Tài liệu Văn hóa quần chúng trong lực lượng vũ trang - Võ Văn Đức
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Văn hóa quần chúng trong lực lượng vũ trang - Võ Văn Đức", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
tai_lieu_van_hoa_quan_chung_trong_luc_luong_vu_trang_vo_van.pdf
Nội dung text: Tài liệu Văn hóa quần chúng trong lực lượng vũ trang - Võ Văn Đức
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VĂN HÓA QUẦN CHÚNG TRONG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG Tổng hợp và biên soạn: Trung tá Võ Văn Đức TP.HCM NĂM 2012 0
- MỤC LỤC Chương 1. CÔNG TÁC VĂN HÓA, VĂN NGHỆ QUẦN CHÚNG 1 1.1. Khái niệm văn hóa, văn nghệ, công tác văn hóa, văn nghệ 1 1.1.1. Văn hóa, văn nghệ 1 1.1.1.1. Khái niệm 1 1.1.1.2. Đặc trưng của văn hóa, văn nghệ 3 1.1.1.3. Một số lĩnh vực văn hóa chủ yếu 4 1.1.2. Công tác văn hóa, văn nghệ quần chúng 5 1.2. Những quan điểm cơ bản của Đảng về văn hóa - văn nghệ và về nhiệm vụ xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc 7 1.2.1. Những quan điểm của Đảng về văn hóa, văn nghệ 7 1.2.1.1. Văn hóa, văn nghệ là bộ phận khăng khít của toàn bộ sự nghiệp cách mạng 7 1.2.1.2. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội 8 1.2.1.3. Văn hóa giữ vai trò cực kì quan trọng và trực tiếp trong nhiệm vụ xây dựng con người 11 1.2.2. Về nhiệm vụ xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc 11 1.2.2.1. Phẩm chất tiên tiến của nền văn hóa Việt Nam 14 1.2.2.2. Bản sắc dân tộc của nền văn hóa 16 1.2.3. Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam 17 1.2.4. Xây dựng vì phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức đóng vai trò quan trọng 18 1.2.5. Văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng 19 1.3. Những nội dung cơ bản của sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa, văn nghệ . 20 1.3.1. Những nội dung cơ bản và con đường đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng 22 1.3.2. Tính đặc thù của sự lãnh đạo, chỉ đạo lĩnh vực văn hóa, văn nghệ 24 Chương 2. LIÊN HOAN VĂN NGHỆ Ở ĐƠN VỊ 27 2.1. Liên hoan văn hóa, văn nghệ ở đơn vị 27 2.1.1. Khái quát chung về liên hoan văn hóa, văn nghệ trong lực lượng vũ trang27 2.1.2. Mục đích, vai trò của liên hoan văn nghệ trong lực lượng vũ trang 28 2.2. Cách thức tổ chức liên hoan văn hóa, văn nghệ ở đơn vị 32 i
- 2.2.1. Chuẩn bị liên hoan 32 2.2.2. Tổ chức liên hoan 33 2.2.3. Kết thúc buổi liên hoan 33 2.3. Các trò chơi quân sự 34 2.3.1. Nhóm trò chơi rèn luyện khả năng phản ứng linh hoạt 34 2.3.1.1. Trò chơi Ai nhanh hơn ai 34 2.3.1.2. Trò chơi Hoa nở hoa xòe 35 2.3.1.3. Trò chơi Mắt – Mồm – Tai 36 2.3.2. Nhóm trò chơi rèn luyện trí nhớ thông minh 36 2.3.2.1. Trò chơi Truyền lệnh chính xác 36 2.3.2.2. Trò chơi tìm người chỉ huy 37 2.3.2.3. Trò chơi thi bắt chim trong lồng 38 2.3.3. Nhóm trò chơi rèn luyện kiên trì, dẻo dai của sức khỏe 38 2.3.3.1. Trò chơi chim về tổ 38 2.3.3.2. Trò chơi bảo vệ cờ 39 2.3.3.3. Trò chơi Đoàn kết 39 Chương 3. XÂY DỰNG VÀ HOẠT ĐỘNG PHÒNG HỒ CHÍ MINH 40 3.1. Tổ chức hoạt động phòng Hồ Chí Minh 40 3.1.1. Vị trí, chức năng và nhiệm vụ của phòng Hồ Chí Minh 40 3.1.1.1. Vị trí 40 3.1.1.2. Chức năng 40 3.1.1.3. Nhiệm vụ 41 3.1.2. Tổ chức phòng Hồ Chí Minh 41 3.1.2.1. Cấp tổ chức 41 3.1.2.2. Cơ sở vật chất của Phòng Hồ Chí Minh 41 3.1.2.3. Tổ công tác phòng Hồ Chí Minh 42 3.2. Nội dung hoạt động của phòng Hồ Chí Minh 43 3.2.1. Hoạt động giáo dục chính trị tư tưởng 44 3.2.2. Các hoạt động văn hóa trong phòng Hồ Chí Minh 44 3.2.2.1. Hoạt động thông tin, tuyên truyền cổ động 44 3.2.2.2. Hoạt động giáo dục truyền thống 44 3.2.2.3. Hoạt động sách báo nội bộ 45 3.2.2.4. Hoạt động văn nghệ quần chúng 45 3.2.2.5. Hoạt động phổ biến khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ 45 3.2.2.6. Hoạt động xây dựng nếp sống văn hóa, vui chơi giải trí lành mạnh 46 3.3. Hình thức hoạt động phòng Hồ Chí Minh 46 ii
- 3.3.1. Hình thức cá thể 46 3.3.2. Hình thức nhóm 46 3.3.2.1. Nhóm không chính thức 46 3.3.2.2. Nhóm chính thức 47 3.3.3. Hình thức tập thể 47 3.4. Nhiệm vụ của nhóm nghiệp vụ phòng Hồ Chí Minh 47 3.4.1. Nhóm thông tin tuyên truyền, giáo dục truyền thống 47 3.4.2. Nhóm sách, báo nội bộ 47 3.4.3. Nhóm hoạt động văn nghệ 48 3.4.4. Nhóm vui chơi, giải trí, thể dục, thể thao 48 3.5. Công tác quản lý, sơ kết rút kinh nghiệm, động viên khen thƣởng trong hoạt động phòng Hồ Chí Minh 48 3.6. Nội dung trình bày tuyên truyền trực quan trong phòng Hồ Chí Minh 49 3.6.1. Phần trình bày nhằm giáo dục về chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa xã hội chủ đề: Việt Nam – Đất nước – Con người 49 3.6.2. Phần trình bày giới thiệu Đảng Cộng sản Việt Nam 50 3.6.3. Phần ảnh trình bày về “Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc – chiến sĩ lỗi lạc của phong trào Cộng sản và Công nhân quốc tế - danh nhân văn hóa thế giới” 51 3.6.4. Phần trình bày về Quân đội nhân dân Việt Nam 51 3.6.5. Phần trình bày về Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, vai trò của Thanh niên trong lực lượng vũ trang 52 3.7. Phương pháp xây dựng kế hoạch hoạt động phòng Hồ Chí Minh 54 Chương 4. XÂY DỰNG VÀ HOẠT ĐỘNG CÂU LẠC BỘ 56 4.1. Khái quát về Câu lạc bộ 56 4.1.1. Khái niệm Câu lạc bộ 56 4.1.2. Mục đích, ý nghĩa của việc thành lập Câu lạc bộ 56 4.1.3. Chức năng, nhiệm vụ của Câu lạc bộ 57 4.1.3.1. Chức năng 57 4.1.3.2. Nhiệm vụ 57 4.2. Quy trình thành lập và phương pháp tổ chức một buổi sinh hoạt Câu lạc bộ 57 4.2.1. Thành viên Câu lạc bộ 57 4.2.2. Quy trình thành lập Câu lạc bộ 58 4.2.3. Phương pháp tổ chức một buổi sinh hoạt Câu lạc bộ 59 4.2.3.1. Xác định nội dung và hình thức sinh hoạt 59 4.2.3.2. Điều khiển buổi sinh hoạt 60 4.3. Tổ chức và hoạt động của Câu lạc bộ 60 iii
- 4.3.1. Tổ chức Câu lạc bộ 60 4.3.1.1. Ban chủ nhiệm Câu lạc bộ 60 4.3.1.2. Các ban chức năng 61 4.3.2. Hoạt động của Câu lạc bộ trong Quân đội nhân dân Việt Nam 61 4.4. Mối quan hệ giữa các hoạt động của Nhà văn hóa, Câu lạc bộ và phòng Hồ Chí Minh 62 Chương 5. TỔ CHỨC MÚA HÁT TẬP THỂ 63 5.1. Khái niệm về hát múa tập thể 63 5.2. Mục đích, ý nghĩa 63 5.3. Đặc điểm 64 5.4. Phương pháp tổ chức và quy trình hƣớng dẫn múa hát tập thể 65 5.4.1. Yêu cầu đối với người hƣớng dẫn và người học 65 5.4.1.1. Yêu cầu đối với người hướng dẫn 65 5.4.1.2. Yêu cầu đối với người học 66 5.4.2. Quy trình hướng dẫn hát múa tập thể 66 5.5. Tổ chức hoạt động múa hát tập thể tại cơ sở 67 5.5.1. Yêu cầu khi tổ chức hát múa tập thể 67 5.5.2. Phương pháp tổ chức 67 5.6. Các bài hát phổ biến trong hoạt động múa hát tập thể 68 TÀI LIỆU THAM KHẢO 69 iv
- Chương 1. CÔNG TÁC VĂN HÓA, VĂN NGHỆ QUẦN CHÚNG 1.1. Khái niệm văn hóa, văn nghệ, công tác văn hóa, văn nghệ 1.1.1. Văn hóa, văn nghệ 1.1.1.1. Khái niệm Văn hoá là một lĩnh vực rất rộng lớn, vô cùng phong phú và đa dạng, có mặt và thấm sâu trong toàn bộ đời sống xã hội và đời sống con người, vì thế có rất nhiều định nghĩa, cách hiểu và khai thác khác nhau về văn hóa. Trong quá trình đi tìm định nghĩa và xác định nội hàm của văn hóa, đã có những tìm tòi khoa học có giá trị sâu sắc, tiếp sức nhau đạt tới những nhận thức ngày càng hoàn chỉnh hơn của con người về một lĩnh vực rất độc đáo do chính con người và chỉ có con người sáng tạo nên, đó là văn hóa. Pufendorf - nhà khoa học Đức, người đầu tiên sử dụng từ văn hóa đã cho rằng, văn hóa là toàn bộ những gì được tạo ra do hoạt động xã hội, nghĩa là văn hóa đối lập với trạng thái tự nhiên. Tiếp tục ý tưởng đó, nhà triết học Đức Herder (1744 - 1803) cho rằng, văn hóa là sự hình thành lần thứ hai của con người, nghĩa là, lần thứ, nhất con người xuất hiện với tư cách một thực thể tự nhiên, đến lần thứ hai, con người hình thành và phát triển với tư cách một thực thể xã hội, tức là một nhân cách văn hóa. Năm 1871, E.B Tylor - người góp phần khẳng định ngành văn hóa học như một khoa học, đã đưa ra định nghĩa: văn hóa là phức thể bao gồm kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp; tập quán và mọi khả năng, thói quen mà con người với tư cách là thành viên xã hội, đạt được. Sau nhiều năm tìm tòi theo các hướng, các cách tiếp cận khác nhau, đến những năm 70 của thế kỷ XX, cách hiểu phổ biến và gặp nhau nhiều nhất là ở quan niệm coi văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác dân tộc khác từ những sản phẩm tinh vi, hiện đại nhất đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lối sống và lao động. Năm 1982, tại Mêhicô, Hội nghị thế giới về chính sách văn hóa vì sự phát triển đã thông qua Tuyên bố Mêhicô ngày 6 tháng 8 cho rằng: Theo nghĩa rộng, ngày nay văn hóa có thể được coi là toàn bộ các đặc tính đặc biệt về tâm hồn, vật chất, trí tuệ và tình cảm đặc trưng cho một xã hội hay một nhóm xã hội. Nó không chỉ bao gồm nghệ thuật và văn học, mà cả lối sống, các quyền cơ bản của nhân loại, các hệ thống giá trị, truyền thống và tín ngưỡng. Như vậy, theo nghĩa vừa rộng lớn, vừa bản chất, văn hóa là toàn bộ hoạt động tinh thần - sáng tạo, tác động vào tự nhiên, xã hội và con người nhằm tạo ra các giá trị Trang - 1 -
- vật chất và tinh thần ngày càng cao hơn để vươn tới sự hoàn thiện theo khát vọng chân, thiện, mỹ và góp phần thúc đẩy sự tiến bộ, phát triển không ngừng của đời sống xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”. Phạm vi của văn hóa là hết sức rộng lớn, có mặt trong toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội và đời sống con người, nhưng quan trọng hơn cả, nó là những giá trị do hoạt động tinh thần - sáng tạo của con người tạo ra, biểu hiện trình độ hiểu biết, năng lực và phẩm giá của cả cộng đồng và từng cá thể, là thước đo trình độ phát triển và sức vươn lên tự hoàn thiện của con người theo lý tưởng chân, thiện, mỹ, đồng thời nó góp phần trực tiếp cho quá trình vươn lên đó của con người. Theo hướng tiếp cận này, Phạm Văn Đồng, nhà văn hóa lớn của đất nước ta ở thế kỷ XX, cho rằng: Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong một quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử . . . "Cốt lõi của sức sống dân tộc là văn hóa với nghĩa bao quát và cao đẹp nhất của nó, bao gồm cả một hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức và phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sức nhạy cảm tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ bản lĩnh và bản sắc của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để tự bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa VIII) "Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" đã tiếp cận và đề cập đến vấn đề văn hóa theo nghĩa rộng lớn và bao quát, đồng thời chỉ ra các lĩnh vực cụ thể của văn hóa trong đời sống và cấu trúc xã hội, nhấn mạnh một số mặt quan trọng cần đặc biệt quan tâm. Từ đó, Nghị quyết đã nhấn mạnh một phương hướng cực kỳ quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước: "làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội". Trang - 2 -
- Khi đặt văn hóa trong một giai đoạn cụ thể của đời sống xã hội, và nhìn đời sống ấy bao gồm các lĩnh vực khác nhau, có quan hệ chặt chẽ với nhau thì văn hóa hiểu theo nghĩa cụ thể và các quan hệ cụ thể, là một trong các lĩnh vực chính, giữ vị trí rất quan trọng, cùng với chính trị, kinh tế và xã hội tạo nên diện mạo, trình độ, chất lượng và đặc điểm của xã hội trong một giai đoạn phát triển nhất định Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định điều đó khi cho rằng, trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cũng phải coi trọng ngang nhau là chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Tám lĩnh vực cụ thể của văn hóa mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) đề cập đến chính là chỉ ra nội hàm của văn hóa trong các mối quan hệ với kinh tế, chính trị, xã hội và cùng với các lĩnh vực trên, tạo nên sự phát triển toàn diện của xã hội mà chúng ta đang xây dựng “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Theo cách hiểu hẹp hơn và được sử dựng thông thường và khá phổ biến, văn hóa còn được coi chủ yếu là các loại hình hoạt động cụ thể của ngành văn hóa như bảo tồn, bảo tàng, thư viện, xuất bản, báo chí, đời sống văn hóa cơ sở, lễ hội, phong tục, tập quán, tín nguỡng và các loại hình sáng tạo văn học, nghệ thuật - một lĩnh vực được coi là tinh tế nhất, mang tính sáng tạo đậm đặc và là bước phát triển cao của văn hóa. Ý nghĩa thực tiễn của cách hiểu này là để làm cơ sở xác định chức năng, nhiệm vụ cụ thể của ngành văn hóa ở nước ta hiện nay từ Trung ương đến cơ sở. Khi nói công tác văn hóa - văn nghệ thường được hiểu cụ thể theo các phạm vi, nội dung trên. 1.1.1.2. Đặc trưng của văn hóa, văn nghệ Mọi hoạt động của văn hóa đều vận động theo dòng chảy của thời gian. Vận động của văn hóa không ngừng nghỉ nhằm sáng tạo cái mới, cái lạ để hấp dẫn và đáp ứng nhu cầu của con người trong mỗi thời khắc lịch sử, đồng thời nó không ngừng nghỉ đào thải cái cũ đã trở nên lỗi thời, lạc hậu, nhàm chán, cùng lúc nó kết tinh những giá trị đích thực tạo nên truyền thống, bản sắc và nó luôn luôn nhận thức lại những gì nó đã sản sinh ra định dạng thang bậc các giá trị theo một chuẩn mực được xã hội thừa nhận mà các chuẩn mực cao cả thúc đẩy sự vươn tới của mọi hoạt động văn hóa là các giá trị chân, thiện, mĩ. Văn hóa thuộc lĩnh vực sản xuất tinh thần, sản phẩm của nó có tính đặc thù khác với sản phẩm hàng hóa thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất mà hiệu năng của nó lệ thuộc rất nhiều vào việc ứng dụng các tiến bộ khoa học, kĩ thuật, công nghệ. Trang - 3 -
