Vai trò, trách nhiệm của hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới

doc 9 trang hapham 3170
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò, trách nhiệm của hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docvai_tro_trach_nhiem_cua_hoi_lien_hiep_phu_nu_viet_nam_trong.doc

Nội dung text: Vai trò, trách nhiệm của hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới

  1. HỘI THẢO VỀ VIỆC THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU BÌNH ĐẲNG GIỚI VÀ LỒNG GHÉP GIỚI TRONG MỘT SỐ DỰ ÁN LUẬT Tp. Thái Bình, tỉnh Thái Bình, ngày 6 - 7/6/2009 VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG VIỆC THỰC HIỆN MỤC TIÊU BÌNH ĐẲNG GIỚI Bà Dương Thị Xuân Ủy viên Đoàn Chủ tịch, Trưởng Ban chính sách luật pháp, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam Bình đẳng giới là mục tiêu của đa số các quốc gia. Dựa trên điều kiện và hoàn cảnh thực tế về kinh tế, chính trị và văn hoá - xã hội, mỗi quốc gia có con đường đi riêng và mục tiêu bình đẳng giới cũng được xác định phù hợp trong từng giai đoạn phát triển của đất nước. Điều 4 Luật Bình đẳng giới xác định mục tiêu bình đẳng giới của Việt Nam là “xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình”. Mục tiêu này chỉ có thể được thực hiện hiệu quả khi các cơ quan, tổ chức, gia đình và từng cá nhân hiểu đúng, hiểu đủ, hiểu toàn diện những khía cạnh liên quan đến giới và bình đẳng giới và thực hiện tốt các trách nhiệm đã được quy định tại Chương 4 Luật Bình đẳng giới, Nghị định số 70/2008/NĐ - CP ngày 4/6/2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bình đẳng giới và Nghị định số 48/2009/NĐ-CP ngày 19/5/2009 của Chính phủ quy định về các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới. Tham luận này xin chia sẻ về vai trò, trách nhiệm của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới. I. VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG VIỆC THỰC HIỆN MỤC TIÊU BÌNH ĐẲNG GIỚI Vai trò, trách nhiệm của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới đã được xác định rõ trong Hiến pháp, các Nghị quyết của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật. Đặc biệt, các Điều 29 và 30 Luật Bình đẳng giới thể hiện tương đối chi tiết với 8 khoản thể hiện 6 nội dung cơ bản sau: 1. Tham gia xây dựng chính sách, pháp luật và tham gia quản lý nhà nước về bình đẳng giới theo quy định của pháp luật (Khoản 1 Điều 29) Trước khi có Luật Bình đẳng giới, vai trò, trách nhiệm này đã trở thành nề nếp trong hoạt động của Hội. Hội tham gia ý kiến vào hầu hết các văn bản luật, các Nghị định, Thông tư và một số văn bản khác dưới hai hình thức trực tiếp tham gia các Ban soạn thảo, Tổ biên tập và gửi ý kiến đóng góp bằng văn bản. Hội đã chủ động chuẩn bị, trình sáng kiến xây dựng Luật Bình đẳng giới và đã thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo Luật này. Sau khi Luật Bình đẳng giới được ban hành, Hội vẫn tiếp tục thực hiện vai trò, trách nhiệm này, nhưng phương pháp được thay đổi theo hướng có chất lượng hơn
