Tâm lý học xã hội - Trần Quốc Thành (Phần 2)

pdf 71 trang hapham 2040
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tâm lý học xã hội - Trần Quốc Thành (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftam_ly_hoc_xa_hoi_tran_quoc_thanh_phan_2.pdf

Nội dung text: Tâm lý học xã hội - Trần Quốc Thành (Phần 2)

  1. - Chú ý đầy đủ đến việc tổ chức các nhóm sinh viên trong quá trình dạy học và giáo dục. Nên coi các nhóm sinh viên là đơn vị cơ sở của hoạt động dạy học và giáo dục. Hầu hết các hoạt động của sinh viên diễn ra trong môi trường nhóm nhỏ, các cơ chế tâm lý xã hội cũng phát huy tác dụng trong nhóm. Đặc biệt, nhóm nhỏ là môi trường thuận lợi cho việc phát huy tính tích cực chủ động trong học tập và nghiên cứu của sinh viên, là môi trường cho việc rèn luyện các “kĩ năng mềm”. - Hình thành nhóm nhỏ trong dạy học, giáo dục bằng nhóm và thông qua nhóm. Để thực hiện điều đó cần ý thức rõ việc tổ chức nhóm và tác động để hình thành các hiện tượng tâm lý nhóm, từ việc lựa chọn quy mô nhóm, đến việc giúp nhóm hình thành các mục tiêu, các nguyên tắc, khuyến khích sự chủ động trong hoạt động của nhóm, quan tâm đến sự phát triển của nhóm. - Cần đưa ra những yêu cầu chính thức khi hình thành các nhóm: đánh giá kết quả của nhóm, của cá nhân trong nhóm trong sự tương quan với kết quả của nhóm, sự luân chuyển các vai trò xã hội trong cấu trúc chính thức của nhóm. - Quan tâm đến quá trình ra quyết định nhóm sự hình thành các chuẩn mực nhóm. CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG III 1. Nhóm xã hội là gì? Có những loại nhóm xã hội nào? Ý nghĩa của việc nghiên cứu các nhóm xã hội? 2. Phân tích sự khác biệt giữa cấu trúc chính thức và cấu trúc không chính thức của nhóm. Cần có cách ứng xử như thế nào với cấu trúc không chính thức? Tại sao? 3. Chuẩn mức nhóm là gì? Vai trò của chuẩn mục nhóm? Làm thế nào để hình thành các chuẩn mực nhóm? 4. Nhóm nhỏ là gì? Có các loại nhóm nhỏ nào? Trong dạy học và giáo dục theo anh (chị) cần quan tâm tới nhóm nhỏ nào? Tại sao? Chương 4. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÂM LÝ XÃ HỘI CỦA TẬP THỂ I. TẬP THỂ VÀ CẤU TRÚC QUAN HỆ CÁ NHÂN TRONG TẬP THỂ 1. Khái niệm tập thể
  2. Tập thể là một loại nhóm nhỏ phát triển cao. Nhóm nhỏ có thể phát triển qua 3 mức độ: a) Nhóm phân tán: Là loại nhóm các thành viên mới tập hợp lại với nhau, các thành viên có chung một mục đích chưa thống nhất giá trị chung, do đó chưa liên kết gắn bó với nhau. Ví dụ: tập hợp người trong một đám cưới, chờ tàu chở xe loại nhóm này có thể phát triển nếu có thời gian bình thường thì rất dễ tan rã do chưa có giá trị chung đáng kể. b) Tổ hợp tác: Là loại nhóm trong đó các thành viên đã tập hợp trong một thơi gian đủ để có sự thống nhất những giá trị chung, mà giá trị chung đó có ý nghĩa với từng cá nhân. Do đó các thành viên gắn bó với nhau chặt chẽ. Ví dụ: phường buôn, tổ đổi công Trong loại nhóm này các thành viên tồn tại phải dựa vào nhau. Loại nhóm này có thể phát triển cao trở thành tập thể khi giá trị chung mà họ theo đuổi có ý nghĩa đối với xã hội. Nhóm này có thể phát triển theo hướng phi xã hội. Ví dụ: nhóm làm ăn phi pháp buôn lậu c) Tập thể: Là tập hợp người có tổ chức, các thành viên gắn chặt với nhau bởi những giá trị chung, giá trị này vừa có ý nghĩa với các thành viên vừa có ý nghĩa xã hội. Đó là tiêu chuẩn cơ bản phân biệt tập thể với các loại phường hội. Như vậy, có thể hiểu tập thể là một loại nhóm có tổ chức, có mục đích và nhiệm vụ chung, mục đích và nhiệm vụ chung đó vừa có ý nghĩa đối với từng cá nhân vừa có giá trị đối với xã hội. Thực chất tập thể là một loại nhóm phát triển cao mà ở đó các thành viên được tổ chức chặt chẽ. Mỗi thành viên giữ một vị trí nhất định trong tập thể nhưng đều hướng tới mục đích, nhiệm vụ chung của tập thể. Các thành viên đều nhận thức được ý nghĩa của mục đích và nhiệm vụ chung đối với cá nhân mình, coi đó là một giá trị và phấn đấu để đạt giá trị đó, bảo vệ giá trị đó. Đồng thời mục đích, nhiệm vụ chung của tập thể có ý nghĩa với xã hội, hay nói khác đi, giá trị mà tập thể theo đuổi không chỉ có ý nghĩa đối với mỗi cá nhân mà còn có ý nghĩa với cả xã hội. Chính những giá trị đó đã thu hút, hấp dẫn cá nhân vào tập thể, gắn bó với tập thể. 2. Cấu trúc quan hệ cá nhân trong tập thể Theo nghiên cứu của A.V.Pêtrôvxki trong tập thể có ba lớp quan hệ cá nhân như sau:
  3. * Lớp thứ nhất: là lớp trên bề mặt, dễ nhận thấy khi nhìn vào một tập thể. Lớp quan hệ này bao gồm toàn bộ những quan hệ liên cá nhân có tính chất chủ quan, tùy tiện, xuất phát từ sự thiện cảm với nhau. Đây chính là các nhóm tự phát trong tập thể. Đặc điểm của lớp quan hệ này là: - Sự hấp dẫn về mặt cảm xúc giữa các cá nhân định hướng cho sự lựa chọn quan hệ. Sự hoà hợp nhóm được xem như sự phối hợp và ăn khớp các hành động. - Quan hệ này xuất hiện khi các thành viên của tập thể ở vào những tình huống không động chạm đến các giá trị chung của tập thể, không có ý nghĩa đối với hoạt động chung. - Đây là lớp quan hệ dễ thấy nhưng không cơ bản, không đặc trưng cho tập thể đích thực. * Lớp quan hệ thú hai; Lớp này “chìm” dưới lớp một, gồm toàn bộ những qua hệ liên nhân cách có tính chất gián tiếp - tạo nên những đặc điểm riêng của tập thể. Các thành viên quan hệ với nhau thông qua mục đích và nhiệm vụ hoạt động chung. Đặc điểm: - Sự trội hẳn của các hiện tượng: tự xác định theo tinh thần tập thể của cá nhân thừa nhận giá trị chung của tập thể phải bảo vệ giá trị chung của tập thể. - Quan hệ này xuất hiện khi phải bảo vệ giá trị chung của tập thể hoặc phải thực hiện các hoạt động chung. - Đây là quan hệ biểu hiện sự đoàn kết đích thực của tập thể. * Lớp quan hệ thứ ba: Là lớp “chìm” nhất gồm các mối quan hệ liên cá nhân dựa trên cơ sở có cùng thái độ tích cực đối với mục đích nhiệm vụ chung của tập thể. Nhóm này bao gồm các phân tử trung kiên nhất của tập thể - dù tập thể có khó khăn thế nào lớp này cũng vẫn vững vàng. Ngược lại nếu lớp này hỏng là tập thể dễ dàng tan rã. 3. Các giai đoạn phát triển tập thể Theo quan điểm chung của các nhà nghiên cứu về tập thể thì tập thể có thể được hình thành qua 4 giai đoạn. a) Giai đoạn tổng hợp sơ bộ Giai đoạn này bắt đầu khi các cá nhận mới tập hợp lại với nhau vì một mục đích chung hay yêu cầu nào đó của hoạt động chung như một lớp học, một cơ quan mới thành
  4. lập. Các cá nhân đến từ nhiều nơi khác nhau nên họ chưa hiểu nhau, chưa hiểu và chưa thừa nhận giá trị chung của tập thể. Đặc điểm nổi bật của giai đoạn này là các cá nhân chưa hiểu nhau họ không thể thống nhất ý kiến với nhau. Mỗi người đều giữ gìn, chưa dám bộc lộ bản thân. Điều này làm cho các cá nhân có sức hấp dẫn lẫn nhau, các quan hệ cá nhân chủ yếu để thăm dò nhau. Do mới tập hợp lại, chưa hiểu nhau nên trong tập thể chưa hình thành được dư luận. Khi có một sự kiện nào đó xảy ra thì mỗi người có ý kiến khác nhau và cũng ngại bộc lộ nên các ý kiến đánh giá về sự kiện khó thống nhất. Thời gian tồn tại của giai đoạn này tùy thuộc vào tính chất của tập thể và đặc điểm của hoạt động chung của tập thể. Nếu là tập thể sinh viên thì giai đoạn này có thể tồn tại một học kì. Nhưng nếu là tập thể công an, bộ đội thì giai đoạn này ngắn hơn rất nhiều. Có khi chỉ một vài tuần. b) Giai đoạn phân hóa Khi tập thể tồn tại một thời gian, một số cá nhân đã hiểu nhau phần nào do hoạt động chung và do giao tiếp. Họ tìm thấy những điểm chung và hình thành nên các nhóm nhỏ. Căn cứ vào thái độ của các nhóm với yêu cầu của tập thể, có thể chia thành ba nhóm: - Nhóm tích cực, gồm những người tích cực trong hoạt động, tự giác chấp hành các yêu cầu của tập thể. Những người này đã thừa nhận giá trị chung của tập thể và tích cực bảo vệ các giá trị đó. - Nhóm tiêu cực, gồm những người thiếu tích cực trong hoạt động chung, làm việc thiếu tích cực, không tự giác chấp hành các yêu cầu của tập thể. Những người này không hẳn chống đối tập thể nhưng họ chưa thừa nhận giá trị chung của tập thể nên vẫn giữ khoảng cách với mọi người. - Nhóm trung gian thỏa hiệp, gồm những người không hẳn tích cực, cũng không hẳn tiêu cực. Họ đứng ở giữa, bên nào mạnh thì họ theo. Nếu thấy xu thế tập thể nhiều người tích cực thì họ tích cực, không thì ngược lại.
  5. Tỉ lệ thành viên của ba nhóm này tùy thuộc vào mức độ phát triển của tập thể. Lúc đầu có thể nhóm tích cực ít người, nhưng sau đó số lượng các thành viên sẽ tăng dần. Số người ở nhóm trung gian và nhóm tiêu cực sẽ giảm dần. Do chia thành các nhóm với những thái độ khác nhau như vậy nên tập thể khó có sự thống nhất trong đánh giá các sự kiện, dư luận khó hình thành. Khi có một sự kiện xảy ra, mỗi nhóm sẽ có cách đánh giá khác nhau, khó hình thành đánh giá chung. Thời gian tồn tại của giai đoạn này cũng tùy thuộc vào tính chất và đặc điểm hoạt động của tập thể như giai đoạn một. c) Giai đoạn tổng hợp thực sự Tập thể tồn tại một thời gian dài, do cùng hoạt động và sự tiếp xúc thường xuyên làm cho các thành viên hiểu nhau. Họ thừa nhận giá trị chung và cùng có ý thức bảo vệ giá trị đó. Không phải 100% số thành viên đều có ý kiến giống nhau nhưng đa số đều có thái độ tích cực trong hoạt động, đều nhận thấy trách nhiệm của mình đối với nhiệm vụ chung. Đặc điểm của giai đoạn này là các thành viên gắn bó với nhau trên cơ sở thừa nhận giá trị chung. Dư luận tập thể được hình thành nhanh và có vai trò điều chỉnh hành vi cá nhân rất mạnh mẽ. Tập thể đoàn kết thành một khối và rất dễ thống nhất ý kiến khi có vấn đề gì đó cần bàn bạc. d) Giai đoạn phát triển cao Đến giai đoạn này, các cá nhân trong tập thể đã hoàn toàn hiểu nhau và có thể chia sẻ với nhau, dám bộc lộ bản thân và được người khác thừa nhận. Tập thể thực sự đoàn kết, gắn bó. Các thành viên tự giác và có ý thức trách nhiệm cao với tập thể. Tập thể đã có truyền thống và mọi người tự hào về truyền thống đó. Giá trị chung của tập thể được đề cao và được bảo vệ. Mỗi khi có sự kiện gì đó xảy ra, mọi người rất nhanh chóng có tiếng nói chung. Cũng khó phân biệt rạch ròi giữa giai đoạn này với giai đoạn thứ ba. Hai giai đoạn này có thể tồn tại vài ba năm. Đối với một cơ quan, đơn vị sự nghiệp giai đoạn này có thể tồn tại 4 - 5 năm. Nhưng đối với tập thể sinh viên thì giai đoạn này chỉ tồn tại đến trước khi sinh viên bước vào học kì cuối. Theo các nhà nghiên cứu và thực tế cho thấy, sau giai đoạn này thì tập thể không còn được như giai đoạn ba và bốn nữa. Sau thời gian làm việc với nhau, các cá nhận hiểu
  6. khá rõ, khá kĩ về nhau nên không còn nhu cầu tìm hiểu thêm về nhau nữa. Mọi người định hình những đánh giá về nhau nên sự lựa chọn quan hệ cũng trở nên khá ổn định. Các nhóm không chính thức định hình khá rõ nét nên các quan hệ có biểu hiện “lì”, các cá nhân giảm sức hấp dẫn do người khác không còn phải “tò mò” để tìm hiểu nữa. Giai đoạn này có thể xem là giai đoạn suy thoái của tập thể theo một cách hiểu nào đó. Sự suy thoái này không biểu hiện rõ nét nên khó nhận ra. Tuy nhiên, các cá nhân có thể được phân hóa thành các nhóm khác nhau với những thái độ khác nhau với giá trị chung. Một số người cho rằng, muốn tập thể có sức sống mới nên thay đổi khoảng một phần ba số thành viên của tập thể. Khi có những cá nhân mới, tập thể sẽ lại quay về giai đoạn tổng hợp sơ bộ và phát triển tuần tự theo bốn giai đoạn II. SỰ CỐ KẾT TRONG TẬP THỂ 1. Khái niệm và vai trò của sự cố kết a) Khái niệm sự cố kết Trong Tâm lý học xã hội có nhiều cách tiếp cận và nhiều quan niệm khác nhau về sự cố kết nhóm. Tuy nhiên có thể khái quát thành 3 cách tiếp cận chính như sau: * Cách tiếp cận thứ nhất: Coi nhóm là một hệ thống các quan hệ liên nhân cách được hình thành trên cơ sở xúc cảm. Do vậy, sự cố kết được hiểu là sự cố kết về mặt xúc cảm. Những xúc cảm tích cực giữa các thành viên trong nhóm có tác dụng liên kết, ràng buộc họ với nhau. Ngược lại, những xúc cảm tiêu cực là rào chăn cản trở các quan hệ liên nhân cách và thậm chí phá hủy các mối quan hệ đó. Đây là quan điểm phổ biến trong Tâm lý học xã hội phương Tây. Từ cách tiếp cận này có một loạt các phương án định nghĩa sự cố kết nhóm khác nhau: Phương án thứ nhất - quan điểm trắc đạc xã hội - coi sự cố kết đồng nhất với các quan hệ xúc cảm, thể hiện sự ở thân thiện hay không thân thiện giữa thành viên. Để xác định mức độ cố kết, các nhà nghiên cứu thuộc trường phái này sử dụng trắc đạc xã hội và từ đó tính chỉ số cố kết nhóm. Hạn chế lớn nhất trong phương pháp này là nội dung và động cơ của sự lựa chọn giữa các thành viên trong nhóm bị bỏ qua. Phương án thứ hai, coi sự cố kết nhóm đồng nhất với sự hấp dẫn giữa các cá nhân và được quy định bởi sự hấp dẫn giữa các thành viên. A.Lot & B.Lot định nghĩa sự cố kết nhóm: “Là thuộc tính của nhóm, là kết quả của số lượng và chất lượng của các thái độ đối
  7. xử tích cực lẫn nhau giữa các thành viên nhóm” (Lot & Lot, 1976). Bên cạnh đó, một loạt các biến số tạo nên tổ hợp các nguyên nhân của sự cố kết được xác định bao gồm: tần suất tác động qua lại giữa các cá nhân, tính chất hợp tác trong sự tác động qua lại, phong cách lãnh đạo nhóm, sự hụt hẫng và nguy cơ từ các nhóm khác Bản thân tác giả của cách định nghĩa này cũng thừa nhận định nghĩa chỉ đề cập tới một khía cạnh của sự cố kết nhóm. Rõ ràng, định nghĩa sự cố kết nhóm chỉ dựa vào sự hấp dẫn liên nhân cách là chưa dầy đủ và chưa chỉ ra được bản chất thực sự của nó. Sự cố kết nhóm theo cách lý giải này chỉ đơn thuần là một hiện tượng xúc cảm. Nó không đủ để lý giải sự thống nhất của một nhóm xã hội. Phương án thứ ba do L.Festinger đề xuất. L.Festinger cho rằng: “Sự cố kết nhóm là tổ hợp các lực tác động đến các thành viên để giữ họ lại trong nhóm” (Myer D.G. 1996). Các lực được hiểu là sự hấp dẫn của nhóm đối với cá nhân hay là sự hài lòng của cá nhân đối với nhóm. Tất cả các nhân tố tạo ra sự hấp dẫn cá nhân đều đóng góp cho sự cố kết nhóm. Sự cố kết nhóm là sức mạnh của sự hấp dẫn nội nhóm. Trong cách hiểu này sự cố kết nhóm cũng chủ yếu được khai thác ở khía cạnh xúc cảm. * Cách tiếp cận thứ hai: Coi sự cố kết nhóm đồng nhất với sự hấp dẫn giữa các thành viên nhưng lý giải sự hấp dẫn đó không phải dựa trên các xúc cảm giữa các cá nhân đơn thuần mà dựa trên tổ hợp các động cơ thúc đẩy cá nhân tiếp tục duy trì là một thành viên của nhóm. Quan điểm này do D.Cartwright đưa ra, được gọi là cách tiếp cận nhu cầu động cơ đối với nhóm. Trong mô hình của D.Cartwright sự cố kết nhóm được quy định bởi một tổ hợp các biến số như: các nhu cầu và giá trị của chủ thể, sự kì vọng hay chờ đợi của chủ thể về những điều kiện thuận lợi hay khó khăn mà nhóm đem lại, đánh giá chủ quan về hệ quả của việc tham gia vào nhóm, các tính chất của nhóm có ý nghĩa đối với nhu cầu và động cơ của chủ thể (Zaden J.V. 1994). Theo mô hình nêu trên, động cơ trở thành thành viên nhóm chủ yếu được quy định bởi các đặc điểm nhân cách của cá nhân chứ không phải được quy định bởi các thuộc tính của nhóm. Các đặc trưng của nhóm chỉ có thể có tác dụng lôi cuốn, thúc đẩy cá nhân ở lại với nhóm khi các đặc trưng đó đáp ứng được các nhu cầu tương ứng của cá nhân. Một gợi ý rất quan trọng cho việc nghiên cứu sự cố kết nhóm từ ý tưởng này của D.Cartwring là cần nghiên cứu sự tương ứng giữa 2 dãy biến số: đặc trưng của nhóm và đặc trưng nhu cầu của cá nhân.
