Báo cáo thực tập Tính tương đồng và dị biệt trong văn hóa giữa các nước ở khu vực Đông Nam Á
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo thực tập Tính tương đồng và dị biệt trong văn hóa giữa các nước ở khu vực Đông Nam Á", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
bao_cao_thuc_tap_tinh_tuong_dong_va_di_biet_trong_van_hoa_gi.doc
Nội dung text: Báo cáo thực tập Tính tương đồng và dị biệt trong văn hóa giữa các nước ở khu vực Đông Nam Á
- BÁO CÁO THỰC TẬP Đề tài Tính tương đồng và dị biệt trong văn hóa giữa các nước ở khu vực Đông Nam Á
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: ĐÔNG NAM Á - VĂN HÓA CỦA CÁC NƯỚC 1 1. Khái quát Đông Nam Á 2 1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên 2 Bản đồ địa lý khu vực Đông Nam Á 2 1.2. Lịch sử hình thành khu vực Đông Nam Á 4 1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội 6 Chuyển dịch cơ cấu GDP của một số nước Đông Nam Á 6 Phân bố một số cây trồng chủ yếu ở Đông Nam Á 8 Sản lượng cao su, cà phê của Đông Nam Á và của thế giới 8 2. Văn hóa các nước trong khu vực Đông Nam Á 9 2.1. Văn hóa Việt Nam 9 2.2. Văn hóa Philippines 10 2.3. Văn hóa Thái Lan 11 2.4. Văn hóa Brunei 12 2.5. Văn hóa Campuchia 13 2.6. Văn hóa Malaysia 13 2.7. Văn hóa Indonesia 14 2.8. Văn hóa Lào 14 2.9. Văn hóa Mianmar 15 2.10. Văn hóa Singapore 17 1. Khái quát về văn hóa Đông Nam Á 18 1.1. Đông Nam Á - một khu vực địa lý, văn hoá, lịch sử thống nhất 18 1.2. Đông Nam Á có bề dày truyền thống văn hoá lâu đời 18 1.3. Văn hoá Đông Nam Á thống nhất trong đa dạng 19 1.4. Văn hóa Đông Nam Á mang tính chất mở, giao lưu với bên ngoài 20 1.5. Văn hóa duy trì các đặc trưng văn hoá mang tính nông thôn 20 2. Sự tương đồng trong văn hóa giữa các nước ở khu vực Đông Nam Á 21 2.1. Nguyên nhân của sự tương đồng 22 2.1.1. Cùng nằm trong khu vực địa lý lịch sử 22 2.1.2. Văn hóa Đông Nam Á hình thành trên cơ sở nông nghiệp lúa nước 22 2.1.3. Cùng có sự tiếp xúc và giao lưu với các nền văn hóa lớn 23 a. Tiếp xúc và giao lưu với văn hóa Trung Hoa 23 b. Tiếp xúc và giao lưu với văn hóa Ấn Độ 24 c. Tiếp xúc và giao lưu văn hóa với phương Tây 25 2.2. Những điểm tương đồng trong văn hóa giữa các nước ở Đông Nam Á 25 2.2.1. Văn hóa được hình thành trên nền văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước 25 2.2.2. Tương đồng trong hệ thống tổ chức xã hội 26 2.2.3. Có chung yếu tố tín ngưỡng bản địa 28 a. Tín ngưỡng vạn vật hữu linh 29 b. Tín ngưỡng phồn thực 32 c. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên 34 2.2.4. Tương đồng trong các phong tục tập quán, lễ hội 35 a. Nhà ở 35 b. Trang phục 36 d. Ăn uống 37 e. Hôn nhân 37 f. Tang lễ 38
- g. Lễ hội 38 2.2.5. Tương đồng trong ngôn ngữ, chữ viết và văn học 41 a. Ngôn ngữ, chữ viết 41 b. Văn học 42 2.2.6. Tương đồng trong phong cách của các loại hình nghệ thuật 44 a. Nghệ thuật tạo hình mang tính biểu trưng, ước lệ và cách điệu 44 b. Nghệ thuật kiến trúc đều chịu ảnh hưởng từ tôn giáo của Ấn Độ và có chung kiểu “Kiến trúc phồn thực” 45 c. Nghệ thuật biểu diễn đều mang đặc điểm đặc trưng văn hóa trồng lúa nước 47 2.2.7. Nhận xét 49 3. Tính dị biệt trong văn hóa các nước ở Đông Nam Á 50 3.1. Nguyên nhân tạo nên tính dị biệt 50 3.1.1. Điều kiện tự nhiên có sự phân chia thành lục địa và hải đảo 51 3.1.2. Mỗi quốc gia có lịch sử hình thành khác nhau 52 3.1.3. Sự giao lưu và tiếp thu những nền văn hóa bên ngoài theo những cách khác nhau 53 3.2. Nét dị biệt trong văn hóa giữa các nước ở Đông Nam Á 54 3.2.1. Quan niệm về linh hồn con người có sự khác nhau giữa các nước 54 3.2.3. Mỗi quốc gia có quốc giáo khác nhau, có nước lại không có quốc giáo 55 a. Một số nước trong khu vực có quốc giáo khác nhau 56 b. Các tôn giáo có mặt ở hầu hết các nước nhưng không được xem là quốc giáo của một số nước 60 3.2.4. Lễ tết (Tết nguyên đán) ở mỗi nước có cách tổ chức khác nhau 62 a. Tết Nguyên Đán tại Việt Nam được tổ chức vào mùa xuân 63 b. Tết Nguyên Đán của dân tộc Lào, Thái Lan, Campuchia, Myanmar đều diễn ra vào khoảng giữa tháng tư dương lịch 63 c. Hari Raya Aidilfitri - Thiên đường của những người Hồi giáo. 66 * Lễ hội Hari Raya tại Brunei 67 3.2.5. Mỗi quốc gia có ngôn ngữ và chữ viết riêng 68 a. Về ngôn ngữ 68 b. Về chữ viết 70 3.2.6. Văn học của mỗi quốc gia trong khu vực có đặc thù riêng 70 a. Văn học Việt Nam mang màu sắc Nho giáo 71 b. Văn học Indonesia mang màu sắc Hồi giáo 71 c. Văn học Campuchia có sự tương đồng với văn học Ấn Độ 72 d. Văn học Lào, Mianmar, Thái Lan mang đậm màu sắc Phật giáo 72 e. Văn học Philippines ảnh hưởng văn hóa Tây Ban Nha và màu sắc Thiên Chúa giáo 72 3.2.7. Nhận xét 72 KẾT LUẬN 74 PHỤ LỤC 75 TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
- MỞ ĐẦU Cựu Tổng Giám đốc UNESCO Federico Mayor đã đưa ra một nhận xét như sau: “Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành một hệ thông các giá trị, truyền thống thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình”. Văn hóa là một hiện tượng khách quan, là tổng hoà của tất cả các khía cạnh của đời sống. Ngay cả những khía cạnh nhỏ nhặt nhất của cuộc sống cũng mang những dấu hiệu văn hóa. Rất nhiều thứ mới thoạt nhìn thì giống nhau, nhưng nếu xem xét kỹ thì lại có những điểm riêng biệt. Trong văn hóa luôn luôn có sự tương đồng nhất định và những đặc điêm riêng tạo nên bản sắc văn hóa của quốc gia dân tộc. Khi xét về văn hóa Đông Nam Á chúng ta sẽ thấy rõ điều này, mặc dù trên nền chung gốc văn hóa nông nghiệp lúa nước nhưng ở mỗi quốc gia trong khu vực lại có những nét dị biệt. Đông Nam Á là khu vực có nền văn hóa lâu đời, được tạo nên từ rất nhiều mối quan hệ và bản sắc riêng của mỗi dân tộc. Tiếp cận văn hoá Đông Nam Á ngày nay, cái cảm đầu tiên với mỗi người sẽ là một nền văn hoá đa dạng trong thống nhất. Trong kho tàng văn hoá đồ sộ ấy dẫu có rất nhiều yếu tố chung làm nên cái gọi là “khung” Đông Nam Á song cũng có không ít những yếu tố đặc sắc, riêng biệt tiêu biểu cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Chính vì lý do đó, chúng tôi chọn đề tài “Tính tương đồng và dị biệt trong văn hóa giữa các nước ở khu vực Đông Nam Á” để làm bài tiểu luận cuối kì. Việc nhận xét đặc điểm này sẽ giúp chúng ta thấy được nét tương đồng và những điểm riêng có của từng quốc gia. Chúng ta sẽ thấy được từ những nét tương đồng đã tạo nên bức tranh thống nhất như thế nào và những nét dị biệt tạo nên nét chấm phá, điểm nhấn cho bức tranh văn hóa ấy ra sao. Bên cạnh đó, đây cũng là đề tài giúp bản thân người viết thâu tóm một cách khái quát lại nội dung trong văn hóa của khu vực Đông Nam Á. CHƯƠNG 1: ĐÔNG NAM Á - VĂN HÓA CỦA CÁC NƯỚC
- 1. Khái quát Đông Nam Á 1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên Đông Nam Á là một khu vực của châu Á, bao gồm các nước nằm ở phía Nam Trung Quốc, phía Đông Ấn Độ và phía Bắc của Úc với diện tích khoảng 4,523,000 km². Khu vực này bao gồm 11 quốc gia: Brunei, Campuchia, Đông Timor, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanma, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam với số dân cư tính đến năm 2009 ước chừng khoảng gần 570,000,000 người. Bản đồ địa lý khu vực Đông Nam Á
- Philippines Đông Timor Thái Lan Việt Nam Brunei Campuchia Malaysia Indonesia Lào Myanma Singapore Quốc kỳ 11 quốc gia khu vực Đông Nam Á Đông Nam Á là khu vực có địa hình hết sức đặc biệt. Nơi đây là chỗ giao nhau của nhiều mảng địa chất có núi lửa và động đất hoạt động mạnh. Các quốc gia của khu vực được chia ra làm hai nhóm chính: Myanma, Thái Lan, Campuchia, Lào và Việt Nam nằm ở Đông Nam Á lục địa, còn gọi bán đảo Trung Ấn, trong khi đó các nước còn lại tạo nên nhóm Đông Nam Á hải đảo. Nhóm Đông Nam Á hải đảo này được hình thành bởi nhiều cung đảo thuộc về
- Vành đai núi lửa Thái Bình Dương và là một trong những khu vực có hoạt động núi lửa mạnh nhất thế giới. Do điều kiện địa lí của mình, Đông Nam Á chịu ảnh hưởng chủ yếu của gió mùa, tạo nên hai mùa tương đối rõ rệt: Mùa khô lạnh, mát và mùa mưa tương đối nóng và ẩm. Vì thế, Đông Nam Á còn được gọi là khu vực “Châu Á gió mùa”. Chính gió mùa và khí hậu biển làm cho khí hậu vùng Đông Nam Á đáng lẽ có thể trở nên khô cằn như một số khi vực lục địa khác có cùng vĩ độ đã trở nên xanh tốt và trù phú với những đô thị đông đức và thịnh vượng như Singapore, Jakarta, Kuala Lumpur, Gió mùa kèm theo những cơn mưa nhiệt đới đã cung cấp đủ nước cho con người dùng trong đời sống và sản xuất hằng năm, tạo nên những cánh rừng nhiệt đới phong phú về thảo mộc và chim muông. Đông Nam Á từ lâu đã trở thành quê hương của những cây gia vị, cây hương liệu đặc trưng như hồ tiêu, sa nhân, đậu khấu, hồi, quế, trầm hương, và cây lương thực đặc trưng là lúa nước. 1.2. Lịch sử hình thành khu vực Đông Nam Á Ý niệm về Đông Nam Á như một khu vực riêng biệt đã có từ lâu. Song cùng với thời gian, khái niệm này ngày càng được hiểu một cách đầy đủ và chính xác hơn. Từ xa xưa để chỉ khu vực này, người ta đã dùng nhiều tên gọi khác nhau cho những mục đích riêng biệt: Người Trung Quốc xưa kia thường dùng từ “Nam Dương” để chỉ những nước nằm trong vùng biển phía Nam; Người Nhật gọi vùng này là “NanYo”; Người Ả Rập xưa gọi vùng này là “Qumr”, rồi lại gọi là “Waq - Waq” và sau này chỉ gọi là “Zabag”. Còn người Ấn Độ từ xưa vẫn gọi vùng này là “Suvarnabhumi” (đất vàng) hay “Suvarnadvipa” (đảo vàng). Tuy nhiên đối với các lái buôn thời bấy giờ, Đông Nam Á được nhìn nhận là một vùng thần bí, nơi sản xuất hương liệu gia vị và những sản phẩm kì lạ khác, còn sinh sống ở đây là những con người thành thạo và can đảm. Tên gọi “Đông Nam Á” được các nhà nghiên cứu chính trị và quân sự của Hà Lan, Anh, Mỹ đưa ra từ những năm đầu khi nổ ra Thế chiến thứ hai, nhưng chính thức đi vào lịch sử với ý nghĩa là một khu vực địa - chính trị, và quân sự được bắt đầu từ khi Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt và Thủ tướng Anh Winston Churchill tại Hội
- nghị Québec lần thứ nhất vào tháng 8 năm 1943 nhất trí thành lập Bộ chỉ huy tối cao quân Đồng Minh ở Đông Nam Á. Đến khoảng nửa đầu thế kỷ 15, hầu hết các quốc gia tiền thân ở Đông Nam Á đã ra đời, và bắt đầu bước vào giai đoạn phát triển rực rỡ mà điển hình là nhà nước Đại Việt dưới triều nhà Lê. Đây là nhà nước hoàn thiện và hùng mạnh nhất ở Đông Nam Á thời bấy giờ. Nhưng đến nửa đầu thế kỷ 18, các nhà nước trên bắt đầu suy yếu và rơi vào sự xâm lược hoặc lệ thuộc vào phương Tây, bắt đầu chịu ảnh hưởng của văn hóa châu Âu. Sự quản lý thuộc địa có một ảnh hưởng sâu sắc với Đông Nam Á. Trong khi các cường quốc thuộc địa chiếm hầu hết các nguồn tài nguyên và thị trường rộng lớn của vùng này, thì chế độ thuộc địa cũng làm cho vùng phát triển với quy mô khác nhau. Nền kinh tế nông nghiệp thương mại, mỏ và xuất khẩu đã phát triển nhanh chóng trong giai đoạn này. Nhu cầu tăng cao về nhân công dẫn tới nhập cư hàng loạt, đặc biệt từ thị trường Ấn Độ của Anh Quốc và Trung Quốc, dẫn tới sự thay đổi lớn về nhân khẩu học. Những định chế cho một quốc gia dân tộc kiểu một nhà nước quan liêu, các toà án, phương tiện truyền thông in ấn và ở tầm hẹp hơn là giáo dục hiện đại đã gieo những hạt giống đầu tiên cho các phong trào quốc gia ở những lãnh thổ thuộc địa. Đến đầu thế kỷ XX, các phong trào dân tộc tại các quốc gia trên khu vực đã bùng dậy mạnh mẽ để giành lại độc lập tự chủ cho dân tộc; đồng thời cũng từ đó ra sức xây dựng để đất nước ngày càng giàu mạnh hơn. Và cũng kể từ đó khu vực này đã bước vào giai đoạn phát triển nhanh chóng cả về mặt quân sự cũng như kinh tế. Nhìn chung, trong suốt quá trình phát triển, khu vực Đông Nam Á đã gặp nhiều khó khăn và thử thách. Tuy nhiên với sự chung tay đồng lòng của 11 đất nước anh em đã hình thành nên một diện mạo Đông Nam Á mới. Hôm nay, thế giới biết đến khu vực Đông Nam Á hiện đại với đặc trưng ở hoạt động kinh tế diễn ra hết sức năng động, mức độ tăng trưởng kinh tế cao của hầu hết các nước thành viên và sự kết hợp bên trong chặt chẽ thông qua khu vực thương mại tự do ASEAN. Đây cũng là một khối có triển vọng thành công trong việc hội nhập ở
- mức cao hơn nữa vào vùng Châu Á Thái Bình Dương thông qua Hội nghị thượng đỉnh Đông Á. 1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội Do vị trí địa lí nằm án ngữ trên con đường hàng hải nối liền giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, Đông Nam Á từ lâu vẫn được coi là cầu nối giữa Trung Quốc, Nhật Bản với Ấn Độ, Tây Á và Địa Trung Hải Thậm chí đến gần đây, một số nhà nghiên cứu vẫn gọi khu vực này là “ống thông gió” hay “ngã tư đường”. Đông Nam Á thuộc các nước đang phát triển. Tuy nhiên, bốn trong số mười nước đã đứng trong 20 nền kinh tế hùng mạnh nhất. Tính đến năm 2007, dân số ASEAN là 580 triệu người, tốc độ tăng trưởng hàng năm là 1,9%. GDP bình quân thu nhập đầu người khoảng 5.900 USD/1 năm. Chuyển dịch cơ cấu GDP của một số nước Đông Nam Á Nhìn vào sơ đồ ta thấy: GDP khu vực I giảm rõ rệt; GDP khu vực II tăng mạnh; GDP khu vực III tăng ở tất cả các nước. Điều đó thể hiện sự chuyển đổi từ nền kinh tế thuần nông lạc hậu sang nền kinh tế có công nghiệp và dịch vụ phát triển. Sở dĩ có sự chuyển dịch như vậy vì đang trong quá trình công nghiệp hoá và trong quá trình sản xuất nên năng suất sản xuất tăng lên, đời sống nhân dân được cải thiện nên dịch vụ cũng gia tăng.
