Tài liệu Văn học Trung Quốc - Phùng Hoài Ngọc
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Văn học Trung Quốc - Phùng Hoài Ngọc", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
tai_lieu_van_hoc_trung_quoc_phung_hoai_ngoc.pdf
Nội dung text: Tài liệu Văn học Trung Quốc - Phùng Hoài Ngọc
- VHTQ -PHN ĐẠI HỌC AN GIANG KHOA SƯ PHẠM BỘ MÔN NGỮ VĂN Phùng Hoài Ngọc TÀI LIỆU VĂN HỌC TRUNG QUỐC (Văn học Châu Á 1 và Chuyên đề VH TQ hiện đại) Mã số hp: HOL 502 Đại học Sư phạm Ngữ văn 中 国 文 学 Biên soạn theo chương trình tín chỉ Lưu hành nội bộ AN GIANG 2011 1
- VHTQ -PHN MỤC LỤC VĂN HỌC TRUNG QUỐC NỘI DUNG Trang Mục lục Lời giới thiệu Bài thơ đề từ Sơ lược lịch sử Trung Quốc Chương 1 – Văn học trước Tần 1. Khái quát văn học dân gian 2. Thần thoại, truyền thuyết 3. Kinh thi 4. Khuất Nguyên và “Ly tao” 5. Bách gia chư tử và “Luận ngữ” Ðọc thêm 1 Văn học Hán: Tư Mã Thiên với “Sử ký”, nhà thơ Ðào Tiềm với thơ, từ, nhà lý luận Lưu Hiệp với “Văn tâm điêu long”. Chương 2. Ðường thi Khái quát: Bối cảnh lịch sử xã hội. Đặc điểm thơ Ðường . Ba nhà thơ tiêu biểu Lí Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị Những lời bình chọn lọc về Thơ Đường Không gian nghệ thuật; Thời gian nghệ thuật Luyện tập thực hành. Ðọc thêm 2 Văn học Tống: Từ và Tô Ðông Pha. Hai nhà tạp kịch thời Nguyên: Quan Hán Khanh, Vương Thực Phủ. Chương 3. Tiểu thuyết cổ điển Minh Thanh Tam quốc diễn nghĩa Thủy hử truyện Đông Chu liệt quốc Tây du ký Liêu trai chí dị Nho lâm ngoại sử Hồng lâu mộng Chương 4 . Văn học hiện đại và Lỗ Tấn Chương 5. Quách Mạt Nhược, Mao Thuẫn, Ba Kim, Lão Xá và Tào Ngu Chương 6. Nữ sĩ Băng Tâm và tập thơ Phồn tinh Chương 7. Tiểu thuyết đương đại 7.1 Một số chủ đề truyện ngắn đương đại tiêu biểu 7.2 Tiểu thuyết thời kỳ Đổi Mới và nhà văn Mạc Ngôn 7.3 Số phận của chủ nghiã hiện thực XHCN ở Trung Quốc Chương 8. Kim Dung và Quỳnh Giao 2
- VHTQ -PHN Tổng kết văn học Trung Quốc. Đọc thêm 3. Văn học sử Trung Quốc qui loại Đọc thêm 4. Mối quan hệ gắn bó, song hành của văn học Trung Quốc- Việt Nam PHỤ LỤC Phụ lục 1. Bảng đối chiếu niên đại Việt Nam - Trung Quốc Phụ lục 2. Danh sách 10 nhân vật văn hóa bình chọn Phụ lục 3 Danh mục khóa luận tốt nghiệp về VH Trung Quốc TÀI LIỆU THAM KHẢO 3
- VHTQ -PHN Lời nói đầu Trung Quốc có nền văn học phong phú lâu đời, liên tục 5 nghìn năm. Ngay từ trước công nguyên (thời cổ đại) nền văn học này đã có những thành tựu rực rỡ như thần thoại, Kinh Thi, văn xuôi triết học, Sở từ, Sử ký Sang thời trung đại, Phú thời Hán, Thơ thời Đường, Từ thời Tống và tiểu thuyết thời Minh, Thanh là các thành tựu văn học rực rỡ. Nhà văn Lỗ Tấn đóng vai trò mở đầu nền văn học hiện đại. Sau đó văn học hiện đại của cách mạng vô sản diễn ra khá phức tạp, chỉ có được thành tựu đáng kể nhất từ giai đoạn Đổi Mới trong hai thập kỷ cuối thế kỉ 20. Văn học Trung Quốc cổ và trung đại đã có ảnh hưởng khá rộng rãi, liên tục và sâu sắc tới văn học Việt Nam và công chúng Việt Nam. Trong thời kỳ phong kiến, mối quan hệ ảnh hưởng đó tuy mang tính chất áp đặt nhưng các nhà thơ nhà văn Việt Nam với bản lĩnh vững vàng đã tiếp thu tinh hoa văn hóa văn học Trung Quốc một cách sáng tạo, góp phần xây dựng nền văn học của dân tộc Việt Nam. Văn học Trung Quốc hiện đại vẫn có ảnh hưởng tới nền văn học Việt Nam hiện đại, nhất là trong thời kỳ Đổi mới. Nghiên cứu học tập Lịch sử văn học Trung Quốc, chúng ta có thêm một góc nhìn nền văn học Việt Nam thấu đáo hơn. Mặt khác tăng cường sự hiểu biết nước láng giềng gần gũi trong hiện tại và tương lai. 2009-2011 Biên giả 4
- VHTQ -PHN Đề từ TRUNG HOA thơ Lưu Quang Vũ Gió bấc thổi về từ xứ xa Bên kia núi cao sừng sững Trung Hoa Trung Hoa của tuổi thơ Tiếng ngựa hí đêm khuya Ðoàn xe Chiến quốc đi trong tuyết Rũ rượi tóc râu, đao thương sáng quắc Não bạt thanh la xủng xoẻng Dữ tợn mà sầu thương. Bờ sông trắng hoa dương Chia ly buồn đứt ruột Dậm chân hát mà từ biệt Ðường Thi vằng vặc Ào ạt Hoàng Hà Quán núi đêm hàn rượu nóng Vạt áo xanh giang hồ Những mắt xếch Võ Tòng Những đầm sâu Thủy Hử Người đi như nước, đông như cỏ Sáng suốt và tối tăm Uyên thâm mà nhẹ dạ Tin ngay mọi điều, dám làm tất cả Cái người Tàu kỳ lạ ngồi dầm củ cải giữa đêm khuya. . . Lòng kiên nhẫn của người trải ra trên mặt đất Ở bất cứ nơi nào có khói Trung Hoa Nét bút vờn như cánh hạc vút qua Lóng lánh tay ngà rượu đỏ Bể thịt rừng xương Kiệt Trụ Những hôn quân bạo chúa Những hoàng hậu hồ tinh Những anh gàn và những triết nhân hái rau vi, mơ giấc bướm Trung Hoa Tây Thi, Trung Hoa Lý Bạch Cố cung xưa bao đảo lộn kinh hoàng Như sóng biển không ngừng một phút Dưới liễu xanh, lũ qủi đổi thay màu Tiếng chiêng trống, tiếng loa gào thét 5
- VHTQ -PHN Chín trăm triệu người ồn ào mà nín lặng Trung Hoa muốn gì ? Nhân dân đi về đâu ? Ðêm nay Trang sách tuổi thơ đưa tôi gặp lại Gian nhà nhỏ ven thành Vách lủng lẳng cỏ khô, lá thuốc Một người đầu trọc Áo bông đen khung vải cũ sờn Một người không râu lừng lững ngồi im Giữa hũ lọ, mực tàu, chăn rách Chồng sách dày, đĩa đèn dầu leo lét Tuyết rơi trắng xóa ngoài thềm Ông Tư Mã Thiên một mình ngồi thức Ông Tư Mã Thiên mắt nhìn sáng quắc hiểu đời, hiểu nước, hiểu dân mình Một ông Tư Mã Thiên Ngàn ông Tư Mã Thiên Muôn ngòi bút uy nghiêm Ðang ghi sâu mọi việc Hồn bạo chúa nghiến răng trong bụi cát mọi ngai vàng, theo lửa hóa tro than . . . Trung Hoa khổng lồ, Trung Hoa đau thương Mai tan hết mây mù mưa xám Trung Hoa Võ Tòng, Trung Hoa Lý Bạch lại là Trung Hoa từ tuổi nhỏ ta yêu Hà Nội 1974 - L Q V 6
- VHTQ -PHN LỊCH SỬ TRUNG QUỐC SƠ LƯỢC I - Từ thượng cổ đến nhà Tần (cổ đại) 1. Thời thượng cổ gọi là Tam hoàng, Ngũ đế (thần thoại) 2. Thời tiền sử: ba vua Nghiêu, Thuấn, Vũ (truyền thuyết) 3. Vua Vũ lập ra quốc gia đầu tiên: nhà Hạ / Hoa Hạ (tk 21- 17 tr.CN) chế độ nô lệ, bỏ bầu cử, bắt đầu cha truyền con nối. Nhà Ân giai đoạn cuối cùng của nhà Hạ. Đời chót là vua Kiệt mê nàng Muội Hỉ, tàn ác, bị lật đổ, nhà Thương (Thang) nổi lên thay thế. 4. Nhà Thương: Vua Thành Thang đổi mới mạnh mẽ. Đời chót là vua Trụ mê nàng Đắc Kỉ, tàn bạo hủ bại. Nô lệ theo thủ lĩnh họ Chu nổi dậy khởi nghĩa, lật đổ nhà Thương, lập ra nhà Chu. 5. Nhà Chu từ thế kỷ 11 tr CN đến thế kỷ 3 trCN, gồm 2 giai đoạn: 5.1.Tây Chu: Thế kỷ 11 đến năm 778 tr.CN, có hơn 1000 nước chư hầu. Vua Chu Bình Vương mê nàng Bao Tự, chư hầu bất phục nhà Chu suy giảm quyền lực 5.2. Đông Chu: 770 đến 256 tr.CN, thủ đô dời từ Tây sang phía Đông. gồm hai giai đoạn: Xuân Thu: 770 – 455 tr CN, bước vào chế độ sơ kỳ phong kiến. Hình thành 100 chư hầu, 14 nước lớn, rồi đến 5 nước xưng bá vương (ngũ bá: Trịnh, Tấn, Tần, Tề, Triệu) ngày càng lộng quyền lấn át hoàng đế nhà Chu Chiến quốc: 455-221 tr.CN, bảy nước bá vương (thất bá tranh hùng) gồm Tề, Sở, Hàn, Triệu, Ngụy, Tần, Yên. Cuối cùng, nhà Tần đánh bại 6 nước bá vương, lên ngôi hoàng đế thay nhà Chu, thống nhất đất nước năm 221 tr.CN. II- Từ nhà Hán đến Mãn Thanh (trung đại) Hán (Tây Hán 206 tr. CN đến 24 CN còn gọi Tiền Hán. Đông Hán (25 đến 220) còn gọi Hậu Hán và Tam quốc (220-280) Ngụy Tấn (265-420) Bắc triều: Ngụy Tấn (420-581) Nam triều: lục quốc Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần, Ngô. Tùy (581-617) Đường (618-907) Ngũ đại thập quốc (907-960) Tống (Bắc Tống, Nam Tống 960-1279) Nguyên (1271-1368) Minh (1368-1644) Thanh (1644-1911) Thuận Trị, Khang Hi, Ung Chính, Càn Long, Gia Khánh, Hàm Phong, Đồng Trị, Từ Hi, Quang Tự, Phổ Nghi. III- Từ Cách mạng Tân Hợi đến nay (hiện đại) Trung Hoa dân quốc 1911-1949 chuyển ra Đài Loan đến nay Trung Hoa nhân dân cộng hòa quốc, từ ngày 1.10. 1949 đến nay Biên giả 7
- VHTQ -PHN PHẦN II. NỘI DUNG CHƯƠNG I VĂN HỌC TRƯỚC TẦN 1 – KHÁI QUÁT Trung Quốc có một nền văn học phong phú đặc sắc vào bậc nhất trên thế giới. Văn học dân gian Trung Hoa thời cổ đại chắc chắn rất phong phú nhưng chỉ số ít còn giữ được đến ngày nay, trong số đó có một số ghi trong sách cổ hoặc các đồ vật cổ. Tiêu biểu nhất trong kho tàng thơ ca cổ đại là tập Kinh Thi gồm khoảng 300 bài thơ có vị trí đặc biệt trong nền văn học và giáo dục Trung Quốc. Thần thoại và truyền thuyết được ghi trong sách cổ cũng là văn học truyền miệng trong thời kì xã hội thị tộc. Nội dung được ghi chép thường đơn giản. Sau này, đọc các bản phóng tác của nhà văn hiện đại thì câu chuyện phong phú kỳ thú hơn. Ví dụ các truyện Nữ Oa vá trời, Hậu Nghệ bắn mặt trời, Hằng Nga lộng nguyệt, Tinh Vệ lấp biển, Ngưu lang Chức nữ, vua Vũ trị thủy .v.v Thần thoại Trung quốc tìm cách giải thích các hiện tượng tự nhiên, như mặt trời, mặt trăng mây gió đến cây cỏ, chim muông. Ðặc biệt những truyện nói về nguồn gốc trái đất và muôn loài đã được hư cấu thật tài tình. Gạt bỏ những chi tiết hoang đường, chúng ta hiểu được gần đúng tình cảnh người thời nguyên thuỷ, ăn hang ở lỗ, dần dần tìm ra lửa, biết đánh cá, săn muông thú, trồng trọt và chăn nuôi. Thần thoại tin rằng các vị thần có công lao hướng dẫn con người làm được những thành công vĩ đại ấy. Nội dung truyền thuyết thì gần gũi với con người hơn. Những nhân vật như vua Hoàng Ðế, vua Nghiêu, vua Thuấn và vua Vũ được coi là nhân vật lịch sử có thật, được thêu dệt tô điểm thành huyền thoại. Ðó là những vị anh hùng không hề chịu bó tay trước thiên nhiên hung dữ, khắc nghiệt luôn luôn gây tai hoạ cho người. Họ có sức mạnh ghê gớm để khắc phục khó khăn gian khổ hoặc tranh đấu đến chết đối với các lực lượng tự nhiên tàn bạo. Thần thoại và truyền thuyết Trung quốc phản ánh những niềm khát vọng của người lao động thời đó. Họ muốn giảm nhẹ công việc nặng nhọc, tăng năng suất, sống thoải mái trong tình thương yêu đồng loại. Thần thoại truyền thuyết có ảnh hưởng rất lớn đến văn học đời sau. Khuất Nguyên nhà thơ thời Chiến quốc đã dùng hình ảnh thần thoại cho thơ. Các nhà thơ thời Đường như Lý Bạch hay dùng thần thoại, truyền thuyết để trang bị cho thơ của mình một không khí lãng mạn, phóng khoáng, Lý Thương Ẩn, Ðỗ Mục cũng thường nhắc đến Hằng Nga, Chức Nữ tượng trưng cho người đẹp xa vời. Còn trong tiểu thuyết cổ điển như Tây Du ký, Phong thần diễn nghĩa, Liêu Trai chí dị, tác giả cũng sử dụng bút pháp thần thoại truyền thuyết. 2. THẦN THOẠI TRUNG QUỐC 中国神话 1. Nhóm thần tạo lập vũ trụ "Chống màn trời Bàn Cổ làm vũ trụ hoá thân thành sông núi cỏ cây" Từ một quả trứng vũ trụ trong cái khối không gian hỗn độn, đen ngòm, nở ra thần Bàn Cổ. Ngồi dậy, vớ chiếc rìu, Bàn Cổ chém vào khoảng mù mờ trước mặt, gây chấn động lớn. Những chất trong suốt, nhẹ bốc lên thành bầu trời. Những chất đục, cặn, nặng lắng dần xuống thành mặt đất. Thế là vũ trụ đã chia ra Trời và Ðất . Bàn Cổ lấy thân mình chống giữ, đầu đội trời, chân đạp đất. Khi đất và trời đã vững chắc, ổn định, Bàn Cổ ngã ra chết, thân thể và khí lực hoá thành tất cả những sự vật, hiện 8
- VHTQ -PHN tượng của thế giới như sét, gió, mây, mưa, mặt trời, mặt trăng, núi non, sông hồ, các vì sao, cây cỏ hoa lá tới các loại kim thuộc đá quí Bàn Cổ là vị thần khai thiên lập địa, còn có tên khác: Bàn Hồ , Bàn Vương 2. Nhóm các hoàng đế đầu tiên Gọi là "Tam hoàng" gồm các vua Phục Hy, Hoàng Ðế và Thần Nông. a . Phục Hy: còn có tên Thái Hạo. Vợ là bà Nữ Oa . Phục Hy tiếp tục công việc của Bàn Cổ là kiến tạo mặt đất (chủ yếu ở phương Ðông). Theo truyền thuyết, ông là nhà triết học đầu tiên của thời cổ đại Trung Hoa, đã vạch ra "bát quái" (tám quẻ) miêu tả cấu trúc thế giới và qui luật vận động của nó: Càn (trời), Khôn (đất), Ly (lửa), Khảm (nước), Cấn (núi non), Chấn (sấm sét), Tốn (gió), Đoài (đồng, kim loại), Phục Hy chế tạo cây đàn 50 dây giao cho thần Tố Nữ (thần ca nhạc) biểu diễn giải trí cho các thần linh. Phục Hy và Nữ Oa vốn là anh em ruột. Vì nạn hồng thuỷ, hai người cùng trú ẩn trong một quả bầu. Sau phải lấy nhau để giữ nòi giống. Người xưa gọi là ông Hồ lô và bà Hồ lô (hồ lô: quả bầu) . Có thuyết khác cho rằng Phục Hy chính là ông Tứ Tượng (tứ tượng là con cái của Âm và Dương, gồm 4 thành tố: Thái dương, Thiếu dương, Thái âm, Thiếu âm). Tứ Tượng và Nữ Oa còn gọi là hai thần Ðực và Cái (ở vùng Tây bắc Việt Nam, người dân gọi là Ông Ðùng, Bà Ðà). b. Vua Thần Nông Thần Nông là thiên đế cai quản phương nam (còn có tên là Viêm đế hoặc Xích đế- nghĩa là vua xứ nóng). Vị thần này hình người đầu trâu, tìm ra ngũ cốc, khai sáng nghề nông. Thần Nông đặt ra chợ búa, dạy dân trồng các cây thuốc chữa bệnh. Thần đã chết vì tự nguyện nếm các loại lá thuốc nên rủi ro bị ngộ độc. Thần thoại Việt Nam đã coi Thần Nông là thuỷ tổ của các vua Hùng (dòng họ Hồng Bàng). Ðến nay cũng chưa có kết quả nghiên cứu nào bác bỏ hoặc thừa nhận mối quan hệ đó. Quan niệm này do người Việt lưu truyền từ trước khi nền văn hoá Hán lan tràn và áp đặt vào nước ta (Có thể công nhận nguồn gốc chung của dân tộc Việt và dân tộc Trung Quốc trộn huyết với gốc Ðông Nam Á, nhưng không thể đơn giản cho rằng các vua Hùng có dòng dõi Trung Hoa). Lại có nhiều thuyết khác về "Tam hoàng" như: a. Thiên hoàng, Ðịa hoàng và Nhân hoàng b. Thiên hoàng, Ðịa hoàng và Thái hoàng c. Phục Hy, Thần Nông và Nữ Oa 3 . Ngũ Ðế gồm: Thiếu Hạo, Chuyên Húc, Ðế Cốc, Nghiêu và Thuấn . Nhìn chung, sở dĩ có nhiều thuyết khác nhau về Tam hoàng và Ngũ Ðế là do các dân tộc khác nhau ở lục địa Trung Hoa rộng lớn đều muốn xác định "thuỷ tổ" là người (thần) ở xứ mình. Thần thoại Trung Quốc còn có nhiều chuyện kể về vợ, con, cháu, chắt của Tam hoàng, Ngũ Ðế với nhiều dị bản khác nhau (Xin đọc"Thần thoại Trung Quốc" Giáo sư Ðinh Gia Khánh biên soạn, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1994) . 4 . Nhóm thần cải tạo thiên nhiên và xây dựng cuộc sống Truyện "Khoa Phụ đuổi mặt trời”, vị thần chống hạn hán, chết khát trước khi sắp tìm ra một đầm nước. 9
