắc về mặt xã hội nhằm khuất phục, khống chế và kiểm soát người đó6. Mặt khác, bạo lực gia đình là hành vi cố ý. Mục đích của nó là để thiết lập và duy trì quyền lực và sự kiểm soát đối với người khác. Bạo lực được dùng để đe dọa, hạ nhục hoặc khiến nạn nhân sợ hãi. Bạo lực gia đình: Có thể là một hành vi bạo lực đơn lẻ; hoặc Là tổng hợp của nhiều hành động thông qua việc sử dụng các hành vi tấn công, kiểm soát. Nghiên cứu Quốc gia về Bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam (sau đây gọi là Nghiên cứu quốc gia) chỉ ra rằng có 60% trong tổng số phụ nữ thừa nhận đã từng bị thương tích do hành vi bạo lực gây ra cho biết họ bị thương tích nhiều hơn một lần và 17% bị thương tích nhiều lần.7 Bạo lực gia đình gồm những loại hình nào? Bạo lực gia đình thường được chia thành 04 loại Bạo lực thể xác: Đấm đá, đánh, xô đẩy, bóp cổ Bạo lực tinh thần: Nguyền rủa, chửi bới, mắng nhiếc, hạ thấp hay xúc phạm danh dự, nhân phẩm, đổ lỗi, chê bai những suy nghĩ và cảm xúc của người khác, đe dọa, ném, đập vỡ đồ đạc, đấm và tưởng, cất giấu đồ đạc Bạo lực tình dục: Bất kỳ hành vi, hành động cưỡng ép quan hệ tình dục ngoài ý muốn nào. Bạo lực kinh tế: Ngăn không cho làm việc, kiểm soát chặt chẽ, không cho người khác tiếp cận những nguồn thu nhập của gia đình 6 Xem: Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Khoa học về Giới – Gia đình – Phụ nữ và Vị thành niên (CSAGA), tài liệu tập huấn về Giới – Bạo lực giới và truyền thông phòng chống bạo lực gia đình, tại Bến Tre, tháng 5 năm 2007. 7 Nghiên cứu quốc gia, xem trích dẫn số 1. 10
  11. CẦN LƯU Ý RẰNG – Bạo lực gia đình là hình thức cưỡng chế và kiểm soát mà một người hành xử đối với người khác. Bạo lực gia đình không chỉ là sự tấn công cơ học thậm chí không buộc phải là hành động tác động đến thể chất của nạn nhân. Nó thường là việc lặp đi lặp lại một phương thức bao gồm nhiều hành động như đe dọa, tước đoạt về kinh tế, cô lập, lạm dụng bạo hành về tinh thần và tình dục. Một số hành vi mà kẻ gây ra bạo lực sử dụng đã khiến nạn nhân bị tổn thương cả về thể chất và tinh thần. Ngoài ra còn có các hành vi dẫn đến tổn thương về tâm lý, tinh thần cho nạn nhân. Mặc dù những hành vi này không để lại những thương tật trên cơ thể nạn nhân nhưng nó vẫn để lại những tổn thương sâu sắc trong tâm hồn họ. QUAN TRỌNG LÀ – Chưa có khái niệm chính thức về bạo lực tinh thần. Bạo lực tinh thần hay còn gọi là bạo lực tâm lý là hình thức bạo lực khó xác định nhất vì nhiều lý do. Trước hết, không có dấu hiệu nào biểu hiện ra bên ngoài về sự tổn hại mà bạo lực tinh thần gây ra. Thứ hai, phương thức hay hành vi được sử dụng như “lăng mạ” hay “hạ nhục, bôi nhọ” có thể xảy ra trong mọi mối quan hệ và có thể chưa đến mức bị gọi là “bạo lực”. Để xác định xem loại hành vi này có phải là một hình thức bạo lực gia đình hay không, chúng ta cần xem xét xem nó có dựa trên sự áp đặt quyền lực và sự kiểm soát hay không. Nhìn chung, bạo lực tinh thần hay bạo lực tâm lý còn bao gồm cả những hành vi như thường xuyên đe dọa, hạ thấp phẩm giá chứ không chỉ đơn giản là tạo ra áp lực tinh thần hay xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của người khác. Bạo lực thể chất Bạo lực tinh thần/tâm lý Là hành vi cố ý gây ra thương tích trên Là hành vi cố ý làm tổn thương tâm cơ thể nạn nhân, bao gồm hành vi bạo lý/tinh thần của người khác và chạm lực và thương tật nhỏ. ngưỡng bạo lực. Bao gồm các hành động như đánh Bao gồm các hành vi nghiêm trọng có đập, đối xử tàn tệ, tra tấn hoặc những thể ảnh hưởng đến sức khỏe tâm lý/tinh hành vi có mục đích khác gây ra thương thần của phụ nữ, bao gồm việc sử dụng tật cho sức khỏe và cuộc sống của người những lời lẽ lăng mạ, chửi rủa, đe dọa khác. hoặc hành vi vi phạm khác, kiểm soát và Có thể bao gồm việc sử dụng hung ngăn cấm người phụ nữ tham gia vào khí như que, gậy, dao hoặc kéo. các hoạt động xã hội hoặc các hoạt động kinh doanh, lao động khác. Nghiên cứu Quốc gia chỉ ra rằng 31,5% phụ nữ từng lập gia đình đã từng Nghiên cứu quốc gia cho thấy tỷ lệ bị chồng hoặc chồng cũ bạo hành về thể bạo lực tâm lý phổ biến trong suốt đời chất8. người phụ nữ do chồng gây ra là 53,6%. 8 Nghiên cứu quốc gia về Bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Việt Nam, tr 52-53. 9 Vung và Cộng sự (CS) năm 2008, Luke và CS năm 2007, UNFPA 2007, Lợi và CS 1999, trích trong “Số chuyên đề: Bạo lực trên cơ sở giới” (UN Việt Nam, tháng 5/2010) 10 Mai và CS, trích trong Số chuyên đề, xem ghi chú 9. 11
  12. Nghiên cứu Quốc gia cũng chỉ ra Nghiên cứu ở phạm vi nhỏ chỉ ra rằng rằng tần suất phụ nữ bị bạo lực về thể tỷ lệ bạo lực tâm lý/tinh thần cao hơn tỷ xác mang tính tích lũy và gia tăng theo lệ bạo lực thể xác từ 19% đến 55%11. độ tuổi. Cuộc điều tra 2006 trên tổng số 2.000 Nghiên cứu ở phạm vi nhỏ chỉ ra phụ nữ đã từng lập gia đình cho biết rằng bạo lực thể xác là hình thức phổ 25% trong số họ đã từng bị bạo lực tâm biến nhất của bạo lực trên cơ sở giới với lý/tinh thần trong chính gia đình họ12. tỉ lệ từ 16-37% phụ nữ cho biết họ đã Rất khó xác định bạo lực vì những 9 từng bị bạo lực thể xác . tổn hại không thể hiện ra bên ngoài như Một nghiên cứu trên 465 cặp đôi chỉ bạo lực thể xác. ra rằng 50% nam giới thừa nhận họ đã Rất khó để phân biệt một hành vi chỉ từng đánh vợ trong khi chỉ 37% phụ nữ là xúc phạm hay đến đã mức bạo lực nói rằng họ từng bị bạo lực. Điều này tâm lý/tinh thần. cho thấy, phụ nữ thường có xu hướng Đối với mỗi trường hợp, cần phải báo cáo không đầy đủ về tình trạng bạo đánh giá chính xác các tác động mà lực mà họ đã chịu trong đời10. hành vi gây ra. Cần xem xem có mối quan hệ quyền lực và kiểm soát giữa hai người hay không. Bạo lực tình dục Bạo lực kinh tế Là hành vi quấy rối tình dục, hoặc Là hành vi cố ý sử dụng phương tiện cưỡng ép quan hệ tình dục ngoài ý muốn kinh tế để kiểm soát vợ hoặc chiếm đoạt của nạn nhân. thu nhập hợp pháp của vợ hoặc ngăn Bao gồm các hành vi như hãm hiếp, cấm vợ tiếp cận, sử dụng các nguồn thu cưỡng ép quan hệ tình dụng; sử dụng nhập của gia đình hoặc bắt ép vợ làm những lời lẽ hoặc hành động cưỡng ép việc quá sức. nạn nhân thực hiện những hành vi tình Bao gồm các hành vi như ép buộc dục khiến nạn nhân cảm thấy bị làm thành viên khác trong gia đình lao động nhục; đe dọa để quan hệ tình dục. quá sức hoặc đóng góp vượt quá khả Nghiên cứu quốc gia cho thấy cứ năng thu nhập của họ; kiểm soát thu khoảng 10 phụ nữ từng kết hôn thì có 01 nhập của thành viên khác trong gia đình người đã từng bị chồng bạo lực tình dục để bắt họ phụ thuộc về tài chính. trong đời (9,9%). Một điều tra nhỏ về hình thức bạo lực Cuộc điều tra năm 2006 của Ủy ban kinh đã được thực hiện tại Việt Nam. Các vấn đề Xã hội của Quốc hội tại 08 Dữ liệu thu được từ trung tâm tư vấn tỉnh, thành phố cho thấy có đến 30% thuộc Bệnh viện Đức Giang – Hà Nội phụ nữ trả lời đã từng bị chồng bắt cho thấy 11% bệnh nhân đã từng bị bạo quan hệ tình dục ngoài ý muốn13. hành về kinh tế. Theo dữ liệu của Trung tâm tư vấn Cửa Lò thì có 42/207 vụ là bạo lực tình dục. 11 Xem trích dẫn số 9. 12 Xem tờ trình số 2330 TTr/UBXH 2006 trích trong UNFPA 2007: tr 22, xem trích dẫn số 9. 13 Xem trích dẫn số 9. 12
  13. Các hành vi bạo lực gia đình được quy định trong Luật như thế nào? Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 tại khoản 1 Điều 2 quy định các hành vi bạo lực gia đình bao gồm: a. Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng; b. Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm; c. Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng; d. Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau; đ. Cưỡng ép quan hệ tình dục; e. Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; g. Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình; h. Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính; i. Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở. Có phải chỉ phụ nữ mới là nạn nhân bạo lực gia đình? Bạo lực gia đình có thể xảy ra trong bất kỳ mối quan hệ gia đình nào, bao gồm quan hệ vợ - chồng, vợ cũ - chồng cũ; cha dượng/mẹ kế với con riêng của vợ/chồng, cha mẹ và con cũng như quan hệ giữa những người cùng chung sống. Tuy nhiên, thực tế là nạn nhân bạo lực gia đình chủ yếu là nữ giới. Mặc dù số liệu về bạo lực gia đình rất đa dạng, nhưng các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng số vụ việc mà nạn nhân là phụ nữ chiếm khoảng 95% tổng số vụ bạo lực gia đình14. Bạo lực gia đình đối với phụ nữ thường được gọi là “bạo lực trên cơ sở giới” vì nó phần nào xuất phát từ tình trạng phụ thuộc về giới tính của phụ nữ trong xã hội. Trong hầu hết các xã hội, mối quan hệ bất bình đẳng giữa nam giới và nữ giới được tạo lập và duy trì bởi quan niệm bất di bất dịch về giới là nguyên nhân cơ bản dẫn đến bạo lực đối với phụ nữ. 14 Điều này được phản ánh trong các nghiên cứu của quốc tế cũng như Việt Nam trong thời gian gần đây. (Xem Tập hợp chuyên đề nghiên cứu về bạo lực trên cơ sở giới của Liên Hợp quốc, t5/2010, xem trích dẫn 1 và 9). 13
  14. 2. Nhận thức về nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ Nguyên nhân sâu xa chính là sự bất bình đẳng giới Bạo lực gia đình xuất phát từ hành vi và thái độ kéo dài hàng thế kỷ của xã hội mà trong đó phụ nữ bị cho là thấp kém hơn đàn ông và so với đàn ông thì họ không xứng đáng để kiểm soát cuộc sống của chính họ hay đưa ra các quyết định. Sự bất bình đẳng giới được duy trì và phản ánh trong quan niệm bất di bất dịch về giới. Suy nghĩ sai lầm đó đã củng cố niềm tin rằng đàn ông có quyền dạy dỗ vợ của họ thông qua những hành động có tính bạo lực để bảo vệ thanh danh của gia đình. Bạo lực đối với phụ nữ thường bị coi nhẹ như thể nó là điều hết sức bình thường trong xã hội, ngay cả đối với chính những nạn nhân bạo lực gia đình. Kết quả Nghiên cứu quốc gia phản ánh nhận thức của người phụ nữ về vai trò của họ như sau: » 27% đồng ý với ý kiến “một người vợ tốt là người luôn biết vâng lời ngay cả khi chị ta không đồng ý”. » Cùng tỷ lệ như trên đồng ý với ý kiến “mọi quyết định quan trọng của gia đình phải do người chồng quyết định”. » Tuy nhiên, phần lớn phụ nữ muốn chồng chia sẻ công việc gia đình với họ khi họ đi làm (97.7%). Hiện nay, nhiều xã hội được xây dựng trên cơ sở hệ thống mà ở đó người đàn ông có nhiều quyền lực về tài chính và chính trị hơn phụ nữ. Những xã hội này được gọi là “xã hội gia trưởng”. Trong xã hội này, người đàn ông giữ vị trí thống trị về chính trị, kinh tế và được xem là người đứng đầu, đại diện cho gia đình. Sức mạnh của nam giới được củng cố bởi niềm tin rằng người đàn ông luôn mạnh mẽ và có khả năng lãnh đạo hơn là phụ nữ. Điều này đã dẫn đến sự tiếp cận không bình đẳng của phụ nữ đối với giáo dục, đào tạo các kỹ năng, cơ hội nghề nghiệp và các nguồn lực tài chính từ đó tiếp tục duy trì thậm chí củng cố mối quan hệ quyền lực bất bình đẳng giữa đàn ông và phụ nữ. Mục đích của bạo lực gia đình là phát triển, củng cố quyền lực và sự kiểm soát đối với người khác. Những nhận thức sai lầm có thể duy trì bất bình đẳng giới và bạo lực Về giáo dục, trẻ em chịu ảnh hưởng trực tiếp từ gia đình về việc chúng nhìn nhận thế nào về vai trò của giới trong gia đình, hành vi bạo lực của cha và sự chịu đựng của mẹ. Có thể nói rằng, việc chứng kiến cảnh bạo lực trong gia đình cũng chính là một hình thức bạo lực đối với trẻ em. Điều này gây ra tổn thương 14