- Đông Nam Á phát triển mạnh các ngành công nghiệp khai khoáng: Khai thác than Inđônnêxia, Việt Nam; Khai thác thiếc Malaixia, Thái Lan, Inđonexia; Khai thác đồng Philippin; Khai thác đá quý Thái Lan. Về công nghiệp chế biến Công nghiệp luyện kim, hoá chất, chế biến nông sản phân bố khắp nơi; các mặt hàng tiêu dùng có chất lượng cao, chiếm lĩnh thị trường thế giới: Malaixia, Thái Lan, Inđônêxia, Xingapo, ; Công nghiệp chế biến và lắp ráp ô tô, xe máy, thiết bị điện tử: Xingapo, Malaixia, Thái Lan, Inđônêxia, Công nghiệp điện Sản lượng điện năm 2003 của khu vực đạt 439 tỷ kwh. Hai nước sản xuất điện nhiều nhất là Thái Lan và Inđônêxia. Sản lượng điện tiêu dùng còn thấp (744kwh/người/năm). Chỉ số tiêu dùng điện năng theo dầu người của mỗi quốc gia thể hiện: Sử dụng điện năng cho sinh hoạt; điện năng sử dụng cho sản xuất, dịch vụ. Quốc gia nào có chỉ số tiêu dùng điện năng theo đầu người cao thể hiện trình độ phát triển kinh tế cao và ngược lại. Về dịch vụ đang có sự phát triển dựa trên nhiều thuận lợi về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, văn hoá đa dạng, Cơ sở hạ tầng đang từng bước được hiện đại hoá, hệ thống ngân hàng, tín dụng được chú trọng phát triển, tuy nhiên mức độ phát triển không đều. Với những đặc điểm đó sẽ tác động đến sự phát triển của nền kinh tế là: Làm xuất hiện nhiều ngành mới và lao động trong khu vực dịch vụ tăng khá mạnh; ngành dịch vụ ngày càng được phát triển nhằm mục đích: Phục vụ sản xuất cho nhu cầu phát triển trong nước, thu hút vốn đầu tư, công nghệ và thiết bị hiện đại, phục vụ và nâng cao đời sống nhân dân. Về nông nghiệp có những điều kiện thuận lợi để phát triển cây lúa nước như khí hậu ẩm, đất phù sa màu mở, lượng mưa dồi dào, dân cư đông, nguồn lao động dồi dào rất thuận lợi cho việc trồng lúa nước. Sản lượng không ngừng tăng từ 103 triệu tấn năm 1985 đạt tới 161 triệu tấn năm 2004 vì vậy đã giải quyết được nhu cầu lương thực cho người dân. Việt Nam và Thái Lan là hai nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu lúa gạo.
- Phân bố một số cây trồng chủ yếu ở Đông Nam Á Sản lượng cao su, cà phê của Đông Nam Á và của thế giới Các nước trồng cây công nghiệp nhiều như cao su ở Thái Lan, Inđônxia, Malaixia, Việt Nam. Cà phê và hồ tiêu ở Việt Nam sau đó là Inđônêxia, Malaixia và Thái Lan. Ngoài ra, Đông Nam Á còn là nơi cung cấp cho thế giới các sản phẩm từ nhiều loại cây lấy dầu, lấy sợi, Đất phù sa, đất đỏ màu mỡ, nguồn nước dồi dào, khí hậu nóng ẩm,dân cư đông và nguồn lao động đông. Về chăn nuôi, đánh bắt và nuôi trồng thuỷ, hải sản có điều kiện để phát triển. Đồng cỏ, sản xuất lương thực phát triển, diện tích mặt nước lớn, lao động dồi dào. Chăn nuôi cơ cấu đa dạng, số lượng lớn nhưng chưa trở thành ngành
- chính. Thuỷ sản có nhiều lợi thế về sông, biển nên nuôi trồng thuỷ, hải sản là ngành truyền thống và tăng liên tục. Năm 2003 sản lượng cá khai thác đạt 14,5 triệu tấn. Những nước phát triển mạnh là: Inđônêxia, Philippines, Malaisia, Việt Nam. Hiện nay, trên thế giới có 10 người thì có một người sống ở Đông Nam Á. Điều này chứng tỏ ASEAN là một thị trường tiềm năng. Đông Nam Á là một khu vực rộng lớn và phong phú đa dạng, trải dài ba múi giờ và gồm mười quốc gia - Brunei Darussalam, Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Một vài thế kỷ trước sự di cư của con người, ảnh hưởng của các tôn giáo lớn và các nền văn minh của phương Đông, sự xuất hiện của người phương Tây, dẫn đến trong một khu vực gồm các quốc gia nhưng lại đa dạng về diện tích và dân số, tôn giáo, sử dụng ngôn ngữ và hoàn cảnh lịch sử kinh tế của mỗi quốc gia. 2. Văn hóa các nước trong khu vực Đông Nam Á Khu vực Đông Nam Á hiện nay có 11 quốc gia. Tuy nhiên, khi xét đến văn hóa thì người ta thường đề nói văn hóa Đông Nam Á được tạo nên bởi 10 nền văn hóa tiêu biểu của 10 quốc gia: Việt Nam, Philippines, Thái Lan, Brunei, Campuchia, Malaysia, Indonesia, Lào, Myanma, Singapore. Để thấy được những nét tương đồng và dị biệt trong văn hóa các nước, dưới đây chúng ta sẽ đi khái quát về văn hóa của từng quốc gia. 2.1. Văn hóa Việt Nam Khi chúng ta nói đến văn hoá là nói tới toàn bộ những giá trị sáng tạo về tinh thần và vật chất, thể hiện trình độ sống, dân trí, những quan niệm về đạo lý nhân sinh, thẩm mỹ của một dân tộc và dấu ấn ở mỗi con người. Văn hoá góp phần trực tiếp tạo nên bản sắc của dân tộc, tạo nên sự khác biệt giữa dân tộc này với dân tộc khác. Nhìn chung, các nền kinh tế, các công trình về khoa học, kỹ thuật ít mang dấu ấn riêng bằng công trình văn hoá. Theo A.Kroeber và Kluckhohn (Mỹ), có trên 200 định nghĩa về văn hoá. Federico Mayor - Tổng giám đốc UNESCO xem
- văn hoá phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc sống con người đã diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị truyền thống thẩm mỹ vsà lối sống, mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình. Học giả Arnold Toynbee, trong tác phẩm History - nghiên cứu về lịch sử văn hoá các dân tộc - đã chọn 34 nền văn hoá gốc có bản sắc riêng, trong đó có văn hoá Việt Nam. Nền văn hoá Việt Nam là một nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc. ở một tiểu vùng mà văn hoá của một vài nước lớn dễ chi phối, ảnh hưởng và có xu thế đồng hoá, bộc lộ rõ qua các thời kỳ lịch sử nhưng văn hoá Việt Nam vẫn tồn tại bền vững và có bản sắc. Chưa phải là đất nước giàu có, qua nhiều thế hệ đời sống còn nhiều khó khăn, kỹ thuật sản xuất kém phát triển, song ở đất nước dường như thuần nông của chúng ta đã tụ hội nhiều giá trị của nền văn minh lúa nước, văn minh phương Đông. Văn hoá tinh thần với nhiều phẩm chất cao đẹp dễ bộc lộ trong những giá trị văn nghệ dân gian: Những thiên sử thi, truyện cổ, điệu hò sông nước, làn điệu dân ca. Tuy nhiên cũng thấy rằng văn hoá Việt Nam còn yếu về văn hoá thành thị, văn hoá khoa học kỹ thuật. Trong tư duy chưa mạnh về tư duy trừu tượng. Với vị trí chiến lược của khu vực và châu lục, Việt Nam bị nhiều thế lực tranh chấp và thường diễn ra những cuộc chiến tranh kéo dài. Trong chiến tranh, văn hoá vẫn có thể phát triển nhưng không thuận lợi như trong điều kiện hoà bình. Ở Việt Nam, nhiều di sản văn hoá bị chiến tranh, thiên tai tàn phá chỉ còn lại những phế tích. Cho đến nay, chúng ta chưa có điều kiện khôi phục lại đầy đủ diện mạo văn hoá Việt Nam. Tuy nhiên đây cũng là những thành tựu văn hóa nổi bật của Việt Nam được thế giới biết đến. 2.2. Văn hóa Philippines Quần đảo Philippines được người Bồ Đào Nha phát hiện vào năm 1521 theo yêu cầu của các vị vua Tây Ban Nha. Tuy nhiên, họ đã thất bại trong việc truyền giáo cho người dân nơi này. Sau đó, Philippines đã lần lượt bị thống trị bởi Tây Ban Nha, Hoa kỳ, thực dân Anh. Việc mở ra kênh đào Suez đã mang đến cho Philippines một tầng lớp trí thức mới, phần nào thay đổi tư tưởng của
- người dân nước này. Điều này làm dấy lên các cuộc đấu tranh chống đối quân thống trị góp phần mang lại độc lập cho Philippines, trong đó có sự góp sức không nhỏ của vị anh hùng dân tộc Rizal. Philippines chính thức độc lập vào ngày 4 tháng 7 năm 1946 và mở ra một trang sử mới cho công cuộc phát triển đất nước này. Philippines có một nền văn hóa khá đặc biệt pha trộn giữa Tây Ban Nha, Trung Hoa và Hoa Kỳ. Do chịu sự thống trị khá lâu của Tây Ban Nha nên ngày nay, nền văn hóa Philippines chịu ảnh hưởng lớn nhất từ phong cách Tây Ban Nha. Du khách có thể thấy những ảnh hưởng đó qua các phong tục và những nghi thức liên quan đến nhà thờ Thiên Chúa Giáo, đặc biệt là trong các lễ hội đậm màu sắc tôn giáo, lễ hội chọi gà, cuộc thi bắn pháo hoa, lễ hội sắc đẹp và nhảy múa. Nền ẩm thực của Philippines cũng có ảnh hưởng từ Trung Hoa qua món mì đặc sản Mami, một món ăn không thể không thử qua khi đến Philippinses. Hoa Kỳ cũng để lại cho Philippines một nền văn hóa khác đó là ngôn ngữ, tiếng Anh được người dân nơi đây sử dụng như tiếng mẹ đẻ. 2.3. Văn hóa Thái Lan Vương quốc Thái Lan (tiếng Thái: กกกกกกกกกกกกกก Racha- anachak Thai), thường gọi là Thái Lan, là một quốc gia nằm ở vùng Đông Nam Á, phía Bắc giáp Lào và Myanma, phía Đông giáp Lào và Campuchia, phía Nam giáp vịnh Thái Lan và Malaysia, phía Tây giáp Myanma và biển Andaman. Lãnh hải Thái Lan phía Đông Nam giáp với lãnh hải Việt Nam ở vịnh Thái Lan, phía Tây Nam giáp với lãnh hải Indonesia và Ấn Độ ở biển Andaman. Vương quốc Thái Lan - đất nước của những ngôi đền biểu trưng cho nền văn hoá Nông nghiệp - Phật giáo. Tuy chỉ rộng hơn Việt Nam một chút, nhưng lại ít dân hơn - 61 triệu người, biên giới tiếp giáp với bốn nước trong đó phía Nam là Malaysia, phía Tây là Myanmar, Lào về hướng đông Bắc và Campuchia nằm ở phía Đông Nam. Có điều kiện tiếp xúc với nhiều nền văn hoá khác nhau trong cùng khu vực Đông Nam á, hơn thế nữa với bản tính thân thiện của người dân, Thái Lan được mệnh danh là “Đất nước của những nụ cười”. Nhưng sẽ thật thiếu sót khi nói về Thái Lan mà lại không đề cập đến những món ăn độc đáo vì có cả vị chua, ngọt mà vẫn giữ được vị cay và hương thơm đặc trưng.
- 2.4. Văn hóa Brunei Negara Brunei Darussalam, thường được gọi là Vương quốc Hồi giáo Brunei hay đơn giản là Brunei, là một nước nằm trên đảo Borneo, ở Đông Nam Á. Ngoài đường bờ biển ở Biển Đông, nước này hoàn toàn bị Đông Malaysia bao bọc. Nước Brunei giàu dầu lửa và khí gas là thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) và thuộc Khối Thịnh vượng chung Anh. Nhìn tổng thể về lịch sử, có thể nhận thấy rằng nền văn hóa của Brunei là nền văn hóa chịu ảnh hưởng của khá nhiều nền văn hóa lân cận. Việc ảnh hưởng những nền văn hóa lân cận mang đến cho Brunei những nét mới lạ. Những yếu tố văn hóa ảnh hưởng được kết hợp hài hòa đã làm cho nền văn hóa mới của Brunei thêm nhiều bản sắc. Những đất nước mà văn hóa Brunei có ảnh hưởng lớn là Malaysia và Indonesia. Hai đất nước này gần gũi với Brunei về địa lý cũng như về lịch sử hình thành. Cho nên việc Brunei chịu ảnh hưởng khá nhiều về văn hóa hai đất nước này cũng là điều dễ hiểu. Ngoài ra, theo nghiên cứu còn ghi chép cuộc sống sinh hoạt từ ngàn xưa cho đến nay của Brunei đã ảnh hưởng những quy định của văn hóa tôn giáo Hồi giáo và Ấn Độ giáo. Hai nên tôn giáo này ảnh hưởng sâu sắc trong lối sống sinh hoạt hàng ngày của người dân Brunei. Những quy định về lối sống hay phong tục của người Brunei đều phản ánh rõ điều này. Đa số mọi chuẩn mực trong cuộc sống của người Brunei chịu ảnh hưởng của Hồi giáo. Người dân Brunei có nguồn gốc chính là từ người Malaysia. Nhưng trong cuộc sống hàng ngày thì người dân Brunei lại bảo thủ và độc quyền với người dân nguồn gốc của mình. Người ta nhận định rằng chính những quy định về Hồi giáo đã hình thành nên tính cách của người Brunei. Khắp đất nước Brunei vẫn còn lưu giữ lại khá nhiều những công trình kiến trúc mang đậm nét văn hóa kiến trúc đạo Hồi. Nhà thờ ở đây được cho là thiêng liêng và vô cùng có ý nghĩa trong cuộc sống của người dân. Một số ngành thủ công mỹ nghệ như làm đồ trang sức bằng bạc hay nghề làm giỏ đan móc, thêu vẫn được duy trì.
