Vai trò của âm nhạc dân gian trong việc tìm người đồng tộc của người Bố Y ở tỉnh Hà Giang

pdf 5 trang hapham 1160
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của âm nhạc dân gian trong việc tìm người đồng tộc của người Bố Y ở tỉnh Hà Giang", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfvai_tro_cua_am_nhac_dan_gian_trong_viec_tim_nguoi_dong_toc_c.pdf

Nội dung text: Vai trò của âm nhạc dân gian trong việc tìm người đồng tộc của người Bố Y ở tỉnh Hà Giang

  1. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trần Quốc Việt ___ VAI TRÒ CỦA ÂM NHẠC DÂN GIAN TRONG VIỆC TÌM NGƯỜI ĐỒNG TỘC CỦA NGƯỜI BỐ Y Ở TỈNH HÀ GIANG TRẦN QUỐC VIỆT* TÓM TẮT Khi nghiên cứu xác định thành phần dân tộc, các nhà nghiên cứu thường ít quan tâm đến âm nhạc dân gian vì cho rằng âm nhạc dân gian không có vai trò gì đối với vấn đề này. Tuy nhiên, âm nhạc dân gian và cuộc tìm người đồng tộc của nhóm người Bố Y ở tỉnh Hà Giang đã phát lộ tác dụng hỗ trợ của âm nhạc dân gian trong việc đánh giá những tương đồng về quê quán, ngôn ngữ cổ và một số đặc trưng văn hóa khác. Điều đó cho thấy vai trò tích cực của âm nhạc dân gian trong việc xác định các thành phần dân tộc. Từ khóa: Bố Y, âm nhạc dân gian, thành phần dân tộc. ABSTRACT The role of folk music in the search for people of the same family by the Bo Y ethnic group in Ha Giang province Researching to identify ethnic compositions, researchers are less interested in folk music because they think that folk music do not play any role in this matter. However, folk music and the search for people of the same family by the Bo Y ethnic group in Ha Giang province have revealed the effects of folk music in assessing the similarities of hometown, ancient language and some other cultural characteristics. This suggests some positive roles of folk music in determining the ethnic compositions. Keywords: Bo Y, folk music, ethnic compositions. 1. Mở đầu một trong những căn cứ được dùng để Bố Y là tộc người thiểu số thuộc xác định người đồng tộc của họ là âm nhóm ngữ hệ Tày – Thái, di cư từ Quý nhạc dân gian. Điều đó cho thấy âm nhạc Châu, Trung Quốc đến Việt Nam vào dân gian có một vai trò nhất định trong khoảng giữa thế kỉ XIX [2], [5]. Trong việc xác định thành phần dân tộc. quá trình di cư, một số người Bố Y đã bị Đối với các nhà nghiên cứu, những thất lạc nhau. Nhóm người Bố Y ở Hà căn cứ được dùng để xác định các thành Giang cho rằng có thể những người đồng phần một tộc người bao gồm: ngôn ngữ, tộc thất lạc của họ hiện đang sống đâu đó đặc trưng văn hóa và ý thức tự giác dân tại những tỉnh khác ở Việt Nam và mang tộc [5]. Với người Bố Y, các ông Ngũ những tộc danh không phải là Bố Y. Vì Khởi Phượng, La Tiến Tài, La Xuân vậy, các nghệ nhân và thầy cúng người Thàng (cùng là người Bố Y ở Hà Giang), Bố Y đã tổ chức một cuộc tìm người cho biết khi tìm người đồng tộc, ngoài đồng tộc ở Việt Nam. Điều đáng chú ý là ngôn ngữ và đặc trưng văn hóa, họ còn *NCS, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam; Email: puytran@yahoo.com.vn 145
