Tâm lý trẻ em trong hoàn cảnh khó khăn - Nguyễn ngọc Lâm

pdf 37 trang hapham 2010
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tâm lý trẻ em trong hoàn cảnh khó khăn - Nguyễn ngọc Lâm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftam_ly_tre_em_trong_hoan_canh_kho_khan_nguyen_ngoc_lam.pdf

Nội dung text: Tâm lý trẻ em trong hoàn cảnh khó khăn - Nguyễn ngọc Lâm

  1. ĐẠI HỌC MỞ BÁN CÔNG TP. HCM KHOA XÃ HỘI HỌC TÂM LÝ TRẺ EM TRONG HOÀN CẢNH KHÓ KHĂN ThS Nguyễn Ngọc Lâm biên soạn Năm 2005 1
  2. I. CÁC NGUYÊN NHÂN GÂY KHÓ KHĂN CHO TRẺ EM. 1. Khái niệm hoàn cảnh khó khăn. - Phức tạp và do nhiều nguyên nhân - Hoàn cảnh gây tổn thương trẻ hoặc khiến trẻ có nguy cơ bị tổn thương. - Khi có sự tương phản quá lớn giũa thực trạng và những mong đợi hợp lý của trẻ. - Các yếu tố tiêu cực : bị bỏ bê, thiếu ăn, bệnh tật, thất học, bị lạm dụng bị hành hạ về mặt thể xác và tinh thần. - Không đủ các yếu tố tích cực : Yêu thương, cơ hội - Khái niệm khó khăn : Mức độ khó khăn nào mới gây sự chú ý của quần chúng để được bảo vệ, can thiệp. Thường không có sẳn tài nguyên hỗ trợ, chỉ khi nào một số lớn trẻ rơi vào hoàn cảnh khó khăn thì mới được huy động. 2. Các yếu tố gây khó khăn . - Thiếu ăn thiếu mặc - Thiếu chổ trú thân - Thiếu sự chăm sóc y tế - Thiếu tình thương và quan tâm hỗ trợ - Thiếu cơ hội học hành, vui chơi, giải trí - Người có trách nhiệm thiếu kiến thức về nhu cầu của trẻ - Người có trách nhiệm thiếu phương tiện đáp ứng nhu cầu của trẻ - Thiếu sự bảo vệ - Quá nhiều cám dỗ và thử thách - Quá nhiều trách nhiệm trước tuổi. 3. Các dạng trẻ trong hoàn cảnh khó khăn. - Trẻ mồ côi - Trẻ em đường phố - Trẻ khuyết tật - Trẻ nghiện ma túy - Trẻ mại dâm - Trẻ làm trái pháp luật - Trẻ lao động - Trẻ bị bỏ rơi, bị bạo hành - Trẻ bị nhiểm chất độc màu da cam. - Trẻ tị nạn Các dạng hoàn cảnh khó khăn ít được đề cập đến : • Trẻ có trách nhiệm quá nặng nề như nuôi cha mẹ • Trẻ bị lạm dụng trong gia đình, âm thầm chịu đựng • Trẻ bị bỏ rơi và đưa vào các trường trại. • Trẻ không được đi học. 4. Các nguyên nhân gây ra hoàn cảnh khó khăn. - Thiên tai, chiến tranh 2
  3. - Nguyên nhân không do đột biến, từng bước một, tạo sự thử thách sức chịu đựng của trẻ, bề ngoài không nhìn thấy sự tác động. Nếu mạng lưới hỗ trợ của công đồng yếu kém thì không ai thấy và không ai chịu trách nhiệm. Chỉ khi nào có trường hợp thương tâm, gây xúc động cho dư luận xã hội thì xã hội mới quan tâm đến. - Nghèo đói - Cha mẹ có vấn đề : cơ chế giận cá chém thớt. - Các ảnh hưởng như : · Những vấn đề gắn bó lúc nhỏ · Ảnh hưởng của hành vi vô ích của cha mẹ · Ảnh hưởng việc bị lạm dụng · Ảnh hưởng của chấn thương · Ảnh hưởng di truyền TÌNH HÌNH TRẺ LAO ĐỘNG TẠI VIỆT NAM 1. Những yếu tố ảnh hưởng, liên quan và tác động đến lao động trẻ em* Từ bao đời nay ở Việt Nam, trẻ em lao động và lao động trẻ em không phải là hiện tượng mới lạ. Ở nông thôn, trẻ em là nguồn lao động quan trọng trong gia đình. Trông em, lo cơm nước, chăn trâu, cắt cỏ, chăn nuôi gà vịt, phụ việc cho người lớn và tham gia các công việc đồng áng là những công việc thường ngày của trẻ em ở nông thôn. Trẻ em còn là lao động chính trong những gia đình có nghề phụ. Các em lao động cùng cha mẹ trong bối cảnh gia đình và lao động được coi là quá trình xã hội hóa giúp các em trưởng thành, vững vàng, có thêm kỹ năng và kiến thức nghề nghiệp, chuẩn bị cho cuộc sống ngày mai bên cạnh việc tăng thu nhập cho gia đình và cho bản thân. Nghèo đói hiện nay vẫn là lý do cơ bản nhất tiếp tục dẫn tới lao động trẻ em. Mặc dù mức tăng trưởng kinh tế đã tăng nhanh trong vài năm qua song Việt Nam vẫn là một nước nghèo đang phát triển, với mức thu nhập tính theo đầu người khoảng 200 đô-la Mỹ trong một năm, xếp hàng thứ 150 trong số 173 quốc gia trên thế giới. Theo khảo sát năm 1993 của Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP) và Ngân hàng Thế giới, 51% số dân sống nghèo đói và sản xuất lương thực đã khá giả trong những năm qua, song chỉ đủ cung ứng theo kịp mức gia tăng dân số. Thất nghiệp và thiếu việc làm phổ biến hiện nay ở cả nông thôn (30% đến 40%) và thành thị (12%) do hằng năm dân số tăng nhanh (2,1%), do lực lượng lao động cũng tăng nhanh (3,3%), giảm việc làm ở các doanh nghiệp quốc doanh và giảm biên chế ở các cơ quan nhà nước, 20 vạn người Việt Nam ở nước ngoài (chủ yếu là Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây) hết hợp đồng lao động trở về, 7 vạn người di tản hồi hương từ các trại tị nạn và hàng chục vạn quân nhân giải ngũ Gần 80% dân số Việt Nam sống ở nông thôn và khoảng 71% số dân làm nghề nông. Phương thức sản xuất chủ yếu vẫn là lao động thủ công, chân tay. Nghèo đói và thiếu việc làm là nguyên nhân dẫn tới việc di cư của người dân nông thôn ra thành phố, làm dân số đô thị tăng nhanh với tỷ lệ 4,3% hằng năm và gây thêm ra nhiều vấn đề khó khăn cho các vùng đô thị. 3
  4. 2. Lao động trẻ em trong nền kinh tế thị trường1[1] Dân số trẻ em (0 – 16 tuổi) ở Việt Nam khá đông, chiếm 43,6% tổng số dân 72,5 triệu người (1994). Hiện có hơn 50% số trẻ em suy dinh dưỡng và hằng năm có hàng triệu trẻ em trong độ tuổi tiểu học (6 – 11) và trung học cơ sở (12 – 15) không đến trường, lưu ban và bỏ học vì nhiều lý do : nghèo đói, khó khăn về kinh tế, cha mẹ và gia đình chưa nhận thức được giá trị và nhu cầu học tập của con em họ trong thời buổi kinh tế thị trường; các em phải lao động để giúp gia đình tăng thu nhập hay vì sự tồn tại của gia đình; sự thiếu phù hợp và chất lượng sút kém trong giáo dục phổ thôn Chính các em là nguồn bổ sung thường xuyên cho đội quân lao động, đặc biệt là các em gái vốn phải chịu thiệt thòi nhiều hơn so với các em trai. Tỷ lệ đi học ở các em gái thấp hơn nhiều, chỉ có 50,7% ở tiểu học và 47,3% ở trung học cơ sở. Các tỷ lệ này còn thấp hơn nữa ở các vùng núi và dân tộc, vùng xa xôi hẻo lánh nông thôn. Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, tỷ lệ học sinh bỏ học ở các cấp học trong năm 2001 đã có chiều hướng giảm với năm học trước. Tuy nhiên, ở bậc trung học học cơ sở, bậc học đang tiến hành phổ cập trên quy mô toàn quốc, nhưng mỗi năm cả nước có khoảng 500.000 học sinh bỏ học, bao gồm cả những học sinh đã tốt nghiệp tiểu học nhưng không có điều kiện học lên lớp 6. Trong khi đó, hệ thống giáo dục không chính quy hằng năm mới chỉ huy động được khoảng trên 27.000 người (tính cả những học viên trên 18 tuổi) học bổ túc trung học cơ sở. Chính sách giao đất, giao rừng cho người nông dân đã đưa hàng triệu trẻ em ở nông thôn vào đội quân lao động tự nguyện vì kinh tế gia đình mình. Hiện tại và trong tương lai, khu vực nông nghiệp vẫn tiếp tục là khu vực sử dụng nhiều lao động trẻ em nhất chiếm khoảng 91%, rồi mới đến khu vực không chính thức đang gia tăng. Theo Tổng điều tra dân số năm 1989, tỷ lệ trẻ em hoạt động kinh tế trong độ tuổi 13-15 là rất cao, là 30% với hơn 1,3 triệu trẻ em. Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường sức lao động trở thành hàng hóa thì trẻ em trở thành mục tiêu bóc lột của những kẻ trục lợi bằng sức lao động được trả giá rẻ mạt của các em. Ngày càng có nhiều trẻ em ở nông thôn ra các vùng đô thị kiếm sống bằng nhiều nghề khác nhau mà chủ yếu là ở Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh và xu hướng này đang gia tăng trong mỗi năm qua làm con số trẻ em lang thang đường phố đã lên tới hàng vạn. Phần lớn các em đến từ những gia đình khó khăn đông anh em hay trong những hoàn cảnh éo le, túng kế sinh nhai. Hầu hết các em lang thang kiếm sống với nhiều cách : đi làm thuê như phụ nề, làm gạch, khuân vác, bán vé số, hàng rong, bán báo, bán nước chè, đánh giầy, lượm nhặt đồ phế thải có những em chuyên đi ăn xin và coi đây là nguồn thu nhập chính nuôi gia đình. Tập tục “ăn xin” truyền thống ở một vài làng xã cũng đã làm tăng thêm số trẻ em đi lang thang, đi ăn xin ở các vùng đô thị. Có nhiều em bị đẩy vào vòng trộm cắp, mại dâm, nghiện hút hoặc bị lừa gạt và bóc lột về thể xác, tinh thần và tình dục. Trong đói nghèo lại thiếu thốn vốn sống, có những em đã sa ngã, phạm tội hay bị kẻ xấu lôi kéo, rủ rê. Càng ngày có nhiều trung tâm dạy nghề, công xưởng thu hút trẻ em lao động dưới danh nghĩa học nghề, tập việc không có tiền công hay thù lao ít ỏi trong khi các em phải lao động quần quật hằng ngày. 1[1] 1[1] Vu Ngoc Bình, Van de lao dong tre em, NXB Chính tri QG, Ha-noi, 1995 4
  5. Sự tăng trưởng của nền kinh tế và hội nhập quốc tế khuyến khích thành lập và xác định lại vị thể của nhiều xí nghiệp sản xuất thuộc nhà nước cũng như tư nhân sẽ cần nhiều lao động rẻ để cạnh tranh trên thương trường quốc tế. Chắc chắn lao động trẻ em sẽ bị sử dụng nhiều hơn. 3. Pháp luật về lao động chưa thành niên2[2] Vấn đề lao động trẻ em cũng được quan tâm, chú ý và đề cập trong nhiều văn bản luật và dưới luật được ban hành từ trước tới nay ở Việt Nam. Sắc lệnh số 29 – SL (12.3.1947) quy định các xưởng kỹ nghệ, hầm mỏ không được mượn (sử dụng) trẻ em dưới 12 tuổi vào làm việc. Sở lao động có quyền yêu cầu người chủ phải thay đổi hoặc thôi không cho trẻ em từ 12 đến dưới 18 tuổi vào làm những công việc quá sức mình sau khi có sự xem xét của thầy thuốc, Nhà nước nghiêm cấm trẻ em trai dưới 15 tuổi và phụ nữ ở bất kỳ độ tuổi nào làm những công việc dưới hầm mỏ hoặc công việc độc hại nguy hiểm mà Nhà nước đã quy định; không được sử dụng trẻ em làm ca đêm, thời gian nghỉ đêm của lao động dưới 18 tuổi ít nhất là 11 giờ liên tiếp Đó là những quy định đầu tiên quan trọng của pháp luật Việt Nam, vừa góp phần bảo vệ người lao động chưa thành niên trong các xí nghiệp thời bấy giờ, vừa là cơ sở để nhà nước tiếp tục hoàn thiện chế độ này. Những văn bản pháp luật lao động đã ban hành trong những năm gần đây như Pháp lệnh hợp đồng lao động (30.8.1990), Pháp lệnh bảo hộ lao động (10.9.1991), Nghị định số 233- HĐBT (22.6.1990) có quy định độ tuổi tham gia quan hệ lao động của người lao động chưa thành niên, giới hạn cho phép làm được một số công việc nhất định phù hợp với khả năng, sức khỏe của họ, đồng thời quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động trong quá trình sử dụng lao động chưa thành niên, nhất là trong lĩnh vực an toàn lao động, vệ sinh lao động, thời gian làm việc và nghỉ ngơi. Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (ban hành và có hiệu lực từ ngày 16.8.1991) quy định là các quyền của trẻ em phải được tôn trọng và thực hiện. Mọi hành vi vi phạm quyền của trẻ em, làm tổn hại đến sự phát triển bình thường của trẻ em đều bị nghiêm trị (Điều 4). Luật phổ cập giáo dục tiểu học (ban hành và có hiệu lực từ ngày 16.8.1991) quy định các quyền cơ bản của trẻ em được học tập và những biện pháp cụ thể làm cơ sở pháp lý để các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân thực hiện chính sách phổ cập giáo dục tiểu học bắt buộc đối với mọi trẻ em Việt Nam ở độ tuổi 6-14. Đây cũng là một biện pháp cơ bản và quan trọng trong việc xóa bỏ lao động trẻ em. Bộ luật lao động (thông qua ngày 23.6.1994 và có hiệu lực từ ngày 1.1.1995) có những quy định về lao động chưa thành niên (trong các Điều 22, 119, 120 và 122), đặc biệt là liên quan đến nhiều vấn đề xung quanh mối quan hệ xuyên suốt Bộ luật giữa người sử dụng lao động và người lao động, trong đó có người lao động chưa thành niên. Người sử dụng lao động chỉ được phép nhận trẻ em từ đủ 15 tuổi trở lên vào làm việc. Đối với trẻ em dưới 15 tuổi, người sử dụng lao động chỉ được nhận vào làm việc, học nghề, tập nghề, với điều kiện là phải được sự đồng ý và theo dõi của bố mẹ hoặc người đỡ đầu và chỉ giới hạn trong phạm vi một số ngành nghề và công việc do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quy định (Điều 120). 2[2] Vu Ngoc Bình, Van de lao dong tre em, NXB Chính tri QG, Ha-noi, 1995 5
  6. Người sử dụng lao động không được sử dụng lao động chưa thành niên làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại và chỉ được sử dụng các em làm những công việc phù hợp với sức khỏe nhằm vừa bảo đảm sự phát triển bình thường về thể lực, trí lực, vừa tạo điều kiện để các em học tập, nâng cao hiểu biết nghề nghiệp, nhân cách và ý thức kỷ luật lao động. Thời gian làm việc của người lao động thành niên là không quá 8 giờ một ngày, hay 48 giờ một tuần và đối với người lao động chưa thành niên thời giờ làm việc tối đa không quá 7 giờ một ngày hoặc 42 giờ một tuần. Trong những trường hợp cần thiết, người sử dụng lao động được phép huy động người lao động chưa thành niên làm thêm giờ, làm việc ban đêm, nhưng chỉ với thời gian hạn chế và với một số nghề và công việc do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội ấn định (Điều 122). Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cùng Bộ Y tế đã có Thông tư liên bộ số 09/TT-LB (ngày 13.4.1995) quy định điều kiện lao động có hại và các công việc cấm sử dụng lao động chưa thành niên ( xem trong phụ lục) để đảm bảo sự phát triển về thể lực, trí lực, nhân cách và đảm bảo an toàn lao động cho người chưa thành niên. 4. Biện pháp do ILO đề xuất và chiến lược giải quyết lao động trẻ em của Việt Nam.3[3] Những chương trình xóa bỏ lao động trẻ em phải được tiến hành đồng thời ở cả 4 cấp độ trong xã hội : trẻ em, gia đình, cộng đồng và chính phủ như thể hiện trong bảng sau do ILO đề xuất : Biện Trẻ em Gia đình Cộng đồng Nhà nước pháp Giáo Đi học Cấp học bổng Cung ứng học Mở rộng giáo dục, dục và Giáo dục không Điều chỉnh giờ học vấn, tổ chức dạy nhất là phổ cập đào tạo chính quy ở trường phù hợp nghề tại trung giáo dục tiểu học. Dạy nghề với nhu cầu gia tâm cộng đồng. Tiến hành các cuộc đình. cải cách để khuyến Thuyết phục cha khích trẻ em đi mẹ học sinh bằng học, nhất là đối với giá trị của giáo dục. các em gái và trẻ em ở nông thôn Các Thường xuyên Giáo dục sức khỏe. Có các trung tâm Mở rộng sự cung dịch vụ theo dõi sức Bảo hiểm xã hội. y tế tại cộng ứng y tế và phúc phúc khỏe. Hỗ trợ về phúc lợi đồng. lợi xã hội dựa vào lợi xã Bổ sung dinh và chăm sóc. Có các nhà mới sự cung cấp của hội dưỡng. Tăng thu nhập. cho trẻ em cộng đồng. Chăm sóc y tế. đường phố. Phân quyền cho Đưa ra khỏi các cấp cơ sở. những công việc độc hại. 3[3] Vũ Ngọc Bình, Vấn đề Lao động trẻ em, NXB Chính trị QG, Hànội, 1995 6