  8. Tiếp tục phát triển quan điểm này, M.Robert và F.Tilman cho rằng: một thành viên tham gia tương tác với các thành viên khác khi họ có được sự thỏa mãn từ sự tương tác đó. Sức mạnh lôi cuốn của nhóm chính là ở chỗ nhóm có thể giúp cá nhân thỏa mãn cả những nhu cầu riêng và các nhu cầu chung. Từ đó có thể hiểu như sau: Sự cố kết là sự bền chặt của các mối quan hệ giữa các thành viên nhóm như một chính thể được tạo thành bởi sự hấp dẫn xúc cảm lẫn nhau sự thống nhất các giá trị, mục đích nhóm, được quy định bởi hoạt động cùng nhau của nhóm. Khái niệm này coi sự cố kết như là một chỉnh thể. Sự cố kết không phải là sự cố kết theo một loại quan hệ riêng lẻ, độc lập tách rời với các quan hệ khác trong tập thể. Trong tập thể đồng thời tồn tại các quan hệ công việc và quan hệ liên nhân cách. Mỗi kiểu quan hệ đều có sự bền chặt (hoặc ít bền chặt hơn) của nó. Các quan hệ đó trong tập thể không tồn tại tách biệt, song song mà đan xen vào nhau, thâm nhập vào nhau. Trong quan hệ công việc có quan hệ liên nhân cách, trong quan hệ liên nhân cách không loại trừ yếu tố công việc. Chính sự đan xen các quan hệ khác nhau này tạo nên một nhóm nhỏ với tư cách là một chỉnh thể Tâm lý sống động. Do vậy, sự cố kết nhóm phải được coi là một chỉnh thể, là sự bền chặt của các quan hệ trong nhóm nhỏ. Đồng thời chính sự bền chặt của các loại quan hệ khác nhau tạo ra sự tương tác, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các thành viên nhóm. Điều này tạo ra một “ranh giới” nhóm nhỏ - như là 1 hệ thống - tương đối độc lập với các nhóm nhỏ khác. Cách hiểu này không quy sự cố kết nhóm nhỏ về một loại quan hệ cụ thể, cho nên nó tạo điều kiện để có thể thấy được “tính trồi” của sự cố kết nhóm mà sự cố kết của các loại quan hệ riêng lẻ trong nhóm không có được. Bên cạnh đó, khái niệm này cũng đã đề cập đến các phần tử (các yếu tố) tạo ra sự cố kết chỉnh thể. Có thể gọi đó là các thành tố của sự cố kết, bao gồm: sự hấp dẫn xúc cảm giữa các thành viên, sự thống nhất các giá trị và sự thống nhất mục đích. Mỗi thành tố này tạo ra một sức mạnh riêng để lôi cuốn, duy trì, giữ các thành viên lại với nhóm. Với tư cách là các cố kết thành phần, chúng có tính chất, vai trò không giống nhau trong việc tạo ra sự cố kết chỉnh thể. Nhưng điều quan trọng cần nhấn mạnh là chúng tác động qua lại, chuyển hóa và bổ sung cho nhau để tạo ra chất lượng mới mà từng cố kết thành phần không thể có. Khái niệm này cũng được xây dựng trên nguyên tắc hoạt động, coi nhóm là một chủ thể hoạt động và là một chỉnh thể tâm lý. Trong Tâm lý học xã hội, nhóm cũng như nhân
  9. cách, được xem xét với tư cách là chủ thể lựa chọn các mục đích, các giá trị. Sự cố kết nhóm nhỏ được hình thành và phát triển cùng với hoạt động của nhóm. Điều này phù hợp với quan niệm của tâm lý học hoạt động về sự hình thành và phát triển của các hiện tượng tâm lý. Nếu coi nhóm là một chủ thể hoạt động rõ ràng cố kết nhóm là một hiện tượng tâm lý nhóm chứ không phải là các hiện tượng tâm lý cá nhân và hiện tượng tâm lý đó sẽ được hình thành và phát triển trong hoạt động của chủ thể - nhóm nhỏ. Cách hiểu này giúp hạn chế được sự phụ thuộc thái quá vào trắc đạc xã hội như một cách thức duy nhất để có được sự cố kết cao trong nhóm. Đồng thời nó gợi ý một hướng tác động đến nhóm để có được sự cố kết thực sự bền vững - tác động thông qua hoạt động nhóm. b) Vai trò của sự cố kết * Cố kết nhóm và cấu trúc nhóm: Nếu coi cấu trúc nhóm là mối liên hệ giữa các thành phần để tạo ra một nhóm thống nhất, bền vững và cấu trúc nhóm có thể có nhiều thành tố khác nhau thì rõ ràng không thể thiếu sự cố kết nhóm. Nếu không có sự cố kết, nhóm không thể có một cấu trúc ổn định và bền vững, sự cố kết giúp gắn các cá nhân vào các cấu trúc quan hệ. Ngược lại sự cố kết chính là cố kết theo các mối quan hệ liên nhân cách, không có cố kết nằm ngoài các mối quan hệ liên nhân cách. Điều cần nhấn mạnh ở đây là sự thống nhất giữa cố kết nhóm và cấu trúc nhóm. Cố kết nhóm làm cấu trúc nhóm trở lên chặt chẽ, biến cấu trúc đó thành một chỉnh thể sống động. * Sự cố kết và các chuẩn mực nhóm: Các nghiên cứu cho thấy những đặc trưng của nhóm như tính thân thiện, sự hấp dẫn giữa các thành viên có ảnh hưởng đến các hành vi tuân theo chuẩn mực nhóm của cá nhân. Sự cố kết nhóm làm tăng ảnh hưởng xã hội của nhóm đối với cá nhân (tăng tính lệ thuộc nhóm) (Festinger, Gerard, Kelley. 1952). Ngược lại một trong những nguyên nhân tạo ra những hành vi lệch chuẩn là sự thiếu hấp dẫn của nhóm đối với cá nhân. Đề cập tới mối quan hệ giữa chuẩn mực nhóm và sự cố kết nhóm, G.M.Anđrêeva cho rằng nghiên cứu quá trình một tập hợp các cá nhân biến thành một nhóm, cần phải nghiên cứu quá trình hình thành các chuẩn mực nhóm, quá trình các cá nhân chia sẻ các mục đích chung của nhóm. Sự phân tích đó lại dẫn tới việc nghiên cứu sự hình thành cố kết nhóm. Như vậy sự cố kết nhóm không tách rời với các quá trình hình thành chuẩn mực nhóm và việc thực hiện chức năng của hệ thống chuẩn mực nhóm. Một mặt nó cùng với quá trình hình thành các chuẩn mực nhóm và hệ thống chuẩn mực nhóm
  10. đảm bảo cho sự thống nhất, ổn định của nhóm. Mặt khác nó thúc đẩy sự tuân thủ chuẩn mực nhóm của các thành viên. * Mối quan hệ giữa sự cố kết nhóm và tính hiệu qua của nhóm dường như rất rõ ràng. Ngay trong những nghiên cứu của trường phái “Động thái nhóm” đã chỉ ra những đặc trưng chung của tính hiệu quả của hoạt động nhóm: tính hiệu quả của hoạt động nhóm phụ thuộc vào sự cố kết nhóm, vào phong cách lãnh đạo, vào phương thức ra quyết định nhóm Tính hiệu quả ở đây, liên quan đến các thực nghiệm trong phòng thí nghiệm, chủ yếu được xem xét ở phương diện giải quyết nhiệm vụ đặt ra trước nhóm và do vậy sau này tính hiệu quả của nhóm bị quy về hiệu quả hoạt động. Một số tác giả khác coi một nhóm là hiệu quả khi: “Các thành viên trong nhóm cùng thảo luận các mục tiêu, đánh giá các ý tưởng đưa ra các quyết định và làm việc theo những mục tiêu đã định”. Cách hiểu như vậy là chưa đầy đủ nếu coi nhóm là một chủ thể hoạt động. Tính hiệu quả của nhóm cần được xem xét cả hai ở hai phương diện: kết quả của công việc cùng nhau (kết quả của hoạt động) và sự hài lòng của các thành viên nhóm đối với hoạt động chung của nhóm (phương diện liên nhân cách). Như vậy theo cách nhìn nhận coi cố kết nhóm là một quá trình chứ không chỉ là kết quả thì tính hiệu quả nhóm (thể hiện ở kết quả) là kết quả cuối cùng của toàn bộ các quá trình nhóm đó, trong đó có sự đóng góp của cố kết nhóm. Việc sử dụng trắc đạc xã hội để hình thành các nhóm cố kết cao với mong muốn có được một nhóm hoạt động có hiệu quả cao trong hoạt động của nhóm (thể hiện ở kết quả cụ thể của hoạt động cùng nhau) là một minh chứng cho mối quan hệ giữa cố kết nhóm và tính hiệu quả nhóm. Trên phương diện quan hệ liên nhân cách, E.Shaw cho rằng thành viên của các nhóm cố kết cao nhìn chung thỏa mãn cao hơn với hoạt động chung của nhóm so với thành viên của nhóm cố kết thấp. Các tác giả khác khẳng định cố kết nhóm làm tăng tương tác và giao tiếp giữa các thành viên nhóm, đặc biệt là tăng chất lượng các tương tác (Lot & Lot. 1951, Moran 1966). Theo quan điểm hoạt động, sự hài lòng với hoạt động cùng nhau không chỉ là biểu hiện của tính hiệu quả mà ý nghĩa quan trọng hơn của nó là ở vai trò gắn kết các thành viên và thúc đẩy sự phát triển nhóm. Sự cố kết nhóm do vậy làm tăng tính hiệu quả nhóm ở 2 khía cạnh: 1) Tăng sự hài lòng trong công việc chung; 2) Tăng hiệu quả lao động. 2. Sự cố kết trong tập thể
  11. Tuy sự cố kết nhóm (biểu hiện rõ nhất là sự đoàn kết, sự nhất trí, sự phối hợp hành động là một chỉ số quan trọng đánh giá sự phát triển của nhóm) không phải là chỉ số quyết định sự khác nhau giữa nhóm và tập thể. Nhưng là một chỉ số quan trọng đánh giá sự phát triển của nhóm. Nhóm càng phát triển cao thì sự liên kết càng chặt chẽ, hiệu quả của hoạt động chung càng cao. Biểu hiện quan trọng nhất của sự liên kết nhóm là sự đoàn kết nhóm. a) Khái niệm sự cố kết với tư cách là sự thống nhất giao tiếp nhóm Cố kết là một thông số quan trọng phân biệt nhóm phát triển thấp và tập thể - quan điểm này được thể hiện rõ trong Tâm lý học xã hội Mỹ. * Quan niệm về sự cố kết trong Tâm lý học Mỹ. Đây là vấn đề được các nhà tâm lý học xã hội phương Tây chú ý nhiều. Các tác giả Mỹ quan niệm “cố kết” với hai biểu hiện cơ bản sau: - “Cố kết” là hiệu quả của sự tác động của nhóm tới các thành viên, sức lôi cuốn của nhóm với các thành viên trong nhóm củng cố mối liên hệ giữa các thành viên làm cho các thành viên có ý thức về nhóm của mình. - “Cố kết” biểu hiện trong hiệu quả công việc, trong tính “cộng đồng” trong hoạt động, lôi cuốn mọi người vào hoạt động chung. Từ đó, các chỉ số của sự cố kết được xác định bởi: - Mức độ giao tiếp trong nhóm, tần số (số lần giao tiếp trong một đơn vị thời gian và cường độ giao tiếp trong nhóm). - Số lượng và tính chất qua lại của sự lựa chọn lẫn nhau kể cả tích cực và tiêu cực. Ví như, G.Hoffman cho rằng phải xác định sự cố kết bằng tần số giao tiếp, số lần tiếp xúc và cả thời hạn của giao tiếp. Vì ông cho đó là kết quả của sự thống nhất bên trong nhóm, tăng số lần giao tiếp (một cách nhân tạo cũng được) sẽ làm cho nhóm từ ít cố kết đến chỗ cố kết. Theo ông, có tiếp xúc thường xuyên sẽ dẫn đến sự thống nhất chuẩn mực nhóm. Trong khi đó J.Moreno thì cho rằng: muốn cho nhóm có sự cố kết tốt thì phải loại bỏ những thành viên bị từ chối trong nhóm, bổ sung bằng những người được nhóm lựa chọn.