  15. về tâm lý cho chúng khiến chúng cảm thấy lo lắng, chán nản và ảnh hưởng tới kết quả học tập ở trường. Nghiên cứu quốc gia cho thấy trẻ em sống trong gia đình có bạo lực thì khả năng lạm dụng rượu và các chất kích thích; nguy cơ trở thành tội phạm vị thành niên cũng như nguy cơ trở thành nạn nhân cao hơn các trẻ em sống trong gia đình không có bạo lực. Thông qua việc chứng kiến cảnh bạo lực trong chính gia đình của mình, trẻ em có thể nhận thức rằng việc một người lạm dụng hoặc sử dụng bạo lực đối với người khác là chuyện bình thường. Về thi hành pháp luật, các quy định của pháp luật không được tuân thủ một cách nghiêm túc và toàn diện. Một số cơ quan, cá nhân có thẩm quyền không nhận thức được vai trò và trách nhiệm của họ trong việc phòng, chống bạo lực gia đình. Về quan niệm và thái độ của xã hội, bạo lực gia đình chưa được nhận thức đầy đủ và chưa được xã hội lên án một cách mạnh mẽ. Gia đình vẫn được xem là một đơn vị tách biệt và do người đàn ông trong gia đình kiểm soát. Phụ nữ thường bị buộc phải chấp nhận việc sử dụng bạo lực của chồng là cách giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh. Về kinh tế phụ nữ thường lệ thuộc vào đàn ông. Họ dành phần lớn thời gian để chăm sóc gia đình và làm việc nhà do đó khả năng họ làm những công việc khác hoặc tham gia học tập, bồi dưỡng nâng cao năng lực bị hạn chế. 3. Những lầm tưởng và quan niệm sai lệch về bạo lực gia đình Nỗ lực trong việc ứng phó với bạo lực gia đình có thể bị cản trở bởi những lầm tưởng và quan niệm sai lệch về bạo lực gia đình. Những lầm tưởng được nêu ra trong phần này nhằm lý giải vì sao khó có thể hiểu được lý do khiến một người làm tổn thương người khác, đặc biệt là trong những mối quan hệ thân thiết như quan hệ gia đình. Những lầm tưởng này tạo ra những thông tin sai lệch về nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình và một vài trong số những lầm tưởng đó hiện đang phổ biến trên toàn thế giới. Nhận thức được những lầm tưởng này cũng như thực trạng bạo lực gia đình là rất quan trọng. Qua đó, những ứng phó kịp thời, có hiệu quả sẽ được xây dựng và phát triển nhằm hạn chế và chấm dứt bạo lực gia đình. Theo Nghiên cứu quốc gia, những tình huống dẫn tới bạo lực theo nhận thức của phụ nữ từng bị bạo lực thể xác do chồng gây ra như sau: - Khi chồng say rượu (33.7%); - Khi nảy sinh các vấn đề gia đình (27.8%); - Khi có khó khăn về tài chính (24.7%); - Khi vợ không nghe theo chồng (22.6%); - Không có lý do nào cụ thể (11%). 15
  16. Thứ nhất, rượu không phải là nguyên nhân chính dẫn đến bạo lực gia đình. Mặc dù rượu và ma túy thường gắn liền với các vụ bạo lực gia đình, nhưng nó không phải là nguyên nhân của bạo lực. Như đã khẳng định, bạo lực gia đình xuất phát từ mối quan hệ bất bình đẳng về quyền lực tồn tại lâu đời giữa đàn ông và phụ nữ. Nó thường được sử dụng để đạt được quyền lực và sự kiểm soát đối với người khác. Nhiều người đàn ông không uống rượu nhưng vẫn đánh vợ. Có người chỉ uống rượu và đánh vợ chứ không đánh bất kỳ người nào khác (một người bất kỳ, cha mẹ hoặc sếp của anh ta). Điều đó có nghĩa là anh ta xác định việc sử dụng bạo lực chỉ đối với người vợ. Trong những trường hợp này, đàn ông vẫn tiếp tục đánh vợ ngay cả khi anh ta không uống rượu. Đàn ông cho rằng rượu là lý do khiến họ mất tự chủ và gây ra bạo lực, tuy nhiên rượu không phải là nguyên nhân dẫn đến điều đó. Bạo lực gia đình và việc lạm dụng các chất kích thích phải được nhìn nhận và xử lý như những vấn đề độc lập. Thứ hai, hành vi bạo lực của người chồng đối với vợ không chứng tỏ anh ta yêu vợ mà chỉ là anh ta muốn kiểm soát cô ấy. Hành vi bạo lực không thể được biện minh bởi những gì người vợ làm hay nói. Phụ nữ bị đánh đập chỉ vì lý do vô lý như để thức ăn nguội lạnh. Người chồng luôn có lý do giận dữ còn họ thì không có quyền thể hiện sự giận dữ của mình. Quan niệm người vợ cũng góp phần dẫn đến hành vi bạo lực của người chồng và phải thay đổi cách cư xử để không phải chịu cảnh bạo lực là một quan niệm sai lầm bởi vì chỉ có người gây ra bạo lực mới có khả năng chấm dứt hành vi bạo lực. Bạo lực gia đình là một sự lựa chọn hành vi xử sự, do đó, người gây ra bạo lực phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc lựa chọn đó của họ. Thứ ba, người chồng không có quyền sử dụng bạo lực để “dạy vợ”. Lầm tưởng này phản ánh rõ nét quan niệm lâu đời trong nhiều xã hội, nơi mà người đàn ông được cho là giỏi hơn phụ nữ và có quyền sử dụng bạo lực để phạt vợ, con họ. Với quan niệm này, người vợ trở thành “tài sản” của chồng và gia đình nhà chồng. Và việc dạy dỗ vợ bắt đầu ngay sau khi kết hôn như câu tục ngữ “Dạy con từ thuở còn thơ, dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về”. Quan niệm này không còn đúng nữa. Ngay từ Hiến pháp 1946, Việt Nam đã quy định và bảo vệ quyền bình đẳng giữa đàn ông và phụ nữ. Phụ nữ không còn bị xem là “tài sản” của người đàn ông. Thứ tư, khó khăn về tài chính không dẫn đến bạo lực gia đình. Bạo lực gia đình diễn ra ở mọi tầng lớp trong xã hội, bất kể giàu nghèo, có học thức hay không có học thức, thành thị hay nông thôn. Các nghiên cứu về vấn đề này cho thấy bạo lực diễn ra đối với mọi gia đình bất kể thu nhập, nghề nghiệp, tôn giáo, dân tộc hay trình độ học vấn. Bạo lực không xuất phát từ nguyên nhân nghèo đói hay không có học thức mà nó xuất phát từ mối quan hệ bất bình đẳng về quyền lực tồn tại lâu đời giữa đàn ông và phụ nữ. Tuy nhiên, có thể vì nguyên nhân 16
  17. kinh tế mà phụ nữ lựa chọn việc sống chung với bạo lực vì không có nơi nào để đi hoặc không thể tự nuôi sống bản thân cũng như con cái họ. Có thể dễ dàng nhận thấy nhiều lầm tưởng về bạo lực gia đình. Những lầm tưởng này nhằm củng cố quan niệm bất di bất dịch về giới. Khi giải thích về nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình, những lầm tưởng này tập trung vào phê phán phụ nữ hoặc đổ lỗi cho các nguyên nhân khác như say rượu, thiếu giáo dục. Kết quả là, những lầm tưởng này đã loại trừ trách nhiệm của người gây ra bạo lực đối với chính hành vi của anh ta. Việc nhận thức đúng đắn rằng bạo lực gia đình là hành vi có mục đích nhằm đạt được quyền lực và sự kiểm soát đối với người khác là rất quan trọng. Một người chồng bạo lực thường sử dụng bạo lực hoặc đe dọa dùng bạo lực và duy trì những biện pháp dụ dỗ hoặc ép buộc khác để bảo đảm rằng vợ anh ta sẽ hành xử theo cách anh ta mong muốn. 4. Vòng tròn bạo lực Việc nhận biết vòng tròn bạo lực sẽ giúp ích cho người thực hiện trợ giúp pháp lý trong việc hỗ trợ nạn nhân. Thường thì trước khi sử dụng bạo lực, người gây ra bạo lực sẽ sử dụng những biện pháp mang tính kiểm soát, chẳng hạn như hạn chế sự tiếp xúc của nạn nhân với gia đình và xã hội, đe dọa, kiểm soát về tài chính. Thông qua đó, người gây ra bạo lực khiến cho nạn nhân tin vào những điều chống lại chính họ và không đủ tự tin để rời bỏ môi trường bạo lực hay ứng phó với bạo lực. Giai đoạn hình thành căng Giai đoạn bạo lực thẳng Có thể là đe dọa gây bạo lực, Người gây ra bạo lực trở nên tát, đánh và đe dọa dùng hung cáu kỉnh, dễ bị kích động khí, đe dọa trẻ em, lạm dụng Phụ nữ cần nhận biết, cố gắng tình dục hoặc cưỡng dâm. Có kiểm soát để “giữ hòa khí” thể giai đoạn này chỉ xảy ra trong khoảnh khắc, trong vài phút hoặc vài giờ Tuần trăng mật Còn gọi là giai đoạn yêu thương và hối hận. Sau khi thực hiện hành vi bạo lực, người gây ra bạo lực bình tĩnh lại, thấy thương vợ, cầu xin vợ tha thứ và hứa hẹn sẽ thay đổi 17
  18. Thường trong giai đoạn hình thành căng thẳng, hành vi bạo lực không được báo cáo kịp thời với chính quyền hoặc nếu nạn nhân có đi báo cáo thì nhiều khả năng họ sẽ bị nhạo báng. Chính điều này đã khiến người gây ra bạo lực tiếp tục thực hiện giai đoạn bạo lực tiếp theo. Do đó, khi phát hiện có hành vi bạo lực Nhà nước cần xử lý nghiêm minh dù đó chỉ là hành vi vi phạm nhỏ. Sau giai đoạn bạo lực và trong suốt giai đoạn trăng mật, nạn nhân luôn muốn tin rằng đó là lần cuối cùng. Nạn nhân thường rút đơn khởi kiện hoặc từ bỏ việc khởi kiện vì hy vọng sai lầm rằng người gây ra bạo lực sẽ không làm như thế nữa. Người thực hiện trợ giúp pháp lý cần nhận ra tính chất tạm thời của “Tuần trăng mật” và tư vấn giúp nạn nhân đưa ra được quyết định đúng đắn. Giai đoạn hình thành căng thẳng gần như lại bắt đầu một lần nữa. 5. Lý do khiến nạn nhân chấp nhận sống chung với bạo lực Có rất nhiều nguyên nhân về kinh tế, văn hóa và xã hội lý giải tại sao một người phụ nữ lại có thể lựa chọn sống chung với bạo lực. Những lý do này rất hợp lý, chẳng hạn: họ không có nơi nào để đi, không thể nào nuôi sống bản thân và con cái nếu rời đi, cảm thấy xấu hổ hoặc tủi nhục vì đã từng bị lạm dụng, bị bạo lực; hoặc sợ rằng bạn bè, gia đình và cộng đồng sẽ chế nhạo họ vì bị bạo lực, bị lạm dụng. Nạn nhân có thể miễn cưỡng rời đi vì lý do tình cảm hoặc vì lý do tôn giáo. Ngoài ra, việc họ rời đi để lại những rủi ro đáng kể. Nạn nhân sợ rằng chồng họ sẽ đe dọa làm hại mình, làm hại chính bản thân anh ta, làm hại con, bạn bè hoặc gia đình. Nghiên cứu cho thấy, nạn nhân thường gặp nguy hiểm nhất, thậm chí bị tấn công đến mức tử vong nếu họ cố gắng rời đi. Và nạn nhân là người duy nhất có thể đánh giá xem khi nào rời đi thì an toàn. 6. Hậu quả của bạo lực gia đình Hậu quả đối với nạn nhân Ảnh hưởng tới sức khỏe thể chất, sức khỏe tâm thần cũng như hạnh phúc của nạn nhân. Bạo lực càng trở nên thường xuyên và nghiêm trọng nếu nó còn tiếp tục. Nạn nhân chết. Do tính chất phức tạp của bạo lực gia đình nên nạn nhân khó tìm ra bằng chứng để chứng minh hay tố cáo hành vi bạo lực. Nghiên cứu quốc gia cho thấy sức khỏe của phụ nữ từng bị bạo lực về thể xác và tình dục thường yếu hơn so với phụ nữ chưa từng bị bạo lực. Phụ nữ bị bạo lực gia đình thường gặp khó khăn trong việc đi lại, thực hiện các hoạt động hàng ngày, chịu đau đớn, suy giảm trí nhớ, luôn buồn rầu và có ý nghĩ tự sát, đối với phụ nữ mang thai thì khả năng sảy thai, thai chết lưu hoặc nạo phá thai cũng là khó tránh. 18