  7. Công Cung cấp công Thông tin về các Các kế hoạch Trợ giúp của chính tác bảo ăn việc làm ổn điều kiện làm việc bảo vệ. phủ cho những vệ định theo nhu cầu được cải thiện. Giúp đỡ tự sáng kiến dựa vào phát triển. Có áp lực đối với nguyện. cộng đồng. Các kế hoạch người sử dụng lao Thực hiện pháp cung cấp việc động. luật. làm. Thông tin pháp lý. Tiếp xúc với các tổ Các công xưởng chức của người sử có mái che. dụng lao động. Tuyên Hình thành tiếp Thông tin y tế, giáo Các nhóm công Nâng cao hiểu biết truyền xúc sử dụng đồng dục. dân, nhà hát trong các bộ, nâng đẳng. Thông tin về pháp cộng đồng. ngành. cao Phát triển nhận luật. Thông tin đại Các chiến lược nhận thức về tình hình chúng như đài truyền thông, nâng thức và quyền lợi. phát thanh. cao hiểu biết trong của Xây dựng ý thức Huy động giáo dân chúng. công tự khẳng định. viên, các tôn chúng Sử dụng thông giáo, các tổ chức tin đại chúng như tự nguyện, các tổ báo chí, đài phát chức của giới thanh, vô tuyến chủ và công truyền hình, tranh đoàn biếm họa, múa rối, sách minh họa giải trí. Quy Nâng cao hiểu Giáo dục gia đình Huy động các Ban hành luật pháp định và biết về luật lao về luật và trách công đoàn thay về lao động trẻ em. thực động. nhiệm gia đình. mặt công nhân Điều chỉnh luật hiện Báo cáo các vi Đăng ký khai sinh. không thuộc tổ phù hợp với tình phạm. chức nào và hình địa phương. ngoài lề xã hội. Mở rộng việc Giáo dục những thanh tra và nâng người thuê lao cao chất lượng động về pháp công tác này. luật và tác hại Các chiến dịch của lao động đối đăng ký lao động. với trẻ em. Các tổ chức của công dân và các nhóm đấu tranh đòi thực hiện. 5. Việt Nam tiến tới giải quyết vấn đề lao động trẻ em. Trong vài năm qua, vấn đề lao động trẻ em ngày càng được chú ý quan tâm, nhất là khi Việt Nam ban hành Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật phổ cập giáo dục tiểu học, Bộ luật lao động và một số văn bản dưới luật khác. Bảo vệ và chăm sóc những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, trong đó có trẻ em lao động là một trong những mục tiêu về trẻ em đề ra trong Chương trình hành động quốc gia về trẻ em Việt Nam 1991-2000. Hệ thống Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em được thiết lập trong phạm vi cả nước. Những vấn đề có liên 7
  8. quan đến lao động trẻ em đã bắt đầu được các ngành, các cấp có liên quan bàn bạc, thảo luận để có những hành động giải quyết tích cực. Giải quyết vấn đề lao động trẻ em là công việc khó khăn lâu dài. Áp dụng kinh nghiệm quốc tế trong thực tế Việt Nam, ta thấy những biện pháp cần tiến hành trước mắt gồm : 1. Thu thập và phân tích những thông tin về lao động trẻ em, xác định những khu vực có sử dụng lao động trẻ em. 2. Phổ biến thông tin và nâng cao nhận thức cho các cơ quan nhà nước, đoàn thể xã hội, tổ chức công đoàn có liên quan; người sử dụng lao động, trường học, các cơ quan thông tin đại chúng và cho chính trẻ em cùng gia đình các em. 3. Ban hành những chính sách và quy định về lao động trẻ em kể cả trong khu vực nông nghiệp, khu vực không chính thức và có cơ chế phối hợp liên ngành chỉ đạo thực hiện. 4. Thực hiện đầy đủ các văn bản pháp luật liên quan đến lao động trẻ em (Bộ luật lao động, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật phổ cập giáo dục tiểu học ) 5. Thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học và đổi mới các chương trình giáo dục cho trẻ em (chính quy và không chính quy) cho phù hợp với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, phù hợp với hoàn cảnh và đặc điểm của trẻ em trong đó có những trẻ em lao động và phục vụ thiết thực, có hiệu quả việc phát triển dân trí và nhân lực trong một nền kinh tế theo cơ chế thị trường. 6. Tiến hành đào tạo, tập huấn và nâng cao năng lực cho những người trực tiếp tham gia cuộc đấu tranh chống lại sự bóc lột lao động trẻ em (đội ngũ cán bộ Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em, thanh tra lao động, cán bộ công đoàn, cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên). 7. Nâng cao đời sống kinh tế – xã hội của cộng đồng qua các chương trình xóa đói, giảm nghèo và các chương trình khác. Thực hiện phổ cập giáo dục, đặc biệt là tiểu học cho trẻ em trong độ tuổi là một biện pháp tốt và cơ bản để tiến tới xóa bỏ lao động trẻ em. Tuy nhiên, mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học không thể thực hiện được chừng nào mà lao động trẻ em chưa bị xóa bỏ. Mục tiêu này cũng chỉ thực hiện được khi nào giáo dục có chất lượng, phù hợp và không tốn kém, các bậc cha mẹ nhận thức được rằng việc giáo dục của con em mình là sự đầu tư tốt nhất và nhà nước đầu tư thỏa đáng cho giáo dục. Trẻ em chỉ muốn đến trường khi nội dung giáo dục thiết thực, hữu ích, hấp dẫn và sát với thực tế đời sống thường ngày. Thời gian học tập phải phù hợp với đời sống lao động của trẻ em để các em có thể thu xếp thời gian học tập. Nơi học tập phải thuận tiện, dễ dàng và phù hợp với hoàn cảnh học sinh. Việc học hành không tốn kém cũng làm cho cả cha mẹ yên tâm và học sinh hào hứng đến trường. TÂM LÝ TRẺ ĐƯỜNG PHỐ VÀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC TRẺ ĐƯỜNG PHỐ Mục tiêu : - Giúp học viên hiểu vấn đề của trẻ đường phố tốt hơn - Giúp học viên biết cách can thiệp hiệu quả trong tiến trình giáo dục trẻ. Nội dung tập huấn : I. Chân dung trẻ đường phố. 8
  9. Trẻ đường phố về cơ bản thuộc 3 nhóm : Nhóm 1 là trẻ không có chỗ ở cố định, không có gia đình hay người bảo hộ, trẻ bị buộc hoặc tự ý rời bỏ gia đình, tr? ki?m s?ng chỉ để nuôi chính bản thân mình; nhóm 2 là trẻ sống ngoài đường cùng với gia đình hoặc người bảo hộ là người nhập cư ; nhóm 3 là trẻ có gia đình hay lang thang ngoài phố ban ngày, đêm mới về nhà ngủ và thường dính líu vào các băng nhóm, tổ chức tội phạm ( có tài liệu gọi là trẻ lang thang)ï hoặc trẻ ra đi vì các lý do nghèo đói và kiếm tiền để giúp gia đình. Tuy nhiên, cần lưu ý là những trẻ có việc làm ổn định không được coi là trẻ em đường phố mà là trẻ lao động. Nhóm 1 : trẻ sinh ra từ những gia đình bất hạnh, bị lạm dụng, bị bỏ rơi, bỏ nhà đi không phải vì lý do kinh tế, mà là chạy trốn nên ít quan tâm đến việc làm, chỉ kiếm miếng ăn qua bữa. Các em này thiếu hẳn sự an toàn tình cảm, có cảm giác bị chối bỏ và đẩy ra ngoài lề của một xã hội bình thường. Về mặt tinh thần, trẻ phải tìm cách đối phó với những áp lực tinh thần liên tục. Nếu chịu thua, trẻ sẽ vào trú ngụ trong một dự án hoặc về nhà, còn không thì sẽ phát triển tính tự vệ bản thân và theo bản năng, trẻ tìm kiến sự liên kết qua nhóm. Trẻ thích nghi với sự thiếu an toàn, bất tiện, thiếu nơi ăn chốn ở và đánh giá cao sự tự do hơn bất cứ cái gì khác. Một số trẻ là nạn nhân của người khác, bị hành hạ, đánh đập. Đây là nhóm dễ bị bóc lột và lợi dụng bởi bọn tội phạm người lớn. Một số trẻ nam nhiều hơn nữ có dính líu đến hoạt động mại dâm. Nhóm 2 : Trẻ và gia đình thường hay thay đổi chổ ngủ vì luôn lo sợ bị bắt. Họ sống trong điều kiện thiếu thốn nhất và thiếu an toàn lớn nhất, nhưng quan hệ tình cảm giữa trẻ và cha mẹ rất mạnh mẻ và tùy thuộc lẫn nhau. Nhóm trẻ đến các thành phố do nghèo đói để kiếm tiền nuôi gia đình, họ không phải là những trẻ bỏ nhà ra đi và cũng không phải đi tìm tự do. Nhóm này hiện nay có khuynh hướng ngày càng tăng. Trẻ thường thuê phòng trọ chung bán vé số, đánh giày. II. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ CHUNG CỦA TRẺ ĐƯỜNG PHỐ. 1. Trẻ luôn di động từ nơi này đến nơi khác : Chúng ta khó duy trì mối quan hệ lâu và ổn định với trẻ. Có thể tổ chức các hoạt động ngoài đường để đáp ứng những nhu cầu trước mắt cho trẻ trong thời gian ngắn. 2. Trẻ thường nói dối hoặc không muốn hợp tác : do cơ chế nghi ngờ và phòng vệ, giáo dục viên thiếu kinh nghiệm sẽ sớm chán nản. 3. Trẻ dễ dàng thay đổi tính khí : gây hấn hoặc êm dịu, mệt mỏi hoặc nhiệt tình, thờ ơ hoặc tham gia, chán nản hoặc quan tâm, tích cực hoặc thụ động Giáo dục viên cần chấp nhận tính khí bất thường đó, tìm hiểu nguyên nhân và thích nghi với trẻ. 4. Trẻ có hành vi phạm pháp và cần sự giúp đỡ : vấn đề là trẻ có những gía trị khác với chúng ta và chúng ta cần xem trẻ là nạn nhân hơn là phạm nhân. 5. Trẻ mất niềm tin nơi chính mình do những kinh nghiệm tiêu cực trong quá khứ nên trẻ cần những hoạt động nho nhỏ qua đó trẻ tham gia để lấy lại sự tự tin. 6. Trẻ sống cho từng ngày, ít khi nghĩ đến cuộc sống tương lai. 7. Trẻ có nhiều vấn đề cùng lúc khó được giải quyết. 9
  10. Trẻ chậm phát triển 5.1-Lặp đi lặp lại : Có nhiều trẻ em « bị thúc bách » lặp đi lặp lại suốt ngày một cử chỉ, một câu nói, một điệu bộ như quay cuồng nhiều vòng, nhún tới nhún lui từ trước ra sau, lấy một cọng cây rung qua rung lại trước mắt Ý nghĩa thứ nhất : Đó là một hình thức tạo an toàn cho chính mình, một cách làm chủ tình thế rất bị hạn chế và thu hẹp. Nhưng thà làm chủ một việc nho nhỏ, còn hơn là bị tràn ngập, mất mát trong một khung cảnh xa lạ, lớn lao, thoát khỏi khả năng kiểm soát và hiểu biết của mình. Thà rằng « bơi lội bì bạch trong ao nhà đã quen », hơn là bị mất hút giữa một bãi bể mênh mông, trên đó mình không còn là gì cả, không nhận ra mình đang ở đâu. Ý nghĩa thứ hai : Về mặt học tập, sở dĩ trẻ em lặp đi lặp lại, vì các em không biết làm gì khác hơn. Không có một động lực nào thúc đẩy, ngoài nhu cầu và ý thích được an toàn. Đây là điểm duy nhất, luôn luôn tồn tại cho mình bám víu, nương tựa, giữa một cuộc sống luôn luôn thay đổi. Ý nghĩa thứ ba : Lặp lại là một cách « tự kích thích », một cách nối dài niềm vui độc nhất vô nhị của em, mặc dù đó là điều hoàn toàn vô nghĩa đối với kẻ khác. Xu thế thông thường của cha mẹ và thầy cô, khi đối đầu với một trẻ em « cố thủ » như vậy, là cấm đoán, cản trở em tiếp tục. Tuy nhiên, chúng ta cần nhận thức một cách sáng suốt rằng : đây là niềm vui độc nhất của em ấy. Càng cấm cản, chúng ta càng củng cố và gia trọng hành vi ấy mà thôi. Thêm vào đó, khi đánh mất niềm vui nho nhỏ nầy, em sẽ đánh mất tất cả chính mình. Đánh mất chính sự sống đang có mặt trong em. Thay vì cấm cản, chúng ta sử dụng cách làm ấy như một nhịp cầu trao đổi. Với em, chúng ta bắt chước, cùng làm. Nếu em chấp nhận, em đã bắt đầu chia sẻ và cho phép chúng ta tạo quan hệ với em. Như trong một vũ khúc, chúng ta vừa làm phối nhân ĐI THEO. Vừa làm một thành viên CHỦ ĐỘNG hướng dẫn, bước tới. Trường hợp em từ chối, đó cũng là một cách em đang trả lời : em đóng lại cái vòng tròn mà chúng ta đã mở ra. Ví dụ một trẻ em đang cố thủ với một câu nói lặp đi lặp tới suốt ngày. Chúng ta cũng lặp lại câu nói ấy, với một tốc độ khác, hay là ngân vang câu nói ấy bằng một cung điệu trầm bổng như trong tuồng cải lương Trong mỗi tác phong của trẻ em, chúng ta cần phân biệt hai thành tố luôn luôn có mặt: Thành tố thứ nhất là phần vụ hay là chức năng của tác phong. Ở bên dưới của mỗi phần vụ, chúng ta sẽ khám phá nhu cầu hay là sở thích của trẻ em. Khi các em chưa có ý thức rõ rệt về mình, đó là một sức ép hay là một sức đẩy bật cưởng bức trẻ em phải làm, phải nói Thành tố thứ hai là hành vi cụ thể và khách quan bên ngoài. Nếu chúng ta tìm mọi cách đáp ứng nhu cầu cơ bản của trẻ em, chúng ta sẽ dần dần thay đổi toàn bộ tác phong bên ngoài của các em. Năm vừa rồi, em Kh. đã đến gặp các bạn và tôi tại lớp học này. Em thường hay nhìn lên cửa sổ, với một ánh mắt có vẽ sững sờ, bị thôi miên. Và trong tình trạng như vậy, em không còn nghe ai, không còn muốn thấy một vật gì khác. Nếu đây là phòng học và tôi là một giáo viên của em, tôi sẽ suy nghĩ chế tạo ra một tấm màn đen vào chỗ ấy. Khi em Kh. nhìn lên một cách sững sờ, tôi bấm nút kéo màn lại và mở ra. Tôi biến bức màn thành một trò chơi hấp dẫn cho em Kh. Và từ sở thích ấy, tôi sẽ dạy cho em Kh. biết bấm nút mở ra và đóng lại, theo ý muốn của em và bất cứ khi nào em muốn. Chừng nào em làm được điều ấy, em đã trở nên chủ thể, ý thức mình có khả năng tác động trên sự vật, để thay đổi sự vật. 5.2.-Tự kích thích Vấn đề thứ hai là kích thích chính mình một cách máy móc và tự động, thậm chí làm hại mình, gây thương tích trên mình hay là đập đầu vào tường. Thông thường, đó là những hành vi nhằm bù trừ tình trạng CHẬM PHẢN ỨNG, vì thiếu liều lượng và cường độ kích thích cần thiết. Ngưỡng sơ khởi của loại trẻ em nầy rất cao. Cho nên các em tạo cho mình 10