  12. Như vậy sự cố kết được xem là một cộng đồng xúc cảm tâm lý. Các tác giả đưa ra hai thành phần của sự cố kết đó là: sự “đồng thuận” và “sự hấp dẫn”: T.Newcomb đưa ra thuật ngữ “đồng thuận” nhưng làm thế nào để đo được sự hài lòng thì lại đo bằng tần số những tác động qua lại. Ông đã đồng nhất sự đoàn kết với những đặc điểm xúc cảm tâm lý: “Một hình thái giao tiếp bất kì có kết quả của nó là sự tăng cường mức độ “đồng thuận”. Ông cho rằng “đồng thuận” là kết quả của sự giao tiếp trước đó và quy định sự giao tiếp sau đó. Sự “đồng thuận” là một trong những cơ chế hình thành chuẩn mực nhóm, là một trong những phương thức truyền lại những phong tục, tập quán của thế hệ này cho thế hệ khác. Thành phần thứ hai là “sức hấp dẫn” của nhóm với các thành viên. Biểu hiện của nó là ở sự thỏa mãn các nhu cầu cá nhân khi nhu cầu này chỉ có thể thỏa mãn trong giao tiếp trong nhóm. Chỉ số để đo sức hấp dẫn của nhóm đối với các thành viên cũng được đo bằng sự lựa chọn lẫn nhau: “Sức hấp dẫn” gắn chặt với “sự đồng thuận”. Mức độ “đồng thuận” cao sẽ dẫn đến “sức hấp dẫn” lớn. Tóm lại: Sự cố kết trong tập thể đặc trưng bằng sự gắn bó qua lại giữa các thành viên - bằng mức độ cao hay sức mạnh của sự hấp dẫn lẫn nhau và sức hấp dẫn của nhóm với các thành viên, bằng sự đồng thuận trong thái độ đối với người xung quanh và ý thức về sự đồng thuận đó. * Quan điểm trong tâm lý học Xô viết: Những đặc trưng về cố kết do các nhà tâm lý học xã hội Mỹ đưa ra có vẻ đúng và khó bác bỏ. Nhưng các tác giả này đã không chỉ rõ được mặt chất lượng của các đặc trưng giao tiếp nhằm mục đích gì, do động cơ nào chi phối. Nếu chỉ xét về tần số giao tiếp và sự đồng thuận là chưa đủ. Nhưng nó có hạt nhân hợp lý là trong giao tiếp bao giờ cũng có màu sắc xúc cảm: từ ác cảm đến thờ ơ và đến thiện cảm. Nhưng đó chỉ là cơ chế là con đường dẫn đến cố kết. Sự cố kết trong tập thể phải tính đến: Mức độ thống nhất của tập thể về mục đích, nhiệm vụ, lý tưởng chung, có ý nghĩa thế nào. Trong quan hệ liên nhân cách thể hiện tình đồng chí và sự giúp đỡ lẫn nhau.
  13. Đến nay, nhiều tác giả khẳng định rằng giao tiếp trong tập thể là tiền đề cho sự cố kết, là cơ chế hình thành sự cố kết. Nhưng bản chất cố kết trong tập thể là gì vẫn là vấn đề chưa được chỉ rõ. b) Đoàn kết với tư cách là sự thống nhất định hướng giá trị Nói đến sự cố kết trong nhóm là phải nói đến biểu hiện của nó về mặt chất lượng trong hoạt động chung: sự thống nhất định hướng giá trị. Đây là một chỉ số của sự cố kết nhóm. Sự thống nhất định hướng giá trị biểu hiện như là những đặc trưng liên kết của hệ thống các mối liên hệ bên trong nhóm. Sự liên kết này chỉ rõ trình độ và mức độ trùng hợp những ý kiến, sự đánh giá, tâm thế trong quan hệ và quan điểm của nhóm về các đối tượng có ý nghĩa đối với nhóm. Chỉ số của sự cố kết tập thể là tần số trùng hợp có ý kiến hay quan điểm của các thành viên với quan điểm chung, ý nghĩa của chỉ số này là ở chỗ: - Chỉ số này có thể cho phép so sánh mức độ tính có tổ chức của các loại nhóm hoặc mức độ phát triển chính nhóm đó trong các thời kì khác nhau. - Khi hiểu được các chỉ số này chúng ta hiểu sâu sắc hơn tính chất các mối quan hệ qua lại trong nhóm, tập thể. Mức độ trùng hợp (thống nhất) ý kiến, đánh giá quan điểm của các cá nhân không chỉ do giao tiếp trong nhóm, tập thể, mà là kết quả của hoạt động cùng nhau một cách tích cực - hoạt động cùng nhau đòi hỏi hợp tác, thống nhất tâm thế, định hướng giá trị, động cơ hoạt động. Nhưng sự thống nhất định hướng giá trị với tư cách là chỉ số của sự cố kết hoàn toàn không có nghĩa là các thành viên phải có sự đánh giá, có quan điểm giống nhau trong tất cả mọi lĩnh vực, mà trong đó mỗi cá nhân vẫn còn những quan điểm, có cách đánh giá riêng. Đặc biệt trong những vấn đề không đụng chạm đến các giá trị chung của tập thể. Thống nhất định hướng giá trị trước hết là sự gần gũi trong cách đánh giá về lĩnh vực đạo đức, về công việc, về quan điểm đối với mục đích và nhiệm vụ của hoạt động chung. Sự thống nhất định hướng giá trị chỉ bắt đầu có ở tầng thứ hai trong cấu trúc theo tầng của tập thể và chỉ thật chắc chắn ở tầng thứ ba. Đó là tầng cá nhân có cùng một thái độ đối với đối tượng của hoạt động. Có thể nói tầng thứ ba là hạt nhân của tập thể.
  14. c) Những quá trình đồng nhất hóa trong tập thể Một trong những hình thức biểu hiện quan trọng của sự cố kết trong tập thể là sự giao lưu tình cảm của cá nhân với tập thể. Sống trong tập thể, cá nhân hoặc có ý thức, hoặc không có ý thức đồng nhất mình với tập thể. Đồng nhất với tập thể là thái độ đồng cảm với mọi người trong mọi biến cố thành công hay thất bại trạng thái tình cảm chung của tập thể nhằm hoàn thành nhiệm vụ đã đặt ra. Biểu hiện của đồng nhất với tập thể là: hoà mình với trạng thái chung của tập thể, biến thái độ thành động cơ hành động. Đây là một tiêu chuẩn nói lên mức độ phát triển quan hệ cá nhân trong tập thể và mức độ đoàn kết trong tập thể. Sự phát triển của sự đồng nhất này từ chỗ lây lan xúc cảm bình thường đến mức có nhu cầu cùng thể nghiệm các xúc cảm (đồng cảm) và nó phát triển trong quá trình sống của cá nhân trong tập thể. Tập thể là nơi có các quan hệ gần gũi nên là điều kiện thuận lợi cho việc nảy sinh sự đồng nhất xúc cảm mà trong nhóm phân tán không có. Vì thế, hiện tượng đồng nhất xúc cảm là một thông số đặc biệt của mức độ phát triển quan hệ liên nhân cách trong tập thể. Đồng nhất xúc cảm bắt đầu có ở lớp thứ hai của cấu trúc quan hệ liên nhân cách trong tập thể. Như vậy, cùng với các chỉ số khác như: đồng nhất xúc cảm, thống nhất định hướng giá trị cho phép phân biệt mức độ phát triển nhóm để xác định xem nhóm đã là một tập thể thực sự chưa. 3. Tinh thần tập thể a) Hiện tượng xu thời (theo đuôi, a dua) và áp lực nhóm Một trong các phương pháp giải quyết xung đột giữa cá nhân và nhóm là xu hướng xu thời. Xu thời là sự nương theo áp lực nhóm, là sự đồng nhất bắt buộc theo hành vi nhóm. Những nghiên cứu nổi bật trong vấn đề này thuộc về: L.Festinger. Theo tác giả này có khoảng 1/3 (33%) người Mỹ không có tính tự lập khi giải quyết các vấn đề mà phải theo ý kiến của nhóm (tập thể) có cách xử sự theo đuôi số đông (có 2/3 giữ được ý kiến riêng). Tức là trong nhận thức của số này có mâu thuẫn - mâu thuẫn giữa ý kiến riêng và ý kiến của nhóm nhưng phải theo ý kiến của nhóm.
  15. Các thí nghiệm khác cũng cho thấy: trong các thành viên thí nghiệm, nhiều người thấy trong nhận thức của mình có mâu thuẫn nhưng vẫn theo quyết định như vậy là do nhóm. Như vậy nhóm đã tạo ra áp lực - áp lực này buộc các cá nhân tuân theo. Bên cạnh đó, áp lực của nhóm phụ thuộc vào số lượng các cá nhân có sự tương đồng ý kiến. Các nghiên cứu cho thấy: nếu nhóm gồm 1 - 2 người thì không có hiệu quả, nhưng 3 - 4 người thì hiệu quả. Tuy nhiên tăng số lượng cá nhân liên kết với ý kiến do thì kết quả cũng vẫn dừng lại. Chứng tỏ có một số người rất kiên định. Thông thường người ta chỉ sắp xếp từ 6 đến 8 người trong nhóm là vừa. Nghiên cứu của các tác giả Xô viết cho thấy: Dạng a dua chung nhất có thể thấy đó là hành vi phù hợp những tiêu chuẩn nhất định của nhóm hoặc phù hợp với sự mong đợi của nhóm. Theo các nhà Tâm lý học xã hội Mỹ, mức độ phù hợp hành vi của cá nhân với sự mong đợi của nhóm là tiêu chuẩn cho tính a dua. Nhưng cần lưu ý rằng a dua có những tính chất khác nhau. Sự bắt buộc thực hiện hành vi của cá nhân theo ý kiến và áp lực nhóm có thể do bên trong và bên ngoài. Nếu do bên ngoài thì cá nhân lại vẫn giữ lại ý kiến của mình sau khi rời khỏi nhóm - áp lực nhóm mất hiệu lực. Nếu do bên trong thì cá nhân vẫn bảo vệ ý kiến của nhóm khi nhóm thôi không gây áp lực nữa. Như vậy sự “theo đuôi, a dua” trong nhóm mà không có sự mâu thuẫn giữa quan điểm của cá nhân với áp lực bên ngoài (áp lực nhóm) thì có thể gọi là sự ám thị nhóm (tin chắc nhóm đúng). Trong khi hành vi theo đuôi có bản chất tâm lý là sự sợ hãi bị tách khỏi tập thể, theo đuôi một cách có ý thức hẳn hoi (biết là mình nghĩ khác) và do vậy, theo đuôi vì ý kiến của tập thể để xu thời, từ bỏ lợi ích cá nhân. Nói cách khác, cơ chế tâm lý của sự ám thị nhóm khác với cơ chế hành vi “theo đuôi” ở bản chất tâm lý bên trong của nó. Mặc dù bên ngoài là có sự giống nhau: đều tuân theo hành vi của nhóm. Trường hợp “ám thị nhóm” thì diễn ra sự tự điều chỉnh hoạt động của cá nhân dưới ảnh hưởng của quan điểm và ý kiến nhóm một cách vô ý thức, không cần phê phán (vì luôn luôn tâm niệm nó đứng rồi, không nghĩ đến nó nữa). Vấn đề áp lực nhóm trong những công trình về “theo đuôi” đã cho ta hiểu thêm một số đặc điểm về sự tác động qua lại giữa cá nhân và nhóm. Sự tác động đó làm nảy sinh trong hiện tượng xu thời.
  16. Ngược lại với tính a dua, theo đuôi, là “tính kiên định” của nhân cách (trong tình huống nào cũng giữ vững ý kiến, không theo đuôi). Tính kiên định thể hiện sự độc lập, chắc chắn của cá nhân trong việc phải đưa ra quyết định cho một sự lựa chọn, bị sự tự xác định của cá nhân trong tập thể. b) Sự tự xác định của cá nhân trong tập thể Sự tự xác định ở đây khác với theo đuôi và cũng khác với ám thị nhóm (cứ tin nhóm là đúng). Tự xác định là sự suy nghĩ (và hành động) theo những tư tưởng chung của tập thể, theo những mục đích và giá trị chung của tập thể và hành động phù hợp với ích chung của tập thể. Nói khác đi đó là giác ngộ mục đích của tập thể và tự nguyện hành động để đạt mục đích đó. Như vậy ở đây có sự trùng hợp quan điểm của cá nhân với quan điểm chung, với yêu cầu của tập thể chứ không hề có áp lực với cá nhân. Vì cá nhân hướng tới giá trị chung mà mọi người cũng cùng thừa nhận. Các giá trị đã được nội tâm hóa và trở thành chân lý cho chính bản thân cá nhân. Sự tự giác của cá nhân biểu hiện rõ nhất khi có sự mâu thuẫn giữa các giá trị của nhóm với áp lực của nhóm. Khi hướng vào giá trị chung của tập thể có thể xảy ra tình trạng cá nhân mâu thuẫn với áp lực của nhóm. Đó là lúc cá nhân nhận thức được áp lực nhóm đi ngược lại giá trị chung của tập thể và trong trường hợp đó cá nhân đã tỏ rõ bản lĩnh và tính độc lập của mình. Còn kẻ theo đuôi (xu thời) sẽ thỏa hiệp với áp lực của nhóm. Sự tự giác có tính chất tập thể nảy sinh khi các hành vi của cá nhân được xác định không bị ảnh hưởng trực tiếp của áp lực nhóm hay phẩm chất tâm lý của người khác mà bị ảnh hưởng của mục đích nhiệm vụ chung. Đây là chỗ khác giữa tập thể và nhóm phân tán, nhóm phân tán có thể có mâu thuẫn giữa các nhóm nhỏ trong đó. Còn tập thể thì khi đã tự xác định tính tập thể thì thống nhất cá nhân - nhóm - tập thể. Trong lĩnh vực niềm tin đạo đức, các thực nghiệm đã được tiến hành cho thấy: Dưới áp lực của nhóm gài vẫn nhiều người giữ vững niềm tin của mình. Điều đó chứng tỏ là cá nhân có sự tự xác định theo yêu cầu tập thể. III. MỘT SỐ HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ XÃ HỘI CƠ BẢN TRONG ĐỜI SỐNG TẬP THỂ 1. Thủ lĩnh trong tập thể
  17. * Khái niệm: Trong một tập thể bao giờ cũng xuất hiện những người cầm đầu các nhóm không chính thức (nhóm tự phát). Những người đó được coi là thủ lĩnh. Đây là hiện tượng bình thường trong quá trình phát triển của tập thể như là kết quả của sự tác động qua lại mang tính chất liên nhân cách. Thủ lĩnh và thủ trưởng có gì khác nhau? - Thủ trưởng: là người đứng đầu một nhóm chính thức đảm nhiệm việc lãnh đạo quản lý nhóm. Thủ trưởng xuất hiện do yêu cầu từ bên ngoài. Do yêu cầu của hoạt động chung người ta phải bổ nhiệm hoặc cho bầu thủ trưởng. - Thủ lĩnh: là người cầm đầu một nhóm không chính thức. Thủ lĩnh xuất hiện do yêu cầu của nội bộ nhóm tự phát - mọi người tự nguyện thừa nhận người cầm đầu chứ không phải do bên ngoài áp đặt vào. Thủ lĩnh và thủ trưởng đều có chức năng điều khiển hoạt động chung của nhóm và điều chỉnh các mối quan hệ trong nhóm nhưng bằng các phương thức khác nhau. Một bên là bắt buộc còn một bên là tự giác. * Có nhiều loại thủ lĩnh: - Căn cứ vào phong cách có ba loại: + Thủ lĩnh độc đoán: tự quyết mọi vấn đề, không cần ý kiến của người xung quanh. + Thủ lĩnh dân chủ: quyết định dựa trên căn cứ của những người xung quanh. + Thủ lĩnh pha trộn: pha trộn giữa độc đoán và dân chủ. - Căn cứ vào đặc điểm hoạt động có hai loại thủ lĩnh: + Thủ lĩnh vạn năng: tình huống nào cũng cầm đầu. + Thủ lĩnh tình huống: chỉ cầm đầu trong từng tình huống. - Căn cứ vào nội dung hoạt động có ba loại: + Thủ lĩnh đề xuất: loại này chỉ nghĩ ra việc, không làm. + Thủ lĩnh thực hiện: chỉ thực hiện các quyết định của nhóm. + Thủ lĩnh vừa đề xuất vừa thực hiện: nghĩ được mà tổ chức làm cũng được. - Căn cứ vào mức độ công khai làm thủ lĩnh trong tập thể có hai loại: + Thủ lĩnh công khai: công khai làm thủ lĩnh ai cũng biết.