- 2.5. Văn hóa Campuchia Nền văn hóa Campuchia có lịch sử phong phú đa dạng trải qua nhiều thế kỷ và chịu ảnh hưởng nặng của Ấn Độ. Nền văn hóa Campuchia cũng gây ảnh hưởng mạnh lên Thái Lan, Lào và ngược lại. Trong lịch sử Campuchia, tôn giáo có vai trò lớn trong các hoạt động văn hóa. Trải qua gần 2000 năm, người dân Campuchia đã phát triển một tín ngưỡng Khmer độc đáo với các tín ngưỡng hỗn hợp gồm tín ngưỡng thuyết vật linh bản địa và các tôn giáo Ấn Độ như Phật giáo và Hindu giáo. Nền văn hóa và văn minh Ấn Độ bao gồm cả nghệ thuật và ngôn ngữ đã vươn đến lục địa Đông Nam Á khoảng vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Người ta cho rằng, những nhà buôn đi bằng đường biển đã mang phong tục và văn hóa Ấn Độ đến các cảng dọc theo Vịnh Thái Lan và vùng Thái Bình Dương khi họ buôn bán với Trung Quốc. Quốc gia đầu tiên hấp thụ nền văn hóa và văn minh này là Phù Nam. Vào những thời điểm nhất định, Cao Miên cũng hấp thụ các yếu tố của văn hóa Java, Trung Hoa, Lào và Thái Lan. Đa số dân Campuchia (gần 90%) là người Khmer và một tỷ lệ lớn hơn thế nói tiếng Khmer. Các ngôn ngữ khác được sử dụng ở Campuchia có: tiếng Pháp, tiếng Hoa, tiếng Việt và tiếng Anh (đang ngày càng trở nên phổ biến). Campuchia có 90% dân số theo Phật giáo Thượng toạ bộ, và phần đa số còn lại theo Hồi giáo, thuyết vô thần, hoặc thuyết vật linh. 2.6. Văn hóa Malaysia Malaysia là một đấy nước đa văn hóa do sự hòa trộn của những nền văn hóa Mã Lai, Trung Quốc, Ấn Độ, và nền văn hóa bản địa Orang Asli (thổ dân). Mặc dù ở Malaysia có những con đường và những tòa cao ốc hiện đại và họ ứng dụng những công nghệ truyền thông hiện đại nhất, người dân Malaysia vẫn bảo tồn những truyền thống, phong tục xa xưa và vẫn giữ gìn những giá trị truyền thống. Người Malaysia nổi bật với tính cách nồng nhiệt và thân thiện, đó là một điểm nổi bật tượng trưng cho một đất nước giàu truyền thống của họ Người Mã Lai chiếm da số dân số Malaysia. Người Mã Lai là những người theo đạo Hồi chính thống, họ không uống rượu và ăn thịt heo vì đây là những điều cấm kị theo tín ngưỡng đạo Hồi. Người Mã Lai chỉ ăn những thực phẩm được nấu nướng theo nguyên tắc của đạo Hồi và những món ăn được gọi
- chung là halal. Nhiều người Mã Lai và Ấn Độ thích ăn bằng tay vì thế việc đựng thức ăn trong lòng bàn tay và việc người ta sản xuất rất nhiều các loại hóa chất để rửa tay trước và sau khi ăn không có gì là lạ ở đất nước này. Một bộ phận lớn người dân ở Malaysia có tổ tiên là người Trung Hoa. Một bộ phận dân số nữa ở Malaysia là người gốc Ấn Độ và Srilanka. Họ chủ yếu theo đạo Hindu, Sikh, đạo Phật, đạo Thiên Chúa và sử dụng tiếng La Tinh như là tiếng mẹ đẻ. 2.7. Văn hóa Indonesia Đặc trưng văn hóa của Indonesia là văn hoá tôn giáo. Nhưng nền văn hoá của Indonesia là nền văn hoá không thuần nhất. Đó là sự hoà hợp đa dạng giữa các nền văn hoá và phong tục của nhiều tôn giáo. Trong đó, Hồi giáo có ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của người dân Indonesia (khoảng 86% dân số là người hồi giáo). Trong năm, ở Indonesia có nhiều lễ hội được tổ chức. Mỗi lễ hội là đặc trưng cho mỗi nền tôn giáo khác nhau. Indonesia có khoảng 300 nhóm sắc tộc cho nên mỗi nhóm sẽ có nét văn hóa khác biệt. Dù đã trải qua nhiều thế kỷ tồn tại và phát triển cùng với ảnh hưởng từ các nước như Ấn Độ, Ả Rập, Trung Quốc, Malaysia và Châu Âu nhưng nét văn hóa của Indonesia lại có sự phân hóa sâu sắc. Đất nước Indonesia là đất nước của những lễ hội. Hàng năm có rất nhiều lễ hội được tổ chức tại đây. Người dân Indonesia tham gia lễ hội với tinh thần dân tộc nồng nhiệt làm cho du khách như bị níu chân cùng hòa mình vào không khí thân tình. 2.8. Văn hóa Lào Nền văn hóa Lào chịu ảnh hưởng nặng của Phật giáo Thượng tọa bộ. Sự ảnh hưởng này được phản ánh trong ngôn ngữ và nghệ thuật, văn học và nghệ thuật biểu diễn của Lào. Về âm nhạc, người Lào sử dụng nhạc cụ khaen. Các ban nhạc thường sử dụng (mor lam) và khaen (mor khaen) cùng với đàn kéo cùnv các nhạc công khác. Lam saravane là loại nhạc Lào phổ biến nhất. Người Lào ở Thái Lan đã phát triển một dạng gọi là mor lam sing. Ngôn ngữ Lào và Thái có vẻ giống nhau nhưng thực tế khác biệt nhau. Dù phần lớn người Lào hiểu tiếng Thái khẩu ngữ và viết và thậm chí nói được tiếng
- Thái, phần lớn người Thái bên ngoài vùng Isan không hiểu tiếng Lào. Chữ viết Lào và Thái cũng khác nhau và nhìn chung ít người Thái đọc được chữ Lào. Điểm tương đồng giữa hai ngôn ngữ này nhìn chung chúng có có nhiều danh từ như nhau nhưng phần lớn động từ và tính từ thì khác biệt và tiếng Lào không sử dụng các hậu tố giống đực và giống cái như trong tiếng Thái. 2.9. Văn hóa Mianmar Văn hóa của Mianmar chịu ảnh hưởng rõ rệt bởi Phật giáo và người Mon. Các quốc gia bên cạnh như Ấn Độ, Trung Quốc và Thái Lan đóng vai trò rất lớn góp phần hình thành nên văn hóa của Myanma. Gần đây hơn, chế độ cai trị thuộc địa của Anh và Tây phương hóa cũng đã ảnh hưởng nhiều mặt tới nền văn hóa. Tiếng Mianmar là ngôn ngữ chính thức ở Myanma. Đây là tiếng mẹ đẻ của người Mianmar, người Rakhine. Tiếng Mianmar như là tiếng mẹ đẻ của 32 triệu người trên thế giới, và là ngôn ngữ thứ hai của các dân tộc thiểu số ở Myanma. Tiếng Mianmar có thể được phân thành hai loại: Loại chính thống thường thấy trong viết và trong những sự kiện chính thức như phát thanh, phát biểu và loại thông thường thường thấy trong hội thoại hàng ngày. Chữ viết trong tiếng Mianmar có nguồn gốc từ chữ viết của tiếng Mon. Trong kho tàng văn hoá truyền thống Mianmar , âm nhạc dân gian, múa dân gian đã và đang trở thành một tài sản vô cùng quý giá đối với người dân nước này. Âm nhạc truyền thống Mianmar rất đặc sắc với dàn nhạc truyền thống Mianmar bao gồm một bộ trống, một bộ cồng chiêng, những chuông tre, và những nhạc cụ hơi, gồm hne - cho âm thanh rất cao - và sáo cùng chũm chọe. Một bộ trống lớn có tới hai mươi mốt chiếc, còn bộ trống nhỏ thì có chín chiếc. Bộ cồng gồm mười chín chiếc. Đôi khi, thay cho bộ cồng là bộ chiêng tứ giác, nó gồm dàn chiêng treo trên một chiếc khung hình chữ nhật và thêm một vài chiếc chiêng tròn. Trong nền âm nhạc dân gian, đàn Saung - gauk là một loại đàn đặc trưng nhất của Mianmar. Đàn Saung - gauk có hình dáng giống như chiếc thuyền và thường được đệm cho các bài hát cổ. Muốn chơi được loại nhạc cụ này điêu luyện và có hồn, các nhạc công phải luyện tập ít nhất trong vòng 10 năm. Vì lẽ
- đó, các nhạc công chơi thành công loại đàn này ở Mianmar không có nhiều và khoản đầu tư cho tập luyện cũng không hề ít. Không chỉ ấn tượng với nền âm nhạc dân gian, những điệu múa cổ truyền của Mianmar cũng rất độc đáo. Nghệ thuật múa của nước này đã có từ thời đại tiền - Phật giáo, khi việc thờ cúng nat (thần linh) luôn kèm theo việc nhảy múa. Các vũ điệu rất sôi nổi và đòi hỏi người biểu diễn phải thực hiện những cử động rất khó giống như làm xiếc. Ngoài ra vũ điệu Mianmar cũng rất đoan trang, các vũ công nam nữ không khi nào chạm vào nhau. Những người mới học trước hết sẽ được dạy múa ka - bya - lut, một vũ điệu truyền thống căn bản. Có một vũ điệu hết sức thú vị trong đó các vũ công làm những động tác như những con rối. Chính vì thế mà người ta nói rằng vũ điệu của người Mianmar là sự bắt chước kịch rối, thể loại sân khấu đã có thời thay thế cho những vũ công thật. Nữ vũ công chính mặc trang phục cung đình, áo khoác tay dài, vạt rộng thắt eo; longyi dài phấp phới theo những bước chân. Vũ công nam chính ăn mặc như hoàng tử, longyi lụa, áo khoác và chít khăn trắng. Các vai khác gồm tiểu đồng, binh lính, zawgyi (pháp sư) và nat. Mianmar là dân tộc ăn trầu nhiều nhất thế giới. Già, trẻ, lớn, bé, nam, nữ, ai cũng ăn. Đường phố nhiều chỗ đỏ nước trầu. Người Myanmar rất thích thoa một lớp vôi màu lên má. Có người bảo để làm đẹp, kẻ thì nói để giữ da và chống gió, người lại nói để cầu Phật. Trang phục truyền thống của Mianmar là Longchy dành cho nam (một loại xà rông may kín quấn vào chính giữa) với áo sơ mi hoặc Taipon (áo truyền thống) còn nữ thì mặc Thummy gần giống với váy Lào, Thái. Tất cả đều đi dép như dép Lào. Cả nam lẫn nữ chỉ đi giày khi mặc Âu phục. Ẩm thực Mianmar bị ảnh hưởng nhiều từ ẩm thực Ấn Độ, Trung Quốc, Thái, và các nền văn hóa ẩm thực của các dân tộc thiểu số khác. Món chủ yếu trong ẩm thực Mianmar là gạo. Mỳ và bánh mì cũng là các món thường thấy. Ẩm thực Mianmar thường sử dụng tôm, cá, patê cá lên men, thịt lợn và thịt cừu. Thịt bò, bị coi là món cấm kị, rất hiếm được sử dụng. Các món cà ri, như masala và ớt khô cũng được dùng. Mohinga, thường được coi là món quốc hồn Mianmar, gồm nước luộc cá trê có gia vị cà ri và hoa đậu xanh, miến và nước
- mắm. Các loại quả nhiệt đới thường dùng làm đồ tráng miệng. Các thành phố lớn có nhiều phong cách ẩm thực gồm cả Shan, Trung Quốc và Ấn Độ. 2.10. Văn hóa Singapore Nền văn hóa Singapore là nền văn hóa đa sắc tộc. Sự có mặt của nhiều dân tộc trên đảo quốc này trong một thời kỳ dài đã có những căng thẳng. Nhưng cho đến nay Singapore đã thực sự là một đất nước biết hòa hợp và phát triển nét đặc sắc của văn hóa nhiều dân tộc. Quốc kỳ của Singapore gồm 2 phần: nửa ở trên màu đỏ có thình trăng lưỡi liềm và 5 ngôi sao, nửa dưới màu trắng. Màu đỏ trên lá cờ tượng trưng cho mối tình anh em giữa người với người, giữa các dân tộc trên thế giới, và sự bình đẳng của con người. Còn một cách hiểu khác đó là vì Singapore là một nước đa dân tộc (gồm Trung Quốc, Malaysia, Ấn Độ, ) nên có thể hiểu màu đỏ này theo nhiều mặt: sự can đảm và dũng cảm của những người Malaysia, sự may mắn của những người Trung Quốc. Màu trắng là biểu tượng của sự trong sạch và tinh khôi vĩnh viễn, không nhơ bẩn. Trăng lưỡi liềm có nghĩa biểu trưng cho 1 quốc gia trẻ còn đang trên đường phát triển. Năm ngôi sao nhỏ gần mặt trăng tượng trưng cho năm lý tưởng của quốc gia Singapore: dân chủ, sự bình đẳng, hòa bình, phát triển và công bằng. Như vây, qua việc tìm hiểu mười nền văn hóa của mười quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, cho chúng ta thấy được sự đa dạng văn hóa của Đông Nam Á. Đồng thời có cái nhìn sơ lượng về những điểm chung và khác nhau trong văn hóa của các nước.
- CHƯƠNG 2: TÍNH TƯƠNG ĐỒNG VÀ DỊ BIỆT TRONG VĂN HÓA GIỮA CÁC NƯỚC Ở KHU VỰC ĐÔNG NAM Á 1. Khái quát về văn hóa Đông Nam Á 1.1. Đông Nam Á - một khu vực địa lý, văn hoá, lịch sử thống nhất Về mặt địa lý, Đông Nam Á là khu vực nhiệt đới, gió mùa, khí hậu nóng ẩm, nắng lắm, mưa nhiều. Xét ở góc độ cảnh quan địa lý, Đông Nam Á có đủ rừng núi, đồng bằng, sông, biển. Đó là những hằng số tự nhiên góp phần tạo nên bản sắc thống nhất của văn hoá Đông Nam Á: văn hoá nông nghiệp lúa nước, văn hoá sông biển và văn minh xóm làng. Về mặt lịch sử, Đông Nam Á là một trong những cái nôi của nhân loại. Trong quá trình phát triển, số phận của các dân tộc, các quốc gia Đông Nam Á thăng trầm theo những bước lên xuống gập ghềnh khá giống nhau. Nơi đây có chung các nền văn hoá nổi tiếng: văn hoá Hoà Bình, văn hoá Bắc Sơn, văn hoá Đông Sơn, Con đường dựng nước và giữ nước của các dân tộc, các quốc gia Đông Nam Á cũng luôn luôn ở vào một hoàn cảnh tương tự: xây dựng nhà nước sơ khai ban đầu theo mô hình tổ chức của Ấn Độ, cùng phải đối mặt với đế quốc Nguyên Mông, các đế quốc phương Tây và Nhật Bản 1.2. Đông Nam Á có bề dày truyền thống văn hoá lâu đời Trước hết, Đông Nam Á là quê hương của các loại cây có củ như khoai mài, khoai sọ và các loại ngũ cốc mà quan trọng nhất là cây lúa. Có thể nói trong lĩnh vực này, so với nhiều khu vực khác, Đông Nam Á đóng một vai trò tối quan trọng nếu không nói là chủ chốt. Do đó, hiện nay, Đông Nam Á trở thành khu vực xuất khẩu lúa gạo vào loại hàng đầu thế giới. Không chỉ có cây lúa, nền văn minh thực vật Đông Nam Á còn tạo ra chè, quế, hồ tiêu và nghề trồng dâu nuôi tằm. Và hiệu quả của việc tạo ra các sản phẩm này là những con đường thương mại quốc tế mang tên chúng như: Đường chè, đường hồ tiêu, đương tơ lụa. Đông Nam Á là khu vực đầu tiên trên thế giới thuần dưỡng thành công các loài động vật hoang dã như chó, gà, vịt, ngỗng, trâu, voi.