  2. Ý kiến trao đổi Số 4(69) năm 2015 ___ căn cứ vào quê hương bản quán của tộc Quyết Tiến (thuộc huyện Quản Bạ, tỉnh người khi xưa ở Trung Quốc. Tuy nhiên, Hà Giang) mà chúng tôi đã tham dự, bài trong ngôn ngữ và đặc trưng văn hóa, họ cúng chỉ đường có đoạn nêu rõ tên quê cũ chỉ quan tâm tới ngôn ngữ cổ được lưu giữ là Quý Châu, đồng thời miêu tả nơi xưa trong các bài dân ca, hát cúng cổ truyền, kia tổ tiên của tang gia sinh sống là một bài hát cúng và các nghi tục riêng trong lễ làng có nhiều ruộng cấy lúa nước; rừng cúng ma. Như vậy, các căn cứ để tìm nơi đây nhiều cây to và làng cũ này nằm người đồng tộc của người Bố Y có phần liền cạnh một con sông lớn. Đoạn hát này giản đơn, cụ thể hơn so với các căn cứ xác người Bố Y gọi là san vừ, do ông La Xuân định các thành phần dân tộc của các nhà Thàng – thầy cúng người Bố Y dịch như nghiên cứu. sau: Tuy nhiên, trong quá trình giao lưu Mày tìm về Quý Châu văn hóa lâu dài với các tộc khác, những Làng mày có 12 cánh đồng lúa căn cứ dùng để xác định các thành phần Làng mày có nhiều rừng cây to dân tộc nêu trên có thể bị phai mờ hoặc Làng mày cạnh con sông nhiều thay đổi tới mức khó nhận ra. Quá trình nước nhóm người Bố Y ở Hà Giang sử dụng âm Ngoài ra, trong một bài hát giao nhạc dân gian để tìm những căn cứ đó duyên mang tên Gái hiền trai hay túm được trình bày sau đây. (dân ca Bố Y, do ông Ngũ Khởi Phượng 2. Xác định tương đồng về quê dịch) có những chi tiết trong ca từ cho hương bản quán phép xác định rõ hơn về quê quán của Qua lời ca trong một số bài hát cúng nhóm người Bố Y ở Hà Giang tại Quý và giao duyên, người Bố Y có thể xác định Châu. Chẳng hạn trong bài có hai câu hát quê hương bản quán của họ. dưới đây: Theo nhà nghiên cứu Chu Thái Sơn: Nàng ở giữa phố hay giữa làng “Ngày nay, biểu hiện trong văn hóa tinh Nhà trồng bông hay nhà dệt vải? thần của người Bố Y, chúng ta chỉ còn Qua hai câu hát trên có thể thấy, xưa thấy một vài chi tiết ở nội dung bài cúng kia tại Quý Châu, người Bố Y sống cả ở qua việc đưa âm hồn người chết về đất vùng thành thị cũng như vùng ven đô; họ Quý Châu, về tận thôn bản cư trú xưa của có nghề trồng bông và dệt vải. [1] họ” [5, tr.328]. Như vậy, nếu dân ca và hát cúng của Thật vậy, trong lễ cúng ma của một nhóm người khác ở Việt Nam cũng có nhóm người Bố Y ở Hà Giang có bài hát những chi tiết về quê hương bản quán thì cúng chỉ đường cho hồn người quá cố về việc so sánh để xác định xem họ có cùng quê cũ. Trong bài cúng này có đoạn không quê hương bản quán với nhóm người Bố Y chỉ nói rõ địa danh quê cũ mà còn miêu tả ở Hà Giang hay không là việc có thể làm. đặc điểm địa hình, môi trường sinh thái Trong thực tế, nhóm người Bố Y ở Hà nơi đó ra sao. Chẳng hạn, tại đám ma của Giang đã thực hiện việc so sánh dân ca và một gia đình họ La, người Bố Y ở xã hát cúng của họ với dân ca và hát cúng của 146
  3. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trần Quốc Việt ___ nhóm người Pú Nả ở Lai Châu. Chúng tôi Bố Y ở Hà Giang có phải là hai nhóm sẽ nêu thêm một số khía cạnh liên quan tới người đồng tộc hay không. việc này trong phần 3. Để so sánh ngôn ngữ, họ sử dụng 3. Xác định tương đồng về ngôn ngữ các bài hát nghi tục trong đám cưới của cổ hai nhóm. Ông Lò Văn Chiến gửi một Ngôn ngữ mẹ đẻ của một nhóm cuốn sách về hát đám cưới của người Pú người có thể bị mai một hoàn toàn và Nả cho ông Dương Đức Khoan mang về được thay thế bằng một ngôn ngữ khác. Hà Giang để các nghệ nhân và thầy cúng Nhóm người Bố Y ở Hà Giang tuy còn Bố Y ở Hà Giang so sánh với hát đám giữ được tiếng mẹ đẻ nhưng cũng quên cưới của tộc mình. Sau khi so sánh ca từ khá nhiều từ và có những từ bị pha tạp của hát nghi tục đám cưới Pú Nả với hát với ngôn ngữ các tộc người