  2. Hội thảo về việc thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới và lồng ghép giới trong một số dự án luật thông qua việc chủ động tổ chức các hội thảo chuyên đề có sự tham gia của các chuyên gia và cán bộ Hội cấp tỉnh, thành. Đồng thời, củng cố đội ngũ cộng tác viên là chuyên gia giới đang công tác tại các cơ quan, tổ chức để hỗ trợ hiệu quả cho việc tham gia ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật. Hội đã chủ động và tích cực trong việc đề xuất, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị1 về việc triển khai thi hành Luật Bình đẳng giới; phối hợp với Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành Trung ương nghiên cứu, soạn thảo các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Bình đẳng giới; nghiên cứu, đánh giá tác động dự kiến của các quy định về lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; tìm hiểu các phương pháp để thực hiện các quy định về lồng ghép giới có hiệu quả Hiện nay Hội đang chủ động rà soát và nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới để có cơ sở phối kết hợp với các Bộ, ngành chức năng kiến nghị, đề xuất với Đảng và Nhà nước xem xét sửa đổi, bổ sung nhằm bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với Luật Bình đẳng giới và bảo đảm thực thi Luật Bình đẳng giới có hiệu quả 2. Bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức (Khoản 2 Điều 29) Xuất phát từ thực tế các mối quan hệ của phụ nữ trong gia đình và xã hội luôn luôn có nam giới và ngược lại, Hội đã xác định rõ những vấn đề làm cho phụ nữ không được và không phải chỉ là việc riêng của Hội mà là trách nhiệm chung của tất cả các cấp, các ngành và toàn xã hội. Do đó, Hội đã có nhiều hình thức thu hút sự tham gia của nam giới trong các hoạt động Hội. Đồng thời cũng đã có các quy định khuyến khích tuyển dụng nam giới vào các vị trí làm việc lâu dài tại các cấp Hội. Tuy nhiên, do tâm lý định kiến còn tồn tại và quan niệm Hội là cơ quan của phụ nữ nên số cán bộ nam làm công việc chuyên môn tại Hội hầu như rất ít, chỉ tập trung chủ yếu ở bộ phận phục vụ, hậu cần (bảo vệ, hành chính và lái xe). Chúng tôi hy vọng rằng, khi nhận thức về bình đẳng giới được tăng lên thì vấn đề này sẽ được cải thiện theo chiều hướng tốt hơn trong tương lai. 3. Tham gia giám sát việc thực hiện pháp luật bình đẳng giới (Khoản 3 Điều 29) Giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật đối với phụ nữ luôn được xác định là một trong các nhiệm vụ trọng tâm của mỗi nhiệm kỳ hoạt động Hội. Hàng năm Ban Chấp hành và Đoàn Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đều có chỉ đạo và hướng dẫn các cấp Hội trong việc lựa chọn các văn bản quy phạm pháp luật và các chính sách an sinh xã hội để giám sát trên cơ sở phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương. Kết quả giám sát được sử dụng để tham gia ý kiến xây dựng pháp luật và kiến nghị các địa phương ban hành các chính sách bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ trong thực tế. Để phù hợp với các quy định của Luật Bình đẳng giới, từ năm 2008 đến nay, song song với hoạt động giám sát thường niên, Hội đã và đang nghiên cứu xây dựng mô hình hệ thống giám sát của Hội đối với việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới. Quan điểm xây dựng mô hình này được xác định là bảo đảm giám sát toàn bộ quá trình thực thi luật chứ không chỉ giám sát kết quả thực hiện luật. Mục đích quan trọng nhất của giám sát quá trình là thông qua việc theo dõi 6 giai đoạn thực hiện pháp luật về bình đẳng giới2 của các cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân để phát hiện bất cập, vướng 1 Chỉ thị số 10/2003/CT-TTg ngày 3/5/2007 về việc triển khai thi hành Luật Bình đẳng giới 2