- Sản phẩm văn hóa ghi đậm dấu ấn của mỗi cá nhân, hiệu quả hoạt động văn hóa lệ thuộc vào tài năng của mỗi cá nhân, sự phấn khích, cộng cảm của cộng đồng. Sản phẩm văn hóa ngoài các giá trị, giá trị sử dụng, giá trị trao đổi, nó còn hàm chứa các giá trị khác liên quan đến chính trị-xã hội, như giá trị đạo đức, giá trị thẩm mĩ, giá trị lịch sử Sản phẩm văn hóa có mục đích tự thân. Các Mác từng nói: "Nhà văn đương nhiên phải kiếm tiền mới có thể sống và viết, nhưng nhà văn tuyệt nhiên không được sống và viết để kiếm tiền ". Suy rộng ra mục đích của văn hóa không phải là kiếm ra được nhiều tiền mà mục đích của văn hóa là vì con người, làm cho con người tự tin, vươn tới chân, thiện, mĩ. Hoạt động văn hóa bao gồm nhiều sinh hoạt, nếp nghĩ được hình thành từ lâu đời có liên quan đến lối sống, tâm lý, phong tục, tập quán cá nhân, cộng đồng xã hội nên muốn thay đổi theo hướng tiến bộ là việc làm khó khăn, phức tạp, đòi hỏi kiên trì, không nóng vội. 1.1.1.3. Một số lĩnh vực văn hóa chủ yếu Phạm vi vấn đề văn hóa rất rộng, bao gồm cả tư tưởng, giáo dục, khoa học, công nghệ, triết học, tôn giáo, pháp luật, truyền thống, văn học, nghệ thuật, thông tin Chuyên đề này chỉ giới hạn vấn đề văn hóa ở các đối tượng do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hướng dẫn, quản lý. Một số lĩnh vực văn hóa chủ yếu như sau: Lĩnh vực xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, trọng tâm là phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Lĩnh vực bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc Lĩnh vực thư viện và văn hóa đọc Lĩnh vực thông tin cổ động, triển lãm, quảng cáo Lĩnh vực nhà văn hóa, câu lạc bộ, văn hóa quần chúng Lĩnh vực tổ chức và quản lý lễ hội Lĩnh vực xây dựng văn hóa gia đình Lĩnh vực văn hóa các dân tộc thiểu số Lĩnh vực quyền tác giả Lĩnh vực xuất nhập khẩu văn hóa phẩm Trang - 4 -
- Lĩnh vực tổ chức bộ máy, quản lý văn hóa Lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Lĩnh vực thanh tra Lĩnh vực giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa 1.1.2. Công tác văn hóa, văn nghệ quần chúng Văn hoá, văn nghệ quần chúng là món ăn tinh thần không thể thiếu của bộ đội ta. Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và thực hiện nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay, lời ca, tiếng hát từ quần chúng ở mọi lúc, mọi nơi luôn là nguồn cổ vũ, động viên cán bộ, chiến sĩ vượt qua khó khăn hoàn thành nhiệm vụ. Nhằm giữ gìn, bảo tồn và phát huy giá trị loại hình dân ca, âm nhạc truyền thống của cha ông, phục vụ tốt các nhiệm vụ chính trị và nhu cầu hưởng thụ văn hoá, vui chơi giải trí lành mạnh của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang. Hoạt động văn hoá, nghệ thuật được chia thành bốn nhóm cơ bản: Hoạt động sáng tạo văn hoá - nghệ thuật: sáng tác ca, múa, nhạc, văn thơ, mỹ thuật, báo tường, tập san. - Hoạt động thưởng thức văn hoá – nghệ thuật: xem các chương trình ca múa, nhạc; xem triển lãm tranh, ảnh, đọc sách, báo; tham quan bảo tàng; nghe nói chuyện về văn hoá - nghệ thuật - Hoạt động thực hành các giá trị văn hoá – văn nghệ: xây dựng nếp sống văn hoá, tham gia kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước, của quân đội và giao lưu văn hoá. - Hoạt động quả lý văn hoá – nghệ thuật: ban hành các luật lệ, chế độ, chính sách, hướng dẫn; kiểm tra, thanh tra các hoạt động văn hoá – văn nghệ; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ, diễn viên, nhân viên làm công tác văn hoá – văn nghệ. Các nhóm văn hoá nghệ thuật nói trên có sự liên quan chặt chẽ, tác động và hỗ trợ lẫn nhau, trong đó hoạt động sáng tạo văn hoá - nghệ thuật có vai trò quan trọng nhất, có ý nghĩa định hướng các hoạt động khác, thực hiện mục tiêu xây dựng quốc phòng, an ninh thời kỳ mới. Hoạt động văn hoá, văn nghệ trong lực lượng vũ trang là một bộ phận của công tác Đảng, công tác chính trị, đóng vai trò quan trọng, góp phần xây dựng và phát triển phẩm chất nhân cách người cán bộ, chiến sĩ cách mạng; là một bộ phận trong các hoạt Trang - 5 -
- động văn hoá, văn nghệ nói chung, hoạt động văn hoá, văn nghệ trong lực lượng vũ trang còn mang tính đặc thù của môi trường Công an, Quân đội, phụ thuộc vào đặc điểm, tính chất, chức năng, nhiệm vụ của đơn vị. Do đó, có thể quan niệm: hoạt động văn hoá, văn nghệ quần chúng trong Quân đội và Công an là quá trình tham gia của các cá nhân, tập thể, nhóm có sự tổ chức, chỉ đạo để thoả mãn nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá, nhằm góp phần xây dựng và phát triển nhân cách quân nhân cách mạng, xây dựng đời sống tinh thần lành mạnh và đơn vị vững mạnh toàn diễn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, sự bùng nổ của hệ thống thông tin đại chúng, xu hướng hội nhập, hợp tác quốc tế, những biến động nhanh chóng trong khu vực và thế giới, mặt trái của kinh tế thị trường, đang tác động không nhỏ tới toàn bộ đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước, nhiều chuẩn mực trong truyền thống văn hoá của dân tộc bị đảo lộn. Xu hướng chạy theo lợi ích vật chất, xem nhẹ lợi ích tập thể, coi trọng lợi ích cá nhân, sùng chộng cái hiện đại, coi thường cái truyền thống không thể xem thường. Những chuẩn mực đạo đức, nhân cách của con người đang có nguy cơ bị thương mại hoá. Do vậy, việc bảo vệ, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hoá trong nhân cách con người Việt Nam nói chung và trong các đơn vị lực lượng vũ trang nói riêng có ý nghĩa sống còn trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Bên cạnh đó, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang huy động bộ máy thông tin đại chúng khổng lồ qua internet, vô tuyên tryền hình, phát thanh, xuất bản, báo chí, các loại hình văn học, nghệ thuật cả công khai và lén lút đang hàng ngày, hàng giờ tác động vào nhân dân, cán bộ chiến sĩ trong lực lượng vũ trang. Chúng ra sức tuyên truyền chống chủ nghĩa xã hội, chống chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chống Đảng và Nhà nước ta, ra sức truyền bá tư tưởng, đạo đức lối sống thực dụng, cổ suý tệ nạn xã hội, với âm mưu tạo ra sự “tự diễn biến” trong lòng xã hội, “phi chính trị hoá” quân đội ta. Cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng lý luận diễn ra gay gắt, đòi hỏi công tác văn hoá, văn nghệ trong lực lượng Công an, Quân đội phải ra sức phấn đấu nhằm góp phần đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá, góp phần xây dựng nền quốc phòng, an ninh vững mạnh trong thời kỳ mới. Trang - 6 -
- 1.2. Những quan điểm cơ bản của Đảng về văn hóa - văn nghệ và về nhiệm vụ xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc 1.2.1. Những quan điểm của Đảng về văn hóa, văn nghệ Những quan điểm cơ bản của Đảng về văn hóa - văn nghệ được hình thành và phát triển trong quá trình thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nền văn hóa cách mạng của dân tộc ta từ 1930 đến nay. Các quan điểm đó được thể hiện trong các văn bản chỉ thị, nghị quyết của Đảng và trong các bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước qua các thời kỳ cách mạng. Cùng với thực tiễn văn hóa, thực tiễn cách mạng và kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo, Đảng ta đã đúc kết và hoàn chỉnh các quan điểm chỉ đạo cơ bản của mình đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh – lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hoá thế giới đã chỉ rõ: “văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi”; “văn hoá, văn nghệ cũng là một mặt trận anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Đề cương văn hoá Việt Nam của Đảng ta năm 1943 đã xác định văn hoá là một trong ba mặt trận dưới sự lãnh đạo của Đảng: “kinh tế, chính trị, văn hoá”. Đảng có “lãnh đạo được phong trào văn hoá, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả. Như vậy, quan điểm nhất quán của Đảng ta là: xây dựng kinh tế, quốc phòng, an ninh gắn liền với sự phát triển văn hoá; văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Ngay từ những năm 1942-1943, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho rằng: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. 1.2.1.1. Văn hóa, văn nghệ là bộ phận khăng khít của toàn bộ sự nghiệp cách mạng Quan điểm nhất quán, xuyên suốt toàn bộ tiến trình lãnh đạo văn hóa của Đảng ta từ 1930 đến nay là luôn luôn khẳng định văn hóa, văn nghệ là bộ phận khăng khít của toàn bộ sự nghiệp cách mạng, phục vụ các nhiệm vụ của cách mạng trong từng thời kỳ và gắn bó sâu sắc với đời sống nhân dân. Luận điểm cô đúc và sâu sắc của Chủ tịch Hồ Trang - 7 -
- Chí Minh: “Văn hóa, nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy” đã làm nên một bước ngoặt cho toàn bộ tiến trình văn hoá Việt Nam, làm cho nền văn hóa mới và những người sáng tạo, hoạt đồng trên lĩnh vực văn hóa đó trở thành một sức mạnh to lớn, một bộ phận hữu cơ, gắn bó máu thịt với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Phát huy và nối tiếp kinh nghiệm và chân lý đó, trong sự nghiệp đổi mới từ 1986 đến nay, Đảng ta nhấn mạnh văn hóa, văn nghệ là một bộ phận khăng khít của sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo và tiếp tục khẳng định: "Chú trọng xây dựng nhân cách con người Việt Nam về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức, lối sống, thể chất, lòng tự tôn dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành pháp luật”, một đòi hỏi cao và mới đối với văn hóa trong giai đoạn mới của cách mạng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. 1.2.1.2. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội, thiếu nó hoặc không giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, giữa phát triển kinh tế với mục tiêu cuối cùng là văn hóa (công bằng, dân chủ, văn minh, con người phát triển toàn diện ) thì không thể có sự phát triển bền vững của xã hội. Văn học, nghệ thuật là bộ phận trọng yếu của nền văn hoá dân tộc, thể hiện khát vọng của nhân dân về chân - thiện - mỹ. Phát triển đường lối văn hoá, văn nghệ đúng đắn của Đảng qua các thời kỳ trước, Nghị quyết Đại hội VI, Đại hội VII và Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị khoá VI đã tạo điều kiện cho văn hoá, văn nghệ đạt nhiều thành tựu, đáp ứng một phần nhu cầu hưởng thụ văn hoá của các tầng lớp nhân dân, đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V đã chỉ ra rằng: phải đưa văn hoá thâm nhập vào cuộc sống hàng ngày của nhân dân ở cơ sở, bảo đảm mỗi nhà máy, công trường, nông trường, mỗi đơn vị lực lượng vũ trang, công an nhân dân, mỗi cơ quan trường học, bệnh viện, cửa hàng, mỗi xã, hợp tác xã phường đều có đời sống văn hoá. Quán triệt tinh thần trên Bộ Văn hoá thông tin trong đó đã chủ trương phát động trong cả nước phong trào mạnh mẽ xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở (1981 - 1985) có những nội dung, chỉ tiêu rõ ràng với 6 mặt công tác chuyên ngành theo chức năng nhiệm vụ của Bộ được xác định là: thông tin cổ động, văn nghệ quần chúng, đọc sách báo và thư viện, nếp sống văn hoá, giáo dục truyền thống, hoạt động nhà văn hoá - câu lạc bộ. Trang - 8 -