lân cận. Do nghi tục đám cưới Bố Y, các ông Ngũ đó, nếu so sánh ngôn ngữ nói thường Khởi Phượng, La Tiến Tài, Dương Đức ngày trong đời sống hiện nay để xác định Khoan, La Xuân Thàng và Phan Ngọc mức độ tương đồng khác biệt sẽ cho kết Sinh cùng chung một nhận xét: lời ca hầu quả không chính xác. Vì vậy, việc tìm hết tương đồng, chỉ có một số từ hơi khác ngôn ngữ cổ để so sánh là cần thiết. May về cách phát âm so với từ Bố Y tương mắn là ngôn ngữ Bố Y cổ vẫn còn được ứng. Họ tiếp tục so sánh các bài ca dùng lưu giữ trong các bài dân ca (đặc biệt trong tang lễ của hai nhóm. Ông La Xuân trong các bài hát cúng). Nhận thức được Thàng cho biết: “Ca từ trong các bài hát điều này, nhóm người Bố Y ở Hà Giang đám cưới và hát cúng ma của nhóm Pú đã dùng lời ca của các bài dân ca và hát Nả và nhóm Bố Y giống nhau tới 80%”. cúng như một căn cứ để so sánh ngôn Chính vì vậy, ông nảy sinh ý định đối ngữ trong cuộc tìm kiếm người đồng tộc. chiếu các bài cúng cùng loại của hai Nhóm người được họ so sánh ngôn ngữ nhóm người Bố Y ở Hà Giang và Pú Nả là nhóm người Pú Nả ở tỉnh Lai Châu: ở Lai Châu để tìm nghĩa những từ mà Qua tìm hiểu, chúng tôi được nghệ nhóm này đã quên nhưng nhóm kia vẫn nhân Ngũ Khởi Phượng cho biết: nhóm còn nhớ. người Bố Y ở Hà Giang cho rằng ở Việt Ngoài việc dùng âm nhạc dân gian Nam có những nhóm người đồng tộc với để so sánh sự tương đồng trong ngôn mình nhưng không rõ là nhóm nào và ở ngữ, nhóm người Bố Y ở Hà Giang còn đâu; trong một cuộc họp, ông Dương Đức dùng nó trong việc xác định sự tương Khoan, người Bố Y ở xã Quyết Tiến, đồng ở một số khía cạnh văn hóa khác huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang tình cờ của các nhóm người. gặp ông Lò Văn Chiến, người Pú Nả ở 4. Xác định tương đồng trong bài Tam Đường, Lai Châu; hai người thấy hát cúng và các nghi tục riêng ngôn ngữ có nhiều tương đồng nên nảy Nhóm người Bố Y ở Hà Giang sử sinh ý định tìm hiểu xem liệu nhóm dụng bài hát cúng riêng trong lễ cúng ma người Pú Nả ở Lai Châu và nhóm người để xác định người đồng tộc. Theo các 147
  4. Ý kiến trao đổi Số 4(69) năm 2015 ___ thầy cúng, chỉ lễ cúng ma của người Bố với tư thế vừa đi vừa hát. Việc diễn Y mới có bài hát cúng này. Vì vậy, nếu xướng bài hát trên gắn liền với những một nhóm người nào đó cũng sử dụng bài hành động nghi lễ nhằm xua đuổi yêu cúng đó trong lễ cúng ma thì có thể họ là tinh được thực hiện trước, trong và sau người Bố Y. Bài cúng riêng mà họ nói tới khi bài hát kết thúc: chính là bài Tả vình (tức là Mắng yêu Trước khi hát, tang gia phải chuẩn tinh) trong sách cúng ma. bị sẵn một con trâu và một con bò còn Nội dung bài Tả vình kể về sự tích sống, buộc giữa bãi cỏ. Thầy cúng làm vì sao người chết phải làm ma [3], [4]. nghi lễ trấn áp yêu tinh bằng cách dậm Lời ca của Tả vình kể lại sự thỏa thuận chân, vung kiếm và hú hét bốn phương. xưa kia giữa tang gia và yêu tinh về việc Khi hát, thầy cúng vừa hát vừa vác kiếm thay thế xác người chết bằng thịt trâu, bò dẫn đầu đoàn các con cháu của người quá để trả món “nợ miệng” với yêu tinh. Cuối cố đi vòng quanh hai con vật. Đến khi hát bài là những lời “mắng” để xua đuổi yêu xong, thầy cúng lại hét to và vung kiếm và tinh sau khi đã trả hết nợ cho nó. Bài ném kiếm về phía hai con vật và cả đoàn cúng được diễn xướng trước khi thực người dừng lại. Những người đàn ông hiện nghi lễ giết trâu, bò và lợn. Các thầy