  19. Hậu quả đối với gia đình Ảnh hưởng đến kinh tế của gia đình. Các mối quan hệ bị tổn hại. Giảm khả năng lao động của phụ nữ. Tác động đến tâm lý của những đứa trẻ chứng kiến cảnh bạo lực. Giảm giá trị các điều kiện sống của phụ nữ và trẻ em. Kết quả Nghiên cứu quốc gia chỉ ra rằng phụ nữ có con từ 6 đến 11 tuổi và đã từng bị chồng bạo hành cho biết con của họ có những vấn đề về hành vi (thường xuyên bị ác mộng, mút tay, đái dầm, quá nhút nhát hoặc quá hung hăng) và gặp khó khăn trong việc học tập ở trường hơn so với những đứa trẻ sống trong gia đình không có bạo lực. Hậu quả đối với xã hội Giảm sự đóng góp của nạn nhân cho xã hội. Tăng áp lực cho hệ thống y tế. Nếu người gây ra bạo lực không phải chịu trách nhiệm trước cộng đồng thì có nghĩa là hành vi bạo lực được chấp nhận và điều đó sẽ dẫn đến những hình thức bạo lực nghiêm trọng hơn. Hậu quả đối với chính người gây ra bạo lực Chịu những chế tài hành chính hoặc hình sự vì chính những hành vi vi phạm do họ gây ra. Bị mất mặt, xấu hổ trước cộng đồng. Bạo lực có thể dẫn đến cái chết của chính người gây ra bạo lực (Hội chứng của phụ nữ bị bạo lực15). Tóm lại, bạo lực gia đình không chỉ ảnh hưởng đến nạn nhân mà còn ảnh hưởng đến gia đình, đặc biệt là trẻ em. Gia đình là tế bào của xã hội. Nếu mỗi tế bào không khỏe mạnh, thì xã hội không thể khỏe mạnh và phát triển được. 15 Hội chứng của phụ nữ bị bạo lực là hội chứng thường xảy ra đối với những phụ nữ bị đánh đập thường xuyên, liên tục bởi chồng hoặc bạn tình. Người bị mắc hội chứng này thường bị trầm cảm và không thể thực hiện bất kỳ hành vi độc lập nào để thoát khỏi tình trạng bạo lực, bao gồm cả việc từ chối tố cáo người gây ra bạo lực hoặc từ chối sự hỗ trợ, giúp đỡ từ bên ngoài. 19
  20. PHẦN II: KHUNG PHÁP LÝ Tóm tắt nội dung chính Hiện nay, khung pháp lý về bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân và xử lý người gây ra bạo lực gia đình đã được thiết lập tương đối đầy đủ, bao gồm: 1. Quyền được trợ giúp pháp lý » Thông tư số 07/2011/TT-BTP xác định nạn nhân bạo lực gia đình là một trong những nhóm đối tượng được các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý ưu tiên sử dụng nguồn lực để thực hiện trợ giúp pháp lý. » Thông tư đã quy định cụ thể nhiệm vụ của người thực hiện trợ giúp pháp lý cũng như tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý (ví dụ: xác định người được trợ giúp pháp lý thuộc nhóm đối tượng đặc thù trong đó có nạn nhân bạo lực gia đình, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nạn nhân tại tòa cũng như đại diện ngoài tố tụng ). 2. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình » Định nghĩa bạo lực gia đình và liệt kê 09 nhóm hành vi bạo lực gia đình. » Quy định các nguyên tắc cũng như biện pháp phòng, chống bạo lực gia đình (các dịch vụ hỗ trợ, biện pháp cấm tiếp xúc, biện pháp hòa giải các mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên trong gia đình, hình thức xử phạt đối với người gây ra bạo lực), vai trò và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức. » Các Nghị định hướng dẫn thi hành bao gồm: Nghị định số 08/2009/NĐ- CP ngày 04/02/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Phòng, chống bạo lực gia đình; Nghị định số 19/2009/NĐ-CP ngày 19/02/2009 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế tạm giữ người theo thủ tục hành chính ban hành kèm theo Nghị định số 162/2004/NĐ-CP ngày 07/9/2009 của Chính phủ và Nghị định số 110/2009/NĐ-CP ngày 10/12/2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình. 3. Các chế tài xử phạt đối với hành vi gây bạo lực » Bộ luật Hình sự áp dụng đối với mọi hành vi bạo lực gây hậu quả nghiêm trọng, trong đó có hành vi bạo lực gia đình. Các tội phạm được áp dụng nhiều nhất đối với các hành vi bạo lực gia đình là Điều 104 (Tội cố ý gây thương tích) và Điều 151 (Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình). 20
  21. » Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 2002, sửa đổi năm 2007, 2008 quy định chế tài đối với các hành vi vi phạm pháp luật chưa phải là tội phạm nhưng đã đến mức độ của vi phạm hành chính. Bao gồm cách hành vi được quy định trong các văn bản pháp luật khác như Nghị định số 110/2009/NĐ-CP, Nghị định số 08/2009/NĐ-CP và Điều 43 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. 4. Quy định của pháp luật dân sự » Nếu nạn nhân yêu cầu ly hôn, theo quy định tại Điều 89 Luật Hôn nhân và Gia đình, thì cần chứng minh rằng tình trạng hôn nhân đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. » Cần lưu ý xem xét xem nạn nhân có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 604 Bộ luật Dân sự hay không (xem thêm Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết và hướng dẫn về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng). Khi được phân công giải quyết vụ việc liên quan đến bạo lực gia đình, người thực hiện trợ giúp pháp lý sẽ tiến hành gặp gỡ, tiếp xúc với nạn nhân. Nạn nhân có thể nhận ra họ chính là nạn nhân bạo lực gia đình và tìm kiếm sự hỗ trợ mà họ có thể được hưởng theo quy định của pháp luật. Nhưng họ thường đến để tìm kiếm sự trợ giúp trong các lĩnh vực pháp luật khác như ly hôn, tranh chấp tài sản trong dân sự, vấn đề cấp dưỡng nuôi con. Trong những trường hợp này, nạn nhân thường không thể hiện ra bên ngoài về tình trạng bạo lực mà họ đang chịu đựng. Điều quan trọng là người thực hiện trợ giúp pháp lý cần nắm rõ các quy định của pháp luật cũng như các trình tự, thủ tục pháp lý để có thể ứng phó và giải quyết có hiệu quả các vụ việc bạo lực gia đình. Một số văn bản pháp luật đã tạo lập khung pháp lý để các cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, như người thực hiện trợ giúp pháp lý, có thể căn cứ vào đó để ứng phó với các tình huống bạo lực đối với phụ nữ. Các quy định pháp luật hình sự, dân sự và hành chính là cơ sở để bảo vệ nạn nhân và truy cứu trách nhiệm đối với người gây ra bạo lực. Bên cạnh đó, Hiến pháp, Luật Bình đẳng giới cũng như Luật Hôn nhân và Gia đình đã góp phần thúc đẩy sự bình đẳng giữa đàn ông và phụ nữ16. 16 Như đã đề cập ở Phần trước, phần lớn nạn nhân bạo lực gia đình là nữ giới, dẫn chiếu đến các quy định về bình đẳng giới được ghi nhận trong Hiến Pháp 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001 và Luật Bình đẳng giới năm 2006. Hiến pháp 1992 quy định gia đình là tế bào của xã hội (Điều 64), đồng thời cũng khẳng định công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh sự, nhân phẩm, trong đó có cá nhân mỗi thành viên trong gia đình (Điều 71). Thêm vào đó, Điều 63 quy định về quyền bình đẳng giữa vợ và chồng khi khẳng định “Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình” và “Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ”. Hiến pháp 1992 khẳng định rằng công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của bất cứ cá nhân nào và nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại (Điều 74). Luật Bình đẳng giới quy định rằng phụ nữ và nam giới có quyền bình đẳng trong tất cả mọi lĩnh vực, không ai bị phân biệt đối xử trên cơ sở giới. Điều 18 của Luật này quy định chi tiết thế nào là bình đẳng giới trong gia đình, cụ thể là Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực trong gia đình; và rằng các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình. Cần đặc biệt lưu ý quy định tại Điều 41, các hành vi vi 21
  22. Phần này sẽ tập trung vào các quy định của pháp luật trong các lĩnh vực sau: Quyền được trợ giúp pháp lý của nạn nhân bạo lực gia đình. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 và Nghị định hướng dẫn thi hành quy định về bảo vệ nạn nhân khỏi hành vi bạo lực gia đình, các biện pháp phòng ngừa và hỗ trợ nạn nhân. Lưu ý rằng Luật Phòng, chống bạo lực gia đình chỉ quy định rõ những hành vi bị coi là hành vi bạo lực gia đình và các hình thức xử phạt vi phạm hành chính đối với những hành vi này (được quy định cụ thể trong Nghị định số 110/2009/NĐ-CP) chứ không tạo nên một Bộ luật Hình sự mới. Tóm tắt các quy định của pháp luật hình sự và hành chính quy định các chế tài pháp luật đối với các hành vi bạo lực trong đó có bạo lực gia đình. Tóm tắt các quy định của pháp luật dân sự có liên quan có thể được áp dụng để hỗ trợ nạn nhân trong việc tiếp cận công lý và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho họ. Những quy định của pháp luật trong các lĩnh vực khác nhau đã tạo lập khung pháp lý toàn diện: vừa hỗ trợ và bảo vệ nạn nhân (Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Thông tư hướng dẫn bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức cán bộ và hoạt động trợ giúp pháp lý) vừa truy cứu trách nhiệm đối với người gây ra bạo lực (các chế tài hình sự và dân sự). 1. Quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý Phụ nữ là nạn nhân bạo lực gia đình có thuộc diện được trợ giúp pháp lý? Như đã biết, theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý và Nghị định số 07/2007/NĐ-CP phụ nữ là nạn nhân bạo lực gia đình không thuộc diện được trợ giúp pháp lý.17 Tuy nhiên nạn nhân bạo lực gia đình sẽ được trợ giúp pháp lý nếu họ thuộc các diện được quy định tại Điều 10 Luật Trợ giúp pháp lý và Điều 2 Nghị định số 07/2007/NĐ-CP. Nói cách khác, phụ nữ là nạn nhân bạo lực gia đình nếu là người nghèo, người già cô đơn, người tàn tật không nơi nương tựa, người có công với cách mạng hoặc người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì được trợ giúp pháp lý. Đối với những phụ nữ là nạn nhân bạo lực gia đình nhưng gia đình không thuộc hộ nghèo thì khả năng họ tiếp cận với các nguồn tài chính của gia đình hoặc tiếp cận với các dịch vụ pháp lý có thu phí là rất khó khăn. Do đó, trong nỗ phạm pháp luật về bình đẳng giới trong gia đình bao gồm cả hành vi đối xử bất bình đẳng với các thành viên trong gia đình vì lý do giới tính. Phụ thuộc vào tính chất và mức độ của bạo lực, người gây ra bạo lực có thể phải chịu những biện pháp kỷ luật, chế tài hành chính hoặc trách nhiệm hình sự (Điều 42). 17 Xem phụ lục 2: những quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý có liên quan. 22