- VHTQ -PHN Truyện "Ngu Công chuyển núi“ Thái Hàng và núi Vương Ốc đi chỗ khác để dễ đi lại, làm ăn. Ông ta tin rằng đời con cháu tiếp nối đào đục mãi cũng phải chuyển dời được hai quả núi. Thượng Ðế cảm phục ý chí của Ngu Công, sai thiên thần vác núi đặt ở chỗ khác trong một đêm . Truyện mối tình "Ngưu lang - Chức nữ". Chức nữ (cô gái dệt vải), con cháu Tam hoàng, chuyên dệt lụa may áo cho trời. Nàng làm việc ở bờ sông Ngân hà (phía bên Trời), còn bờ bên kia là cánh đồng của loài người. Bên ấy có chàng chăn trâu tên là Ngưu lang mồ côi cha mẹ. Gia tài có một con trâu, phá hoang, cày ruộng để sinh sống. Ngưu lang nghe lời trâu, rình xem Chức nữ và các nàng tiên ra tắm sông Ngân, giấu xiêm áo của Chức nữ. Chàng cầu hôn, Chức nữ e thẹn đồng tình. Chồng cày ruộng, vợ dệt lụa, sinh một con trai, một con gái. Thiên Ðế và Vương Mẫu biết chuyện, sai thiên thần đi bắt Chức nữ về trời. Ngưu Lang gánh hai con chạy theo vợ. Thiên Ðế rút dây kéo sông Ngân hà lên trời cao để chặn đường Ngưu lang. Con trâu bảo chàng lột bộ da trâu làm áo thì có thể bay lên trời. Nhờ bộ da trâu, chàng tới được bờ sông Ngân hà, bên kia đã thấy nàng Chức nữ. Chàng lấy gáo múc nước sông cho vơi cạn, ba bố con thay phiên nhau. Thiên Ðế và Vương Mẫu mủi lòng, cho phép họ gặp nhau hàng năm một lần vào ngày 7 tháng 7. Ðến ngày ấy có một đàn chim ô thước (quạ đen) bắc một chiếc cầu liền cánh chim qua sông. Gặp nhau, họ mừng rỡ nhưng lại buồn vì sắp phải chia tay, nên khóc rất nhiều. Nước mắt làm thành trận mưa thu lạnh lẽo tê tái (mưa Ngâu: Ngưu). Những đêm trời quang đãng, có hai ngôi sao lớn bên bờ sông Ngân, đó là sao Ngưu lang và sao Chức nữ. Bên cạnh còn có hai ngôi sao nhỏ hơn là con trai và con gái họ. 5. Truyện"Hậu Nghệ bắn rụng chín mặt trời, Hằng Nga bỏ trốn lên cung nguyệt" Thời vua Nghiêu, có 10 mặt trời xuất hiện trên bầu trời gây hạn hán khủng khiếp . Nguyên do 10 mặt trời cư ngụ ở cây khổng lồ Phù tang (quần đảo Nhật bản), mỗi ngày theo lệnh Thượng đế, một mặt trời ra đi, vòng qua bầu trời, lần lượt thay phiên nhau đi theo một con đường cố định. Lũ mặt trời một hôm rủ nhau cùng bay qua bầu trời và cứ thế tiếp diễn mỗi ngày. Hạ giới không chịu nổi sức nóng khủng khiếp, kêu cứu lên Thiên đình, Thượng đế (vua Thuấn) sai Hậu Nghệ vác cung thần đi bắn doạ 10 đứa con ngỗ nghịch của trời. Hậu Nghệ xuống trần mang theo vợ là Hằng Nga (còn gọi Thường Nga). Thấy tình cảnh hạ giới thật đáng thương, Hậu Nghệ nổi giận bắn thẳng tay, lần lượt rụng 9 mặt trời, xác chết hiện nguyên hình 9 con quạ 3 chân màu vàng (kim ô). Vua Thuấn lo lắng, sai người lấy trộm một mũi tên của Hậu Nghệ nên mặt trời cuối cùng còn sống sót. Hậu Nghệ tiếp tục đi giết những loài quái vật ở hạ giới giúp dân lành. Vợ chồng Hậu Nghệ không dám trở về trời. Hằng Nga không chịu được cuộc sống khổ cực ở trần gian nên oán trách chồng. Tình yêu rạn nứt, Hậu Nghệ thường bỏ đi chơi và tìm đến Tây Vương Mẫu xin thuốc thần để hai vợ chồng trở thành bất tử, đem thuốc về giao cho vợ giữ. Hằng Nga lén uống hết rồi bay về trời, nhưng nghĩ xấu hổ liền rẽ sang cung trăng ẩn náu. Hạ xuống cung trăng, nàng bị hoá thành con cóc vì tội phản bội chồng. Nơi đây chỉ có một con thỏ ngọc đang giã thuốc bên gốc cây quế. Còn có chuyện kể Hậu Nghệ dạy học trò là Phùng Mông bắn cung. Khi đã thành thạo, Phùng Mông mấy lần ám hại thầy để giành ngôi vô địch nhưng đều thất bại. Hậu Nghệ tha chết cho y. Cuối cùng Phùng Mông vẫn thực hiện được tội ác. Hậu Nghệ ngã gục mà chết, được nhân dân thờ như vị thần cung nỏ. Truyện Hằng Nga còn có dị bản khác. Con thỏ ngọc giã thuốc vốn có từ truyện dân gian cổ đại Ấn Ðộ, nó có nhiệm vụ chế thuốc bất tử. Lại có chú Cuội là người trần gian phát hiện ra cây thuốc quí (cây quế) có thể chữa vật chết sống lại. Người vợ không nghe lời chồng, đái vào cây thuốc, cây liền bay lên trời. Cuội ôm lấy gốc cây cố níu lại Cây bay về cung trăng đem theo chú Cuội. Mỗi đêm trăng, Cuội ngồi nhìn xuống trần gian mà thương nhớ quê hương. 10
- VHTQ -PHN 6. Truyện cha con vua Cổn vua Vũ trị thuỷ giúp dân (Vua Vũ là vua cuối cùng thời đại thị tộc nguyên thuỷ và mở ra xã hội nô lệ - chủ nô). Vua Vũ còn cho đúc chín chiếc đỉnh đồng to lớn, coi như "quốc bảo". Về sau, các đời vua nhà Chu và suốt thời Ðông Chu liệt quốc coi 9 đỉnh đồng là tượng trưng quyền lực vua chúa. 7. Truyện Vọng Ðế (còn gọi Thục Ðế: vua nước Thục) Vọng Ðế tên là Ðỗ Vũ, danh hiệu Tàm Tùng, tổ sư nghề nuôi tằm. Có người nước Sở chết đuối, trôi ngược dòng tới nước Thục tên là Miết Linh. Vọng Ðế cứu sống, cử y làm tể tướng vì mến tài trị thuỷ của y. Miết Linh lập công lớn cho nước Thục, Thục Ðế nhường ngôi cho Miết Linh. Miết Linh lợi dụng tư thông với vợ Thục Ðế. Ðau khổ và hối hận, Thục Ðế uất hận mà chết, khi trăn trối, ông dặn loài chim đỗ quyên đời đời kêu lên thảm thiết nỗi lòng Thục Ðế cho dân chúng nghe. Lại có chuyện kể rằng, khi Miết Linh đi trị nạn lũ lụt, Thục Ðế ở nhà tư thông với vợ Miết Linh. Khi Miết Linh trở về, vua Thục xấu hổ bỏ đi ở ẩn mà chết. Khi chết, linh hồn vua Thục hoá chim đỗ quyên hót kêu hót, báo cho dân chúng thời vụ làm mùa kịp thời () Truyện này có một số dị bản khác 8. Nhóm truyện ba vua Vua Kiệt (nhà Hạ), vua Thành Thang (nhà Ân) và vua Trụ (nhà Ân - Thương). Thần thoại chuyển sang truyền thuyết, chấm dứt thời tiền sử Vua Vũ nhường ngôi cho con là Khải. Khải truyền ngôi qua nhiều đời tới vua Khổng Giáp. Giáp là vua ngu, chỉ lo ăn chơi. qua hai đời nữa tới vua Kiệt, vua cuối cùng của nhà Hạ. Vua Kiệt hoang dâm vô độ, xây nhiều cung điện xa hoa để hưởng lạc với vợ yêu tên là Muội Hỷ, bà vợ có tật thích nghe tiếng lụa xé. Kiệt chiều chuộng vợ đủ điều. Một viên quan đại thần tên Y Doãn can ngăn vua không được, bỏ sang một nước chư hầu là nhà Ân. Vua Ân là Thành Thang đánh đổ vua Kiệt lập ra triều đại Ân Thang (Thương). Ðến đời nhà Thương (Thang) ông vua cuối cùng là vua Trụ. Vua Trụ cũng là kẻ hoang dâm, đồi truỵ và tàn nhẫn. Mặc dù vốn là tay hảo hán võ nghệ cao cường, thông minh sắc sảo, kiêu ngạo, vua Trụ cũng say đắm giai nhân là Ðắc Kỷ mà mất nước. Hoang dâm và tàn bạo, Trụ vương mổ bụng moi gan Tỉ Can là bề tôi trung thành đã can ngăn y đừng bày nhiều trò độc ác để mua vui. Vua Trụ lặp lại sự thất bại của vua Kiệt. Nhà Thương là ranh giới giữa thời kỳ tiền sử chuyển sang thời kỳ lịch sử. Thần thoại được coi là "cuốn lịch sử" đầu tiên của lịch sử Trung Hoa. Ðến nhà Chu mới chính thức có lịch sử ghi chép và nền văn học viết. Thần thoại Trung quốc gồm nhiều truyện vụn vặt, lẻ tẻ (Ấn Ðộ và Hi lạp, sau giai đoạn thần thoại, phát sinh thể loại sử thi anh hùng ca kết nối các thần thoại và phát triển tiếp, do đó thần thoại Ấn Ðộ và Hi Lạp được truyền lại đời sau trong một hình thức đầy đủ và hoàng tráng hơn). Tuy vậy, thần thoại Trung Quốc cũng gây ảnh hưởng lâu dài đến nền văn học Trung Hoa suốt hàng ngàn năm sau. Thần thoại đã biến thành điển cố, điển tích và gây nguồn cảm hứng cho nhiều văn nghệ sĩ đời sau. Ghi chú: Truyện Kiều của Nguyễn Du có đoạn tả nàng Kiêu chơi đàn lần cuối cùng có câu Khúc đâu êm ái xuân tình, Ấy hồn Thục Đế hay mình Đỗ Quyên ? điển cố ngụ ý Thuý Kiều tiếc nuối mối tình xưa . 11
- VHTQ -PHN 3 . KINH THI 诗经 shījīng Giới thiệu Kinh Thi là tập thơ đầu tiên của Trung Quốc, sáng tác trong khoảng thời gian hơn năm trăm năm, cách đây khoảng hai ngàn năm trăm năm. Ðến thế kỷ 6 trước CN sưu tầm khoảng ba trăm bài, được soạn thành tập. Về sau Khổng Tử biên soạn thành sách gọi là Kinh Thi dùng làm sách giáo khoa (trong bộ Ngũ kinh). Ông coi trọng việc học thơ nhằm xây dựng tình cảm đạo đức và tạo cho lời nói thêm hoa mỹ. Ông nói "Không học Kinh Thi thì không biết nó" (Luận ngữ). Thơ có thể làm cho mọi người phấn chấn, đoàn kết với nhau, bộc lộ lòng bất mãn, phẫn uất của mình và tham khảo phong tục đất nước. Theo truyền thuyết, lúc đầu Kinh Thi có tới 3000 bài, sau rơi rụng dần chỉ còn hơn 300. Kinh Thi gồm ba phần: Phong, Nhã và Tụng. Phong: Còn gọi là quốc phong, có 160 bài. Ðó là ca dao, dân ca của mười lăm nước nhỏ. Ðó là tác phẩm của miền Bắc gồm lưu vực sông Hoàng Hà, Trường Giang, trung tâm văn hoá của Trung Quốc thời bấy giờ. Nhã : Gồm tiểu nhã và đại nhã (còn gọi nhị nhã), có 105 bài. Tiểu nhã: những bài dùng trong trường hợp các buổi yến tiệc quí tộc (74 thiên). Ðó là thơ ca của giới quí tộc đại phu làm trong những dịp triều hội, yến tiệc nói về quan hệ tốt đẹp giữa vua tôi và các nghi thức tiếp tân giữa chủ và khách Đại nhã: những bài dùng trong trường hợp quan trọng như khi Thiên tử họp các vua chư hầu hoặc tế ở miếu đường (31 thiên).(Nhã có nghĩa đối lập với tục, tao nhã, cao sang, đẹp, gương mẫu). Tụng: Là những bài tán tụng, ca ngợi dùng lúc tế lễ thần linh, thái miếu, hơn 100 bài, giống như văn tế sau này. Tụng gồm có Chu tụng, Lỗ tụng và Thương tụng (gọi là tam tụng) sáng tác ở ba nước Chu, Lỗ và Thương. Nghiên cứu Kinh Thi, người đọc hiểu được phong tục tập quán, tình hình xã hội và khuynh hướng tư tưởng của từng vùng và từng giai tầng xã hội. Ðại bộ phận quốc phong và một phần Tiểu nhã, một phần Ðại nhã có tính nhân dân và tính phê phán cao là sáng tác của người bình dân lao động. Còn Tụng và phần còn lại của Nhị nhã là sáng tác của giới quí tộc nhằm ca tụng giai cấp thống trị. Có ý nghĩa nhất đối với chúng ta ngày nay là "quốc phong" và một số bài trong Tiểu nhã. Ðó thực sự là văn học dân gian chân chính của Trung Quốc cổ đại. Các bài ca dao, dân ca trong quốc phong là sáng tác của nhân dân lao động, ca hát về công ăn việc làm của họ, tâm tình, cảm xúc của người nghèo khổ bị áp bức bóc lột. Họ phải làm lụng cực nhọc để nuôi bọn lãnh chúa sống giàu sang, nhàn hạ. Ví dụ bài "Thất nguyệt" như sau : Tháng giêng sửa soạn cày bừa, tháng hai ra đồng cày ruộng, tháng ba trồng dâu nuôi tằm, tháng tư, tháng năm đi hái trái viễn chín làm thuốc, tháng sáu hái lê và mận, tháng bảy nấu quỳ hái đậu hái dưa, tháng tám hái bầu, chặt lau sậy, gặt hái, dệt vải, tháng chín hái mè, đàn bà may quần áo lạnh cho nhà chủ, đàn ông đập lúa, tháng mười nạp tô, tháng mười một đi săn chồn, tháng mười hai săn thú lớn, đục băng cất đi cho nhà chủ ăn mùa hè cho mát. Bài thơ còn tả những cách thức bóc lột của bọn lãnh chúa. Thỉnh thoảng chen những tiếng thở dài, giọng thơ thường kết thúc mỉa mai, cay đắng, oán trách (Ðọc thêm các bài Phạt đàn, Thạc thử ) Ðề tài chiến tranh trong Kinh Thi cũng khá phong phú. Phản ánh nỗi khổ cực do chiến tranh thời Xuân Thu gây ra cho người lao động. Họ phải bỏ làng xóm, việc cày cấy và gia đình để đi tham gia các cuộc viễn chinh. Những nỗi buồn khổ của chinh phu, chinh phụ thể hiện trong các bài Ðông Sơn, Thái vi. 12
- VHTQ -PHN Cũng giống như ca dao dân ca nước Việt, Kinh Thi gồm rất nhiều bài ca tình yêu. Lời lẽ hồn nhiên thẳng thắn chất phác, mạnh dạn và tình cảm chân thành. Mở đầu Kinh Thi là bài "Quan thư" bài thơ tình yêu, bộc lộ những nỗi vui buồn thương nhớ, ước mong và yêu đương Tình yêu của người bình dân hồi ấy thật trong sáng, ngây thơ. Mùa xuân trai gái vui chơi trên bờ sông hái cỏ thơm tặng nhau, tỏ tình. Con gái tỏ tình bằng cách mời anh nhảy múa. Những cuộc hò hẹn, cô gái đến trước, nấp một nơi để chứng kiến nỗi bứt rứt đau khổ của người yêu. Thơ tình yêu cũng đã lên tiếng oán trách hoặc phản đối luân lý, lễ giáo, luật lệ khắc nghiệt thời cổ đại. Từ khi yêu đương đến cuộc hôn nhân và đời sống gia đình, người phụ nữ thường bị hạn chế, chịu thiệt thòi suốt đời. Họ viết những vần thơ cảm động, ai oán. Kinh Thi được coi là sách kinh điển của học đường và nhà nho nên chủ đề tình yêu của người lao động bình dân ít được chú ý. Những bài ca tình yêu do giới quí tộc cung đình soạn ra trong Ðại Nhã được ca tụng nhiều hơn. Q 国风 uốc phong (gồm 159 thiên / bài) (Quốc phong: ca dao, dân ca. Chu Nam phong: ca dao dân ca vùng Chu Nam) Sơ lược chủ đề, nội dung từng bài Chu Nam phong (11 thiên) 1. Quan thư: tương tư 2. Cát đàm: Phận sự người vợ lo dệt vải. 3. Quyền nhĩ: Vợ nhớ chồng. 4. Nam hữu cù mộc: Chúc người quân tử. 5. Chung tư: Chúc đông con. 6. Đào yêu: thục nữ lập gia đình. 7. Thố tứ: Khen người có tài cán. 8. Phù dĩ: Phụ nữ an nhàn đi hái trái cây. 9. Hàn quảng: Khen phụ nữ trở lại đoan trang được người kính nể. 10. Nhữ phần: Vợ nhớ chồng vẫn trung thành. 11. Lân chi chỉ: Khen tặng dòng dõi của Văn vương. Thiệu Nam phong (14 thiên): 1. Thước sào: Khen tặng người con gái chư hầu được lấy chồng. 2. Thái phiên: Khen tặng vợ chư hầu lo việc cúng tế. 3. Thảo trùng: Vợ quan đại phu ở nhà một mình mà nhớ chồng. 4. Thái tần: Khen tặng vợ quan đại phu lo việc cúng tế. 5. Cam đường: Kính giữ di tích của Thiệu Bá. 6. Hành lộ: Con gái lấy lẽ giữ mình mà cự tuyệt người con trai vô lễ. 7. Cao dương: Khen quan lại y phục bình thường, dáng thảnh thơi tự đắc. 8. Ẩn kỳ lôi: Vợ nhớ chồng mong chồng mau trở về. 9. Biểu hữu mai: Con gái lo được gả kịp thời. 10. Tiểu tinh: Phận thiếp được hầu hạ vua. 11. Giang hữu tự: Vợ chính rước các hầu thiếp đi theo. 12. Dã hữu tử khuân: Lời người con gái chế giễu người yêu. 13. Hà bỉ nùng hĩ: Khen con gái nhà Chu cung kính hòa thuận đi lấy chồng. 14. Trâu ngu: Chư hầu đi săn. Bội phong (19 thiên): 13