  3. Hội thảo về việc thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới và lồng ghép giới trong một số dự án luật mắc thực tế và kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời điều chỉnh, bổ sung những điểm còn thiếu; tăng cường công tác chỉ đạo thực hiện; thay đổi các biện pháp thực hiện không còn phù hợp hoặc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để các quy định của Luật phát huy tác dụng trong thực tế. Cùng với việc xây dựng mô hình hệ thống giám sát, trong bối cảnh có nhiều văn bản quy phạm pháp luật về bình đẳng giới và liên quan đến bình đẳng giới, để bảo đảm tính hiệu quả, Hội đang cùng các chuyên gia phân tích, xây dựng lộ trình, xác định vấn đề ưu tiên giám sát và xây dựng bộ chỉ số giám sát cho từng nội dung giám sát và hướng dẫn giám sát cho các địa phương. 4. Tuyên truyền, vận động hội viên, phụ nữ thực hiện bình đẳng giới (Khoản 4 Điều 29) Trước khi có Luật Bình đẳng giới, công tác này tập trung vào việc trang bị, cung cấp cho phụ nữ các thông tin, kiến thức về giới và vận động phụ nữ thực hiện tốt các quy định của pháp luật, trong đó tập trung chính là Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam và các quy định pháp luật có liên quan đến Hội và phụ nữ. Để thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm này, các cấp Hội đã rất nỗ lực huy động mọi nguồn lực hiện có của mình về con người, tài liệu, kinh nghiệm, sự nhiệt tình và khai thác các nguồn lực từ bên ngoài. Kể từ khi có Luật Bình đẳng giới, để giúp phụ nữ và các thành viên gia đình tích cực hơn trong việc thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi có lợi cho bình đẳng giới, vai trò, trách nhiệm này được Hội quan tâm đặc biệt hơn, đầu tư thích đáng hơn về nguồn lực, đa dạng phương pháp thực hiện, cung cấp thông tin đa chiều và vận động thực hiện mang tính tổng hợp hơn. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã hình thành đội ngũ báo cáo viên về “bình đẳng giới và pháp luật về bình đẳng giới” từ trung ương đến cơ sở được đào tạo theo mô hình 2 cấp: báo cáo cáo viên cấp trung ương và tỉnh, thành Hội phụ nữ do cấp trung ương đào tạo, bồi dưỡng; báo cáo viên cấp huyện và xã do cấp tỉnh đào tạo, bồi dưỡng. Trung bình mỗi huyện, xã có ít nhất một báo cáo viên. Đội ngũ báo cáo viên hiện đang hoạt động có hiệu quả tại các địa phương. Sau khi Luật Phòng, chống bạo lực gia đình được Quốc hội thông qua năm 2007, đội ngũ báo cáo viên của Hội đã được tập huấn, trang bị thêm các kiến thức và kỹ năng theo mô hình tổng hợp về “bình đẳng giới và phòng chống bạo lực gia đình”, lấy Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình làm trọng tâm, cung cấp các quy định pháp luật khác về bình đẳng giới và kết hợp hợp lý các kiến thức bổ trợ theo khoa học về giới để làm rõ những khía cạnh đặc biệt cần quan tâm trong quá trình thực hiện mục tiêu bình đẳng giới. Kiến thức và kỹ năng về bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia đình đã được các cấp Hội phổ biến, đăng tải trên các phương tiện thông tin của Hội và phối hợp với một số báo, đài phát thanh và truyền hình của Trung ương và các tỉnh. Đồng thời, đã phối hợp tập huấn cho đội ngũ phóng viên báo chí, đài phát thanh, truyền hình trung ương và nhiều tỉnh, thành về vấn đề này. 2 (1) việc chỉ đạo triển khai thi hành; (2) việc phổ biến, giáo dục luật; (3) việc chấp hành trách nhiệm công vụ của các cơ quan, tổ chức; (4) việc chấp hành trách nhiệm và nghĩa vụ của cộng đồng, gia đình và công dân; (5) việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và (6) việc thụ lý, điều tra, xét xử các vụ án có liên quan. 3