  23. lực bảo đảm sự tiếp cận pháp luật bình đẳng giữa nam giới và nữ giới đặc biệt là trong vấn đề bạo lực trên cơ sở giới, Cục Trợ giúp pháp lý đã được Bộ Tư pháp giao nghiên cứu xây dựng Thông tư hướng dẫn bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý. Thông tư số 07/2011/TT-BTP đã được ký ban hành trong tháng 3/2011. Điều quan trọng là Thông tư đã quy định phụ nữ là nạn nhân bạo lực gia đình là một trong những nhóm đối tượng mà tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý cần ưu tiên sử dụng nguồn lực để thực hiện trợ giúp pháp lý. Thông tư số 07/2011/TT-BTP Điều 12 – Trợ giúp pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho phụ nữ 1. Tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý có trách nhiệm cử người thực hiện trợ giúp pháp lý có kiến thức pháp luật về bình đẳng giới, có kinh nghiệm về giới thực hiện trợ giúp pháp lý trong các lĩnh vực pháp luật (trừ lĩnh vực kinh doanh, thương mại) cho phụ nữ nghèo, phụ nữ thuộc đối tượng chính sách theo quy định tại Điều 02 Nghị định 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý và nữ giới trong các trường hợp sau đây: a. Nạn nhân của bạo lực gia đình; b. Người đang trong quá trình chuẩn bị thủ tục kết hôn và ly hôn; c. Nạn nhân bị mua bán; d. Nạn nhân bị bóc lột sức lao động hoặc bị xâm hại tình dục; đ. Người có tranh chấp, vướng mắc pháp luật, người bị hại, bị can, bị cáo trong thời gian mang thai, đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng; e. Người dân tộc thiểu số ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn hoặc người di cư; g. Người bị nhiễm HIV; h. Người khuyết tật hoặc đang bị các bệnh hiểm nghèo i. Người lao động bị sa thải trái pháp luật hoặc nạn nhân bị lừa đảo trong quan hệ lao động, trong quan hệ hôn nhân gia đình hoặc bị tước đoạt tài sản trái pháp luật. Tuy nhiên, về nguyên tắc, chỉ những đối tượng được quy định tại Điều 10 Luật Trợ giúp pháp lý và Điều 2 Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 mới là được trợ giúp pháp lý. Nghĩa vụ của người thực hiện trợ giúp pháp lý trong việc nhận diện/xác định nạn nhân bạo lực gia đình? Khi tiếp nhận yêu cầu trợ giúp pháp lý của phụ nữ, người thực hiện trợ giúp pháp lý cần xem xét các dấu hiệu để biết người đó có phải là nạn nhân của bạo 23
  24. lực trên cơ sở giới hay không. Nếu người yêu cầu trợ giúp pháp lý cố tình giấu các thông tin liên quan đến tình trạng bạo lực gia đình của họ thì người thực hiện trợ giúp pháp lý có trách nhiệm giải thích cho họ về quyền của phụ nữ cũng như cách thức mà pháp luật có thể bảo vệ họ (Điều 13, Thông tư số 07/2011/TT- BTP). Trách nhiệm của người thực hiện trợ giúp pháp lý khi phát hiện ra nạn nhân bạo lực gia đình Khi tiếp nhận người được trợ giúp pháp lý là nữ giới và phát hiện ra họ là nạn nhân bạo lực gia đình hoặc nạn nhân tự trình bày về vụ việc của họ, theo quy định tại Điều 13 Thông tư số 07/2011/TT-BTP, người thực hiện trợ giúp pháp lý cần tìm hiểu các dấu hiệu và có một số trách nhiệm như sau: Tìm hiểu các nhu cầu của người được trợ giúp pháp lý và thông báo cho họ biết về quyền và lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật; Kịp thời thu thập thông tin, đề nghị xét nghiệm y tế nếu cần thiết; Lưu giữ chứng cứ; Đề nghị cử người thực hiện trợ giúp pháp lý phù hợp theo quy định của pháp luật. Trách nhiệm của người thực hiện trợ giúp pháp lý trong vụ việc tư vấn pháp luật Người thực hiện trợ giúp pháp lý được cử thực hiện vụ việc tư vấn pháp luật cần: Phỏng vấn, tiếp xúc nạn nhân và thu thập những thông tin cần thiết; Cung cấp cho người được trợ giúp pháp lý các thông tin cơ bản về Luật Bình đẳng giới cũng như các quyền của phụ nữ theo quy định của pháp luật; Tư vấn cho người được trợ giúp pháp lý về các quy định của pháp luật ở lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến vụ việc cũng như những biện pháp liên quan đến vụ việc cần được áp dụng và đưa ra hướng giải quyết phù hợp; Giới thiệu người được trợ giúp pháp lý đến các cơ quan, tổ chức có liên quan và các dịch vụ hỗ trợ khác để được trợ giúp; Áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của nạn nhân; Bảo đảm rằng việc hòa giải, thương lượng là để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của nạn nhân. Trách nhiệm của người thực hiện trợ giúp pháp lý trong vụ việc tham gia tố tụng Người được phân công “đại diện, bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp” cho nạn nhân tại các cơ quan tiến hành tố tụng cần: 24
  25. Phỏng vấn nạn nhân, thu thập và xác minh thông tin; Bảo quản và chuyển giao chứng cứ; Tham dự hoạt động tố tụng để đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nạn nhân, chẳng hạn như yêu cầu nhân chứng hoặc người có liên quan khác đưa ra những chứng cứ có lợi nhằm khẳng định bản luận cứ bảo vệ nạn nhân; Bảo đảm nạn nhân được thông tin kịp thời về vụ việc cũng như được giải thích về trình tự, thủ tục pháp lý tại từng giai đoạn xử lý vụ việc; Yêu cầu xét xử kín để bảo đảm bí mật cá nhân của nạn nhân trong trường hợp cần thiết; Bảo đảm nạn nhân nhận được sự hỗ trợ cần thiết về tâm lý trong quá trình tố tụng; Bảo đảm rằng người gây ra bạo lực không được tiếp xúc với nạn nhân trong suốt quá trình tố tụng trong trường hợp việc tiếp xúc có thể khiến nạn nhân bị kích động, lay động hoặc đe dọa đến sự an toàn của nạn nhân. Trách nhiệm của các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý Tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý có trách nhiệm: Tổ chức các hoạt động nghiệp vụ cần thiết như trợ giúp pháp lý lưu động cũng như sinh hoạt chuyên đề pháp luật ngoài giờ hành chính để nâng cao khả năng tiếp cận tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý của phụ nữ. Bảo đảm trong đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý có trợ giúp viên pháp lý hoặc luật sư cộng tác viên có kiến thức và kỹ năng làm việc với nạn nhân bạo lực gia đình. 2. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2008 là đạo luật mới của Việt Nam. Để triển khai thực hiện có hiệu quả Luật này, một loạt các văn bản hướng dẫn thi hành đã được ban hành. Phần này tập trung tóm tắt các văn bản hướng dẫn đó và nhấn mạnh một số quy định mà người thực hiện trợ giúp pháp lý có thể áp dụng khi giải quyết vụ việc18. Nhìn chung, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã đặt ra các nguyên tắc và biện pháp cũng như vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình. Luật đã quy định các biện pháp toàn diện liên quan đến thông tin, truyền thông và giáo dục nâng cao nhận thức cộng động và giáo dục cộng đồng về phòng, chống bạo lực gia đình. 18 Xem phụ luc 3. 25
  26. Người thực hiện trợ giúp pháp lý cần đặc biệt lưu ý các nguyên tắc quy định tại Điều 3 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình: Hành vi bạo lực gia đình được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật. Bạo lực gia đình không còn là vấn đề “riêng tư” được giải quyết trong nội bộ gia đình. Người thực hiện trợ giúp pháp lý, với tư cách là người cán bộ, viên chức nhà nước có trách nhiệm ứng phó với bạo lực gia đình. Định nghĩa Bạo lực gia đình Luật Phòng, chống bạo lực gia đình chứa đựng khái niệm khá rộng về bạo lực gia đình, trong đó bao gồm cả 04 hình thức bạo lực: bạo lực thể xác, bạo lực tinh thần, bạo lực tình dục và bạo lực kinh tế (Khoản 1 Điều 2 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình). Xử lý người gây ra bạo lực Điều 42 quy định: Người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Cần lưu ý rằng, khi quy định về những hành vi này Luật Phòng, chống bạo lực gia đình không nhằm tạo ra những tội phạm mới, chế tài mới đối với người gây ra bạo lực. Chế tài hình sự được áp dụng theo quy định của Bộ luật Hình sự. Chế tài hành chính được quy định theo Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính đối với những hành vi bạo lực gia đình. Bên cạnh đó, Điều 43 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình cũng quy định một số biện pháp hành chính sẽ được áp dụng đối với người thường xuyên gây ra hành vi bạo lực gia đình. Chính phủ cũng đã quy định các chế tài cụ thể đối với từng loại và từng mức độ của hành vi bạo lực gia đình, như phạt tiền tại Nghị định số 110/2009/NĐ-CP. Điều 43 1. Người thường xuyên có hành vi bạo lực gia đình đã được góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư mà trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày áp dụng biện pháp này vẫn có hành vi bạo lực gia đình nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì có thể bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. 2. Người có hành vi bạo lực gia đình đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà tiếp tục thực hiện hành vi bạo lực gia đình nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì có thể bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; đối với người dưới 18 tuổi thì có thể bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng. 3. Thẩm quyền, thời hạn, trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng được thực hiện theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. 26