- VHTQ -PHN 1. Bách chu: Tình cảnh người vợ cả bị bỏ rơi. 2. Lục y: Tình cảnh vợ chính bị lạnh lùng, còn hầu thiếp được thân mến. 3. Yến yến: Vợ chính thương nhớ đưa tiễn nàng hầu thiếp về quê. 4. Nhật nguyệt: Lời than thở của người vợ bị phụ bạc. 5. Chung phong: Cảnh người vợ sống với người chồng cuồng si ngu dại. 6. Kích cổ: Nỗi lòng người lính chiến phải xa cách vợ nhà. 7. Khải phong: Lời con tự trách không khéo thờ mẹ để mẹ đi tái giá. 8. Hùng trĩ: Vợ nhớ chồng đang đi làm xa. 9. Bào hữu khổ diệp: Lời than của người bị gò bó tình yêu. 10. Cốc phong: Nỗi lòng người vợ bị chồng đuổi đi. 11. Thức vi: Lời của bề tôi trách vua chịu hèn hạ nương tựa nước ngoài. 12. Mao khâu: Kẻ lưu vong trách nước ngoài không chịu tiếp cứu. 13. Giản hề: Lời người hiền bất đắt chí chịu làm chức phận khiêm nhường. 14. Tuyền thủy: Nỗi lòng người con gái lấy chồng ở nước xa, nhớ nhà muốn trở về. 15. Bắc môn: Cảnh nghèo khó của quan lại thời loạn. 16. Bắc phong: Nước sắp loạn, rủ nhau đi tỵ nạn. 17. Tĩnh nữ: Lời ước hẹn tình yêu. 18. Tân đài: Nỗi lòng người con gái gặp ông chồng hèn hạ loạn luân. 19. Nhị tử thừa chu: Lời thương xót hai anh em giành nhau cái chết. Dung phong (10 thiên) 1. Bách chu: Lời người góa phụ thủ tiết. 2. Tường hữu từ: Chê trách sự dâm ô của bọn vua chúa. 3. Quân tử giai lão: Tả dung sắc người đẹp mà kém đức hạnh. 4. Tang trung: Lời ước hẹn tình yêu. 5. Thuần chi bôn bôn: Lời trách kẻ loạn luân dâm ô. 6. Đính chi phương trinh: Khen vua chăm lo xây dựng quốc gia. 7. Đế đống: Lời gái đi tìm người yêu. 8. Tướng thử: Lời châm biếm kẻ vô lễ thiếu uy nghi. 9. Can mao: quan chức biết thăm viếng người hiền. 10. Tái trì: Lời người con gái nóng lòng về thăm nước đã mất. Vệ phong (10 thiên): 1. Kỳ úc: Lời khen tặng vua tu thân. 2. Khảo bàn: Tình cảnh người hiền ở ẩn. 3. Thạc nhân: Tả người đẹp và quyền quý được rước dâu. 4. Manh: Lời người con gái trách người yêu phụ bạc. 5. Trúc can: Nỗi lòng người con gái lấy chồng ở xa nhớ nhà. 6. Hoàn lan: Lời châm biếm vua còn nhỏ mà tự kiêu. 7. Hà quảng: Nhớ quê chồng. 8. Bá hề: Nỗi lòng nhớ chồng. 9. Hữu hồ: Nỗi lòng người quả phụ muốn tái giá. 10. Mộc qua: Lời tặng đáp để kết giao với nhau. Vương phong (10 thiên): 1. Thử ly: Nỗi cảm xúc thời xưa đã điêu tàn. 2. Quân tử vu dịch: Nỗi nhớ chồng đi sai dịch nơi xa. 3. Quân tử dương dương: Cảnh thanh nhã khi chồng về xum họp. 14
- VHTQ -PHN 4. Dương chi thủy: Nỗi lòng người lính đóng đồn ở xa nhớ vợ. 5. Trung Quốc hữu thôi: Lời than thở của người vợ bị đuổi bỏ. 6. Thố viên: Nỗi lòng của người quân tử gặp thời loạn không vui sống. 7. Cát lũy: Lời than thở của người dân trôi nổi trong thời loạn lạc. 8. Thái cát: Tưởng nhớ tha thiết tình nhân. 9. Đại xa: Đắm đuối yêu nhau nhưng còn sợ pháp luật không dám bày tỏ. 10. Khâu trung hữu ma: Lời giễu yêu của cô gái khi tình nhân không đến. Trịnh phong (20 thiên): 1. Tri y: tình của nhân dân mến đãi quan hiền tài. 2. Tương Trọng tử: bị gò bó, cô gái dặn người yêu không nên đến nhà tìm. 3. Thúc vu điền: lời khen tặng Cung Thúc Đoạn. 4. Thanh nhân: tình cảnh quân đội rã rời nhụt chí chiến đấu. 5. Cao cầu: lời khen tặng quan chức không đổi thay tiết tháo. 6. Tuân đại lộ: người con gái trách chồng ruồng bỏ. 7. Nữ viết kê mình: Vợ thương chồng, lo phụng sự chồng chu đáo. 8. Hữu nữ đồng xa: tả người con gái đẹp đi chung xe. 9. Sơn hữu phù tô: lời con gái đang yêu trêu ghẹo tình nhân. 10. Thác hề: người con gái nhiệt tình tỏ ý mời trai cùng ca hát nhảy múa. 11. Giảo đồng: lời đùa giỡn giữa cô gái với người yêu. 12. Khiên thường: lời cô gái vui đùa với người yêu. 13. Phong: cô gái hối hận không đưa tiễn người yêu. 14. Đông môn chi thiêu: cô gái tỏ tình với người yêu. 15. Phong vũ: cô gái hả hê khi gặp người yêu. 16. Tử khâm: cô gái mong nhớ người yêu. 17. Dương chi thủy: khuyên người yêu giữ trọn niềm tin giữa hai người. 18. Xuất kỳ đông môn: lòng trung thành mến thương vợ. 19. Dã hữu man thảo: trai gái gặp nhau và cũng vừa lòng thích ý. 20. Trân vĩ: trai gái thừa dịp dạo chơi để trao ân tình. Tề phong (11 thiên): 1. Kê minh: lời người hiền phi khuyên vua dậy sớm. 2. Tuyền: lời châm biếm vua quan ham săn bắn mà quên việc chính trị. 3. Trử: chàng rể chờ rước cô dâu. 4. Đông phương chi nhật: trai gái yêu nhau hoà thuận với nhau. 5. Đông phương vị minh: lời châm biếm quan coi tính giờ sai. 6. Nam Sơn: lời châm biếm bọn vua chúa anh em thông dâm. 7. Phủ điền: lời khuyên chớ dục tốc mà bất đạt. 8. Lô linh: lời khen tặng vua đi săn. 9. Tệ cẩu: châm biếm người đàn bà loạn luân được tự do trở về thông dâm với anh ruột. 10. Tái khu: châm biếm người đàn bà thông dâm với anh ruột. 11. Y ta: khen Lỗ Trang Công đủ tài mà không ngăn được mẹ. Ngụy phong (7 thiên): 1. Cát cú: châm biếm người keo kiệt. 2. Phần tứ nhu: châm biếm người cần kiệm không trúng lễ. 3. Viên hữu đào: nỗi lo buồn của người hiểu biết thời cuộc bấy giờ. 4. Trắc hộ: nỗi lo buồn của cha mẹ, anh em người đi quân dịch. 15
- VHTQ -PHN 5. Thập mẫu chi gian: chính trị hỗn loạn, người hiền lo trở về ở ẩn. 6. Phạt đàn: người quân tử chẳng chịu ngồi không mà hưởng. 7. Thạc thử: dân chúng hận vua bội bạc mới bỏ đi nơi khác. Đường phong (11 thiên): 1. Tất suất: lời răn cũng nên vui chơi, nhưng không nên thái quá, phải lo công việc của mình. 2. Sơn hữu xu: ai rồi cũng chết, vậy cũng nên vui chơi. 3. Dương chi thủy: dân chúng chở che, ủng hộ người quân tử dựng nước. 4. Tiêu liêu: khen tặng cây tốt trái nhiều. 5. Trù mậu: lời trai gái mừng rỡ vì được thành vợ chồng. 6. Đệ đỗ: lời than trách của người không anh em mà cũng không được ai giúp đỡ. 7. Cao cầu: lời than phiền quan lại hống hách không ưa dân. 8. Vô y: lời kiêu ngạo của kẻ soán ngôi mà trở nên danh chính ngôn thuận do hối lộ. 9. Hữu đệ chi đỗ: vua mong hậu đãi bậc hiền tài. 10. Cát sinh: lời chung thủy của người vợ lính quân dịch mong nhớ chồng. 11. Thái linh: chớ nghe gièm pha. Tần phong (10 thiên): 1. Xa lân: tìm được vua đáng thờ. 2. Tứ thiết: vua tôi hòa hiệp cùng đi săn bắn. 3. Tiểu nhung: chinh phụ nhớ chồng. 4. Kiêm gia: đi tìm người hiền. 5. Chung Nam: lời dân khen tặng vua mình. 6. Hoàng điểu: dân thương tiếc người có tài mà bị chôn sống theo vua. 7. Thần phong: vợ nhớ chồng vắng nhà. 8. Vô y: binh sĩ thương nhau lo việc chiến đấu. 9. Vị dương: tiễn người cậu ra đi. 10. Quyền dư: lời than của người hiền lần lần bị bạc đãi. Trần phong (10 thiên): 1. Uyển khâu: người hoang đãng múa hát vui chơi. 2. Đông môn chi phần: trai gái tụ hợp múa hát trao ân tình. 3. Hoàng môn: người ở ẩn dễ tính sống thế nào cũng được. 4. Đông môn chi trì: trai gái nói chuyện mà hiểu lòng nhau. 5. Đông môn chi dương: trai gái hẹn mà không gặp. 6. Mộ môn: kẻ ác được cảnh cáo mà không biết hối cãi. 7. Phong hữu thước sào: lo buồn vì người yêu bị kẻ khác lừa bịp. 8. Nguyệt xuất: nhớ người đẹp mà lòng ưu sầu. 9. Tru Lâm: châm biếm vua thông dâm với vợ quan. 10. Trạch bì: đau đớn nhớ thương mà không được gặp người yêu. Cối phong (4 thiên): 1. Cao cầu: thương trách vua không lo chính trị chỉ lo đẹp đẽ quần áo. 2. Tố quan: mong mỏi thấy lại tang phục đời xưa. 3. Thấp hữu trường sở: dân chúng quá thống khổ than thở không bằng loại cỏ cây. 4. Phỉ phong: lòng bi thương nghĩ đến nhà Chu tàn hạ. Tào phong (4 thiên): 16
- VHTQ -PHN 1. Phù du: ngao ngán người đời ham mê vật chất mà muốn trở về ở yên. 2. Hậu nhân: lời châm biếm đứa tiểu nhân được làm quan to. 3. Thi cưu: khen tặng người quân tử chuyên nhất công bình, đủ tài đức trị yên thiên hạ. 4. Hạ tuyền: thương tiếc nhà Chu không còn cường thịnh như xưa. Bân phong (7 thiên): 1. Thất nguyệt: những công việc phải làm quanh năm của nhân dân. 2. Xi hiêu: chim tận tụy bảo vệ ổ qua cơn giông bão. 3. Đông Sơn: tình cảnh khi chinh chiến trở về. 4. Phá phủ: quân sĩ khổ nhọc nhưng vẫn kính mến chủ tướng. 5. Phạt kha: việc gì cũng có đường lối noi theo. 6. Cửu vực: dân mến tiếc Chu công. 7. Lang bạt: thái độ ung dung của Chu công. NGHỆ THUẬT KINH THI Có 5 biện pháp nghệ thuật thường dùng trong Kinh Thi Phú: là phô bày, nói thẳng sự việc ra, nghĩ thế nào nói thế ấy. Tỷ: là so sánh, ví von, chẳng hạn "nhánh cỏ non" ví với bàn tay đẹp, "ngọc" ví với người hiền tài .v.v "Tỷ" cũng gần giống biện pháp tượng trưng. Như bài Thạc thử (đánh chuột) kể chuyện bọn chuột tham lam tàn nhẫn cần phải diệt chúng nhưng ta hiểu rằng chuột là bọn lãnh chúa, quan lại tham nhũng. Hứng: nói sự việc này để dẫn đến sự việc khác mình muốn nói. Ví dụ tả cảnh "chim gù nhau" để nói chuyện trai gái tìm lứa đôi, nói "quả mơ rụng" để chỉ việc năm tháng trôi qua, tuổi xuân sắp hết, nói "thuyền trôi nổi giữa dòng sông" để dẫn đến chuyện mối tình dang dở. Ðến ngày nay, ba cách ấy đã thông dụng trong ngôn ngữ văn chương. Kinh Thi là tập thơ đầu tiên của Trung Quốc đã sử dụng thành thạo nên ta phải kể đó là đặc sắc nghệ thuật của giai đoạn này. Người làm thơ quả là có cái nhìn mới mẻ, óc tưởng tượng dồi dào, sự liên tưởng đột ngột rất nên thơ. Có khi cả ba biện pháp tu từ đó được dùng xen kẽ trong một bài. Như bài Quan Thư gồm năm đoạn. Ðoạn 1 có thể hứng và tỷ, đoạn 2 theo thể hứng, đoạn 3 theo lối phú, đoạn 4 và 5 lại theo thể hứng. Kết cấu xướng hoạ. Ðoạn 1 xướng, đoạn 2 hoạ, thường dùng trong các bài ca lao động tươi vui đối đáp của các cô gái hái dâu. Kết cấu trùng điệp trong Kinh Thi thường theo cách "trùng chương, điệp cú" (lặp đoạn, lặp câu, lặp hình ảnh,lặp từ ngữ, âm điệu ). Trùng điệp làm tăng cường độ diễn đạt. Nhạc điệu rất giàu có trong Kinh Thi. Có bài là dân ca, có bài là thơ được phổ nhạc. Ngày nay, phần âm nhạc đã mất đi, chỉ còn lời với tiết tấu vần điệu của ngôn ngữ nghe vẫn êm tai, dễ nghe. Lời trong bài được chọn lọc, tinh xảo. Khi sưu tầm, lời thơ có thể được nhuận sắc (gọt sửa) cho hay hơn, dễ nhớ hơn. Do đó, về sau trong ngôn ngữ giao tiếp người ta hay chêm một câu Kinh Thi như là một dạng tục ngữ, thành ngữ; Trong sáng tác văn học, người ta sử dụng Kinh Thi như là điển tích điển cố. Kinh Thi xưa nay được xem là một tác phẩm văn học cổ điển vĩ đại có ảnh hưởng rất lớn đối với nền văn học Trung Quốc. Kinh Thi còn có giá trị hiện thực cao, được coi là tác phẩm mở đầu cho văn học hiện thực Trung Quốc. (Ðối với văn học Việt Nam, Kinh Thi có ảnh hưởng rõ rệt. Trước hết do Khổng Tử đề cao Kinh Thi khiến một số học giả Việt Nam chú ý hơn đến ca dao, dân ca Việt Nam, có ý thức học tập ca dao, dân ca nước mình để làm cho lời nói thêm hay. Nguyễn Trãi mở đường, Nguyễn Bỉnh Khiêm bước tiếp. Rồi đến Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Ðà, Nguyễn Bính, đều là những nhà thơ đã học tập và vận dụng thành thạo "kinh 17
- VHTQ -PHN thi Việt Nam" mà trở nên nhà thơ dân tộc. Ông cha ta đã sưu tầm và biên soạn những cuốn ca dao dân ca Việt Nam như Nam thi quốc phong của Nguyễn Ðăng Tuyển, Việt Nam phong sử của Nguyễn Văn Mai, Thanh Hoa quan phong của Vương Duy Trinh. Ca dao Việt Nam của Ðào Duy Anh, Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan, Ca dao dân ca Nam Bộ của Lê Giang và Lư Nhất Vũ .v.v ). Kinh thi tuyển chọn QUAN THƯ (Chu Nam phong) (Tiếng kêu quan quan) I Quan quan thư cưu Ðôi chim thư cưu hót cùng nhau, nghe quan quan Tại hà chi châu Ở trên cồn bên sông Yểu điệu thục nữ Người thục nữ u nhàn Quân tử hảo cầu là người tốt cho bậc quân tử II Sâm si hạnh thái Rau hạnh cọng dài cọng ngắn Tả hữu lưu chi Phải theo dòng nước sang phải sang trái mà hái Yểu điệu thục nữ Người phụ nữ u nhàn ấy Ngộ mỵ cầu chi Khi thức, khi ngủ đều cầu được nàng Cầu chi bất đắc Nếu cầu mà không được Ngộ my tư bặc Thì khi thức, ngủ đều tưởng nhớ Du tai! Du tai! Tưởng nhớ xa xôi thay ! Tưởng nhớ xa xôi thay Triển chuyển phản trắc Vua cứ lăn qua trở lại nằm mãi không yên giấc III Sâm si hạnh thái Rau hạnh so le không đều nhau Tả hữu thể chi Phải thuận theo dòng nước sang tả, hữu mà chọn hái Yểu điệu thục nữ Người phụ nữ u nhàn ấy Cầm sắt vĩ chi Phải đánh đàn cầm sắt mà thân ái nàng Sâm si hạnh thái Rau hạnh cọng dài cọng ngắn khác nhau Tả hữu mạo chi Phải nấu chín mà dâng lên hai bên Yểu điệu thục nữ Người thục nữ u nhàn ấy Chung cổ lạc chi Phải khua chuông gióng trống để nàng mừng vui Gợi ý tìm hiểu Chương I (chương: khổ thơ): Thuộc thể hứng. Tả đôi chim thư cưu (trống mái) hót với nhau. Chúng sống có đôi nhất định, không lẫn lộn đôi khác. Tình cảm với nhau rất khăng khít nhưng không lả lơi. Chủ đề nhấn mạnh con chim thư (mái) hót “quan quan” Người thục nữ là ám chỉ nàng Thái Tự, hàng ngày ở trong trạng thái rung cảm mạnh về tình dục nhưng không để lộ, như vậy mới xứng với bậc quân vương (vua Văn vương). Chương II: Khi vua Văn vương chưa gặp được nàng Thái Tự phải đi tìm tòi khắp nơi Chương III: Kể chuyện đã tìm được nàng. Vua phải thân ái săn sóc cho nàng vui và tỏ ý vui mừng khôn xiết. Phạt đàn (Ngụy phong) (Chặt cây đàn) Tiếng đốn cây đàn nghe khảm khảm Rồi đặt cây ấy ở bên bờ sông 18