- Nếu kinh tế là nền tảng vật chất của đời sống xã hội thì văn hóa là nền tảng tinh thần của đời sống ấy và vì thế hai lĩnh vực kinh tế và văn hóa luôn luôn giữ vị trí quan trọng và quyết định đối với thực trạng, sự vận động và phát triển của xã hội đó. Cần nhận thức sâu sắc hơn nữa và quán triệt quan điểm này trong chỉ đạo và tổ chức thực tiễn, nhất là trong công tác lãnh đạo, quản lý mọi mặt đời sống xã hội, đặc biệt khi xử lý mối quan hệ giữa kinh tế với văn hóa, đảm bảo vị trí, vai trò tương xứng của văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, khắc phục bằng được tình trạng coi nhẹ văn hóa đối xử với văn hóa như một lĩnh vực phụ, ăn theo, “phi sản xuất”, hoặc coi trọng trong văn bản, nghị quyết, lời nói, nhưng coi nhẹ trong thực tiễn và việc làm cụ thể. Một dân tộc sáng tạo ra văn hóa của mình, và đến lượt nó, chứa đựng trong nền văn hóa đó là sức sống, tiềm năng, bản lĩnh, sức sáng tạo và bản sắc của chính dân tộc đó. Bằng văn hóa và thông qua văn hóa, dân lộc đó, qua các thế hệ, xây dựng cho mình những chuẩn mực sống, lao động, đấu tranh, sáng tạo và các quan hệ cộng đồng. Những chuẩn mực này được truyền bá, lưu giữ, trở thành một hệ thống các giá trị đặc trưng cho một dân tộc, tạo nên nền tảng tinh thần của dân tộc đó. Vì thế, “chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững”. Với vai trò là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa có khả năng to lớn khơi dậy, nhân lên mọi tiềm năng, sức sáng tạo của con người, tạo ra nguồn lực nội sinh quyết định sự phát triển của đời sống xã hội. Đặc biệt, trong thời đại ngày nay, nguồn gốc của sự giàu có và phát triển toàn diện của một đất nước không chỉ là tài nguyên thiên nhiên, vốn kỹ thuật, mà yếu tố ngày càng trở nên quyết định chính là nguồn lực con người, là tiềm năng và năng lực sáng tạo của con người. Kinh tế tri thức thời kỳ mới của sự phát triển xã hội hiện nay bắt nguồn từ chính đặc điểm này. Tiềm năng, năng lực của con người không nằm ở đâu khác, mà nằm ngay trong văn hóa và do chính văn hóa trực tiếp tạo nên trong trí tuệ đạo đức tâm hồn, nhân cách, bản lĩnh, sự thành thạo, tài năng của mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Chính vì khẳng định văn hóa là động lực mạnh mẽ trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nên trong những năm đổi mới vượt qua những hạn chế, thiếu sót đã từng xảy ra trước đây (chỉ nhấn mạnh một trong hai yếu tố đó hoặc không biết kết hợp chúng với nhau), Đảng ta thường xuyên nhấn mạnh vai trò của cả hai động lực: kinh tế và tinh Trang - 9 -
- thần và chỉ ra yêu cầu phải biết "kết hợp động lực kinh tế với động lực tinh thần” vì cả sự tăng trưởng kinh tế và sự phát triển văn hóa - xã hội. Là động lực của sự phát triển, văn hóa còn thể hiện ở khả năng điều tiết, điều chỉnh các khuynh hướng, chiều hướng phát triển của xã hội và con người, hướng sự vận động tới cái tích cực, tiến bộ, nhân văn và hạn chế những biểu hiện tiêu cực thoái hóa, biến chất, đen tối dẫn tới kìm hãm và thậm chí, sự tàn phá, xuống cấp của một xã hội, đặc biệt trong những điều kiện mới của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Vai trò điều tiết, điều chỉnh này thông qua các chuẩn mực mà văn hóa đã xác định, bằng việc định hướng giá trị đối với con người và cộng đồng. Trong sự liên hệ chặt chẽ và chi phối lẫn nhau giữa các hoạt động rất đa dạng của đời sống, cần phải hiểu rằng, văn hóa vừa là một thành tố gắn bó khăng khít vừa là thước đo trình độ phát triển của các lĩnh vực khác và của toàn xã hội. Do đó, với tư cách là mục tiêu của sự phát triển, văn hóa thể hiện trình độ phát triển ngày càng cao của con người và của xã hội. Trong các lý thuyết về phát triển, một quan niệm được khẳng định hiện nay, là coi mục tiêu phát triển phải thể hiện ở sự nâng cao chất lượng sống của con người với đảm bảo sự hài hòa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa mức sống cao với lối sống và nếp sống đẹp, không chỉ cho thiểu số mà phải cho đại đa số quần chúng và người lao động. Để đạt được mục tiêu đó, nhất thiết phải có sự phát triển cao về kinh tế, về cơ sở vật chất, kỹ thuật, song chỉ như thế thì chưa đủ và sẽ là sai lầm nghiêm trọng nếu chỉ lo tăng trưởng kinh tế, coi tăng trưởng là sự phát triển xã hội và làm tất cả với bất kỳ giá nào vì sự tăng trưởng đó, dù phải hy sinh về mặt văn hóa, xã hội, hy sinh và phá hoại sự phát triển phẩm giá con người. Trong những trường hợp như thế, có tăng trưởng nhưng không có phát triển, trái lại là sự “phản phát triển”. Từ vị trí của văn hóa là mục tiêu của sự phát triển cần phải nắm chắc mối quan hệ giữa kinh tế với văn hóa, văn hóa với kinh tế, trong đó đặc biệt chú ý luận điểm quan trọng trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5: "Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện”. Sự kết hợp kinh tế với văn hóa, văn hóa với phát triển đang là yêu cầu bức xúc của tất cả các quốc gia, dân tộc hiện nay, đúng như nhận định của F.Mayor - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO: Hễ nước nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách rời môi trường văn hóa thì nhất định sẽ xảy ra những mất cân đối nghiêm trọng cả về mặt kinh tế lẫn văn hóa và tiềm năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy yếu rất nhiều. Trang - 10 -
- 1.2.1.3. Văn hóa giữ vai trò cực kì quan trọng và trực tiếp trong nhiệm vụ xây dựng con người Mục tiêu cao nhất của sự sản xuất tinh thần - tính đặc thù của hoạt động và sáng tạo văn hóa là xây dựng nên hệ thống các giá trị làm chuẩn mực cho con người vươn tới, noi theo. Và khi các chuẩn mực, các giá trị đó được tiếp nhận, được thấm sân vào từng con người và từng cộng đồng thì đó chính là quá trình hình thành và phát triển các phẩm chất trong con người. Tổng hợp các phẩm chất tốt đẹp đã được hình thành trong con người chính là nhân cách. Như vậy, nếu sản xuất vật chất tạo ra ngày càng nhiều của cải cho con người thì sản xuất tinh thần, mục tiêu cuối cùng của nó là nhằm tạo ra những phẩm giá, những giá trị trong nhân cách con người. Đó chính là một trong những sứ mệnh cao quý nhất của văn hóa. Khi nói, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực và mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội thì cần hiểu rằng, các vai trò đó bao giờ và chủ yếu thông qua nhiệm vụ xây dựng con người của văn hóa. Con người là chủ thể sáng tạo văn hóa và đến lượt mình, văn hóa có chức năng trực tiếp nuôi dưỡng, xây đắp và góp phần phát triển con người, đặc biệt và trước hết là những phẩm chất tinh thần - tâm hồn của con người. Trong quan niệm của mình về văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh thiên chức riêng biệt của văn hóa, văn nghệ là bám sát đời sống con người, miêu tả và khám phá con người, bảo vệ và khẳng định, góp phần trực tiếp xây dựng con người mới đang hình thành trong cuộc chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ và vĩ đại vì sự ra đời và chiến thắng của xã hội mới: "Quần chúng đang chờ đợi những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại vẻ vang của chúng ta, những tác phẩm ca tụng chân thật những người mới, việc mới chẳng những để làm gương mẫu cho chúng ta ngày nay, mà còn để giáo dục con cháu ta đời sau”. Chính do vị trí, vai trò đặc biệt của văn hóa trong đời sống xã hội, đồng thời văn hóa luôn luôn có mặt trong mọi lĩnh vực và mọi hoạt động của xã hội và con người, nên cần biết phát huy tối đa sức mạnh của văn hóa, làm cho các nhân tố văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào mọi lĩnh vực, mọi phương diện của đời sống xã hội. 1.2.2. Về nhiệm vụ xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội lần thứ XI (tháng 1/2011), Trang - 11 -
- Đảng ta đã bổ sung Cương lĩnh 1991, trình bày quan niệm về xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng, trong đó gồm tám đặc trưng có quan hệ hữu cơ với nhau, tạo nên phẩm chất và giá trị của chủ nghĩa xã hội. Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong tám đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, vì thế về nội dung, nó góp phần quan trọng tạo nên phẩm chất và giá trị của xã hội đó. Điều đó cũng có nghĩa là, sẽ không có chủ nghĩa xã hội nếu như không xây dựng được trong xã hội đó một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. So với những hiểu biết, quan điểm trước đây về văn hóa, luận điểm "nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” của Đảng ta đã có một bước phát triển về chất. Trong Đề cương Văn hóa Việt Nam năm 1943, Đảng ta xác định nền văn hóa mới có ba tính chất: dân tộc, khoa học, đại chúng, đồng thời chỉ rõ nền văn hóa có tính chất dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung. Đến Đại hội III (1960), Đảng đã phát triển thành luận điểm, xây dựng nền văn hóa với nội dung xã hội chủ nghĩa và hình thức dân tộc. Sau 16 năm, Đại hội IV (1976) đã bổ sung, đó là nền văn hóa với nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc. Hơn 10 năm sau, trong Nghị quyết 05 của Bộ Chính từ (11 - 1987) khóa VI, nêu nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa đậm đà bản sắc dân tộc. Từ Đại hội VII (1991) đến nay, từ thực tiễn cực kỳ phong phú với những nỗ lực tổng kết thực tiễn và xây dựng một quan niệm hoàn chỉnh về văn hóa để chỉ đạo giai đoạn mới, Đảng ta đề xướng luận điểm "xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc". Tháng 7 năm 1998, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 5 (khoá VIII) ra Nghị quyết về xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Toàn bộ tinh thần của Nghị quyết đã làm sáng lên bức tranh của nền văn hoá đất nước trong tương lai. Đó là nền văn hoá với vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, gắn với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH- HĐH) đất nước, gắn với những vấn đề nảy sinh trong xu thế toàn cầu hoá và nền kinh tế thị trường. Cần khẳng định rằng, đó còn là một tầm nhìn rộng và xa của Đảng về sự phát triển bền vững của đất nước, ít nhất là trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Đến Đại hội IX, những tư tưởng chủ yếu của Đảng về phát triển văn hoá tiếp tục được thể hiện trên cơ sở thực tiễn thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII); nhấn mạnh vị trí, vai trò của văn hoá trong lịch sử phát triển của dân tộc ta; khẳng định sức Trang - 12 -
- sống lâu bền của những quan điểm, tư tưởng nêu trong nghị quyết Trung ương V (khoá VIII) trong đời sống xã hội, trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Về ý nghĩa “văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội”, Nghị quyết nhấn mạnh đó là tầm cao, chiều sâu của sự phát triển của dân tộc, khẳng định và làm rõ vị trí của văn hoá trong đời sống dân tộc, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tại hội nghị Trung ương 10 (khoá IX), Ban Chấp hành Trung ương đã tổ chức kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) và ra kết luận tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá làm nền tảng tinh thần xã hội, gắn kết và đồng bộ với phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Đại hội X, Đảng xác định tiếp tục phát triển sâu rộng, nâng cao chất lượng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Gắn kết chặt chẽ hơn với phát triển kinh tế xã hội. Làm cho văn hoá thấm sâu và mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam. Bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên, sinh viên, học sinh, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá Việt Nam. Đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến, di sản văn hoá vật thể, phi vật thể. Kết hợp hài hoà giữa bảo tồn, phát huy với kế thừa và phát triển, giữ gìn di tích với phát triển kinh tế du lịch, tinh thần tự nguyện, tính tự quản của nhân dân trong xây dựng văn hoá. Đa dạng hoá các hoạt động của phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”. Xây dựng và phát triển chương trình giáo dục văn hoá, thẩm mỹ, nếp sống văn hoá hiện đại trong nhân dân. Phát huy tiềm năng, khuyến khích sáng tạo văn học, nghệ thuật, tạo ra những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Đồng thời tăng cường quản lý nhà nước về văn hoá. Xây dựng cơ chế chính sách, chế tài ổn định. Tăng cường mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hoá. Chống sự xâm nhập văn hoá độc hại, lai căng, phản động. Xây dựng, nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hoá. Tạo điều kiện cho các lĩnh vực xuất bản, thông tin đại chúng phát triển. Nâng cao chất lượng tư tưởng văn hoá, hiện đại về mô hình, cơ cấu, cơ sở vật chất kỹ thuật. Xây dựng cơ chế quản lý khoa học, phù hợp. Đảm bảo tự do, dân chủ cho những hoạt động sáng tạo văn hoá, văn học, nghệ thuật. Đi đôi với phát huy trách nhiệm công dân của văn nghệ sỹ. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, cơ cấu tổ chức của các hội văn học- nghệ thuật từ trung ương đến địa phương. Cũng trong nhiệm kỳ Đại hội X, đối với văn hoá, văn học nghệ thuật, Đảng đã dành sự quan tâm cho một số lĩnh vực tinh tuý và nhạy cảm thường xuyên tác động đến Trang - 13 -