  11. những loại kích thích mạnh, vượt ngưỡng sơ khởi. Cơ hồ càng uống rượu, chúng ta càng thích uống và càng nghiện những loại rượu mạnh. Để lập quan hệ với loại trẻ em nầy, chúng ta tìm cách điều hợp nguồn kích thích cho trẻ em và đồng thời dạy em phương cách tự điều hợp, như trong ví dụ về em Kh. trên đây. Mục tiêu chúng ta nhắm thâu đạt với loại trẻ em nầy là tận dụng tối đa quan hệ vui thích và gắn bó tình cảm, để dần dần hướng các em đến một hành vi có ý nghĩa, thuộc khả năng điều hợp và kiểm soát của các em. Người lớn đảm nhiệm vai trò trung gian, tạo nhịp cầu, để cho phép trẻ em bước qua một vùng kích thích mới mẽ và thích hợp hơn, so với cách làm « bị thôi miên và khống chế » trước đây. Ý hướng xem ra rất đơn giản, về mặt lý thuyết. Nhưng trong thực tế, để thành tựu, chúng ta cần đầu tư rất nhiều sinh lực và thời giờ trong công việc chuyển hóa nầy. Họa may, trẻ em mới mở ra, đón nhận những kích thích từ môi trường bên ngoài. Lúc bấy giờ, em mới có khả năng học hành, tiếp thu, ghi nhận 5.3.-Bùng nổ và tràn ngập trong lãnh vực xúc động Khi trẻ em đã có những quan hệ gắn bó với người lớn và khi các em đã biết mở đóng, điều hợp năm giác quan của mình, để tiếp thu, ghi nhận và học hành , chúng ta lại phải đối đầu với những vấn đề « tràn ngập và bùng nổ », trong địa hạt xúc động và tình cảm, nhất là từ tuổi sáu tháng trở lên. Trong khuôn khổ của lớp học đặc biệt, dành cho trẻ em khuyết tật tâm thần, các thầy cô có thể quan sát những hiện tượng sau đây: Một, trẻ em hay tức giận, đánh đập bạn bè, Hai, trẻ em có thái độ lệ thuộc, bị động, thiếu sáng kiến trong những công việc bình thường hằng ngày, Ba, trẻ em có nếp sống xa cách, lạnh lùng, lủi thủi, chỉ chơi đùa một mình, Bốn, trẻ em buồn bã, sợ sệt, hay ghen tương với bạn bè, Năm, trẻ em lăng xăng, hiếu động, không biết dừng lại, khi đã mệt nhoài, thiếu khả năng tự điều hợp. Hóa giải tình cảm và xúc động là một tiến trình học tập lâu dài. Càng khởi sự sớm, chúng ta càng giúp trẻ em thâu lượm những thành quả khả quan, lúc các em lên 9-10 tuổi. Trong cuốn sách bàn về « Giáo dục con cái » , tôi đã trình bày khá nhiều chi tiết liên hệ đến những bước đi lên, những cạm bẫy cần đề phòng. Ở đây, tôi chỉ nhấn mạnh một ít điểm then chốt như sau: - Nói đến tình cảm và xúc động, chúng ta không phân biệt xấu tốt, để rồi sử dụng những biện pháp cấm cản, la rầy, trừng phạt - Chỉ trong trường hợp trẻ em có hành vi bạo động với chính mình và người khác, chúng ta cần lập tức cô lập trẻ ấy và khẳng quyết một cách rõ ràng qui tắc hành động : "Chơi với bạn. Thương bạn. Cấm nhặt không được bao giờ đánh bạn" . - Có mặt với trẻ em, cho phép em bộc lộ ra ngoài, theo từng cấp độ phát triển: - bằng tác động, tác hành - bằng trò chơi hay là diễn xuất, - bằng ngôn ngữ, gọi tên hay là đặt tên, - bằng hóa giải, chuyển biến - Sau khi trẻ em trở lại tình trạng bình tỉnh, nhất là với những em có ngôn ngữ, giúp các em khám phá nhu cầu và nguyện vọng của mình. Với trẻ em còn thiếu ngôn ngữ, dùng cử chỉ, tròø chơi giả bộ đi kèm theo lời nói. - Nếu trẻ em đã gây thiệt thòi cho kẻ khác, yêu cầu các em tái lập quan hệ và tìm cách hàn gắn, sửa sai, tùy theo cấp độ phát triển và hiểu biết . 6.- Những loại trẻ em khác nhau 6.1.-Trẻ em nhạy cảm, nhưng khó tập trung tư tưởng 11
  12. Chập chờn, nhảy vọt từ vật nầy qua vật khác, Không lưu tâm, chú ý đến một cái gì, Chạy vòng quanh, lui tới, để tránh mọi tình trạng căng thẳng, tràn ngập. Về mặt nhu cầu, trẻ em loại nầy cần an toàn tình cảm, Các em thích lời nói nhỏ nhẹ, Thích những xúc giác mạnh, Thoải mái khi được vận động, nhào lộn, chạy nhảy. 6.2.-Trẻ em nhạy cảm và tránh tiếp xúc. Thích chơi một mình, Thích lặp lui lặp tới một điều, cho đến khi quen thuộc, Không dám nhìn thẳng mặt, sợ tiếp xúc. Với loại trẻ em nầy, cần dùng trò chơi « chận đường », để tạo quan hệ, Dùng lời nói nhẹ nhàng, dịu hiền, Tổ chức những loại sinh hoạt thư giản. 6.3.- Trẻ em chậm phản ứng, quá bình lặng và xa vắng. Có thể đứng hằng giờ nhìn qua cửa sổ, Trương lực cơ dưới trung bình, Thường thường trẻ em thuộc diện nầy chậm phản ứng trong một địa hạt, nhưng lại nhạy cảm trong địa hạt khác, Cho nên chúng ta cần nhạy bén, khám phá ý thích của các em, Yêu cầu, khuyến khích các em tìm ra nhiều sáng kiến, trong chiều hướng ý thích của mình. 6.4.- Trẻ em chậm phản ứng, nhưng lăng xăng, hiếu động, rời rạc. Chạy lăng xăng khắp nơi, Đưa tay đụng đến mọi đồ vật, Thích bỏ vào miệng đồ quen dùng, Không thích tiếp xúc. Chúng ta cần dùng trò chơi đuổi bắt, trốn tìm, để tạo quan hệ tiếp xúc với các em, Tận dụng sở thích của các em, Dùng những trò chơi đòi hỏi phải làm, phải chủ động như chơi trống, thổi kèn, vũ khúc Tổ chức nhiều sinh hoạt tâm vận động, với hai hoặc ba giai đoạn và động tác khác nhau, để trẻ em loại nầy có thể hội nhập, ghi nhớ những qui luật, những cách thực hiện đa dạng 4.1. Những vấn đề gắn bó lúc nhỏ Từ “gắn bó”, dùng trong sách tâm lý về phát triển, mô tả khuynh hướng của một em bé liên tục tìm kiếm sự gần gũi với một nhân vật đặc biệt, thường là người mẹ, để làm giảm sự căng thẳng bên trong. Mối quan hệ này giữa đứa bé và hình ảnh gắn bó sẽ tạo nên nền tảng yên ổn từ đó bé có thể khám phá và làm chủ thế giới. Một số trẻ không có cơ hội để tạo nên sự gắn bó yên ổn với một người. Các em có thể có những cha mẹ thờ ơ hoặc xử sự quá đáng, hoặc bị nằm viện lâu dài cách ly với cha mẹ, hoặc mất cha mẹ do tai nạn, do chiến tranh, hoặc bị nhiều chấn thương khiến không thể tạo sự gắn bó yên ổn được. Kết quả là các trẻ này phải chịu đựng 12
  13. điều mà người ta gọi là sự rối loạn về gắn bó có thể đem lại cho các em những hậu quả rất trầm trọng. Loại gắn bó mà trẻ tạo ra với người chăm sóc ban đầu có thể ảnh hưởng tới sự phát triển của trẻ suốt cả đời. Sự gắn bó sớm với những người chăm sóc đầu tiên có vẻ có ảnh hưởng nhiều đối với các kinh nghiệm sau này của trẻ em và chi phối cả cách thức trong đó trẻ em giải quyết những tình huống căng thẳng. Sự gắn bó bất ổn hoặc không thỏa đáng trong tuổi ấu thơ được gắn kết với sự lạm dụng các chất gây nghiện sau này : rối loạn về ăn uống, hoạt động tình dục sớm và hành vi tình dục có nguy cơ cao và hình ảnh tự thân yếu kém. Rõ ràng, điều quan trọng đối với các nhà tham vấn là nhận biết một số hành vi thiếu thích nghi ở tuổi trẻ em phần nào có thể là do các mối quan hệ gắn bó yếu ớt với các nhân vật ban đầu lúc ấu thơ. 4.2. Ảnh hưởng hành vi vô ích của cha mẹ Gia đình là nguồn cung cấp chính môi trường vật chất, trí tuệ và tình cảm trong đó trẻ em sinh sống. Môi trường sẽ ảnh hưởng tới quan điểm của trẻ về thế giới sau này trong cuộc sống, và đối với năng lực của trẻ trong việc đối phó với các thách thức về sau. Khi cha mẹ dành ưu tiên cho các nhu cầu của họ mà không quan tâm đúng mức tới nhu cầu của con cái họ, thì các hệ thống gia đình trở nên rối loạn chức năng Cha mẹ cần uốn nắn những hành vi không thích hợp nơi con cái và khuyến khích sự phát triển nhũng hành vi thích hợp về mặt xã hội. Nếu họ không làm việc này, thì sẽ có những hậu quả đến các mối quan hệ xã hội, hoặc ở trong tuổi ấu thơ hoặc khi trẻ đến tuổi trẻ em. Thường thường có một trình tự phát triển trong đó các hành vi gây hấn và chống xã hội phát triển. Các hành vi này thường bắt đầu với các việc như lý sự, khoe khoang và đòi hỏi sự chú ý. Nếu cha mẹ không uốn nắn đúng mức những hành vi này, thì có thể chúng sẽ phát triển ở tuổi thiếu nhi giai đoạn giữa thành những hành vi như hung dữ, đánh nhau, nói dối và lừa gạt, với kết quả là có những mối quan hệ kém với bạn đồng lứa. Phá phách và trộm cắp trong nhà có thể diễn ra. Như thế các hành vi gây hấn và chống xã hội bắt đầu ở dạng nhẹ bằng hành vi không thể chấp nhận được nơi trẻ em và phát triển dần theo cường độ, nhịp độ và hình thức khi trẻ lớn dần. Một số cha mẹ dự vào những hành vi không được xã hội chấp nhận đã tạo hậu quả tai hại cho con cái họ. Tiếc thay, khi cha mẹ dự vào các hành vi không thích nghi và phản xã hội họ làm gia tăng khả năng trẻ hành động giống họ 4.3. Ảnh hưởng của sự lạm dụng Khi trẻ em bị lạm dụng thì sẽ có những hậu quả tâm lý và tình cảm đối với các em vào lúc xảy ra sự lạm dụng, và cả về sau này khi các em tới tuổi trẻ em. Ảnh hưởng tâm lý và tình cảm của sự lạm dụng hầu như chắc chắn dẫn tới phát triển những hành vi không thích nghi nếu trẻ hoặc trẻ em không thể giải quyết những vấn đề phiền phức có liên quan một cách thỏa đáng. Những ảnh hưởng của sự lạm dụng bao gồm : · Sự bỏ bê – Không quan tâm · Lạm dụng tình cảm · Lạm dụng thân thể 13
  14. · Lạm dụng tình dục 4.3.1. Sự bỏ bê – không quan tâm Ảnh hưởng sự bỏ bê đối với trẻ em đã được tập trung chú ý trong nhiều nghiên cứu. Nhiều trẻ em chịu nguy cơ bỏ bê xuất thân từ môi trường kinh tế xã hội thấp và kém may mắn hoặc các nhóm thiểu số bị thiệt thòi về văn hóa. Các em khác đến từ những gia đình loạn chức năng ở đó có những vấn đề tâm lý, lạm dụng ma túy và/hoặc rượu chè hoặc có những vấn đề về tài chánh. Sự bỏ bê có thể dẫn tới những vấn đề về hành vi, chuyên cần kém, điểm học tập thấp và nói chung là thành đạt yếu. Trẻ em bị bỏ bê cho thấy mối nguy cơ cao có triệu chứng sau này trong đời bị rối loạn nhân cách có tính chống xã hội. Khi một trẻ em có tiền sử bị bỏ bê lúc ấu thơ, thì em này có thể mang cảm nghĩ giận hờn đối với những người chăm sóc thờ ơ, và có vẻ có vấn đề đối với những việc như an toàn bản thân, việc cung ứng những nhu cầu thiết yếu, sự công bằng, tính thẳng thắn, sự tin cậy và tinh thần trách nhiệm. 4.3.2. Lạm dụng tình cảm Lạm dụng tình cảm thường kết hợp với các dạng lạm dụng khác. Một khi cha mẹ đặt nhu cầu của họ lên trước trong khi con cái của họ cần sự giúp đỡ, nhìn nhận và ủng hộ để có hành vi tích cực. Như thế, các bậc cha mẹ này đã tự đánh mất tình cảm của con cái họ. Kết quả là có rất nhiều khả năng các em sẽ tìm những phương cách mới để thỏa mãn các nhu cầu của mình. Chẳng hạn như các em có thể dính dấp vào sự lạm dụng ma túy hoặc gia nhập các nhóm bạn đồng lứa tuổi dính dấp vào những hành vi “sôi nổi” có nguy cơ phạm pháp. Cũng như thế, trong các gia đình lạm dụng ma túy và/hoặc nghiện hóa chất, có thể thiếu sự giao tiếp giữa cha mẹ và con cái, kỷ luật không nghiêm và không chặt chẽ trong gia đình, và thiếu gắn bó và sự nâng đỡ tình cảm gần gũi. Trẻ em lớn lên trong các gia đình này có thể mang vết thương tình cảm vào tuổi trẻ em và kết quả là sẽ dễ phát triển hành vi loạn chức năng. 4.3.3. Lạm dụng thân thể Trẻ em bị lạm dụng thân thể chắc chắn sẽ mang những vết thương tâm lý vào tuổi trẻ em của mình. Trong nhiều trường hợp, không những các em chỉ cần giải quyết những kinh nghiệm đau đớn trong quá khứ, mà có thể còn cần giải quyết sự lạm dụng tiếp tục trong hiện tại. Một đặc điểm quan trọng trong lạm dụng thân thể là vấn đề quyền lực và sự kiểm soát. Các cha mẹ lạm dụng có đặc điểm chung là không nhận trách nhiệm về hành vi của họ, đổ tội cho con, không nhất quán nói một đàng làm một nẻo, dùng quyền lực đối với con cái, không tin cậy các con, ích kỷ, và quá quan tâm tới nhu cầu của chính họ. Họ có khuynh hướng áp đặt nhiều lần hành vi lạm dụng của họ. Thường những kẻ lạm dụng thân thể đối với trẻ em đã có niềm tin mạnh mẽ về việc nuôi dạy con, sử dụng hình phạt thân thể và kiểm soát vật chất đối với trẻ như là cách uốn nắn hành vi. Họ không giống như các bậc cha mẹ có uy quyền, trông cậy vào những phương pháp kiểm soát hành vi không thô bạo và vận dụng các chiến lược giao tiếp thích hợp. Các cha mẹ có uy quyền hầu hết đều thành công trong việc tạo ra những người con có trách nhiệm và có năng lực về mặt xã hội. Người ta thấy rằng trẻ em và trẻ em bị lạm dụng thân thể có thể phát sinh triệu chứng giống như các em bị rối loạn căng thẳng sau chấn thương (Glod and Teicher, 1996). Glod và Teicher (1996) đã nhận thấy rằng trẻ em bị lạm dụng thân thể có 14