  4. Hội thảo về việc thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới và lồng ghép giới trong một số dự án luật Tại nhiều địa phương, Hội đã phối hợp với Ban vì sự tiến bộ phụ nữ cùng cấp hoặc các cơ quan, tổ chức khác trên địa bàn tổ chức giới thiệu Luật Bình đẳng giới và nói chuyện chuyên đề về bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia đình cho cán bộ chủ chốt của cấp Uỷ, chính quyền, ban ngành và đoàn thể 3 cấp tỉnh, huyện và xã; cán bộ chủ chốt của các Ban vì sự tiến bộ phụ nữ. Lãnh đạo Hội và các báo cáo viên cấp trung ương, tỉnh/thành Hội đã trực tiếp nói chuyện chuyên đề cho nhiều địa phương, bộ, ngành và tham gia các hoạt động tư vấn, chia sẻ thông tin về những vấn đề liên quan đến Luật Bình đẳng giới và trách nhiệm của Hội trong việc thực hiện các quy định trong Luật Bình đẳng giới trên Đài truyền hình Việt Nam, Đài tiếng nói Việt Nam, đài phát thanh và truyền hình địa phương, các báo, tạp chí Tính đến cuối năm 2008, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã biên soạn và phát hành miễn phí trong cả nước (theo hệ thống của Hội) 2.000 cuốn “Sổ tay tuyên truyền Luật bình đẳng giới dành cho báo cáo viên”, 6.500 cuốn “Hỏi và đáp về Luật Bình đẳng giới” 46.000 tờ gấp về “Bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình; 30.000 bản tin pháp luật về bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia đình; 25.000 tờ gấp với chủ đề “Hãy hành động vì bình đẳng giới”. Hiện nay, Hội đang biên soạn sổ tay tuyên truyền về bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia đình dành cho phóng viên báo chí. Các hình thức tuyên truyền về bình đẳng giới; phổ biến, giáo dục pháp luật cho phụ nữ và các thành viên gia đình được thực hiện phong phú, đa dạng, phù hợp với từng nhóm đối tượng và điều kiện đặc thù ở từng địa phương như hội thi, hái hoa dân chủ, tổ chức trò chơi rung chuông vàng, lồng ghép trong các lễ hội, sinh hoạt văn hoá truyền thống của thôn, làng, buôn, bản 5. Tổ chức các hoạt động hỗ trợ phụ nữ góp phần thực hiện mục tiêu bình đẳng giới (Khoản 2, 3, 4 Điều 30) Trong việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, phụ nữ đứng trước nhiều khó khăn và rào cản do hậu quả để lại của tư tưởng trọng nam hơn nữ kéo dài nhiều thế kỷ qua và trong nhiều gia đình hiện nay vẫn còn đang tiếp tục được truyền dạy cho các thế hệ tương lai về vị trí, vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội theo hướng nhìn nhận một chiều, chưa tiến bộ về bình đẳng giới. Hậu quả này ảnh hưởng trực tiếp đến trình độ học vấn của phụ nữ thấp hơn nam giới; vị trí quản lý, lãnh đạo của nữ vừa thấp về tỉ lệ vừa không có vai trò ra quyết định trực tiếp; khoảng cách về sự tham gia, đóng góp trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và thụ hưởng thành quả từ sự tham gia, đóng góp của phụ nữ so với nam giới còn khá xa Để giúp phụ nữ vượt ra khỏi những khó khăn và rào cản trong tư tưởng và thực tế, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã và đang thực hiện nhiều hoạt động trợ giúp phụ nữ thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, gồm: 1. Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế để nâng vị thế trong gia đình, góp phần nâng cao thu nhập gia đình, cải thiện đời sống, có điều kiện kinh tế chăm sóc cho bản thân và con cái; tham gia các khoá đào tạo, bồi dưỡng để bù đắp khoảng trống về trình độ học vấn và nhận thức xã hội thực tế. Việc hỗ trợ được thực hiện thông qua các hoạt động vay vốn tín dụng - tiết kiệm và tạo việc làm 2. Tăng cường sự tiếp cận giáo dục và dạy nghề cho phụ nữ thông qua các chương trình xoá mù chữ, chống tái mù chữ cho phụ nữ, hạn chế tình trạng bỏ học sớm 4