- đời sống tinh thần của xã hội. Đó là hai kết luận quan trọng của Ban Bí thư (số 83 ngày 27-6-2008), Bộ Chính trị (số 51 ngày 22-7-2009) chỉ đạo việc tiến hành tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 27 của Bộ Chính trị (khoá VIII) về “Thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội”; tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện chỉ thị này. Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16-6-2008 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học - nghệ thuật trong thời kỳ mới”. Theo đó sẽ có các đề án của các ban, bộ, ngành phối hợp triển khai nhằm đưa các quan điểm chỉ đạo, những chủ trương và giải pháp của Đảng về văn học, nghệ thuật thành hiện thực phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân. 1.2.2.1. Phẩm chất tiên tiến của nền văn hóa Việt Nam Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) đã khái quát những phẩm chất, nội dung cơ bản của tiên tiến là "yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghiã xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người; vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung”. Một nền văn hóa tiên tiến trong tất cả sự phong phú của nó, bao giờ cũng dựa trên và gắn liền với tính chất tiên tiến, tiến bộ của một hệ tư tưởng triết học và của một lý tưởng xã hội - đạo đức mà dân tộc và nhân dân đã lựa chọn. Từ quan điểm đó, đặc trưng yêu nước và tiến bộ được khẳng định là phẩm chất quan trọng của tiên tiến. Yêu nước là nấc thang giá trị cao nhất của dân tộc và của văn hóa Việt Nam. Đây là một trong những yêu cầu cao nhất, sâu sắc nhất đối với nền văn hóa của chúng ta, nó vừa là sự kế tục một phẩm chất bền vững của văn hóa dân tộc trong quá khứ đồng thời lại phải phát triển mạnh mẽ phẩm chất đó với những đòi hỏi và đặc trưng mới. Ở đây chính là yêu cầu gắn bó chặt chẽ, hài hòa giữa lý tưởng độc lập dân tộc với lý tưởng xã hội chủ nghĩa trở thành nội dung cốt lõi của nền văn hóa đó trong thời kỳ mới. Như vậy, chứa đựng trong nền văn hóa của chúng ta là những giá trị bền vững, những tinh hoa của nền văn hóa dân tộc, của truyền thống dân tộc cùng với những giá trị mới được xây đắp và phát triển trong giai đoạn hiện đại của dân tộc ta. Tiến bộ là một phẩm chất đặc trưng của nền văn hóa tiên tiến phải được hiểu trước hết là sự gắn bó của nền văn hóa đó với hệ tư tưởng khoa học và cách mạng, đối Trang - 14 -
- với văn hóa Việt Nam hiện đại, hệ tư tưởng đó chính là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trước tác động hết sức phức tạp của các hệ tư tưởng thù địch chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, quan điểm trên đây của Đảng ta là một đòi hỏi cao đối với văn hóa và những người sáng tạo, hoạt động văn hóa. Vì vậy, quan điểm đó phải được quán triệt trong toàn bộ hoạt động văn hóa, trong việc định hướng đúng đắn và nâng cao chất lượng, hiệu quả cũng như khả năng sử dụng, phát huy văn hóa phục vụ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nền văn hóa tiên tiến là một nền văn hóa thấm sâu phẩm chất nhân văn và dân chủ mà trước hết là sự tôn trọng con người, tất cả vì con người, có khả năng tạo ra được con người phát triển tự do, toàn diện, đời sống tinh thần phong phú, cao đẹp, trong quan hệ hài hòa giữa cá nhân với: cộng đồng, giữa con người với xã hội và tự nhiên. Đây là một trong những phẩm chất cao quý của văn hóa, đồng thời qua đó, văn hóa thể hiện sứ mệnh và sức mạnh của mình “khẳng định và biểu dương những giá trị chân chính, bồi dưỡng cái chân, cái thiện, cái mỹ theo quan điểm tiến bộ, phê phán những cái lỗi thời, thấp kém”. Với lý tưởng xã hội và thẩm mỹ trên, nền văn hóa tiên tiến được phát triển phong phú, mở rộng đề tài và chủ đề phản ánh, đa dạng hoá các phương thức biểu hiện, phát triển tự do, hài hòa tất cả các lĩnh vực của nó nhằm mục tiêu "vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao”. Như vậy, để xây dựng phẩm chất tiên tiến với đặc trưng yêu nước và tiến bộ, dân chủ và tự do thì nền văn hóa đó luôn luôn gắn chặt với lý tưởng lương tâm và trách nhiệm người nghệ sĩ. Nói đến phẩm chất tiên tiến cũng chính là nói đến phẩm chất hiện đại của nền văn hóa đó. Nó phải dựa trên cơ sở và gắn bó chặt chẽ với trình độ phát triển của nền kinh tế, của khoa học, công nghệ và của trình độ dân trí ngày một nâng cao, từ đó đủ sức giải quyết và thỏa mãn các nhu cầu tốt đẹp, đa dạng của cuộc sống hiện tại, có điều kiện phát triển phong phú và mới mẻ các khả năng chuyển tải và biểu hiện của mình, do đó, nền văn hóa này sẽ dần có diện mạo mới “tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung” Trang - 15 -
- 1.2.2.2. Bản sắc dân tộc của nền văn hóa Tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nhân tố và phẩm chất hòa quyện hữu cơ trong nền văn hóa, tạo nên tổng thể giá trị của nền văn hóa đó, vì vậy, không thể tách rời chúng trong thực tiễn. Như vậy, có nghĩa là nền văn hóa tiên tiến phải mang cái riêng, cái độc đáo của truyền thống, đặc tính, cốt cách và tâm hồn dân tộc. Nó không thể bị hòa lẫn với nền văn hóa khác và nó hoàn toàn xa lạ với sự lai căng, bắt chước, học đòi để đanh mất đi bản sắc, tính độc đáo của dân tộc mình. Điều đó cũng có nghĩa là, bản sắc dân tộc không dừng lại ở những biểu hiện bề ngoài, hình thức, mà thực chất là biểu hiện sức sống, sức sáng tạo, phát triển và tính đặc thù độc đáo của dân tộc. Trước hết, bản sắc dân tộc của nền văn hóa được tạo nên bởi những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Nhận thức, phản ánh và khám phá những giá trị và những tinh hoa đó là nhiệm vụ lớn lao của văn hóa. Những thành tố cơ bản tạo nên giá trị bền vững và tinh hoa của dân tộc ta, từ đó làm nên bản sắc độc đáo của dân tộc là "lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã- Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trong nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống”. Bản sắc dân tộc của nền văn hóa Việt Nam còn biểu hiện rất rõ ở tính thống nhất mà đa dạng của văn hóa các dân tộc Việt Nam. Thống nhất là phẩm chất nhất quán của nền văn hóa Việt Nam từ ngàn đời nay, song thống nhất trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng sự đa dạng và phát triển bản sắc riêng của văn hóa các dân tộc. Củng cố và phát triển sự thống nhất, tạo ra sức mạnh tinh thần chung của toàn dân tộc đồng thời khai thức và phát triển một sắc thái và giá trị của văn hóa các dân tộc đáp ứng nhu cầu văn hóa của từng dân tộc, đó là con đường sáng tạo nên nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của chúng ta. Bản sắc dân tộc của nền văn hóa còn gắn chặt chẽ với khả năng khai thức, sử dụng, phát huy, tiếp nhận có chọn lọc và phát triển những phương thức, phương tiện, loại hình, loại thể, hình thức biểu hiện hết sức đa dạng và phong phú trong truyền thống văn hóa dân tộc. Bảo vệ, giữ gìn bản sắc dân tộc của văn hóa không đồng nghĩa với việc đóng cửa, thu mình trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, hoặc phục hồi những gì đã lỗi thời lạc Trang - 16 -
- hậu trong đời sống văn hóa của dân tộc. Phải đủ bản lĩnh để mở rộng giao lưu với thế giới, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tốt đẹp, tiến bộ của văn hóa các dân tộc. Trong mở rộng giao lưu quốc tế, yêu cầu hàng đầu là phải trên tinh thần độc lập tự chủ, với lòng tự hào sâu sắc về những giá trị của con người và văn hóa Việt Nam, nâng cao và phát huy bản sắc dân tộc của nền văn hóa đó, đồng thời tích cực học hỏi, tiếp thu, chọn lọc những giá trị nhân bản, khoa học, tiến bộ của văn hóa thế giới. Mặt khác, cần tỉnh táo, kiên quyết chống lại sự xâm nhập của mọi thứ văn hóa độc hại, những quan điểm cực đoan về tự do cá nhân, chủ nghĩa thực dụng, lối sống hưởng thụ ích kỷ Đó là con đường để làm giàu thêm cho văn hóa dân tộc và từ đó góp một tiếng nói riêng vào đời sống văn hóa của cộng đồng các dân tộc trên thế giới. Cũng chỉ có như vậy mới tránh được nguy cơ nóng bỏng hiện nay trên thế giới về "sự đồng hóa các hệ thống giá trị và chuẩn mực, tức là nguy cơ tha hóa về văn hóa và chống lại âm mưu "xâm lăng về văn hoá của các nước và các thế lực thù địch. 1.2.3. Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam Xuất phát từ đặc điểm lịch sử, truyền thống lâu đời của chúng ta, Đảng ta đã có những kiến giải riêng về vấn đề dân tộc ở nước ta. Khác với một số quan niệm cho rằng, nói đến dân tộc là nói đến sự hình thành dân tộc tư sản, là sản phẩm của thời đại tư bản chủ nghĩa đang lên, Đảng ta đã khẳng định: Ở Việt Nam, dân tộc Việt Nam hình thành từ khi lập nước, chứ không phải khi chủ nghĩa tư bản nước ngoài xâm nhập vào Việt Nam, bởi vậy, dân tộc Việt Nam ta có lịch sử mấy ngàn năm, có ngôn ngữ riêng, phong tục, tập quán riêng, cốt cách làm ăn riêng, phong thái sinh hoạt riêng và có nền văn hóa lâu đời của mình. Tất cả những cái đó tạo nên truyền thống, tình cảm riêng của dân tộc ta. Hơn 50 dân tộc sinh sống trên đất nước ta đã đoàn kết một lòng chúng sức xây đắp nên cái đặc trưng độc đáo và cái truyền thống lâu đời đó của chúng ta. Mặt khác, hơn 50 dân tộc đó lại có những giá trị và sắc thái văn hóa riêng của mình. Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa Việt Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc. Xuất phát từ nhận thức sâu sắc truyền thống và thực tiễn văn hóa trên, Đảng ta trong suốt hơn 70 năm qua, đã khẳng định nhất quán quan điểm của mình vê xây dựng một nền văn hóa Việt Nam hiện đại, tiên tiến trong sự thống nhất mà đa dạng, đa dạng mà thống nhất của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Các nguyên tắc lớn về vấn đề dân tộc, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được vận dụng triệt để và sáng tạo trong chỉ đạo xây dựng văn hóa, đó là bình đẳng, đoàn kết, tương Trang - 17 -
- trợ, giúp đỡ lẫn nhau phát triển các giá trị và sắc thái riêng của văn hóa từng dân lộc nhằm tạo nên sự phong phú và thống nhất chung của văn hóa Việt Nam. Như vậy, tính thống nhất trong sự đa dạng đó xuất phát từ phẩm chất yêu nước và tiến bộ của nền văn hóa, từ truyền thống lâu đời, từ khát vọng chung là độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ, từ sự cố kết, gắn bó sâu sắc với nhau trong tiến trình lịch sử và từ sự đồng cảm trong tinh thần, tâm hồn, tâm lý. 1.2.4. Xây dựng vì phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức đóng vai trò quan trọng Quan điểm rất giản dị này có nguồn gốc sắc từ nhận thức của Đảng ta về vai trò, sứ mệnh của nhân dân không chỉ đối với lịch sử. Với tài sản vật chất của loài người, mà còn đối với toàn bộ những giá trị tinh thần được tạo nên bởi chính nhân dân. Ở quan điểm này, cần phải thấu hiểu đồng thời các nội dung không thể tách rời nhau: Nhân dân là lực lượng làm nên văn hóa trong cả ba nhân chủ yếu của tiến trình văn hóa: sáng tạo (sản xuất), truyền bá (lưu giữ), và tiếp nhận (hưởng thụ); Đảng ta là lực lượng tiên phong về lư tưởng có sứ mệnh lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng để nhân dân xây dựng văn hóa và vai trò rất quan trọng, trực tiếp sáng tạo văn hóa là đội ngũ tri thức. Quan điểm này còn thể hiện đầy đủ, sáng rõ sự đánh giá cao của Đảng ta về vị trí vai trò của văn hóa cơ sở trong xây dựng nền văn hóa chung của dân tộc. Văn hóa cơ sở là nền tảng vững chắc cho toàn bộ sự phát triển của văn hóa, chính nó là làm nên diện mạo, đặc trưng cơ bản của văn hóa dân tộc và không có nó không thể tạo nên những giá trị văn hóa đỉnh cao của văn hóa dân tộc qua từng thời kỳ lịch sử. Chính trong sự phát triển mạnh mẽ của văn hóa cơ sở mà tạo ra các tài năng hoạt động văn hóa, đúc kết nên những tinh hoa văn hóa. Trong các Nghị quyết của Đảng về văn hóa, những tư tưởng trên đây được khẳng định nhiều lân, dứt khoát và kiên định. Tư tưởng đó còn xuyên thấm trong toàn bộ các nhiệm vụ của văn hóa, từ xây dựng các giá trị, phẩm chất của con người bằng văn hóa, thông qua văn hóa đến xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tốt đẹp cho con người, từ định hướng đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, gia đình văn hóa, làng văn hóa, cơ sở văn hóa đến xác định vai trò to lớn cửa nhân dân của cơ sở đối với cuộc đấu tranh kiên trì, rộng lớn chống những biểu hiện tiêu cực đen tối, hư hỏng, thiếu văn hóa, tầm thường, xấu xa, và đối với các nhiệm vụ văn hóa cụ thể: thư viện, bảo tồn, bảo tàng, hoạt động nghệ thuật. Tư tưởng trên đây cũng chính là cơ sở lý luận để Đảng ta khẳng định một phương châm rất quan trọng trong phát triển văn hóa thời kỳ mới, đó là xã hội hóa các Trang - 18 -