  27. Nghị định số 110/2009/NĐ-CP ngày 10/12/2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình đã quy định từng hình thức bạo lực cũng như các hình thức xử phạt đối với từng mức độ vi phạm19. Các hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả được quy định tại Điều 4 của Nghị định. Hình thức xử phạt chính: Cảnh cáo; Phạt tiền (từ 100.000đ đến 30.000.000đ). Các hình thức xử phạt bổ sung: Tước quyền sử dụng Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động, Chứng chỉ hành nghề; Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính; Các biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra; Buộc xin lỗi công khai khi nạn nhân có yêu cầu. Bảo vệ nạn nhân Nạn nhân bạo lực gia đình có quyền được bảo vệ dù vụ việc có bị đem ra điều tra, xử lý hình sự hoặc hành chính hay không. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình quy định cụ thể trường hợp mà nạn nhân có quyền yêu cầu thủ tục bảo vệ đặc biệt là biện pháp cấm tiếp xúc. Biện pháp cấm tiếp xúc Nạn nhân có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc theo hai cách sau: 1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi xảy ra bạo lực gia đình quyết định biện pháp cấm tiếp xúc trong thời hạn không quá 03 ngày (Điều 20); 2. Toà án đang thụ lý hoặc giải quyết vụ án dân sự giữa nạn nhân bạo lực gia đình và người có hành vi bạo lực gia đình quyết định áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc trong thời hạn không quá 04 tháng (Điều 21). Điều kiện bắt buộc để áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc là có yêu cầu hoặc sự đồng ý của nạn nhân. Họ có thể yêu cầu áp dụng trong trường hợp hành vi bạo lực gia đình “gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe, đe dọa tính mạng của nạn nhân”. Người có hành vi bạo lực gia đình vi phạm quyết định cấm tiếp xúc có thể bị tạm giữ hành chính, xử phạt vi phạm hành chính theo Nghị định số 08/2009/NĐ-CP 19 Xem Phụ lục 4 - Nghị định số 110/2009/NĐ-CP. 27
  28. ngày 04/02/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Người đứng đầu cộng đồng dân cư phối hợp với tổ chức có liên quan ở cơ sở để phân công người giám sát việc thực hiện quyết định cấm tiếp xúc. Theo Nghị định số 08/2009/NĐ-CP biện pháp cấm tiếp xúc bao gồm cả việc không cho phép người có hành vi bạo lực sử dụng điện thoại, fax, thư điện tử hoặc các phương tiện thông tin khác để thực hiện hành vi bạo lực với nạn nhân. Các biện pháp bảo vệ bao gồm nơi ở bảo đảm sự riêng tư và an toàn cho nạn nhân, như nhà tạm lánh, địa chỉ tin cậy ở cộng đồng hoặc cơ sở y tế. Dịch vụ hỗ trợ nạn nhân Nạn nhân bạo lực gia đình có quyền tiếp cận một số dịch vụ hỗ trợ dù vụ việc có bị đem ra điều tra, xử lý hình sự hoặc hành chính hay không. Khi thực hiện trợ giúp pháp lý cho phụ nữ trong vụ việc trong lĩnh vực hôn nhân gia đình, người thực hiện trợ giúp pháp lý có thể là người đầu tiên nhận ra người đó là nạn nhân bạo lực gia đình, vì họ không báo với công an hoặc chính quyền. Trong trường hợp này, người thực hiện trợ giúp pháp lý cần liên hệ với các dịch vụ hỗ trợ khác để chuyển tuyến khi cần thiết. Dịch vụ y tế: Chi phí cho việc khám và điều trị đối với nạn nhân bạo lực gia đình do Quỹ bảo hiểm y tế chi trả đối với người có bảo hiểm y tế (Điều 23). Nếu nạn nhân không có bảo hiểm y tế, Uỷ ban nhân dân cấp xã chủ trì phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và các tổ chức thành viên, tổ chức xã hội khác tại địa phương và các cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình thực hiện hỗ trợ khẩn cấp các nhu cầu thiết yếu cho nạn nhân bạo lực gia đình trong trường hợp cần thiết (Điều 25). Bên cạnh việc chăm sóc y tế, các cơ sở khám, chữa bệnh của nhà nước tùy theo khả năng và điều kiện thực tế, bố trí nơi tạm lánh cho nạn nhân bạo lực gia đình trong thời gian không quá 01 ngày theo yêu cầu của nạn nhân bạo lực gia đình (Điều 27). Tư vấn: Nạn nhân bạo lực gia đình được tư vấn về chăm sóc sức khoẻ, ứng xử trong gia đình, pháp luật và tâm lý để giải quyết tình trạng bạo lực gia đình (Điều 24). Cơ sở khám chữa bệnh, cơ sở bảo trợ xã hội, cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình và cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình có trách nhiệm tư vấn phù hợp cho nạn nhân bạo lực gia đình (Điều 24). Tư vấn pháp lý: Nạn nhân có quyền được tư vấn các dịch vụ về phòng, chống bạo lực gia đình phù hợp (Điều 29). 28
  29. Tiếp cận các thông tin liên quan đến quyền của nạn nhân: Nạn nhân bạo lực gia đình có quyền tiếp cận chính sách và pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, bình đẳng giới, quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình. Phát hiện và báo cáo về vụ việc bạo lực gia đình Nhận thức rõ ràng về thực trạng không được phát hiện, không được báo cáo của những vụ việc bạo lực gia đình vì những lý do riêng tư, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã quy định “Người phát hiện bạo lực gia đình phải kịp thời báo tin cho cơ quan công an nơi gần nhất hoặc Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc người đứng đầu cộng đồng dân cư nơi xảy ra bạo lực”. Khi nhận được tin báo về bạo lực gia đình, người thực hiện trợ giúp pháp lý cần xử lý ngay và áp dụng những biện pháp ngăn chặn, bảo vệ phù hợp. Trong trường hợp cần giữ bí mật danh tính của người báo tin, người thực hiện trợ giúp pháp lý cũng có thể báo tin về vụ việc bạo lực gia đình cho cơ quan công an. Khi điều trị cho nạn nhân bạo lực gia đình và phát hiện thấy có dấu hiệu tội phạm, nhân viên y tế có trách nhiệm báo cho cơ quan công an. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình ra đời đã góp phần tăng số vụ việc bạo lực gia đình bị phát hiện và báo cáo với cơ quan công an. Hòa giải Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã quy định những nguyên tắc hòa giải. Một trong số đó là nguyên tắc tôn trọng sự tự nguyện tiến hành hòa giải của các bên. Bởi vì nếu việc tham gia hòa giải của nạn nhân không dựa trên sự tự nguyện mà do bị người gây ra bạo lực đe dọa thì không nên tiến hành hòa giải. Luật cũng quy định cụ thể một số trường hợp không tiến hành hòa giải như: vụ việc thuộc tội phạm hình sự hoặc vụ việc thuộc hành vi vi phạm pháp luật bị xử lý hành chính. Nói cách khác, Luật quy định rằng không áp dụng biện pháp hòa giải đối với trường hợp hành vi bạo lực diễn ra liên tục và nghiêm trọng, trừ trường hợp người bị hại yêu cầu không xử lý theo quy định của pháp luật hình sự. Người thực hiện trợ giúp pháp lý cần bảo đảm rằng nạn nhân lựa chọn hình thức hòa giải dựa trên sự tự nguyện không ép buộc. Các cơ quan, tổ chức và tổ hòa giải không tiến hành hòa giải đối với hành vi được xác định là vi phạm pháp luật hình sự hoặc hành chính. Điều 12. Nguyên tắc hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình 1. Kịp thời, chủ động, kiên trì. 2. Phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội và phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. 3. Tôn trọng sự tự nguyện tiến hành hòa giải của các bên. 29
  30. 4. Khách quan, công minh, có lý, có tình. 5. Giữ bí mật thông tin đời tư của các bên. 6. Tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng. 7. Không hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình quy định tại Điều 14 và Điều 15 của Luật này trong những trường hợp sau đây: a. Vụ việc thuộc tội phạm hình sự, trừ trường hợp người bị hại yêu cầu không xử lý theo quy định của pháp luật hình sự; b. Vụ việc thuộc hành vi vi phạm pháp luật bị xử lý hành chính. Người tiếp tục gây ra bạo lực gia đình sau khi đã được hòa giải cần bị cộng đồng góp ý, phê bình. Các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Phòng, chống bạo lực gia đình Sau khi Luật Phòng, chống bạo lực gia đình được ban hành, Chính phủ đã ban hành 03 Nghị định hướng dẫn sau: Nghị định số 08/2009/NĐ-CP ngày 04/02/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Nghị định số 19/2009/NĐ-CP ngày 19/02/2009 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế tạm giữ người theo thủ tục hành chính ban hành kèm theo Nghị định số 162/2004/NĐ-CP ngày 07/9/2009 của Chính phủ. Nghị định số 110/2009/NĐ-CP ngày 21/12/2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình. Nghị định số 08/2009/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình về hoạt động tư vấn, hình thức góp ý, phê bình tại cộng đồng, việc áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc theo quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân và tạo điều kiện thuận lợi trong việc cung cấp sự hỗ trợ cho nạn nhân bạo lực gia đình. Điều 7 quy định việc góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư đối với người có hành vi bạo lực phải được lập thành biên bản và gửi tới công chức làm công tác tư pháp, công chức làm công tác văn hóa - xã hội ở cấp xã để lưu trữ, làm cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm trong trường hợp người đã bị góp ý, phê bình tiếp tục có hành vi bạo lực gia đình. Điều 9 quy định, cơ quan công an là một trong những chủ thể có thẩm quyền đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã ra quyết định cấm tiếp xúc. Việc đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã ra quyết định cấm tiếp xúc có thể được thực hiện trong các trường hợp sau đây: 30
  31. Có giấy xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh về việc khám và điều trị thương tích do hành vi bạo lực gia đình gây ra. Có dấu vết thương tích trên cơ thể nạn nhân có thể nhận thấy rõ bằng mắt thường hoặc có dấu hiệu rõ ràng về hoảng loạn tinh thần của nạn nhân bạo lực gia đình. Có chứng cứ chứng minh có sự đe dọa gây tổn hại đến sức khỏe hoặc tính mạng của nạn nhân bạo lực gia đình. Người thực hiện trợ giúp pháp lý cần giúp đỡ nạn nhân trong việc đề nghị áp dụng hoặc yêu cầu cơ quan công an đề nghị áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc trong trường hợp cần thiết. Nghị định số 19/2009/NĐ-CP ngày 19/02/2009 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế tạm giữ người theo thủ tục hành chính ban hành kèm theo Nghị định số 162/2004/NĐ-CP ngày 07/9/2009 của Chính phủ. Việc tạm giữ hành chính đối với người gây ra bạo lực có thể áp dụng trong các trường hợp sau: Cần ngăn chặn, đình chỉ ngay những hành vi gây rối trật tự công cộng hoặc gây thương tích cho người khác. Cần phải thu thập, xác minh những tình tiết quan trọng để làm căn cứ cho việc quyết định xử lý vi phạm hành chính hoặc bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính. Người có hành vi bạo lực gia đình, vi phạm quyết định cấm tiếp xúc của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.20 Nghị định số 110/2009/NĐ-CP quy định chi tiết về hình thức và mức xử phạt vi phạm hành chính đối với 09 nhóm hành vi được quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình và 08 hành vi sau: Hành vi bạo lực đối với người ngăn chặn, phát hiện, báo tin bạo lực gia đình, người giúp đỡ nạn nhân bạo lực gia đình (Điều 18 Nghị định số 110/2009/NĐ-CP); Hành vi cưỡng bức, kích động, xúi giục, giúp sức người khác thực hiện hành vi bạo lực gia đình (Điều 19 Nghị định số 110/2009/NĐ-CP); Hành vi cố ý không ngăn chặn, báo tin hành vi bạo lực gia đình và cản trở việc ngăn chặn, báo tin, xử lý hành vi bạo lực gia đình (Điều 20 Nghị định số 110/2009/NĐ-CP); 20 Khoản 1, Điều 1 Nghị định số 19/2009/NĐ-CP ngày 19/02/2009 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế tạm giữ người theo thủ tục hành chính ban hành kèm theo Nghị định số 162/2004/NĐ-CP ngày 07/9/2009 của Chính phủ 31