  15. những nét hoạt động chính giống như các trẻ em có triệu chứng rối loạn hoạt động thái quá do thiếu chú ý (ADHD). Ngoài ra, nhiều cha mẹ nghiện rượu và các chất gây nghiện khác có khả năng kềm chế nóng giận rất kém. Các trẻ em bị lạm dụng thân thể từ nhỏ và chịu đựng sự lạm dụng đó kéo dài tới tuổi trẻ em thường phải ứng với sự lạm dụng đó bằng một trong hai cách. Các em có thể bộc lộ cảm nghĩ bằng hành động theo lối chống xã hội với mức độ gây hấn cao, hoặc giữ lại các cảm nghĩ ở trong lòng với hậu quả là phát triển tính trầm cảm và nảy sinh ý tưởng tự tử. Các em giấu cảm nghĩ bên trong cũng có thể thu mình và cắt đứt các giao tiếp xã hội chính thức của trẻ em và bị loại bỏ để rơi vào các nhóm bạn cùng lứa tuổi tách rời khỏi xã hội (Schmidt, 1991). Một vấn đề khác đối với trẻ là chôn giấu cảm nghĩ trong lòng và cảm thấy bất lực, do hậu quả của sự lạm dụng thân thể liên tục từ lúc bé thơ, là mối nguy tự tử. Tự tử và toan tự tử đã được nhận thấy gia tăng như là giải pháp của các trẻ em yếu kém trong ứng phó với khó khăn. 4.3.4. Lạm dụng tình dục Sự xâm hại tình dục trước tuổi trẻ em đã góp thêm nguy cơ phạm pháp nơi trẻ em. Các nạn nhân có thể nhận chịu những di chứng có thể tiếp tục suốt tuổi trẻ em, gồm có những hành vi nhiễm tình dục, ác mộng, tránh giao tiếp, cách ly, khó ngủ, hờn giận, hành vi thiếu kiểm soát, những vấn đề về thân thể và những khó khăn trong học tập. Các nghiên cứu ảnh hưởng lâu dài về lạm dụng tình dục trẻ em cho thấy rằng, khi lớn lên, các nạn nhân của sự lạm dụng ấy có mức độ cao về những vấn đề thuộc sức khỏe tâm thần, kể cả trầm cảm, rối loạn lo lắng, lạm dụng ma túy, loạn chức năng tình dục và những khó khăn trong giao tiếp với người khác. Garnefski và Diekstra (1996) lưu ý rằng các em trai bị lạm dụng tình dục bị xúc động rất nhiều và có những vấn đề về hành vi, bao gồm hành vi tự tử nhiều hơn là các nạn nhân nữ. Nghiên cứu của các vị ấy cho thấy hậu quả của sự lạm dụng tình dục đối với các bé trai tệ hại và phức tạp hơn đối với các bé gái. Bé gái vị thành niên bị lạm dụng tình dục thường có mặc cảm tự ti hoặc chán ghét nữ tính và tình dục của mình. Rõ ràng là bị lạm dụng tình dục tuổi thiếu nhi và xáo trộn về hình ảnh thân thể là có liên quan với nhau. Trẻ em đặc biệt bị lạm dụng tình dục bởi người mà các em quen biết và tin cậy. Sự lạm dụng ấy có thể kéo dài nhiều năm và thường tiếp tục cho đến tuổi trẻ em. Theo Alexander và Kempe (1984), loại lạm dụng tình dục nguy hiểm nhất là sự loạn luân giữa cha mẹ và con gái. Cũng có tỉ số cao về lạm dụng tình dục giữa các cha kế và con gái của vợ. Thường bé gái bị lừa dối để nghĩ lầm rằng sự lạm dụng hoàn toàn là do lỗi của em. Ngoài ra, em còn bị cảnh cáo là nếu em nói cho ai biết về sự lạm dụng thì em sẽ bị xem là bé hư và cũng có thể bị bắt và bị bỏ tù. Thật tội nghiệp, kết quả của tình cảnh ấy thường khiến em thu mình về mặt xã hội hoặc chạy trốn gia đình. Các em có thể dây vào việc trốn học, chung chạ tình dục bừa bãi và gặp khó khăn trong những mối quan hệ sau này. Một số sẽ vào đường mãi dâm. 4.3.5. Ảnh hưởng của chấn thương 15
  16. Một trong những dạng chấn thương thông thường nhất mà trẻ em ngày nay phải nếm trải là bạo lực trong gia đình. Tiêu biểu là khi bạo lực trong gia đình xảy ra thì sẽ có tổn thương và đôi khi cả cái chết cho người lớn, trẻ em và thiếu nhi trong gia đình. Dù là trẻ em không trực tiếp là nạn nhân, các em cũng sẽ bị chấn thương do chứng kiến cảnh bạo lực và sẽ chịu hậu quả căng thẳng hậu chấn thương. Chịu đựng bạo lực nghiêm trọng có liên hệ cao với rối loạn tâm thần, đặc biệt là rối loạn căng thẳng hậu chấn thương (PTSD). Trong một nghiên cứu của Steiner và các tác giả khác (1997) đã có đánh giá về sự nổi bật của triệu chứng PTSD nơi các trẻ em phạm pháp bị giam giữ. Một nửa các đối tượng mô tả việc chứng kiến cảnh bạo lực giữa nhiều người như là sự kiện gây chấn thương cho các em. Trong số các đối tượng được chẩn đoán về rối loạn căng thẳng sau chấn thương, tất cả đều biểu lộ ở mức độ cao sự phiền muộn, lo lắng, trầm cảm và bị hạn chế ở mức thấp việc kiểm soát kích thích và đè nén tính gây hấn. Các em có mức độ cao về phòng vệ, không chín chắn như phóng ngoại, phòng thân, đổi ý, không giao tiếp và thu mình. Thật đáng tiếc, giống như nạn lạm dụng tình dục mà nạn nhân có thể trở thành người lạm dụng, các em phải nhận chịu, hoặc chứng kiến, cảnh bạo lực trong gia đình có vẻ chính mình cũng trở thành hung bạo. 5. Sự mất mát Trẻ em và trẻ em thường bị chấn thương do mất mát. Các em có thể mất bạn cùng lứa tuổi như bạn trai và bạn gái do tái định cư, bị từ bỏ, chết, hoặc tự tử. Các em cũng trải qua mất mát về cha mẹ do bị từ bỏ, lãng quên, ly dị hoặc chết. Đối với trẻ không nhà cũng có một số mất mát, mà mất mát quan trọng là không được giáo dục (Eddowes and Hranitz, 1989). Khi trẻ em trải qua sự mất mát, quá trình phiền muộn có thể kéo dài đến tuổi trẻ em và có thể ảnh hưởng tới trạng thái tình cảm và hành vi của các em càng ngày người ta càng nhận biết tầm quan trọng của việc các trẻ em phải phấn đấu vượt qua quá trình phiền muộn để cho cuộc hành trình phát triển không bị sự phiền muộn cản trở. Trong khi sự trầm cảm do tang thương là bình thường, điều quan trọng là cần xem xét khi trầm cảm trở thành bệnh lý. Các trẻ em chịu sự mất mát do cái chết của người thân thường bị chấn động thật mạnh, mất niềm tin và cảm nhận rõ sự mất mát. Người ta cũng nhận thấy các trẻ em giận dữ nhiều hơn trước cái chết, rối loạn giấc ngủ, trạng thái chiêm bao và cáu kỉnh hơn người lớn (Meshot and Leitner, 1993). 6. Ảnh hưởng di truyền Khi tham vấn cho trẻ em, chúng ta cần nhận biết rằng, ngoài ảnh hưởng về kinh nghiệm cuộc sống, có thể còn có những điều kiện di truyền đối với những rối loạn về hành vi và tâm lý trong tuổi trẻ em. Comings (1997) cũng gợi ý là các thành tố di truyền của các rối loạn này có một số “gen” chung ảnh hưởng tới các chất dopamine, seratonin và các chất dẫn truyền về thần kinh. 16
  17. 7. Tâm trạng của trẻ trong hoàn cảnh khó khăn. Trẻ trong hoàn cảnh khó khăn thường biểu lộ các tâm trạng như sau : · Mất đi sự ham thích và sinh lực : Trẻ đau khổ, lo lắng hoặc sợ sệt có thể ngồi yên một chổ suốt ngày, không ham thích một hoạt động nào, mất hết cả sinh lực. · Ít tập trung và nhiều bức rứt : Trẻ buồn, lo lắng thường khó tập trung tư tưởng. Đôi khi căng thẳng quá, trẻ trở nên hết sức năng động, bức rứt : chạy nhảy khắp nơi, không thể ngồi yên và có thái độ gàn dỡ, dễ bị kích động. · Hung hăng và phá phách : Trẻ dễ đâm ra hung hăng, phá phách khi có cảm xúc mạnh. Vì không thể diễn tả tâm trạng bằng lời nói, trẻ có thể đánh đập người khác khi chúng cảm thấy căng thẳng, tức giận hoặc sợ hải. Trẻ bắt chước những hành vi hung hăng vì trẻ đã từng là nạn nhân của những hành vi bạo lực. · Không tin tưởng vào người lớn nếu trẻ đã từng bị người lớn đối xử hung bạo. Tuy nhiên, những trẻ mồ côi lại bám chặt lấy người lớn như sợ sẽ bị bỏ rơi, có trẻ lạI không muốn đem lòng thương mến ai. · Buồn bã và khó tính, rất dễ nổi cáu. · Trẻ không phải lúc nào cũng có thể nói về tâm trạng của mình. Trẻ có thể vì quá bối rối hoặc sợ hãi nên không xác định được tâm trạng của mình hoặc không biết nói như thế nào để diễn tả tâm trạng. 8. Một số đặc điểm tâm lý của trẻ trong hoàn cảnh khó khăn. · Khó diễn tả cảm xúc bằng lời : Có thể do bị choáng ngộp bởi chính tâm trạng của mình và muốn đè nén những tâm trạng đó hoặc trẻ chưa bao giờ được khuyến khích để tự nói về mình và không có đủ lời để diễn tả tâm trạng. · Hoài nghi, thiếu tin tưởng : Trẻ sống trong hoàn cảnh khó khăn thường có đủ lý do để ngờ vực. Những người lớn mà các em thường gặp thường có vẻ xa cách với trẻ và không hiểu được những khó khăn này. · Giận dữ và có ác cảm : Một số trẻ tức giận người lớn vì bị bạc đãi hoặc không được chăm sóc thích đáng hoặc có thể do các em cứ đinh ninh sẽ bị phê bình hoặc trừng phạt. · Mặc cảm có tội, tự trách mình : Trẻ hổ thẹn vì những gì đã xảy đến cho mình như bị cưỡng dâm, bị làm nhục hoặc các em tự trách mình vì đã không tự bảo vệ được. · Không nói thật : Vì trẻ ước mơ một hoàn cảnh khác, tránh né những đề tài đau thương, sợ bị hậu quả xấu, trẻ cố gắng muốn lấy lòng người lớn ( cố gắng nói ra những điều hay hoặc những điều mà người lớn muốn nghe), cố ý nói dối để tránh câu chuyện, không muốn tiếp xúc với người khác hoặc để gây sự chú ý của người nghe. 17
  18. II. NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA SỨC KHỎE TÂM THẦN 1. Khi trẻ có dấu hiệu bệnh lý tâm thần. Một chức năng quan trọng đối với nhà tham vấn là giúp cho những trẻ không thể phát triển các nguồn lực và các chiến lược ứng phó thành công. Tuy nhiên, điều quan trọng là các nhà tham vấn nhận biết các hạn chế của bản thân và nghề nghiệp của mình liên quan đến việc trị liệu cho các trẻ em đang cho thấy có các dấu hiệu bệnh lý phát triển. Điểm quan trọng là nhận biết những hạn chế này và có thái độ cởi mở với các thân chủ có vấn đề. Các nhà tham vấn cần có những người kiểm huấn kinh nghiệm và có năng lực để có thể thảo luận với họ cả những vấn đề riêng lẫn những vấn đề liên quan tới thân chủ. Khi có dấu hiệu chỉ rằng một trẻ đang phát triển bệnh lý, các nhà tham vấn cần trao đổi ý kiến với những người kiểm huấn để quyết định có nên tiếp tục chữa trị hay là chuyển đến cho các chuyên gia. Việc định bệnh đúng đắn về bước đầu bệnh lý có thể là phức tạp, đặc biệt khi thân chủ là một trẻ em. Miller (1983) lưu ý các nhà tham vấn là không nên suy diễn thái quá về những tư tưởng, tình cảm, hành vi tiêu biểu hoặc có vẻ lạ lùng của các trẻ em, được xem như là triệu chứng của bệnh tâm thần trầm trọng. Đó có thể là dấu chỉ về sự đáp ứng thích hợp về phát triển của trẻ em đối với môi trường. Tuy nhiên, mặt phụ là hậu quả của sự bỏ qua một cách sai lầm các dấu hiệu về hành vi tiêu biểu của trẻ em có thể là rất nghiêm trọng và có thể tước đi sự giúp đỡ tâm sinh lý rất cần thiết cho trẻ em. Vì vậy chúng tôi tin rằng điều cần thiết khôn ngoan và hợp đạo lý là tránh sai lầm trong việc lưu ý bằng cách bảo đảm rằng có sự đánh giá của chuyên viên khi có dấu chỉ phát triển bệnh lý tâm thần. Chắc chắn khi một trẻ em liên tục sử dụng những chiến lược ứng phó không thích nghi hoặc loạn chức năng và sự can thiệp về tham vấn bị thất bại, thì đây là dấu chỉ chuyển đi là cần thiết. Các trẻ em ấy cần sự đánh giá của người làm việc có kinh nghiệm về sức khỏe tâm thần có thể đề ra kế hoạch trị liệu thích hợp bao gồm cả sự dụng thuốc và tâm lý trị liệu. 2. Các trẻ em đánh giá cái gì là căng thẳng Trẻ em xem một sự kiện là căng thẳng khi sự kiện ấy có những ý nghĩa tiêu cực đối với sự yên vui của các em. Sandler và các tác giả khác (1997) nhận thấy rằng trẻ em tự đặt cho mình ba câu hỏi : 1. Ta có nên quan tâm không ? 2. Điều này là tích cực hay tiêu cực ? 3. Bản thân tôi, hoặc mục đích của tôi hoặc các cam kết của tôi có dính dáng như thế nào ? 18
  19. Một khi sự kiện bị đánh giá là căng thẳng, các nguồn lực ứng phó của trẻ em sẽ được vận dụng. 3. Các nguồn lực ứng phó của trẻ em Các nguồn lực ứng phó riêng của trẻ em là những đặc tính tương đối ổn định của cá nhân. Quan trọng nhất là các nguồn lực ứng phó bao gồm những đặc điểm về tính khí và nhân cách. Các nguồn lực cũng có thể gồm niềm tin về bản thân và về thế giới. Khi một trẻ em nhận thấy mình là người có năng lực đối phó, và tin rằng môi trường cơ bản là thân thiện, hay ít ra cũng dễ chịu thì khả năng sử dụng các chiến lược ứng phó thành công sẽ gia tăng. Rõ ràng là các nguồn lực ứng phó của trẻ em có liên quan đến lòng tự trọng của cá nhân, vị trí kiểm soát, tinh thần lạc quan và kỹ năng, sự hiểu biết các kỹ thuật giải quyết vấn đề (Sandler và các tác giả khác, 1997). Các cá nhân thường ứng phó thành công là những người sử dụng tốt nhất những nguồn lực riêng của mình và cũng vận dụng nguồn lực của người khác có giá trị và có thể dùng được. Chẳng hạn như một trẻ em có thể vận dụng bạn bè, cha mẹ hoặc nhà tham vấn như là nguồn lực vào những lúc mà các nguồn lực của em như đã được vận dụng quá mức. Cũng thế, các em có thể sử dụng một nguồn lực về môi trường, chẳng hạn như một nơi an tĩnh trong đó các em có thể thư giãn, suy nghĩ và quyết định. 4. Các kiểu ứng phó của trẻ em Mỗi cá nhân sẽ có một kiểu ứng phó riêng. Điều này có thể bị chi phối bởi các nhân tố văn hóa, giới tính, tình trạng kinh tế xã hội và các nhân tố môi trường hiện tại. Frydenberg và Louis (1993) nêu lên ba kiểu ứng phó như sau : 1. Giải quyết vấn đề : các hành vi như tìm kiếm sự ủng hộ xã hội, tập trung tìm kiếm giải pháp, tìm hướng thoát thảnh thơi, đầu tư nơi các bạn thân, tìm kiếm nơi nương tựa, làm việc tích cực để hoàn thành và trở nên tích cực. Trong kiểu ứng phó này cá nhân làm việc để giải quyết vấn đề trong khi vẫn giữ được lạc quan, thích nghi, thư giãn và liên hệ với xã hội. 2. Nhờ tới người khác : hướng về những người khác như bạn đồng trang hoặc những nhà chuyên nghiệp, để tìm sự ủng hộ tinh thần và xã hội. 3. Kiểu ứng phó không có lợi : lo âu, tìm nơi nương tựa, suy nghĩ mong ước, không ứng phó, làm ngơ vấn đề, giữ các chuyện cho riêng mình và trách cứ bản thân. Các kiểu ứng phó 1 & 2 gắn với một quá trình tích cực, trong khi kiểu ứng phó 3 thì tiêu cực. Trong quá trình tích cực, cá nhân có hành động để ứng phó với sự căng thẳng và yếu tố gây căng thẳng. 4.1. Dùng nhận thức trong ứng phó Các chức năng nhận thức có thể có một vai trò quan trọng trong việc ứng phó với những biến cố gây căng thẳng. Do suy nghĩ sâu về các sự việc, quá trình ứng phó có 19