- hoạt động văn hóa. Vì nhân dân là người làm nên văn hóa nên xã hội hóa hoạt động văn hóa là một quy luật, một đòi hỏi khách quan nhằm vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào phát triển văn hóa, tạo động lực mạnh cho sự phát triển vững chắc của nó, đồng thời cũng tạo điều kiện cho văn hóa thấm sâu vào mọi mặt của đời sống xã hội, từ đó nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân, một mục tiêu cao nhất, đẹp nhất của sự nghiệp văn hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng. 1.2.5. Văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng Quan điểm này nhấn mạnh một số đặc trưng nổi bật cần phải nắm vững và quán triệt trong quá trình Đảng chỉ đạo và tổ chức cho nhân dân xây dựng văn hóa. Trước hết, vận dụng sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, luận điểm khẳng định, văn hóa là một mặt trận, nghĩa là khẳng định cuộc đấu tranh để bảo vệ và xây dựng cái tiên tiến, cái tiến bộ và những giá trị tốt đẹp của con người và để phê phán, chiến thắng cái xấu xa, đen tối, cái ác, cái phản văn hóa là một sự nghiệp đầy khó khăn phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian và đòi hỏi không ngừng nâng cao tính chiến đấu của những người hoạt động trên mặt trận này. Đồng thời cũng khẳng định trong cuộc đấu hình đó, "xây” phải đi đôi với "chống”, lấy "xây” làm chính. Tổ chức sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa hai yêu cầu trên trong các hoạt động văn hóa là một đòi hỏi cao đối với người chỉ đạo, hướng dẫn, triển khai các hoạt động văn hóa từ Trung ương đến cơ sở. Ý nghĩa thời sự của quan điểm này thể hiện ở chỗ: hơn lúc nào hết, do tác động hết sức phức tạp của cuộc đấu tranh chính trị, tư tưởng hiện nay, Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ tăng cường đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, lệch lạc trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, kiên cường chiến đấu và tỉnh táo trước âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình “, "xâm lăng văn hoá” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực rất nhạy cảm này, đồng thời kiên trì bài trừ các hủ tục, các thói hư, tật xấu, sự thoái hóa, biến chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tất nhiên, đồng thời với việc nhấn mạnh đặc trưng bản chất "văn hóa là một mặt trận" Đảng ta luôn luôn lưu ý dấu hiệu đặc thù của mặt trận này, từ đó đòi hỏi phải có ý chí cách mạng cao gắn với lòng kiên trì và thái độ thận trọng, linh hoạt, khoa học. Sự thống nhất trên là cơ sở đem lại hiệu quả của sự lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý lĩnh vực văn hóa, văn nghệ. Trang - 19 -
- 1.3. Những nội dung cơ bản của sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa, văn nghệ Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng về chăm lo phát triển văn hoá. Những định hướng lớn về văn hoá trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng XI là sự tiếp nối các quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển văn hoá. Nhiệm vụ chăm lo phát triển văn hoá được đúc kết cô đọng hơn, cụ thể hơn, tập trung vào 4 nội dung quan trọng: Một là: Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phong phú, đa dạng; tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội ; triển khai cuộc vận động xây dựng gia đình Việt Nam góp phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hoá, còn người Việt Nam, nuôi dưỡng giáo dục thế hệ trẻ. Hai là: Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá truyền thống, cách mạng. Theo đó, tiếp tục phát triển nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giàu chất nhân văn, dân chủ, vươn lên hiện đại, phản ánh chân thật, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước; cổ vũ, khẳng định cái đúng, cái đẹp, đồng thời lên án cái xấu, cái ác. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ, về bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể của dân tộc. Xây dựng và thực hiện các chính sách, chế độ đào tạo, bồi dưỡng, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, tạo điều kiện để đội ngũ những người hoạt động văn hoá, văn học, nghệ thuật sáng tạo nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Ba là: Chú trọng phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo dục, tổ chức và phản biện xã hội của các phương tiện thông tin đại chúng vì lợi ích của nhân dân và đất nước. Tập trung đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ hoạt động báo chí, xuất bản vững vàng về chính trị, tư tưởng, nghiệp vụ và có năng lực đáp ứng tốt yêu cầu của thời kỳ mới. Bốn là: Đổi mới, tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn hoá, văn học, nghệ thuật, đất nước, con người Việt Nam với thế giới. Xây dựng một số trung tâm văn hoá Việt Nam ở nước ngoài và trung tâm dịch thuật, quảng bá văn hoá Việt Nam ra nước ngoài. Tiếp thu những kinh nghiệm tốt về phát triển văn hoá của các nước, giới thiệu các tác phẩm văn học, nghệ thuật đặc sắc của nước ngoài với công chúng Việt Nam. Ngăn chặn, đẩy lùi, vô hiệu hoá sự xâm nhập và tác hại của các sản phẩm đồi truỵ, phản động Trang - 20 -
- từ nước ngoài vào nước ta; bồi dưỡng và nâng cao sức đề kháng của công chúng nhất là thế hệ trẻ. Như vậy, đến Đại hội XI, các quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam theo mục tiêu tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tiếp tục được khẳng định. Nhưng từ thực tiễn đời sống văn hoá của đất nước những năm qua, đặc biệt là trong xu thế hội nhập, có sự tác động nhiều chiều của quá trình toàn cầu hoá, của nền kinh tế thị trường , Đảng ta đã xác định bốn đầu việc cần được cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp và nhất là ngành văn hoá coi trọng, tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhằm tiếp tục xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội. Trong đó, việc xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phong phú, đa dạng có ý nghĩa rất quan trọng, chi phối và gắn bó hữu cơ với ba công việc sau. Cần nhận thức đầy đủ rằng, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh cũng chính là góp phần tạo ra môi trường chính trị- xã hội ổn định, an toàn và bền vững trên cơ sở đời sống kinh tế được đảm bảo. Quá trình xây dựng môi trường văn hoá phải chú trọng xây dựng đời sống văn hoá, vì đó là bước đi ban đầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá. Xây dựng đời sống văn hoá cần phải được tổ chức một cách bài bản, có chủ trương, chiến lược và từ trong từng gia đình Việt Nam, trong thôn, bản, khu phố, trong các tổ chức đoàn thể , không chỉ là vài cuộc liên hoan văn nghệ quần chúng theo định kỳ hay chào mừng, cổ vũ một vài ngày kỷ niệm, sự kiện nào đó. Đối với văn học, nghệ thuật hay bảo tồn phát huy các di sản văn hoá cũng phải có mục tiêu cụ thể, nhằm đạt tới kết quả cuối cùng là có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, thực sự phát huy chức năng giáo dục, định hướng thẩm mỹ cho công chúng, nâng cao ý thức dân tộc, trách nhiệm của mỗi người với những giá trị đó. Các cơ quan thông tin, truyền thông đặc biệt là báo chí, xuất bản là những công cụ trực tiếp, đắc lực, có trách nhiệm tuyên truyền cho quá trình chăm lo phát triển văn hoá của đất nước trên cơ sở vì mục đích, lợi ích của nhân dân và đất nước. Đương nhiên, đội ngũ đó phải được quan tâm, chăm lo đào tạo, rèn luyện chính trị, tư tưởng, có năng lực chuyên môn đồng thời phải có đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm công dân, nếu không sẽ không thể đáp ứng được yêu cầu thông tin, giáo dục, tổ chức và phản biện xã hội phù hợp với môi trường văn hoá lành mạnh theo quan điểm của Đảng. Công việc đổi mới, tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn hoá, văn học, nghệ thuật, đất nước, con người Việt Nam với thế giới thực chất cũng là nhằm xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, đa dạng, phong phú. Vì văn hoá Việt Nam muốn phát triển không thể không có lộ trình, kế hoạch cụ thể để quảng bá ra nước ngoài; muốn quảng bá phải có thiết chế, phải có đầu tư về con người và cơ sở vật chất cho nhiệm vụ Trang - 21 -
- này (một vài trung tâm văn hoá của Việt Nam ở nước ngoài như hiện nay là không thể hoàn thành được). Đồng thời chọn lọc, giới thiệu những giá trị văn hoá của bè bạn thế giới vào nước ta cũng là công việc cần được quan tâm để làm đẹp thêm bức tranh văn hoá nước nhà. Xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phong phú, đa dạng theo quan điểm của Đảng nêu trên, là sự kiên định (kế thừa, bổ sung, phát triển) quan điểm xây dựng và phát triển văn hoá của Đảng trong hơn nửa thể kỷ qua, đưa quan điểm đó trở thành hiện thực trong đời sống văn hoá của dân tộc sẽ tạo ra sức đề kháng khoẻ mạnh trong cơ thể văn hoá Việt Nam. 1.3.1. Những nội dung cơ bản và con đường đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Đảng lãnh đạo văn hóa, văn nghệ, trước hết và quan trọng nhất là thông qua và bằng đường lối và những quan điểm chỉ đạo của mình đối với lĩnh vực văn hóa, văn nghệ. Đây là vấn đề cốt lõi và chính yếu nhất của sự lãnh đạo. Đường lối và các quan điểm đó được thể hiện tập trung trong các nghị quyết, văn kiện chung của Đảng và trong các nghị quyết, văn bản riêng, có tính chất chuyên đề về văn hóa, văn nghệ. Tất nhiên, đường lối, quan điểm này không phải ý muốn chủ quan của Đảng áp đặt cho văn hóa, văn nghệ mà bao giờ cũng là kết quả tổng hợp của sự nhận thức những đòi hỏi, mục tiêu của cách mạng, của sự phát hiện, vận dụng những quy luật khách quan của đời sống xã hội, của lĩnh vực văn hóa, văn nghệ và của sự tổng kết thực tiễn bản chất, đặc trưng của văn hóa, văn nghệ dân tộc trong tiến trình lịch sử. Đường lối, quan điểm đúng, phù hợp với quy luật khách quan, với yêu cầu của cuộc đấu tranh cách mạng, với quy luật phát triển của bản thân văn hóa, đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn và nhu cầu tinh thần của quảng đại quần chúng sẽ là nhân tố quyết định đảm bảo sự phát triển tốt đẹp, phong phú của nền văn hóa mới. Chệch hướng hoặc sai lầm trong đường lối và quan điểm là nguyên nhân có sức phá hoại mạnh mẽ nền văn hóa, từ đó gây tác hại xấu đến bản thân sự nghiệp và mục tiêu của cách mạng. Lịch sử đã cho chứng ta không ít những kinh nghiệm sâu sắc về sự chệch hướng hoặc sai lầm trong việc xác định đường lối và quan điểm chỉ đạo đối với văn hóa, văn nghệ. Đại cách mạng văn hóa ở Trong đuốc những năm 60 của thế kỷ XX là một dẫn chứng tiêu biểu. Để xây dựng đường lối, quan điểm chỉ đạo nền văn hóa, văn nghệ nước ta qua từng thời kỳ cách mạng, Đảng ta bao giờ cũng xuất phát từ ba cơ sở sau đây: chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về cách 15 mạng, về văn hóa, văn nghệ, thực tiễn cách mạng Việt Nam và truyền thống, đặc điểm của nền văn hóa dân tộc. Vì Trang - 22 -
- thế, trong đường lối đó bao giờ cũng là sự thống nhất của tính nguyên tắc chung, tính sáng tạo và tính đặc thù, hay nói cách khác, nó là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển đường lối, quan điểm mác xít về văn hóa, văn nghệ vào thực tiễn nước nhà. Thành quả lý luận trên đây được thể hiện rất rõ rệt trong quá trình hơn 80 năm vận động văn hóa cách mạng và lãnh đạo, xây dựng nền văn hóa mới. Một dẫn chứng tiêu biểu về quá trình tìm tòi không mệt mỏi khoảng gần 50 năm của Đảng trong việc xác định đường lối, quan điểm văn hóa, văn nghệ là luận điểm về nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà chúng ta đã phân tích ở trên. Khoảng gần 50 năm, các từ ngữ và từng vế của luận điểm được bổ sung, thay thế, điều chỉnh, tưởng rằng chỉ là những thao tác ngôn ngữ, nhưng thực ra đó là một quá trình tìm tòi sâu sắc, gian khổ, gắn chặt với sự vận động và phát triển của thực tiễn và của bản thân tư duy lý luận của Đảng về văn hóa, văn nghệ. Lãnh đạo bằng đường lối, quan điểm nhằm định hướng chiến lược cho sự phát triển của văn hóa, văn nghệ, song trong từng thời kỳ lịch sử nhất định, xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng trong thời kỳ đó, Đảng chỉ ra những nhiệm vụ lớn cho văn hóa, văn nghệ, đồng thời đề ra hệ thống những giải pháp cơ bản mang tính chỉ đạo để giúp cho những người quản lý và hoạt động văn hóa triển khai các mặt công tác như kế hoạch, chương trình, thể chế hóa, tổ chức các hoạt động văn hóa cụ thể. Về phương diện này, Đảng ta có nhiều kinh nghiệm thực tiễn quý báu trong việc xác định các nhiệm vụ cụ thể của văn hóa, văn nghệ gắn chặt với từng giai đoạn lịch sử, từ đó tạo điều kiện cho nó đóng góp với hiệu quả cao vào sự nghiệp chung của dân tộc. Chú trọng thường xuyên và nâng cao hiệu quả của công tác kiểm tra thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng trong thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa cũng là một nội dung quan trọng của sự lãnh đạo. Kiểm tra để nắm chắc thực chất của tình hình, đanh giá chính xác mức độ đi vào đời sống của các đường lối quan điểm và đặc biệt để chỉ đạo kịp thời, sắc bén, giải quyết những vấn đề đặt ra trong quá trình thực liễn, đồng thời khi cần thiết, tiến hành uốn nắn, đấu tranh với những biểu hiện lệch lạc, sai lầm trong quan điểm xây dựng văn hóa. Kiểm tra là một trong những con đường hiệu quả nhất thực hiện sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ. Sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa, văn nghệ thông qua hệ thống các tổ chức của Đảng, thông qua cơ quan tham mưu của Đảng ở các cấp, thông qua việc phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng và thông qua toàn bộ đảng viên của Đảng công tác, Trang - 23 -