  18. + Thủ lĩnh ngầm: không công khai làm thủ lĩnh nhưng ai cũng tín nhiệm nghe theo khi phát biểu. Loại này chỉ xuất hiện tùy từng tình huống. * Vai trò của thủ lĩnh trong tập thể. Thủ lĩnh và thủ trưởng có thể trùng hợp hoặc không trùng hợp. Trường hợp lý tưởng là hai vai trò này trùng hợp với nhau. Trong trường hợp không trùng hợp vai trò của thủ lĩnh có thể có hai mặt: - Vai trò tích cực nếu muốn giúp tập thể. - Vai trò tiêu cực khi không muốn giúp tập thể. Đặc biệt nếu thủ lĩnh bất đồng quan điểm với thủ trưởng, không ủng hộ thủ trưởng thì tập thể sẽ khó đoàn kết. Nếu thủ trưởng không mạnh mẽ, cứng rắn thì thủ lĩnh dễ lấn át thủ trưởng. Một tập thể sẽ là tập thể lý tưởng khi thủ trưởng và thủ lĩnh là một. Trong trường hợp không trùng hợp, thủ trưởng cần khéo léo lôi kéo tận dụng vai trò của thủ lĩnh đối với công việc chung. 2. Sự tương hợp Tâm lý trong nhóm Sự tương hợp tâm lý là một khía cạnh của mối quan hệ liên nhân cách hình thành giữa các cá nhân trong nhóm. Nó biểu hiện sự hài hòa của quan hệ giữa các cá nhân. Theo ý nghĩa này, sự tương hợp ngược lại với sự xung đột liên nhân cách. Có nhiều cách hiểu khác nhau về sự tương hợp tâm lý. Theo N.N.Ôbôzôv, tương hợp là sự kết hợp và tác động lẫn nhau thể hiện sự hài lòng cao giữa các cá nhân. Quan điểm khác lại nhấn mạnh tương hợp ở khía cạnh sự thích ứng lẫn nhau của các cá nhân trong hoạt động chung. Theo tác giả này, có 3 cách tiếp cận đối với với hiện tượng tương hợp tâm lý: cấu trúc (xem xét sự giống nhau hay khác biệt của các đặc điểm cá nhân của các thành viên); chức năng (kết quả của sự thống nhất chức năng nội nhóm và vai trò của các thành viên) và thích nghi. Một cách phổ biến có thể hiểu: sự tương hợp tâm lý là sự kết hợp thuận lợi nhất các đặc điểm tâm lý cá nhân của các thành viên trong nhóm đảm bảo cho công việc chung cũng như sự hài lòng cá nhân đều đạt ở mức độ cao. Như vậy, sự tương hợp có hai dấu hiệu cơ bản: - Tương hợp là sự kết hợp thuận lợi các đặc điểm tâm lý cá nhân.
  19. - Đảm bảo cho công việc đạt kết quả cao đồng thời đảm bảo cho sự hài lòng giữa các cá nhân cũng ở mức độ cao. Nếu thiếu một trong hai điều kiện này sẽ không phải là tương hợp. Sự kết hợp các đặc điểm tâm lý cá nhân có thể theo hai hướng khác nhau: bù trừ cho nhau hoặc tương đương nhau. Có sự tương hợp dựa trên cơ sở bù trừ những khiếm khuyết của các cá nhân để tạo ra sự hoàn thiện hơn. Sự bù trừ đó giúp các cá nhân đạt được kết quả cao hơn trong công việc cũng như đem lại cảm giác an toàn về tâm lý cho các cá nhân. Loại tương hợp dựa trên sự tương đồng của các đặc điểm tâm lý giúp các cá nhân dễ dàng thống nhất mục đích, hành vi. Có ba mặt tương hợp: - Tương hợp sinh lý: gồm sự tương hợp về sức khỏe, một số chỉ số sinh lý mặt này cần sự tương đương. - Tương hợp tâm sinh lý. - Tương hợp tâm lý: gồm sự tương hợp về nhận thức, khả năng nhận thức, tính cách của cá nhân, định hướng giá trị và một số vấn đề khác. Trong đó tương hợp tâm lý là quan trọng nhất. Mặt này đòi hỏi sự tương hợp tương đương. Đòi hỏi về sự tương hợp cả ba mặt này thể hiện rõ nhất trong quan hệ vợ chồng. Trong nhóm, sự tương hợp có vai trò quan trọng: - Tạo ra bầu không khí tâm lý thoải mái, lành mạnh, đoàn kết trong tập thể, do đó nâng cao được năng suất lao động, chất lượng học tập, thành tích thi đấu thể thao Tinh thần các thành viên nhóm luôn thỏai mái. - Tập thể gồm toàn những người tương hợp với nhau gọi là tập thể đồng tâm - luôn đạt hiệu quả công việc cao, lại tránh được xung đột trong tập thể. 3. Bầu không khí tập thể * Khái niệm: Là trạng thái tâm lý chung của tập thể, phản ánh tính chất, nội dung và xu hướng tâm lý thực tế của các thành viên trong tập thể đó. - Trạng thái tập thể ở đây chủ yếu là tâm trạng của các thành viên trong tập thể.
  20. - Trạng thái này cho biết là mức độ thỏa mãn các nhu cầu của tập thể, mức độ thỏa mãn các nguyện vọng của các thành viên và kể cả mức độ tương hợp của các thành viên trong tập thể. - Cơ chế sinh ra bầu không khí tâm lý là sự lây lan tâm lý từ người này sang người khác. * Các yếu tố ảnh hưởng đến bầu không khí tâm lý. - Hoàn cảnh sống và hoạt động của các thành viên chi phối quan hệ giữa các cá nhân dẫn đến chi phối bầu không khí tâm lý. - Lề lối và phong cách làm việc của người lãnh đạo. - Tính chất của các mối quan hệ trong tập thể. - Những biến cố lớn của xã hội - gây một tâm trạng chung nên có ảnh hưởng đến bầu không khí trong tâm lý. - Bản thân tính chất lao động. - Mức lương. - Uy tín nghề nghiệp. - Vị trí công tác, khả năng quan hệ với người khác. - Khả năng phát triển của nghề nghiệp. - Những đặc điểm và điều kiện cụ thể của nghề nghiệp, địa điểm công tác, địa điểm cơ quan, chế độ làm việc, tính chất các mối quan hệ ở cơ quan. Các yếu tố này chi phối đến sự thỏa mãn các nhu cầu của cá nhân, từ đó ảnh hưởng đến các mối quan hệ và ảnh hưởng đến bầu không khí tâm lý. * Điều kiện để xây dựng bầu không khí tâm lý lành mạnh: - Chú ý thích đáng đến mối quan hệ giữa các cá nhân trong tập thể, tạo điều kiện cho mọi người hiểu và thông cảm với nhau. - Phân công trách nhiệm rõ ràng, có sự giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau. - Lãnh đạo có phong cách phù hợp và lưu ý: + Quan tâm đến tập thể, có phương pháp lãnh đạo phù hợp với tính chất và mức độ phát triển của tập thể.
  21. + Thận trọng khi nhận xét đánh giá cấp dưới. + Phối hợp với các cơ quan tập thể bạn để giải quyết các vướng mắc, các nguyên nhân gây ra căng thẳng tâm lý trong tập thể khi các nguyên nhân này nằm ngoài tập thể mình phụ trách. 4. Dư luận xã hội (tập thể) a) Khái niệm - Dư luận xã hội là tổng thể những nhận xét đánh giá của nhiều người về một sự kiện, hiện tượng nào đó ít nhiều liên quan đến quyền lợi của họ. - Dư luận là ý kiến của nhiều người. - Ý kiến về những sự kiện ít nhiều liên quan đến quyền lợi, sở thích, mối quan tâm của những người đó. - Đây là nhận xét đánh giá của nhiều người có kèm với sự biểu thị thái độ và gắn với hành động xã hội của một cộng đồng. Lưu ý: Có một hiện tượng gần gũi với dư luận xã hội - đó là tin đồn. Tin đồn là một phát ngôn thông tin bình thường. Tin đồn cũng được nhiều người chú ý và truyền đạt cho nhau và nhanh chóng lan ra một diện rộng. - Dư luận xã hội là một chỉ báo chính xác nhận về thực trạng tinh thần tư tưởng của một cộng đồng. b) Phân biệt dư luận xã hội (DLXH) và tin đồn * Giống nhau: - Đều là hiện tượng tinh thần, tâm lý của mỗi nhóm người. - Có nguồn gốc từ một sự kiện nào đó. - Đều lan truyền nhanh và dễ biến dạng từ một sự thật có thể cấu trúc lại và có thể khác đi. - Đều chịu sự chi phối của nhu cầu, lợi ích cá nhân, nhóm xã hội, giai cấp. * Khác nhau: - Về mức độ tham gia của các thành tố tinh thần trong cấu trúc của tin đồn và dư luận xã hội:
  22. + Mức độ của sự thận trọng DLXH lớn hơn ở tin đồn. DLXH hình thành từ các thông tin chính thức, khá đầy đủ còn tin đồn thì ngược lại. + Thành phần DLXH là trí tuệ cùng với cảm xúc và ý chí còn tin đồn chủ yếu diễn ra trên nền cảm xúc chủ quan. + DLXH có tranh luận trao đổi dẫn đến đánh giá chung - từ tâm lý cá nhân hình thành tâm lý xã hội, do đó mang tính khách quan cao hơn. Tin đồn đề cao chính kiến cá nhân nên dễ bị xuyên tạc. + DLXH phản ánh một sự kiện rõ ràng có liên quan đến số đông. Tin đồn đề cập một vấn đề chưa rõ ràng, liên quan đến ít người. - Sự khác nhau về sự thể hiện trong xã hội: + DLXH lan truyền bằng nhiều hình thức, cả chính thức và không chính thức, tin đồn truyền bằng con đường không chinh thức. + DLXH là nhận xét, đánh giá, biểu thị thái độ của cộng đồng, còn tin đồn chỉ là thông tin bình thường về sự kiện theo kiểu mô tả lại, có cải biến thêm thắt. + DLXH có vai trò tích cực hơn tin đồn, đánh giá, điều chỉnh hành vi, tư vấn giáo dục. Tin đồn chỉ truyền tin không có các chức năng trên. + DLXH gắn bó với hành động xã hội tiếp theo sự đánh giá nhận xét. Tin đồn không có hành động hoặc đôi khi có thể có hành động bột phát thiếu cơ sở. c) Bản chất của dư luận xã hội - Dư luận là một quá trình trí tuệ, là quá trình lý trí của quần chúng nhưng có mang màu sắc cảm xúc. - Dư luận chịu sự chi phối của hệ tư tưởng, luồng dư luận chính thống, vào luồng dư luận phù hợp với hệ tư tưởng chính thống của xã hội. Do đó trong xã hội có giai cấp thì dư luận của các giai cấp khác nhau về cùng một sự kiện có thể khác nhau do mức độ đụng chạm đến quyền lợi của các giai cấp có sự khác nhau. - Lưu ý thêm về ý nghĩa của DLXH: + DLXH là công cụ mở rộng quyền làm chủ của nhân dân. + Là nhân tố tăng cường mối quan hệ giữa quần chúng và lãnh đạo.
  23. + Giúp cho các nhà quản lý xã hội trên cơ sở khoa học. d) Chức năng của dư luận xã hội - Dư luận xã hội điều chỉnh hành vi của mỗi thành viên cộng đồng. Dư luận xã hội có thể đánh giá hành vi, do đó có chức năng khuyến khích hoặc ngăn chặn hành vi. Dư luận đúng sẽ khuyến khích làm hành vi phù hợp với chuẩn mực chung, ngăn chặn những hành vi sai trái. Dư luận sai có thể dẫn đến những hành vi tiêu cực. - Chức năng này có thể chia làm ba chức năng cụ thể như: + Điều tiết các quan hệ trong xã hội. + Giáo dục các thành viên trong xã hội. + Kiểm soát giám sát hành vi của mọi người. Dư luận xã hội có chức năng tư vấn giúp cho các nhà quản lý các giải pháp phù hợp với ý chí nguyện vọng của quần chúng. e) Các giai đoạn hình thành dư luận - Giai đoạn tri giác sự kiện: có một sự kiện, hiện tượng xảy ra nhiều người chứng kiến hoặc được cung cấp thông tin về sự kiện - mỗi người có những suy nghĩ đánh giá riêng khi biết về sự kiện. - Trao đổi những suy nghĩ, đánh giá của mình về sự kiện với nhau. Các suy nghĩ đánh giá của cá nhân chuyển lĩnh vực ý thức cá nhân sang ý thức cộng đồng. Các ý kiến có thể khác nhau, có khi đối lập nhau họ trao đổi tranh luận với nhau. - Thống nhất ý kiến: Những ý kiến khác nhau sẽ có thể thống nhất lại xung quanh các quan điểm cơ bản, dư luận hình thành, nếu không thống nhất dư luận không thành. - Cuối cùng là các phán xét kiến nghị của tập thể cộng đồng với cấp trên. Người lãnh đạo lưu ý: Dùng biện pháp tích cực để mọi người hiểu đúng đắn bản chất của sự kiện không nên ép quần chúng hiểu theo ý kiến cá nhân lãnh đạo. Dư luận nào lành mạnh thì duy trì, dư luận thiếu lành mạnh thì không duy trì. g) Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành dư luận - Tính chất của sự kiện gây nên dư luận ảnh hưởng đến tốc độ và cường độ dư luận: + Động chạm đến quyền lợi nhiều người: dư luận hình thành nhanh.
  24. + Động chạm đến những quyền lợi thiết thân, những chuẩn mực được tôn trọng thì dư luận hình thành nhanh, mạnh. - Chất lượng và số lượng thông tin về sự kiện ảnh hưởng đến tốc độ hình thành và mức độ đúng đắn phù hợp của dư luận. + Thông tin đầy đủ thì dư luận hình thành nhanh. + Thông tin chính xác thì dư luận hình thành đúng với bản chất của sự kiện và chuẩn mực chung. Nếu thông tin thiếu, không rõ ràng, không chính xác dẫn đến sự phán đoán mơ hồ, kéo dài thì dư luận chưa chắc đã hình thành lúc đó người ta gọi là “tin đồn”. - Mức độ chuẩn bị của tập thể đối với sự kiện xảy ra ảnh hưởng đến tốc độ hình thành dư luận. Nên tập thể được chuẩn bị trước về thái độ, tư tưởng, được hướng dẫn thì những sự kiện xảy ra dư luận hình thành nhanh chóng và đúng đắn. Nếu tập thể bị bất ngờ dư luận khó hình thành, ý kiến dễ bị phân tán. Do đó nếu đoán trước được luồng tư tưởng trong tập thể sẽ điều khiển được quá trình hình thành dư luận. - Mức độ phát triển của tập thể ảnh hưởng đến cường độ và tốc độ hình thành dư luận: Tập thể phát triển cao, đoàn kết, dư luận hình thành nhanh mạnh và ngược lại tập thể mới hình thành, thiếu đoàn kết thì khó có dư luận đúng đắn. - Nếp nghĩ của mọi người trong tập thể ảnh hưởng đến tính chất của dư luận. - Nếp nghĩ chủ quan phiến diện, định kiến sẽ dẫn đến phán đoán sai lệch - dư luận không đúng. Nếp nghĩ toàn diện, không định kiến dư luận sẽ đúng đắn hơn. - Không khí đạo đức thói quen và tâm trạng chung của cộng đồng cũng có ảnh hưởng nhất định đến sự hình thành DLXH. 5. Xung đột trong tập thể a) Khái niệm xung đột Thực tế hiện nay cho thấy: quá trình vận động và phát triển của các nhóm xã hội không thể tránh được xung đột. Các cuộc xung đột luôn luôn diễn ra ở tất cả các nhóm xã hội, bất kể quy mô của nhóm lớn hay nhỏ. Do đó, việc nghiên cứu xung đột của nhóm trở thành nội dung quan trọng của Tâm lý học xã hội hiện nay. Vậy chúng ta hiểu thế nào là xung đột?