  32. Hành vi sử dụng, truyền bá thông tin, hình ảnh, âm thanh nhằm kích động hành vi bạo lực gia đình (Điều 21 Nghị định số 110/2009/NĐ-CP); Hành vi tiết lộ thông tin về nạn nhân bạo lực gia đình (Điều 22 Nghị định số 110/2009/NĐ-CP); Hành vi lợi dụng hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình để trục lợi (Điều 23 Nghị định số 110/2009/NĐ-CP); Hành vi vi phạm quy định về đăng ký hoạt động đối với cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình (Điều 24 Nghị định số 110/2009/NĐ-CP); Hành vi vi phạm quyết định cấm tiếp xúc của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã (Điều 25 Nghị định số 110/2009/NĐ-CP). 3. Các chế tài hình sự và hành chính Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính Một trong những biện pháp xử lý người có hành vi bạo lực là áp dụng các chế tài hành chính theo quy định của pháp luật. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 quy định các chế tài đối với các hành vi vi phạm pháp luật tuy chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng cần thiết phải bị xử lý hành chính. Những hành vi vi phạm này được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau: Nghị định số 110/2009/NĐ-CP quy định rõ các biện pháp xử lý vi phạm đối với 09 nhóm hành vi được liệt kê tại khoản 1 Điều 2 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình và các hành vi khác vi phạm các quy định khác của Luật. Về biện pháp cấm tiếp xúc: Nghị định số 08/2009/NĐ-CP quy định người gây ra bạo lực có thể bị tạm giữ theo thủ tục hành chính trong trường hợp có yêu cầu của nạn nhân hoặc cơ quan công an và vi phạm đó được coi là cố ý sau khi đã bị cơ quan có thẩm quyền cảnh cáo. Đối với người thường xuyên có hành vi bạo lực: Điều 43 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đặt ra các chế tài hành chính đối với người thường xuyên có hành vi bạo lực nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đối với hành vi hành hạ thành viên khác trong gia đình: Luật Hôn nhân và Gia đình quy định hành vi hành hạ, ngược đãi, xúc phạm danh dự, nhân phẩm thành viên trong gia đình thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử phạt hành chính (Điều 107). 32
  33. Về việc đối xử bất bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình: Luật Bình đẳng giới quy định hành vi đối xử bất bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình vì lý do giới tính thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử phạt hành chính (Điều 42, 43). Nghị định số 150/2005/NĐ-CP ngày 12/12/2005 của Chính phủ quy định xử phạt vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội quy định rằng người nào có cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác hoặc gây ồn ào trong khoảng thời gian từ 23 giờ đêm đến 5 giờ sáng sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính. Pháp lệnh quy định các mức xử phạt khác nhau như sau: Xử phạt theo thủ tục đơn giản: Trong trường hợp xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 10.000 đồng đến 200.000 đồng thì người có thẩm quyền xử phạt quyết định xử phạt tại chỗ. Việc xử phạt tại chỗ không phải lập biên bản, trừ trường hợp vi phạm hành chính được phát hiện nhờ sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ (Điều 54 Pháp lệnh sửa đổi bổ sung năm 2008). Xử phạt theo thủ tục đầy đủ: Trong trường hợp này, người vi phạm sẽ bị lập biên bản về hành vi họ thực hiện. Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã căn cứ vào biên bản và quyết định mức xử phạt. Nếu Chủ tịch UBND xã nhận thấy hành vi cấu thành tội phạm thì hồ sơ sẽ được chuyển sang cơ quan điều tra. Dưới đây là một số biện pháp xử lý hành chính có thể áp dụng đối với hành vi bạo lực gia đình. Để xác định biện pháp xử lý phù hợp, cá nhân có thẩm quyền cần xem hồ sơ về các chế tài đã áp dụng, mức độ thường xuyên của hành vi bạo lực cũng như mức độ tổn hại mà nạn nhân phải chịu. Cảnh cáo; Phạt tiền; Tước quyền sử dụng Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động, Chứng chỉ hành nghề; Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính; Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra; Buộc xin lỗi công khai khi nạn nhân có yêu cầu. Giáo dục tại xã, phường, thị trấn; Đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc; 33
  34. Đưa vào trường giáo dưỡng cho người chưa thành niên, nếu người gây ra bạo lực là người chưa thành niên. Các chế tài hình sự Bộ luật Hình sự quy định một số tội phạm liên quan đến bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Như pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới, Bộ luật Hình sự trước hết xác định là tội phạm đối với các hành vi cố ý gây thương tích, hoặc hành vi tấn công người khác, trong đó bao gồm cả trường hợp nạn nhân là thành viên trong gia đình. Tội cố ý gây thương tích và Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình là hai tội được áp dụng nhiều nhất khi xử lý hình sự hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Điều 104. Tội cố ý gây thương tích Điều 151. Tội ngược đãi hoặc hành hạ hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người khác người có công nuôi dưỡng mình Có 04 mức độ thương tật có thể bị Có hai yếu tố chính: truy cứu trách nhiệm hình sự, mỗi i. Ngược đãi, hành hạ thành viên mức độ sẽ bị áp dụng hình phạt khác trong gia đình, và; nhau. Cụ thể: ii. Gây hậu quả nghiêm trọng hoặc i. Tỉ lệ thương tật dưới 11% đã bị xử phạt hành chính về hành nhưng có một trong các tình tiết vi này mà còn vi phạm. tăng nặng sau: Dùng hung khí nguy hiểm; Gây cố tật nhẹ cho Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT- nạn nhân; Phạm tội nhiều lần BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC về đối với cùng một người; phạm việc hướng dẫn áp dụng các quy định tại tội đối phụ nữ đang có thai; Có Chương XV “Các tội xâm phạm chế độ tính chất côn đồ hoặc tái phạm hôn nhân và gia đình” của Bộ luật Hình nguy hiểm thì bị phạt cải tạo sự năm 1999 quy định: không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba Hành vi ngược đãi, hành hạ thông năm. thường được hiểu là việc đối xử tồi tệ về ii. Tỉ lệ thương tật từ 11-30% thì bị ăn, mặc, ở và về các mặt sinh hoạt hàng phạt cải tạo không giam giữ đến ngày khác đối với người thân như: nhiếc ba năm hoặc phạt tù từ sáu móc, bắt nhịn ăn, nhịn uống, bắt chịu rét, tháng đến ba năm. mặc rách một cách không bình thường iii. Tỉ lệ thương tật từ 31-60% hoặc hoặc có hành vi bạo lực xâm phạm thân từ 11-30% nhưng có một trong thể người bị hại như: đánh đập, giam 34
  35. các tình tiết tăng nặng kể trên hãm, làm cho người bị hại bị đau đớn thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy về thể xác và tinh thần. năm. iv. Tỉ lệ thương tật trên 61% hoặc “Hậu quả nghiêm trọng” tức là làm cho từ 31-60% nhưng có một trong người bị ngược đãi, hành hạ luôn luôn bị các tình tiết tăng nặng kể trên giày vò về mặt tình cảm, bị tổn thất về thì bị phạt tù từ năm năm đến danh dự, đau khổ về tinh thần hoặc bị mười lăm năm. thương tích, tổn hại đến sức khỏe. Một vài lưu ý khi áp dụng Điều 104 Một vài lưu ý khi áp dụng Điều 151: Trường hợp tỉ lệ thương tật dưới Không cần có sự đồng ý của nạn 31% thì tội phạm chỉ được khởi tố nhân. khi có yêu cầu của người bị hái Không cần xác nhận y tế về mức độ (khoản 1 Điều 105 Bộ luật Tố tụng tổn thương. Hình sự 2003). Một trong những hành vi ngược đãi Khi tỉ lệ thương tật từ 31% trở lên là hành vi cô lập nạn nhân dẫn đến thì cơ quan điều tra có quyền ra hậu quả nghiêm trọng. quyết định khởi tố mà không cần có sự đồng ý của nạn nhân. Sự ngược đãi, hành hạ theo quy định của Tội phạm này bao gồm một loạt Cơ quan chức năng không nên dựa các hành vi kéo dài liên tục và lặp đi vào các nguyên nhân mà người lặp lại. gây bạo lực đưa ra để lý giải cho hành vi phạm tội của họ như: “vợ Cũng không cần phải chứng minh nói quá nhiều”, “vợ lười biếng”, rằng người gây bạo lực cố ý gây “ghen tuông” để áp dụng tội phạm thương tích hoặc gây tổn hại cho sức nhẹ hơn theo Điều 105. Điều 105 khỏe của nạn nhân. quy định về“Trạng thái tinh thần Lưu ý điều quan trọng là phải xử bị kích động mạnh”, theo đó “sự phạt hành chính người gây bạo lực kích động” “là do hành vi trái và lưu trữ hồ sơ xử phạt đó để các cơ pháp luật nghiêm trọng của nạn quan tiến hành tố tụng hình sự có nhân đối với người đó hoặc đối căn cứ chứng minh về tính liên tục và với người thân thích của người lặp đi lặp lại của hành vi bạo lực. đó”. Cần phải có xác nhận của cơ sở y tế hoặc giám định pháp y để chứng cứ hóa tỉ lệ thương tật. 35