  5. Hội thảo về việc thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới và lồng ghép giới trong một số dự án luật của trẻ em gái; trang bị các kiến thức khoa học công nghệ ứng dụng trong sản xuất, kinh doanh và dạy nghề. 3. Tổ chức các hoạt động phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em; tư vấn, hỗ trợ phụ nữ kết hôn với người nước ngoài; phòng chống bạo lực gia đình, trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, đại diện tố tụng tại phiên tòa cho phụ nữ 4. Phối hợp với các cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước tổ chức các hoạt động bồi dưỡng đại biểu nữ cơ quan dân cử thông qua các hình thức hội thảo tập huấn, cung cấp thông tin, tài liệu, gặp mặt định kỳ Việc hỗ trợ được thực hiện đối với tất cả các nhóm phụ nữ, trong đó việc thực hiện các nhóm hoạt động 1, 2, 3 được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên phụ nữ, các nhóm phụ nữ nghèo, phụ nữ đơn thân, phụ nữ khuyết tật, phụ nữ bị tổn thương do các hành vi buôn bán người, bạo lực và các tệ nạn xã hội khác được ưu tiên quan tâm đặc biệt. 6. Thực hiện phản biện xã hội đối với chính sách, pháp luật về bình đẳng giới (Khoản 5 Điều 30) Mặc dù phản biện xã hội là vấn đề tương đối mới ở nước ta, chưa có các quy định mang tính chất pháp lý về vấn đề này, cách thức, bước đi, phương pháp tiếp nhận và phản hồi còn nhiều lúng túng, nhưng để hỗ trợ các Ban soạn thảo trong việc hiểu và vận dụng thấu đáo những vấn đề liên quan đến đặc điểm tự nhiên và xã hội của phụ nữ và nam giới, thời gian qua Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã có nhiều cố gắng trong việc chuẩn bị và phản biện đối với dự án Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Bảo hiểm y tế, Luật Cán bộ, công chức, Luật Quốc tịch sửa đổi Phản biện xã hội của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đối với các chính sách, pháp luật về bình đẳng giới là việc Hội đưa ra những nhận xét, phân tích lý lẽ có căn cứ khoa học và thực tế làm rõ bản chất của vấn đề chính sách, pháp luật theo quan điểm giới và kiến nghị thiết kế các quy định pháp luật bảo đảm bình đẳng giới nhằm hỗ trợ các Ban soạn thảo bảo đảm lồng ghép hiệu quả vấn đề bình đẳng giới trong văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, sửa đổi hoặc bổ sung. Do vậy, những phản biện thời gian qua của Hội chủ yếu tập trung vào 3 khía cạnh: các vấn đề liên quan đến phụ nữ với tư cách là những biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới; các chính sách dành cho phụ nữ, nam giới với tư cách là người mẹ, người cha và thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới. Hình thức phản biện chủ yếu là bằng văn bản. Chưa có đối thoại mang tính chất chuyên sâu. II. MỘT SỐ KHÓ KHĂN CỦA HỘI TRONG VIỆC THỰC HIỆN MỤC TIÊU BÌNH ĐẲNG GIỚI VÀ CÁC KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT 1. Trong quá trình thực hiện vai trò, trách nhiệm của mình, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam gặp phải không ít khó khăn thách thức, trong đó đặc biệt là: - Nhận thức đúng về mục tiêu bình đẳng giới theo Điều 4 Luật Bình đẳng giới trong nhiều cơ quan, tổ chức, địa phương và cán bộ, công chức, nhân dân còn hạn chế. - Nhà nước chưa có cơ chế hợp lý để Hội thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội theo quy định của pháp luật. - Việc thực hiện các quy định về mối quan hệ giữa các cấp Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam với cơ quan hành chính nhà nước các cấp tuy đã có nhiều chuyển biến 5