  25. Quá trình hình thành và phát triển các nhóm xã hội tự nó đã chứa đựng các mâu thuẫn. Đó là mâu thuẫn về quan điểm, về cá tính, về lợi ích của các thành viên và nhóm nhỏ hơn trong đó. Nhưng không phải mâu thuẫn nào cũng biến thành xung đột, mà chỉ khi mâu thuẫn đó bùng nổ thì xung đột mới xuất hiện. Theo các tác giả Severy, Bngham và Schlenker, xung đột là hoàn cảnh mà ở đó mục đích của hai hoặc nhiều người không thống nhất nhau ở một số mức độ nào đó. Các xung đột cũng có thể xảy ra khi các thành viên của nhóm thống nhất nhau về các mục đích cơ bản, nhưng lại không thống nhất về các mục đích thứ yếu hoặc về mục đích có thể thống nhất nhau nhưng lại khác biệt về các phương thức thực hiện mục đích đó. Ví dụ trong gia đình, hai vợ chồng đều thống nhất với nhau cần phải nghiêm khắc với con cái nhưng lại không thống nhất với nhau trong phương pháp và mức độ thể hiện sự nghiệm khắc đó. Một nhà tâm lý học Mỹ là J.P.Chaplin lại cho rằng: xung đột là hai hoặc nhiều xung lực hay động cơ có tính đối kháng lẫn nhau xay ra một cách đồng thời. Ở Việt Nam cũng có nhiều tác giả nghiên cứu về xung đột. Tác giả Vũ Dũng cho rằng: Xung đột là sự khác biệt (về quan điểm, mục đích, động cơ) giữa các thành viên trong quá trình thực hiện hoạt động của nhóm. Như vậy, dù xem xét ở các góc độ khác nhau nhưng các tác giả đều có sự thống nhất nhất định trong việc xác định nội hàm của khái niệm xung đột. Từ các quan niệm khác nhau nêu trên, chúng ta có thể quan niệm xung đột là: sự bùng nổ các mâu thuẫn giữa các thành viên trong nhóm khi thực hiện hoạt động chung của nhóm. Như vậy, mâu thuẫn thì lúc nào cũng tồn tại nhưng xung đột có thể xảy ra hoặc không xảy ra. Chỉ khi nào mâu thuẫn bùng nổ người ta không thể hòa giải nó từ xung đột xảy ra. Những xung đột lớn hoặc mâu thuẫn ở mức độ sâu sắc có thể dẫn đến bạo lực. Những xung đột nhỏ thường ít được các thành viên của nhóm quan tâm, nhưng khi các xung đột nhỏ này cứ tích tụ dần và đến mức độ nào đó nó sẽ xảy ra xung đột lớn, có thể tạo nên sự bất hòa nghiêm trọng giữa các cá nhân hoặc giữa các nhóm. b) Bản chất và tác hại của xung đột Có nhiều quan điểm khác nhau về bản chất của xung đột. Parker Follet cho rằng, xung đột cần phải được hiểu như sự khác biệt - khác biệt về quan điểm và lợi ích. C Mác viết: Suy cho cùng, mọi mâu thuẫn trong xã hội là mâu thuẫn lợi ích. Chính lợi ích mới là nguồn gốc sâu xa của xung đột. Khi con người có mâu thuẫn lợi ích (có thể
  26. là vật chất hoặc tinh thần) thì rất dễ xảy ra xung đột. Mức độ lợi ích của mỗi bên trong mâu thuẫn sẽ chi phối mức độ xung đột. Nếu lợi ích đối kháng nhau thì xung đột sẽ rất mạnh mẽ và có thể loại trừ nhau. Trong xung đột, mọi người nhận diện ra sự khác biệt giữa mình và với người khác. Tùy mức độ mâu thuẫn lợi ích mà họ nhìn người khác như đối thủ hoặc như kẻ thù. Tác giả Vũ Dũng cũng cho rằng xung đột là sự khác biệt về quan điểm mục đích, động cơ khi thực hiện hoạt động nhóm. Như vậy theo các tác giả, xung đột là do khác biệt về một điều gì đó. Nhưng thực tế, nhiều sự khác biệt không dẫn đến xung đột. Sự khác biệt là tất yếu trong cuộc sống. Mặc dù có sự khác biệt nhưng con người vẫn có thể dung hòa với nhau, nhường nhịn nhau và xử lý các mâu thuẫn bằng hòa giải hoặc một bên chấp nhận sự thua thiệt để giữ lấy sự cân bằng. Khi có xung đột xảy ra, người ta phải tìm hiểu ngay lợi ích mỗi bên để xác định mức độ xung đột. Nhìn hình thức bên ngoài, có khi chỉ là vấn đề quan điểm về một vấn đề gì đó. Nhưng bên trong có thể là sự khẳng định bản thân của mỗi người (lợi ích tinh thần). Từ các phân tích trên có thể thấy, bản chất của xung đột là các mâu thuẫn lợi ích giữa các thành viên của nhóm hoặc của các bộ phận trong nhóm. Điều hòa các lợi ích cho phù hợp là một biện pháp quan trọng để phòng ngừa xung đột xảy ra. Xung đột có tác hại rất lớn đến nhóm và mỗi cá nhân. Khi nhóm có xung đột, bầu không khí của nhóm bị phá vỡ. Môi trường sống yên bình của cá nhân bị đảo lộn làm người ta sống trong trạng thái căng thẳng, không có lợi cho sức khỏe thể chất và tinh thần của con người. Sau mỗi lần xung đột cá nhân phải mất thời gian thể nghiệm lại bản thân nên vừa mất thời gian vừa bị phân tán tư tưởng trong công việc. Do đó, những người bị lôi kéo vào xung đột sẽ làm việc kém hiệu quả và dễ gây tai nạn vì không tập trung. Đối với toàn nhóm, khi có xung đột, nhóm không thể thống nhất ý kiến và hành động nên năng suất lao động sẽ giảm đi, mọi người dễ nghi kị nhau. Tuy nhiên cũng cần nhấn mạnh rằng có những xung đột mang tính tích cực, thông thường đó là xung đột đơn thuần về ý kiến, phương thức hoạt động, không phải là các xung đột lợi ích. Các xung đột được gọi là tích cực có thể đem lại một động lực mới cho
  27. sự phát triển của một nhóm. Dạng xung đột này có thể giúp nhóm thoát khỏi trạng thái ỳ, khi các cá nhân đồng thuận đến mức bị động. c) Các loại hình xung đột và vấn đề giải quyết xung đột * Các loại hình xung đột: Căn cứ vào chủ thể tham gia vào xung đột, người ta có thể chia xung đột thành các loại hình sau: - Xung đột trong mỗi cá nhân (còn gọi là xung đột nội tâm): Loại xung đột này xuất hiện khi cá nhân tham gia vào những nhóm xã hội có những lợi ích khác nhau. Họ lúng túng không biết chọn theo lợi ích nào. Lợi ích của mỗi nhóm đều có sức hấp dẫn với cá nhân nhưng không cho phép cá nhân chọn cả hai, mà chỉ được phép chọn một. - Xung đột cá nhân với cá nhân: Loại xung đột này diễn ra khi cá nhân này cho rằng cá nhân kia cản trở hoặc phá hoại lợi ích của mình. - Xung đột cá nhân với tập thể: Đây là loại xung đột xuất hiện khi cá nhân cho rằng tập thể ngăn cản lợi ích của họ và họ không chấp nhận ý kiến, quyết định của tập thể. - Xung đột tập thể với tập thể: Loại xung đột này vẫn thường xảy ra khi tập thể này cho rằng tập thể kia ngăn cản hoặc phá hoại lợi ích của tập thể mình. * Phòng ngừa và giải quyết xung đột: - Về cơ bản phải phòng ngừa xung đột; không nên để xung đột xảy ra rồi mới giải quyết. Muốn phòng ngừa xung đột cần xác định rõ bản chất của xung đột và có biện pháp phòng ngừa. Trước hết, người lãnh đạo nhóm phải điều hòa lợi ích trong nhóm sao cho thỏa đáng, không nên để có sự chênh lệch quá lớn về lợi ích giữa các thành viên hoặc giữa các bộ phận. - Cần có phương pháp lãnh đạo khoa học và phù hợp với tính chất và đặc điểm của đơn vị mình phụ trách. - Giải toả các mâu thuẫn nhỏ, không để cho thâu thuẫn nhỏ tích tụ sẽ dẫn đến mâu thuẫn lớn đến mức bùng nổ không thể ngăn chặn.
  28. - Khi xung đột xảy ra thì phải nhanh chóng xác định mâu thuẫn của mỗi bên và tác động để giảm mâu thuẫn đó. Có thể trong nhóm có kẻ phá hoại gây mất ổn định trong nhóm hoặc có người cố tình không chấp nhận những chuẩn mực của nhóm. Phương pháp giải quyết là thuyết phục các bên ngồi lại và hòa giải với nhau. Khi không làm được việc đó thì có thể dùng các biện pháp hành chính như: chuyển cá nhân xung đột sang đơn vị khác, hoặc kỉ luật kẻ gây rối HƯỚNG VẬN DỤNG TRONG DẠY HỌC VÀ GIÁO DỤC: Các vấn đề liên quan đến tâm lý học tập thể là cơ sở quan trọng cho việc tổ chức và quản lý tập thể sinh viên và tập thể giảng viên (lĩnh vực quản lý và phát triển tổ chức, tập thể). Hướng ứng dụng này có mục đích là tạo ra sự vận hành thuận lợi và có hiệu quả của tập thể, tổ chức. Cụ thể: - Điều chỉnh sự vận động và phát triển của tập thể thông qua các giai đoạn, trong đó có thể nhận biết được tính chất của tập thể trong từng giai đoạn và dự báo được xu hướng vận động và phát triển của tập thể. - Có cách tiếp đầy đủ toàn diện đối với tập thể theo các lớp cấu trúc của nó. - Tác động hình thành các lớp cấu trúc của tập thể sinh viên, giảng viên. Tận dụng vai trò của từng lớp cấu trúc trong việc tổ chức hoạt động của tập thể, đánh giá mức độ gắn kết và tính chất của sự gắn kết trong tập thể. - Tạo ra những sự tương đồng trong hoạt động, thể hiện ở mục đích chung, tạo ra sự tương hợp trong thái độ và hành vi đối với tập thể. - Có các cách ứng xử phù hợp với các hiện tượng thủ lĩnh, lãnh đạo các dư luận tập thể: tạo dư luận hay ngăn ngừa dư luận, nhận biết các xung đột tập thể và đề ra cách thức giải quyết các xung đột đó. - Quan tâm tới việc nhận biết các đặc trưng của tập thể trong lĩnh vực hoạt động khoa học. CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG IV 1. Tập thể là gì? Nêu sự khác biệt giữa nhóm nhỏ và tập thể. Có những giai đoạn phát triển nào trong tập thể?
  29. 2. Sự khác biệt và mối quan hệ giữa thủ lĩnh và thủ trưởng? Cần có cách ửng xử như thế nào nếu thủ lĩnh và thủ trưởng không phải là một trong nhóm? Tại sao? 3. Sự tương hợp Tâm lý là gì? Vai trò của sự tương hợp Tâm lý? Có thể tạo ra sự tương hợp tâm lý như thế nào? 4. Thế nào là bầu không khí Tâm lý của tập thể? Làm thế nào để có bầu không khí tập thể tích cực? 5. Dư luận xã hội là gì? Sự hình thành dư luận có những giai đoạn nào? Muốn hình thành dư luận cần làm gì? 6. Xung đột là gì? Bản chất của xung đột? Làm thế nào để phòng tránh xung đột? Chương 5. ẢNH HƯỞNG XÃ HỘI, ĐỊNH KIẾN XÃ HỘI VÀ SỰ XÂM KÍCH I. Ảnh hưởng xã hội 1. Khái niệm ảnh hưởng xã hội Khi nghiên cứu ảnh hưởng của xã hội đến cá nhân, người ta đã thấy hành vi của cá nhân khi họ ở trong nhóm và khi họ chỉ có một mình là khác nhau. Rõ ràng, khi ở một mình họ có thể tự do hơn trong việc lựa chọn hành vi ứng xử với một đối tượng nào đó. Nhưng khi ở trong nhóm, họ phải căn cứ vào hoàn cảnh thực tế, vào chuẩn mực của nhóm, vào ý kiến của những người xung quanh để hành động. Rõ ràng, con người không thể hoàn toàn tự quyết định hành động của mình khi có những người xung quanh, ít nhiều họ phải chịu ảnh hưởng, tác động từ những người xung quanh. Ví dụ: “nhập gia tùy tục”. Đó chính là ảnh hưởng xã hội. Vậy ảnh hưởng xã hội thực chất là tác động của những người xung quanh lên hành vi và cách ứng xử của cá nhân khi họ ở trong một nhóm xã hội nào đó. Khi có những người xung quanh, hành vi của cá nhân khác rất nhiều khi họ chỉ có một mình. Họ phải tính đến đặc điểm của những người xung quanh và có hành vi phù hợp với mong đợi của những người xung quanh. Để thấy rõ ảnh hưởng của nhóm lên hành vi của cá nhân các nhà Tâm lý học xã hội đã tiến hành những thí nghiệm so sánh kết quả công việc của cá nhân khi họ làm việc riêng biệt một mình và khi họ làm việc ở trong môi trường nhóm. Các kiểu nhóm khác nhau ảnh hưởng lên hành vi cá nhân cũng khác nhau. Kết quả cho thấy nhóm là một tác nhân quan trọng ảnh hưởng đến hành vi của cá nhân khi họ ở trong nhóm.
  30. Ảnh hưởng của nhóm làm cho hành vi của cá nhân thay đổi so với điều kiện họ ở một mình bằng một số cơ chế cụ thể. Đó là các cơ chế: giải thích duy lý đồng nhất, đổ lỗi - Giải thích duy lý là đưa ra những lý do hợp lý, dễ được nhóm chấp nhận để giải thích cho hành vi, cách ứng xử của mình. Khi con người có một hành động nào đó, bao giờ họ cũng giải thích bằng những nguyên nhân nào đó. Nguyên nhân họ đưa ra thường có hai loại: nguyên nhân hợp lý và nguyên nhân thực tế. Khi một người hành động hoàn toàn đúng đắn thì hai nguyên nhân này là một. Nhưng khi hai nguyên nhân đó không trùng nhau thì phải có cách giải thích khác nhưng phải “có lý”. Chẳng hạn khi công việc đang rất bận rộn, có người rủ bạn ra quán uống cà phê. Bạn nhận lời và bỏ việc để ra quán ngồi. Mặc dù bạn biết việc đó là không nên, nhưng để biện minh cho hành động của mình, bạn bạn tự lý giải rằng: “Công việc thì bao giờ mới hết, uống ly cà phê cho tỉnh táo, người thoải mái sẽ làm việc tốt hơn để bù lại” Giải thích duy lý không bị cho là xấu mà là một hiện tượng thực tế, rất phổ biến. Nhờ cơ chế này mà con người thấy thanh thản hơn khi làm một việc gì đó mà lúc đầu chính mình thấy chưa thật đúng. - Cơ chế thứ hai là đồng nhất. Đồng nhất là quá trình con người hòa vào với người khác, làm cho mình có những hành vi và cách ứng xử giống những người khác. Trong cuộc sống hàng ngày, cơ chế đồng nhất thể hiện rất rõ. Khi nhiều người trong cộng đồng có cách nói, cách ăn mặc giống nhau thì những người còn lại cũng không muốn mình khác mọi người nên cũng có cách nói, cách ăn mặc giống số đông. Sự đồng nhất có cơ sở là tính cộng đồng, tính xã hội trong mỗi con người. Chính con người phải dựa vào nhau, liên kết với nhau đề tồn tại nên con người luôn có xu hướng hòa mình vào với người khác. Sự đồng nhất cũng phụ thuộc rất nhiều vào sự dễ rung động của tình cảm con người đối với người khác trước một tình huống nào đó. Đây là cơ sở tâm lý xã hội cho những người hoạt động từ thiện dùng để tác động vào lòng trắc ẩn của con người, khơi dậy tình cảm của mọi người. Cơ chế đồng nhất giúp cho con người sống gần gũi, gắn bó với nhau hơn. Khi đồng nhất mình với người khác, con người dễ hiểu và thông cảm cho nhau vì thế có những hành động và ứng xử phù hợp với hoàn cảnh cụ thể.