- Đóng góp cho di sản văn hoá thế giới còn phải kể đến đồ gốm (Bản Chiềng - Thái Lan; Sa Huỳnh - Việt Nam), đồ đồng thau (Đông Sơn - Việt Nam) và hàng loạt các công cụ bằng sắt phục vụ cho việc sản xuất nông nghiệp. Về mặt kiến trúc, Đông Nam Á đã để lại cho thế giới những công trình kì vĩ, độc đáo như khu đền Ăngco, tháp Chàm, Chùa Borobudur, hệ thống đê điều Bắc Bộ, Nghệ thuật điêu khắc Khmer, Chăm, Myanmar, cũng là những đóng góp đặc sắc của văn hoá Đông Nam Á. Với một bề dày truyền thống văn hoá như vậy thì sự phát triển kinh tế và văn hoá như hiện nay của các nước Đông Nam Á cũng là điều có thể lý giải được. 1.3. Văn hoá Đông Nam Á thống nhất trong đa dạng Tính thống nhất trong sự đa dạng được biểu hiện ở rất nhiều mặt, nhiều khía cạnh của văn hoá Đông Nam Á. Dưới đây chỉ xin đơn cử một vài ví dụ minh hoạ. Về mặt ngôn ngữ, sự đa dạng của chúng được thể hiện ở chỗ mỗi quốc gia Đông Nam Á hiện có đến hàng chục, thậm chí hàng trăm ngôn ngữ khác nhau. Với gần 200 triệu dân sống ở 13.000 hòn đảo, Indonesia có đến hơn 200 ngôn ngữ dân tộc khác nhau cùng tồn tại. Đất nước 7.107 hòn đảo Philippines cũng có đến khoảng 80 ngôn ngữ dân tộc. Các nước Đông Nam Á khác cũng là những quốc gia đa ngôn ngữ. Tuy nhiên, dù hết sức đa dạng, nhiều vẻ các ngôn ngữ Đông Nam Á đều chỉ thuộc về một trong số 4 ngữ hệ như chúng ta đã biết: Nam Á, Nam Đảo, Thái, Hán Tạng. Và xa hơn nữa, chúng đều bắt nguồn từ một gốc chung là ngôn ngữ Đông Nam Á tiền sử. Quả là một sự thống nhất cao độ từ trong cội nguồn của chúng. Phong tục tập quán là một cái gì hết sức riêng biệt của mỗi dân tộc. Ở Đông Nam Á có đến hàng trăm dân tộc khác nhau, vì thế các phong tục, tập quán cũng rất đa dạng. Sự đa dạng của nó đến mức mỗi làng, mỗi bản đều có những tập tục riêng của mình. Song trong cái hằng hà sa số ấy, người ta vẫn tìm thấy nhiều đặc điểm chung mang tính chất toàn vùng, mang tính phổ quát cho cả khu vực. Đó là cách ăn mặc với một trang phục chung là sarông (váy), khố, rồi vòng đeo tai, vòng đeo cổ, Đó là tục ăn uống với thức ăn chính là cơm, rau, cá, và
- hoa quả. Đó là tục ăn hỏi trước khi tổ chức đám cưới linh đình. Đó là tục chôn theo người chết những thứ cần thiết cho cuộc sống và những thứ mà khi còn sống họ thường ưa thích. Đó là tục nhai trầu, cưa, và nhuộm răng đen, xăm mình; rồi đến cả những trò vui chơi giải trí như thả diều, thi chọi gà, bơi thuyền, Trong cách ăn ở, ngôi nhà chung của các dân tộc Đông Nam Á là nhà sàn “cao cẳng” thích hợp với mọi địa hình và rất phù hợp với khí hậu nóng ẩm của khu vực. Sự đa dạng của phong tục tập quán còn được biểu hiện ở các lễ hội, lễ tết Đông Nam Á. Có thể nói, ở mỗi dân tộc, mùa nào, tháng nào cũng có lễ hội. Nếu làm một phép thống kê, con số các lễ hội, lễ tết Đông Nam Á đều quy tụ về một loại thống nhất: Lễ hội nông nghiệp. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, tín ngưỡng bản địa Đông Nam Á dù hết sức đa dạng, nhiều vẻ vẫn có thể thuộc về một trong số ba loại chính: Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, tín ngưỡng phồn thực và tín ngưỡng thờ cúng người đã mất. Một nét chung khác nữa trong tín ngưỡng bản địa Đông Nam Á là thuyết vạn vật hữu linh, là tục thờ Thần, đặc biệt là những vị thần liên quan đến việc trồng cấy như thần Đất, thần Nước, thần Mây, thần Mặt trời, Tóm lại, ở mọi thành tố của văn hoá Đông Nam Á chúng ta đều có thể tìm thấy một sự thống nhất trong muôn hình muôn vẻ sự tồn tại đa dạng của chúng ở các dân tộc Đông Nam Á. 1.4. Văn hóa Đông Nam Á mang tính chất mở, giao lưu với bên ngoài Đặc điểm này có cơ sở từ hai lí do chính. Thứ nhất, do tính cách, bản chất của con người Đông Nam Á: Luôn luôn cởi mở (sẵn sàng tiếp nhận, không có thành kiến dân tộc) và năng động (sáng tạo). Thứ hai, do vị trí của khu vực Đông Nam Á. Đông Nam Á, như chúng ta đã biết nằm trên đường giao lưu Trung Hoa và Ấn Độ, nằm gọn trên trục thông thương Đông - Tây qua hai đại dương. Vị trí ấy tạo điều kiện cho Đông Nam Á, ngay từ buổi đầu lịch sử, đã sớm tiếp thu ảnh hưởng của văn hoá Trung, Ấn, Arập và sau này sớm tiếp thu ảnh hưởng của văn hoá phương Tây. Những dấu ấn về sự tiếp thu ấy còn để lại khá đậm nét trong văn hoá Đông Nam Á. Các yếu tố mới tiếp thu từ bên ngoài cùng với các yếu tố bản địa đã làm cho vườn hoa Đông Nam Á càng đa dạng sắc màu hơn. 1.5. Văn hóa duy trì các đặc trưng văn hoá mang tính nông thôn
- Khác với văn hoá phương Tây, vốn hầu như chỉ mang tính chất thành thị, văn hoá Đông Nam Á còn lưu giữ rất nhiều những nét gắn liền nó với nông thôn, cũng như với nguồn gốc xa xưa, tức là duy trì cái cơ sở chung gắn liền với quá khứ. Những yếu tố, những đặc trưng văn hoá mang tính nông thôn còn tồn tại khá nhiều, chẳng hạn: Nông nghiệp lúa nước và tổ chức làng xã có tính chất tự quản thích hợp với nền nông nghiệp này; quan niệm về gia đình xây dựng trên sự hoà hợp vợ chồng trong đó vai trò của người phụ nữ được coi trọng; những nghi lễ gắn liền với lá trầu, quả cau trong mọi giao tiếp xã hội; những tín ngưỡng gắn liền với linh hồn cha mẹ, những tàn dư vạn vật hữu linh vẫn được duy trì cho dù nước này theo Phật giáo, nước kia theo Hồi giáo hay Thiên chúa giáo. Trong văn học vai trò của văn học dân gian vẫn chiếm vị trí quan trọng, bên cạnh dòng văn học mới ít chịu ảnh hưởng của văn học phương Tây. Các lĩnh vực văn hoá nghệ thuật khác như âm nhạc, vũ, điêu khắc, hội hoạ cũng ở trong tình trạng tương tự. Về mặt tâm thức, con người Đông Nam Á coi trọng cộng đồng hơn cá nhân, thích hoà hợp hơn cạnh tranh, lấy tình nghĩa làm chính trong các quan hệ giưũa người với người. Như vậy, nhìn chung có thể đánh giá rằng, Đông Nam Á là một khu vực có những đặc trưng văn hoá riêng. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, bản sắc ấy ngày càng được bồi đắp thêm bởi những yếu tố mới tiến bộ. Ngày nay, các nước Đông Nam Á đều đã giành được độc lập và đang bước vào thời kì phát triển kinh tế, xây dựng xã hội mới giàu mạnh, tiên tiến, hiện đại. Chỉ với mấy chục năm khôi phục kinh tế, phát triển đất nước, các quốc gia Đông Nam Á đã thu được những thành tựu đáng kể. Có được những thành tự ấy, một trong những lý do quan trọng nhất là bởi khu vực này từ xa xưa đã có một bản sắc văn hoá chung, đặc sắc mà chỉ ngày nay trong hoàn cảnh thế giới mới, nó mới có điều kiện phát huy sức mạnh vốn có của mình. 2. Sự tương đồng trong văn hóa giữa các nước ở khu vực Đông Nam Á
- 2.1. Nguyên nhân của sự tương đồng Có nhiều nguyên nhân tạo nên nét tương đồng trong văn hóa giữa các nước trong khu vực Đông Nam Á như lịch sử, điều kiện tự nhiên, xã hội, dưới đây là một số nguyên nhân chủ yếu. 2.1.1. Cùng nằm trong khu vực địa lý lịch sử Người ta thường nói rằng “mối quan hệ giữa con người và tự nhiên cũng là một mặt cơ bản của đời sống văn hóa”. Có thể nói rằng điều kiện tự nhiên, môi trường tự nhiên của một khu vực chắc chắn có một ảnh hưởng nhất định đến đời sống văn hóa của những con người sống trong khu vực đó. Mặc dù ở đây không có những đồng bằng rộng lớn như vùng châu thổ sông Ấn, sông Hằng hay Hoàng Hà; cũng không có những đồng cỏ mênh mông như vùng thảo nguyên. Không gian sinh tồn ở đây tuy nhỏ hẹp bên cạnh những con sông Hồng, sông Mê công, nhưng lại rất phong phú, đa dạng. Con người có thể khai thác ở thiên nhiên đủ loại thức ăn để sinh tồn trên cùng một địa vực hạ lưu con sông. Đây là lí do tại sao khi cùng nằm trong vùng địa lý đã tạo cho văn hóa các nước ở Đông Nam Á có nhiều nét tương đồng với nhau. Cùng sinh ra và phát triển trên một khu vực địa lí, cư dân Đông Nam Á đã sáng tạo ra một nền văn hóa bản địa riêng biệt, độc đáo, có cội nguồn chung từ thời tiền sử và sơ sử, trước khi tiếp xúc với văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ. Nền văn hóa mang tính khu vực thống nhất đó được phát triển liên tục trong suốt chiều dài lịch sử cho đến tận ngày nay. 2.1.2. Văn hóa Đông Nam Á hình thành trên cơ sở nông nghiệp lúa nước Cùng sinh ra và lớn lên trên một khu vực địa lí, cư dân cổ đại Đông Nam Á đã tạo nên một nền văn hóa bản địa có nguồn gốc chung, mang tính thống nhất cho toàn vùng, đó là một nền văn hóa, văn minh mang tính đặc sắc với nghề nông trồng lúa nước là chủ đạo. Nền văn hóa, văn minh đó phát triển liên tục trong lịch sử và là một phức thể văn hóa lúa nước với ba yếu tố: Văn hóa núi, văn hóa biển và văn hóa châu thổ, trong đó văn hóa châu thổ giữ vai trò chủ đạo. Hay như Trần Quốc Vượng và Cao Xuân Phổ đã nhận xét: Đó là một nền văn minh có đủ sắc thái đồng bằng,
- biển, nửa đồi nửa rừng với đủ dạng kết cấu đan xen phức tạp, Nhưng mẫu số chung là “văn minh lúa nước, văn hóa xóm làng”. Các nhà khoa học đã khẳng định Đông Nam Á là một trong năm trung tâm xuất hiện cây trồng. Nó “là một trong những trung tâm phát sinh nông nghiệp sớm nhất của nhân loại”. Vào thời đại đá mới, một thành tựu khác của nền văn hóa tiền sử và sơ sử Đông Nam Á sau nghề trồng lúa nước, như đã nói, là sự xuất hiện của một nghề kim khí đặc biệt: Nghề luyện kim đồng, mè tiêu biểu nhất là đồ đồng Đông Sơn. Nghề luyện kim đồng, thực ra, đã xuất hiện trước cả nền văn hóa Đông Sơn rất lâu. Kĩ thuật luyện đồng Đông Sơn là sự phát triển kế tục,không ngừng của kĩ thuật luyện kim các giai đoạn văn hóa tiền Đông Sơn. Như vậy, từ buổi đầu của lịch sử, Đông Nam Á đã trở thành một khu vực đáng chú ý với nền văn minh nông nghiệp lúa nước và nghề luyện kim đồng nổi tiếng thế giới. Tất nhiên là trong việc tạo nên những thứ như là cây lúa trồng, nghề luyện kim đồng hoặc những thành tựu văn hóa khác, có sự tham gia không chỉ của những dân tộc riêng biệt - đó là kết quả sang tạo của rất nhiều dân tộc lớn nhỏ đã tạo nên trong suốt chiều dài lịch sử nhiều nghìn năm của mình cái thế giới độc đáo được gọi là văn hóa Đông Nam Á. Chính điều này đã tạo nên cho văn hóa các nước ở Đông Nam Á có nhiều nét tương đồng với nhau. 2.1.3. Cùng có sự tiếp xúc và giao lưu với các nền văn hóa lớn a. Tiếp xúc và giao lưu với văn hóa Trung Hoa Sự bành trướng của Trung Hoa xuống Đông Nam Á đã tạo ra sự tiếp xúc cưỡng bức và giao thoa văn hóa Đông Nam Á - Hán, Hoa. Ở đời Tần, các vương quốc Đông Nam Á tiền sử ở bờ nam sông Dương Tử bị đồng hóa vào văn hóa Trung Hoa, Người “man man”, tức tộc người có cơ tầng văn hóa Đông Nam Á tiền sử, bị đồng hóa với Hoa tộc để trở thành Hán tộc. Tuy nhiên sự đồng hóa này có tính chất hai chiều, nghĩa là cả hai bên đều có sự tác động qua lại. Vì vậy, trong văn hóa Hán tộc cũng có nhiều yếu tố phương nam, chẳng hạn “Việc trồng lúa nước, việc trồng dâu nuôi tằm lấy tơ, việc trồng cây chè và uống chè là những thành tựu của vùng Đông Nam Á mà Hoa tộc đã tiếp thu được khi đồng hóa các cư dân nam sông Dương Tử để cùng trở thành Hán tộc”. Như vậy, ngay từ đầu công nguyên, ảnh hưởng của văn hóa Trung
- Quốc đã ra toàn bộ phía bắc của vùng Đông Nam Á tiền sử. Ảnh hưởng ấy diễn ra cùng với sự thôn tính của các quốc gia đã hình thành từ trước. Tuy nhiên, bước chân của kẻ xâm lược không dừng lại ở đó, chúng còn tiếp tục tiến đến nước Âu Lạc ở xa hơn phía Nam. Sự tiếp xúc cưỡng bức và giao thoa văn hóa Đông Nam Á - Hán thể hiện qua tư tưởng của Nho giáo, Lão giáo, và còn thể hiện trong cách ăn, mặc, ở, đi lại, phương thức sản xuất, quan hệ xã hội, ngôn ngữ, Về mặt ngôn ngữ hàng loạt từ Hán được du nhập vào các ngôn ngữ ở Đông Nam Á như tiếng Thái, Khơ me, Lào, tiếng Việt, Riêng trong tiếng Việt, mọi người đều biết số lượng chữ Hán chiếm không nhỏ. Về âm nhạc, bên cạnh những nhạc cụ mang bản sắc riêng Đông Nam Á, một số nhạc cụ Trung Hoa như khánh, chuông, cũng được người Việt và một số dân tộc Đông Nam Á khác tiếp nhận và sử dụng. b. Tiếp xúc và giao lưu với văn hóa Ấn Độ Ngay từ đầu công nguyên, các cư dân Đông Nam Á đã có dịp tiếp xúc, giao lưu với văn hóa Ấn Độ qua các thương gia và các nhà truyền giáo. Khác với Trung Quốc, văn hóa Ấn Độ xâm nhập vào khu vực Đông Nam Á không phải bằng cách cưỡng bức, bằng sự đô hộ mà bằng con đường hòa bình. Chính vì vậy đối với các quốc gia Đông Nam Á, việc tiếp nhận văn hóa Ấn Độ , hay nói một cách chính xác hơn, sự giao lưu văn hóa Đông Nam Á - Ấn Độ, gần như là tự nhiên. Việc ảnh hưởng được thể hiện ở rất nhiều mặt và nhiều khía cạnh, ảnh hưởng đó toàn diện và sâu sắc. Ảnh hưởng từ chữ viết, đó là sự phổ biến của chữ Pali - Sanscrit ở rất nhiều quốc gia Đông Nam Á như Campuchia, Thái Lan, Lào, Hàng loạt từ Ấn Độ cũng đã được du nhập vào các ngôn ngữ như vào tiếng Malayu, tiếng Việt, tiếng Khơme, tiếng Thái, Về phương diện văn học, hai trường ca nổi tiếng của Ấn Độ là Ramayana và Mahabharata được truyền sang nhiều vùng Đông Nam Á và thậm chí ở một số nơi, chẳng hạn ở đảo Java (Indonesia). Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc được thể hiện rất rõ nét ở các đền tháp, chùa chiền được xây dựng ở khắp Đông Nam Á mà tiêu biểu hơn cả là Ăngco Wat, Ăngco Thom, hệ thống tháp ở vương quốc Cham pa, chùa Borobodur, chùa Thạt Luông, Đối với các công trình kiến