  6. Hội thảo về việc thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới và lồng ghép giới trong một số dự án luật tích cực kể từ khi có Nghị định số 19/2003/NĐ-CP ngày 7/3/2003 của Chính phủ 3 nhưng hiệu quả thực tế chưa cao, một số nơi còn mang tính hình thức, việc thực hiện các quy định của Nghị định đôi khi còn thể hiện rõ sự miễn cưỡng, chưa thực sự hiểu rõ được lợi ích đa chiều thực tế mang lại trong mối quan hệ này. - Hội không đủ nguồn lực tài chính để thực hiện trên diện rộng các hoạt động hỗ trợ phụ nữ thực hiện mục tiêu bình đẳng giới. - Cán bộ Hội cơ sở ở đa số các tỉnh, thành không có chế độ phụ cấp, làm việc bằng lòng nhiệt tình trong điều kiện nguồn kinh phí địa phương hạn hẹp nên việc đầu tư mang tính chất chuyên sâu cho các hoạt động còn hạn chế, thậm chí ở một số nơi không có điều kiện để thực hiện. 2. Để Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tiếp tục phát huy có hiệu quả vai trò, trách nhiệm trong việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, thiết nghĩ: - Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội khẩn trương ban hành các Thông tư hướng dẫn thi hành các Nghị định của Chính phủ và phối hợp với các Bộ, ngành khác ban hành các văn bản hướng dẫn và phối hợp có liên quan. - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cần phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan nhanh chóng hoàn thành các tài liệu hướng dẫn kiến thức, kỹ năng lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; tài liệu tuyên truyền về bình đẳng giới; tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật cho từng nhóm đối tượng để thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi có lợi cho bình đẳng giới. - Các Bộ, ngành hữu quan cần tiến hành hoặc tiếp tục tiến hành các hoạt động rà soát, sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật và các chính sách phù hợp các quy định của Luật Bình đẳng giới. - Tiếp tục kiện toàn bộ máy và nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác bình đẳng giới; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, và cộng tác viên làm công tác bình đẳng giới; ưu tiên đào tạo cán bộ quản lý nhà nước về bình đẳng giới và đội ngũ giảng viên kiêm nhiệm ngành, đoàn thể cấp tỉnh trở lên; xúc tiến đào tạo, bồi dưỡng báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật về bình đẳng giới cấp tỉnh, cấp huyện và cơ sở. - Tăng cường các hoạt động tuyên truyền nâng cao nhận thức xã hội về giới, bình đẳng giới và pháp luật về bình đẳng giới, trước hết cho nhóm các nhà hoạch định và thực thi chính sách, pháp luật. Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học về giới và bình đẳng giới; xây dựng và nhân rộng các mô hình thực hiện hiệu quả Luật Bình đẳng giới. - Bố trí thích đáng nguồn ngân sách cho hoạt động bình đẳng giới và hình thành bộ chỉ số giám sát quốc gia về thực hiện bình đẳng giới 3. Đặc biệt, để thực hiện có hiệu quả mục tiêu bình đẳng giới theo Điều 4 Luật Bình đẳng giới, nhất thiết cần bảo đảm tránh trung tính giới và hiểu đúng về 4 khía cạnh sau: 3 quy định trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước các cấp tạo điều kiện cho các cấp Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý nhà nước 6