  31. - Một cơ chế phổ biến của sự ảnh hưởng xã hội là đổ lỗi. Đổ lỗi là một liệu pháp tâm lý để con người “đẩy ra” hoặc “trút bớt” lỗi lầm, khuyết điểm của chính mình. Nhiều trường hợp con người không dám nhận sai lầm của mình mà thường đổ lỗi cho khách quan. Các nhà tâm lý học xã hội đã nghiên cứu và đưa ra nhận xét rằng: khi thành công, con người thường nghĩ ngay rằng kết quả đó trước hết nhờ sự đóng góp của bản thân họ. Nhưng khi thất bại người ta lại nghĩ ngay đến những yếu tố khách quan gây ra. Chẳng hạn hôm nay ta đi làm muộn là vì đường phố đông người, giao thông tắc nghẽn, trời mưa lụt lội. Một số nhà tâm lý học xã hội Mỹ làm việc ở các trường phổ thông cho biết, ít nhất họ cũng đã một lần gặp các bà mẹ có con làm test trí tuệ mà đạt điểm số thấp thì họ cho rằng người hướng dẫn làm test không đúng hoặc test không chính xác. Cơ chế “đổ lỗi” có lợi về mặt tâm lý ở chỗ nó làm giảm bớt trạng thái nặng nề của cảm giác thất bại. 2. Ảnh hưởng của môi trường văn hóa đến hành vi cá nhân Sống trong môi trường xã hội, con người chịu ảnh hưởng rất lớn của môi trường văn hóa. Hiểu theo nghĩa rộng, văn hóa là tất cả các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Môi trường văn hóa có thể được hiểu là toàn bộ yêu cầu về các mối quan hệ, các chuẩn mực xã hội tác động đến con người. Trong môi trường văn hóa, quan trọng nhất là các chuẩn mực trong quan hệ, trong ứng xử điều tiết hành vi của con người. Chính các chuẩn mực đó là khuôn mẫu hành vi mà con người phải tuân theo. Sống trong môi trường văn hóa nào, con người chịu ảnh hưởng của môi trường đó. Ví dụ, người châu Âu thường không hỏi tuổi phụ nữ, vì họ quan niệm, phụ nữ là phái đẹp, phái đẹp không có tuổi. Ngược lại, ở châu Á, mới gặp người ta hay hỏi tuổi tác để thể hiện sự quan tâm và để dễ xác định quan hệ trên dưới. Vì thế, khi tiếp xúc với người châu Âu chúng ta phải hiểu những đặc điểm văn hóa của họ để cư xử cho phù hợp. Ngược lại, khi người châu Âu sang châu Á làm việc, họ cũng phải tìm hiểu đặc điểm văn hóa của phương Đông để có thể hòa đồng với nơi họ tới. Dân gian Việt Nam có câu: Đáo giang tùy khúc, nhập gia tùy tục nghĩa là đến một nơi mới người ta phải hòa nhập với văn hóa ở nơi đó. Nếu thời gian sống ở một nơi nào đó kéo dài, người ta sẽ tuân theo phong tục tập quán, sử dụng ngôn ngữ ở nơi đó. Như vậy những đặc trưng văn hóa của nơi đó đã được phản ánh vào hành vi, cách ứng xử và ngôn ngữ của một con người. Hay nói khác đi môi trường văn hóa đã để dấu ấn của mình lên hành vi của con người.
  32. 3. Ảnh hưởng của nhóm đối với hành vi của cá nhân Ảnh hưởng của nhóm đối với hành vi của cá nhân đã được phân tích nhiều ở các phần khác nhau của tài liệu này. Mỗi nhóm đều theo đuổi những giá trị nhất định, có những chuẩn mực nhất định. Các cá nhân tham gia vào nhóm đều phải tuân theo các chuẩn mực và bảo vệ các giá trị chung đó. Vì thế, cũng giống như sống trong một môi trường văn hóa, con người phải có hành vi phù hợp với chuẩn mực chung. Có thể xem xét ảnh hưởng của nhóm đối với hành vi của cá nhân trong hai lĩnh vực: trong công việc và trong thảo luận nhóm. - Trong công việc thực nghiệm của các nhà tâm lý học mà cho thấy: khi cá nhân làm việc trong điều kiện có mặt của nhóm, tốc độ công việc tăng cao hơn. Các cá nhân đều chịu sự tác động của nhóm nhưng có sự khác biệt về mức độ ảnh hưởng của nhóm với từng cá nhân. Những cá nhân làm chậm chịu ảnh hưởng nhiều hơn những cá nhân làm nhanh ít chịu ảnh hưởng của nhóm hơn. Nhà Tâm lý học xã hội Dashiel làm thí nghiệm so sánh hành vi của con người trong các điều kiện làm việc khác nhau như: 1) Một mình; 2) Trong nhóm không có thi đua; 3) Trong nhóm có sự thi đua; 4) Trước sự có mặt của cổ động viên. Ở hai trường hợp đầu không thấy có sự thay đổi rõ nét về tốc độ cũng như tính chính xác của công việc. Nhưng trong hai trường hợp sau thì tốc độ của công việc tăng lên rõ rệt, còn tính chính xác thì thay đổi không đáng kể. Trong một thí nghiệm khác: nghiệm thể làm việc trong các phòng riêng biệt nhưng có tín hiệu thời gian chung do một trung tâm thông báo và các cá nhân làm việc trong các phòng riêng với tín hiệu thời gian do đồng hồ tự động báo riêng cho từng phòng. Trong điều kiện thứ nhất tốc độ công việc nhanh hơn còn độ chính xác thì ngược lại. Điều đó chứng tỏ rằng mặc dầu cá nhân làm việc riêng biệt nhưng vẫn có mối liên hệ với xã hội thì vẫn chịu ảnh hưởng của nhóm mang tính chất tưởng tượng. Từ các nghiên cứu, các nhà tâm lý học xã hội đưa ra kết luận: khi làm việc trong nhóm cùng với những đồng nghiệp thì trong đa số các trường hợp tốc độ công việc có tăng lên, còn tính chính xác, chất lượng công việc nói chung không có sự thay đổi đáng kể. - Tình huống thứ hai là thảo luận nhóm. Trong thảo luận nhóm, cá nhân cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều ý kiến của nhóm. Có nhiều nghiên cứu cho thấy: ý kiến đánh giá của cá nhân được củng cố và hoàn thiện hơn nhờ thảo luận của nhóm. Trong các nghiên cứu thì đáng chú ý nhất là công trình của Jenness. Ông cho học sinh đoán số hạt đậu trong một
  33. chai thủy tinh. Ông nhận thấy khi các em có bàn nhau về số lượng hạt và biết được các ý kiến của những bạn khác thì dự đoán của các em sẽ chính xác gấp ba lần so với những bạn không tham gia thảo luận. Một số nghiên cứu khác cũng đánh giá cao vai trò của thảo luận nhóm đối với hành vi cá nhân. Có ý kiến cho rằng, khi cần đưa ra nhiều giả thiết thì nhóm đông người tốt hơn, nhưng khi cần đưa ra những ý kiến chính xác thì nhóm ít người có lợi hơn. Điều đó có thể thấy rất rõ qua thực tế của lĩnh vực chính trị và quản lý hành chính. Dashiel cũng đã chứng minh rằng, hội đồng thẩm vấn thường đưa ra số lượng các tình tiết đầy đủ và chính xác hơn thột cá nhân hội thẩm. Theo các nhà nghiên cứu sở dĩ tư duy của nhóm được xem là ưu việt hơn tư duy của cá nhận bởi vì nó có nhiều cách tiếp cận với vấn đề hơn. Nhóm đưa ra được nhiều giải pháp, sự nhận xét đối với từng ý kiến có hiệu quả hơn; hơn nữa tư duy của nhóm thì ít có tính độc đoán. Do vậy, trong quá trình ra quyết định nhóm, cần tạo điều kiện để mọi cá nhân đưa ra ý kiến của mình. Ý kiến đó có thể đóng góp cho quyết định chung, cũng có thể ý nghĩa của ý kiến đó không lớn, tuy nhiên điều quan trọng là đưa ra ý kiến giúp cá nhân dễ dàng chấp nhận ý kiến của nhóm hơn II. ĐỊNH KIẾN XÃ HỘI 1. Khái niệm định kiến xã hội Định kiến là một vấn đề trọng tâm trong các nghiên cứu về nhóm của Tâm lý học xã hội. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Đây là một trong những khía cạnh tâm lý xã hội đặc trưng của nhóm, phản ánh đời sống tâm lý phức tạp trong ứng xử và quan hệ của con người trong phạm vi nhóm và phạm vi xã hội. Các nhà nghiên cứu đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về định kiến. Theo cách hiểu đơn giản, định kiến là ý kiến đánh giá có trước về một vấn đề nào đó. Thường người ta dùng từ định kiến để chỉ một sự nhìn nhận không đúng sự thật nhưng người có định kiến không chịu thay đổi ý kiến của mình. Như vậy, định kiến được hiểu theo nghĩa tiêu cực. Người ta thường không chấp nhận những người có định kiến về một vấn đề nào đó. Các nhà tâm lý học Xô viết quan niệm: định kiến là quan niệm đơn giản, máy móc, thường không đúng sự thật về một vấn đề xã hội, về một cá nhân hay nhóm xã hội nào đó. Như vậy, theo các nhà tâm lý học Xô viết thì định kiến mang tính tiêu cực trong ứng xử đối với thế giới xung quanh.
  34. Theo J.P.Chaplin, định kiến : 1) Là thái độ có thể tích cực hoặc tiêu cực được hình thành trước trên cơ sở những dấu hiệu rõ ràng trong đó đặc biệt là yếu tố cảm xúc; 2) Là lòng tin hoặc cách nhìn, thường là không thiện cảm làm cho chủ thể có cách ứng xử hoặc cách nghĩ như vậy đối với những người khác. G.W. Allport cho rằng, định kiến được xem như thái độ có tính ác cảm và thù địch đối với các thành viên của nhóm (Allport, 1954). Có thể có nhiều quan niệm nữa về định kiến, nhưng chỉ cần qua các quan niệm đã nêu, chúng ta có thể nhận thấy, các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng: định kiến là một kiểu thái độ có trước, mang tính tiêu cực. Có thể là thái độ tiêu cực đối với nhóm hoặc các thành viên của nhóm. Người ta có thể có những thái độ tiêu cực đối với các cá nhân hoặc các nhóm. Không phải tất cả các thái độ tiêu cực đều trở thành định kiến, nhưng định kiến có nguồn gốc từ các thái đô tiêu cực đó. Có thể hiểu định kiến là thái độ có trước mang tính tiêu cực, bất hợp lý đối với một hiện tượng, một cá nhân hoặc một nhóm. Khi nói định kiến là nói tới sự phán xét, là thái độ đã có sẵn từ trước khi hiện tượng xảy ra hoặc trước khi biết một cá nhân hay nhóm xã hội nào đó của cá nhân hay của một nhóm. Định kiến mang tính bất hợp lý, tiêu cực. Điều này thể hiện qua một số khía cạnh sau: Thứ nhất, thái độ này được dựa trên nguyên nhân sai lầm hoặc thiếu lôgic. Chẳng hạn, khi có chuyện quan hệ ngoài hôn nhân của một cặp trai gái nào đó thì thường người ta lên án phụ nữ. Đó chính là định kiến đối với nữ giới. Mặc dù, thực tế chuyện đó là có lỗi thì không phải chỉ là lỗi của phụ nữ. Tuy mọi người thấy là vô lý nhưng rất khó thay đổi ý kiến và thái độ của họ. 2. Nguồn gốc của định kiến xã hội Định kiến được hình thành qua một quá trình lâu đài và có thể được truyền lại cho thế hệ sau thông qua các tập tục của cộng đồng. Lúc đầu có thể muốn giữ vị thế có lợi cho mình nên người ta đặt ra các luật lệ, quy tắc và có thái độ cảnh giác với một nhóm hoặc cộng đồng khác. Ví dụ, đàn ông luôn muốn giữ vị thế thống trị trong gia đình và xã hội nên đặt ra các quy tắc khắt khe với phụ nữ và tạo ra thái độ không tôn trọng phụ nữ. Từ đó hình thành định kiến giới và cứ thế định kiến giới tồn tại cho đến bây giờ thông qua các tục lệ và các quy tắc xã hội. Đôi khi, người ta thấy nó vô lý nhưng do nó tồn tại quá lâu
  35. đời nên đã ăn vào tiềm thức con người. Thậm chí ăn vào tiềm thức của chính người bị định kiến. Muốn xoá bỏ định kiến này phải có thời gian. Quan niệm không đúng về một vấn đề xã hội hoặc về một nhóm người nào đó cũng là nguồn gốc dẫn đến định kiến xã hội. Ví dụ, người ta quan niệm rằng: Giọt máu đào hơn ao nước lã, nên không thể hi vọng con dâu thương bố mẹ chồng, con rể thương bố mẹ vợ. Quan niệm như vậy nên dẫn đến họ định kiến với con dâu, con rể (những người khác máu tanh lòng), họ cho rằng con dâu, con rể không bao giờ thương mình nên cũng không dại gì mà thương họ. Nhưng thực tế lại khác, nhiều cô con dâu rất có tình cảm và trách nhiệm với bố mẹ chồng. Nhưng do những câu ca dao, tục ngữ, những câu chuyện truyền miệng làm cho người đời hiểu sai, dần dần hình thành những quan niệm không đúng dẫn đến định kiến về những người làm dâu, làm rể. Trong các định kiến xã hội thì định kiến giới và định kiến dân tộc là biểu hiện rõ nét. Các định kiến này có nguồn gốc từ các chuẩn mực của xã hội do các giai cấp thống trị xã hội đặt ra từ trước và khuyến khích, cổ vũ cho các định kiến dân tộc đó. Hầu hết các thành viên trong xã hội chấp nhận các chuẩn mực đó và định kiến càng phát triển và càng được được thể hiện nhiều hơn. Sự hình thành định kiến này có thể ở ngay trong đời sống gia đình. Như trước đây, con trai được học cao đến khi không thể học được nữa thì mới thôi. Còn con gái chỉ được bố mẹ cho học đến một mức độ nào đó thì phải dừng để nhường cho anh trai, em trai ăn học. Trong trường hợp này, sự phân biệt đối xử thường xuyên xảy ra và trở thành cách ứng xử của mọi người. Mọi người cho rằng như thế là hợp lý. Ai tuân theo các chuẩn mực đó thì được chấp nhận, ai không tuân theo sẽ bị tẩy chay. Điều đáng quan tâm hơn là ngay trong các chuẩn mực của xã hội trước đây đã cổ vũ cho thái độ coi thường phụ nữ nên định kiến càng sâu sắc hơn. Ngoài các nguồn gốc nêu trên có thể có một số nguyên nhân khác dẫn đến định kiến xã hội. Đó là sự xây dựng các biểu tượng xã hội. Ví dụ, một thời gian dài, chúng ta có những tấm pa nô, áp phích vẽ hình ảnh người nhiễm HIV/AIDS gầy guộc, siêu vẹo. Từ đó, dưới con mắt của mọi người, người nhiễm HIV/AIDS rất đáng sợ và người ta hình thành một định kiến rất xấu về họ. Mọi người sợ nên xa lánh những người nhiễm căn bệnh thế kỷ này. Mặc dù, trên thực tế họ là người bình thường và HIV không thể lây truyền sang người khác qua đường giao tiếp thông thường.