  20. thể nhắm thẳng tới mục tiêu và uyển chuyển trong khi vẫn cho phép giữ một mức biểu lộ tình cảm hợp lý. Vì vậy điều hữu ích đối với các nhà tham vấn là giúp trẻ em học các chiến lược nhận thức để đánh giá các biến cố gây căng thẳng và tìm ra những cách đáp ứng có thể đưa tới kết quả tích cực. 4.2. Cần đáp ứng tức khắc với sự căng thẳng Phương cách thích nghi nhất đối với các cá nhân để xử lý sự căng thẳng là phải giải quyết những kết quả tâm lý và tình cảm càng sớm càng tốt sau khi sự kiện căng thẳng xảy ra. Khi trẻ em không thể ứng phó hữu hiệu với các sự kiện căng thẳng, thì sự giúp đỡ của các nhà tham vấn có thể hiệu quả nhất nếu được đưa ra vào thời điểm sớm nhất. 5. Sự phát triển tính rối loạn tâm lý như là cách đáp ứng với sự căng thẳng Simeonsson (1994) đưa ra nhiều nghiên cứu ước lượng rằng từ 15 đến 18 phần trăm trẻ em và trẻ em với các rối loạn về hành vi là do nguồn gốc tâm lý. Các rối loạn này phần lớn có thể là rối loạn bên trong và bên ngoài. Các rối loạn hướng nội biểu lộ bằng sự thu mình về xã hội, cảm thấy cô đơn, trầm cảm và âu lo. Trái lại, các rối loạn hướng ngoại biểu lộ bằng các hành vi như hành động bùng phát, gây hấn, hoạt động thái quá và các hành vi khác tiêu biểu cho sự rối loạn hạnh kiểm. Khi trẻ em không thể đáp ứng thích nghi với những nhân tố gây căng thẳng, có thể bệnh lý sẽ phát triển. Vì vậy điều quan trọng các nhà tham vấn phân biệt được giữa các trẻ em biết sử dụng các quá trình ứng phó thích nghi và các trẻ em sử dụng các cơ chế phòng vệ không thích hợp để tránh đối mặt với các nhân tố gây căng thẳng. Một số các rối loạn tâm lý : · Trầm cảm · Các rối loạn âu lo · Hành vi và ý tưởng tự tử · Các dấu hiệu ban đầu của sự phát triển chứng loạn tinh thần · Rối loạn căng thẳng sau chấn thương Các nhà tham vấn cần có thể nhận biết các triệu chứng rối loạn căng thẳng hậu chấn thương để có thể đưa ra cách trị liệu và quản lý cần thiết. 5.1. Trầm cảm Trầm cảm được biểu lộ bằng trạng thái suy kém rõ ràng với sự mất quan tâm hoặc vui thú trong các hoạt động vui vẻ bình thường. Chứng trầm cảm có thể ở dạng nhẹ, vừa phải hoặc trầm trọng, như mô tả dưới đây (Tổ chức Y tế Thế giới, 1994) - Trầm cảm nhẹ : Cần có cố gắng để làm các việc bình thường hàng ngày. - Trầm cảm vừa : Liên quan đến sự giảm sút trong hoạt động xã hội và phải nghề nghiệp. Chứng trầm cảm cản trở cá nhân làm các 20
  21. việc cần phải làm. - Trầm cảm nặng : Cho thấy sự sút giảm đáng kể trong hoạt động xã hội và nghề nghiệp và có thể gồm cả các triệu chứng như huyễn tưởng hoặc ảo giác. Hầu như thỉnh thoảng ai cũng có trải qua sự trầm cảm. Tuy nhiên, bệnh tâm thần bao gồm một thời kỳ trầm cảm nặng có thể phân biệt với sự trầm cảm bình thường do tính trầm trọng, liên tục và kéo dài (Tổ chức Y tế Thế giới, 1997). Chứng loạn nhịp sống (dysthymia) là một dạng trầm cảm nhẹ nhưng liên tục, gồm những thời kỳ dài, ít nhất hai năm, trong thời gian đó cá nhân ở trong trạng thái trầm cảm, mất hứng thú và năng lực rút lui khỏi xã hội, trí nhớ và tập trung kém, cảm thấy bất xứng, lòng tự trọng kém, phạm tội, hờn giận, thất vọng, cau có và chán nản. Bệnh loạn nhịp tác động tới hoạt động nghề nghiệp và xã hội, và các cá nhân bị bệnh loạn nhịp trải qua những thời kỳ trầm cảm nặng trong quá trình rối loạn nhịp sống. Trẻ em cho thấy có mức độ tương đối thấp về trầm cảm. Tuy nhiên, phần lớn trẻ em thỉnh thoảng có trải qua trầm cảm, như là một phần đời sống bình thường của các em và do đó các em càng có mối nguy phát triển chứng trầm cảm ở những mức độ nặng hơn. Thường thì sự cô đơn và rút lui khỏi xã hội là dấu hiệu báo trước những rối loạn trầm cảm ở trẻ em (Simeonsson, 1994). Chứng trầm cảm ở tuổi trẻ em có thể là do những tình huống và những xáo trộn rất đa dạng như sau : · một chuỗi kinh nghiệm về mất mát · lịch sử ly thân và/hoặc ly dị của cha mẹ · một loạt những chuyển dời, có lẽ gồm cả sự rời xa những người đáng tin cậy · cái chết của người thân, bạn bè hoặc thú nuôi · nhận được sự ủng hộ tích cực ở mức độ thấp · không thể thoát khỏi sự trừng phạt Sự trầm cảm cũng có thể là kết quả của những ý nghĩa tiêu cực. Những ý nghĩa này có thể bao gồm cái nhìn tiêu cực về bản thân, những diễn dịch tiêu cực về các kinh nghiệm riêng và những quan điểm tiêu cực về tương lai. Trẻ em ứng phó với chứng trầm cảm bằng rất nhiều cách. Một số trẻ em có thể trốn chạy khỏi gia đình. Một số, đặc biệt là các em trai, biểu lộ cảm nghĩ bằng những hành vi hướng ngoại và có thể hành động quá khích. Các em gái thường biểu lộ sự trầm cảm theo cách hướng nội, băn khoăn và/hoặc trở nên lo lắng. 5.2. Các rối loạn do lo lắng Ai cũng có lúc lo lắng và lo lắng có thể hữu ích. Những mức độ lo lắng tương đối cao có thể hữu ích khi nó gắn liền với những đòi hỏi của hoàn cảnh. Chẳng hạn như trong môn bóng đá, trong cuộc thi hoặc phỏng vấn xin việc làm sự lo lắng có thể 21
  22. giúp làm tăng tính nhạy bén và thể hiện tốt. Tiếc thay, mức độ lo lắng quá cao có thể làm giảm năng lực thể hiện. Lâm bệnh rối loạn lo lắng không phải chỉ là do quá lo. Các cá nhân bị rối loạn lo lắng phải chịu đựng những mức lo lắng thấm sâu hơn những lo lắng thường nếm trải trong đời sống bình thường. Sự rối loạn thường có những hậu quả xã hội đối với người có những mối quan hệ suy giảm. Trẻ em trải qua rối loạn lo lắng tổng quát có thể cho thấy các triệu chứng nôn nóng, bất an, phiền muộn, mất ngủ, kém tập trung, đi tiểu thường, trạng thái kích động, trạng thái trầm cảm, trí tuệ yếu, choáng váng, căng cơ bắp hoặc dễ bị mệt. Các trẻ em bị rối loạn lo lắng tổng quát thường có thêm sự rối loạn lo lắng như sợ sự thật hoặc sợ xã hội. Bệnh sợ xã hội biểu hiện bằng sự lo lắng rõ rệt khi gặp những hoàn cảnh xã hội hoặc hành động nhất định. Sự rối loạn này thường dẫn tới những hành vi né tránh. Bệnh sợ cụ thể biểu hiện bằng nỗi sợ liên tục và vô lý vào một hoàn cảnh hoặc một sự vật riêng biệt, và cũng có thể dẫn tới những hành vi né tránh. Với bệnh rối loạn ám ảnh bắt buộc các cá nhân có thể vướng những ý nghĩ không vui và xâm phạm khó kiểm soát được. Chẳng hạn như các em có thể bị ám ảnh quan tâm đến sự lây nhiễm hoặc nguy hiểm cho bản thân hoặc cho gia đình mình. Những ý tưởng ám ảnh thường dẫn tới hành động lặp lại một cách bắt buộc và không kiểm soát được, chẳng hạn như lau chùi, kiểm tra hoặc đếm lặp đi lặp lại. 5.3. Những hành vi và ý tưởng tự tử Việc một trẻ em nghĩ về tự tử như là một khả năng, và/hoặc chọn sự tự tử, sẽ tùy nơi nguồn lực và kiểu ứng phó riêng của em ấy. Đặc biệt các trẻ em mắc bệnh chán nản dễ nhiễm ý định tự tử. Các em ấy có vẻ dễ tự tử hơn các trẻ em mắc các bệnh tâm thần hoặc bệnh thông thường khác (Tổ chức Y tế Thế giới, 1997). Các trẻ em chọn tự tử như giải pháp ứng phó rõ ràng là bị xáo trộn tâm lý trầm trọng. Đối với nhiều em, đây có thể là hậu quả của căng thẳng, lo lắng và trầm cảm. Đối với một số em khác, điều này có thể liên quan đến bệnh tâm thần hoặc do hậu quả của nghiện ma túy. Các trẻ em toan tự tử thường bộc lộ một số các đặc tính sau đây : 1. Các em có vẻ đầu tư quá mức vào một số rất ít nhưng rất mạnh trong các mối quan hệ liên cá nhân. 2. Các em như muốn biểu lộ cảm nghĩ bối rối của mình bằng hành vi nhiều hơn bằng lời nói. 3. Các em thấy như mình không thể kiểm soát môi trường của mình và có nguy cơ toan tự tử nhiều hơn các trẻ em kiểm soát được môi trường. 4. Các em bộc lộ mức độ thất vọng cao và tin rằng sự việc sẽ không trở nên tốt hơn. Các em có xu hướng phản ứng quá mức với hoàn cảnh và có thể là quá nhạy cảm. Tự tử thường liên hệ rất nhiều với những vấn đề như : 22
  23. · Vấn đề gia đình, đặc biệt là với các vấn đề đe dọa sự ổn định của gia đình. · Khiếm khuyết nghiêm trọng về giao tiếp giữa cha mẹ với trẻ em. · Những vấn đề về liên hệ với bạn cùng lứa tuổi. · Không có bạn, không thuộc vào một nhóm nào. · Không thể sống theo những kỳ vọng cao của cha mẹ hoặc những người khác. 5.4. Những dấu hiệu ban đầu của sự phát triển bệnh tâm thần Chứng loạn thần kinh có thể chia ra làm ba thời kỳ : thời kỳ báo trước, thời kỳ hoạt động và thời kỳ di chứng. Rõ ràng là sẽ tốt nhất cho thân chủ nếu các nhà tham vấn có thể nhận biết các triệu chứng trong thời kỳ báo trước để có thể chữa trị ngay trong giai đoạn đầu. 1. Thời kỳ báo trước : Thời kỳ này diễn ra trong 2 tuần hoặc 2 tháng trước khi có những triệu chứng ban đầu của bệnh loạn thần kinh. Trong thời kỳ này, thông thường có một số triệu chứng không cụ thể diễn ra, đặc biệt là ở giới trẻ. Các triệu chứng này gồm có : mất hứng thú tổng quát, tránh giao tiếp xã hội, tránh làm việc hoặc học tập (chẳng hạn như bỏ học ở trường trung học hoặc đại học), dễ bực tức và quá nhạy cảm, có những niềm tin kỳ dị (chẳng hạn như mê tín hoặc tin phép thần kỳ), và dính líu vào các hành vi lạ lùng (chẳng hạn như nói với chính mình ở chỗ đông người). Điều cần nhận biết là nhiều trẻ em bình thường cũng biểu lộ một số các triệu chứng được mô tả về bệnh loạn thần kinh thời kỳ báo trước khiến cho khó đánh giá chính xác. Tuy nhiên, điều quan trọng là các nhà tham vấn cần cảnh giác về khả năng có bệnh loạn thần kinh nơi giới trẻ và khi có sự nghi ngờ thì nên chuyển thân chủ đi xem xét sức khỏe tâm thần. 2. Thời kỳ hoạt động : Trong thời kỳ hoạt động của bệnh loạn thần kinh, các triệu chứng tâm thần như ảo giáo, hành vi kỳ dị và huyễn tưởng là nổi bật và thường kèm theo sự bộc lộ những tình cảm mạnh như buồn phiền, lo lắng, trầm cảm và sợ sệt. Nếu không chữa trị, thời kỳ hoạt động sẽ tự nhiên dứt hoặc có thể tiếp tục vô hạn định. 3. Thời kỳ di chứng : Thời kỳ hoạt động thường nối tiếp bằng thời kỳ di chứng. Thời kỳ di chứng giống như thời kỳ báo trước với các triệu chứng tâm thần ít kèm theo sự biểu lộ tình cảm mạnh. Một loại rối loạn tâm thần khác có thể có ở tuổi trẻ em là Sự chú ý kém . Sự chú ý kém là một triệu chứng chính của ADHA (Attention – deficit hyperactivity Disorder. Rối loạn hiếu động thái quá – sự chú ý kém). Những khó khăn trong chú ý có thể thể hiện dưới nhiều hình thức : 1. Trục trặc trong định hướng đến nguồn kích thích. 2. Không phát hiện được nguồn kích thích. 3. Đáp ứng với những khía cạnh sai lệch của một nguồn kích thích hoặc toàn bộ nguồn kích thích không phù hợp. 4. Không duy trì được sự chú ý vào một công việc thích hợp khi cố gắng kềm chế sự đáp ứng về một việc không phù hợp. 23
  24. Tại nhà : không hoàn thành việc vặt trong nhà, bài làm tại nhà, không nghe lời hướng dẫn, chơi trong thời gian lâu không có người trong nom. Tại lớp học : vấn đề khi dự lớp và làm bài trong lớp, trẻ thường lo ra bởi chuyện khác (như trẻ khác chơi gì, cái gì xảy ra bên ngoài cửa sổ ) Ghi chú : trẻ lo ra có khi do yếu tố môi trường kích thích, do yếu tố thể chất (như mệt mõi, bệnh), do rối loạn tính khí như phiền muộn, chậm phát triển tâm thần . Tính bốc đồng. Tính bốc đồng hay thiếu kềm chế được thể hiện dưới nhiều hình thức; 1. Đáp ứng nhanh, với nhiều sai sót. 2. Không ngừng suy nghĩ về những hậu quả của hành động của mình, đặt trẻ vào những tình huống nguy hiểm. 3. Khó đánh giá hết mọi khía cạnh hướng dẫn cung cấp cho trẻ. 4. Xu hướng đáp ứng một cách gây hấn khi bị ức chế hoặc tình cảm bị người khác làm tổn thương. 5. Không quan tâm đến ảnh hưởng của hành động của mình lên người khác. 6. Những hành động đó làm cho người khác thường đánh giá trẻ thiếu trưởng thành và trẻ bốc đồng thường hay bị phạt nhiều hơn trẻ bình thường khác. Hiếu động thái quá. Hiếu động thái quá cũng là đặc tính của ADHD. Hình ảnh là “dài trong vận động, ngắn trong kiềm chế” (Loney, 1980) , nói một cách khác, luôn di động, không chú ý đến các quy định, hướng dẫn. Tính này thường không phù hợp với cấu trúc và mục tiêu của lớp học. Tính hiếu động thường được xem là vấn đề khi trẻ ở trong một môi trường có giới hạn đòi hỏi sự tập trung (như lớp học). Nguyên nhân : · Yếu tố sinh học : não phát triển không bình thường hoặc bị tổn thương, đường dẫn dây thần kinh không bình thường, thần kinh chưa phát triển tốt, di truyền. · Yếu tố môi trường : chất độc như sơn, khói xe ô -tô, thức ăn chế biến có màu thực phẩm, đường hoá học. · Yếu tố khác : Người mẹ hút thuốc hay nghiện rượu khi mang thai. · Yếu tố tâm lý: các nguyên tắc mâu thuẩn trong gia đình, bị trừng phạt nhiều, cha mẹ ra lệnh quá đáng, bị mắng thường xuyên. Phiền muộn. Năm 1946, Spitz (1946) có mô tả tình trạng phiền muộn của trẻ (6 - 12 tháng tuổi) trong cơ sở tập trung trong thời gian dài xa cha mẹ với các triệu chứng như khóc, tránh né, hờ hững, giảm cân, ngủ không yên giấc. Khi xa cha mẹ, trẻ thường biểu hiện : 1. Chống đối : trẻ rất khó chịu, la hét khi gặp lại cha mẹ. 2. Thất vọng : thất vọng khi gặp lai cha me, im lặng, tránh né. 3. Thờ ơ ; Trẻ có vẻ khắc phục sự mất mát và trở nên đáp ứng, hoà nhập trở lại. Tuy nhiên, trẻ không còn mong chờ ở cha mẹ nữa và có thể quên họ khi họ trở lại. Hetherington và Martin (1972) mô tả như sau : trước hết trẻ la hét, chống đối đòi cha mẹ, tỏ ra hiếu động. Sau một tuần, trẻ giảm sự chống đối, tỏ sự thất vọng phiền muộn, tránh hé, không đáp ứng với ai, không quan tâm đến bên ngoài, khóc thút thít rên rĩ. 24