- trúc đồ sộ này, ảnh hưởng từ quan điểm nghệ thuật kiến trúc tôn giáo Ấn Độ đậm đà: Đó là kiến trúc Hindu giáo (Ăngco Wat, tháp Chăm) và kiến trúc Phật giáo (Borobodur, Thạt Luông). Bên cạnh đó còn ảnh hưởng cả mô hình chính trị, xã hội. Như vậy, trên cơ sở của một nền văn hóa bản địa vững chắc - nền văn hóa nông nghiệp lúa nước, trong thiên niên kỉ đầu công nguyên, nhân dân Đông Nam Á đã tiếp thu nhiều yếu tố văn hóa mới (cả về vật chất lẫn tinh thần) từ Trung Quốc và Ấn Độ. Và điều đó đã làm cho bức tranh văn hóa Đông Nam Á ngày càng phong phú, đa dạng, giàu có. Và cũng chính điều này tạo nên những nét chung, thống nhất trong văn hóa mỗi quốc gia. c. Tiếp xúc và giao lưu văn hóa với phương Tây Sau này vào thế kỉ XVIII - XIX, khi các quốc gia phương Tây xâm chiếm vào khu vực Đông Nam Á đã mang theo những văn hóa của phương tây để đưa vào đồng hóa các quốc gia ở trong khu vực. Chính vì vậy, văn hóa các quốc gia Đông Nam Á thời kì này đã ảnh hưởng sâu sắc văn hóa phương Tây, đặc biệt về mặt tôn giáo và về mặt nghệ thuật ở các công trình kiến trúc, nhà ở, ngôn ngữ và chữ viết. 2.2. Những điểm tương đồng trong văn hóa giữa các nước ở Đông Nam Á Văn hóa Đông Nam Á là bức tranh đa màu sắc với nhiều nền văn hóa khác nhau, đó là bức tranh văn hóa thống nhất trong đa dạng, nó có những nét tương đồng với nhau, để từ đó hình thành nên mẫu số chung của văn hóa khu vực Đông Nam Á. Những nét tương đồng được thể hiện ở những nội dung sau. 2.2.1. Văn hóa được hình thành trên nền văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước Về phương diện văn hóa vật chất trồng lúa nước của người dân Đông Nam Á thể hiện nét tương đồng ở: Làm ruộng cấy lúa, nuôi trâu bò, dùng đồ kim khí thô sơ, giỏi bơi thuyền. Như đã trình bày văn hóa của các quốc gia cổ Đông Nam Á chủ yếu hình thành trên nền văn hóa của nông nghiệp lúa nước. Những thành tựu chủ yếu của nghề nông Đông Nam Á thời tiền sử là: Trồng được lúa và các loại rau màu như
- bầu bí, khoai, ; thuần dưỡng được các loại gia súc như trâu, bò; làm được nhà để ở; biết dùng một số cây thuốc để chữa bệnh. Nhận xét về những thành tựu của văn hóa Đông Nam Á, giáo sư nhân chủng học Mỹ W.G. Soltheim II viết: “Những phát hiện mới đây ở khu vực Đông Nam Á bắt buộc chúng ta phải xem xét lại, Những vật dụng đã được đào lên và phân tích trong vòng năm năm qua cho thấy rằng cư dân ở đây đã biết trồng cây, làm đồ gốm và đúc đò dùng bằng đồng sớm hơn tất cả các vùng khác trên trái đất, sớm hơn các dân tộc Cận đông, Ấn Độ và Trung Hoa tới hàng mấy nghìn năm”. Học giả Nga Ja.V. Chesnov cũng nhận xét: “Về hàng loạt phương diện của văn hóa - từ sản xuất nông nghiệp cho đến lĩnh vực thần thoại - Đông Nam Á đã có những ảnh hưởng lớn vượt rất xa ra ngoài ranh giới những láng giềng trực tiếp của nó, tất nhiên trong việc tạo nên những thứ như là cây lúa trồng, nghề luyện kim đồng hoặc những thành tựu văn hóa khác, có sự tham gia không chỉ của những dân tộc riêng biệt - Đó là kết quả sáng tạo của rất nhiều dân tộc lớn nhỏ đã tạo nên trong suốt chiều dài lịch sử nhiều nghìn năm của mình cái thế giới độc đáo được gọi là Đông Nam Á”. 2.2.2. Tương đồng trong hệ thống tổ chức xã hội Căn cứ vào những dấu vết được bảo lưu trong xã hội các cư dân nông nghiệp ở Đông Nam Á, có thể chúng ta hình dung một cách đại thể rằng hình thức gia đình lớn (bao gồm nhiều thế hệ) thuộc chế độ mẫu hệ (mà ngày nay chúng ta vẫn còn thấy ở người Ê đê, Gia rai - chế độ nhà dài, hay một khuôn viên đất ở như người Chàm. Do đó, chúng ta thấy rằng hệ thống tổ chức xã hội các nước ở Đông Nam Á có những điểm tương đồng là: Người phụ nữ chiếm vị trí quan trọng trong xã hội, huyết tộc mẫu hệ, tổ chức xã hội theo nhu cầu tưới nước cho đồng ruộng. Cho đến nay người ta chưa rõ vì lí do gì: vì áp lực dân số hay vì đặc thù của phương thức canh tác lúa nước tản mạn theo từng thửa ruộng? Có thể vì cả hai! Khi mà trên các thềm cổ quá hẹp của các dòng sông, dân số tăng, khi mà cư dân vùng thung lũng thử nghiệm thành công mô hình kinh tế - xã hội lúa nước với năng suất rất cao, cuộc sống định cư ổn định thì các cư dân trồng rau củ quả ở vùng cao ồ ạt kéo nhau xuống vùng thung lũng và đồng bằng ngập nước, các
- gia đình lớn bị vỡ vụn ra và mỗi gia đình canh tác trên một thửa ruộng theo sự phân công “chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”, gia đình hạt nhân dần dần được xác lập trên nguyên tắc gia trưởng phụ hệ trong cái bể mênh mông của tàn dư mẫu hệ gia đình lớn. Như vậy, làng bản của cư dân nông nghiệp lúa nước Đông Nam Á là những tế bào xã hội gồm những gia đình hạt nhân với hai mối quan hệ đan xen: Quan hệ huyết thống và quan hệ láng giềng, trong đó mối quan hệ láng giềng là chủ đạo. Vì thế người ta xử sự theo thứ tự ưu tiên “bán anh em xa mua láng giềng gần”, mặc dù họ vẫn cho rằng “một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Tâm lí cộng đồng tình làng nghĩa xóm đã chi phối mọi ứng xử trong xã hội nông nghiệp theo kiểu: trong họ ngoài làng, hòa cả làng, phép vua thua lệ làng, Tâm lí đó được hình thành trên cơ sở thiết chế công xã nông thôn, được thắt chặt bởi các những nghi thức, những tập quán mà mỗi thành viên đều phải tuân thủ theo dù vô thức hay hữu thức. Để thắt chặt mối quan hệ làng xóm vốn dựa trên quan hệ láng giềng lỏng lẻo, người ta đã mở rộng huyết thống được dung làm đại từ xưng hô trong xã hội. Do đó, ra ngoài làng, xã hội, thậm chí trong phạm vi cả nước người ta vẫn xưng hô với nhau bằng các đại từ: Cô, dì, chú, bác, con cháu, anh hai, anh ba, Những lối sống và cách ứng xử như vậy đã là cơ sở cho những tư tưởng tương đương thân tương ái, đùm bọc lẫn nhau, nhưng cũng rất đậm tính chất gia trưởng, địa phương cục bộ góp phần làm trì trệ xã hội phương Đông trước cuộc sống hiện đại. Vì là cư dân nông nghiệp coi trọng kinh nghiệm nên cư dân Đông Nam Á rất coi trọng người già (những người nhiều tuổi bậc trên, có nhiều kinh nghiệm và uy tín trong con cháu) và quản lý làng bản dựa trên chế độ già làng (Việt Nam có câu “Triều đình trọng tước, làng nước trọng xỉ”. Xỉ là cái răng, ai rụng hết răng còn lợi được xem là người già và được kính trọng. Hiện nay còn dấu vết phong tục “lên lão”). Già làng là cái cốt lõi của cái mà ta gọi là dân chủ công xã. Trong quá trình tích hợp văn hóa - tộc người, có thể do yêu cầu của các công tác thủy lợi đắp đê và bảo vệ vùng đất màu mỡ, các tộc người đã liên kết lại trong một hệ thống chính trị gồm nhiều “mường” do một tù trưởng của một
- “mường” lớn có ưu thế về quân sự, kinh tế hay tôn giáo đứng đầu. Vị trí và phạm vi ảnh hưởng của người cầm đầu này có thể tùy theo sức mạnh của ông ta. Bộ máy chính trị của “Mường” lớn ngày càng hoàn thiện và do con em trong dòng họ của người thủ lĩnh đảm nhiệm, nơi nào quá xa họ giao cho người cần đầu địa phương, từ đó mối quan hệ bản - mường được mở rộng thành các tiền - quốc gia. Người đứng đầu mường lớn có người gọi đó người Thái gọi đó là “Pò Kun”, người Mường gọi là “Lang Kun”. Tình hình tương tự cũng diễn ra trong quá trình hình thành các quốc gia cổ đại ở vùng hải đảo. Các vương quốc đều là những tập hợp các tiểu quốc, do đó hệ thống quản lí đều dựa trên các tù trưởng của địa phương. Để nắm được quyền quản lí nhà vua sai các con trai của mình đến làm lãnh chúa ở các địa phương. Thời Srivijaya gọi là Nisamvardhiky (người có trách nhiệm với quốc vương). Nơi nào không với tới, vua sử dụng các tù trưởng địa phương, các bộ tộc, được gọi là Nigalarka (kẻ trung thành với quốc vương). Vì lẽ đó mà Đông Nam Á trong quá trình tích hợp văn hóa tộc người, một quy luật được rút ra: Dựng nước đi đôi với giữ nước, độc lập gắn liền với thống nhất. Để đảm bảo quyền lực tuyệt đối, người tù trưởng mạnh nhất đã đứng lên thống nhất đất nước chống lại sự chống đối của lực lượng phân cát. Nhà vua vừa nắm quyền lực chính trị vừa thống soái các lực lượng quân sự. Ví dụ như ở Việt Nam nhà Đinh phải dẹp loạn 12 sứ quân để lập nên nhà nước Đại Việt; Châu Phà Ngừng ở Lào phải tổ chức “Hội thề”, 3 năm một lần nhà vua triệu tập các chẩu mường về kinh đô dự lễ cầu nguyện thần linh và mỗi tù trưởng phải mang theo một quả bầu và gọi là “quả sức mạnh, quả trường tồn” làm lễ vật dâng lên vua Lào. Ý chí đó được thể hiện trên đỉnh Thạt Luổng là một quả bầu, một biểu tượng hội nhập Phật tích ngọn núi Mêru với thần thoại nguồn gốc loài người của Lào. Vua Srivijaya (Indonesia) tổ chức “hội thề nước”. 2.2.3. Có chung yếu tố tín ngưỡng bản địa Cùng sinh ra và lớn lên trong một khu vực địa lý, cùng cóchung một cơ tầng văn hóa nông nghiệp lúa nước, cư dân Đông Nam Á đều có chung một số
- yếu tố tín ngưỡng bản địa như nhau, chẳng hạn tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng sung bái linh hồn người đã mất, Cái chung nhất của tất cả các tín ngưỡng này, như nhiều nhà nghiên cứu khẳng định, là xuất phát từ học thuyết vạn vật hữu linh, nghĩa là mọi vật đều có linh hồn. Linh hồn biết tất cả những gì mà con người đang làm và linh hồn có thể giúp con người mọi việc ở mọi lúc, mọi nơi, nhất là những lúc con người ở vào tình thế nguy nan. Vì vậy, thờ cúng các linh hồn được coi là bổn phận của con người. a. Tín ngưỡng vạn vật hữu linh Người xưa quan niệm vạn vật cũng như con người đều có linh hồn, từ núi sông, cây cỏ, thú vật đến con người. Tín ngưỡng vạn vật hữu linh bắt nguồn từ một thực tại: trước thiên nhiên bao la đầy bí ẩn và hiểm họa, con người đã thần thánh hóa các lực lượng tự nhiên thành siêu nhiên với những biểu trưng sức mạnh của thần linh và con người thờ cúng, cầu khẩn để được che chở. Trước hết cư dân Đông Nam Á thờ cũng thần Đất. Người Thái, người Lào gọi là Phi. Họ có Phi hưởn là ma nhà, phi bản là ma bản, phi mương là ma xứ, ma nước. Người Khmer gọi là Natta thường được gọi là ông Tà, thờ bằng đá. Người Miến gọi lag Nat. Ở Myanmar Nat có nghĩa là linh là hồn, là thần, là ma. Một Nat là một vị thần linh nào đó trú ngụ trên cây, hay trong làng nhưng có Nat là cho cả một lãnh thổ. Ở Myanmar có hệ thống 36 Nat nhân cách hóa chung cho quốc gia, có tiểu sử cụ thể và được tôn thờ trong cả nước. Ngoài ra còn một số Nat địa phương. Sau này khi vua Anorathan lên làm vua ở thế kỉ XI, tôn thờ đạo Phật đã tìm cách tiêu diệt tín ngưỡng thờ Nat nhưng không được. Sau đó pahir đưa 36 Nat vào thờ chung với Phật. Gắn liền với việc thờ đất là thờ thần núi. Hầu hết các công trình thờ phụng đều nằm trên núi. Người Đông Nam Á cũng coi trọng thờ thần cây trong đó đặc biệt là tín ngưỡng thờ hồn lúa. Ở Đông Nam Á cây lúa là cây thiêng, là một tặng vật của thần linh, là lương thực chính của con người. Ở Java cây lúa là hiện thân của nữ thần Devisri. Do vậy nên có nhiều điều cấm kị đối với đàn ông trong việc tiếp xúc với cây lúa. Đàn ông không được gần nữ thần. Họ có thể làm các công việc chaaurn bị đất như cầy, bừa còn các công việc gieo hạt, nhổ mạ, cấy lúa,
- tưới bón chỉ phụ nữ mới được làm. Bên cạnh nữ thần Drevisri còn có nam thần Wisna. Đến mùa gặt người ta làm lễ cưới cho hai vị thần sau khi đã chuyển thóc vào kho để cầu khẩn sự tốt lành cho mùa vụ mới. Người Mã Lai cũng có nhiều nghi lễ về cây lúa. Cây lúa được gọi là công chúa Anak Raja và được trông nom cẩn thận từ khi gieo hạt đến khi gặt đem về kho. Cấm không được gõ, đập vào bồ lúa vì sợ làm như vậy hồn lúa sẽ bỏ đi, mùa năm sau sẽ thất bát. Người Khmer xem mẹ lúa là người đàn bà cưỡi trên mình cá, tay cầm bông lúa. Người Mảng, người Khmú hình dung mẹ lúa là cô gái trong trắng xinh đẹp trú ngụ trên vạt nương. Người Bahnar gọi thần lúa là Yangsơri, một nữ thần quyết định sự no ấm của con người. Hàng năm vào dịp trước khi thu hoạch lúa để tạ ơn thần Yangsơri họ làm lễ Samơk (cốm mới). Nhiều dân tộc ở miền núi Việt Nam có tập quán thờ ông bà lúa. Dân tộc Cơ tu ở Trường Sơn dành chỗ đẹp nhất trong bếp làm nơi thờ thần lúa với cây tơru. Tơru là một cái rọ đan dày, treo trên cột bếp, trong đó có những mảnh vải đẹp và ở giữa có những cái hộp nhỏ đựng thóc. Mỗi năm chọn một ít hạt thóc mới, đẹp, mẩy đặt vào hộp thay thóc cũ. Khi chuyển bản, dời nhà thì mang theo hộp thóc thờ và tơru mới ở nhà mới. Khi gặt lúa, tuốt lúa tất cả các lối vào bản đều có treo cành cây giữa đường cấm không cho người lạ vào bản. Tuốt lúa xong là ngày hội. Thanh niên múa hát, nhà nhà nấu cơm trắng, đơm vào giỏ chia cho nhau. Càng chia cho nhiều người ông bà lúa càng bằng lòng. Sau khi múa hát xong, thanh niên tung hết các giỏ cơm lên trời, cơm rơi xuống đất cho chim rừng ăn. Sau lễ hội, cúng trời đất xong người Cơ tu mới tiếp khách. Người Dao quan niệm rằng mỗi bông lúa, mỗi hạt thóc đều có hồn, ở trên nương chúng được gần nhau, nhưng khi thu hái hồn lúa có thể bị thất lạc do rơi vãi, do đó cần làm lễ cúng để gọi chúng về sum họp, trên bàn cúng bên cạnh lễ vật còn có một cụm mẹ thóc. Sau khi cúng xong cụm mẹ thóc ấy được để dành làm bánh cho cả nhà ăn vì họ cho rằng trong đó có hồn lúa, nếu ăn vào sẽ khỏe người, có khả năng chống các loại bệnh tật. Ở Bali Indonesia, người ta gọi nữ thần lúa là Trili hoặc Devi Seri. Nghi lễ về nữ thần lúa được tiến hành trên cánh đồng vào thời gian đập lúa.