  36. Có thể có một số nguyên nhân xã hội khác dẫn đến định kiến xã hội. Có thể do sự phát triển xã hội chưa đạt đến một trình độ xóa bớt được khoảng cách giữa các tầng lớp xã hội về dân trí và về địa vị kinh tế dẫn dấn có sự chênh lệch trong mức sống và điều kiện sinh hoạt của các cộng đồng. Điều này có thể tạo nên cách nhìn nhận vấn đề có sự khác nhau dẫn đến ít nhiều có sự kì thị và định kiến về nhau. Tuy đây không phải là nguyên nhân quan trọng nhưng nếu xóa bớt đi được khoảng cách về giàu nghèo giữa các vùng miền, giữa các tầng lớp xã hội thì cũng bớt đi được một nguyên nhân tạo ra định kiến xã hội 3. Điều chỉnh các định kiến xã hội Khi nghiên cứu về định kiến, các nhà nghiên cứu vừa chỉ ra nguyên nhân của định kiến, vừa đưa ra những cách thức để làm giảm bớt định kiến xã hội. Có thể nêu ra một số biện pháp làm giảm bớt định kiến xã hội dưới đây: - Tuyên truyền vận động làm thay đổi thái độ của các bộ phận dân cư về một vấn đề nào đó. Ví dụ, tuyên truyền để người dân thay đổi thái độ đối với người nhiễm HIV, thay đổi thái độ đối với phụ nữ trong xã hội chúng ta. Ngày nay, thông tin đại chúng hết sức phát triển, có thể sử dụng sức mạnh của nó để tác động đến tâm lý con người. Qua phương tiện thông tin người ta đã tổ chức hoạt động truyền thông nhằm làm giảm bớt sự kì thị với người nhiễm HIV. Đề cao vai trò phụ nữ để mọi người có quan niệm đúng hơn vai trò quan trọng của phụ nữ. - Đối với một số cá nhân có tầm ảnh hưởng lớn tới mọi người có thể tác động trực tiếp đến cá nhân họ. Bằng cách đưa họ vào các hoạt động nhằm giúp họ nhận thức đúng các vấn đề mà họ thành kiến để họ thay đổi nhận thức và có thái độ phù hợp với chuẩn mực chung của xã hội. - Một số vấn đề xã hội hiện nay có thể đưa vào giáo dục gia đình. Từ trong gia đình, đứa trẻ đã được giáo dục một cách đúng đắn về các vấn đề xã hội thì các em sẽ có nhận thức đúng, thái độ phù hợp. Lớn lên các em sẽ là người truyền lại sự thay đổi đó cho thế hệ sau và xóa đi được những định kiến đã hình thành lâu đời. - Những chuẩn mực xã hội (tập tục) có thể hình thành định kiến cần được thay đổi. Ví dụ, các tục lệ cho con cái lấy chồng sớm ở các vùng đồng bào dân tộc hoặc vùng sâu vùng xa, cần được xóa bỏ. Một số phong tục lạc hậu nên thay đổi. Ví dụ, một số nơi khi nhà có khách, vợ con không được ngồi ăn chung với khách, khi nào khách và người bố ăn
  37. xong cả nhà mới được ăn. Điều đó đề cao ông chủ gia đình nhưng đã gieo vào lòng đứa trẻ quan niệm là đàn ông có quyền ngồi ăn uống còn phụ nữ thì phải phục vụ. Nói tóm lại, nếu quan niệm định kiến là thái độ tiêu cực có trước về hiện tượng hay cá nhân, nhóm xã hội nào đó thì việc điều chỉnh định kiến trước hết phải tác động vào nhận thức. Trên cơ sở đó làm thay đổi thái độ và hành vi của mọi người kể cả người bị định kiến. Việc điều chỉnh các định kiến xã hội không dễ nên cần kiên trì và có những biện pháp tuyên truyền vận động mạnh mẽ, sâu rộng mới có thể có kết quả. III. SỰ XÂM KÍCH 1. Khái niệm xâm kích Khái niệm xâm kích được đưa ra gắn liền với giả thuyết ban đầu: sự có mặt của hành vi xâm kích luôn đi kèm với sự hụt hẫng và ngược lại sự tồn tại của sự hụt hẫng luôn dẫn đến một hình thức xâm kích nào đó. Giả thuyết này được triển khai với bốn khái niệm cơ bản: - Sự hụt hẫng: đó là các điều kiện bất kì ngăn cản việc cá nhân đạt đến mục đích mong muốn. - Sự xâm kích: hành vi có mục đích là xóa bỏ hay làm giảm đi những cản trở hụt hẫng. - Sự kiềm chế: xu hướng hạn chế hành động để giảm bớt những hậu quả có thể có trong chính bản thân hành động. Đồng thời nó lại có thể trở thành một sự hụt hẫng mới. - Sự xâm kích pha trộn: sự xâm kích không hướng tới nguồn gốc trực tiếp của sự hụt hẫng mà hướng tới một đối tượng khác. Đặc trưng này được phân tích trong mô hình xung đột của Miller. Sự pha trộn hay “dịch chuyển” theo thuật ngữ của Phân tâm học được Miller hiểu như một trường hợp khái quát hóa các kích thích. Nhiều hành vi xã hội khác như các hành vi đạo đức cũng được giải thích theo cách này. Sau này, cùng với các kết quả nghiên cứu mới, các tác giả chỉnh sửa lý thuyết này và cho rằng xâm kích là một hiện tượng tự nhiên không nhất thiết là hệ quả của sự hụt hẫng. Nhờ kết quả của sự học có thể có được các đáp ứng phi xâm kích với các hụt hẫng. (Ví dụ: trẻ được dạy cách kiềm chế bản thân). Tuy nhiên, sự xâm kích vẫn được coi như là một phản ứng nổi trội đối với hụt hẫng và hụt hẫng vẫn được xem xét như là nhân tố diễn ra trước sự xâm kích.
  38. Lý thuyết về xâm kích và hụt hẫng bị phê phán từ nhiều hướng: với các thực nghiệm động thái nhóm, K.Lewin, Zimbardo cho thấy có thể có các phản ứng khác đối với hụt hẫng chứ không chỉ sự xâm kích. A.Maslow, Rozenweig thì cho rằng sự hụt hẫng không phải là nhân tố duy nhất dân tới sự xâm kích. Có nhiều nhân tố dẫn tới sự xâm kích, ví như sự nhục mạ hay đe dọa có thể gây ra sự xâm kích chứ không chỉ sự hụt hẫng. Các nghiên cứu cũng chỉ ra tính chất phức tạp trong mối quan hệ giữa sự trừng phạt và sự xâm kích. “Phụ thuộc vào tính chất và sự tác động qua lại với các yếu tố khác, sự trừng phạt có thể làm tăng cường hoặc làm giảm thiểu, thậm chí không tạo ra tác động nào đến hành vi của cá nhân”. (Bandura, 1973, p34). Từ những góc độ xem xét khác, các nhà tâm lý học đưa ra những quan niệm khác nữa về xâm kích. Có thể dẫn ra một số quan niệm: J.P.Chaplin cho rằng: xâm kích là sự tấn công (attack); là hành động không thân thiện chống lại một cách trực tiếp con người hoặc một đối tượng nào đó. S.Freud cho rằng xâm kích là sự biểu hiện hoặc phóng chiếu một cách có ý thức của bản năng về cái chết. Còn theo A.Adler, xâm kích là sự biểu hiện của ý chí về quyền lực đối với người khác. Nhà tâm lý học Mỹ A.H.Murray cho rằng xâm kích là nhu cầu tấn công hoặc xúc phạm đến người khác để hạ thấp, làm tổn thương, nhạo báng hoặc buộc tội người đó. Albert Bandura đưa ra quan niệm về xâm kích rất ngắn gọn. Theo tác giả xâm kích là hành vi mang lại hậu quả tiêu cực. Vì thế, những hành vi tiêu cực được xem là sự xâm kích. Hai nhà Tâm lý học xã hội Berkowitz (1965) và Fesbach (1971), đã phân chia hai hình thức của xâm kích: Xâm kích phương tiện và xâm kích thù địch. Xâm kích phương tiện có mục đích là tìm cách thu lấy lợi ích ở người khác hơn là gây tổn thương cho họ. Xâm kích thù địch có mục đích là gây ra sự tổn thương hoặc sự đau khổ một cách có chủ tâm đối với người khác. Như vậy xâm kích là một hành vi có tính chất làm hại con người hoặc phá hủy một đối tượng nào đó thuộc quyền người khác. Từ các quan niệm trên, chúng ta có thể hiểu xâm kích là hành vi tấn công người khác hoặc những tài sản thuộc quyền người khác với mục đích làm hại họ. Người có hành vi xâm kích có thể tấn công trực tiếp hoặc có thể gián tiếp người khác có thể dùng lời lẽ hoặc hành động để làm hại người khác. Hành vi xâm kích có thể mang lại lợi ích cho chủ thể hành vi, hoặc có thể để thỏa mãn một nhu cầu, động cơ nào
  39. đó. Dù xem xét dưới góc độ nào thì xâm kích cũng được xem là hành vi gây hại cho người khác. Đôi khi người ta có thể ngụy biện cho hành vi xâm kích của mình nhưng về cơ bản, so với các chuẩn mực xã hội nói chung, hành vi xâm kích bị lên án và phê phán. 2. Những yếu tố xã hội ảnh hưởng đến hành vi xâm kích Từ những năm 40 của thế kỉ XX, các nhà nghiên cứu đã xem xét xâm kích với tư cách là một vấn đề rất đơn giản. Họ coi xâm kích là sản phẩm của sự chán nản, thất vọng. Song, thực tế không hề đơn giản như vậy. Nếu coi xâm kích là một hiện tượng tâm lý xã hội thì việc nghiên cứu xâm kích đòi hỏi chúng ta phải tiếp cận ở góc độ rộng hơn. Những phản ứng xâm kích của con người hiện nay được xem xét là một vấn đề phức tạp có nhiều yếu tố ảnh hưởng mà yếu tố xã hội phải được tính đến đầu tiên. Những yếu tố xã hội trước tiên là những cảm xúc khác nhau của con người. Theo Leonard Berkowitz và các cộng sự: phim ảnh bạo lực có ảnh hưởng lớn đến hành động xâm kích của con người. Ông cho rằng đối với những cá nhân có tính tình nóng nảy thì dễ bị kích thích bởi các phim bạo lực hơn những người khác. Một yếu tố khác làm cho cá nhân dễ có hành động xâm kích bằng hành vi bạo lực đó là những người không muốn bộc lộ bản thân, họ thường giấu tên, mạo danh hoặc nặc danh. Nghiên cứu của Epstein, Taylor (1967); Shortell, Epstein và Taylor (1970), cho thấy những cá nhân trong trạng thái tinh thần mệt mỏi, tinh thần không sáng suốt thì hành động xâm kích mạnh mẽ hơn những cá nhân có tinh thần ở trạng thái tích cực, hoặc khi hành vi của cá nhân có chủ ý thì tính xâm kích thể hiện rõ hơn là khi hành động của chủ thể mang tính ngẫu nhiên. 3. Xâm kích có tổ chức Một điều kiện tốt của xâm kích là nó được thực hiện trong bối cảnh có tổ chức. Những con người bình thường phạm phải sự xâm kích và thậm chí cả hành vi bạo lực cho rằng đó là sự thực hiện các hành động cũng giống như một phần của “công việc của họ” (Vander Zanden, James Wilfrid, 1977). Đó chính là sự xâm kích có tổ chức. Stanley Milgram đã tiến hành một số thí nghiệm và đã phát hiện ra rằng, nhiều người có hành động xâm kích và bạo lực lại là những người ngoan ngoãn vâng theo quyền lực. Khi hành động trong một tổ chức, con người dám làm những việc mà một mình họ không dám làm. Họ cảm thấy mình được quyền tha thứ cho hành động của mình. Họ cảm thấy mình như là
  40. một “con tốt” nhiều hơn là “người sáng tạo ra hành vi”. Họ nghĩ “Nếu tôi không làm việc đó (hành động xâm kích) thì ai đó sẽ thực hiện” (De Charms, 1968, Kipnis, 1974). Bạo lực là dẫn chứng điển hình của hành động xâm kích. Hai nhà tâm lý học Mỹ Vander Zanden và James Wilfnd đã thống kê một số liệu về hành vi bạo lực ở Mỹ trên cơ sở phỏng vấn 1.176 người dân Mỹ đã trưởng thành cho thấy: - Có 13% những người Mỹ trưởng thành đã chống lại hoặc dùng tay đánh những người khác. 18% người Mỹ đã bị nhắc nhở về hành vi chống lại hoặc dùng tay đánh người nào đó. - Có 1/5 người Mỹ tán thành việc tát vợ (hoặc chồng) trong trường hợp được phép: 16% trẻ em Mỹ ở tuổi dưới 16, đang học trong trường phổ thông và 25% sinh viên đại học đồng ý việc này. - Có 41% người Mỹ trưởng thành nói rằng họ có một khẩu súng của mình (một số có vài khẩu). - 43% người da trắng và 27% người da đen có súng ngắn. - 50% người dân Mỹ ủng hộ việc giáo viên trong trường phổ thông sử dụng các biện pháp trừng phạt (về thể xác) khi có nguyên nhân chính đáng. - Cứ 10 người Mỹ thì có 9 người nói rằng họ đã sử dụng hình thức phát vào đít đứa trẻ. - Chỉ có 18% người da trắng quả quyết rằng họ không có hành vi bạo lực, 9% cho rằng mình có thể có những hành vi bạo lực. 43% người da đen cho rằng mình là những viên chức không vâng lời, 25% cố gắng để không có hành vi bạo lực. - 28% người dân Mỹ cho rằng cảnh sát thường sử dụng vũ lực nhiều hơn là thuyết phục. - 58% đồng ý với quan điểm: Bản chất của con người là thường xuyên tạo nên chiến tranh và xung đột. - 62% người dân Mỹ biện minh rằng chiến tranh là sự hợp pháp hóa công cụ của đường lối chính trị. Rõ ràng, khi đứng trong tổ chức và được tổ chức “bảo lãnh” hành vi xâm kích sẽ phát triển và mức độ bạo lực sẽ gia tăng. HƯỚNG VẬN DỤNG TRONG DẠY HỌC VÀ GIÁO DỤC:
  41. Tri thức tâm lý học xã hội về ảnh hưởng xã hội, định kiến và xâm kích xã hội có thể được xếp chung vào những hiện tượng tâm lý xã hội chi phối quá trình hình thành, vận hành các quan hệ xã hội. Do vậy, hướng vận dụng chủ yếu là giúp giảng viên có thể xây dựng và vận hành các quan hệ xã hội với sinh viên một cách thuận lợi hơn (lĩnh vực can thiệp tâm lý xã hội, hình thành kĩ năng xã hội). - Trong việc đánh giá sinh viên, cần quan tâm đến môi trường sinh viên, môi trường văn hóa sinh viên đang hoạt động để đánh giá một cách khách quan, không quy chụp chủ quan rút ngắn khoảng cách thế hệ. - Tránh các định kiến xã hội trong quan hệ với sinh viên, đồng nghiệp; chủ động điều chỉnh, phá bỏ các định kiến xã hội đối với sinh viên và đồng nghiệp. Một khi cá nhân nhận biết mình bị điều khiển bởi các định kiến xã hội, cá nhân có thể thay đổi định kiến một cách có ý thức. - Hình thành khả năng tự chủ, điều khiển các hành vi của bản thân. Trong quan hệ với sinh viên tránh sắc thái bạo lực trong ngôn ngữ, thái độ và hành vi. Đồng thời cũng lưu ý uốn nắn các hành vi từ phía sinh viên. - Thông qua các hoạt động làm việc nhóm. Thảo luận, các nhóm T - training để hình thành các kĩ năng giao tiếp, các kĩ năng tương tác xã hội. CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG V 1. Ảnh hưởng xã hội là gì? Môi trường văn hóa và nhóm có thể ảnh hưởng như thế nào đến hành vi của cá nhân? Có thể vận dụng các tri thức này vào việc dạy học như thế nào? 2. Phân tích một số định kiến xã hội để làm rõ bản chất của nó. Đưa ra các biện pháp cụ thể cho việc điều chỉnh 1 định kiến xã hội mà anh, (chị) cho là cần thay đổi. 3. Xâm kích là gì? Có những yếu tố nào ảnh hưởng đến sự xâm kích? Cần làm gì để giảm các hành vi xâm kích? Chương 6: Nhân cách trong TLH xã hội I. KHÁT NIỆM NHÂN CÁCH TRONG TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI Nhân cách là khái niệm được phổ biến rộng rãi trong đời sống xã hội. Khái niệm nhân cách được nhắc đến nhiều trong cuộc sống hàng ngày, trên các phương tiện thông tin