  25. 1. Phiền muộn thời thơ ấu . May mắn là trẻ giữa tuổi biết đi đến tuổi vị thành niên ít có triệu chứng phiền muộn. Trong một nghiên cứu, chỉ có 1,4/1000 trẻ tuổi 10 - 12 được phát hiện rối loạn phiền muộn. Có một lý do như sau; 1. Tự báo cáo : một giải thích tại sao trẻ khó xác định là phiền muộn vì trẻ không có khả năng biết đó là gì và nói lên cảm nhận của mình. Cha mẹ và cô giáo khó mà nhận diện phiền muộn nặng nề ở trẻ (trường hợp trẻ tự tử). 2. Phiền muộn được che giấu : Người khác cho rằng chỉ nhận biết phiền muộn của trẻ qua hành vi và cách thể hiện khác với người lớn khi phiền muộn. Giả thuyết cho rằng trẻ che giấu phiền muộn của mình không như cách của người lớn, trẻ che dấu bằng cách gây hấn, hiếu động, đái dầm, học kém, bệnh tâm thể và phạm pháp. Che dấu phiền muộn đưa đến những hành vi công khai đó, có lẽ vì trẻ khó mà chịu đựng trong thời gian dài và hướng mối quan tâm của mình và các hoạt động khác. 3. Bối cảnh tâm lý phát triển: một lý do phiền muộn khác được xác định là do bản chất của tuổi ấu thơ. Lúc ấy có nhiều thay đổi ở trẻ, hành vi và tâm khí của trẻ rất mong manh và dễ thay đổi, có xu hướng nhất thời và đáp ứng với môi trường . 2. Phiền muộn ở tuổi vị thành niên. Ở tuổi vị thành niên, phiền muộn lại thường có. Lý do như sau: 1. Tuổi có nhiều điều mơ hồ : mối ràng buộc quá khứ không còn, một hình ảnh mới của cái Tôi được hình thành, không như trẻ con mà cũng chẳng phải như người lớn. 2. Đảm nhận thêm những vai trò mới và áp lực phải hoàn thành nó, tất nhiên mâu thuẩn giữa các vai trò. Điều này đưa đến cảm giác bất lực, hỗ thẹn và tội lỗi. Vấn đề này liên quan đến số nghiện rượu và nghiện ma túy gia tăng ở giới trẻ. 3. Tuổi dậy thì : triệu chứng phiền muộn có liên quan đến sự thay đổi của các kích thích tố khi mà các kích thích tố này đóng vai trò trong vấn đề tình cảm (nữ cảm thấy phiền muộn hơn khi uống thuốc ngừa thai, điều hoà kinh nguyệt) . 4. Kinh nghiệm thiếu sự giúp đỡ : Khi trẻ lớn, sự giúp đỡ của người lớn giảm dần. Triệu chứng của kinh nghiệm thiếu sự giúp đỡ cũng giống như triệu chứng của phiền muộn. Trẻ lớn lên trong hỗn độn, bị ép buộc, và trải qua một thời gian trong thế giới mơ hồ, thành công hoặc thất bại đều có ảnh hưởng trên giới đó. 5. Phát triển nhận thức : Trẻ vị thành niên đang trong giai đoạn phát triển nhận thức trừu tượng, những suy nghĩ đặt giả thuyết. Những suy nghĩ trừu tượng đưa đến khả năng đặt câu hỏi về ý nghĩa của cuộc sống. Nói chung, trẻ vị thành niên có khả năng bày tỏ, nhận diện vấn đề và có kinh nghiệm hơn trước về các hình thức phiền muộn. Bài đọc thêm : Rối loạn hành vi ở thanh thiếu niên 25
  26. Các hành vi xâm phạm, bạo lực, gây thương tích cho người khác, phá phách, càn quấy, chống đối, nghiện ngập nếu lặp lại hoặc kéo dài ít nhất 6 tháng ở thanh thiếu niên thì có thể coi là rối loạn hành vi. Nguyên nhân là trẻ bắt chước hành vi xâm phạm và ngược đãi của người lớn (cha mẹ, anh chị ) đối với trẻ hoặc hành vi ngỗ ngược, phá phách của nhóm trẻ em xấu khác. Ảnh hưởng của phim ảnh, sách báo bạo lực cũng là nguyên nhân trực tiếp gây nên rối loạn hành vi ở trẻ. Nhiều khi, rối loạn hành vi còn là phản ứng của trẻ đối với hoạt động của bản thân và các bậc phụ huynh trước cuộc sống nhiều căng thẳng. Rối loạn hành vi thường tiến triển thành mạn tính đối với những trường hợp nặng. Những trường hợp nhẹ nếu được giáo dục tốt sẽ thuyên giảm và hết. - Điều trị - Liệu pháp gia đình: Trẻ có biểu hiện rối loạn hành vi nặng thường có những vấn đề về gia đình. Vì vậy, cần tìm hiểu rõ nguyên nhân để "điều chỉnh", lập lại trật tự trong gia đình trước khi giải quyết các rối loạn hành vi ở trẻ. Đây là liệu pháp chủ yếu đối với trẻ bị rối loạn hành vi. - Liệu pháp hành vi: Sự tham gia tạo dựng môi trường gia đình tích cực của bố mẹ và những người thân trong gia đình đóng một vai trò quan trọng trong việc ổn định hành vi cho trẻ. Cần tạo cho gia đình một môi trường ấm cúng, hòa thuận, kiểm soát được hành vi của trẻ. Đây là liệu pháp có ý nghĩa quan trọng trong rối loạn hành vi thể nặng. - Liệu pháp hóa dược: Liệu pháp này không có ý nghĩa nhiều trong việc điều trị rối loạn hành vi, ngoại trừ có bệnh động kinh kết hợp, cần phải dùng thuốc kháng sinh động kinh. Một số trung tâm điều trị có thể cho sử dụng thuốc an thần. Điều quan trọng là tránh tạo cho trẻ và gia đình quan niệm thuốc có thể giải quyết được rối loạn hành vi. Theo BS Gia đình trên Internet TÀI LIỆU THAM KHẢO THÊM : 1. Chứng suy nhược Sự suy nhược của những đứa trẻ thường rất khó nhận ra. Tại sao chỉ những người lớn mới có sự sáng suốt nhận ra rằng mình sắp “quỵ” vì mệt mỏi? Những đứa trẻ cũng suy yếu chứ! Sự suy nhược của trẻ không bộc lộ như của người lớn nên các bậc cha mẹ khó có thể nhận ra được. Những đứa trẻ suy nhược không quan tâm đến sự động viên hay những trò chơi được đề nghị cho mình. Chúng có cái nhìn vô hồn, từ chối vui đùa, cười nói. Việc đạt được tư thế ngồi, tư thế đứng, cũng như việc nói được bị đình trệ lại chậm hơn những đứa trẻ bình thường. 26
  27. Có tác giả đã diễn tả một tình trạng suy nhược của trẻ và gọi là “suy nhược nương tựa”. Đứa trẻ có nhu cầu để phát triển nơi nương tựa vào người mẹ hay người trực tiếp nuôi dưỡng mình thay thế cho mẹ. Sự suy nhược này có thể gây thương tổn cho những đứa trẻ phải sống xa mẹ trong lúc mới được 6 – 8 tháng tuổi. Gương mặt của chúng không biểu lộ cảm xúc nào, chúng nằm ngủ trong tư thế nằm sấp, đập đầu vào song giường hay bứt tóc mình. Người ta ghi nhận có một sự đình trệ về sự tăng trưởng chiều cao hay trọng lượng của chúng. Trẻ có thể trở nên buồn bã từ vài tuần trước, khóc rưng rức, mệt mỏi, khép kín, biếng ăn, không có khả năng tìm được giấc ngủ hoặc lại ngủ triền miên, lo âu, than thở về những cơn đau đầu hay đau bụng. Chẳng có gì làm cho chúng vui thích, chúng cũng chẳng thèm vui đùa nữa. Năng lực của chúng có thể dần dần giảm: một số đứa bé không còn biết tự làm vệ sinh, dọn bàn ăn, chuẩn bị cặp sách của mình, có khi chúng từ chối đi học; những đứa khác còn có những biểu hiện đặc thù (không an tâm, lo lắng, giận dữ, thô bạo - hoặc ngược lại). Chúng có thể có những sinh hoạt tự kích thích dục tính của mình lập đi lập lại nhiều lần qua việc mày mò cơ quan sinh thực. Chúng có thể có những biểu hiện của những cơn tiêu chảy, hắc lào, chàm hay hen suyễn là những xáo trộn làm cho tinh thần bị kích động nặng nề thêm. Kết quả học tập của chúng tất nhiên là tụt hậu và chúng thường than phiền là không thể làm gì được. Sự suy nhược có thể liên quan với một sự thất vọng (thất bại trong học vấn hay thất vọng trong tình cảm), một vấn đề sức khoẻ, một sự thay đổi môi trường sống, thay đổi người chăm sóc, thay đổi trường lớp, sự ly hôn của cha mẹ, sự xa cách, sự suy nhược của người cha hay người mẹ Đôi khi không có một lý do thật sự nào được nhận thấy. Đứa trẻ bị suy nhược, cũng giống như người lớn bỏ mặc, buông xuôi và hững hờ với tất cả những sự giúp đỡ làm cho tình trạng của chúng càng thêm trầm trọng. Việc trị liệu của chứng suy nhược rất cấp bách. Công việc điều trị tăng gấp đôi với liệu pháp tâm lý bù trừ với cách điều trị bằng dược phẩm. (Tư liệu) 2. Những biểu hiện lạ Bạn có bao giờ giật mình vì đột nhiên con bạn có những thay đổi hoàn toàn về mặt tâm lý? Có thể do bạn quá bận rộn với công việc mà sao nhãng việc chăm sóc đứa con bé nhỏ. Đứa bé bỗng trở nên ngỗ nghịch, hư đốn hoặc lầm lì khác thường. Vì sao bé trầm uất, lầm lì? Nếu thấy con bạn có những biểu hiện, hành động khác lạ sau đây, bạn nên kiểm tra lại xem tâm lý của bé co gì bất ổn không? • Mặt lầm lì, quàu quạu, chẳng nói chẳng cười. Bé cũng chẳng nhõng nhẽo. Không nói chuyện với bố mẹ như thường ngày. • Ở trường học, bé không chơi đùa với các bạn mà hay ngồi lì một chỗ, không phát biểu ý kiến, không hứng thú trong giờ học. • Ở nhà, bé chỉ làm mỗi một việc như xem ti vi cả tối. Hoặc có bé ngồi vào bàn học miệt mài suốt buổi mà không chú ý đến cha mẹ, anh chị em. Giải pháp tạm thời: Đó là hiện tượng trầm uất ở trẻ em. Trong trường hợp này, bạn nên tạo tâm lý thoải mái cho bé bằng những biện pháp gợi ý như sau: • Cha mẹ nên gần gũi, vỗ về bé. Những cử chỉ nhẹ nhàng, dịu dàng, thái độ ân cần, âu yếm sẽ làm dịu bớt những tổn thương trong lòng của bé. 27
  28. • Đưa bé hòa nhập trở lại với bạn bè bằng cách đơn giản như: rủ bạn đến nhà học nhóm, ôn bài. Bố mẹ cùng tham gia các trò chơi với bé như chơi nhà chòi, bán đồ hàng, chơi búp bê với bé gái. Chơi đánh trận, tập đánh cờ tướng với bé trai. • Ban đầu, có thể bé sẽ không mấy hưởng ứng, nhưng bạn cần hết sức kiên nhẫn để khuyên nhủ, chăm sóc bé. Vì sao bé lại ngỗ nghịch và nổi loạn ? Trái với trường hợp trên, bé lại tỏ ra rất cứng đầu. Nó cương quyết không vâng lời cha mẹ. Đòn roi chỉ làm nó thêm xa lánh, và càng “đối đầu” với bạn hơn. • Đôi khi, bé còn tỏ ý từ chối quyết liệt sự chăm sóc của bạn. Nó tự làm tất cả mọi việc, dù bạn tỏ ý muốn giúp nó. • Làm ngược lại những điều cha mẹ khuyên bảo. Giải pháp tạm thời • Trước tiên, bạn phải chiều theo ý con trẻ. Không dùng roi vọt, la mắng bé nữa. • Đáp ứng những “yêu sách” nhỏ để tìm xem bé nổi loạn vì lý do nào. Nên đưa bé đi làm trắc nghiệm: Nếu tất cả phương pháp trên đều không có kết quả, bạn vẫn còn một cách: Đưa bé đến gặp chuyên gia tâm lý. • Chuyên gia sẽ cho bé làm những ca trắc nghiệm nhỏ. Từ đó, bạn sẽ giải đáp được những thắc mắc của mình. • Bé có thể được trắc nghiệm bằng một trong các thể loại như: trí tuệ, rối nhiễu tâm tính, tổng quát, hướng nghiệp. • Làm việc với các chuyên gia, bạn sẽ thấy nhẹ nhõm hơn. Chuyên gia sẽ đưa ra những nhận xét, hướng dẫn giúp bố mẹ hiểu con mình hơn. Từ đấy, bố mẹ sẽ bớt lo lắng bởi những biểu hiện khác thường của con. • Bố mẹ sẽ yên tâm tìm ra phương pháp dạy con phù hợp nhất. Bạn thấy đấy, con trẻ thật đáng yêu nhưng mỗi đứa trẻ là cả một thế giới bí ẩn mà người lớn không dễ gì khám phá.Cuộc sống quá bận rộn, bố mẹ khó chăm sóc con cái chu đáo. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, bố mẹ nên đích danh đưa đón con đi học. Dù bố mẹ vất vả hơn nhưng vẫn đảm bảo được an toàn cho trẻ, vừa tạo tình thân đặc biệt giữa bố mẹ và con cái. 4. Tâm lý trẻ khi cha mẹ ly hôn Cha mẹ bất hoà luôn luôn ảnh hưởng đến sự phát triển của đứa trẻ về mặt tâm lý. Sự bất hoà của cha mẹ kéo theo nhiều hư hại nơi bản thân đứa trẻ. Những cảnh cãi vã nhau, những câu chì chiết, những câu chửi hay những lần đánh nhau trước mặt trẻ lúc nào cũng có hại chứ không được một lợi lộc nào. Sự bùng nổ bất hoà trong gia đình là một đề tài của sự lo âu đối với đứa trẻ: không biết người ta còn lo cho mình nữa không? Ai sẽ là người đảm trách việc này? Đứa trẻ tự cảm thấy bị đẩy đưa trong một không khí bất an nơi mà người ta coi chúng như là một vật bung xung để tranh dành tình cảm và quyền lợi tài chính để có được một số quyền hạn thăm viếng hay trợ cấp để nuôi chúng. Cha mẹ hiềm khích nhau trong quan điểm giáo dục con mình, người này phê bình quan điểm người kia, rồi phủ lên trẻ những phương pháp giáo dục riêng của mình; hay trái lại một người đóng vai làm người tốt trong sự nhượng bộ để cho đứa trẻ có cảm giác rằng nó đã bị người đó bỏ rơi nó. 28
  29. Sự thích nghi với một hoàn cảnh mới là một điều mà đứa trẻ phải được thuyết phục. Tình anh em phải bị chia xẻ, chọn lựa một trong hai người cha hoặc mẹ, thường là người không rời xa gia đình. Nhưng đôi khi chính người vắng mặt là người được người ta lý tưởng hoá nhiều nhất. Trong tất cả các trường hợp, cha mẹ phải giải thích rõ ràng cho trẻ biết hoàn cảnh sắp đến với gia đình, không nên im lặng theo điều mình tự nhủ “rồi đứa trẻ sẽ nhận ra”. Họ cần phải nói chuyện, trấn an, giải thích cho trẻ là sẽ chẳng bỏ rơi chúng, tương lai của chúng luôn được đảm bảo và định rõ chúng sẽ sống với ai. Sau cùng chúng phải được bảo đảm rằng chúng không có một chút trách nhiệm nào trong việc ly hôn của cha mẹ. Những gì tự nhiên đối với cha mẹ là không tự nhiên đối với đứa trẻ, cũng như nhiều sự bất đồng của cha mẹ có khởi điểm là những vấn đề giáo dục. Những cuộc nghiên cứu về các vấn đề có liên quan đến trẻ em trong gia đình xảy ra tình trạng ly hôn đã đuợc ghi nhận rằng các khó khăn về tâm lý của chúng tự nó dịu đi trong thời hạn một vài năm sau việc ly hôn. Đây là một tình cảm không được an toàn hay bị bỏ rơi, một mối lo sợ hay một mặc cảm tội lỗi. Đứa trẻ tự kết tội mình có phần nào trách nhiệm về sự chia ly của cha mẹ. Sự buồn bã, sự suy nhược, sự cách ly, sự mất ngủ, những cơn ác mộng và những nỗi sợ hãi ám ảnh ban đêm, sợ bóng tối đều có khả năng chế ngự đời sống tinh thần đứa trẻ. Kết quả học tập cũng có phần sút giảm. Các xáo trộn của tính tình cũng được ghi nhận như sự mất quân bình, sự xung đột, những cơn giận. Đôi khi đứa trẻ chuyển sự thô bạo trong gia đình sang những quan hệ xã hội, mà một số cuộc nghiên cứu đã thiết lập mối quan hệ giữa sự bất hoà của cha mẹ và thái độ không thích nghi với xã hội của những đứa con. Trong những trường hợp khác, chúng chọn thái độ của một người lớn trưởng thành sớm: chúng đảm nhận nhưng không biết chơi với những người cùng thời với chúng. Cảm giác trưởng thành sớm so với tuổi thơ ấu có thể là lý do xung đột ở tuổi vị thành niên vì đứa trẻ vượt quá giai đoạn và đã đạt được một sự tự chủ lớn, trừ phương diện tài chính. Đứa trẻ bị “lãng quên” 22/12/2004 10:55:46 PM GMT +7 Nhìn gương mặt buồn bã còn ngây dại của em T.M mà thật chạnh lòng (em được đưa vào trườn giáo dưỡng cải tạo 2 năm vì tội cướp tài sản). Tôi phải thuyết phục mãi, T.M mới chịu kể về “con đường em vào trường giáo dưỡng’’. Ba mẹ em đều là những người có quyền chức, bận liên tục với những chuyến công tác dài ngày liên lạc chủ yếu giữa ba mẹ với em chỉ là xấp tiền trên bàn học với những mấy dòng chữ dặn dò chung chung về học hành, đi lại Ngôi biệt thự ba tầng với đầy đủ tiện nghi luôn chỉ có 2 chị em T.M và người giúp việc ở nhà. Lên lớp, trước mặt bạn bè T.M luôn mặc cảm tủi thân mỗi khi bị c giáo nhắc nhở việc không mời ba mẹ đi họp phụ huynh. Nhiều lần tủi thân, T.M định bỏ nhà ra đ bụi. Rồi một hôm T.M gọi điện báo tin cho ba mẹ, em được dự thi học sinh giỏi, chờ đợi một lời khen ngợi của ba mẹ, song cả hai đều bảo: “Ừ, ba đang bận. Thôi nhé!”. T.M uất ức, lang thang tìm đến quán rượu giải sầu và ở đây em đã bị lôi kéo, kết bạn với những người không tốt. Rồi cũng từ đó T.M đã bỏ học, đi theo đám bạn mới cùng tham gia những vụ cướp mạo hiểm, em bị bắt và được đưa vào trường giáo dưỡng. Khi ba mẹ em biết được thì đã muộn. Những biểu hiện lạ Bạn có bao giờ giật mình vì đột nhiên con bạn có những thay đổi hoàn toàn về mặt tâm lý? Có thể do bạn quá bận rộn với công việc mà sao nhãng việc chăm sóc đứa con bé nhỏ. Đứa bé bỗng trở nên ngỗ nghịch, hư đốn hoặc lầm lì khác thường. 29