  7. Hội thảo về việc thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới và lồng ghép giới trong một số dự án luật Thứ nhất, cần hiểu đúng về xóa bỏ phân biệt đối xử về giới Theo Khoản 5 Điều 5 Luật Bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới là việc hạn chế, loại trừ, không công nhận hoặc không coi trọng vai trò, vị trí của nam và nữ, gây bất bình đẳng giữa nam và nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình. Theo quy phạm giải thích này, xoá bỏ phân biệt đối xử về giới là xoá bỏ việc hạn chế, loại trừ, không công nhận hoặc không coi trọng vai trò, vị trí của nam và nữ không chỉ bao gồm những hành vi biểu lộ ra bên ngoài một cách rõ ràng mà còn cả những hành vi ở dạng tiềm ẩn, khó phát hiện có tính chất nhằm loại trừ hay hạn chế các quyền con người và quyền công dân trên cơ sở giới tính. Đồng thời, cũng không phải chỉ là những hành vi có tác động rõ ràng mà còn là cả những hành vi tiềm ẩn mục đích làm tổn hại hoặc vô hiệu hoá các quyền con người và quyền công dân của nam, nữ. Do đó, việc lồng ghép giới trong xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật cần được quan tâm một cách thích đáng. Phân biệt đối xử về giới chỉ có thể được xoá bỏ khi các cơ quan, tổ chức, gia đình và cá nhân hiểu sâu sắc, hiểu đúng và toàn diện những khía cạnh liên quan đến giới, giới tính và bình đẳng giới để không máy móc, dập khuôn theo hướng định kiến trong việc nhìn nhận về sự tham gia, đóng góp và thụ hưởng thành quả từ sự tham gia, đóng góp đó của nam, nữ trong các môi trường hiện tại mà hướng tới việc tìm ra các khía cạnh kỹ thuật tốt nhất bảo đảm bình đẳng giới ở các môi trường đó trong tương lai. Thứ hai, cần hiểu đúng về tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ Là con người, là công dân, phụ nữ và nam giới có các quyền và nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình và xã hội. Do vậy, để bảo đảm sự công bằng và bình đẳng, cả phụ nữ và nam giới cùng phải được tạo cơ hội như nhau trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình theo nguyên tắc cứng là cùng quyền, cùng nghĩa vụ, cùng trách nhiệm, nhưng linh hoạt (có điều kiện hoặc mặc nhiên) để bảo đảm tương thích với những đặc điểm khác nhau thực tế của phụ nữ và nam giới về giới tính (bao gồm các đặc điểm sinh học liên quan đến chức năng sinh sản và cấu trúc cơ thể (vóc dáng, chiều cao, cân nặng) và điều chỉnh vai trò giới hiện tại mà nam, nữ thực tế đang làm theo hướng có lợi cho mục tiêu bình đẳng giới. Ví dụ: tuổi lao động theo luật của phụ nữ và nam giới cần được quy định như nhau từ khi bắt đầu đi làm cho đến 60 (hoặc độ tuổi khác), nhưng tuổi chấm dứt lao động (hưu) ở một môi trường cụ thể cho phép phụ nữ có quyền lựa chọn phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh thực tế của mình. Sự lựa chọn linh hoạt này cho phép dao động trong khoảng 5 năm từ 55 đến 60 (hoặc khoảng tuổi khác) vẫn được bảo đảm các quyền lợi tương ứng. Thứ ba, cần hiểu đúng về bình đẳng giới thực chất Bình đẳng thực chất là bình đẳng cả về phương thức đối xử (trên văn bản, quan điểm, chủ trương, đường lối) và kết quả thực tế của phương thức đối xử đó. Điều này có nghĩa là muốn có bình đẳng giới thực chất thì cần phải bảo đảm bình đẳng cho nam giới và phụ nữ ở cả 3 mức độ: cơ hội tham gia (trong văn bản); thực tế tham gia (tiếp cận nguồn lực; đóng góp; kiểm soát nguồn lực) và lợi ích của sự tham gia (hưởng lợi từ thành quả lao động trong thực tế). Ví dụ 1 (xét dưới góc độ định tính chung cho các lĩnh vực): khi phương thức đối xử với phụ nữ và nam giới được xác định là “Công dân nữ và nam có quyền ngang 7