- Người Mã Lai hình dung hồn lúa như một con người bé nhỏ, thanh mảnh, hay giận dỗi, dễ bị tổn thương, cần được đối xử một cách dịu dàng ân cần. Họ gọi hồn lúa bằng một cái tên âu yếm như “công chúa mặt trời”, “công chúa Pha lê”. Đầu mùa gieo hạt, đầu mùa gặt người chủ lễ Pawang trân trọng nâng niu một nắm hạt lúa tượng trưng cho việc làm vừa lòng hồn lúa, để lúa tránh bị con người xúc phạm, khỏi bị ma quỷ ám hại. Những nhánh lúa đầu tiên được gặt bằng những cái liềm rất nhỏ chỉ bằng lòng bàn tay và được cắt thật nhẹ nhàng với ngụ ý tránh làm phật lòng hồn lúa. Bảy nhánh lúa tốt nhất sẽ được bó xếp vào giỏ riêng, giữ gìn cẩn thận cho đến mùa sau. Nghi lễ này thể hiện việc mời hồn lúa về nhà. Ở Thái Lan, khi lúa ngậm đòng, nông dân bắt đầu tổ chức lễ cầu nữ thần lúa. Họ chuẩn bị các lễ vật gồm cam, chuối, gói là đựng các khẩu mía tiện. Ngoài ra còn có cả phấn, nước hoa và một cái lược. Họ đem treo cái rổ đựng lẽ vật lên trên cột, rắc phấn, nước hoa lên lá lúa, cây lúa. Họ làm điệu bộ chải tóc cho nữ thần lúa như thể họ đang trang điểm cho nữ thần lúa. Họ cho rằng nữ thần lúa đang mang thai tức đã ngậm đòng nên họ đem các lễ vật và trang điểm để nữ thần lúa vui sướng, khỏe mạnh, sinh sản nhiều. Kết thúc vụ màu thu hoạch, người Mã Lai, người Java đều thường có nghi lễ gắn với việc thành hôn cho “cô dâu lúa” với người chồng thần linh. Đám cưới ấy đảm bảo cho vụ mùa năm sau có kết quả. Các cư dân Đông Nam Á khi đi qua rừng rú, sông biển đều thường khấn vái các thần phù hộ. Khắp nơi trong Đông Nam Á tín ngưỡng thần lin phổ biến trong mọi hoạt động của đời sống với vô vàn lễ thức tế tự, nhất là khi con người bị ốm đau, tai nạn. Đối với cư dân nông nghiệp lúa nước Đông Nam Á, Mặt Trời tượng trưng cho sinh khí của vũ trụ tạo nên sự sống cho muôn loài và lúa được xem là ánh sáng và sức nóng của Mặt Trời do đó cư dân ở đây còn có tục thờ Mặt Trời và thờ Lửa. Tục thờ Mặt Trời được ghi lại trên trống đồng Đông Sơn. Trên mặt trống, giữa trung tâm là hình Mặt Trời với 14 tia và cuộc sống trên Trái Đất xoay quanh Mặt Trời theo chiều ngược kim đồng hồ. Để cầu mong sự sống và sinh sôi nảy nở cho cây cối, súc vật các dân tộc Đông Nam Á đều có nhiều lễ hội liên
- quan đến Mặt Trời và Lửa: Thả cầu lửa trên không trung, giăng đèn lồng kết hoa, rước đèn, hội hoa đăng thả đèn trên mặt nước, đốt pháo thăng thiên, trò chơi đánh phết bằng một quả cầu màu đỏ, thả diều gọi nắng, Người Tây Nguyên khi làm cổng nhà mồ đã tạc hai hình nhân nam nữ với sinh thực khí lớn đứng hai bên cổng hướng về phía Đông để đón ánh Mặt Trời lên với mong ước ánh Mặt Trời xuyên qua hình nhân sẽ làm cho sự sống được tái tạo. b. Tín ngưỡng phồn thực “Phồn” có nghĩa là nhiều, “thực” có nghĩa là nảy nở. Duy trì và phát triển sự sống là một nhu cầu thiết yếu của con người, đối với cư dân nông nghiệp, nhu cầu này càng hệ trọng. Từ nhu cầu đó cư dân nông nghiệp có một niềm tin (tín ngưỡng) vào một số giải pháp có tính ma thuật về kích động tình dục cho thiên nhiên để hi vọng chúng sinh sôi nảy nở, phát triển và đem lại những mùa màng tươi tốt bội thu. Cơ sở của tín ngưỡng này cũng là “vạn vật hữu linh”, người xưa tin rằng qua một số ma thuật có tính kích dục mà họ thực hiện, thiên nhiên có thể cảm ứng và đồng cảm vì chúng cũng có linh hồn để có thể cảm nhận. Tín ngưỡng phồn thực là chung của cư dân nông nghiệp nhưng ở Đông Nam Á nó được biểu hiện phong phú sinh động trong đời sống và lễ hội. Con người đã thần thánh hóa ma lực của tình dục, họ liên tưởng qua đó sức mạnh sinh sản của đất đai, của cây trồng. Biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực khá đa dạng. Thông thường là thờ sinh thực khí (sinh = đẻ, thực = nảy nở, khí = công cụ). Người Việt thờ nỏ - nường (nỏ là cái nêm tượng trưng cho sinh thực khí nam, nường là mo nang tượng trưng cho sinh thực khí nữ). Ở nhiều địa phương của Việt Nam vẫn còn các tục lệ thờ cúng, rước nỏ - nường. Ở làng Đông Hy - Hà Bắc có tục rước cặp sinh thực khí bằng gỗ vào mồng 6 tháng Giêng. Sau đám rước cặp sinh thực khí ấy được đốt đi lấy tro chia cho mọi người đem rắc ra ruộng cầu cho mùa màng tốt tươi. Ở nhiều vùng thuộc Vĩnh Phú có dịp hội làng, người ta rước18 bộ sinh thực khí (bội số của 9, 18, 36 dân gian có câu “36 cái nỏ nường cái để đầu giường, cái để gối tay”). Khi đám rước kết thúc, mọi người tranh cướp các vật này vì tin rằng nó đem lại sự may mắn. Người Tày thờ búp
- măng, hoa chuối. Một số dân tộc khác thờ hang động có kẽ nứt, thờ cột đá tự nhiên, Người Lào rước âm vật, dương vật trong Bun Bang Phay. Bên cạnh việc thờ sinh thực khí giống như nhiều cư dân nông nghiệp khác, cư dân Đông Nam Á còn có tục thờ hành vi giao phối tạo nên một dạng tín ngưỡng phồn thực độc đáo. Trên nhiều đồ đồng thuộc văn hóa Đông Sơn của Việt Nam có khắc hình nam nữ giao phối, đặc biêt là trên nắp thạp đồng Đào Thịnh có gắn tượng các đôi nam nữ trong tư thế giao phối rất sinh động. Ở Thái Lan có tục nặn tượng hai người nam nữ đang giao hợp bằng đất sét gọi là “nặn đám mây”. Họ đem những tượng này để trên bờ các thửa ruộng cầu cho lúa tốt, cho mùa màng bội thu. Người Thái lan còn làm một loại bùa gọi là cái In bằng gỗ, bằng đồng, bằng bạc hoặc ngà voi, đó là hình nam nữ giao hợp, họ tin rằng ai đeo bùa đó thì người đó chăn nuôi hoặc trồng trọt đều thịnh vượng. Vào dịp hội Đền Hùng, ở vùng Phú Thọ còn lưu truyền điệu múa “Tùng dí”. Thanh niên nam nữ múa từng đôi, cầm trong tay những vật biểu trưng cho sinh thực khí nam, nữ. Cứ mỗi khi nghe thấy tiếng trống (tùng) họ lại giơ hai vật đó chạm vào nhau (dí). Tương tự như vậy trò múa mo ở xã Sơn Đông - Hà Tây, buổi chiều khi tế lễ đã xong, trai chưa vợ gái chưa chồng đến tụ tập ở sân đình, một người vừa múa vừa hát trước bàn thờ, tay trái cầm một khúc tre tượng trưng cho dương vật, tay phải cầm chiếc mo cau tượng trưng cho âm vật. Người múa mấy lần lắp khúc tre vào mo cau để nói lên hành động giao phối. Cuối cùng anh ta tung khúc tre và mo cau vào đám trai gái cho họ tranh cướp. Người ta giành nhau đến mức khúc tre gãy thành nhiều đoạn, mo cau bị xé rách thành nhiều mảnh. Người ta tin rằng ai lấy được những khúc hay những mảnh đó sẽ gặp nhiều may mắn trong năm, không chỉ may mắn trong việc lấy chồng lấy vợ mà còn may mắn cả trong sản xuất và đời sống. Người Lào có tục đốt pháo thăng thiên và rước sinh thực khí. Trong đếm đốt pháo người ta rước sinh thực khí và vừa diễu hành, vừa mô phỏng động tác giao phối biểu hiện ý niệm tạo ra sự phồn thực cho cỏ cây, gia súc. Cũng trong các lễ hội họ tổ chức các cuộc thi, những trò chơi mang biểu hiện phồn thực như thi đánh trống thủng (Lào, Việt, Thái Lan, Môn), đánh đu nam nữ, mùa khiên kiếm làm bẵng nõn chuối, mộc bằng mo cau theo động tác
- tính giao (Tày, Dao ). Còn trong đời sống hàng ngày, biểu tượng phồn thực được liên tưởng trong sinh hoạt: gậy chọc lỗ, cối chày giã gạo, bánh tét, bánh giầy, Tóm lại, tín ngưỡng phồn thực có mặt ở nhiều dân tộc nông nghiệp nhưng các dân tộc khác ngoài Đông Nam Á thường chỉ thờ hoặc rước sinh thực khí còn cư dân Đông Nam Á thì thờ cả sinh thực khí nam và nữ, đồng thời thờ cả hành vi giao phối. Có thể nói rằng tín ngưỡng phồn thực ở Đông Nam Á là một tín ngưỡng bản địa, nó có trước khi chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ - thờ linga yoni. Sau này khi văn hóa Ấn Độ được truyền vào Đông Nam Á thì hai tín ngưỡng này kết hợp chặt chẽ với nhau. c. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên Thế giới nhân thần bắt nguồn từ tục thờ cũng tổ tiên trong gia đình, sau này được mở rộng ra thành tục thờ cúng những người có công với cộng đồng, những ông tổ nghề, tổ làng, thậm chí cả tổ của cả nước. Việc thờ cúng tổ tiên bắt nguồn từ hai quan niệm: Một là chết không phải là hết, mà người thân chết vẫn có mối quan hệ gần gũi mật thiết với người sống trong gia đình, phải thờ cúng để được tổ tiên phù hộ độ trì và không quấy phá. Hai là “uống nước nhớ nguồn”, thờ cúng những người đã khuất để tỏ lòng thương nhớ đến công ơn sinh thành. Đó là sợi dây bền vững xuất phát từ tình cảm cộng đồng nối quá khứ với hiện tại và tương lai tạo nên tính liên tục trong sự đứt đoạn của các cộng đồng tộc người từ gia đình đến làng nước. Ngoài tổ tiên trong gia đình, những người khi sống có khả năng hơn người và có những công lao với cộng đồng, ngay lúc sống họ được suy tôn là thánh sống, tất nhiên khi chết sẽ hiển linh thành thần. Đó là những người có công dẹp giặc bảo vệ cộng đồng như Trần Hưng Đạo, Hai Bà Trưng, hoặc đưa lại cho nhân dân một nghề để kiếm sống như một số thành hoàng làng ở Việt Nam, hai mẹ con Ciksiti Wankembang và Puteri Saadoong đã đem nghề buôn bán cho dân thành phố Kelanta ở Malaysia. Vì thế người Thái, người Lào mới phân chia thành 3 loại mạ (phi): ma nhà (phi hươn), ma bản (phi bản) và ma mường (Phi mường):
- - Phi hươn (ma nhà): Thờ bố mẹ đã mất và tổ tiên theo huyết thống gọi là “Phi đẳm” (đẳm là một tổ chức thoe quan hệ huyết thống hiện còn được bảo lưu trong xã hội Tày - Thái). - Phi bản (ma làng): Thờ thần của làng thành hoàng) ở một nơi cao ráo, có thẻ là một gốc cây to, có thể là một hòn đá được dựng lên gọi là “lắc bản”. - Phi mường (ma mường): Thờ người sáng lập ra mường đó, người ta dựng miếu thờ, có cả “lắc mường” bằng cột đá, có khu rừng dành riêng để “nuôi phi mường”. Trong quá trình tích hợp thành mường quốc gia - người Lào gọi là “Mường luống”, thì có “phi mường luống” là ma của cả nước và được tổ chức quốc lễ “Bun Thạt Luổng” ở Viên Chăn. Người Việt cũng có chung những hệ thống như vậy, thờ tổ tiên trong gia đình, thờ tổ nghề và thần làng, thờ tổ cả nước. Giỗ tổ Hùng Vương là ngày giỗ lớn nhất cả nước. 2.2.4. Tương đồng trong các phong tục tập quán, lễ hội Phong tục tập quán Đông Nam Á rất đa dạng bởi trên địa bàn này quần tụ rất nhiều dân tộc, tộc người khác nhau. Tuy nhiên, trong sự muôn hình muôn vẻ ấy vẫn có những phong tục tập quán chung xuất phát từ một cơ sở văn hóa bản địa Đông Nam Á vốn đã hình thành từ lâu đời. Nét tương đồng thể hiện trên các lĩnh vực: nhà ở, trang phục, ăn uống, hôn nhân, tang lễ, lễ hội, a. Nhà ở Ở khu vực Đông Nam Á có một kiểu nhà mang tính chất đặc trưng nổi bật nhất của toàn khu vực: Nhà sàn. Không chỉ trước đây mà ngay bây giờ, nếu có dịp đi bất kì nước nào trong khu vực, chúng ta vẫn gặp kiểu nhà này. Và không phải chỉ ở những vùng xa xôi hẻo lánh mang tính chất hoang sơ, tức là nơi thường được coi là “xứ sở” bảo lưu vốn chặt chẽ nhất như các vùng cao ở Myanmar, Lào, Thái Lan, Việt Nam hay Indonesia, mới có nhà sàn. Đông Nam Á là vùng sông nước, do đó để đối phó với nạn lũ lụt quanh năm, cư dân ven biển, ven sông đã chọn cho mình một khu nhà “cao chân” rất thích hợp. Nhà sàn mọc san sát dọc bờ biển Borneo, dọc theo cac kênh rạch Nam Bộ Việt Nam, Không chỉ ở vùng sông nước, nhà sàn còn rất phổ biến ở miền