  36. Thông tư của liên Bộ Y tế - Lao động – Thương binh và Xã hội số 12/TTLB ngày 26/7/1995 quy định về tiêu chuẩn thương tật và tiêu chuẩn bệnh tật mới là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xác định tỉ lệ thương tật. Một số tiêu chuẩn thương tật theo quy định của Thông tư liên Bộ số 12/TTLB ngày 26/7/1995. Di chứng vết thương, chấn thương ảnh hưởng đến tính mạng, Tỉ lệ % sức khoẻ, lao động nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp xã hội, sinh thương hoạt gia đình và cá nhân tổn Sẹo vết thương hạ họng làm ảnh hưởng đến nói và nuốt 41-45% Sẹo vết thương họng làm hẹp cổ họng gây ra khó nuốt 21-25% Nứt vỡ vòm sọ đã liền can nhưng còn di chứng đau đầu kéo dài 21-25% Gẫy 3 - 5 xương sườn, can tốt, ảnh hưởng ít đến hô hấp 10-12% Sẹo vết thương âm hộ, âm đạo hoặc dương vật gây trở ngại cho việc giao hợp - Nam giới dưới 55 tuổi, nữ giới dưới 45 tuổi 21-25% - Nam giới trên 55 tuổi, nữ giới trên 45 tuổi 10-15% Gẫy, sập xương sống mũi - Không ảnh hưởng chức năng thở và ngửi 10% - Có ảnh hưởng đến thở và ngửi rõ rệt 25-30% Sẹo bỏng bàn tay - ngón tay làm các ngón dính nhau co quắp hoặc 41-45% thẳng cứng (mất chức năng bàn tay) Sẹo bỏng ở mu chân, gan bàn chân làm biến dạng bàn và ngón chân 21-25% đi đứng khó khăn Phụ lục 4 liệt kê một số quy định của Bộ luật Hình sự có thể được áp dụng đối với hành vi bạo lực gia đình gây hậu quả nghiêm trọng. 4. Các quy định có liên quan của pháp luật Dân sự Người thực hiện trợ giúp pháp lý có thể tình cờ phát hiện ra tình trạng bạo lực gia đình khi nạn nhân đến yêu cầu được trợ giúp pháp lý đối với vụ việc trong lĩnh vực pháp luật khác, chẳng hạn như ly hôn, chia tài sản, nuôi con Quan trọng là người thực hiện trợ giúp pháp lý phải hiểu được khi nào thì nạn nhân của bạo lực gia đình yêu cầu ly hôn và nuôi con theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000. Một số quy định của pháp luật dân sự về yêu 36
  37. cầu đòi bồi thường thiệt hại cũng có thể được áp dụng khi bảo vệ quyền lợi cho nạn nhân bạo lực gia đình. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 – cấm hành hạ, ngược đãi thành viên trong gia đình Khoản 2 Điều 4 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định cấm ngược đãi, hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, anh, chị em và các thành viên khác trong gia đình. Hành vi hành hạ, ngược đãi, xúc phạm danh dự nhân phẩm của thành viên trong gia đình tùy theo tính chất và mức độ nguy hiểm sẽ bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Luật cũng quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan khác có thẩm quyền có biện pháp kịp thời ngăn chặn và xử lý nghiêm minh đối với người có hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình (khoản 3 Điều 4). Điều 21 kêu gọi vợ chồng tôn trọng và giữ gìn danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau, đồng thời nghiêm cấm mọi hành vi, ngược đãi, hành hạ, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của nhau. Vấn đề ly hôn và bạo lực gia đình Điều 85 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Tuy nhiên, Luật cũng khuyến khích việc hòa giải ở cơ sở khi vợ, chồng có yêu cầu ly hôn, việc hòa giải được thực hiện theo quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở (Điều 86). Ngoài ra, người thực hiện trợ giúp pháp lý cần hết sức lưu ý đến những nguyên tắc hòa giải được ghi nhận tại Điều 12 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Hai trong số những nguyên tắc đó là “Tôn trọng sự tự nguyện tiến hành hòa giải của các bên” và “Không hòa giải vụ việc thuộc tội phạm hình sự hoặc hành vi vi phạm hành chính”. Về căn cứ cho ly hôn, Điều 89 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định: nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa án quyết định cho ly hôn. Hướng dẫn cụ thể về các điều kiện làm căn cứ để Tòa án ra quyết định cho ly hôn được quy định tại Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000. Theo đó, tình trạng trầm trọng được xác định khi: - Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần. 37
  38. - Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như thường xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần. - Vợ chồng không chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình Theo Kết quả khảo sát do Cục Trợ giúp pháp lý tiến hành trong tháng 10/2010, một trong những nguyên nhân chính khiến phụ nữ yêu cầu ly hôn là do bạo lực gia đình. Theo nhiều nạn nhân, ly hôn cách duy nhất để họ tự bảo vệ bản thân khỏi tình trạng bạo lực. Vấn đề nuôi con, chia tài sản và bạo lực gia đình Các quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 điều chỉnh cả vấn đề nuôi con, chia tài sản và hỗ trợ, cấp dưỡng giữa vợ chồng. Theo đó sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ chín (9) tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con (Điều 92). Với tư cách là người bảo vệ cho nạn nhân bạo lực gia đình trong vụ việc ly hôn về vấn đề nuôi con, người thực hiện trợ giúp pháp lý cần chứng minh để Tòa án thấy được những tiêu cực mà bạo lực gia đình trực tiếp tác động đến tâm, sinh lý của đứa trẻ, chẳng hạn như chúng quá nhút nhát, thường cảm thấy lo lắng, sợ hãi hay kết quả học tập ở trường giảm sút. Mặt khác, Tòa án có quyền hạn chế quyền thăm nom con trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để tiếp tục gây bạo lực với vợ cũ (Điều 94). Về chia tài sản sau khi ly hôn được thực hiện theo các nguyên tắc21 sau: - Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó. 21 Các quy định về chia tài sản sau khi ly hôn được quy định chi tiết tại các Điều 95, 96, 97, 98 và 99 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000. 38
  39. - Việc chia tài sản chung vợ chồng được thực hiện theo các nguyên tắc: Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập; nguyên tắc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình; bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có thể tiếp tục lao động tạo thu nhập; tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị, bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch. Người thực hiện trợ giúp pháp lý cần bảo đảm rằng sự thỏa thuận mà các bên đạt được trong quá trình chia tài sản xuất phát từ sự tự nguyện của nạn nhân chứ không do bất kỳ tác động hoặc đe dọa nào từ phía người gây bạo lực. Về cơ bản, tài sản được chia đôi. Trong trường hợp phụ nữ nhận phần ít hơn, người thực hiện trợ giúp pháp lý cần tìm hiểu xem họ có bị ép buộc hay đe dọa không. Bên cạnh đó, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 còn quy định: khi ly hôn, nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình (Điều 60). Bộ luật Dân sự 2005 Nạn nhân bạo lực gia đình có quyền yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005. Điều 307 quy định: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất bao gồm: tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút. Thiệt hại về tinh thần bao gồm tổn hại do bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín. Người thực hiện trợ giúp pháp lý cần nắm rõ các quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại cũng như việc xác định thiệt hại dưới các hình thức khác nhau. Chẳng hạn, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại là do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác dẫn đến thiệt hại (Điều 604); thời hiệu khởi kiện cầu bồi thường thiệt hại là hai (02) năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm (Điều 607). 39
  40. Việc xác định thiệt hại được quy định tại Mục 2 Chương XXI Bộ luật Dân sự 2005 và được hướng dẫn chi tiết tại Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Theo đó, người gây bạo lực có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho nạn nhân khi có đủ các điều kiện sau: Có thiệt hại xảy ra (về vật chất hoặc tinh thần); Có hành vi vi phạm pháp luật; Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật và thiệt hại; Có lỗi vô ý hoặc cố ý của người gây ra thiệt hại. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Theo quy định của pháp luật, sự thỏa thuận này được tôn trọng nếu nó không vi phạm pháp luật cũng như những chuẩn mực đạo đức xã hội. Người thực hiện trợ giúp pháp lý cũng cần lưu ý rằng, trong mối quan hệ bạo lực, người gây bạo lực thường sử dụng quyền lực và sự kiểm soát đối với nạn nhân. Vì thế người thực hiện trợ giúp pháp lý cần tìm hiểu kỹ thỏa thuận xem nó xuất phát từ sự tự nguyện của nạn nhân hay do nạn nhân bị đe dọa, ép buộc. Nạn nhân yêu cầu bồi thường thiệt hại phải nêu rõ từng khoản thiệt hại thực tế đã xảy ra, mức yêu cầu bồi thường và phải có chứng từ hoặc giấy biên nhận hợp lệ về các khoản chi phí hợp lý, về thu nhập của họ (điểm a khoản 5 Phần I Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP). Thiệt hại được bồi thường bao gồm các khoản sau: Chi phí hợp lý về sức khỏe, nạn nhân cần chứng minh các chi phí hợp lý cho cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của nạn nhân bao gồm: Tiền thuê phương tiện đưa nạn nhân đi cấp cứu tại cơ sở y tế; tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X-quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu theo chỉ định của bác sĩ; tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe cho nạn nhân theo chỉ định của bác sĩ; các chi phí thực tế, cần thiết khác cho nạn nhân (nếu có) và các chi phí cho việc lắp chân giả, tay giả, mắt giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng chống và khắc phục thẩm mỹ để hỗ trợ hoặc thay thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại (nếu có). Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút, nạn nhân nếu chứng minh được trước khi sức khỏe bị xâm phạm nạn nhân có thu nhập thực tế, nhưng do sức 40
  41. khỏe bị xâm phạm họ phải đi điều trị và do đó khoản thu nhập thực tế của họ bị mất hoặc bị giảm sút, thì họ được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút đó. Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc nạn nhân trong thời gian điều trị là một trong những chi phí khác có thể yêu cầu đòi bồi thường, bao gồm: tiền tàu, xe đi lại, tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí (nếu có) cho một trong những người chăm sóc cho nạn nhân trong thời gian điều trị do cần thiết hoặc theo yêu cầu của cơ sở y tế; thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc nạn nhân trong thời gian điều trị. Bồi thường tổn thất về tinh thần, dựa trên tác động của hành vi vi phạm đối với nghề nghiệp, thẩm mỹ, các mối quan hệ xã hội, đời sống gia đình và bản thân nạn nhân. 41