- VHTQ -PHN Nước sông trong và gió thổi gợn Không cấy không gặt Sao lại lấy được lúa của ba trăm nha ø? Không đi săn đi bắn Sao lại thấy ở sân nhà anh có treo con chồn ? Người quân tử kia, Không hề ngồi không mà ăn. (Ghi chú: Cây đàn là cây điền - một loại cây quý. Không phải nhạc cụ) Thạc thử (Ngụy phong) (Ðánh chuột) Ghi chú: Bài thơ có 3 chương."Con chuột to" là hình ảnh tượng trưng của nhà vua (chúa đất). Chú ý thời Kinh Thi, Trung Quốc chia ra thành ngàn nước nhỏ. Bỏ xứ này sang xứ khác là việc dễ dàng và đó là cách tốt nhất biểu lộ phản ứng của người dân lao động với lãnh chúa. I. Chuột to hỡi ! Chuột to hời! II. Con chuột bự ! Này con chuột bự ! Nếp ta, đừng ăn tới nghe mày Lúa mạch ta mày chớ ăn nhằm Ba năm biết thói lâu nay Thói mày, ta hiểu ba năm Xót thương chẳng chịu đoái hoài đến ta Ơn ta thì chẳng để tâm báo đền Nên đành phải đi xa mày đó Thế ta phải xa liền mày vậy Ðến đất kia thật rõ yên vui Nước yên vui ở đấy an thân Ðất an lạc, đất thảnh thơi Nước yên, nước có đức nhân Chốn kia thích hợp được nơi an nhàn. Ðể ta sẽ được mọi phần thích nghi. Giảo đồng (Trịnh phong) (Anh chàng láu lỉnh) I. Kìa anh chàng bé bỏng gian ngoa Chẳng thèm trò chuyện cùng ta nữa rồi Việc chàng đành dạ bỏ rơi Xui ta buồn khổ đứng ngồi biếng ăn. II. Kìa chàng bé bỏng điêu ngoa Bỏ ta lại chẳng cùng ăn nữa rồi Việc chàng đành dạ bỏ rơi Khiến ta buồn khổ bồi hồi chẳng yên. Khiên thường (Trịnh phong) (vén xiêm) Chàng còn tưởng đến em đây Sông Trân quần vén lội ngay theo chàng Nếu chàng chẳng nhớ chẳng trông Em theo kẻ khác, há không còn người? Hỡi chàng bé bỏng khùng điên! (Ghi chú: Lời người con gái đa tình đùa giỡn với người yêu) Tường hữu từ (Dung phong) (Bức tường có dây từ leo bám) 19
- VHTQ -PHN I. Bức tường bị bám dây từ Không sao quét dọn mà trừ cho xong Những lời trong chốn khuê phòng Không sao mở miệng mà hòng nói ra Những điều nói được toàn là Hoang dâm nhơ nhuốc xấu xa cho lời. II. Bức tường từ đã bám vào Thì không trừ khử thế nào cho xong Những lời trong chốn khuê phòng Không sao tường tận nói cùng ai hay Những điều nói rõ vào tai Toàn lời nhơ nhuốc dông dài lôi thôi. (Gợi ý tìm hiểu: bài thơ theo thể hứng. Hình ảnh dây từ bám vào tường gợi ta nghĩ đến tình cảm trai gái đã ăn sâu vào tâm hồn người con gái đa tình) Ðông Sơn (Bân phong) Ðến Ðông Sơn ta đi dẹp giặc Mà không về rõ thật lâu rồi Từ đông trở lại đến nơi (ta từ phía đông đến) Ðường về lác đác mưa rơi nhọc nhằn Từ phương đông lần lần trở lại Trông về tây lòng mãi xót thương Ta may quần áo bình thường Ngậm tăm chẳng bận, chiến trường hết lo Những sâu kia chen bò lổm ngổm Cứ ở trong những cụm dâu xanh Kẻ này hiu quanh một mình Vẫn nằm dưới cỗ xe binh nhọc nhằn (Chương I thuộc thể phú, người kể chuyện là Chu Công em ruột vua Chu Vũ Vưong ) Giặc Ðông Sơn ta đi đến đánh Mà không về chợt tính lâu thay Từ đông trở bước lại đây Ðường về lác đác mưa rơi lạnh lùng Dưa quả lão kết thòng những trái, Ðất bên nhà đã thấy mọc dầy Khắp nhà bọ đất nhủi đầy Nhện thì giăng lưới ở ngay cửa vào Hẻm thì hươu bấy lâu làm lối Sáng lập lòe trong tối những giời (con vật ) Hoang tàn như thế kinh người, Thì đành tưởng nhớ để rồi về thăm. (Chương II vẫn là thể phú. 4 câu đầu nói việc đi về khó nhọc. Lòng nhớ quê da diết. Thực ra vẫn chưa về đến nhà, chỉ do tưởng tượng ra mà thôi). Giặc Ðông Sơn ta đi trừ dứt Không trở về rõ thực đã lâu Từ phương đông trở lại mau Ði về lác đác dãi dầu mưa rơi Chim sếu kêu đậu nơi gò kiến 20
- VHTQ -PHN Vợ nhớ chồng buông tiếng thở than Tưới và quét, lấp lỗ hang Hốt nhiên đã thấy bóng chàng đến nơi Khóm khổ qua nay thời trông lại (nguyên văn: qua khổ) Vẫn trên nhành lật ấy nhẹ buông Từ khi vắng mặt tha hương Ðến nay thấm thoắt đã dường ba năm (Chương III thuộc thể phú. Cảnh vợ nhớ chồng đi lính xa. Cuộc hội ngộ bất ngờ và cảm động). Ðến Ðông Sơn ta đi chinh phạt Không trở về lâu thật đấy mà Từ phương đông vội tách xa Ði về lác đác mưa sa dặm dài Chim thương canh lướt bay thấp thoáng Ðẹp xinh và tươi sáng sắc lông Có người con gái lấy chồng Rước dâu hai thứ ngựa bông đỏ vàng Mẹ thì giắt cho nàng lưng đáy Nghi lễ nhiều đã tới chín mươi Vui thay mới cưới những người! Vợ chồng cũ gặp, mừng thời xiết bao? (Chương này thuộc thể phú và hứng. Loài chim thương canh bay báo hiệu mùa cưới gả. Lính trở về kẻ độc thân lo cưới hỏi cũng vui mừng như kẻ vợ chồng đoàn tụ biết nói sao cho xiết). Ðào yêu (Chu Nam phong) (Đào tơ) I . Ðào chi yêu yêu II - Ðào chi yêu yêu III - Ðào chi yêu yêu Kỳ hoa trăn trăn Hữu phồn kỳ thực Kỳ diệp trăm trăm Chi tử vu quy Chi tử vu qui Chi tử vu qui Nghi kỷ gia thất Nghi kỷ gia thất Nghi kì gia nhân I Cây đào tơ xinh tươi Hoa nở nhiều Nàng ấy đi lấy chồng thì ắt thuận hòa, êm ấm cảnh gia đình Cây đào tơ xinh tươi Trái đã đơm nhiều Nàng ấy đi lấy chồng Thì ắt thuận hòa, êm ấm cảnh gia đình Cây đào tơ xinh tươi Lá đơm xum sê Nàng ấy đi lấy chồng thì ắt thuận hòa với người trong nhà 21
- VHTQ -PHN (Ghi chú: bài thơ thuộc thể hứng. Cây đào hoa màu hồng, quả ăn được. Cây còn tơ thì nhiều hoa. Tháng hai mùa xuân, đào trổ hoa là mùa cưới hỏi. Cưới xin đúng mùa thì hạnh phúc ấm êm) . Ðông phương chi nhật (Tề phong) (Mặt trời phương đông) I. Ðông phương chi nhật hề Bỉ xu giả tử Tại ngã thất hề Tại ngã thất hề Lý ngã tức hề II. Ðông phương chi nguyệt hề Bỉ xu giả tử Tại ngã thuyết hề Tại ngã thuyết hề Lý ngã phát hề Mặt trời phương đông kìa Cô nàng đẹp đẽ kia Vào nơi nhà ta Cứ rón bước theo ta Mặt trăng đã thấy ở phương đông Cô nàng đẹp đẽ kia Vào nơi trong cửa ta Cứ rón bước theo ta mà đi không rời. (Bài này thuộc thể hứng và phú, kể chuyện cô con gái bỏ nhà đi theo tình nhân). Trung Quốc hữu thôi (Vương phong) (Trung Quốc có cây thôi) I. Ở trong hang có cây thôi Lá cành trơ trụi khô rồi thế kia Có người vợ bị chia lìa Thở than cho cảnh phân chia vợ chồng Thở than uất ức tấc lòng Gặp người phải bước khốn cùng gian nan II. Có cây thôi ở trong hang Lá cành trơ trụi khô tàn còn chi Có người vợ đã chia li Thở dài chép miệng chỉ đành Gặp người chẳng phải hiền lành thủy chung III. Trong hang có cây thôi Tuy trong chỗ ướt, mà coi khô tàn Có người vợ bị lìa tan Rưng rưng nước mắt, khôn ngăn khóc thầm Rưng rưng giọt lệ ướt dầm 22
- VHTQ -PHN Ôi thôi há biết sẽ làm ra sao? {Bài thơ thuộc thể hứng. Người vợ bị chồng ruồng bỏ. Chỉ biết khóc thầm, hẳn là người phụ nữ trung hậu Những bài ca về hôn nhân, gia đình sống hạnh phúc cũng phản ánh quốc gia thịnh trị. Còn những cảnh gia đình tan vỡ vì chính sự hà khắc, đói kém hoặc chiến tranh loạn lạc có ý nghĩa phê phán lên án giai cấp thống trị} Hoàng điểu (Tần phong) (Chim hoàng ly/ chim hoàng oanh) I. Chim hoàng ly bay qua bay lại Ðậu cùng nhau trên mấy cành gai Chết theo Tần Mục là ai? Tử Xa Yêm Tức, chàng trai nước Tần Yêm Tức này đem thân chôn sống Trong trăm người anh dũng trội cao Vừa kề bên huyệt bước vào Dáng người thiểu não ưu sầu hoảng kinh Vút tầng cao trời xanh kia hỡi Nỡ giết người hiền giỏi nước ta Nếu cùng chuộc được chàng ra Trăm thân đổi mạng ai mà tiếc đâu ! II. Cứ lại qua hoàng ly bay mãi Rồi cùng nhau đậu lại cành dâu Chết theo Tần Mục ai nào? Trọng Hàng họ Tử Xa sao chết đành? Ðây Trọng Hàng đem mình chôn sống Bậc tài cao một chống trăm người Huyệt mồ vừa bước tới nơi thì chàng phút đã rụng rời xiết bao! Vút tầng mây trời cao xanh ngắt Nỡ giết người giỏi nhất nước này Nếu cùng chuộc được chàng ngay Trăm thân đổi mạng ai rày tiếc chi III. Chim hoàng ly lại qua bay lướt Bụi sở kia lần lượt đậu cùng Ai cam chết với Mục Công? Tử Xa Kiều Hổ người trong nước Tần Chàng Kiều Hổ đem thân chôn sống Bậc tài cao, một chống hàng trăm Bước đi lần đến huyệt hầm Thì chàng phút đã kinh tâm hãi hùng Trời vút cao một vùng xanh biếc Người tài mà nỡ giết sao đang? Nếu cùng chuộc được mạng chàng Trăm thân xin đổi, còn màng tiếc chi. Chú thích: khi hôn mê sắp chết, vua Tần Mục Công bảo con trai là Tần Khang Công hãy chôn theo mình 177 người sống. Ba người con dòng họ Tử Xa cũng bị đưa vào danh 23
- VHTQ -PHN sách . Bài ca dao tả nỗi sợ hãi đau đớn của ba chàng Yêm Tức, Kiều Hổ và Trọng Hàng, lên án vua Tần độc ác. Tương trọng tử (Dân ca Trịnh) (Đứa con trọng cả hai: hiếu và tình) Chàng ơi chớ lẻn vào đây Chớ leo mà gãy cành cây trong vườn Tình chàng đâu dám không thương Nhưng lời cha mẹ xem thường được đâu Tình chàng em vẫn ghi sâu Lời cha mẹ dặn em đâu dám nhờn Thác hề (Trịnh phong) (Lá cây rơi) I. Cây khô hỡi ! Cây khô kia hỡi ! Gió từng luồng sẽ thổi vào ngươi Này chàng thúc bá kia ơi Hễ chàng khởi xướng, em thời họa ngay II. Cây khô hỡi! Cây khô sắp rụng Gió từng luồng thổi đúng vào ngươi Này chàng thúc bá kia ơi Hễ chàng khởi xướng, thì tôi tán thành {Bài thơ theo thể hứng. Trong cuộc vui chơi, cô gái đa tình gợi ý cho người anh thúc bá mời mình ca hát nhảy múa] Bách chu (Dung phong) (Thuyền gỗ bách) Chiếc thuyền gỗ bách lênh đênh Giữa dòng sông nọ, mặc tình nổi trôi Trái đào để tóc rủ đôi Thật thì người ấy với tôi là chồng Ðã thề đến chết một lòng Mẹ tôi ơn nặng sánh cùng trời cao Há không tin được lòng sao? (Nàng Cung Khương nước Vệ góa chồng sớm, cha mẹ bắt nàng về gả chồng. Nàng làm bài thơ này để chống lại) Thái cát (Vương phong) (Hái sắn) I. Bỉ thái cát hề Nhất nhật bất kiến Như tam nguyệt hề II. Bỉ thái tiêu hề Nhất nhật bất kiến Như tam thu hề III. Bỉ thái ngải hề Nhất nhật bất kiến Như tam tuế hề 24
- VHTQ -PHN I. Kìa người hái sắn hái đay Trông nhau không thấy một ngày tương tư Lâu như ba tháng đợi chờ II. Cỏ tiêu đi hái kìa ai Xa nhau chẳng gặp một ngày đợi trông Bằng ba mùa đã chất chồng. III. Ra đi hái ngải kìa người Một ngày chẳng gặp nhau thời dài ghê Như ba năm trọn não nề . . . Trắc hộ (Ngụy phong) (Nỗi lòng con nhớ cha) I. Ta hãy trèo lên trên non hộ Ðứng trông về hướng đó nhớ cha Cha than: quân dịch con ta Sớm hôm chẳng nghỉ, xót xa tâm tình Cha mong con giữ mình cẩn thận Hòng trở về, chớ hẳn biệt tăm (Ðứa con có hiếu đi quân dịch ở xa, nhớ cha mẹ, leo lên núi ngóng hướng nhà mà tưởng tượng về cha). II. Lên núi chỉ là nơi dặm cỏ Nhớ mẹ nên đứng ngó lặng nhìn Mẹ than: quân dịch út mình Sớm hôm chẳng nghỉ, nỗi tình đáng thương Mẹ mong con nhớ thường cẩn thận Hòng trở về, chớ hẳn bỏ thây. (Ðứa con trai út nhớ về mẹ, biết mẹ thương mình là út hơn hết) III. Lưng núi kia, ta lên trên ấy Tưởng nhớ anh, đứng đấy trông xa Anh than: quân dịch em ta Sớm hôm cùng bọn, xót xa nỗi tình Mong em hãy giữ mình cẩn thận Hòng trở về, chớ hẳn chết đi. (Người em trai tưởng tượng anh trai mình leo lên núi ngóng em và mong em sống sót trở về) Trì đường (Nhị nhã) (Bờ ao) 1. 2. 3. Bờ ao nhà chàng Bờ ao nhà chàng Bờ ao nhà chàng biếc cói, thơm sen biếc cói, thơm lan Cói vàng, sen nở Có người tuấn tú Nhớ chàng vạm vỡ Nhớ chàng vạm vỡ Ta thương nhớ thầm Mái tóc loăn xoăn Nét người trang nghiêm Thức ngủ không yên Thức ngủ không yên Thức ngủ không yên Lệ đẫm triền miên Nghe nhói trong tim Gối mềm trăn trở. 25