- núi cao bởi nó có tác dụng thiết thực trong việc ngăn cản thú dữ và côn trùng gây bệnh. Nhà sàn cũng xuất hiện ở một số vùng đồng bằng, nhất là những vùng đất thấp hay bị lụt lội hàng năm. Nhà sàn được hầu hết các dân tộc Đông Nam Á sử dụng. Ở Việt Nam, các dân tộc ít người từ Tây Nguyên đến Việt Nam, Tây Bắc (Giarai, Ê đê, Stiêng, Mường, Thái, ) đều làm nhà sàn. Người Khmer (Campuchia), người Thái (Thái Lan), người Lào, người Khmú (Lào), người Miến (Myanmar), người Batak, người Dayak, người Sunda (Indonesia), người Melayu (Malaysia, Brunei), người Tagan, người Ilocano, các dân tộc miền núi Mindanao (Philippines), đều sống ở nhà sàn. Kiểu nhà có mái cong hình thuyền hay kiểu nhà đất cũng rất được phổ biến ở các quốc gia Đông Nam Á. Hiện nay cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, đã du nhập nhiều kiều nhà được xây dựng kiên cố, cải tiến, cách tân. Tuy nhiên, nhà sàn vẫn có chỗ đứng vững chãi của mình không chỉ ở nông thôn, miền núi mà ngay cả ở những vùng cận thành phố hoặc trong thành phố (như thủ đô Phnôm pênh). Cái khác là ngôi nhà ngay nay được xây dựng vững chắc hơn, hiện đại hơn do có sự xuất hiện các nguyên liệu mới như xi măng, gạch, ngói, sắt thép. b. Trang phục Về trang phục, các dân tộc Đông Nam Á có những trang phục giống nhau, mặc dù tên gọi có khác nhau. Từ xa xưa, phụ nữ thường mặc váy (sarong), yếm, sau này thì mặc quần; nam giới thì mặc khố, Từ khi hình thành nên văn hóa sơ sử thì cư dân Đông Nam Á đã biết tạo ra những chất liệu may mặc từ tơ chuối, tơ tằm, tơ đay, gai và bong. Những chất liệu này được dệt thành vải mỏng nhẹ, thoáng, rất phù hợp với khí hậu nóng ẩm. Nghề trồng dâu nuôi tằm lấy tơ và nghề trồng bông dệt vải của cư dân Đông Nam Á đã trỏ thành những nghề không kém gì nghề trồng lúa nước của họ. Lụa tơ tằm của Việt Nam, vải Patik của Indonesia và Malaysia là những mặt hàng nổi tiếng trên thế giới. Đa số các dân tộc Đông Nam Á, váy là đồ mặc đặc trưng của phụ nữ. Ở mọi nơi, từ những vùng xa xôi thuộc các quốc gia hải đảo Malaysia, Indonesia, Philippines, Brunei đến vùng núi của các quốc gia lục địa như Việt Nam, Lào,
- Campuchia, Thái Lan, Mianmar. Từ Sarong đều rất quen thuộc với mọi người. Bên cạnh đó trang phục của nam thì có Khố. Sau này có thêm quần, xà cạp, khăn, mũ, Trên đây chỉ là những kiểu trang phục phổ biến và có tính chất truyền thống ở Đông Nam Á. Hiện nay nhiều trang phục đã được thay đổi và làm cho phù hợp với cuộc sống hiện đại. d. Ăn uống Về ăn uống, là khu vực nóng, ẩm, mưa nhiều, lại có đủ loại hình, cùng với điều kiện nhiều sông ngòi, biển lớn, thức ăn của cư dân ở đây chủ yếu là ăn loại rau từ ngành nông nghiệp, lương thực chính là lúa gạo. Các loại rau xanh, củ quả đều dùng tươi xanh, đồ thịt, cá luôn tươi sống chứ không ăn nhiều đồ hộp như bên phương Tây. Đông Nam Á là khu vực sông ngòi dày đặc và biển rộng mênh mông nên cá trở thành thức ăn phổ biến hơn thịt cũng là lẽ tự nhiên. Cá được chế biến theo mọi cách: kho, nấu nướng, luộc, rán, Từ cá, người Đông Nam Á còn chế ra một loại thức ăn khá phổ biến trong toàn vùng, đó là nước mắm. Nước mắm có thể dùng như một loại nước chấm, có thể chan trực tiếp vào cơm như một loại thức ăn. Trong bữa ăn của người Đông Nam Á còn không thể thiếu các loại gia vị như hạt tiêu, ớt, rau thơm các loại, e. Hôn nhân Về hôn nhân, những phong tục xung quanh hôn nhân hêt sức đa dạng và khác nhau ở mỗi dân tộc. Tuy vậy, vẫn có nhiều nét tương đồng trong phong tục hôn nhân giữa các quốc gia dân tộc ở Đông Nam Á. Ở nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á từ xa xưa đã có đặc điểm là cha mẹ thường quyết định hôn nhân của con cái. Tập quán “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” không phải chỉ có ở Việt Nam mà còn ở rất nhiều nơi khác như Malaysia, Indonesia, Brunei, Campuchia, Thậm chí, cho đến tận ngày nay, ở một số dân tộc, tuy không nhiều nhưng vẫn có những gia đình bố mẹ “đi tìm” và quyết định người bạn trăm năm của con mình. Nhiều nơi còn có phong tục “cướp dâu”. Thủ tục cho một đám cưới ở các dân tộc Đông Nam Á không hoàn toàn giống nhau bởi nhiều nguyên nhân, trong đó có cả nguyên nhân về tôn giáo. Song dù có sự khác nhau như thế nào về cách thức tổ chức, nói chung việc cưới xin thường trải qua ít nhất là hai bước: Lễ ăn hỏi và lễ cưới.
- f. Tang lễ Phong tục tang lễ, có hai cách chủ yếu xử lí đối với xác người chết: chôn dưới đất và hỏa thiêu. Ở Đông Nam Á tục chôn người chết đã có từ rất lâu. Những phát hiện khảo cổ học tại rất nhiều nơi ở Đông Nam Á đều xác nhận rằng xác người xưa kia thường được chôn trong các chum vại, bình gốm hoặc những quan tài bằng đá. Tục chôn người chết vẫn cò rất phổ biến ở các quốc gia Đông Nam Á. Phong tục chôn người chết, một tập tục rất phổ biến ở Đông Nam Á là chôn theo người chết những thứ cần thiết cho cuộc sống và những thứ mà khi còn sống họ ưa thích. Thông thường thì người ta thường bỏ tiền, gạo vì đó là những thứ không thể thiếu được cho cuộc sống của con người. Ngoài ra ở Đông Nam Á còn có nhiều phong tục khác như: nhai trầu, tục cưa và nhuộm răng đen, tục xăm mình, các trò chơi giải trí như chọi gà, thả diều, bơi thuyền, g. Lễ hội Không ai có thể thống kê được đầy đủ tất cả các lễ hội ở khu vực Đông Nam Á bởi số lượng của nó quá nhiều. Có lễ hội chung cho cả nước, có lễ hội cho một vùng, cũng có lễ hội chỉ diễn ra trong một làng, một bản. Tuy nhiên tất cả các lễ hội ở Đông Nam Á phần lớn đều bắt nguồn từ một gốc chung mang tính khu vực: Đó là nền sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước. Có thể nói chính đặc điểm này đã tạo nên tính thống nhất của lễ hội - lễ hội tết khu vực nói riêng và văn hóa khu vực nói chung. Trong số các lễ hội Đông Nam Á thì phổ biến nhất là các lễ hội nông nghiệp mà quan trọng nhất là những lễ hội liên quan đến cây lúa. Lễ hội được tổ chức hầu hết các tháng trong năm, vào những lúc nông nhàn, lúc giao mùa. Địa điểm tổ chức thường là những nơi gắn với đời sống sản xuất của nhà nông, dưới gốc cây đa, bên bờ suối, trước cửa rừng, trên gò cao, trên ngọn thác, thung lũng, Trong quan niệm của Đông Nam Á, tất cả những nơi đó đều có “thần”. “Thần ở nơi nào thì lễ hội thường được tổ chức ngay ở nơi đó”. Sau thời gian dài tổ chức lễ hội ở làng mạc, các lễ hội Đông Nam Á dần dần được chuyển vào miếu. Khi các tôn giáo (như Phật, Nho, Hồi giáo, ) xuất hiện thì các lễ hội thường diễn ra ở chùa, đền, đình, nhà thờ.
- Là một hệ thống biểu tượng nhằm hiện thực hóa thế giới ý niệm về đời sống tâm linh bằng những nghi thức, những hoạt động để con người giao tiếp với thần linh. Như vậy nên lễ hội như là dịp tập trung những nét tiêu biểu cho văn hóa nghệ thuật của mỗi cộng đồng. Lễ hội bao giờ cũng là sự hội nhập của hai bộ phận: Phần lễ và phần hội. Phần lễ: bao gồm các nghi thức tế tự mà con người sáng tạo ra để giao tiếp với thần linh. Thế giới thần linh là thế giới mang tính chất thần bí linh thiêng không giống như thế giới trần tục của con người. Muốn cầu xin thần thánh để được phù hộ độ trì, nghĩa là muốn giao tiếp với thần linh con người phải sáng tạo ra những vật thiêng trung gian: người thiêng (thầy cúng, cô đồng, thầy phù thủy - tiếng Thái, Lào, Mường gọi là Pomo, tiếng Mã Lai là Bomoh - có các ma thuật và cả những con rối bóng), lời thiêng (bài khấn, bài tụng bằng những thứ ngôn ngữ khác đời thường thậm chí có khi chỉ là kí hiệu như xin quẻ âm dương), chữ thiêng (bùa chú), vật thiêng (các dụng cụ đồ cúng) với những nghi thức thiêng như hương hoa, bài vị, xướng lễ, trong một không gian thiêng (nhà thờ, chùa, miếu ). Trong cái không gian - thời gian khác thường ấy, ông thầy cúng lắc lư và bỗng nhiên xuất thần để đến với thần linh, còn những người tham dự thì như đang ở một thế giới khác, không còn là cuộc đời trần tục nữa. Vì thế các địa điểm thực hành nghi lễ như gò đối, đền thờ miếu mạo, chùa chiền, nhà thờ, thánh địa, đều được kiến trúc sao cho tạo nên không khí thiêng liêng. Phần hội bao gồm các hoạt động nhằm xây dựng quan hệ cộng đồng nên không khí lúc nào cũng phải “vui như hội”, mọi thành viên đều tham dự các cuộc vui chơi đua sức thi tài. Nếu như trong phần lễ có yếu tố thiêng và xuất thần để tiếp cận với đời sống tâm linh, thì trong phần hội có yếu tố trần tục làm cho con người phấn chấn thăng hoa trong cuộc sống tâm tình. Đám rước chính là cầu nối giữa lễ và hội. Cả hai phần lễ và hội được thống nhất trong tâm thức con người với mối quan hệ giữa con người và thần thánh. Vì vậy các nghi thức tế lễ và các hình thức vui chơi đan xem vào nhau tạo nên sự gắn bó giữa con người thành một cộng đồng gắn kết. Từ các hình thức diễn xướng đám rước, múa thiêng, lễ ca, lễ
- nhạc đến các nghi thức tế tự đều có mối tương tác đan xen với các hình thức hát giao duyên, múa vui, diễn trò tạo nên sự thống nhất giữa đạo với đời, giữa cái thánh thiện với cái trần tục. Vì vậy nghệ thuật diễn xướng bao giờ cũng gắn với tôn giáo và giải trí. Múa phần lớn là những điệu múa nghi lễ nhưng vẫn có chỗ cho vui chơi, là thể hiện sự phấn khích của con người khi tiếp xúc với thần linh làm cho con người thoát khỏi cảnh trần tục. Lối múa tập thể trong hội mùa thường gắn với nghi lễ phồn thực. Kiểu múa giáo với khiên hay động tác dùng gậy chọc lỗ của bà mẹ lúa - người Xá Tây Bắc vung về phía Mặt Trời mọc là một biểu tượng nói lên sự giao hợp âm dương và tục Mặt Trời. Lễ ca (hay tụng ca) là những bài hát thiêng trong lễ cầu mùa, đi liền nhạc lễ. Đó có thể là những bài thần chú, những bài thỉnh nguyện mà người chủ lễ xướng lên và mọi người đọc theo. Nội dung của các bài cúng trong dịp lễ hội thường cầu xin mùa màng tươi tốt, cầu giảm bệnh, Ví dụ như “páo khuôn” (báo hồn) của người Thái là cầu mong sao cho “cơm hết cơm khắc đến; cá hết cá khắc về; lúa đầy đồng, cá chật sông; trường sinh bất tử ” Cuối cùng tất cả mọi thứ ca, múa, nhạc được tập trung trong diễn xướng. Ngay cả việc ăn uống trong lễ hội cũng mang những ý nghĩa trên. Theo Lễ hội cổ truyền ở tỉnh Lào Cai của Trần Hữu Sơn, thì món ăn ở trong lễ hội có 3 đặc điểm: Một là tính chất thiêng, hai là tính biểu tượng, tính cộng đồng. Ngoài ra, ở mỗi quốc gia Đông Nam Á đều có ít nhất một lễ hội có quy mô lớn nhất, đó là Tết nguyên đán. Tết nguyên đán của các dân tộc Đông Nam Á bao giờ cũng mang ý nghĩa tổng kết năm cũ, tổng kết một chu kì lao động và đón mừng năm mới (năm âm lịch, dương lịch, Hồi lịch, ) với một chu trình lao động mới, cái may mắn, tốt lành. Có thể nói “Tết nguyên đán bao giờ cũng hàm chứa trong nó ý nghĩa tổng kết và mở đầu, tống cựu và nghinh tân”. Nói chung, Tết nguyên đán của các dân tộc Đông Nam Á được tổ chức cố định vào tiết chuyển mùa: Chuyển từ mùa khô sang mùa mưa, vào lúc mùa màng thu hoạch xong và mọi người nghỉ ngơi để chuẩn bị bước vào vụ gieo trồng mới. Dù hình thức và nghi thức đón tết của các dân tộc có khác nhau nhưng “tết bao giờ cũng là dịp mọi người nghỉ ngơi, vui chơi, làm lễ ta ơn trời đất, tổ tiên, thần
- linh đã ban cho một năm mưa thuận gió hòa, gột bỏ những điều xấu trong năm cũ, cầu mong và đón nhận vạn sự tốt lành của năm mới”. 2.2.5. Tương đồng trong ngôn ngữ, chữ viết và văn học a. Ngôn ngữ, chữ viết Ngôn ngữ các nước đều bắt nguồn chung một gốc, chữ viết được tiếp thu từ chữ Sanscrit, chữ Hán và sau này theo kí tự chữ La tinh. Bức tranh ngôn ngữ Đông Nam Á hết sức đa dạng nhưng theo các nhà ngôn ngữ học, trước đây chúng đều có chung một gốc, tạm gọi là ngôn ngữ Đông Nam Á tiền sử. Từ nguồn gốc chung này, trong quá trình phát triển lịch sử, nó được phân thành các ngữ hệ khác nhau và phát triển theo các hướng khác nhau. Ngôn ngữ Đông Nam Á tiền sử có các phụ tố mà theo vị trí có thể gọi là tiền tố, trung tố và hậu tố. Các phụ tố không nhiều và được biểu thị bằng những phụ âm nhất định, kèm với nguyên âm “ơ” dòng pha không có giá trị âm vị học, không tồn tại độc lập. Về chữ viết, các quốc gia Đông Nam Á đều xây dựng chữ viết riêng cho dân tộc mình từ một trong hai nguồn: từ chữ Pali - Sanscrit (như chữ Khmer, Chăm, Thái, Lào, Miến Điện, Java, Madura cổ) và từ chữ Hán (như chữ Nôm của Việt Nam). Các chữ viết dân tộc này, nói chung, được sử dụng cho đến hết thời trung cổ. Từ thế kỉ XIII, các quốc gia hải đảo Đông Nam Á chịu ảnh hưởng của đạo Hồi. Từ đó văn hóa Ả rập thâm nhập mạnh mẽ vào khu vực này cùng với Hồi giáo. Chữ viết Ả rập chuyển tải nội dung của Hồi giáo được mang vào Malaysia, Indonesia và có ảnh hưởng đáng kể ở đây vào thế kỉ XIV - XV. Với sự can thiệp của phương Tây vào Đông Nam Á, chữ viết của một số quốc gia Đông Nam Á đã được chuyển đổi theo hướng La tinh hóa. Các loại chữ viết này đều là chữ ghi âm, dùng con chữ Latinh nên dễ đọc, dễ nhớ. Chữ viết Malaysia, Brunei, ndonesia, Philippines và Việt Nam hiện nay đều thuộc dạng này. Trong số các chữ viết Latinh hóa này, chữ quốc ngữ của Việt Nam ra đời sớm nhất - khoảng đầu thế kỉ XVII, các chữ Latinh khác ở hải đảo xuất hiện vào khoảng đầu thế kỉ XIX - XX.