- hoạt động trong hệ thống chính trị và các tổ chức khác. Ớ đây cơ quan tham mưu của Đảng trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa luôn luôn giữ vai trò nòng cốt, có nhiệm vụ liên kết, phối hợp chặt chẽ các lực lượng tham mưu giúp Đảng chỉ đạo, kiểm tra hoạt động văn hóa, văn nghệ. Để thực hiện tốt nội dung trên, nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng hoạt động trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ trở nên cực kỳ quan trọng, Thực tiễn đang đòi hỏi phải nâng cao trình độ, tiêu chuẩn, phẩm chất toàn diện của đội ngũ này, trước hết là bản lĩnh chính trị, sự hiểu biết thực sự về văn hóa, văn nghệ, sự gắn bó mật thiết với đời sống, đạo đức trong sáng và sự am hiểu, đồng cảm với người hoạt động văn hóa, biết coi trọng tài năng và nhân cách, biết cách làm việc thích hợp, linh hoạt, chân tình với văn nghệ sĩ. Trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng có nhấn mạnh và chỉ ra một nội dung mới của sự lãnh đạo của Đảng, đó là: "Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng về văn hóa, phải xây dựng văn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước như Bác Hồ đã dạy "Đảng ta là đạo đức, là văn minh ", từ đó Nghị quyết cho rằng: “Gương mẫu là một nội dung, một phương thức trọng yếu trong công việc lãnh đạo của Đảng”. 1.3.2. Tính đặc thù của sự lãnh đạo, chỉ đạo lĩnh vực văn hóa, văn nghệ Do nắm bắt và hiểu biết sâu sắc bản chất xã hội và tính đặc thù của lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, nên ngay sau khi khẳng định sự nghiệp văn học phải trở thành một bộ phận khăng khít của công tác có tổ chức, có kế hoạch, thống nhất, của Đảng dân chủ - xã hội, "mang nguồn nhựa sống của sự nghiệp đầy sức sống của giai cấp vô sản vào trong toàn bộ công tác đó”. Lênin đã nhấn mạnh tính đặc thù của hoạt động văn học, đòi hỏi sự lãnh đạo của Đảng phải luôn tuân thủ tính đặc thù đó: "sự nghiệp văn học ít thích hợp nhất đối với một sự cào bằng máy móc, đối với sự san bằng, đối với việc số đông thống trị số ít. Đương nhiên, trong sự nghiệp đó tuyệt đối phải đảm bảo phạm vi hết sức rộng rãi cho sáng kiến cá nhân, cho khuynh hướng cá nhân, cho tư tưởng và sức tưởng tượng, cho hình thức và nội dung”. Không hiểu biết được hai nội dung trên đây trong quan điểm của Lênin về sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa, văn nghệ sẽ dẫn tới những thiếu sót, sai lầm nghiêm trọng và thực chất không thể thực hiện được sự lãnh đạo đó trong thực tiễn. Các căn bệnh giản đơn, nông cạn, hẹp hòi, máy móc, hành chính, mệnh lệnh, thiếu hụt tri thức về văn hóa, lạnh lùng, thiếu sự đồng cảm với hoạt động này là những dấu hiệu khá phổ Trang - 24 -
- biến, bám khá sâu vào nếp nghĩ, phong cách của một bộ phận những người làm công tác lãnh đạo, chỉ đạo văn hóa, văn nghệ. Nói đến tính đặc thù trong lãnh đạo, chỉ đạo văn hóa, văn nghệ, không được coi đó là thủ thuật lãnh đạo mà phải xác định đó là một yêu cầu, một đòi hỏi khách quan nằm ngay trong bản chất, nội dung và tạo nên hiệu quả của sự lãnh đạo đó. Bản thân đặc trưng riêng biệt, độc đáo của đối tượng được lãnh đạo là nguyên nhân sâu xa quy định tính đặc thù của sự lãnh đạo, hay nói cách khác, khi nhấn mạnh và thấu hiểu đặc trưng của lĩnh vực văn hóa thì tất yếu phải có những giải pháp đặc trưng phù hợp trong quá trình quản lý toàn bộ lĩnh vực đặc thù đó. Trong quá trình lãnh đạo lĩnh vực này, Đảng ta thường xuyên chỉ ra các đặc trưng của nó, vì thế chúng ta đã vượt qua những khó khăn, hạn chế, ngày càng nâng cao hiệu quả sự lãnh đạo. Quan điểm sau đây được trình bày trong Văn kiện Đại hội VI của Đảng ( 1986) về vị trí đặc biệt của văn học, nghệ thuật đã có tác dụng thực sự sâu sắc đối với quá trình lãnh đạo, quản lý từ khi công cuộc đổi mới bắt đầu khởi xướng: "Không có hình thái tư tưởng nào có thể thay thế được văn học và nghệ thuật trong việc xây dựng tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của cơn người". Tính đặc thù trong sự lãnh đạo, quản lý văn hóa, văn nghệ được thể hiện trong toàn bộ quá trình lãnh đạo, trong các khâu cơ bản của quá trình văn hóa, từ sản xuất (sáng tạo), bảo quản (lưu giữ) đến phân phối (truyền bá) và tiêu dùng (sử dụng). Ở đây, cần nhấn mạnh một số nội dung chính của tính đặc thù đó. Mục tiêu lớn nhất của sự lãnh đạo quản lý văn hóa, văn nghệ là phát huy mọi tiềm năng, khả năng sáng tạo của nó để văn hóa, văn nghệ phát triển thuận lợi, đóng góp được nhiều nhất, hiệu quả nhất cho sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc. Điều đó có nghĩa là, thói quen và quan niệm cũ, coi lãnh đạo và quản lý thường đồng nghĩa với nỗ lực đưa văn hóa, văn nghệ vào khuôn khổ, “khuôn phép”, dùng các mệnh lệnh hành chính máy móc phải bị bác bỏ, gạt bỏ ra khỏi nội dung và phương pháp lãnh đạo, quản lý. Điều đó cũng có nghĩa là, chiều sâu, sức sống và nghệ thuật của sự lãnh đạo thể hiện đầy đủ ở khả năng khai thức mạnh mẽ mọi tiềm năng sáng tạo, khuyến khích tất cả những người hoạt động văn hóa, tất cả nghệ sĩ tìm tòi sáng tạo, bảo đảm trong thực tiễn quyền tự do, dân chủ cá nhân cho mọi người sáng tạo, trân trọng nhân cách, trọng dụng tài năng và sự độc đáo của văn nghệ sĩ, chu đáo chân tình trong quan hệ, có cách làm việc thích hợp với từng cá nhân sáng tạo. Trang - 25 -
- Như vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đánh đuổi giặc ngoại xâm, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta luôn quan tâm đến văn hoá và càng coi trọng hơn trong thời kỳ đổi mới, trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Đại hội Đảng các kỳ VIII, IX, X, XI; các kết luận, chỉ thị của Hội nghị Trung ương các khoá trên đều thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng trong nhìn nhận, đánh giá, chỉ đạo xây dựng và phát triển văn hoá, gắn chặt với chiến lược xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo hướng đó, văn hoá phải thực sự trở thành động lực và mục tiêu của sự phát triển, đồng thời đòi hỏi một cơ chế chính sách đảm bảo cho văn hoá và kinh tế cùng phát triển. Trang - 26 -
- Chương 2. LIÊN HOAN VĂN NGHỆ Ở ĐƠN VỊ 2.1. Liên hoan văn hóa, văn nghệ ở đơn vị 2.1.1. Khái quát chung về liên hoan văn hóa, văn nghệ trong lực lượng vũ trang Liên hoan văn hoá, văn nghệ là một quá trình tổng thể qua lại bổ sung cho nhau của nội dung và phương thức, việc tách nội dung và phương thức hoạt động chỉ nhằm mục đích nghiên cứu. Liên hoan văn hoá, văn nghệ là nội dung không thể thiếu trong lực lượng vũ trang. Thực tiễn đời sống xã hội biến đổi không ngừng. Với sự phát triển cao của khoa học và công nghệ hiện đại, trong đó công nghệ thông tin, công nghệ điện tử, công nghệ sinh học là những mũi nhọn đẩy nhanh tốc độ của nền kinh tế - xã hội. Do đó, bồi dưỡng và nâng cao trí thức khoa học cho cán bộ, chiến sĩ là một đòi hỏi hết sức bức thiết. Hoạt động văn hoá, văn nghệ quần chúng là loại hình để bổ túc, nâng cao trí thức cho cán bộ, chiến sĩ. Liên hoan văn hoá, văn nghệ trong lực lượng vũ trang bao gồm các hoạt động: làm thơ, viết văn, viết kịch, tấu, sáng tác ca khúc; làm báo tường, viết bài dự thi, tự tập hát, tập theo vai kịch cá nhân hoạt động văn hoá, văn nghệ vừa là chủ thể vừa là khách thể hoạt động; có thể diễn ra bất cứ ở đâu, vào bất cứ lúc nào, ở bất kể lứa tuổi nào theo kế hoạch hoạt động của đơn vị trong các dịp mừng Đảng, mừng xuân, chào mừng các ngày lễ lớn của đất nước, trên thao trường, bãi tập, giao lưu văn hoá, văn nghệ với các đơn vị bạn Hoạt động văn hoá, văn nghệ quần chúng theo tổ, nhóm: tổ kịch, tổ múa, nhóm ca hát, tổ báo tường, các tổ chuyên môn của nhà văn hoá, phòng Hồ Chí Minh Đây là môi trường tốt để phát hiện, bồi dưỡng hạt nhân văn hoá, văn nghệ. Liên hoan văn hóa, văn nghệ cần có sự liên kết nhiều đơn vị, liên kết quân dân. Phạm vi hoạt động tương đối lớn, thường được tổ chức “theo dòng lịch sử”, những ngày kỷ niệm lớn của đất nước, của quân đội, của địa phương và của đơn vị. Hoạt động văn hoá, văn nghệ ở quy mô này đòi hỏi có sự đầu tư, chỉ đạo chặt chẽ, chuẩn bị kỹ cả nội dung chương trình, các điều kiện bảo đảm. Liên hoan văn hoá, văn nghệ trong lực lượng vũ trang là hoạt động văn hoá, văn nghệ của các đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn, Quân khu và tương đương. Ngoài các hoạt động văn hoá, văn nghệ theo định kỳ (theo kế hoạch hướng dẫn của cấp trên), Trang - 27 -
- tất cả các buổi sinh hoạt, học tập của đơn vị đều có thể và nên xen kẽ hoạt động văn hoá, văn nghệ. Về thời lượng và nội dung, tuỳ theo tình hình thực tế mà vận dụng cho thích hợp. Ví dụ: đơn ca, tốp ca, ngâm (đọc) thơ, độc tấu nhạc cụ, tấu nói, kể chuyện chuyên đề Trong các loại hình liên hoan văn hoá, văn nghệ trong lực lượng vũ trang, liên hoan nghệ thuật (nghe, đọc, xem, sáng tác, biểu diễn ) là một trong những loại hình liên hoan có hiệu quả cao và sâu sắc nhất. Nghệ thuật là “ngôn ngữ của trái tim” cho nên khi đến trái tim người thưởng thức, nó có thể làm rung động những miền sâu xa nhất của con người. Kho tàng nghệ thuật đồ sộ của dân tộc Việt Nam, nghệ thuật cách mạng, trong đó có những tác phẩm về lực lượng vũ trang và chiến tranh giải phóng, bảo vệ Tổ quốc, cùng với nghệ thuật tiến bộ của thế giới là nguồn khai thác không bao giờ cạn để phục vụ công tác Đảng, công tác chính trị, góp phần bồi dưỡng, phát triển tư tưởng, tình cảm cho bộ đội. 2.1.2. Mục đích, vai trò của liên hoan văn nghệ trong lực lượng vũ trang Liên hoan văn hoá, văn nghệ trong lực lượng Công an và Quân đội là sự chuyển tải nội dung tư tưởng đến cán bộ, chiến sĩ. Nhằm tuyển chọn những hạt nhân, tác phẩm hay tham gia Hội diễn văn nghệ quần chúng trong lực lượng vũ trang và phát huy phong trào văn hoá văn nghệ quần chúng trong lực lượng vũ trang, góp phần nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ. Phong trào văn nghệ quần chúng đối với đơn vị là cần thiết vì văn nghệ là nguồn động viên, cổ vũ bộ đội hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Vì thế, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, hoạt động văn hóa, văn nghệ Quân đội, Công an đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của nền văn hóa, văn nghệ cách mạng, cổ vũ phong trào toàn dân đánh giặc, giữ vai trò trọng yếu trong việc bồi dưỡng chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, phát huy bản chất truyền thống tốt đẹp của Quân đội, Công an nhân dân, xây dựng con người mới trong lực lượng vũ trang mà tiêu biểu là hình ảnh của Bộ đội Cụ Hồ. Văn hóa, văn nghệ phản ánh sâu sắc, tinh tế, sinh động về đời sống con người, nói lên khát vọng của con người về các giá trị chân – thiện – mỹ, là một bộ phận của công tác tư tưởng, văn hóa. Do đó, tác động của hoạt động văn hóa, văn nghệ vào đời sống tinh thần của con người rất sâu sắc. Văn hóa, văn nghệ có vai trò quan trọng trong việc đào tạo con người phát triển toàn diện; đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn hóa vừa giúp mỗi cá nhân phát huy khả Trang - 28 -