  8. Hội thảo về việc thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới và lồng ghép giới trong một số dự án luật nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình” 4 và kết quả thực tế thực hiện các quyền và nghĩa vụ của nam, nữ là ngang nhau5 trong từng lĩnh vực thì có thể coi là bình đẳng giới thực chất giữa nam và nữ đã đạt được. Ví dụ 2 (xét dưới góc độ định lượng riêng trong lĩnh vực chính trị): khi phương thức đối xử với phụ nữ tham gia Hội đồng nhân dân trong một nhiệm kỳ được đặt ra là 25%, khi kết quả đạt được 25% đại biểu Hội đồng nhân dân nữ thì có thể coi là bình đẳng giới thực chất cho nhiệm kỳ đó đã được bảo đảm. Do vậy, để có bình đẳng thực chất, đòi hỏi cần: - Thừa nhận và tôn trọng sự khác biệt về giới tính giữa nam và nữ. - Xem xét những bất hợp lý về giới có thể tồn tại trên thực tế, bảo đảm bình đẳng giới cho phụ nữ và nam giới ngay từ giai đoạn trẻ em. - Tuyên truyền, vận động xoá bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu là nguyên nhân sâu sa dẫn đến bất bình đẳng giới. - Ban hành, bảo vệ, thực thi và thúc đẩy quyền của phụ nữ và nam giới. - Ban hành và thực hiện tốt các biện pháp đặc biệt tạm thời hỗ trợ phụ nữ giảm khoảng cách giới và các biện pháp bảo vệ phụ nữ với tư cách là người mẹ. Thứ tư, cần hiểu đúng về thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ Do khác biệt về giới tính nên phụ nữ cần dành nhiều thời gian hơn cho việc thực hiện thiên chức làm mẹ, trong bối cảnh nhận thức không đúng về giới và bình đẳng giới đã kéo theo hệ quả bất lợi về nhiều mặt cho phụ nữ cả trong gia đình và xã hội. Vì vậy, để thực hiện được mục tiêu bình đẳng giới, cần thiết phải hiểu đúng việc thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ theo hướng chia sẻ cả quyền và trách nhiệm trong gia đình và xã hội. Phụ nữ và nam giới cùng chia sẻ và hợp tác trong cả 4 vai trò: sản xuất, tái sản xuất, cộng đồng và chính trị. Trong đó, đặc biệt quan trọng là sự chia sẻ vai trò tái sản xuất bao gồm việc chăm sóc, giáo dục con, làm các công việc nhà, chăm sóc các thành viên gia đình để tạo cơ hội và điều kiện cho nam, nữ phát triển toàn diện về mọi mặt, không khoán trắng mọi việc liên quan đến gia đình và đứa trẻ cho riêng người phụ nữ. Sự chia sẻ này có ý nghĩa quan trọng để gánh nặng không dồn lên một người và không làm ảnh hưởng đến những khía cạnh khác của họ khi thực hiện quyền con người, quyền công dân và đóng góp cho sự phát triển của địa phương và đất nước. Để thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ nhất thiết phải quan tâm đến việc: - Tuyên truyền, giải thích để mọi người cùng hiểu sự yêu thương, trân trọng, tình yêu, tình nghĩa vợ chồng, đồng nghiệp, nhân loại cần được bắt đầu từ những công việc nhỏ nhất của mỗi người theo phương châm: “mình vì mọi người, mọi người vì mình” và xoá bỏ suy nghĩ định kiến về tình trạng lệ thuộc của người này vào người kia cả ở góc độ gia đình và xã hội 4 Theo Điều 63 Hiến pháp 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/NQ-QH10 của Quốc hội khoá X năm 2001 5 Vì có sự khác biệt về giới tính làm cho phụ nữ và nam giới không thể như nhau, bằng nhau hoặc giống nhau một cách hoàn toàn. 8
  9. Hội thảo về việc thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới và lồng ghép giới trong một số dự án luật - Vận động để mọi người cùng dành tất cả những gì tốt đẹp nhất cho phụ nữ và trẻ em gái vốn được coi là yếu thế hơn do có sự khác biệt đặc thù về giới tính và những kỳ vọng thực tế của xã hội và gia đình đối với họ. - Xử lý nghiêm minh đối với những trường hợp vi phạm pháp luật về bình đẳng giới, nhất là Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Bình đẳng giới vì thực tiễn đã chứng minh rằng không có bình đẳng giới trong gia đình thì khó có bình đẳng giới trong xã hội do con người dịch chuyển gần như nguyên vẹn tính cách, thái độ và hành vi của mình trong môi trường gia đình vào xã hội./. 9