  30. Vì sao bé trầm uất, lầm lì? Nếu thấy con bạn có những biểu hiện, hành động khác lạ sau đây, bạn nên kiểm tra lại xem tâm lý của bé co gì bất ổn không? Mặt lầm lì, quàu quạu, chẳng nói chẳng cười. Bé cũng chẳng nhõng nhẽo. Không nói chuyện với bố mẹ như thường ngày. Ở trường học, bé không chơi đùa với các bạn mà hay ngồi lì một chỗ, không phát biểu ý kiến, không hứng thú trong giờ học. Ở nhà, bé chỉ làm mỗi một việc như xem ti vi cả tối. Hoặc có bé ngồi vào bàn học miệt mài suốt buổi mà không chú ý đến cha mẹ, anh chị em. Giải pháp tạm thời: Đó là hiện tượng trầm uất ở trẻ em. Trong trường hợp này, bạn nên tạo tâm lý thoải mái cho bé bằng những biện pháp gợi ý như sau: Cha mẹ nên gần gũi, vỗ về bé. Những cử chỉ nhẹ nhàng, dịu dàng, thái độ ân cần, âu yếm sẽ làm dịu bớt những tổn thương trong lòng của bé. Đưa bé hòa nhập trở lại với bạn bè bằng cách đơn giản như: rủ bạn đến nhà học nhóm, ôn bài. Bố mẹ cùng tham gia các trò chơi với bé như chơi nhà chòi, bán đồ hàng, chơi búp bê với bé gái. Chơi đánh trận, tập đánh cờ tướng với bé trai. Ban đầu, có thể bé sẽ không mấy hưởng ứng, nhưng bạn cần hết sức kiên nhẫn để khuyên nhủ, chăm sóc bé. Vì sao bé lại ngỗ nghịch và nổi loạn? Trái với trường hợp trên, bé lại tỏ ra rất cứng đầu. Nó cương quyết không vâng lời cha mẹ. Đòn roi chỉ làm nó thêm xa lánh, và càng “đối đầu” với bạn hơn. Đôi khi, bé còn tỏ ý từ chối quyết liệt sự chăm sóc của bạn. Nó tự làm tất cả mọi việc, dù bạn tỏ ý muốn giúp nó. Làm ngược lại những điều cha mẹ khuyên bảo. Giải pháp tạm thời Trước tiên, bạn phải chiều theo ý con trẻ. Không dùng roi vọt, la mắng bé nữa. Đáp ứng những “yêu sách” nhỏ để tìm xem bé nổi loạn vì lý do nào. Nên đưa bé đi làm trắc nghiệm: Nếu tất cả phương pháp trên đều không có kết quả, bạn vẫn còn một cách: Đưa bé đến gặp chuyên gia tâm lý. Chuyên gia sẽ cho bé làm những ca trắc nghiệm nhỏ. Từ đó, bạn sẽ giải đáp được những thắc mắc của mình. Bé có thể được trắc nghiệm bằng một trong các thể loại như: trí tuệ, rối nhiễu tâm tính, tổng quát, hướng nghiệp. Làm việc với các chuyên gia, bạn sẽ thấy nhẹ nhõm hơn. Chuyên gia sẽ đưa ra những nhận xét, hướng dẫn giúp bố mẹ hiểu con mình hơn. Từ đấy, bố mẹ sẽ bớt lo lắng bởi những biểu hiện khác thường của con. Bố mẹ sẽ yên tâm tìm ra phương pháp dạy con phù hợp nhất. Bạn thấy đấy, con trẻ thật đáng yêu nhưng mỗi đứa trẻ là cả một thế giới bí ẩn mà người lớn không dễ gì khám phá. Cuộc sống quá bận rộn, bố mẹ khó chăm sóc con cái chu đáo. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, bố mẹ nên đích danh đưa đón con đi học. Dù bố mẹ vất vả hơn nhưng vẫn đảm bảo được an toàn cho trẻ, vừa tạo tình thân đặc biệt giữa bố mẹ và con cái. (Internet) Bạo lực gia đình ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ 30
  31. Sự chuyển biến của nền kinh tế đất nước cùng với sự tiến bộ xã hội đã từng bước nâng cao quyền và giá trị của con người như: quyền tự do yêu đương của thanh niên, bình đẳng giới, Tuy nhiên, bên cạnh đó, bạo lực gia đình vẫn tồn tại như một hiện tượng đi ngược sự tiến bộ này và kìm hãm sự phát triển của những nét đẹp văn hoá. Trong số rất nhiều dạng bạo lực gia đình, chúng tôi tạm chia thành ba dạng bạo lực chính đó là: sự xúc phạm về thể chất, sự xúc phạm về tinh thần và sự xúc phạm về tình dục. Những dạng bạo lực này không chỉ ảnh hưởng đến bản thân người vợ hoặc chồng, phá vỡ cơ cấu gia đình mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng lên sự phát triển nhân cách của những đứa trẻ trong gia đình ấy. Hàng triệu trẻ em chứng kiến, nghe thấy và cảm nhận được bạo lực gia đình. Các em vẫn biết điều đó ngay cả khi không thật sự có mặt. Trẻ em có nhiều cảm xúc và phản ứng khác nhau với bạo lực đã chứng kiến. Đó có thể là: sợ hãi, bối rối, mặc cảm tội lỗi, bực bội, bất lực, gán cho mình trách nhiệm đã để xảy ra bạo hành, trưởng thành giả, chối bỏ thực tế, trở nên nguy hiểm, lo âu và buồn bã. Những điều này có thể biểu hiện qua hành vi bàn lùi, phô diễn, buồn nản, lo lắng, thấy ác mộng và/hoặc hung hăng, lẩn tránh, trò chuyện với ai đó, gọi cảnh sát, hay nhờ giúp đỡ. Trẻ em có thể bị nhức đầu, đau bao tử, tiêu chảy hay cảm lạnh mãn tính. Các em thường bị ăn hiếp và có thể đau khổ tại trường hoặc đối phó bằng cách trở thành kẻ ăn hiếp. Tất cả những biểu hiện về mặt nhận thức, cảm xúc và hành vi của trẻ khi phải chứng kiến bạo lực gia đình như đã nêu trên đây, đều ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển của trẻ, có thể dẫn đến sự lệch lạc về nhân cách. Cách trẻ em phản ứng để đối phó lại sự tác động này, khi chứng kiến bạo lực gia đình có thể tùy vào lứa tuổi, nhận thức, kỹ năng ứng phó, lượng thông tin có được và sự hỗ trợ của những người xung quanh. Những ảnh hưởng của bạo lực gia đình và hậu quả của nó gây ra với những đứa trẻ trong gia đình tuy ở các mức độ khác nhau, nhưng sự tổn thương tinh thần là điều không thể tránh khỏi. Trẻ em hoặc là nạn nhân trực tiếp của bạo hành hoặc bị ảnh hưởng của bạo hành dẫn đến huỷ hoại bản thân, dễ làm tổn thương mình hoặc trong khi xảy ra bạo hành. Nghiên cứu cho thấy hơn 80% trẻ em như vậy cũng tự hành hạ mình (về thể chất và/hoặc tình dục), do đó, bạo lực gia đình là dự đoán số một về việc ngược đãi trẻ em. Có thể các em muốn che chở mẹ mình và cố gắng can thiệp khi có hành hung. Có thể trẻ cũng cảm thấy có trách nhiệm đối với em mình và cố gắng che chở, chăm sóc cho chúng. Bạo lực gia đình làm tổn thương bất cứ ai sống tại đó. Khi người chồng hành hung người vợ, thì rõ ràng là người chồng ấy cũng không phải là người cha tốt của các con. Người cha ấy đã cho các con sống trong môi trường đầy hành động bạo lực và lời nói hằn học. Việc chăm sóc con cái, thương yêu hay cho quà không thể đền bù việc không cho các em có tuổi thơ an toàn và hạnh phúc. Như vậy, người cha ở đây chưa làm tròn trách nhiệm của mình và không phải là người cha thực sự biết quan tâm đến con cái. Làm gì để giúp những trẻ em vượt qua bạo lực gia đình Nên thành thật cho con trẻ biết điều gì xảy ra trong quan hệ của cha mẹ chúng. Các em hiểu về bạo lực nhiều hơn quý vị nghĩ. Một nghiên cứu nọ cho thấy 90% trẻ em biết là mẹ mình bị bạo hành. Tôn trọng hiểu biết của các em sẽ làm trẻ tin tưởng quý vị hơn. Hãy quả quyết với các con là bạo lực không phải do lỗi ở chúng. Trẻ em thường nghĩ rằng chúng là nguyên nhân bạo hành, chúng có thể bằng suy nghĩ và tình cảm: buồn khổ, thất vọng, chán trường và/hoặc biểu hiện bằng hành vi như gây gổ, phá phách, phải bỏ nhà ra đi Hãy để con mình chia sẻ cảm nhận của các em về hành vi bạo hành của người cha với người mẹ của mình. Nên lắng nghe và khuyến khích trẻ bày tỏ những lo ngại, thắc mắc, và sợ hãi. Các em thường tự hỏi tại sao giữa cha mẹ mình (hai người em thương yêu và là sản phẩm của sự thương yêu ấy) lại đánh đập, chửi mắng, hành hạ nhau. Nên cho trẻ quyền phán xét và nhìn nhận vấn đề của cha mẹ mình một cách khách quan. Bố mẹ có cái lý riêng của mình và trẻ cũng có quyền được như vậy. Cần chỉ cho trẻ thấy rằng hành vi bạo lực của người cha đối với mẹ của chúng chỉ là những toan tính sai để thể hiện quyền làm chồng và khả năng kiểm soát gia đình chứ không phải là xây dựng trong đầu trẻ hình tượng về một người cha xấu. 31
  32. Người mẹ không nên trấn an trẻ một cách giả tạo bằng cách nhận tự nhận lỗi về mình và hành vi bạo lực của người chồng đối với mình là kết quả của những lỗi lầm ấy, vì như vậy sẽ nuôi dưỡng ở trẻ những niềm tin và giá trị sai lệch với thực tế dẫn đến làm trẻ mất phương hướng. Hãy luôn nhắc nhở mình và giải thích với con trẻ rằng, bạo lực gia đình là một toan tính sai của người cha để khẳng định quyền lực của mình. Bản thân người mẹ và những đứa con không phải là người có lỗi. Sóng Hồng Ứng xử của phái nữ trước vấn đề ly thân Trước khi bước vào cuộc sống vợ chồng, ai cũng mơ ước có một mái ấm gia đình hạnh phúc, ổn định, lâu bền đến trọn đời. Không ai muốn và ít ai nghĩ đến những trục trặc làm chia lìa mối duyên tình giữa cặp uyên ương. Là giới nữ, giấc mơ đó lại càng đặc biệt quan trọng, vì những lý do gắn với những quan niệm, giá trị truyền thống còn in đậm trong đời sống tâm hồn của phái đẹp. Tuy nhiên, thực tế đời sống hôn nhân gia đình lại thường diễn ra theo một lôgíc không thuận lợi, dễ dàng như người ta hằng mơ tưởng, mà ở đó luôn có sự va chạm về mọi phương diện giữa hai con người "bằng xương, bằng thịt với những giới hạn vốn có của con người bình thường; hay nói cách khác, ở đó cặp uyên ương mới bước vào đời với tất cả những gì mơ mộng, lãng mạn của "thuở ban đầu trong tình yêu lung linh, ngọt ngào có thể sẽ vấp phải ngay "vị đắng" của "tình yêu sau hôn nhân", sẽ phải đối mặt với những "khuyết tật" của nhau vả cả những khuyết tật" của chính mình, khiến có thể dẫn đến những chỗ "gồ ghề", "lồi lõm" của hạnh phúc, trái với sự mong đợi ban đầu Và trong những khó khăn, trục trặc muôn thuở đó, chúng ta có thể tìm thấy bóng dáng của hiện tượng ly thân như một trong những vấn đề "nổi cộm" của đời sống gia đình hiện đại. Khái niệm ly thân thường được hiểu như là sự tạm dừng chung sống, đặc biệt là về phương diện "sinh hoạt thầm kín" giữa cặp vợ chổng, do những bất đồng, mâu thuẫn trong gia đình, mà thường là chưa có sự can thiệp về mặt hành chính, pháp lý từ bên ngoài, nếu như không có những sự tranh chấp, xung đột thô bạo trong gia đình. Đôi khi trong thực tế, ngời ta quan niệm ly thân một cách đơn giản, quy rút, tĩnh tại, chỉ là sự "giãn cách tạm thời chỉ là "chuyện nội bộ" giữa cặp vợ chồng khiến có thể chủ quan, mất cảnh giác trước những diễn biến âm ỉ, phức tạp cùng những hậu quả của nó đối với hạnh phúc gia đình, đặc biệt là đối với phụ nữ và trẻ em. Thực ra khái niệm ly thân bao hàm một khoảng biến thiên rất rộng lớn trong thời gian, không gian, trong những nguyên nhân dẫn đến xung đột và mức độ trầm trọng của xung đột Ly thân có thể diễn ra dưới hình thức "hờn dỗi", tạm tách giường ngủ riêng trong vài ngày rồi lại làm lành với nhau, hoặc dưới hình thức "chiến tranh lạnh" hàng tháng mới trở lại bình thường, hoặc có thể trường diễn hàng năm: Loại ly thân càng kéo dài càng khó hàn gắn và càng gần đến ly hôn hơn. Ly thân có thể diễn ra trong những không gian hoàn toàn riêng biệt như tách nhà, thuê nhà ra ở riêng theo kiểu phương Tây, hoặc vẫn chung sống dới một mái nhà, chỉ tách buồng hoặc tách giường, theo kiểu "sống chung nhưng ăn ngủ riêng, hoặc "sống chung, ăn chung nhưng ngủ riêng) Loại ly thân lâu dài dưới một mái nhà có thể dẫn đến những hậu quả nặng nề cho quan hệ vợ chồng và cho việc giáo dục con cái hơn cả ly hôn. Ly thân có thể xuất phát từ những sự hiểu nhầm, những bất đồng trong quan điểm, cách sống, những tình huống ghen tuông phản bội, những sự đối xử thô bạo với nhau Những nguyên nhân gắn với sự xúc phạm nặng nề về nhân cách thường đẩy ly thân đến đích ly hôn nhiều hơn là hàn gắn. Như vậy, khác với tình huống ly hôn là đã kết thúc trọn vẹn một bi kịch với đầy đủ cơ sở pháp lý của nó rồi, chỉ còn có giá trị đem lại bài học kinh nghiệm sai lầm cho những người khác và cho lần kết hôn khác, trong tình huống ly thân, bài học đang được mở ra và có giá trị ngay tức thì cho những người trong cuộc, vì những bất đồng, xung đột đang diễn ra theo hai chiều hướng hoàn toàn đối lập nhau: - hoặc tình huống sẽ khá lên, nhờ hai bên đều có thời gian "giãn cách nhau", "lắng lại" để xem xét, phân tích những gì đã và đang xảy ra, tìm cách tự điều chỉnh, cứu vãn hạnh phúc; - hoặc tình 32