  42. Tóm tắt khung pháp lý Thúc đẩy bình đẳng giới Hiến pháp, Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình Truy cứu trách nhiệm đối với Bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân người gây bạo lực Bộ luật Hình sự; Luật Phòng, chống bạo lực gia đình Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính Các Nghị định số 08/2009/NĐ-CP, Nghị định số 110/2009/NĐ-CP ngày 19/2009/NĐ-CP và 110/2009/NĐ-CP 10/12/2009 của Chính phủ quy định xử Thông tư số 07/2011/TT-BTP ngày phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực 31/3/2011 của Bộ Tư pháp hướng dẫn phòng, chống bạo lực gia đình bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức Quy định về bồi thường thiệt hại trong và hoạt động trợ giúp pháp lý pháp luật Dân sự Pháp luật Dân sự PHỤ LỤC 1. Một số quy định của pháp luật quốc tế có liên quan 2. Luật Trợ giúp pháp lý và Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý. 3. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2007. 4. Nghị định số 110/2009/NĐ-CP ngày 10/12/2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình. 5. Một số quy định có liên quan của Bộ luật Hình sự. 42
  43. PHẦN III. PHƯƠNG PHÁP NHẬN DIỆN VÀ KỸ NĂNG GIẢI QUYÊT VỤ VIỆC CÓ DẤU HIỆU BẠO LỰC GIA ĐÌNH Tóm tắt nội dung chính 1. Có nhiều nguyên nhân khiến nạn nhân do dự không báo cáo về tình trạng bị bạo lực của họ, một trong những lý do đó là vì họ không tin các cơ quan chức năng sẽ cho đó là việc quan trọng. 2. Khi phụ nữ đến yêu cầu trợ giúp pháp lý trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình, người thực hiện trợ giúp pháp lý cần tìm hiểu xem có dấu hiệu của bạo lực gia đình hay không. 3. Dù phụ nữ đến yêu cầu trợ giúp pháp lý có hay không dấu hiệu bị bạo lực gia đình, trong quá trình tiếp xúc ban đầu, người thực hiện trợ giúp pháp lý cần tạo không khí thân thiện, cảm thông để bảo đảm rằng việc lấy lời khai được thực hiện một cách nhạy cảm, tôn trọng và bảo mật. 4. Trung tâm trợ giúp pháp lý có thể tổ chức một số hoạt động để chủ động phát hiện ra bạo lực như: khảo sát theo bảng hỏi, phỏng vấn sâu, trợ giúp pháp lý lưu động, sinh hoạt chuyên đề pháp luật, chiến dịch truyền thông cộng đồng và khuyến khích công tác phối hợp, chuyển tuyến với các cơ quan, tổ chức có liên quan. 5. Khi phụ nữ trình bày về tình trạng bạo lực gia đình của họ, càng thu thập được thông tin toàn diện về tình trạng bạo lực, người thực hiện trợ giúp pháp lý càng hiểu biết đầy đủ về toàn bộ vụ việc. 6. Luôn ghi nhớ rằng phải làm thế nào để bảo đảm tốt nhất sự an toàn cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của nạn nhân. 7. Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành: các chế tài có thể được áp dụng, các biện pháp bảo vệ và/hoặc các quy định khác của pháp luật dân sự. Sự bất bình đẳng giới kéo dài và nền văn hóa mà ở đó đàn ông giữ quyền thống trị xã hội đã chấp nhận, dung túng, thậm chí là hợp lý hóa tình trạng bạo lực gia đình và duy trì sự im lặng trước tình trạng đó. Đa số các vụ việc đều không được báo cáo và không bị phát hiện. Nhiều nạn nhân không báo về tình trạng bạo lực mà họ đang chịu đựng do xấu hổ, e ngại hoặc sợ hãi. Những vụ cưỡng dâm thường khó có thể phát hiện ra và nếu có thì chỉ một vài vụ được báo với cơ quan chức năng. Sự im lặng của nạn nhân bạo lực gia đình gây khó khăn đáng kể cho việc phát hiện và xử lý hành vi bạo lực. 43
  44. Khi tìm kiếm sự trợ giúp từ bên ngoài, trước hết nạn nhân tìm đến các nguồn hỗ trợ không chính thức như thành viên khác trong gia đình hoặc bạn bè.22 Khi các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền như công an, người đứng đầu cộng đồng dân cư, Chủ tịch xã, thành viên Hội phụ nữ hoặc nhân viên y tế ở địa phương phát hiện ra vụ việc bạo lực gia đình thì tình trạng đã trở nên nghiêm trọng và cần phải được xử lý nghiêm khắc. Nếu không thể nói rõ về tình trạng bạo lực của mình do xấu hổ, kỳ thị của cộng động hay do sự phụ thuộc về kinh tế hoặc sợ bị trả thù, nạn nhân có thể tìm đến các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý để yêu cầu ly hôn hoặc chia tài sản với hy vọng có thể giải quyết dứt điểm tình trạng bạo lực. Để nâng cao năng lực của người thực hiện trợ giúp pháp lý trong việc xác định và bảo vệ quyền lợi cho nạn nhân bạo lực gia đình, phần này sẽ bao gồm các nội dung sau: Hiểu biết về nạn nhân bạo lực gia đình; Phát hiện bạo lực gia đình; Kỹ năng tiếp xúc ban đầu với nạn nhân bạo lực gia đình; Tổng quan về loại vụ việc và sự trợ giúp của các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý. 22 Nghiên cứu do UNODC thực hiện chỉ ra rằng hầu hết nạn nhân kể về tình trạng bạo lực với thành viên khác trong gia đình (61%), bạn bè hoặc hàng xóm (55%), đại diện Hội phụ nữ (49%), rất ít người kể với đồng nghiệp (3%) và nhân viên y tế (1%). “Nghiên cứu về chất lượng tư pháp hình sự đối với nạn nhân bạo lực gia đình ở Việt Nam” do UNODC thực hiện với sự hợp tác của Trung tâm nghiên cứu về Giới và Phát triển (RCGAD) tại Hà Nội và Viên Phòng, chống tội phạm Châu Âu tại Helsinki. 44
  45. 1. Hiểu biết của nạn nhân về bạo lực gia đình Tại sao nạn nhân không báo cáo về bạo lực gia đình? Phụ nữ bị bạo hành thường chịu đựng sự bạo hành đó trong một khoảng thời gian dài trước khi tìm kiếm sự giúp đỡ từ bên ngoài. Một vài trong số đó lựa chọn im lặng, không nói với bất kỳ ai về tình trạng bị bạo lực của họ. Có nhiều lý do khiến nạn nhân miễn cưỡng, không thể nói hoặc không sẵn lòng báo cáo về tình trạng bạo lực của họ. Một số nguyên nhân: Không muốn nói với người ngoài vì cho rằng đây là việc riêng của gia đình. Nỗ lực giảm thiểu bạo lực và tự thuyết phục rằng đây không phải là vấn đề nghiêm trọng. Sợ rằng người gây bạo lực sẽ trả thù bản thân hoặc người thân của họ. Không muốn người gây bạo lực phải rời khỏi nhà, bị đi tù hoặc phải chịu trách nhiệm hình sự. Xấu hổ, bối rối về tình trạng bạo lực của mình hoặc tự đổ lỗi cho bản thân vì đã để cho tình trạng bạo lực xảy ra. Bị lệ thuộc vào người gây bạo lực về tình cảm. Có niềm tin mãnh liệt rằng cần phải giữ gìn quan hệ vợ chồng và các thành viên trong gia đình cần ở chung với nhau. Sợ bị người khác bêu xấu. Bị lệ thuộc vào người gây bạo lực về kinh tế. Sống trong một khu vực bị cô lập. Bị cô lập với xã hội bên ngoài. Phải đối mặt với những rào cản về giao tiếp, ngôn ngữ hay văn hóa. Không tin rằng công an hay hệ thống tư pháp có thể ngăn chặn tình trạng bạo lực. Không tin rằng các cơ quan chức năng có thể giúp đỡ hay bảo vệ cho họ. Chiến lược ứng phó của nạn nhân đối với bạo lực gia đình Hành vi cư xử của nạn nhân thường là cách bảo đảm sự sống còn cho chính họ. Trong trường hợp bạo lực gia đình xảy ra, nạn nhân có thể sử dụng một số cách ứng phó sau đây: 45
  46. Giảm thiểu hoặc chặn đứng hành vi bạo lực. Chịu trách nhiệm đối với bạo lực. Sử dụng rượu hoặc ma túy để xoa dịu cơn đau. Tự vệ. Tìm kiếm sự giúp đỡ từ bên ngoài. Giữ nguyên hiện trạng mối quan hệ bạo lực tránh không cho nó phát triển. Sử dụng bạo lực ngược trở lại. Các rào cản nạn nhân gặp phải khi tìm kiếm sự hỗ trợ từ bên ngoài Khi nạn nhân đến báo tin cho chính quyền địa phương về tình trạng bạo lực họ đang phải chịu, thường thì những khiếu nại hoặc đề nghị của họ không được coi trọng. Trong những trường hợp này, thái độ phản ứng của chính quyền địa phương phản ánh quan niệm truyền thống (quan niệm này khá phổ biến trên thế giới), họ chỉ miễn cưỡng can thiệp khi bạo lực xảy ra vì cho rằng bạo lực gia đình là vấn đề nội bộ trong gia đình, người ngoài không nên can thiệp. Chính quyền địa phương thường không quan tâm đầy đủ đến tính chất và động cơ của hành vi bạo lực diễn ra trong các mối quan hệ thân tình. Các hành vi lạm dụng cá nhân thường được tách rời khỏi mối quan hệ áp đặt quyền lực và kiểm soát. Chính quyền địa phương có thể có những lầm tưởng về bạo lực gia đình và điều này đã tác động đến cách họ lấy lời khai, xử lý vụ việc và trong quá trình làm việc với nạn nhân. Thái độ của người thực hiện trợ giúp pháp lý đối với bạo lực gia đình Người thực hiện trợ giúp pháp lý cần đặt ra câu hỏi cho chính mình xem họ nhìn nhận và hiểu biết như thế nào về bạo lực gia đình? Liệu suy nghĩ đó có phản ánh quan niệm truyền thống coi bạo lực gia đình là vấn đề riêng tư, nội bộ và người ngoài không nên can thiệp hay không? Hay họ tin những lầm tưởng, quan niệm sai lệch về bạo lực gia đình, như đổ lỗi cho nạn nhân tự chuốc lấy bạo lực hay do rượu thay vì đổ lỗi cho người gây bạo lực? Nếu người thực hiện trợ giúp pháp lý thực sự có những suy nghĩ như vậy, thì họ cần phải nhận ra rằng họ còn có trách nhiệm duy trì và tuân thủ pháp luật, do đó cần bỏ qua một bên những định kiến, quan niệm mang tính cá nhân vì những điều này sẽ tác động đến cách họ đối xử với nạn nhân. 46
  47. 2. Phát hiện bạo lực gia đình Khi phụ nữ đến yêu cầu trợ giúp pháp lý, việc người thực hiện trợ giúp pháp lý dành thời gian tiếp xúc và tìm hiểu về tình trạng của đối tượng là hết sức quan trọng. Trong buổi tiếp xúc ban đầu, người tiếp nhận đơn yêu cầu cần kiểm tra xem người đến yêu cầu có thuộc diện được trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật hay không? Xác định phụ nữ có yêu cầu có đủ điều kiện được trợ giúp pháp lý hay không? Loại vấn đề Có đủ điều kiện để hưởng trợ giúp pháp lý hay không? Khi phụ nữ yêu cầu trợ giúp pháp lý trong bất kỳ lĩnh vực nào, dù họ có phải là người nghèo, người có công với cách mạng, người già cô đơn, người tàn tật, người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn hay không Bạo lực gia đình, ly Có hôn, nuôi con, tranh Phụ nữ sẽ được trợ giúp pháp lý nếu thuộc một trong chấp tài sản các diện theo quy định tại Điều 10 Luật Trợ giúp pháp lý Khi phụ nữ yêu cầu được trợ giúp pháp lý không thuộc diện được trợ giúp pháp lý theo Điều 10 Luật Trợ giúp pháp lý Bạo lực gia đình Có thể Cô ấy sẽ được trợ giúp pháp lý nếu thỏa mãn các điều kiện theo Thông tư số 07/2011/TT-BTP. Khi phụ nữ không thuộc diện được trợ giúp pháp lý theo Điều 10 Luật Trợ giúp pháp lý đến yêu cầu được trợ giúp pháp lý về các vụ việc như ly hôn, nuôi con Những vấn đề pháp Có thể lý khác (ly hôn, Nếu phụ nữ có dấu hiệu bị bạo lực gia đình, và điều này nuôi con, các vấn được khẳng định trong quá trình phỏng vấn thì họ sẽ đề dân sự khác .) được trợ giúp pháp lý theo quy định của Thông tư số 07/2011/TT-BTP. Nếu không, họ sẽ không được trợ giúp pháp lý. 47