nhanh nhẹn, khỏe mạnh, là người thân của cúng cho biết, việc mời dân làng ăn thịt người quá cố, mang dao đến cắt cổ hai con trâu, bò và lợn có ý nghĩa trả món nợ cũ vật. Họ không được cắt đứt lìa. Nếu không cho yêu tinh1. may, họ cắt quá tay, làm đầu hai con vật lìa Cách diễn xướng bài Tả vình hoàn khỏi cổ thì tang gia sẽ rất tức giận. Bởi vì toàn khác với cách diễn xướng những bài người Bố Y cho rằng, như vậy có nghĩa là thông thường. Trước khi hát bài Tả vình, yêu tinh không nhận vật tế lễ và nó sẽ hại bao giờ thầy cúng cũng phải múa kiếm và người quá cố. hú hét nhằm thể hiện uy lực, trấn áp yêu Lễ cúng ma của nhóm người Pú Nả ở tinh. Khi hát nội dung đoạn đầu của bài Lai Châu cũng có một bài hát cúng có tên cúng về việc những người con trai lên Tả vình. Mặc dầu không có nghi tục giết rừng chặt cây về đóng quan tài cho người trâu - bò hiến tế cho yêu tinh kèm theo với mẹ mới chết, thầy cúng hát với âm lượng bài cúng này như ở lễ cúng ma của nhóm vừa phải, giọng hát bình thường như khi người Bố Y ở Hà Giang, nhưng hầu hết lời hát các bài cúng khác. Đặc biệt, khi tới ca và cách thức hát như nhau. đoạn gặp, thỏa thuận với yêu tinh và xua Từ các khía cạnh tương đồng nêu đuổi nó, thầy cúng hát với âm lượng to trên, hiện nay nhóm người Bố Y ở Hà hơn, đổi giọng gay gắt, nhấn dứt khoát Giang và nhóm người Pú Nả ở Lai Châu vào tiết tấu đảo phách ở cuối các câu hát. tiếp tục giao lưu ngày càng nhiều hơn để Theo thầy cúng La Tiến Tài, hát như vậy tìm hiểu thêm những mặt tương đồng mới làm yêu tinh sợ, không dám quấy rối khác. người chết và tang gia nữa2. Bài cúng chỉ 5. Kết luận do một thầy cúng hát, không có nhạc đệm Như vậy, trường hợp trên cho thấy 148
  5. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trần Quốc Việt ___ thêm một cách thức tìm người đồng tộc như thế nào trong việc so sánh và tìm ra khá độc đáo của nhóm người Bố Y ở Hà những tương đồng ở các khía cạnh riêng, Giang. Âm nhạc dân gian được chính đặc biệt trong đời sống văn hóa của các người dân coi như một trong những yếu tố nhóm người. Vì thế, khi nghiên cứu và để xác định những tương đồng về ngôn xác định các thành phần dân tộc, người ngữ và một vài đặc trưng nổi bật của văn nghiên cứu không nên xem nhẹ hoặc bỏ hóa, cũng như có giá trị tích cực trong qua yếu tố âm nhạc dân gian mà làm mất việc tìm người đồng tộc. Điều này đồng đi những cơ hội đáng quý có thể bổ sung thời cũng cho thấy ở những trường hợp và nâng cao độ xác thực cho các căn cứ cụ thể, âm nhạc giữ vai trò quan trọng khoa học của mình. ___ 1 Phỏng vấn thầy cúng La Tiến Tài ngày 12-11-2010 tại lễ cúng ma ở thôn Tân Tiến (xã Quyết Tiến, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang). 2 Phỏng vấn thầy cúng La Tiến Tài ngày 14-11-2010 tại lễ cúng ma ở thôn Tân Tiến (xã Quyết Tiến, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ngũ Khởi Phượng (2005), Dân ca Bố Y (tài liệu viết tay), Hà Giang. 2. Ngũ Khởi Phượng (2005), Văn hóa dân tộc Pu Y ở Việt Nam (tài liệu viết tay), Hà Giang. 3. La Tiến Tài (1960), Khào xhâu đinh, sách mo (tài liệu viết tay), Hà Giang. 4. La Tiến Tài (1960), Khào xhâu ho, sách mo (tài liệu viết tay), Hà Giang. 5. Viện Dân tộc học (1975), Vấn đề xác định thành phần các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. (Ngày Tòa soạn nhận được bài: 23-7-2014; ngày phản biện đánh giá: 24-7-2014; ngày chấp nhận đăng: 17-4-2015) 149