  42. đại chúng cũng như trong sinh hoạt cộng đồng. Lúc đó người ta thường nói đến nhân cách với nghĩa là cốt cách làm người. Còn hiểu đúng nghĩa khái niệm nhân cách với nhãn quan của nhà khoa học thì khác với cách hiểu theo nghĩa đời thường. Nhân cách là đối tương nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau như: Triết học, Xã hội học, Đạo đức học, Giáo dục học Tâm lý học Bất cứ khoa học nào nghiên cứu về con người đều quan tâm đến nhân cách. Dưới góc độ của mỗi khoa học khác nhau, nhân cách được quan niệm khác nhau. Tâm lý học là khoa học nghiên cứu về con người, vì vậy nhân cách là một phạm trù cơ bản của tâm lý học. Tâm lý học bao gồm nhiều chuyên ngành khác nhau. Các chuyên ngành của tâm lý học đều xem xét nhân cách từ các phương diện khác nhau. Cho nên, phân biệt một cách rạch ròi sự khác nhau về khái niệm nhân cách trong tâm lý học đại cương hay Tâm lý học xã hội, tâm lý học nhân cách là rất khó. Nhưng nhân cách thuộc về Tâm lý học xã hội hơn là nhân cách thuộc về tâm lý học nói chung. Về khía cạnh nào đó, nhân cách trong Tâm lý học xã hội bao trùm rộng hơn nhân cách trong tâm lý học. Cho đến giờ phút này, sự tranh luận về khái niệm nhân cách vẫn còn đang tiếp diễn. Có thể nêu một số quan điểm cơ bản dưới đây. 1. Quan điểm của các tác giả nước ngoài a) Quan niệm của các nhà tâm lý học phương Tây Những người theo trường phái Phân tâm học mà đại diện là S.Freud cho rằng, bản chất của nhân cách phát sinh từ các quá trình tâm lý nội tại. Sự xung đột này xảy ra giữa sự thúc đẩy của cái nó, cái tôi và cái siêu tôi. Động lực của sự phát triển nhân cách nằm trong vô thức. Hầu hết các đặc trưng cơ bản của nhân cách được hình thành khi con người ở độ tuổi lên năm, lên sáu. Sự phát triển nhân cách ở lứa tuổi này diễn ra mạnh mẽ hơn ở tuổi thanh niên. Nhân cách có thể thay đổi ở độ tuổi lớn với quan điểm như vậy, những người theo trường phái Phân tâm học đã coi nhân cách là cái có sẵn, như một yếu tố bẩm sinh di truyền. Những người theo quan niệm của chủ nghĩa nhân văn, đại diện là Carl Rogers và Abraham Maslow, xem xét con người trong sự mâu thuẫn. Theo họ, nhân cách được phát sinh từ sự mâu thuẫn giữa cái tôi nội tâm và sự ép buộc của xã hội. Con người có thể nhận biết được cái tôi bên trong của mình, mặc dù cái tôi có thể bị che đậy khi cá nhân chấp nhận các cá nhân khác và biến nó thành sự nhận biết bản thân. Cũng giống như quan điểm
  43. của các nhà phân tâm học, những người theo chủ nghĩa nhân văn cũng thừa nhận giai đoạn tuổi thơ là rất quan trọng trong quá trình phát triển nhân cách. Nhưng theo họ, ở giai đoạn tuổi thơ, cha mẹ hoặc người lớn có thể làm méo mó cách nhìn nhận của trẻ. Cha mẹ có thể đồng ý với suy nghĩ này của trẻ nhưng lại cản trở những suy nghĩ khác của chúng. Cái tôi nội tâm luôn bị chèn ép bởi những yêu cầu của xã hội, như vậy sự biến đổi nhân cách là luôn xảy ra. Một số nhà tâm lý học Mỹ xem xét nhân cách trong mối quan hệ tác động qua lại giữa bốn yếu tố: 1. Yếu tố sinh học: Giống nòi, vóc dáng, sức khỏe, giới tính 2. Yếu tố môi trường: Môi trường tự nhiên (điều kiện địa lý, khí hậu ) và môi trường xã hội (văn hóa, lối sống, phong tục tập quán ). 3. Quá trình Tâm lý xã hội như: Thái độ, sự giao tiếp, sự đồng nhất 4. Thuộc tính Tâm lý cá nhân. Có thể biểu diễn mối quan hệ của 4 yếu tố như sau: Yếu tố di truyền Yếu tố môi trường Quá trình tâm lý xã hội Thuộc tính tâm lý cá nhân Như vậy nhân cách là sự tổng hợp của bốn yếu tố nêu trên. Khi xem xét nhân cách phải xem xét nó trong sự tác động qua lại giữa 4 yếu tố, trong đó nhân cách là yếu tố trung tâm của sự tác động qua lại đó. b) Quan điểm của các nhà tâm lý học Xô viết Các tác giả Xô viết có rất nhiều quan niệm khác nhau về nhân cách với những tên tuổi nổi tiếng như: B.G.Ananiev, A.N.Lêonchiev, K.K.Platonov A.N.Lêonchiev coi nhân cách như một cấu tạo tâm lý mới được hình thành trong các quan hệ sống của cá nhân do kết quả của hoạt động cải tạo của người đó. Theo ông,
  44. nhân cách là sản phẩm của quá trình tiến hóa. Ông phân biệt giữa hai khái niệm cá nhân và nhân cách. Cá nhân là một chỉnh thể, một sản phẩm của sự tiến hóa chủng loài và tiến hóa cá thể. Nhân cách là một cấu tạo tâm lý đặc biệt có tính trọn vẹn, là kết quả của quá trình chín muồi những yếu tố bẩm sinh dưới tác động của môi trường xã hội. Sự phát triển nhân cách diễn ra theo quá trình phát triển của cá nhân. Đối với đứa trẻ sự hình thành nhân cách được bắt đầu từ sự hình thành mối quan hệ giữa trẻ em với người lớn, trẻ em với thế giới xung quanh. Nhân cách được hình thành theo một quá trình từ nhỏ đến lớn. Đặc biệt ông nhấn mạnh đến vai trò của hoạt động, đặc biệt là hoạt động chủ đạo của mỗi giai đoạn lứa tuổi. Muốn hiểu nhân cách một con người, phải dựa vào hoạt động của họ và đồng thời phải đề cập đến các yếu tố động cơ, nhu cầu, mục đích B.G.Ananhiev coi nhân cách là một cá thể mang tính xã hội lịch sử. Nhân cách tồn tại trong một xã hội nhất định. Vì vậy phải nghiên cứu nhân cách cùng với tính chất lịch sử xã hội và tâm lý xã hội của nó. Đồng thời dựa trên cơ sở của các khái niệm cá thể, cá nhân, hoạt động, chủ thể, khách thể để lý giải các vấn đề về nhân cách. Ông cho rằng chủ thể và nhân cách không có sự tương đồng. Chủ thể là sản phẩm của hoạt động, là thái độ tích cực của hoạt động. Nhân cách là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, xác định vị thế của con người trong xã hội. Vì vậy phải nghiên cứu nhân cách gắn liền với hoàn cảnh xã hội nhất định, nghiên cứu vị trí của cá nhân trong xã hội và chức năng xã hội gắn liền với vị trí đó. K.K.Platonov coi nhân cách là con người có ý thức. Bàn về sự hình thành nhân cách, ông cho rằng sẽ là không biện chứng khi xác định lúc nào nhân cách được hình thành ở trẻ. Khi đứa trẻ biết nói “tôi” thì đó chính là một nhân cách rồi. Nhân cách được hình thành trong giao tiếp. Vì vậy, không thể nói một cách chỉnh xác nhân cách hình thành từ khi nào. 2. Quan niệm của các nhà Tâm lý học Việt Nam Các tác giả Việt Nam đưa ra nhiều cách hiểu khác nhau về nhân cách. Có thể nêu một số quan niệm như sau:
  45. - Theo Nguyên Quang Uẩn: Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của cá nhân đó. - Theo Nguyễn Ánh Tuyết: Nhân cách là bộ mặt xã hội tâm lý của một người, là tổ hợp những thuộc tính tâm lý vừa đặc trưng cho cá nhân vừa mang ý nghĩa xã hội. Người có nhân cách được coi là một thành viên của xã hội, chịu sự chi phối của xã hội, đồng thời là chủ thể có ý thức của sự phát triển xã hội Hai quan niệm trên cho thấy: muốn đánh giá một nhân cách của một con người phải đánh giá giá trị xã hội con người đó. - Theo Nguyễn Khắc Viện: Nhân cách là toàn bộ những gì hợp thành một con người, một cá nhân với bản sắc và cá tính rõ nét, với các đặc điểm thể chất (tạng), tài năng, phong cách, ý chí, đạo đức, vai trò xã hội. Nhân cách là một cá nhân có ý thức về bản thân đã tự khẳng định được, giữ được một phần nào tính nhất quán trong mọi hành vi. Ông cũng cho rằng, trong con người có ba mặt: tạng, tâm và phận. Tạng là thể tạng của con người, tâm là tâm lý, đời sống tinh thần của con người, phận là bổn phận con người phải đảm nhiệm (vai trò xã hội mà các nhân phải đóng). Với tính chất giao thoa giữa Tâm lý học và Xã hội học, Tâm lý học xã hội không thể xem xét cá nhân một cách riêng rẽ mà luôn đặt cá nhân trong mối quan hệ qua lại với cá nhân khác, với nhóm và với cộng đồng xã hội. Mỗi cá nhân là một thành viên của một nhóm xã hội. Cá nhân chịu tác động của các chuẩn mực nhóm, chuẩn mực xã hội. Tâm lý học xã hội nghiên cứu nhân cách bao gồm toàn bộ các đặc điểm tâm lý của cá nhân được thể hiện trong các mối quan hệ xã hội thông qua hoạt đông và giao tiếp của mỗi cá nhân đó II. CẤU TRÚC CỦA NHÂN CÁCH Dưới góc độ Tâm lý học xã hội, người ta thấy nhân cách bao gồm hai thành phần cơ bản: Lõi bên trong và các biểu hiện bên ngoài. Lõi bên trong của nhân cách là cái tôi biểu hiện bên ngoài là vai trò xã hội mà cá nhân đảm niệm. Có thể lần lượt phân tích từng thành phần như sau. 1. Cái tôi Cái tôi là chủ đề nghiên cứu của nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau như triết học, xã hội học, tâm lý học Ngay trong Tâm lý học xã hội cũng có nhiều công trình nghiên cứu về cái tôi và có nhiều ý kiến khác nhau về cái tôi. Tuy nhiên, mọi ý kiến đều có điểm
  46. thống nhất cho rằng: cái tôi là sự cảm nhận về chính bản thân mình. Cụ thể hơn, cái tôi là sự nhận nhận xét, đánh giá về chính mình. Người đưa ra khái niệm cái tôi được nhiều người thừa nhận là nhà tâm lý học Mỹ William James. Theo ông, cái tôi là một thể phức hợp của các yếu tố: cá nhân đó là người như thế nào, cá nhân đó muốn gì và người khác muốn gì ở anh ta. Theo quan niệm đó thì cái tôi chính là sự hiểu biết về chính mình, biết mình là ai, biết mong muốn điều gì và có thể làm gì. Trong đó bao gồm cả sự cảm nhận và tỏ thái độ với chính mình. Cái tôi có thể có hai thành phần chính: Cái tôi chủ quan và cái tôi được phản ánh. a) Cái tôi chủ quan Cái tôi chủ quan là quan niệm về bản chất thực sự bên trong của cá nhân. Nó có nguồn gốc xã hội sâu xa chứ không hoàn toàn chủ quan. Trước hết nó do ảnh hưởng của cha mẹ, người thân quen, hàng xóm láng giềng Đó chính là cái tôi chủ thể. Lúc này được hình thành sớm và thường có 2 tình trạng: Cái tôi chủ quan hình thành sớm nên ít bị thay đổi ở giai đoạn sau này của lứa tuổi. Đối với mỗi cá nhân sự hiện diện của cái tôi là khá ổn định. Nó không hề thay đổi khi con người thay đổi vai trò xã hội. Tuy nhiên, người ta thấy rằng cái tôi phát triển theo sự phát triển lứa tuổi. Cá nhân nhận thức về cái tôi linh hoạt và chững chạc hơn khi họ trưởng thành. Người lớn cũng có một số thay đổi về cá tính khi họ tham gia vào một vai trò mới. Nhưng sự thay đổi này là không đáng kể. Cái tôi chủ quan là cái gì rất vững chắc xét về mặt tâm lý rất khó phân biệt và thường có tình trạng quá cao hoặc quá thấp. Thường trong xã hội, người ta hay đánh giá mình cao vì nếu đánh giá thấp mình sẽ không có sinh lực, sẽ chết dần. Đó là năng lượng của sức sống tâm lý. Cái tôi chủ quan là hạt nhân của nhân cách kể cả khi xã hội đánh giá không đúng về mình, người ta vẫn sự tự tin vào bản thân. Nhưng đôi khi cái tôi chủ quan có thể mang sắc thái tượng tượng, bệnh hoạn không hợp lý do con người không hiểu đúng về mình, đánh giá về mình thiếu khách quan. b) Cái tôi được phản ánh Đó là toàn bộ nhưng quan điểm của cá nhân về bản thân dựa trên những điều suy nghĩ và đánh giá của người khác. Cũng giống như chúng ta nhìn mình qua gương. Tấm gương đây là những người khác. Sự khác nhau giữa cái tôi chủ quan và cái tôi được phán
  47. ánh: cái tôi chủ quan thường có màu sắc tích cực lạc quan hơn cái tôi được phản ánh. Cái tôi được phản ánh có thể điều chỉnh cái tôi chủ quan. Điều chỉnh này có thể tích cực, có thể tiêu cực. Sự đánh giá của người khác đối với cá nhân rất quan trọng. Phương châm động viên khích lệ có ảnh hưởng tốt đến sự phát triển cái tôi chủ quan. Đôi khi sự động viên và khích lệ làm cho một con người luôn hổ thẹn về bản thân thay đổi thành một người hoàn toàn khác lạ. Giữa cái tôi chủ quan và cái tôi được phản ánh có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cái tôi chủ quan thường là những nhu cầu tiềm ẩn trong mỗi cá nhân. Nhiều khi chủ thể không đánh giá đúng về bản thân và thường theo xu hướng đề cao bản thân. Cái tôi khách quan giúp cho chủ thể tìm ra cách xử sự đúng đắn. Cái tôi khách quan là đạo lý xã hội của cái tôi, là cái tổng quan, chỉ đạo sự tự phát của cái tôi chủ quan theo những hành vi mang tính đạo lý xã hội. Cũng giống như sự phát triển của nhân cách, sự phát triển của cái tôi chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của môi trường nhà trường gia đình và xã hội. Mỗi cá nhân đồng thời là thành viên của nhiều nhóm xã hội khác nhau nên các nhóm xã hội này đều có ảnh hưởng nhất định đến sự hình thành cái tôi. 2. Vai (vai trò) xã hội của cá nhân a) Khái niệm vai xã hội Khi tham gia vào các nhóm, các quan hệ xã hội, cá nhân phải thực hiện các vai xã hội. Quan hệ xã hội thực chất là quan hệ giữa các vai xã hội. Việc phân tích tâm lý xã hội về vai xã hội có ý nghĩa quan trọng trong việc hiểu hành vi xã hội của con người. Do vậy, vấn đề này được cả các nhà tâm lý học xã hội rất quan tâm. Đến cuối những năm 60 của thế kỉ XX, trong Tâm lý học xã hội có đến hàng trăm các nghiên cứu thực nghiệm và lý thuyết về vấn đề này. G.Mead đề cập đến vai xã hội trong tương tác xã hội như là một điều kiện: tiếp nhận vai của người khác, tức là nhìn nhận bản thân từ vị trí của người khác trong quá trình giao tiếp. Sau này các nhà tâm lý học xã hội theo định hướng tương tác tiếp tục sử dụng khái niệm này. Trong tâm lý học phương tây khái niệm này cũng được sử dụng phổ biến.
  48. Linton là nhà nhân học xã hội có đóng góp lớn cho sự phát triển lý thuyết vai. Theo ông cần đề cập đến 2 khái niệm “vị trí” và “vai”. Vị trí là vị trí mà cá nhân chiếm giữ trong hệ thống, còn vai dùng để chỉ tất cả các hình mẫu hành vi văn hóa liên quan đến vị trí đó. Như vậy, vai bao hàm các thái độ, giá trị và các hành vi được xã hội yêu cầu (định trước) cho tất cả các cá nhân ở vị trí đó. Vai chính là mặt năng động của vị trí. Vai xã hội là khái niệm phức tạp. Có thể có 2 mặt: mặt xã hội học của nó như là mặt nội dung hoạt động và chuẩn mực hành vi không bao hàm tính chủ thể do xã hội quy định để thực hiện chức năng xã hội; mặt khác là mặt tâm lý xã hội liên quan đến các nhân tố của chủ thể trong việc thực hiện các vai xã hội như cơ chế tâm lý xã hội và các quy luật của việc tiếp nhận và thực hiện vai xã hội. Bên cạnh đó còn tồn tại một số quan điểm sau: * Quan điểm thứ nhất: Những người theo quan điểm này cho rằng vai trò như cái mặt nạ đeo cho các thành viên của xã hội. Vai trò xã hội có tính chất bề ngoài nên về cơ bản mọi thành viên trong xã hội đều là con rối. Khi đóng vai trò xã hội thì không nói lên bản chất thật của con người. Các thành viên không thực, thay đổi luôn và trong từng giai đoạn cuộc đời ta đóng nhiều vai trò nên con người không cố định. Vai trò xã hội là hời hợt bên ngoài, ngụy trang nên chỉ gây tác hại cho con người. Đây là quan điểm quá nhấn mạnh đến tính thụ động của con người. Tất nhiên vai trò chi phối con người nhưng con người là người tổ chức xã hội là chủ thể của các vai trò. Trong thực tế có nhiều người do không toại nguyện nên đóng vai một cách hời hợt nhưng cơ bản là con người còn là chủ thể của các vai trò nên con người có tính chủ động trong đó. * Quan điểm thứ hai: Đây là quan điểm phi lịch sử, duy tâm về vai trò, cho là vai trò ở thời đại nào, xã hội nào cũng như nhau (giáo viên thời đại nào cũng thế). Nam Cao: “Tây mặc Tây, ta mặc ta, thuốc cứ thuốc”. Quan điểm này sai ở chỗ đây chỉ là bề ngoài. Đúng là chức năng người thầy vẫn là giảng dạy và giáo dục nhưng mỗi chế độ sẽ có nội dung khác nhau do mục đích và phương tiện khác nhau chưa nói đến chức năng của người thầy ngày nay khác với người thầy trước kia. Do đó vai trò có tính lịch sử và giai cấp.