- VHTQ -PHN (Chú thích: Tình yêu đơn phương của một cô gái) 4. KHUẤT NGUYÊN VÀ TẬP THƠ LI TAO 屈原 [Qū yuān] & 离骚 [Lí sāo] Khuất Nguyên (còn tên gọi Khuất Bình) sinh năm 340 tr.CN trong một gia đình quí tộc có họ xa với vua nước Sở. Ông là người thông minh, uyên bác. Vì thế được Sở Hoài vương bổ nhiệm làm chức "tả đồ" lúc 24,25 tuổi (tả đồ xếp dưới thừa tướng một bậc). Ông tham gia việc nước: làm pháp luật, đi sứ, tức là toàn bộ công việc nội vụ và ngoại giao. Ông thi hành hai chính sách lớn. Ðối nội là “biến pháp”, nội dung chủ yếu là hạn chế đặc quyền của giai cấp quí tộc, bảo vệ lợi ích của người có ruộng, nhằm khuyến khích sản xuất để cho dân giàu nước mạnh. Ðối ngoại là: chính sách liên minh với Tề chống Tần. Ðó là một chính sách sáng suốt. Lúc đó Sở và Tần là hai nước mạnh nhất, đều muốn vươn lên giữ ngôi bá chủ. Ông chủ trương liên kết với năm nước kia là Tề, Nguỵ, Hàn, Triệu, Yên, trước hết với nước mạnh nhất trong số đó là Tề. Khuất Nguyên đi sứ sang Tề. Liên minh Tề - Sở được ký kết. Nhưng Khuất Nguyên chỉ giữ chức Tả Ðồ được ba năm. Trong triều đình có tên Thượng Quan đại phu ghen ghét và có ý tranh quyền với ông nên tìm cách gièm pha hãm hại. Bởi nghe lời Thượng Quan, vua nổi giận không tin dùng nữa, chỉ cho ông giữ chức Tam lư đại phu trông coi việc tế lễ. Từ khi ông thôi không giữ chức vụ quan trọng thì nền chính trị nước Sở ngày càng rối loạn. Chính sách "Biến pháp" (thay đổi pháp luật) thất bại. Sở càng suy yếu. Nước Tần tìm cách ly gián Tề và Sở. Vua Tần chủ trương lôi kéo vua Sở. Vua Sở nghe lời, liền bị các nước kéo quân đánh. Sở đại bại, thiệt hại nhiều tướng sĩ. Năm 305 tr-CN, Sở bội ước với Tề và giao kết với Tần. Khuất Nguyên can gián, vua không nghe, lại còn đày ông lên phía Bắc. Các nước lần lượt kéo quân đánh Sở. Vua Tần mời Sở Hoài vương sang dự hội kiến ở đất Tần. Khuất Nguyên can ngăn vua không được. Vua Sở bị Tần lừa, bắt giam ba năm và chết ở đất Tần. Con vua lên ngôi là Sở Tương vương, tiếp tục kết thân với Tần và cưới con gái vua Tần làm Hoàng hậu. Các tên quí tộc Tử Lan, Tử Tiêu, Cần Thượng, Thượng Quan tiếp tục gièm pha ông, vu oan cho thơ ông chỉ trích triều đình. Vua nổi giận trục xuất ông đến miền Giang Nam. Khuất Nguyên ở đó được chín năm. Tướng Tần đem quân đánh Sở và chiếm được kinh đô. Khuất Nguyên nghe tin, đau khổ tuyệt vọng, nhảy xuống sông Mịch La (tỉnh Hồ Nam) tự sát. Ðó là ngày 5 tháng 5 năm 278 tr.CN, trùng ngày tết Đoan ngọ. Ông thọ 62 tuổi. Khuất Nguyên một nhà chính trị đồng thời là một nhà thơ. Tác phẩm của ông có nhiều, hiện còn 25 cuốn. Tiêu biểu là Sở từ (楚 辞) . Sở từ là tên chung một tập thơ gồm nhiều tác giả nhưng trong đó tác phẩm của ông giữ địa vị chủ yếu cả về số lượng và chất lượng (gồm Cửu ca, Cửu chương, Thiên vần, Bốc cư, Ngư phủ và Li tao) Thơ của Khuất Nguyên phản ánh tấn bi kịch cuộc đời ông. Trước hết Khuất Nguyên là bi kịch của một nhà chính trị sáng suốt mong muốn cho nước nhà giàu mạnh để thống nhất Trung Quốc theo yêu cầu của thời đại, nhưng không được nhà vua trọng dụng. Hai chính sách lớn của ông hoàn toàn nhằm mục đích đó, không có chút tính toán cá nhân nào. Nhưng Khuất Nguyên gặp phải những ông vua tồi, nhẹ dạ hám danh, trước sau bất nhất, bỏ ông không dùng. Lại còn một bọn quan lại xa hoa, xấu xa dâm dật gièm pha hãm hại. Do đó, vua Sở đi từ thất bại này đến thất bại khác. Khuất Nguyên buồn tủi, căm giận và cái chết của ông chính là hành động vì nước vì dân. Bi kịch Khuất Nguyên còn là bi kịch của một người trong sạch, đạo cao đức trọng phải sống giữa những kẻ tầm thường đầy dục vọng cá nhân và không tránh khỏi bị bọn này hãm hại. Ông như bông sen nở giữa bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.Thơ ông thường nói đến 26
- VHTQ -PHN hoa thơm, cỏ lạ để bộc lộ tâm hồn mình. Bài thơ "Quất tụng" ca ngợi cây quất (quít, hạnh) tượng trưng cho tiết tháo của người chính trực. “Năm tàn tiết muộn mà lá vẫn tươi, hoa vẫn trắng, cành vẫn sum sê, gai vẫn nhọn quả vẫn tròn”. Ca tụng cây quất là tự khẳng định phẩm chất kiên cường của mình vậy. Bi kịch Khuất Nguyên là bi kịch của con người trí thức giàu sang không thể quyến rũ, nghèo đói không thể lung lay, uy quyền vũ lực không thể khuất phục. Ông vấp phải bọn tiểu nhân xấu xa, đồi bại nắm vận mệnh quốc gia. Tấn bi kịch kéo dài gần nửa đời người, khi được tin dùng, khi bị bỏ rơi, hai lần bị đày ải. Cuộc đời ông chỉ đắc chí được ba năm khi giữ chức Tả Ðồ. Còn lại là hơn 20 năm u uất, buồn tủi, đau thương, từ năm ba mươi tuổi đến khi mất. Nhưng ông không chút hối hận. Ông chọn cái chết làm gương cho người đời soi chung. "Li tao" là bài thơ dài nhất của Khuất Nguyên, gồm 373 câu và là tác phẩm tiêu biểu nhất, trong đó ông trình bày lý tưởng ông theo đuổi, thổ lộ nỗi phẫn uất trước hiện thực đen tối của xã hội, nêu cao tinh thần đấu tranh bất khuất, bộc lộ lòng yêu nước, thương dân nồng nàn của mình và ý chí thà chết chứ không chịu sống hèn, sống đục. Nhà sử học Tư Mã Thiên đời Hán giải thích "Li tao là li ưu, tao là lo, lo buồn trong chia li" Một nhà viết sử đời Hán khác, Ban Cố, lại giải thích "Li là gặp phải, tao là lo âu. Nhà thơ gặp phải điều lo âu mà viết ra những vần thơ này". Hai cách giải thích khác nhau nhưng thống nhất rằng nhà thơ đã bày tỏ nguyên nhân khiến cho mình lo âu bằng những lời đau buồn, ai oán sâu sắc trong những ngày phải sống kiếp lưu đày ở phương xa.(Đào Duy Anh theo Quách Mạt Nhược giải thích: “tao” là tên thể thơ] "Li tao" là một bài thơ trữ tình thương cảm, lâm li. Ðó là bài thơ của nhà chính trị nhưng chất thơ rất đậm, Kết hợp trữ tình và tự sự, kết hợp tính lãng mạn và tính hiện thực. Thủ pháp nghệ thuật chính là nói bằng hình tượng, ông thường dùng lối ẩn dụ, tượng trưng. Ông tả các thứ hoa thơm cỏ lạ ở nơi núi cao, vực thẳm để tượng trưng cho những phẩm chất tốt đẹp. Khi ông nói việc đeo hoa vào người làm đồ trang sức là nói tự mình trau dồi trong sạch, thanh cao. Ông còn dùng thần thoại truyền thuyết để tả cảnh núi non, sông nước, mây gió trăng sao làm cho ý thơ càng thêm bao la bát ngát. "Li tao" viết theo thể từ thuộc dân ca nước Sở, dùng ngôn ngữ nước Sở, đó là tính chất dân tộc đậm đà của thơ ông. Lòng yêu nước và tình thương dân ở Khuất Nguyên gắn bó với nhau thật mật thiết. Phong tục ở vùng Giang Nam chứng tỏ tình cảm của nhân dân đối với nhà thơ thật là sâu sắc. Theo truyền thuyết, Tết Ðoan ngọ (5 tháng 5 âm lịch) là tết của Rồng. Ngày đó, dân làng chài tổ chức đua thuyền, gói bánh chưng thả xuống nước để cúng Rồng. Nhưng từ sau ngày 5 tháng 5 năm 278 tr.CN, ngày Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La thì Tết Ðoan ngọ có thêm ý nghĩa mới. Tết đó được dành cho ông, người đã hi sinh đời mình cho Tổ Quốc, cho nhân dân. Người ta giải thích phong tục như sau: thả bánh chưng xuống nước để nhử cá khỏi rỉa thể xác nhà thơ, đua thuyền nhanh để cứu vớt ông lên. Trong thơ, ông giận trách Sở Hoài Vương : Tình ta mình chẳng xét cùng Nghe lời ton hót đem lòng giận ta ( ) Trách mình chẳng suy sau xét trước Mãi mà không rõ được thói đời Chúng ghen ta có mày ngài Phao cho ta tiếng con người lẳng lơ. "Mình" ở đây là chỉ Sở Hoài Vương. với bọn tham quan xu nịnh độc ác, ông vạch tội chúng : Chúng chen chúc trên đường vụ lợi Tấm lòng tham, tham mãi tham hoài Ðem dạ mình đo bụng người 27
- VHTQ -PHN Sinh tình ghen ghét, đặt lời gièm pha Mồi phú quí cố mà đeo đuổi Phải lòng ta có vội thế đâu ! Đối với hoàng tử con vua Sở: Lan, ta tưởng đáng nơi tin cậy Có ngờ đâu bóng bẩy mà hư Theo đòi, bỏ vẻ đẹp xưa Ðua đòi cẩu thả cũng như mọi loài Tiêu, bợ đỡ nịnh đời ra mặt Túi thuốc trừ nhét chặt phù du Ðem thân cầu cạnh bôn xu Còn đâu giữ được thơm tho tính trời. (Tử Lan- hoàng tử, Tử Tiêu, Trịnh Tụ, Cận Thượng là bọn tham quan ) . Theo ông, sống phải có lý tưởng cao cả. Lại phải biết đấu tranh cho lý tưởng, thất bại không nản lòng. Ðó là nhân cách Khuất Nguyên mà hơn hai ngàn năm nay người đời không ngớt lời ca tụng. Muốn kiên trì lí tưởng, ông cho rằng phải trau dồi phẩm chất đạo đức, càng phải tự hào về mình, không thể thấy người vụ lợi xu nịnh thì cũng hùa theo. Thơ Li Tao nhắc đi nhắc lại ý chí đó. Khi còn tại chức, ông trau dồi đạo dức để làm tròn nhiệm vụ. Khi bị giáng chức, lưu đày, ông vẫn giữ vững đạo đức. Chống lại mọi sự quyến rũ, ông còn phải chống lại mọi lời khuyên xằng bậy, kể cả của người thân, chị gái (hoặc bạn gái) của ông là Nữ Tu khuyên ông nên sống theo thời, như mọi người, không nên "bướng bỉnh": Sao em thích phô trương chải chuốt Riêng một mình giữ một vẻ xinh Ðầy nhà đầy nhợ cỏ tranh Người ta mặc cả mà mình lại không ? [mặc áo cỏ tranh ý nói ăn mặc luông tuồng tùy tiện] Ðể trả lời chị, ông trình bày lại lý tưởng của mình, nhưng ông rất buồn, vì đến người thân thích nhất cũng chẳng hiểu mình. Người đời không tán thành, thì ông đi tìm bạn tri kỷ trong tưởng tượng. Nhà thơ cưỡi rồng, giong phượng đi khắp nơi tìm bạn : Quản bao nước thẳm non xa Ðể ta tìm kiếm cho ra bạn lòng. Nhà thơ cưỡi ngựa ra đi, cho ngựa uống nước ở nơi mặt trời tắm, rồi đi khắp nơi trong tưởng tượng. Đọc bài thơ “Ngư phủ” của ông, sau này thi hào Nguyễn Du đã viết về ông bằng hai câu sau : Trong thiên hạ ai người thương kẻ tỉnh một mình? Khắp bốn phương trời, không có nơi nào gởi tấm lòng cô trung Trước mắt ông có một sức quyến rũ, hấp dẫn: bỏ nước Sở mà đi sang nước khác, ở đó có kẻ trọng dụng tài năng của ông. Nhiều người khuyên ông nên bỏ đi. Nhưng ông là người nước Sở, ông yêu quí nước Sở của mình. Cuối cùng, chỉ còn cái chết, chết vì nước. Ông nhảy xuống sông Mịch La khi nghe tin kẻ thù chiếm được kinh đô nước Sở. Cái chết của nhà thơ Khuất Nguyên là bi kịch không tránh khỏi của một nhà yêu nước chân chính sống trong một triều đình phong kiến mục nát, của con người trung nghĩa biết hi sinh vì chính nghĩa . 28
- VHTQ -PHN Khuất Nguyên là nhà thơ đầu tiên của Trung Quốc mà tên tuổi vượt khỏi phạm vi quốc gia trở thành danh nhân văn hóa của nhân loại. Năm 1952, Hội đồng hoà bình thế giới đã công nhận ông là danh nhân văn hoá thế giới. Tất cả những ai đấu tranh cho tổ quốc, cho chính nghĩa mà thất bại hoặc bị bọn gian thần gièm pha hãm hại đều xem ông là tri kỷ và tìm thấy nguồn sức mạnh ở tấm gương Khuất Nguyên. Nhiều nhà thơ đời sau làm thơ đã lấy cảm hứng từ cuộc đời ông như "Ðiếu Khuất Nguyên", "Vịnh Khuất Nguyên", "Nhớ Khuất Bình " Sau này từ Lý Bạch, Ðỗ Phủ, Lỗ Tấn đến Quách Mạt Nhược đã viết những dòng thơ cảm khái và hùng hồn noi theo gương ông. Đây là bài thơ "Ngư phủ" của Khuất Nguyên có hai câu: Ðời đều trọc cả, một mình ta trong Mọi người đều say, một mình ta tỉnh Khuất Nguyên cũng có ảnh hưởng khá sâu đậm đến các nhà thơ cổ điển Việt Nam. Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, mỗi người mỗi cảnh ngộ đều có nỗi oan ức cần bộc bạch, thì đều làm thơ vịnh nhớ Khuất Nguyên. Nhiều nhất là Nguyễn Du, có tới bảy bài. Tống Ngọc đệ tử của Khuất Nguyên viết bài từ "Chiêu hồn" gọi hồn thầy trở về vui hưởng thái bình. Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc, lại viết bài "Phản chiêu hồn" để ngụ ý lên án xã hội phong kiến Việt Nam . Ðúng như Lưu Hiệp, nhà phê bình lí luận văn học Trung Quốc đã nhận xét : "Những nhà văn hậu thế có tài đều hấp thu nội dung tư tưởng của thơ ông, mà những nhà văn bình thường cũng nhặt nhạnh được lời văn đẹp đẽ" (Sách Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp). “Ngư phủ từ” (bài Từ về người dân chài) Khuất Nguyên khi bị ruồng bỏ, thơ thẩn đến gần nơi đầm hồ, mặt mũi tiều tụy, hình dung khô héo. Lão ngư phủ trông thấy, hỏi thăm: -Phải ông là Tam lư đaị phu, cớ sao đến nỗi thế ? Khuất Nguyên đáp: -Chúng nhân giai trọc, ngã độc thanh (Mọi người đều đục, một mình ta trong) chúng nhân giai túy, ngã độc tỉnh; (Mọi người đều say, mình ta tỉnh) thị dĩ kiến phóng (cho nên bị đuổi bỏ) Ông ngư phủ nói: -Thánh nhân không câu nệ việc gì, mà biết tùy thời thay đổi. Người đời đều đục thì sao không khuấy thêm bùn, đập thêm sóng cho đục một thể. Thiên hạ đều say sao không ăn cả men, húp cả bã cho say một thể ? Việc gì phải nghĩ sâu làm cao, khiến người khác phải ruồng bỏ mình ? Khuất Nguyên đáp: -Tôi nghe nói, mới gội đầu tất chải mũ, mới tắm xong tất thay áo, có đâu đem cái thân trong sạch mà chịu vật nhơ nhớp được ? Thà nhảy xuống sông Tương, vùi thây trong bụng cá, chứ sao trắng lốp mà chịu vấy bụi cát của thế tục ! Ngư phủ nghe xong thì gõ mái dầm mà hát rằng: Thương lương chỉ thủy thanh hề, khả dĩ trạc ngã anh Thương lương chỉ thủy trọc hề, khả dĩ trạc ngã túc. (Sông Thương nước chảy trong veo thì ta đem giặt cái lèo mũ ta Sông Thương nước đục chảy ra thì ta lội xuống để mà rửa chân} Hát xong đi thẳng, không thêm một lời. 29