- năng sáng tạo của mình và hoàn thiện nhân cách. Văn hóa, văn nghệ có nhiều chức năng, nhưng có ba chức năng quan trọng có tác động mạnh mẽ, bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm của con người một cách sâu sắc, đó là: giáo dục, nhận thức, thẩm mỹ. Ba chức năng này có vai trò quan trọng đối với việc xây dựng nhân cách Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới. Sự tác động của một môi trường văn hóa ở đơn vị cơ sở tới nhân cách bộ đội thông qua hệ thống các giá trị, các quan hệ, hoạt động và các thiết chế văn hóa tất cả hệ thống đó là “đường dẫn văn hóa” tới bộ đội bằng chính những hoạt động văn hóa của mỗi cá nhân và tổ chức quân sự, trong đó, hoạt động văn hóa, văn nghệ có vai trò quan trọng. Vai trò văn hóa, văn nghệ trong lực lượng vũ trang biểu hiện ở những nội dung cơ bản: * Hoạt động văn hóa, văn nghệ là một bộ phận của công tác tư tưởng có vai trò quan trọng xây dựng bản lĩnh chính trị, tinh thần tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ. Bản lĩnh chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng trong mọi hoạt động của cán bộ, chiến sĩ. Nâng cao bản lĩnh chính trị của cán bộ, chiến sĩ là yêu cầu quan trọng của công tác tư tưởng văn hóa trong giai đoạn hiện nay. Bồi dưỡng những phẩm chất tư tưởng, chính tị, trước hết phải đặt lên hàng đầu là giáo dục lý tưởng độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phấn đấu cho sự nghiệp dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nêu lý tưởng chính trị được chuyển hóa thành lý tưởng thẩm mỹ chuyển tải đến bộ đội thông qua các hoạt động văn hóa, văn nghệ thì chất cảm quan sinh động, cụ thể, giàu hình ảnh, ngôn ngữ sẽ làm cho việc học tập lý tưởng chính trị sẽ trở nên hấp dẫn sâu sắc, nhẹ nhàng hơn. Là một bộ phận của công tác Đảng, công tác chính trị, văn hóa, văn nghệ được coi là vũ khí sắc bén để tiến hành công tác giáo dục tư tưởng, chính trị đạt hiệu quả cao góp phần bồi dưỡng cho cán bộ, chiến sĩ thế giới quan khoa học cách mạng, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa, giúp họ kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nêu cao tinh thần quốc tế vô sản, sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hoạt động văn hóa, văn nghệ đã có tác động to lớn trong việc động viên tinh thần, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, góp phần thúc đẩy các hoạt động khác của cán bộ, chiến sĩ hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. * Hoạt động văn hóa, văn nghệ góp phần xây dựng phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, chiến sĩ thời kỳ mới. Trang - 29 -
- Hoạt động văn hóa, văn nghệ có tác động tích cực đến tình cảm và các mối quan hệ của cán bộ, chiến sĩ ở trong và ngoài đơn vị đóng quân. Hoạt động văn hóa, văn nghệ thiết thực, bổ ích như: ca múa nhạc, văn nghệ quần chúng với cách thể hiện đa dạng, chủ đề phong phú có sức lôi cuốn, hấp dẫn đối với bộ đội. Những buổi liên hoan văn nghệ với chủ đề: quê hương, đất nước, người mẹ, người chiến sĩ, giao lưu văn hóa thể thao với nhân dân địa phương nơi đơn vị đóng quân đã làm cho bộ đội thêm yêu quý quê hương, đất nước, nhận thức rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và làm tròn chữ “hiếu” với nhân dân, thực hiện tốt mối quan hệ đoàn kết “quân với dân như cá với nước”. Hoạt động văn hóa, văn nghệ giàu tính nhân văn, nhân ái, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, ấm áp nghĩa tình làm cho bộ đội cảm thấy gắn bó với đơn vị, với quê hương, đất nước, rút ngắn khoảng cách hẫng hụt khi họ chuyển từ môi trường xã hội vào môi trường quân sự đầy khó khăn, vất vả, kỷ luật nghiêm ngặt. Thông qua hoạt động văn hóa, văn nghệ góp phần xây dựng phẩm chất đạo đức, ý thức tự giác, tinh thần trách nhiệm của mỗi cán bộ, chiến sĩ; xây dựng, củng cố mối quan hệ giữa lãnh đạo chỉ huy và phục tùng; đồng chí, đồng đội vững chắc trên nguyên tắc dân chủ, bình đẳng, tôn trọng và yêu thương lẫn nhau. Quá trình sinh hoạt động văn hóa, văn nghệ ở đơn vị cơ sở đã liên kết các quân nhân thành một khối thống nhất, tạo nên sức mạnh tổng hợp và phát huy truyền thống đoàn kết quý báu của quân đội ta. Hoạt động văn hóa, văn nghệ là phương thức giáo dục đạo đức có hiệu quả và dễ thực hiện. Thông qua hoạt động của các thiết chế văn hóa: giáo dục truyền thống, đọc sách báo, tuyên truyền thông tin cổ động, diễn đàn tọa đàm, giao lưu văn hóa với nội dung nói về các tấm gương người tốt, việc tốt có tác động tích cực đến tư tưởng, tình cảm của bộ đội, giáo dục họ lối sống trong sáng, lành mạnh, giản dị, khiêm tốn, trung thực. Vừa qua, cuốn sách “Đặng Thùy Trâm”, “Mãi mãi tuổi hai mươi” của tấm gương hai anh hùng Đặng Thùy Trâm và Nguyễn Văn Thạc đã thu hút được đông đảo bạn đọc. Phong trào thi đua sống và học tập theo tấm gương của hai liệt sĩ phát động tại các cơ quan, đơn vị trong và ngoài quân đội cũng được nhiều bạn trẻ hưởng ứng, suy nghĩ và hành động theo chiều hướng tích cực, ý thức trách nhiệm với Tổ quốc được nâng cao. Hoạt động văn hóa, văn nghệ trong quân đội đã góp phần quan trọng trong việc giáo dục, xây dựng lối sống, đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ. * Hoạt động văn hóa, văn nghệ bồi dưỡng những phẩm chất năng lực thẩm mỹ, ngăn chặn và khắc phục những hiện tượng tiêu cực của xã hội, văn hóa phẩm xấu độc ảnh hưởng tới cán bộ, chiến sĩ. Trang - 30 -
- Hoạt động văn hóa, văn nghệ có chức năng định hướng và điều chỉnh phẩm chất nhân cách Bộ đội Cụ Hồ hướng tới những giá trị cao đẹp của cuộc sống. Bản chất của hoạt động văn hóa, văn nghệ là hoạt động sáng tạo và cảm thụ cái đẹp, đưa cái đẹp vào cuộc sống. Văn hóa, văn nghệ đem lại cái đẹp cho con người, đó là cái đẹp của cuộc sống xã hội, của tâm hồn, tình cảm và hành vi của con người, của thiên nhiên tươi đẹp , hoạt động văn hóa, văn nghệ thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ của con người. Thông qua hoạt đọng sáng tạo và thưởng thức văn hóa, văn nghệ, trình độ, năng lực và thị hiếu thẩm mỹ hiểu biết về chân – thiện – mỹ của cán bộ, chiến sĩ được nâng lên, giúp cho họ biết cảm thụ, đánh giá về cái đẹp trong cuộc sống, trong các hoạt động chiến đấu, lao động, học tập và công tác. Từ đó, họ có đủ bản lĩnh, trình độ và sự nhãy bén đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực. * Hoạt động văn hóa, văn nghệ góp phần nâng cao năng lực công tác, lao động, học tập, chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ. Xây dựng nhân cách Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới không chỉ bồi dưỡng, hoàn thiện và phát triển những phẩm chất tốt đẹp mà còn phải xây dựng cho họ có thể lực, sức khỏe. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ như: biểu diễn và thưởng thức văn nghệ, hoạt động thể dục thể thao (bóng bàn, bóng đá, cờ tướng, võ thuật ) không chỉ có tác dụng tăng cường thể chất mà còn rèn luyện những phẩm chất tinh thần: ý chí bền bỉ, lòng dũng cảm, linh hoạt, thông minh và tinh thần đồng đội. Ngoài tính giáo dục các hoạt động văn hóa, văn nghệ còn có tác dụng giải trí, xua đi cái căng thẳng, mệt mỏi của cán bộ, chiến sĩ sau một thời gian học tập, huấn luyện. Tóm lại, hoạt động văn hóa, văn nghệ trong lực lượng vũ trang có sự tác động sâu sắc tới đời sống của cán bộ, chiến sĩ trên nhiều phương diện: học tập, công tác, huấn luyện, chiến đấu, tình cảm, thẩm mỹ, xây dựng bản lĩnh chính trị, trình độ kỹ chiến thuật, năng lực tư duy hành động đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Thông qua quá trình sáng tạo và hưởng thụ văn hóa, văn nghệ, cán bộ, chiến sĩ được bồi đắp thêm tinh thần yêu đất nước, ý thức cộng đồng, niềm tự hào về lịch sử dân tộc, về truyền thống và bản sắc văn hóa quê hương, đất nước, của Đảng quang vinh và quân đội, công an anh hùng. Những giá trị đó thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm và trở thành điểm tựa tinh thần để cán bộ, chiến sĩ vững tin ở tương lai, hăng hái, phấn khởi, tích cực, sáng tạo trong chiến đấu, lao động, học tập và công tác. Xây dựng tinh thần đoàn kết gắn bó giữa cán bộ, chiến sĩ, định hướng những giá trị đạo đức, cổ vũ cán bộ, chiên sĩ vươn tới những giá trị chân – thiện – mỹ, đồng thời phê phán những biểu hiện sai trái, lệch lạc, những hành vi thiếu Trang - 31 -
- văn hóa, từ đó xây dựng đời sống tinh thần lành mạnh, phong phú tại đơn vị, tạo nên sức đề kháng có hiệu quả, ngăn ngừa sự xâm hại của các loại sản phẩm xấu độc. Đúng như Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định “Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng, nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội”. Hoạt động văn hóa, văn nghệ trở thành động lực, góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. 2.2. Cách thức tổ chức liên hoan văn hóa, văn nghệ ở đơn vị 2.2.1. Chuẩn bị liên hoan Để tổ chức liên hoan văn nghệ, đơn vị cần phải xây dựng một kế hoạch hoạt động. Tuy nhiên, kế hoạch đó phải căn cứ vào hướng dẫn của cấp trên, kế hoạch chương trình hoạt động của đơn vị, tình hình nhiệm vụ công tác của đơn vị và sự kiện chính trị xã hội trong nước, thực tế lực lượng và cơ sở vật chất để lập kế hoạch tổ chức liên hoan văn nghệ. Nội dung kế hoạch phải xác định rõ: mục đích, yêu cầu, chủ đề, thể loại, lực lượng tham gia, biện pháp thực hiện, thời gian (luyện tập, biểu diễn); người phụ trách; địa điểm. Nội dung của kế hoạch tổ chức phải thông qua cấp trên; quán triệt, động viên, định hướng và giao nhiệm vụ cho các lực lượng nồng cốt, đơn vị sáng tác và tập luyện. Chú ý là không được trùng các tiết mục, các đơn vị phải có số tiết mục bằng nhau và thời gian bằng nhau. Lựa chọn thể loại và luyện tập theo đăng ký. Đơn vị hiệp đồng với đơn vị bạn và địa phương (kết nghĩa ) về nội dung, thể loại, thời gian và địa điểm. Ấn định thời gian, sắp xếp chương trình và niêm yết chương trình, bảo đảm xen kẽ tiết mục giữa các đơn vị, địa phương, các thể loại tạo nên tính phong phú hấp dẫn, các tiết mục hay, đặc sắc nên sắp xếp sau cùng; thời gian khoảng 1h30phút đổ lại. Bồi dưỡng người dẫn chương trình: có thể là bản thân hoặc một người nào đó có năng khiếu. Người dẫn chương trình cần nắm: thứ tự các tiết mục, nội dung các tiết mục, không nên giải thích nhiều, lời giới thiệu phải hấp dẫn, ngắn gọn. Chuẩn bị cơ sở vật chất cho buổi liên hoan: bàn ghế, phông, loa, đài, ánh sáng, đàn, nhạc, trang phục Trang - 32 -
- Thông báo thời gian, niêm yết chương trình lần cuối cùng, chuẩn bị đặc điểm hiệp đồng chặt chẽ giữa các bộ phận, đơn vị và địa phương, phân công cho các bộ phận để chuẩn bị, thống nhất trang phục, thứ tự, vị trí ngồi của các đơn vị. Trước khi biểu diễn cần có một buổi khớp nhạc, chạy chương trình thử. 2.2.2. Tổ chức liên hoan Kiểm tra lại toàn bộ công tác chuẩn bị, nhất là về sân khấu (ánh sáng, điện, âm nhạc, sàn diễn ); khách mời, đơn vị bạn, trang phục diễn, các bộ phận bảo đảm phục vụ Tập trung đơn vị ổ định tổ chức Tuyên bố lí do, giới thiệu đại biểu (nếu có) Người dẫn chương trình lên điều khiển liên hoan theo chương trình đã ấn định. Chú ý, nếu vì lí do nào mà diễn viên không đến kịp thì người dẫn chương trình đẩy các tiết mục sau lên, không để sân khấu chết, bảo đảm buổi liên hoan không bị gián đoạn. Người dẫn phải linh hoạt khéo léo, lời lẽ sâu sắc ngắn gọn. Căn cứ thời gian nhất định kết thúc buổi liên hoan, tổ chức thu dọn vật chất (tiết mục cuối cùng cần lựa chọn xem tiết mục nào). 2.2.3. Kết thúc buổi liên hoan Rút kinh nghiệm về công tác tổ chức, thể loại, nội dung, trách nhiệm (nếu có chấm điểm thì ta làm trước). Lựa chọn một số tiết mục, thể loại có chất lượng để bổ sung, điểu chỉnh luyện tập để dự thi cấp trên. Trong rút kinh nghiệm thì chỉ có đại biểu, cấp trên, địa phương, còn lực lượng ở các đơn vị thì về thực hiện theo kế hoạch. Nếu tổ chức thi đánh giá kết quả thì ta phải phổ biến trước xác định rõ quy chế: về nội dung, thể loại, thời gian, thưởng, phạt, cách tính điểm cụ thể và thành lập ban giám khảo (thường cấp trên và các đồng chí ở đơn vị khác). Trao phần thưởng trước khi tuyên bố bế mạc: 1. Tiết mục tự biên 2. Thể loại đặc sắc 3. Tập thể Trang - 33 -