  33. huống sẽ trở nên ngày càng trầm trọng và tiến gần đến ly hôn. Do vậy những ứng xử bình tĩnh, sáng suốt, thấu tình đạt lý của những người trong cuộc lúc này sẽ ngay lập tức quyết định số phận hạnh phúc của họ và của con cái họ. Để tránh những tổn thất, bi kịch trầm trọng trong quyết định ly thân, các chuyên gia về hôn nhân gia đình thường khuyến cáo phái nữ về những sai lầm khá phổ biến sau đây: 1. Phát động ly thân từ những lý do không xác đáng: Đây là trường hợp của những phụ nữ hay hờn dỗi từ những lý do nhỏ nhặt như từ cách ứng xử vụng về, những lời bông đùa vô tình của chồng, từ những mối nghi ngờ, ghen tuông không có bằng chứng gì . . . Có những công trình nghiên cứu cho thấy một tỷ lệ khá lớn những phụ nữ xuất thân là con gái út, vốn được cưng chiều từ nhỏ, thường hay phát động kiểu ly thân này. Cách làm của họ là hờn dỗi rồi ly thân ngắn hạn vài hôm, chờ chồng khẩn nài làm lành rồi mới thôi. Ở đây tình huống thường không trầm trọng nhưng có một xu hướng sai lầm khá nguy hiểm cho hạnh phúc gia đình là có những phụ nữ coi việc ly thân như một hình phạt mỗi khi chồng làm trái ý mình và coi chuyện "chung chăn gối" là phần thưởng dành cho chống. Hãy dè chừng, bởi đã có những bài học sai lầm về sự lạm dụng kiểu "ly thân - hờn dỗi" này, vì nó đánh vào giới hạn cuối cùng của lòng kiên nhẫn và tính tự ái của đàn ông. 2. Ly thân không tuyên bố lý do hoặc "đánh tráo" lý do: Khác với trường hợp trên, trường hợp này có thể có những lý do trục trặc rõ nét trong quan hệ vợ chồng, đáng thành vấn đề bàn bạc, nhưng trước tình huống này có những phụ nữ tỏ thái độ tức giận một cách im lặng và ngay lập tức ly thân không tuyên bố lý do tại sao. Cũng có một xu hướng khác là có giải thích cho chồng về quyết định ly thân nhưng lại không nói đúng lý do như nó vốn có, mà tìm cách "đánh tráo" lý do. Chẳng hạn như, thay cho việc nói thẳng ra rằng "vì anh cư xử như vậy" hay "vì anh có những biểu hiện như vậy mà tôi không hài lòng " thì người vợ lại nói: "Dạo này tôi mệt lắm, tôi cần yên tĩnh!"; hay tôi phải ngủ riêng với con để còn gọi nó dậy đi học buổi sáng!", hoặc thậm chí nói: "nằm cạnh anh, anh hay ngáy to, tôi ngủ không được" Nhằm biện minh cho những cách ứng xử này, những người trong cuộc thường lý giải: "không cần nói thì cũng đã rõ", "im lặng cũng là một cách tỏ thái độ", hoặc làm to chuyện sợ ảnh hưởng đến con cái" Tuy nhiên, cách ứng xử im lặng hoặc đánh tráo khái niệm" như vậy lại càng làm cho tình huống trở nên trầm trọng, vì nó chặn đứng ngay tử đầu con đường đối thoại để làm sáng tỏ vấn đề, khiến ly thân không đạt đến mục đích như mong muốn. Và ai cũng biết rằng cứ kéo dài cuộc "chiến tranh lạnh" như vậy thì mức độ bi kịch, tổn thất không đáng có sẽ đi đến đâu (!). 3. "Đóng kịch" trước con cái, giả vở như không có chuyện gì xảy ra: Đó là trường hợp ly thân giữa những cặp vợ chồng muốn cư xử lịch sự, có văn hoá. Họ giải quyết rõ ràng vấn đề ly thân, không có gì mập mờ, né tránh giữa hai người, thậm chí họ cũng thống nhất cả một kế hoạch ly thân dài hạn với qui ước mỗi người có quyền tự do cá nhân trong quan hệ với người khác giới chỉ có điều là "tất cả phải được diễn ra một cách hết sức kín đáo, tế nhị, không để cho trẻ con sớm biết những chuyện buồn của người lớn ". Và tử dụng ý tốt đẹp đó, họ cùng "ký tắt ' một bản "hợp đồng dài hạn": luôn luôn tỏ cho con cái thấy là bố mẹ vẫn sống hạnh phúc bên nhau, không có chuyện gì bất thường xảy ra cả nhưng "màn kịch giả vờ không ly thân" do những nhân vật đang phải thực sự ly thân đóng, dù có tài "dàn dựng" đến mấy cũng không lọt qua được cặp mắt tò mò và nhạy cảm của các khán giả nhỏ tuổi thường trực trong gia đình. Các công trình nghiên cứu tâm lý trẻ em cho thấy, những trường hợp bố mẹ đóng kịch như vậy thường làm tăng mức độ rối nhiễu tâm lý của trẻ trầm trọng lên rất nhiều so với trường hợp bố mẹ cho trẻ biết sự thật một cách đàng hoàng, cùng giúp cho trẻ giải quyết "mặc cảm tội lỗi" (vì khi bố mẹ có xung đột, trẻ nhỏ thường nghĩ rằng do chúng mà bố mẹ "không ổn" với nhau), cũng thể hiện tinh thần trách nhiệm với trẻ một cách cụ thể và thiết thực 4. Thiếu chủ động tìm kiếm sự hỗ trợ của pháp luật: Cũng theo lôgíc coi ly thân chỉ là "chuyện nội bộ" của cặp vợ chồng mà phái nữ thường mắc sai lầm không chủ động dự báo và chuẩn bị giải pháp ứng xử cho những tình huống gay cấn có thể xẩy ra và rất cần đến sự can thiệp của pháp luật như: sự tranh chấp về con cái, về tài sản để chuẩn bị cho ly hôn, những hành vi bạo lực mà họ thường để cho sự việc xảy ra rồi mới tìm cách giải quyết Thậm chí cũng có những phụ 33
  34. nữ lặng lẽ cam chịu một cách phi lý những sự đối xử thô bạo thường diễn trong thời kỳ ly thân với lý do là "không muốn để cho người ngoài biết", "không muốn vạch áo cho người xem lưng"; "cố gắng chịu đựng trong khi chờ đợi vấn đề được sáng tỏ" Họ không thấy rằng những cách nghĩ sai lầm như vậy vô hình chung đã tiếp tay cho những kẻ quen thói giải quyết bất động, xung đột bằng bạo lực. Thực ra trong những tình huống như vậy, chủ động tìm kiếm sự hỗ trợ của pháp luật là hoàn toàn chính đáng và cần thiết. Nó không chỉ nhằm bảo vệ nhân quyền cho phụ nữ mà còn bảo vệ quyền của trẻ em được sống và phát triển bình thường trong một bầu không khí gia đình thuận lợi, không có những xung đột, bạo lực gay gắt giữa bố mẹ Và như vậy, một lần nữa chúng ta thấy rằng giải quyết vấn đề ly thân cần một hành trang ứng xử rất rộng, từ sự kiểm tra lại độ xác đáng của quyết định ly thân, dự báo diễn biến tình hình, đến những giải pháp tổng hợp trên các phương diện tâm lý, xã hội, giáo dục và pháp luật. (Sổ tay Nữ công) Chứng suy nhược Sự suy nhược của những đứa trẻ thường rất khó nhận ra. Tại sao chỉ những người lớn mới có sự sáng suốt nhận ra rằng mình sắp “quỵ” vì mệt mỏi? Những đứa trẻ cũng suy yếu chứ! Sự suy nhược của trẻ không bộc lộ như của người lớn nên các bậc cha mẹ khó có thể nhận ra được. Những đứa trẻ suy nhược không quan tâm đến sự động viên hay những trò chơi được đề nghị cho mình. Chúng có cái nhìn vô hồn, từ chối vui đùa, cười nói. Việc đạt được tư thế ngồi, tư thế đứng, cũng như việc nói được bị đình trệ lại chậm hơn những đứa trẻ bình thường. Có tác giả đã diễn tả một tình trạng suy nhược của trẻ và gọi là “suy nhược nương tựa”. Đứa trẻ có nhu cầu để phát triển nơi nương tựa vào người mẹ hay người trực tiếp nuôi dưỡng mình thay thế cho mẹ. Sự suy nhược này có thể gây thương tổn cho những đứa trẻ phải sống xa mẹ trong lúc mới được 6 – 8 tháng tuổi. Gương mặt của chúng không biểu lộ cảm xúc nào, chúng nằm ngủ trong tư thế nằm sấp, đập đầu vào song giường hay bứt tóc mình. Người ta ghi nhận có một sự đình trệ về sự tăng trưởng chiều cao hay trọng lượng của chúng. Trẻ có thể trở nên buồn bã từ vài tuần trước, khóc rưng rức, mệt mỏi, khép kín, biếng ăn, không có khả năng tìm được giấc ngủ hoặc lại ngủ triền miên, lo âu, than thở về những cơn đau đầu hay đau bụng. Chẳng có gì làm cho chúng vui thích, chúng cũng chẳng thèm vui đùa nữa. Năng lực của chúng có thể dần dần giảm: một số đứa bé không còn biết tự làm vệ sinh, dọn bàn ăn, chuẩn bị cặp sách của mình, có khi chúng từ chối đi học; những đứa khác còn có những biểu hiện đặc thù (không an tâm, lo lắng, giận dữ, thô bạo - hoặc ngược lại). Chúng có thể có những sinh hoạt tự kích thích dục tính của mình lập đi lập lại nhiều lần qua việc mày mò cơ quan sinh thực. Chúng có thể có những biểu hiện của những cơn tiêu chảy, hắc lào, chàm hay hen suyễn là những xáo trộn làm cho tinh thần bị kích động nặng nề thêm. Kết quả học tập của chúng tất nhiên là tụt hậu và chúng thường than phiền là không thể làm gì được. Sự suy nhược có thể liên quan với một sự thất vọng (thất bại trong học vấn hay thất vọng trong tình cảm), một vấn đề sức khoẻ, một sự thay đổi môi trường sống, thay đổi người chăm sóc, thay đổi trường lớp, sự ly hôn của cha mẹ, sự xa cách, sự suy nhược của người cha hay người mẹ Đôi khi không có một lý do thật sự nào được nhận thấy. Đứa trẻ bị suy nhược, cũng giống như người lớn bỏ mặc, buông xuôi và hững hờ với tất cả những sự giúp đỡ làm cho tình trạng của chúng càng thêm trầm trọng. Việc trị liệu của chứng suy nhược rất cấp bách. Công việc điều trị tăng gấp đôi với liệu pháp tâm lý bù trừ với cách điều trị bằng dược phẩm. (Tư liệu) 36% trẻ đường phố xuất thân từ gia đình bị phá vỡ 16:17' 26/06/2003 (GMT+7) 34
  35. (VietNamNet) - Đó là con số được công bố tại Hội thảo "Gia đình với việc phát triển nhân cách của thế hệ trẻ trong xã hội" vừa mới tổ chức tại TP.HCM. Tiến sĩ Phạm Đức Quang cho biết, kết quả nghiên cứu 70 trẻ đường phố ở Hà Nội, TP.HCM, Thanh Hoá, Hải Phòng, Ninh Bình của Trung tâm nghiên cứu tâm lý trẻ em cho thấy có 25 em (36%) xuất thân từ những gia đình bị phá vỡ. Các em bỏ nhà ra đi trong trạng thái quyết định đột xuất Ông Huỳnh Công Minh - Phó Giám đốc do cãi nhau với bố, mẹ, dì ghẻ hoặc bị hắt hủi đánh Sở GD-ĐT TP.HCM cho biết, có khoảng đuổi. Các em ra đi đột xuất không có sự chuẩn bị vật 40 báo cáo và nhiều ý kiến tập trung chất nên ban đầu thường nhặt rác, ăn xin, kiếm sống, thảo luận giáo dục gia đình ở 3 nhóm: sau đó có chút vốn liếng thì đi đánh giày, bán hàng rong. gia đình-nền tảng hình thành nhân cách Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình con trẻ; gia đình và cách giáo dục trạng trẻ đường phố bị tiêm nhiễm tệ nạn xã hội, theo truyền thống; nguyên nhân và sự lệch ông Quang là do mặc cảm với số phận, chán ghét cuộc lạc trong giáo dục gia đình. Trong đó, đời, bị bạn bè rủ rê hay bị các phần tử xấu lợi dụng. các đại biểu nêu lên nhân cách con trẻ Các nhà khoa học, giáo sư, phó giáo sư đầu ngành của trong thời kỳ thị trường, công nghiệp thành phố đưa ra các biện pháp đối với các tệ nạn xã hoá, hiện đại hoá; nhấn mạnh đến gia hội như trẻ nghiện ngập, bất hạnh. Trong đó gây chú ý đình 3 thế hệ; số đông gia đình bất lực nhất là "liệu pháp can thiệp gia đình" mà bác sĩ Lâm với con cái; tính truyền thống trong gia Xuân Điền - Giám đốc Bệnh viện tâm thần TP.HCM đưa đình hiện đại; quan niệm lệch lạc của ra tại hội thảo. Ông Điền cho biết, biện pháp mới này sẽ gia đình can thiệp hệ thống gia đình, coi gia đình như một chức năng liên kết các thành viên trong xã hội. Lúc này không đổ tội cho ai mà tác động đến từng thành viên trong gia đình. Nó hỗ trợ với nhau và giúp ích cho xã hội. Dự kiến vào thánhg 7 này sẽ mở lớp "liệu pháp can thiệp gia đình". Gia đình với vấn đề giáo dục con cái Theo ông Nguyễn Phúc Ẩn - Chủ nhiệm CLB Gia đình, có không ít gia đình thất bại trong việc giáo dục con cái, góp phần tạo nên sự xung đột bất hạnh trong gia đình. Nguyên nhân dẫn đến việc này là do cha mẹ ít dành thời gian quan tâm đến con cái; sự rạn nứt, đổ vỡ hôn nhân của cha mẹ; lối sống xô bồ thực dụng xâm chiếm dần dần những giá trị truyền thống tốt đẹp của ông cha. Ông Ẩn cho biết: "Những ai đã từng nếm trải những giây phút thao thức để gặm nhấm sự đau khổ tận cùng của thảm kịch gia đình, sự bất lực trong việc dạy con, sự phũ phàng trong thiếu chung thuỷ, sự bội bạc của lòng bất hiếu - mới cảm thấy giá trị đích thực của cuộc sống là gì. Trước đây cứ mải mê leo thang (tiền tài và danh vọng) đã để lại phía sau sự tan vỡ trong quan hệ gia đình từ lúc nào mà ta không hề hay biết. Khi biết được thì đã muộn và cái giá phải trả là quá đắt, vì đã không biết đặt việc quan trọng nhất của đời người vào vị trí quan trọng. Có nhiều việc trước đây ta cho là rất quan trọng lao vào làm cho bằng được, nhưng bây giờ suy cho cùng nó chẳng ăn nhập gì với chất lượng thực sự của cuộc sống. Tất cả những việc đó là phù phiếm, nếu như những năm tháng cuối đời chúng ta không được sống trong một gia đình hạnh phúc với tình nghĩa vợ chồng sâu đậm, với những đứa con khôn lớn, trưởng thành, hiếu thảo". Khuynh hướng sai lệch trong giáo dục gia đình Tình hình xã hội hiện nay còn nhiều hiện tượng tiêu cực, lắm bất trắc Gia đình đang cần thiết là tổ ấm che chở, nâng đỡ trẻ, nhất là khi chúng vấp phải những khó khăn, lầm lỡ, rủi ro. Tuy nhiên, trong giáo dục gia đình đang có một số khuynh hướng sai lệch, đáng lo ngại. PGS-TS Mạc Văn Trang đã đưa ra một vài kiểu sai lệch trong giáo dục gia đình: Kiểu gia đình không có thời gian để quan tâm giáo dục con trẻ. Ở những gia đình này bố mẹ thường mải lo làm ăn, lo sự nghiệp Họ uỷ thác hoàn toàn việc giáo dục con cái cho ông bà, cho người giúp việc, cho trường nội trú, bán trú hoặc để mặc trẻ tự xoay sở Họ có rất nhiều lý do để không có thời gian hỏi han việc học hành, trò chuyện cùng con cái. Ngay cả họp phụ huynh học sinh ở trường, họ cũng nhờ người khác đi giúp. Cách quan tâm của họ thường là thỉnh thoảng cho con đi nhà hàng, đi chơi, cho quà, tặng tiền Kiểu gia đình quá nuông chiều con trẻ. Biểu hiện rõ nhất của nuông chiều là không dám uốn nắn sự phát triển của trẻ theo những yêu cầu chung của xã hội mà bao giờ cũng muốn con mình phải được đặc biệt "ưu tiên" hơn những trẻ khác Yêu sách của những đứa trẻ được nuông chiều là không có giới hạn, "được voi, đòi tiên" ! Khi bố mẹ không đủ sức đáp ứng những đòi hỏi quá quắt của "cục cưng" mới thấy nó sao mà vô tình, vô nghĩa. Tất cả tình yêu thương, hy vọng đặt vào bị sụp đổ. Cuộc sống gia đình khó tránh khỏi những bi kịch. Theo ông Trang quan tâm đến sự phát triển tối ưu của con trẻ là rất cần thiết, nhưng gò ép theo những kỳ vọng của người lớn là điều cần hết sức thận trọng. Có khi vì quá thúc ép cho "tài năng " sớm phát triển lại làm nó thui chột đi!. Cam Lu 35