- VHTQ -PHN 5 . BÁCH GIA CHƯ TỬ 百家诸子 Bǎi jiā zhū zǐ 5.1 Tản văn lịch sử Tả Truyện là cuốn sách sử, có thể của Tả Khâu Minh, sử quan nước Lỗ, cùng thời với Khổng Tử, nội dung trùng với Xuân Thu, thiên về nghệ thuật kể truyện . Chiến Quốc sách do nhiều sử gia Chiến Quốc soạn, về sau Lưu Hướng đời Hán biên soạn lại, nội dung là mưu kế, sách lược của thuyết khách dâng vua chúa đương thời (chép việc từ đầu Chiến quốc đến khi 6 nước bị diệt vong, nhà Tần lên ngôi, truyện Mạnh Thường Quân nước Tề, Kinh Kha nước Triệu). Kinh Xuân Thu do Khổng Tử soạn (xem phần 5.2.6) 5.2 Tản văn triết lý (tổng hợp về khoa học xã hội -nhân văn) Xuân thu -Chiến quốc là thời kì "trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng" (bách hoa tranh khai, bách gia tranh minh) nên có nhiều tư tưởng triết học khác nhau, tiến bộ hoặc bảo thủ và chiết trung. Sự trăn trở đua tiếng thúc đẩy tiến bộ. Mục tiêu của trí thức là tìm hướng chấm dứt phân tranh phân tán tiến tới thống nhất đất nước, mong cho dân hưởng bình yên. Nổi lên có ba phái lớn: Nho gia, Lão Trang và Mặc gia. Ba công trình tiêu biểu là Trang Tử, Luận ngữ và Mạnh Tử trong số trước tác của Lục gia (6 trường phái tiêu biểu nhất). 5.2.1. Dương Chu (Chu Tử) Thuyết "vị ngã” (vì bản thân): mỗi người giữ được thân mình thì còn tất cả (Truyện Kiều: Còn thân ắt sẽ đền bồi có khi). Coi trọng đời sống tự nhiên của người. Coi dục vọng của người là chính đáng cần được thỏa mãn. Chống lại mệnh và lễ. Khai mở cho Lão Tử và Trang Tử sau này. 5.2.2 Lão Tử: sáng lập Ðạo gia hay đạo Hoàng Lão là những cách gọi khác nhau của một học thuyết (khác với Đạo giáo là phù thuật mê tín của Cát Hồng thời Tam quốc) Còn Ðạo gia tức là Lão Trang là một học thuyết triết học nghiêm túc. Sách sử ký của Tư Mã Thiên (đời Hán) chép rằng Lão Tử là ngừơi nước Sở, họ Lý tên Nhĩ tự Bá Dương, thuỵ là Ðam, đã từng giữ một chức quan nhà Chu. Các giả thuyết khác nhau cho rằng ông thọ được 81 tuổi, 160 tuổi, 200 tuổi, 250 tuổi vv Lão Tử sống cùng thời với Khổng Tử, có thể lớn hơn Khổng Tử 20 tuổi. Sinh trong thời loạn, thấy cảnh thiên hạ đua nhau đổ xô vào sự nghiệp mưu bá đồ vương, kiếm chác lợi danh mà bỏ hết luân thường đạo lý, Lão Tử chán nản bỏ quan. Lão Tử đem hết kiến thức mà thuyết phục cho nhiều người quen biết nhưng chỉ ít người theo nên ông đi ẩn dật và mất ở đâu không ai biết. Ông để lại vẻn vẹn một tập sách nhan đề là Ðạo Ðức Kinh. Nội dung có 81 chương chia làm hai thiên hơn năm ngàn lời nói. Do nghĩa lý cao siêu, khó hiểu nên đời sau các đạo sĩ chú thích nhiều không kể xiết. Vũ trụ quan Lão Tử: Lão Tử cho Đạo là một nguyên lý tuyệt đối. Vạn vật bắt đầu đều là khí hư vô, nó sinh ra tính chất rồi mới sinh ra hình thù, màu sắc, nó là nguồn sinh hoá của vạn vật. Thực ra Ðạo không hình không tiếng nhưng ở khắp mọi nơi. Ðạo rất nhiệm màu và không có cách gọi tên nào khác. 30
- VHTQ -PHN Từ đó ông chủ trương cái gì cũng nên để cho nó tồn tại một cách tự nhiên, như vậy rất công bằng không thiên vị ai. Do có làm (hữu vi) nên sinh ra cạnh tranh, thất bại, mất mát, đau khổ. Có nghĩa ông chủ trương vô vi. Nhưng Vô vi là một cách sống tương đối. Ông nói "làm lúc việc chưa xảy ra, trị nước lúc chưa có loạn". Như vậy là ông chủ trương phòng bị, vô vi thanh tĩnh, không quá bi quan yếm thế như Trang Tử sau này. Ðối với cuộc đời, ông vẫn có chí phụng sự, nhưng phụng sự với tính chất nhu nhược, mềm dẻo như là "tính nước" không lìa bỏ đời khi đời còn cần mình, nhưng khi công đã thành, danh đã toại, thì nên lui về ẩn dật (công thành thân thoái, thiên chi đạo) đó là đạo Trời. Khi người ta đã lui về ẩn dật thì ông dạy rằng phải biết phép dưỡng sinh, nghĩa là làm cho mình trở nên cực kỳ trống rỗng, hết lo lắng, ham muốn, giữ cho tâm hồn phẳng lặng yên tĩnh để trông rõ sự huyền diệu của thiên nhiên. Muốn thế phải tăng cường sinh lực nhưng không để nó hao phí. a. Thuyết chính trị Vô vi "Không trọng người hiền thì dân khỏi ganh ghét Không chuộng vật quí thì khỏi sinh trộm cướp Không ham muốn vật gì để dân khỏi sinh loạn". b. Thuyết luân lý Lão Tử quí trọng nhất là Ðạo sau mới đến Ðức, Nhân, Nghĩa và sau cùng là Lễ. Ông không ưa thứ đạo đức giả dối. Hãy để con người sống cho tự nhiên, rồi sau tự nhiên sẽ sinh đủ Ðạo, Ðức, Nhân Nghĩa, Lễ. Ngài viết "Ðạo lớn bị bỏ mới có nhân, nghĩa, sáu thân không hoà mới có hiếu đễ (sáu thân: cha, mẹ, vợ, chồng, anh, em). Nhà nước loạn ly mới sinh tôi trung, không đủ tin nhau mới có chữ Tín ) Ngoài Ðạo ra ông không tin có gì lớn hơn, kể cả trời hay thượng đế ông cũng không thừa nhận. Ông cũng ít bàn đến quỉ thần. Ông cho rằng ma quỷ cũng chẳng làm được gì ngoài lẽ tự nhiên. Trong thực tiễn xã hội thời cổ đại, chủ nghĩa nhân văn của Ðạo Khổng không làm thoả mãn người Trung Hoa. Bởi tâm hồn con người có chỗ thâm thuý mà Ðạo Khổng chưa đạt tới. Ðạo Khổng căn bản là "đại khẳng định", còn Ðạo Lão là "Ðại phủ định". Người ta nói Ðạo Khổng là triết học thành thị, còn Lão Tử là triết học đồng ruộng. Vả lại, Ðạo Khổng nghiêm trang quá, cận nhân tình quá, không bốc đồng lãng mạn, ảo tưởng, ngây thơ. Một dân tộc, một con người có hai mặt bẩm sinh: một phần lãng mạn, một phần cổ điển. Lão và Khổng đáp ứng thoả mãn mọi tâm trạng con người. Dù sao, chủ nghĩa tự nhiên của Lão Tử cũng là liều thuốc giảm đau cho những vết thương tinh thần của con người. Theo ông, nhân loại bắt đầu văn minh thì cũng bắt đầu thoái hoá, và lũ thánh hiền như Khổng Tử chỉ làm cho dân thêm "đồi truỵ". Người kế thừa tư tưởng của ông là Trang Tử. Trang dùng bút pháp phúng thích đả kích sự giả dối tầm phào của cuộc đời và chủ trương xuất thế của ông mạnh mẽ hơn cả tiền bối. Lão giáo có yếu tố duy vật thô sơ vì nó lý giải đầu mối vạn vật là Ðạo chứ không phải bởi thần thánh siêu nhiên huyền bí. Lão Tử cũng đã đi vào huyền thoại, người Trung Hoa tin rằng ông đã tu thành tiên trở thành Thái Thượng Lão Quân coi sóc việc luyện lò linh đan lo việc trường sinh bất tử ở cõi trời. Lão - Trang là học thuyết có ảnh hưởng khá lâu bền cho hậu thế, khi tỏ ra tích cực , lúc khác lại là tiêu cực. Ðiều này chúng ta thấy được khi nghiên cứu các nhà thơ, văn và văn chương của họ, đặc biệt trong thơ Ðường, trong tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng và thơ văn cổ điển Việt Nam. Tiểu thuyết Hồng lâu mộng là một sự rối bời của cả ba cảm hứng nhưng chủ đạo là Phật giáo. Triết lý Lão Tử rõ ràng triệt để hơn Khổng Tử nhưng thật khó vận dụng vào 31
- VHTQ -PHN thực tiễn. Có lẽ Ðạo lão mang tính chất hư vô, không tưởng nhưng con người vẫn cần đến đạo . Trang Tử là bộ sách do Trang Chu và học trò soạn, còn gọi Nam hoa kinh. Gồm ba phần Nội thiên, Ngoại thiên và Tạp thiên. Trang Tử tiếp nối học thuyết của Lão Tử. Nhà nghèo, bện giày kiếm sống, chối từ chức quan. Tư tưởng xuất thế, coi mọi thứ trên đời như nhau không hơn kém nhau. Có tài đặt truyện ngụ ngôn, lí thuyết hoang đường xa xôi như “giấc mộng hoá bướm” (hồ điệp mộng)- một kiểu chủ nghĩa hư vô. Văn ông vừa trữ tình vừa trí tuệ, giàu tưởng tượng . 5.2.3 Âm Dương gia: Trâu Diễn là người phát triển thuyết âm dương tới ngũ hành (có thể đã tiếp thu “ngũ hành” từ phương Nam sông Dương Tử). 5.2. 4 Mặc Tử Quê nước Tống, sống cùng thời với Khổng Tử, tên thật là Mặc Ðịch. Bôn ba khắp nơi lo việc cải hóa thiên hạ. Quan điểm của ông : thiên hạ đói khổ loạn ly là do con người không biết thương yêu nhau, đặc biệt bọn cai trị không thương dân mà chỉ thích chiến tranh. Ông chủ trương truyền bá thuyết bác ái, còn gọi kiêm ái (gần giống với thuyết của Chúa Jesus). Ông bác bỏ mệnh trời, tin rằng con người có sức mạnh làm được tất cả (phi mệnh). Ông chỉ nêu tấm gương sáng của Nghiêu Thuấn Vũ Thang , chống lại Lễ nhà Chu (trái với Khổng Tử), danh hợp với thực chứ thực không cần hợp với danh (lại trái với Khổng Tử). Học thuyết kiêm ái (mặt trái là biệt ái - vị kỷ ) trước hết là quan niệm bình đẳng trong xã hội. 5. 2. 5 . Tuân Tử và Pháp gia Tuân Tử tên là Huống tự là Khanh (thế kỉ 4 tr.CN) vốn theo đạo Khổng nhưng có tinh thần khoa học, trái với Mạnh Tử. Ông cho rằng tính người vốn ác, trở nên thiện là nhờ dạy dỗ. Ông chủ trương dùng lễ nhạc để tiết chế tính dục. Hàn Phi tử là học trò của ông, phát triển tiếp: không thể chỉ dùng lễ nhạc mà phải dùng pháp hình luật để trừng phạt thì dân mới yên. Hàn Phi tử bảo rằng nhân nghĩa là vô dụng. Tần Thủy Hoàng rất thích tư tưởng của Hàn Phi (hoàng tử út nước Hàn) cố mời Hàn theo mình nhưng thất vọng. Không mấy người ủng hộ quan điểm của Hàn, chỉ có một người áp dụng thành công trong việc thống nhất Trung Quốc chấm dứt loạn lạc - người ấy là Tần Doanh Chính. Những người theo phái này gọi chung là Pháp gia. 5.2.6. Khổng Tử, Mạnh Tử, Nho học và Luận ngữ 孔子 [Kǒng Zi], 孟子[ Mèng Zi] & 儒家 [ Rú jiā ] [Nho: gốc là Nho quan giữ việc nghi lễ của nhà Chu, về sau dùng gọi học thuyết của Khổng tử] Ðạo Nho nguyên thuỷ chỉ đạt tới trong các nhà quyền quí và những người học thức. Trong thời Xuân Thu, đại đa số dân chúng vẫn mê tín theo dị đoan huyền hoặc. Ðến cuối đời nhà Chu, thời Chiến quốc, nhà giáo Khổng Tử mới soạn bài giảng lập thành một hệ thống lý thuyết, đi du thuyết khắp nơi qua nhiều nước, sau mở trường dạy học. Uy tín của Nho học lần lần lan rộng. Về sau các môn đệ của ông, đặc biệt là Mạnh Tử góp phần hoàn chỉnh cả hệ thống đạo Nho. Nhiều thế kỷ sau, trải qua các thời đại Hán, Ðường, Tống, các nhà trí thức tiếp tục biên soạn, chú giải, phân tích trước tác của tiền bối. Người ta gọi Khổng Tử là Giáo Tổ. Ðức Khổng Tử (551-479 tr CN) tên thật là Khâu, tự Trọng Ni, sinh ở nước Lỗ trong một gia đình quí tộc (bây giờ là làng Khúc Phụ, tỉnh Sơn Ðông). Thân phụ là Thúc Lương 32
- VHTQ -PHN Ngột, thân mẫu là Nhan Thị. Ông sinh vào tháng 10 năm 551 trước công nguyên, vào đời Chu Linh Vương (thời Ðông Chu). Ðến khoảng 51 tuổi, ông được vua Lỗ mời ra làm quan. Giữ nhiều chức vụ quan trọng, thực hiện nhiều cải cách lớn lao làm cho nước Lỗ cường thịnh. Khi không được trọng dụng, ông đi du thuyết nhiều nước khác. Ông qua lại các nước Vệ, Tề, Thái, Diệp, Sở, Tần nhưng không được vua nào trọng dụng. Chủ tâm của Khổng Tử ra đi bôn ba đây đó để tìm một người thi hành học thuyết của mình chứ không phải cầu danh cầu lợi Chán nản, Khổng Tử trở về nước Lỗ. Trải qua 14 năm chu du thiên hạ, không tìm được một minh quân, tuổi đã già nên ngài chỉ chuyên dạy học trò và biên soạn lại sách cổ như các bộ Ngũ Kinh. Học trò của ngài lên tới 3000, trong đó có 72 người tinh thông học thuật và thành đạt nổi danh thời Xuân thu, Chiến quốc. Khổng Tử mất năm 72 tuổi. Ðương thời, đạo Khổng không được áp dụng thi hành, nhưng về sau có hàng trăm triệu người theo. Ðền thờ Khổng phu tử ở tỉnh Sơn Ðông ngàn năm lửa hương không tắt. Ðạo Khổng gây ảnh hưởng rộng rãi và lâu bền qua nhiều thời đại. Học thuyết của Khổng Tử gồm có 3 chủ đề lớn: Chính trị, luân lý và giáo dục. Về chính trị Phương châm của Khổng Tử là đức trị chủ nghĩa, nghĩa là: bậc thánh nhân có Ðức được dân qui phục thì làm vua, người quân tử có đức được dân ngưỡng vọng thì làm quan. Còn thường dân, khi người trên có Ðức thì người dưới noi theo "Ðức quân tử như gốc, Ðức tiểu nhân như cỏ, gió thổi thì cỏ rạp theo". Vua có ra vua thì bề tôi mới ra bề tôi. Nhưng nếu vua không ra vua , đại phu không ra đại phu thì phải đặt cho họ cái tên khác, tức là phải chính danh lại (thuyết chính danh) Ngài khẳng định "quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử". Ngài giải thích: xã hội loạn là vì ở nhân viên hành chính chứ không phải do chính thể (?) loạn vì đạo đức suy vi. Ngài lại chủ trương "thiên ý-dân tâm", có nghĩa : trời hằng thương dân, dân muốn điều gì trời cũng cho. Muốn biết ý trời, hãy nghe ở lòng dân. Tư tưởng này gần với tư tưởng dân chủ, có tác dụng chống lại chế độ chuyên chế độc tài. Về cai trị, toàn dân đều được đủ ăn đủ mặc, không có kẻ giàu, người nghèo thái quá. Kế đó đem lễ nhạc mà giáo hoá dân. Lễ đưa dân vào khuôn phép, nhạc để cảm hoá lòng người. Chừng nào dân không nghe, bất đắc dĩ mới dùng đến hình pháp. Ðạo nho chỉ chú trọng vào việc cư xử và trị nước mà xa lánh phần siêu hình học và logique học, không cho môn sinh nghĩ tới những lý thuyết mơ hồ tối tăm. Ðó là chủ trương "bất khả tri" (biết điều gì thì giữ đúng điều ấy, không biết nhận là không biết, như vậy thật là biết). Ông không tìm hiểu, giải thích về quỉ thần và sự chết nhưng khuyên học trò cứ kính trọng cúng lễ quỉ thần. Khổng Tử chỉ khuyên chúng ta tìm một sự đồng nhất nào đó giữa các hiện tượng và cố gắng hoà hợp và quân bình giữa đạo làmngười và luật thiên nhiên - đó là đạo trời . Tóm lại Khổng Tử nêu cao 3 tư tưởng chính trị: đại đồng, công bằng và dân là gốc. Về đạo đức luân lý Khổng Tử dạy con người cốt phải giữ được NHÂN. Nhân gồm bốn mối: Hiếu với cha, mẹ, đễ với anh em; trung thứ với mọi người trong xã hội. Chữ "nhân" là hàng đầu, kế đó mới đến nghĩa, lễ, trí, tín - gộp chung gọi là "ngũ thường". Lại có "tam cương" (quân - sư - phụ) ràng buộc ngũ thường. Ðối với phụ nữ thì chữ nhân triển khai thành "tam tòng, tứ đức". Học thuyết của Khổng Tử không cao siêu như Lão giáo và Phật giáo nhưng rất hợp với đạo người và tình đời. Ngày nay, làn sóng văn minh Âu-Mỹ tràn sang, ảnh hưởng của đạo Nho có bị sút kém nhưng vẫn được dân gian sùng bái duy trì. Giới nghiên cứu chứng minh 33