- 2.3. Các trò chơi quân sự Tổ chức các trò chơi quân sự là một hoạt động thiết thực bổ ích, phù hợp với tâm lí, nhu cầu tuổi trẻ. Thông qua các trò chơi quân sự để rèn luyện tính kiên trì, dẻo dai của sức khoẻ, trí thông minh, khả năng phản ứng linh hoạt khi có tình huống xảy ra, đồng thời góp phần bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho cán bộ chiến sĩ trong đơn vị. Bên cạnh đó, việc tổ chức các trì chơi quân sự trong các buổi liên hoan văn nghệ ở đơn cơ sở lại càng góp phần làm cho buổi liên hoan thêm vui tươi, tràn đầy sức sống hơn, không khí của buổi liên hoan trở nên sinh động và hào hứng hơn. Cách tổ chức gọn, tiện lợi. Có thể tổ chức trong bất kỳ điều kiện thời gian, không gian, dù chỉ vài ba phút, trong một không gian chật hẹp (như: trong phòng, ngoài trời, trên thao trường bãi tập), ít người hay nhiều người đều có thể tổ chức và phát huy hiệu quả tốt. Tuy nhiên, việc áp dụng các trò chơi này còn phải tùy thuộc vào văn cảnh của các buổi liên hoan không phải các buổi liên hoan nào cũng áp dụng được. Căn cứ theo điều kiện không gian, thời gian, có thể phân chia trò chơi quân sự thành các nhóm: nhóm trò chơi trong phòng và nhóm trò chơi ngoài trời, nhóm trò chơi ban đêm. Nếu căn cứ theo mục đích, tác dụng của trò chơi, thì có thể phân thành các nhóm: nhóm trò chơi rèn luyện trí thông minh, nhóm rèn luyện khả năng phản ứng linh hoạt và nhóm trò chơi rèn luyện về sức khoẻ. Người dẫn chương trình cần phải linh hoạt khi tổ chức các trò chơi quân sự trong các buổi liên hoan văn nghệ ở đơn vị cho phù hợp với văn cảnh. 2.3.1. Nhóm trò chơi rèn luyện khả năng phản ứng linh hoạt 2.3.1.1. Trò chơi Ai nhanh hơn ai Đây là trò chơi rèn luyện người chơi khả năng kết hợp giữa tai nghe, mắt nhìn, khả năng phản ứng linh hoạt để không bị nhầm. Nội dung và cách chức chơi: Tập trung những người chơi về một phía (đứng hoặc ngồi) theo hình chữ u hay bán nguyệt. Người duy trì đứng về phía trước, nên chọn nơi đứng thuận tiện để mọi người dễ quan sát (nếu trong hội trường, lớp học có thể đứng trên bục giảng, nếu ở ngoài thao trường hay bãi tập thường chọn nơi cao hơn) tiến hành giới thiệu trò chơi, hướng dẫn cách thức chơi, cử trọng tài, tổ chức chơi thử một vài lần, sau đó tiến hành cuộc chơi. Chú ý: Việc hướng dẫn và giới thiệu trò chơi càng hấp dẫn bao nhiêu, thì khi chơi càng tạo không khí sôi nổi bấy nhiêu. Có thể hướng dẫn cách chơi thử như sau: Trang - 34 -
- Quản trò hô "Nháp đây - Nháp đây" và giơ tay lên cao. Mọi người hô và bắt trước làm theo (miệng cũng hô "nháp đây - nháp đây" và giơ tay lên cao). Nếu số người chơi hô ít và chưa đều, tức là họ chưa hào hứng chơi. Do vậy, quản trò cần duy trì hô tập lại, bao giờ hô to, đều và quan sát nét mặt của những người chơi thực sự thấy họ hứng khởi muốn biết, mới hướng dẫn chơi thử. Quản trò hô "Ngắn", đồng thời tay đưa lại gần nhau (khoảng cách từ 10cm20cm). Mọi người bắt trước hô và làm theo. Quản trò tiếp tục hô: "Dài", đồng thời hai tay dang rộng ra. Những người chơi lại bắt trước hô và làm theo Quản trò hô tiếp: "Cao", đồng thời hai tay đưa lên. Mọi người hô và làm theo. Quản trò hô tiếp: "Thấp", đồng thời hai tay đưa nhanh lại gần nhau hơn. Mọi người hô và làm theo. Cứ như vậy, quản trò hô và làm đúng một vài lần, rồi hô nhanh dần để những người chơi thực sự cuốn hút vào miệng hô tay làm của mình. Bất chợt, quản trò làm lệch đi (hô đi một đằng, tay làm một nẻo). Chắc chắn sẽ có nhiều người chơi mải hô theo quán tính bắt trước và làm sai. Ví dụ: Quản trò hô "dài" nhưng tay lại để theo kiểu của động tác của "Cao" hay "Thấp". Những lần chơi, bắt những người sai phạm nhảy lo cò hoặc hát, múa một bàn; có thể tổ chức ban nhạc "bất đắc dĩ" (gồm 1 người làm ca sĩ, một người đánh đàn, một người đánh trống, một người thổi kèn, số còn lại nhảy múa phụ hoạ) 2.3.1.2. Trò chơi Hoa nở hoa xòe Nội dung và cách thức chơi: Quản trò hướng dẫn nội dung và cách thức chơi: gồm tên trò chơi, nội dung trò chơi, cách thức chơi, những điểm chú ý, các lỗi sai phạm và cách sử phạt. Sau đó hướng dẫn chơi thử. Quản trò hô "Hoa nở", đồng thời tay đưa lên (các ngón tay bàn tay chúm lại hình nụ hoa bắt đầu hé nở) Mọi người bắt trước hô và làm theo. Quản trò hô tiếp "Hoa xòe", đồng thời tay xoè ra như cánh hoa đang bung nở. Mọi người bắt trước hô và làm theo. Trang - 35 -
- Quản trò hô tiếp "Hoa cụp", đồng thời tay chụm lại, gập cổ tay xuống như hình bông hoa bị héo. Mọi người bắt trước hô và làm theo. Cứ như vậy, quản trò hô và làm đúng một vài lần, sau đó hô nhanh dần và bất ngờ thay đổi kiểu hô. Ví dụ: Quản trò, miệng hô "Hoa nở" nhưng lại làm động tác "hoa xoè" hay "hoa cụp". Lưu ý: trò chơi này không dễ mắc lừa trò "ai nhanh hơn ai", vì vậy quản trò cần phải kết hợp giữa hô nhanh và làm nhanh. 2.3.1.3. Trò chơi Mắt – Mồm – Tai Nội dung và cách thức tổ chức: Cách thức tổ chức như các trò chơi trên. Quản trò hô " Mắt - Mồm - Tai, Mắt, Mắt, Mắt - Mồm - Tai" (hát theo điệu"Cắc cùm cum"), đồng thời ứng với mắt - mồm tai, thì tay phải sờ đúng cái đó. Mọi người bắt trước hô và làm theo. Quản trò hô một vài lần cho mọi người quen, khi thấy mọi người đã quen và thực sự cuốn hút, thì đổi lại câu hát cuối thành câu hát khác. Ví dụ: "Mắt - Mồm - Tai" Mắt, Mắt, Mắt - Mồm - Tai" được đổi thành " Mắt - Mồm - Tai, Mắt, Mắt, Mắt - Mồm - Răng" nhưng tay lại để vào tai như cũ. Có thể đổi từ cuối thành nhiều câu khác (như: vai, răng, mông ) Lưu ý: Khi hô cái gì, tay phải để vào cái đó. Khi đổi, chỉ được đổi từ cuối câu. 2.3.2. Nhóm trò chơi rèn luyện trí nhớ thông minh 2.3.2.1. Trò chơi Truyền lệnh chính xác Nội dung và cách thức tổ chức Trò chơi này, mục đích để rèn luyện trí nhớ của quân nhân khi nhận một nhiệm vụ nào đó, trong một khoảng thời gian gấp, bảo đảm yếu tố bí mật cao. Địa điểm chơi thường chọn nơi có khoảng trống rộng (như sân đơn vị, thao trường ). Những người chơi được chia thành hai đội bằng nhau. Mỗi đội đứng theo hàng dọc, mỗi người trong đội cách nhau từ 2m - 3m. Mỗi đội cử một người làm đội Trang - 36 -
- trưởng và một người làm đội phó; đội trưởng đứng ở đầu đội hình, đội phó đứng ở cuối đội hình. Trước khi chơi, quản trò chuẩn bị sẵn hai tờ lệnh (nội dung như nhau). Tờ lệnh có nội dung ngắn gọn, nhưng khó nhớ (khoảng từ 4 - 6 dòng) Ví dụ : “Tiểu đội X có nhiệm vụ : đến giờ H xuất phát đi theo con đường đất đỏ, đi khoảng 800m gặp một ngã ba, rẽ trái, đi tiếp đến ngôi chùa Y, dừng lại bắt liên lạc với dân quân địa phương (Mật khẩu: hỏi Bắc Ninh, đáp Bắc Giang), sau đó đợi lệnh tiếp theo. Hai đội trưởng nhận lệnh, đọc trong vòng 1 phút, rồi thu lại lệnh. Quản trò ra lệnh: ''Hai đồng chí về truyền lệnh xuống dưới cuối hàng!". Hai đội trưởng nhanh chóng về truyền lệnh cho người số 1, người số 1 nhận lệnh và truyền cho người thứ hai Cứ như vậy, truyền lệnh xuống dưới cuối hàng. Đội phó là người nhận lệnh cuối cùng, phải ghi toàn bộ nội dung tin mà mình nhận được và nhanh chóng chạy lên báo cáo. Đội nào truyền lệnh nhanh nhất và bảo đảm chính xác hơn, đội đó sẽ thắng, đội thua sẽ bị nhảy lò cò hoặc phải cõng đội thắng. Chú ý: Khi truyền lệnh, không được nói to và bỏ cách số. Nếu đội nào nói to và bỏ cách số là phạm luật và không được tính phải truyền lại. 2.3.2.2. Trò chơi tìm người chỉ huy Nội dung và cách thức tổ chức Đây là kiểu trò chơi đòi hỏi tính thông minh, sự phán đoán nhanh nhạy của người chơi. Thường được tổ chức trong các giờ nghỉ giải lao khi học ngoài thao trường. Những người chơi đứng thành vòng tròn, độ rộng của vòng tròn tuỳ thuộc vào số lượng người chơi và không gian. Nhưng không lên quá nhỏ (thường từ 5m trở lên) . Một người được cử làm thám báo, sau đó bịt mắt thám báo và phân công một người làm chỉ huy (không để cho thám báo biết). Người chỉ huy có nhiệm vụ: làm một hành động nào đó bí mật không cho thám báo biết (như: vỗ tay, khoanh tay trước ngực, chắp tay sau, giơ tay lên cao ) để mọi người liếc mắt quan sát và làm theo. Khi đã thống nhất chỉ huy và cách chơi, tiến hành cởi bỏ băng cho thám báo và cuộc chơi được bắt đầu. Nếu chỉ huy sơ ý mất cảnh giác, để thám báo phát hiện được, chỉ huy đó phải thay làm thám báo. Trang - 37 -
- Lưu ý: Đây là trò chơi được diễn tả bằng hàng động, nên tuyệt đối không được ai nói. Nếu thám báo không tìm thấy, muốn xin thôi phải nhảy lò cò vài vòng. Người chỉ huy phải chớp lấy thời cơ để ra ám hiệu chỉ huy được bảo đảm yếu tố bí mật. 2.3.2.3. Trò chơi thi bắt chim trong lồng Nội dung và cách tổ chức Đây là trò chơi thường hay được tổ chức trong phòng, xen kẽ các nội dung của một buổi sinh hoạt văn hoá văn nghệ của đơn vị. Chuẩn bị một cái lồng chim nhỏ. Bên trong gấp những con chim bằng giấy hoặc bằng vải, mỗi con chim có ghi tên của các loài chim có trong các bài hát (như: chim Đa Đa, chim Khuyên, chim bồ câu, chim sáo ) Khi chơi, người lên bắt chim thò tay vào lồng, bắt được con chim nào phải hát bài có tên con chim đó. Ai bắt được nhiều và hát được nhiều sẽ thắng, ai không hát được sẽ bị loại trực tiếp. Có thể tổ chức thi giữa hai đội với nhau, để tăng thêm tính cộng đồng hỗ trợ lẫn nhau trong đội. 2.3.3. Nhóm trò chơi rèn luyện kiên trì, dẻo dai của sức khỏe Đây là nhóm trò chơi mục đích chính để rèn luyện tính kiên trì, sức dẻo dai của bộ đội. Do vậy, thường được tổ chức ở ngoài trời, nhất là trên theo trường bãi tập, trong các giờ nghỉ giải lao của buổi tập. 2.3.3.1. Trò chơi chim về tổ Nội dung và cách thức chơi Trò chơi này, thường được tổ chức ngoài trời, nơi có vị trí rộng thoáng. Những người chơi được chia làm những tổ chim, xếp thành vòng tròn, mỗi tổ chim gồm ba người (hai người đứng bắt tay vào nhau tạo thành tổ, một người đứng trong vòng tay của hai người đóng giả làm những chú chim). Quản trò và một vài người lẻ đứng ở giữa vòng tròn. Sau khi đã xếp xong và hướng dẫn cách chơi, quản trò thổi một hồi còn dài, các chú chim trong các tổ và cả những con chim lẻ phải bay ra ngoài đi tìm tổ mới. Khi hồi còi kết thúc, chú chim nào chưa tìm thấy tổ mới bị thừa ra sẽ bị phạt. Chú ý: trò chơi này khi bắt đầu chơi phải xếp dư ra một vài người chưa có tổ đứng ở giữa. Những tổ nào có hai chú chim là sai quy định. Trang - 38 -
- 2.3.3.2. Trò chơi bảo vệ cờ Nội dung và cách thức tổ chức Chuẩn bị một cờ đoàn hoặc cờ Tổ quốc có cán. Đội hình xếp vòng tròn, điểm số từ một đến hết. Cử một người đứng giữa cầm cờ, sao cho lúc nào cờ cũng ở tư thế thẳng đứng. Quản trò phát lệnh gọi bất ngờ một số trong hàng (có thể gọi số hay gọi tên) ví dụ: “Đồng chí Đức, ra bảo vệ cờ”. Ngay lập tức, người được gọi nhanh chóng hô "Có tôi" và chạy ra đỡ cờ, người cầm cờ khi nghe dứt lệnh cũng nhanh chóng buông cán cờ và chạy vào trong hàng. Nếu cờ đổ, phải thay thế người giữ cờ. Chú ý: Ai được gọi ra giữ cờ, phải hô “có tôi” và nhanh chóng chạy đến giữ cờ, nếu giữ được cờ, sẽ có quyền chỉ định bất kỳ người nào trong hàng ra vị trí giữ cờ. Người giữ cờ chỉ được bỏ cờ ra khi nghe dứt lệnh, không được bỏ ra sớm. 2.3.3.3. Trò chơi Đoàn kết Đội hình xếp vòng tròn. Quản trò hô “đoàn kết - đoàn kết” Những người chơi hô: “kết mấy”? Quản trò: kết hai (hoặc kết ba, kết năm ) Những người chơi nhanh chóng chạy vào tìm đôi để kết theo lệnh của người duy trì. Ai thừa ra sẽ bị phạt. Trang - 39 -
- Chương 3. XÂY DỰNG VÀ HOẠT ĐỘNG PHÒNG HỒ CHÍ MINH 3.1. Tổ chức hoạt động phòng Hồ Chí Minh 3.1.1. Vị trí, chức năng và nhiệm vụ của phòng Hồ Chí Minh 3.1.1.1. Vị trí Trong quy chế phòng Hồ Chí Minh của Tổng cục Chính trị số 261/QC-CT ban hành ngày 02/02/1993 xác định rõ: Phòng Hồ Chí Minh trong quân đội nhân dân Việt Nam là nơi tổ chức hoạt động, sinh hoạt văn hoá tinh thần cho cán bộ chiến sĩ ở đơn vị cấp tiểu đoàn và tương đương, góp phần vào công tác giáo dục ở đơn vị. Mọi hoạt động của phòng Hồ Chí Minh đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ tiểu đoàn, trực tiếp là phó tiểu đoàn trưởng về chính trị, chịu sự hướng dẫn nghiệp vụ chuyên môn của cơ quan tuyên huấn cùng cấp và cơ quan nghiệp vụ cấp trên. Hoạt động của phòng Hồ Chí Minh lấy tổ chức Đoàn TNCSHCM ở đơn vị làm nòng cốt hoạt động. Phòng Hồ Chí Minh được đặt ở những nơi trung tâm, được trang trí đẹp bởi panô, khẩu hiệu, tranh ảnh trong nội thất, tạo sự tác động tích cực đến tình cảm, góp phần hình thành phẩm chất nhân cách Bộ đội Cụ Hồ, người chiến sĩ công an nhân dân. Các đơn vị còn chú trọng tạo dựng một khung cảnh khang trang ngoài Phòng Hồ Chí Minh như đường đi lối lại sạch đẹp, vườn hoa, cây cảnh, bảng tin, sân bãi thể dục thể thao làm cho môi trường trong đơn vị tăng thêm tính thẩm mỹ, văn hóa. Chính những nét đẹp ấy đã tác động đến nếp sống văn hóa của cán bộ, chiến sĩ. Các tổ chức vui chơi giải trí lành mạnh trong Phòng Hồ Chí Minh đã góp phần tạo nên lối sống, nếp sống văn minh trong đơn vị. Điều đó, phù hợp với yêu cầu chính quy của quân đội; tăng thêm vẻ đẹp mới trong nếp sống, lối sống của quân nhân, làm cho bộ đội thêm yêu mến, tự hào về đơn vị. 3.1.1.2. Chức năng Tổ chức thực hiện các hoạt động văn hóa, văn nghệ cơ sở ở đơn vị nhằm đảm bảo đời sống văn hóa tinh thần cho bộ đội. Tổ chức cho bộ đội hoạt động văn hóa và sáng tạo các giá trị văn hóa. Bằng các biện pháp, phương tiện văn hóa, thông qua các cơ quan, hệ thống thiết chế văn hóa để đưa các giá trị văn hóa đến với bộ đôi (sách, báo, phim ảnh, văn học nghệ thuật ), góp phần củng cố trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội, tích cực phòng, chống “Diễn biến hòa bình” và sự thẩm lậu, thâm nhập của Trang - 40 -