- VHTQ -PHN rằng đạo Khổng đã chuyển hoá thành tính dân tộc Việt Nam theo qui luật "việt nam hoá". Nghĩa là, cha ông ta chỉ tiếp thu những lý thuyết phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam. Về giáo dục Dạy cho bất kỳ ai (hữu giáo vô loại), ai muốn học đều dạy (“chỉ cần một thẻ nhang, một bó nem là ta thu nhận”- Luận ngữ). Dạy không biết mệt, học không biết chán (giáo nhi bất quyện, học nhi bất yếm). Phương pháp dạy học tốt phải là: Tuỳ đối tượng mà dạy. Học phải hành (học và tập). Dạy là gợi mở trí suy đoán Người quân tử là con người lý tưởng của thời đại, gồm những nét tiêu biểu sau (Luận ngữ): - Người quân tử phải có tư cách, tư cách gồm văn vẻ và chất, hai yếu tố này phải quân bình, cốt lõi là thành thực. - Muốn trở thành người quân tử, phải kính cẩn sửa mình hoài - Người quân tử không theo đạo nào, đảng nào nhưng quan tâm tới mọi đảng - Trí của người quân tử phải sâu rộng nhưng không bỏ qua thực tế, ấy mới là sáng suốt .- Người quân tử xử sự theo quy tắc hoàng kim "điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác". - Lấy ân đức báo ân đức. Lấy chính trực mà đáp lại sự oán nghịch. Chữ “thứ” là quy tắc lớn. - Phải lễ độ với mọi người. Đừng khen ai quá lố. - Không cầu cạnh người trên và không lấn át kẻ dưới . Người quân tử phải theo 9 điều chú ý : 1. Khi trông thì phải để ý cho thấy rõ. 2. Khi nghe phải lắng nghe cho rõ . 3. Sắc mặt giữ cho ôn hoà . 4. Tướng mạo phải khiêm nhường, cung kính. 5. Nói thì phải trung thực . 6. Làm việc thì phải nghiêm túc, đàng hoàng . 7. Có điều gì nghi hoặc thì phải hỏi người khác . 8. Khi giận thì phải nghĩ đến hậu quả tai hại có thể xảy ra . 9. Thấy mối lợi thì phải nhớ đến điều nghĩa (sách Luận Ngữ ). TỨ THƯ 1. Đại học Cuốn đầu tiên trong bộ Tứ thư Đại học nguyên là một chương trong Lễ Ký được viết thành sách trong khoảng thời gian từ thời Chiến Quốc đến thời Tần Hán, được xem là một trong những sách chủ yếu của Nho gia. Tác giả của đại học là ai hiện nay vẫn chưa xác định rõ, có người cho là của Tử Tư viết, nhưng Chu Hy đời Tống lại cho là của Tăng Tử viết. Bởi Chu Hy cho rằng Tăng Tử là học trò của Khổng Tử nên Tăng Tử ghi chép lại lời của Khổng Tử là hợp đạo lí. Và đa số người ta tin vào giả thiết này hơn. Đại học cùng với Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử hợp thành bộ Tứ Thư được Khổng Tử khởi xướng và Mạnh Tử kế thừa. Chu Hy cho rằng Đại học là đạo lớn, cương lĩnh, không có cái gì không bao hàm, dung nạp trong đó. Ông còn cho rằng, có thể dùng những thuyết giáo trong sách Đại học để bù đắp lại 34
- VHTQ -PHN những lỗ hổng trong tư tưởng của giai cấp thống trị phong kiến. Hai chữ Đại học ở đây có nghĩa là học vấn uyên bác, tinh sâu. Đời Chu con cháu quý tộc sau khi học qua lớp tiểu học đến 15 tuổi sẽ vào đại học, còn gọi là Thái học, học lí luận quản lí chính sự qua các kinh thư (truyền thuyết cho rằng Đông Phương Sóc là người đặt tên cho bậc đại học này là thái học). Ở đời Hán xem các kinh ở thời Xuân Thu là Đại kinh, xem Tứ Thư trong đó có Đại học là tiểu kinh. Vào đời Đường xem Đại học, Mạnh Tử và Kinh Dịch như nhau, đều gọi là Kinh thư. Đời Tống, hai anh em Trình Hạo và Trình Di nói "sách Đại học là sách nhập môn cho người mới đi vào học Đạo". Điều đó nói lên địa vị của Đại học trong các loại kinh thư. Đại học có 11 chương. Chương đầu tiên là Thánh Kinh, là ý kiến của Khổng Tử do Tăng Tử truyền lại bằng miệng. Còn 10 chương sau giải thích chương đầu tiên do học trò của Tăng Tử ghi chép lại bài giảng của Tăng Tử. Chương 1. Thánh kinh 2. Khang cáo 3. Bàn minh 4. Bang kì 5 Thính tụng 6 Tri bản 7.Thành ý 8. Chính tâm tu nhân. 9. Tề gia 10.Trị quốc . 11 Hiệt củ (Trong đạo trị quốc, người trên cần phải làm gương tốt trước, để người dưới noi theo. Không nên xem tài sản là lợi ích mà nên xem nhân nghĩa là lợi ích vậy). Xuyên suốt Đại học là tư tưởng "Trị quốc bình thiên hạ" được Nho Gia đề ra với cương lĩnh Tam Cương, Bát Mục. Chương I Thánh kinh 1. Đại đạo cốt để biết phát huy đức sáng đức tốt đẹp của con người, đổi mới khiến lòng dân bỏ cũ theo mới, bỏ ác làm thiện, ai cũng đạt đến đạo đức hoàn thiện. Phải kiên định chí hướng. Tâm yên tĩnh. Lòng ổn định, suy nghĩ mới chu toàn. Từ đó xử lý giải quyết công việc được thỏa đáng. Vạn vật đều có đầu có đuôi, có gốc có ngọn Vạn sự đều có bắt đầu và có kết thúc. Biết làm cái gì trước cái gì sau là đúng nguyên tắc của Đạo rồi. 2. Thời cổ đại phàm là thánh nhân muốn phát huy tính thiện của con người đều khắp thiên hạ thì trước hết phải lãnh đạo tốt xứ mình, nước mình. Muốn lãnh đạo tốt xứ mình, nước mình trước hết chỉnh đốn tốt gia tộc gia đình mình. Muốn chỉnh đốn gia tộc gia đình phải tu dưỡng phẩm chất bản thân mình. Muốn tu dưỡng phẩm đức bản thân trước hết phải làm cho tâm tư mình ngay thẳng, đoan chính Muốn ngay thẳng thì ý nghĩ phải thành thật . Muốn thành thật phải có nhận thức đúng đắn. Mà con đường nhận thức đúng đắn chính là nghiên cứu đến nơi đến chốn nguyên lý của sự vật. 3. Có lĩnh hội được nguyên lý sự vật thì nhận thức mới đúng đắn, ý nghĩ mới thành thật. Ý nghĩ thành thật thì tâm tư ngay thẳng. Tâm tư ngay thẳng mới tu dưỡng phẩm đức tốt. Phẩm đức bản thân tốt thì mới chỉnh đốn tốt gia đình gia tộc. Chỉnh đốn tốt gia đình gia tộc thì mới lãnh đạo xứ mình, nước mình, thiên hạ mới được thái bình. 4. Từ vua tới người bình dân ai ai cũng phải tu dưỡng đạo đức làm gốc. Một cái cây, gốc đã mục nát mà ngọn cành còn tươi là điều không thể có. (Đó là các nguyên tăc và lời bàn rộng của Khổng Tử do học trò Tăng Tử truyền lại). 35
- VHTQ -PHN Mười chương sau là bài giảng của Tăng Tử nhằm phân tích rõ Thánh kinh, do học trò của Tăng Tử ghi chép lại. Có thể phân thành hai chủ điểm (tam cương và bát mục.Cương: lớn, khái quát, mục: nhỏ, cụ thể. Cương mục nghĩa là cấu trúc, tiêu chí) Tam cương I. Minh minh đức (phát huy cái đức sáng/ làm sáng/ dùng đức trị) II. Tân dân (đổi mới dân chúng theo hướng đạo đức Nho gia) III. Chỉ ư chí thiện (chỉ làm việc thiện). Bát mục (8 bước thực hiện 3 cương lĩnh trên) 1. Cách vật (nghiên cứu thấu đáo sự vật) 2. Trí tri (có kiến thức rõ rệt, hiểu biết sâu sắc, đến cùng) 3. Thành ý (lòng chân thành), thành thật ngay với mình, không giả dối, tạm bợ 4. Chính tâm (giữ lòng dạ ngay thẳng khi tu dưỡng) gần với “thiền”. 5. Tu thân (học làm quân tử: sửa mình làm người tốt.) 6. Tề gia (xây dựng việc gia đình tốt, hài hòa cân đối) 7. Trị quốc (làm quan chức hoặc công dân tốt) 8. Bình thiên hạ (khiến cho thiên hạ thái bình / làm thế nào chinh phục thiên hạ / hội nhập quôc tế). 2. Trung dung Trung Dung (中庸 Zhōng Yóng) là một trong 4 cuốn của bộ Tứ Thư. Ba quyển còn lại là Đại Học (大學 Dà Xué), Luận Ngữ (論語 Lùn Yǔ), Mạnh Tử (孟子 Mèng Zǐ). Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra cũng trên cơ sở một thiên trong Kinh Lễ (Tử Tư là cháu nội của Khổng Tử, học trò của Tăng Sâm/ Tăng Tử), tiếp thụ được cái học tâm truyền của thầ̀y. Mục đích của sách Trung Dung là: Đạo có thể giúp chúng ta đạt được một trình độ cao của đạo đức. Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng sống ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân. Sách Trung Dung chia làm hai phần: Phần 1: từ chương 1 đến chương 20, là phần chính, gồm những lời của Khổng Tử dạy học trò về đạo lý trung dung, phải làm sao cho tâm được: tồn, dưỡng, tĩnh, sát; gồm đủ: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín cho hòa với muôn vật, hợp với lòng Trời để thành người tài giỏi. Chương 1.Thiên mệnh 2. Thời trung 3. Tiển năng 4. Hành minh 5. Bất hành 6. Đại trí 7 Dư trí 8. Phục ưng .9 Khả quân 10. Vấn cường 11 Tố ẩn 12. Phí ẩn 13 Bất viễn 14 Tố vị 15. Hành viễn 16.Quỷ thần 17 Đại hiếu 18.Vô ưu 19 Đạt hiếu 20 Vấn chính Phần 2: từ chương 21 đến chương 33, là phần phụ, gồm những ý kiến của Tử Tư giảng giải thêm cho rõ nghĩa và giá trị của hai chữ “trung dung”. 36
- VHTQ -PHN 21.Thành minh 28.Tự dụng 22.Tận tính 29.Tam trọng 23.Trí khúc 30.Thuật tổ 24.Tiền tri 31.Chí thành 25.Tự thành 32.Kinh luân 26.Vô tức 33.Thượng cách 27.Đại tai 3. Luận ngữ Luận ngữ (Lời nói để bàn luận) là sách do học trò và hậu thế ghi chép lại những lời nói, hành vi của Khổng tử, học trò của ông và người đương thời. Luận ngữ gồm 20 thiên (tương đương với 20 chương). Cách đặt tên thiên rất lạ: lấy ngay hai chữ xuất hiện đầu thiên làm tên thiên. Bởi thật khó đặt một cái tên bao quát nội dung phong phú của thiên. Mỗi thiên có nhiều bài (mỗi bài chỉ là một câu nói hoặc một đối thoại, một câu chuyện rất ngắn). Toàn bộ Luận ngữ có 511 bài, tức là 511 câu nói hoặc đối thoại, mẩu chuyện cực ngắn. Nội dung bao trùm hầu hết những quan niệm về nhân, đức, trung, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng, liêm cho đến âm nhạc, giải trí, ăn uống và những tình huống đối nhân xử thế phong phú trong cuộc sống. Qua những câu chuyện ngắn, hình ảnh người quân tử và tiểu nhân hiện lên tương phản rõ nét, trong đó tấm gương vua hiền, quan mẫu mực và kẻ sĩ chân chính được đặt ở vị trí trung tâm của cuốn sách. Đọc qua Luận ngữ, ta thấy nội dung các thiên dường như rời rạc, không có liên hệ với nhau. Thực ra, người quân tử chính là sợi chỉ đỏ kết nối, xuyên suốt tập sách. Chữ nhân là phẩm chất cơ bản của quân tử (hai chữ nhân:人, 仁) là khía niệm mở ra từ hẹp tới rộng, đến vô cùng. Nội dung chính của Luận ngữ là Quân tử. Chữ Hiếu là điều kiện tiên quyết của quân tử. Khổng tử coi chữ Hiếu là tiên quyết thì các vua chúa đời sau như Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh đẩy nó xuống hàng thứ 2 và đặt chữ Trung (trung quân: trung thành với nhà vua) lên hàng đầu. Luận Ngữ trình bày đạo quân tử qua lời nói, câu chuyện sinh động, không giảng giải lý thuyết dài dòng nhưng rất ấn tượng, dễ hiểu. Nhân vật chính là thầy Khổng tử với bao vui, buồn, lo âu, lạc quan, thất vọng. Thầy Khổng cũng mắc khuyết điểm mà không giấu diếm. Đọc sách này, người ta hiểu được phẩm chất tư cách của thầy trò Khổng tử và những người khác. Về phương pháp giáo dục, Khổng tử thấu hiểu tâm lý của từng học trò, khéo đem lời giảng dạy thích hợp với từng trình độ, từng hoàn cảnh của mỗi người. Có khi cùng một câu hỏi mà ông trả lời cho mỗi người một cách khác nhau. Luận ngữ có 5 mục tiêu rõ rệt: Học làm người 37
- VHTQ -PHN Học làm công dân Học làm quan Học làm vua và học làm thầy giáo. Luận ngữ là một trong những giá trị quí báu của các nền văn hóa khu vực đồng văn (Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản). Ngày nay Luận ngữ vẫn được tham khảo và ứng dụng trong đời sống. Danh mục 20 thiên của Luận ngữ: 1. Học nhi (việc học) 16 bài 2. Vi chính (làm đúng) 24 bài 3. Bát dật (về Lễ, Nghĩa) 26 bài 4. Lý nhân (về chữ Nhân) 26 bài 5. Công Dã Tràng (con rể Khổng tử) 28 bài 6. Ung dã (Nhiễm Ung trò giỏi của Khổng tử) 30 bài 7. Thuật nhi (thuật lại) 38 bài 8. Thái Bá (chú ruột vua Chu Văn vương) 21 bài 9. Tử hãn (Khổng tử ít khi ) 31 bài 10. Hương đảng (quê nhà) 27 bài 11. Tiên tiến (trước đây) 26 bài 12. Nhan Uyên (học trò giỏi nhất của Khổng tử) 24 bài 13. Tử Lộ (học trò của Khổng tử) 30 bài 14. Hiến vấn (Nguyên Hiến hỏi) 44 bài 15. Vệ Linh công (vua nước Vệ) 42 bài 16. Quí thị (dòng họ Quý, đại thần nước Lỗ) 14 bài 17. Dương Hóa (quan nước Lỗ) 26 bài 18. Vi Tử (quan chức nhà Ân xưa) 11 bài 19. Tử Trương (học trò của Khổng tử) 25 bài 20. Nghiêu viết (vua Nghiêu thời tiền sử nói) 03 bài. 4. Mạnh tử Mạnh Tử (孟子, Mèng Zǐ ; 372–289 trước công nguyên; có một số tài liệu khác ghi là: 385– 303/302 TCN) là nhà triết học Trung Quốc, người tiếp nối và hoàn chỉnh học thuyết Nho học của Khổng Tử. Mạnh Tử, tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dư, sinh vào đời vua Liệt Vương, nhà Chu, quê gốc ở đất Trâu, thuộc nước Lỗ, nay là thành phố Trâu Thành, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Ông mồ côi cha, chịu sự nuôi dạy nghiêm túc của mẹ là Chương thị (người đàn bà họ Chương). Chương thị sau này còn được gọi với tên Mạnh mẫu (mẹ của Mạnh Tử). Mạnh mẫu đã ba lần chuyển nhà để Mạnh Tử được ở trong môi trường sống tốt nhất cho việc học tập, tu dưỡng. Thời niên thiếu, Mạnh Tử làm môn sinh của Tử Tư, tức là Khổng Cấp, cháu nội của Khổng Tử. Vì vậy, ông chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các tư tưởng Khổng giáo. Mạnh Tử là đại biểu xuất sắc của Nho giáo thời Chiến quốc, thời kỳ nở rộ các nhà tư tưởng lớn với các trường phái như Pháp gia, Du thuyết, Nho gia, Mặc gia Đây là thời kỳ bách gia tranh minh (trăm nhà đua tiếng), cũng là thời kỳ mà các tập đoàn phong kiến tranh giành, xâu xé lẫn nhau gây ra các cuộc chiến tranh liên miên, dân tình vô cùng khổ sở. Tư tưởng của Mạnh tử phát triển thêm tư tưởng của Khổng Tử nhưng ông không tuyệt đối hóa vai trò của vua chúa như Khổng Tử. Ông 38
- VHTQ -PHN chủ trương dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh, ông cũng là người đưa ra thuyết tính thiện của con người rằng con người sinh ra đã là thiện rồi (nhân chi sơ bản tính thiện), tư tưởng này đối lập với thuyết tính ác của Tuân Tử rằng nhân chi sơ bản tính ác. Ông cho rằng "kẻ lao tâm trị người còn người lao lực thì bị người trị". Học thuyết của ông gói gọi trong các chữ "Nghĩa", "Trí", "Lễ", "Tín". Ông đem học thuyết của mình đi truyền bá đến vua chúa các nước chư hầu như Tề Tuyên Vương (nước Tề), Đằng Văn Công (nước Đằng), Lương Huệ Vương (nước Nguỵ) nhưng không được áp dụng. Về cuối đời ông dạy học và viết sách, sách Mạnh Tử của ông là một trong những cuốn sách quan trọng của Nho giáo. Ông được xem là ông tổ thứ hai của nho giáo và được hậu thế tôn làm "Á thánh Mạnh Tử" (chỉ đứng sau Khổng Tử). Sách do Mạnh Tử và các môn đệ của ông như: Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương v.v. ghi chép lại những điều đối đáp của Mạnh Tử với các vua chư hầu, giữa Mạnh Tử và các học trò cùng với những lời phê bình của Mạnh Tử về các học thuyết khác như: học thuyết của Mặc Tử, Dương Chu. Sách Mạnh Tử gồm 2 chủ đề Tâm học và Chính trị học. (hoặc 3 chủ đề chính: Tính thiện /Vương đạo nhân chính / Nhân nghĩa) 1. Tâm học (khoa học của tâm hồn) Mạnh Tử cho rằng mỗi người đều có tính thiện do Trời phú cho. Sự giáo dục phải lấy tính thiện đó làm cơ bản, giữ cho nó không mờ tối, trau dồi nó để phát triển thành người lương thiện. Tâm là cái thần minh của Trời ban cho người. Như vậy, tâm của ta với tâm của Trời đều cùng một thể. Học là để giữ cái Tâm, nuôi cái Tính, biết rõ lẽ Trời mà theo chính mệnh. Nhân và nghĩa vốn có sẵn trong lương tâm của người. Chỉ vì ta đắm đuối vào vòng vật dục nên lương tâm bị mờ tối, thành ra bỏ mất nhân nghĩa. Mạnh Tử đề cập đến khí Hạo nhiên, cho rằng nó là cái tinh thần của người đã hợp nhất với Trời. Phần Tâm học của Mạnh Tử rất sâu xa, khiến người học dù ở địa vị, cảnh ngộ nào cũng giữ được phẩm giá tôn quí. 2. Chính trị học Mạnh Tử chủ trương: Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh (Dân là quí, xã tắc thứ hai, nhẹ nhất là vua). Đây là một tư tưởng rất mới và táo bạo trong thời quân chủ chuyên chế đang thịnh hành. Mạnh Tử chấp nhận chế độ quân chủ, nhưng vua không có quyền lấy dân làm của riêng cho mình. Phải duy dân và vì dân. Muốn vậy, phải có luật pháp công bằng, dẫu vua quan cũng không được vượt ra ngoài pháp luật đó. Người trị dân, trị nước phải chăm lo việc dân việc nước, làm cho đời sống của dân được sung túc, phải lo giáo dục dân chúng hiểu rõ luật pháp mà tuân theo, lấy nhân nghĩa làm cơ bản để thi hành. Chủ trương về chính trị của Mạnh Tử thật vô cùng mới mẻ và táo bạo, nhưng rất hợp lý, làm cho những người chủ trương quân chủ thời đó không thể nào bắt bẻ được. Có thể đây là lý thuyết khởi đầu để hình thành chế độ quân chủ lập hiến sau này. 39
- VHTQ -PHN Tóm lại, bộ sách Mạnh Tử rất có giá trị với Nho giáo. Phần Tâm học trong sách là đỉnh cao nhất trong học thuyết Nho giáo. Mạnh tử thư có 14 thiên: Thiên 1. Lương Huệ vương chương cú thượng Thiên 2. Lương Huệ vương chương cú hạ Thiên 3. Công Tôn Sửu thượng Thiên 4. Công Tôn Sửu hạ Thiên 5. Đằng Văn Công thượng Thiên 6. Đằng Văn Công hạ Thiên 7. Ly Lâu thượng Thiên 8. Ly Lâu hạ Thiên 9. Vạn Chương thượng Thiên 10. Vạn Lâu hạ Thiên 11. Cáo Tử thượng Thiên 12. Cáo Tử hạ Thiên 13. Tận tâm thượng Thiên 14. Tận tâm hạ (chú thích: thượng: phần I, hạ: phần II) Bộ sách Tứ Thư của Nho giáo ra đời cách nay khoảng trên 2.000 năm, đã trải qua bao sóng gió theo những giai đoạn thăng trầm của lịch sử Trung Hoa. Khi thì bị Tần Thủy Hoàng đốt, lúc thì bị tiêu tan trong các cuộc nội chiến triền miên của Trung Hoa. Do vậy khó tránh được nạn "tam sao thất bản". Đến đời nhà Tống, bộ sách này mới được các danh Nho tu chỉnh và truyền bá đến ngày nay Đầu tiên là hai anh em Trình Hạo (1032-1085) và Trình Di (1033-1107) hiệu là Y Xuyên, nghiên cứu, soạn tập và chú giải Tứ Thư và Ngũ Kinh. Sau đó Chu Hy (1130-1200) hiệu là Hối Am, bổ cứu và sắp đặt thành chương cú cho có thứ tự phân minh. NGŨ KINH Ngũ kinh (五經 Wǔjīng) là 5 quyển kinh điển dùng làm nền tảng trong Nho giáo. Theo truyền thuyết, 5 quyển này đều được Khổng Tử soạn thảo hay hiệu đính. Năm quyển gồm có: 1. Kinh Thi (詩經 Shī Jīng): sưu tập các bài thơ dân gian ở 15 nước ven sông Hoàng Hà có từ trước Khổng Tử, nói nhiều về tình yêu nam nữ và các mối quan hệ xã hội khác. Khổng Tử san định thành 300 thiên (bài) nhằm giáo dục mọi người tình cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng và trong sáng. Một lần, Khổng Tử hỏi con trai tê Lý "Học Kinh Thi chưa?", người con trả lời "chưa". Khổng Tử nói "Không học Kinh Thi thì không biết nói năng ra sao" (sách Luận ngữ). 2. Kinh Thư (書經 Shū Jīng): ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ. 3. Kinh Lễ (禮經 Lǐ Jīng) 40
- VHTQ -PHN Ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại mong dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: "Không học Kinh Lễ thì không biết đi đứng ở đời" (sách Luận Ngữ). 4. Kinh Dịch (易經 Yì Jīng) Ghi chép các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại dựa trên các khái niệm âm dương, bát quái, Đời Chu, Chu Văn Vương đặt tên và giải thích các quẻ của bát quái gọi là Thoán từ. Chu Công Đán giải thích nghĩa của từng hào trong mỗi quẻ, gọi là Hào từ. Khổng Tử giảng giải rộng thêm Thoán từ và Hào từ cho dễ hiểu hơn và gọi là Thoán truyện và Hào truyện. Kinh Dịch thời Chu gọi là Chu Dịch. 5. Kinh Xuân Thu (春秋 Chūn Qiū) Ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng Tử. Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị nước nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để giáo dục các bậc vua chúa. Ông nói: "Thiên hạ biết đến ta bởi kinh Xuân Thu, thiên hạ trách ta cũng sẽ ở kinh Xuân Thu này". Đây là cuốn kinh Khổng Tử tâm đắc nhất, “xuân thu” có nghĩa là mùa xuân và mùa thu, viết về một giai đoạn lịch sử mang tên “Xuân thu” (Xuân Thu: 778 - 455, chế độ phong kiến sơ kỳ. Dồn thành 100 chư hầu, 14 nước lớn, 5 nước xưng bá vương (ngũ bá: Trịnh, Tấn, Tần, Tề, Triệu) ngày càng lấn át hoàng đế nhà Chu. Kế tiếp là thời Chiến quốc: 455-221 tr.CN, bảy nước bá vương nổi lên gọi là thất bá tranh hùng: gồm Tề Sở Hàn Triệu Ngụy Tần Yên), cuối cùng nhà Tần bình định thiên hạ, lên ngôi hoàng đế (Tần Thủy Hoàng đế). Ngoài ra còn có Kinh Nhạc do Khổng Tử hiệu đính nhưng về sau bị thất lạc, chỉ còn lại một ít ghép làm một thiên vào Kinh Lễ gọi là Nhạc ký. (Như vậy Lục kinh chỉ còn có Ngũ kinh tồn tại ). 41
- VHTQ -PHN Ðọc thêm VĂN HỌC HÁN (từ thế kỉ 3 tr CN đến tk 3 sau CN ) Nhà Tần Tần Thủy Hoàng quyết định dùng một thứ chữ viết trong toàn quốc. Nhà Tần khủng bố trí thức bằng chính sách "đốt sách chôn nho sĩ". Ðế quốc Tần bành trướng mạnh ra ngoài biên giới. Nhà Tần sớm bị lật đổ sau hai đời. Văn học không phát triển được. Nhà Hán Vua Hán tiến hành cải cách, bắt đầu xây dựng nền giáo dục Nho học, hình thành Nho giáo. Nhờ vậy nhà Hán mở đầu xây dựng thành công chế độ phong kiến . Sử truyện ra đời với mục đích chính là viết sử nhưng lại đạt hiệu quả văn chương hấp dẫn. Tiêu biểu là Tư Mã Thiên với bộ "Sử kí" viết về toàn bộ ba nghìn năm sử Trung Hoa, qua Tần đến Hán Vũ đế đương thời. Ngoài ra còn có các nhà viết sử truyện như Lưu Hướng, Ban Cố. Sử kí Tư Mã Thiên là mầm mống của tiểu thuyết giảng sử thời Minh sau này . 1. SỬ KÝ VÀ TƯ MÃ THIÊN 司马迁 ( Sī Mǎ Qiān) 1.1 Nhà sử truyện lỗi lạc Tư Mã Thiên (145 - 90 tr.CN) là nhà viết sử cũng là một nhà văn . Bộ Sử Ký của ông là một bộ thông sử lớn và một tác phẩm văn xuôi nổi tiếng. Cuộc đời và sáng tác của ông là tấm gương lớn cho hậu thế . Tự là Tử Trường quê tỉnh Thiểm Tây, tổ tiên từng làm quan viết sử nhà Chu, cha là Tư Mã Ðàm giữ chức thái sử lệnh đời Hán Vũ đế. Ông Ðàm học rộng, có ý tưởng táo bạo, đã viết sách bàn về hệ tư tưởng của 6 trường phái (lục gia) là Âm dương, Nho, Mặc, Danh, Pháp, Ðạo đức (Luận lục gia yếu chỉ). Giữa lúc vua Hán đề cao Nho gia và gạt bỏ hết bách gia thì ông đề cao Ðạo gia. Bình sinh ông muốn làm một nhà viết sử chân chính ghi chép đúng sự thật và đánh giá theo ý mình. Nhưng ông chưa làm được, đây là lời ông dặn con là Tư Mã Thiên trước khi qua đời "Tổ tiên ta đời đời làm sử quan. Sau khi ta chết ,thế nào con cũng nối nghiệp ta làm thái sử. Khi làm thái sử, chớ quên những điều ta muốn làm, muốn viết . . . Hiện nay bốn bể một nhà, vua sáng tôi hiền, ta làm một thái sử mà không viết được rất lấy làm xấu hổ. Con hãy nhớ lấy ". Ngay từ khi Tư Mã Thiên còn nhỏ, cha đã có ý bồi dưỡng cho con học cổ văn, đọc sách lịch sử như Tả truyện, Quốc ngữ và khi con 20 tuổi ông cho lên Trường An thủ đô nơi ông làm việc học với các bậc đại sư như Ðổng Trọng Thư, Khổng An Quốc. Tư Mã Thiên còn đọc cả những tài liệu sách vở của vua giao cha ông bảo quản. Nhưng không bằng lòng với tài liệu có sẵn, ông tìm đến tận nơi xảy ra sự kiện khảo sát địa hình sông núi, tìm hiểu phong tục tập quán nhân tình các địa phương, thăm các di tích lịch sử hỏi chuyện ông bà già như là nhân chứng sống của lịch sử. Ông còn theo cha đi khắp nước. Nào là vượt Trường Giang đến sông Mịch La ở Hồ Nam viếng nơi Khuất Nguyên đã trẫm mình, ngược dòng sông Tương đến Hà Nam có núi Cửu Nghi điều tra chuyện vua Thuấn tuần du và mất ở đó, lại theo sông đến núi Cối Kê (Triết Giang) tìm hiểu việc trị thủy của vua Vũ thăm quê hương Hàn Tín, quê Khổng Tử ở Sơn Ðông, đến đất Bái (Giang Tô) nơi Hán Sở tranh hùng cũng là quê hương Hán Cao tổ Lưu Bang. Trở về Trường An ông được phong chức quan lang trung. Ba mươi tuổi lại được cử đi quan sát vùng tây nam Trung Quốc đến Tứ Xuyên, Vân Nam. Vậy là chỉ còn trừ Quảng Ðông, Quảng Tây, nơi đâu cũng có dấu vết chân nhà viết sử Tư Mã Thiên. Ông tiếp xúc nhiều với mọi tầng lớp nhân dân và trưởng thành sau mỗi chuyến đi. Năm 110 tr.CN, Tư Mã Ðàm mất, ông được thế chức cha làm thái sử quan. Nhớ lời cha dặn "kế nghiệp Khổng Tử viết cuốn Xuân Thu thứ hai", ông xem lại tài liệu chứa trong "nhà đá rương vàng", chuẩn bị viết Sử ký. Xảy ra "họa Lí Lăng", Lí Lăng là viên tướng giỏi từng chiến thắng Hung Nô, trong một trận đánh vì lương cạn, không có tiếp viện nên thua trận bị giặc bắt phải đầu hàng. Hán Vũ đế đưa 42
- VHTQ -PHN việc này ra xử. Tư Mã Thiên dũng cảm bênh vực: "Lí Lăng là một bậc kì sĩ đáng kính phục, xin nhà vua minh xét". Nhà vua nổi giận cho rằng Tư Mã Thiên bênh vực Lí Lăng là có ý chỉ trích Lí Quảng Lợi anh trai Lí phu nhân vợ yêu của vua, nên ghép ông vào tội khi quân. Ông bị hạ ngục, chịu cung hình (một hình phạt tàn ác- bị cắt bộ phận sinh dục). Ðó là năm 99 tr.CN khi Tư Mã Thiên 47 tuổi. Ông bị khủng hoảng tinh thần muốn tìm cái chết. Trong bức thư gửi bạn Nhậm An ông viết "một ngày ruột vò chín khúc, ở trong nhà thẫn thờ như mất mát cái gì, đi ra ngoài không biết mình đi đâu, cứ mỗi khi nhớ đến điều nhục nhã đó không khỏi toát mồ hôi ướt đầm lưng áo". Nhớ đến gương tiền nhân Chu Văn Vương bị giam cầm vẫn viết Chu Dịch, Khuất Nguyên thấy cần phải sống để hoàn thành bộ Sử Ký như lời cha dặn lúc lâm chung. Ông dùng hết sức lực, tâm huyết vào việc trước tác. Hết hạn tù, ông được giữ chức trung thư lệnh, một chức vụ hoạn quan, Tư Mã Thiên cố nhịn nhục cho qua ngày, luồn cúi tùy thời giả bộ ngu dại để được yên lòng viết cho xong bộ sách. Khoảng 5 năm sau, khi ông 53 tuổi thì bộ sách hoàn thành. Về sau đời ông ra sao, không có tài liệu ghi lại chính xác. 1.2 Sử ký 史记 một công trình lịch sử Việc viết sử ở Trung Quốc có từ rất sớm, thời nhà Chu đã có sử quan. Tác phẩm Thượng thư, Xuân thu,Tả truyện, Quốc ngữ, Chiến quốc sách chưa trình bày lịch sử Trung Quốc một cách hoàn chỉnh, hoặc chỉ chép một số sự việc cá biệt hoặc một số khu vực và giai đoạn. Bộ Sử ký của Tư Mã Thiên đã tổng kết ba ngàn năm lịch sử Trung Quốc từ Hoàng Ðế truyền thuyết cho đến thời hiện tại Hán Vũ đế. Bộ sách miêu tả đời sống xã hội rộng rãi kinh tế chính trị văn hóa, các tầng lớp giai cấp từ công hầu khanh tướng học giả thầy bói, thích khách, hiệp sĩ giang hồ, con hát. . . Sách gồm 130 thiên (như chương, hồi) chia làm 5 loại : + Bản kỷ : 12 thiên tả các đời vua từ Ngũ đế, Hạ,Thương, Chu, Tần, Sở đến Hán + Biểu (niên biểu) : 10 thiên chép mối quan hệ giữa các bá vương và chư hầu qua các sự kiện lớn. + Thư: 8 thiên chép 8 mặt kinh tế, văn hóa chủ yếu. + Thế gia: 30 thiên chép về những nhân vật quí tộc lớn có ảnh hưởng mạnh mẽ quyết định sự phát triển và diệt vong của các chư hầu. + Liệt truyện : 70 thiên chép chuyện các nhân vật đặc biệt, nổi tiếng. Về sau thất lạc mất 10 thiên. Quan điểm lịch sử của Tư Mã Thiên rất tiến bộ. Ước vọng của ông là làm lại công việc của Khổng Tử, tức là viết cuốn Xuân Thu thứ hai hoàn chỉnh hơn, tốt hơn . Mặc dù chịu ảnh hưởng của Nho gia nhưng không chấp nhận sự hạn chế của họ. Những người khác giải thích lịch sử bằng thiên mệnh thần quyền thì ông nhấn mạnh vai trò tác dụng của con người, không chỉ là vương hầu khanh tướng mà là quần chúng nhân dân đã sáng tạo nên văn minh nhân loại. Ông đề cao những anh hùng lãnh tụ khởi nghĩa nông dân ngang hàng với vua Thang, Vũ, Khổng Tử. Hạng Võ ngang với Lưu Bang vì cùng có công đánh đổ nhà Tần tàn bạo (Hạng Võ còn đựơc xếp vào phần Bản Kỉ cùng Tần Thủy Hoàng, Hán Cao tổ). Rõ ràng ông không tuân theo quan điểm chính thống. Cách đây hơn hai ngàn năm Tư Mã Thiên đã có quan điểm lịch sử như thế là rất tiến bộ. Tinh thần trung thực lịch sử của ông thật đáng nêu gương kim cổ . Cuối mỗi thiên ông còn có lời bình của mình. Bài TỰA của ông là chương tổng kết bộ sách. Ông tự xác định nhiệm vụ : + Một là : nắm vững qui luật phát triển của xã hội + Hai là : quan tâm đến nỗi thống khổ của nhân dân + Ba là : vạch trần tội ác của giai cấp phong kiến 43