- b. Văn học Nói đến văn học Đông Nam Á là phải nói đến sức mạnh dân gian hoá. Văn học Đông Nam Á đều hình thành hai bộ phận: văn học bằng tiếng vay mượn (Sanskrit, Pali, Hán, Ả rập, Tây Ban Nha) và văn học bằng tiếng dân tộc. Ngoài ra văn học Đông Nam Á được nuôi dưỡng từ ba nguồn lớn: văn học dân gian, văn học lịch sử, văn học nước ngoài. Trước hết, khi nói đến văn học Đông Nam Á là phải nói đến sức mạnh dân gian hoá. Nền tảng của sức mạnh dân gian hoá đó là nền văn hoá dân gian còn đang bao trùm hầu như toàn bộ đời sống tinh thần của họ. Văn học dân gian là một trong những cội nguồn của văn học dân tộc. Bên cạnh đó văn học Đông Nam Á còn có sự tiếp thu văn học của Ấn Độ, Trung Quốc, Nền văn minh nông nghiệp lúa nước này là cội nguồn và bản sắc riêng, phát triển liên tục trong lịch sử. Lớp văn hoá nguyên sơ này được nhiều nhà nghiên cứu gọi là cơ tầng văn hoá Đông Nam Á. Trên cơ tầng văn hoá này, văn học dân gian nảy nở, phát triển. Văn học dân gian được xem là ngọn nguồn của văn học dân tộc khu vực Đông Nam Á và đây cũng là lớp văn hoá bản địa trước khi Đông Nam Á chịu ảnh hưởng của các nền văn hoá lớn từ bên ngoài. Trước khi tiếp nhận chịu ảnh hưởng văn hoá từ bên ngoài, các cộng đồng tộc người ở Đông Nam Á đều có tín ngưỡng bản địa, tín ngưỡng đa thần giáo, vạn vật hữu linh và tục thờ cúng tổ tiên. Tín ngưỡng này gắn chặt chẽ với sự phát sinh phát triển của văn học dân gian trên cơ sở của nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Chính vì vậy, văn học dân gian chiếm phần lớn, nổi bật, bao trùm lên toàn bộ quá trình văn học Đông Nam Á. Văn học dân gian thời kỳ này mang màu sắc nguyên sơ của các cộng đồng làm nông nghiệp, trồng trọt, săn bắn, đánh cá. Trước khi chuyển từ thời tiền sử sang thời kỳ lịch sử (với sự hình thành của các nhà nước cổ đại) tức là vào khoảng các thế kỷ VI - IV trước Công nguyên thì các cư dân ở Đông Nam Á đã có một trình độ tương đối phát triển. Những quan niệm về tính chất lưỡng phân - lưỡng hợp của thế giới như đối lập mặt trăng với mặt trời, trời với đất, núi với biển, loài có cánh với loài thuỷ tộc,
- cư dân miền Thượng lưu và cư dân miền Hạ lưu, được thực hiện dưới nhiều dạng khác nhau trong thần thoại và truyền thuyết của vùng Đông Nam Á tiền sử. Từ đầu Công nguyên (thậm chí còn sớm hơn) cho đến nay, Đông Nam Á là nơi tiếp xúc và chịu ảnh hưởng của các nền văn hoá lớn như Ấn Độ, Trung Quốc, Ả Rập, Ba Tư, Tây Âu. 10 thế kỷ đầu sau Công nguyên, Đông Nam Á chịu ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ, văn hoá Trung Quốc qua các con đường, những cách thức khác nhau. Người ấn Độ thâm nhập vào vùng Đông Nam Á đem tới đây các tôn giáo (Bàlamôn giáo; Phật giáo, ) và các loại hình văn hoá của Ấn Độ, trong đó có văn học. Các dân tộc ở Đông Nam Á đã tiếp thu một cách đầy sáng tạo các đề tài, cốt truyện, các phong cách nghệ thuật của Ấn Độ và biến cải nó cùng với vốn văn hoá của mình để rồi tạo nên những công trình điêu khắc kiến trúc đồ sộ như Bôrôbuđua; ĂngcoVat, những áng văn học đậm đà tính chất dân gian lấy từ Jataka, Panchatantra, Ramayana, Mahabrrahata, Hầu như văn học Đông Nam Á đều hình thành hai bộ phận: văn học bằng tiếng vay mượn (Sanskrit, Pali, Hán, Ả rập, Tây Ban Nha) và văn học bằng tiếng dân tộc. Nền văn minh nông nghiệp với sự phát triển của văn học dân gian đã làm cho văn học thành văn của Đông Nam Á ra đời muộn. 10 thế kỷ đầu sau Công nguyên, các nước ở Đông Nam Á chưa có chữ viết, trong khi đó tôn giáo Ấn Độ và Phật giáo du nhập & phát triển ở các quốc gia Đông Nam Á. Tiếng Pali, Sanskrit, tiếng Hán không những đóng vai trò ngôn ngữ trong truyền giáo mà còn đóng vai trò ngôn ngữ văn học ở các quốc gia Đông Nam Á. ban đầu các quốc gia ở Đông Nam Á đã vay mượn trực tiếp các chữ viết của ấn Độ, Trung Quốc. Sau đó cư dân Đông Nam á mới dựa trên những mẫu chữu đó để sáng tạo ra chữ viết rieng của mình. Thứ chữ viết này chủ yếu dùng trong công việc hành chính ở các quốc gia cổ đại Đông Nam Á. Văn học viết truyền thống của Đông Nam Á được nuôi dưỡng từ ba nguồn lớn: Văn học dân gian, văn học lịch sử, văn học nước ngoài. Thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, văn học Đông Nam Á tiếp thu ảnh hưởng của văn hoá phương Tây. Trong cuộc hội nhập lần này, các nước Đông Nam Á cũng rất tỉnh táo và
- nhạy bén. Họ biết “gạn đục khơi trong”, biết kế thừa những tinh hoa của văn hoá nhân loại qua các tác phẩm văn học của phương Tây. 2.2.6. Tương đồng trong phong cách của các loại hình nghệ thuật a. Nghệ thuật tạo hình mang tính biểu trưng, ước lệ và cách điệu Nền nghệ thuật tạo hình Đông Nam Á được ra đời từ rất sớm. Với nét tương đồng lớn nhất là tính biểu trưng, ước lệ và cách điệu. Bên cạnh đó điêu khắc, kiến trúc cũng đều có sự từ ảnh hưởng các tôn giáo như Phật giáo, Hindu giáo. Trải qua nhiều giai đoạn phát triển, bên cạnh những yếu tố bản địa thì nghệ thuật tạo hình ở đây còn ảnh hưởng từ nhiều nền nghệ thuật tạo hình của các trung tâm văn lớn trên thế giới. Những tác phẩm xưa nhất mà các nhà khoa học biết đến có niên đại cách đây tới mười nghìn năm. Ban đầu là những hình khắc chạm đơn sơ trên đá. Những bức vẽ trên đá được tìm thấy tại rất nhiều nơi ở khắp Đông Nam Á hải đảo cũng như lục địa. Trên đảo Kalimanta, người ta tìm được trên đá những bức vẽ hình thuyền, hình mặt trời, mặt trăng, hình cá, thằn lằn và các động vật khác nữa vào thời kỳ đồ đá giữa. Sang thời kỳ đồ đá mới, bức vẽ con lợn rừng ở hang Leang patteh (phía Nam đảo Sulavesi) được coi là một trong những bức tranh nổi tiếng nhất mà nhiều nhà khoa học thường nhắc đến bởi tính chất chân thực và sinh động của các họa tiết trên đá. Vào hậu kỳ đá mới ở Đông Nam Á xuất hiện rất nhiều công trình cự thạch. Có thể coi đây là bước đầu tiên của nghệ thuật tạo hình Đông Nam Á. Các công trình cự thạch này phần lớn gắn liền với tín ngưỡng bản địa của cư dân Đông Nam Á. Người ta tìm thấy nhiều điện thờ bằng đá, trụ đá, ghế đá, thậm chí cả hình sinh thực khí bằng đá. Thời kỳ kim khí, nghệ thuật Đông Nam Á có một sự nhảy vọt đáng kể. Hàng loạt tác phẩm nghệ thuật tạo hình có giá trị được phát hiện thấy ở Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanmar, Indonesia, Malaysia, Việt Nam, Nhiều hoa văn đặc sắc trên đồ gốm Việt Nam, Campuchia như những tượng đá hình người, hình vật lớn, những hình vẽ trên chum, vại đá và đặc biệt là vô số những tác phẩm chạm khắc tinh tế trên những dụng cụ bằng đồng (qua, rìu, dao găm, trống đồng, ). Vào thời kỳ này ảnh hưởng của văn hóa Đông Sơn đã lan ra toàn
- khu vực, Trống đồng Đông Sơn có mặt khắp nơi. Trống đồng Đông Sơn trở thành biểu tượng cao nhất của sự phát triển nghệ thuật tạo hình Đông Nam Á trong thời kỳ này. Có thể nói một cách không quá đáng rằng Trống đồng Đông Sơn chính là sự phản ánh trung thực và sinh động cuộc sống của cư dân nông nghiệp Đông Nam Á bằng nghệ thuật tạo hình. Nghệ thuật tạo hình Đông Nam Á có một đặc điểm chung, khác với nghệ thuật tạo hình phương Tây, là tính biểu trưng, ước lệ và cách điệu. Các nghệ sĩ Đông Nam Á muốn hướng người xem đến nội dung biểu đạt sâu kín ở bên trong hơn là hình thức bên ngoài, do đó, đối với họ, đường nét tả thực theo kiểu phương Tây thường không được chú ý. Chính vì thế, đối với một tác phẩm tạo hình Đông Nam Á, bản thân người xem cũng “đồng điệu” với tác giả, nghĩa là người ta không bắt bẻ những chi tiết phi logic, những chi tiết không thực lắm ở tác phẩm. Điều mà người ta cần quan tâm hơn cả chính là “cái thần” của tác phẩm. Tất nhiên sau này, khi tiếp xúc với nền nghệ thuật phương Tây, phong cách tả thực đã được đưa vào Đông Nam Á nhưng đó là sự tiếp thu từ bên ngoài chứ không phải là truyền thống cổ xưa của văn hóa khu vực này. b. Nghệ thuật kiến trúc đều chịu ảnh hưởng từ tôn giáo của Ấn Độ và có chung kiểu “Kiến trúc phồn thực” Bên cạnh đó, kiến trúc và điêu khắc của các nước Đông Nam Á đều có ảnh hưởng từ tôn giáo Ấn Độ, hầu hết các công trình kiến trúc lớn đồ sộ để lại đều xây dựng với mục đích tôn giáo, đó là Phật giáo, Hồi giáo, Hindu giáo. Với những công trình tôn giáo nổi tiếng thế giới như: Chùa Shwe dagon (Myanma), Chùa Budsiam, Chùa Donmuang (Thái lan), Đền thờ phật Borobudur (Indonesia), Angkor Thom, Angkor Wat (Campuchia), các Tháp Chăm ở Việt Nam, Đền Loro Jonggrang (Indonesia), Khi nghệ thuật phồn thực được thể hiện bởi các bầu vú căng sữa thì kiến trúc phồn thực bắt đầu từ các gò nổi là trung tâm của tục thờ Mẹ Đất, phát triển thành các gò tháp, đền tháp, chùa tháp. Kiến trúc phồn thực và kiến trúc nhà thuyền với các kiểu nhà sàn hay tàu thuyền khắc chạm hình rồng là hai dòng nghệ thuật kiến trúc truyền thống của
- vùng Đông Nam Á cho đến ngày nay. Gò nổi ở đồng bằng sông Cửu Long là phần còn lại của Thành Mọi. Chúng xuất hiện khá dày ở những nơi sau này trở thành trung tâm cư trú phồn thịnh của người Óc Eo, hoặc nằm rải rác đều đặn cách nhau trên dưới 40 cây số ở những vùng ngập nước thưa dân. Có những gò chỉ vài chục thước vuông với chiều cao đất đắp chỉ hơn một mét. Nhưng nhiều gò rất lớn, rộng hàng trăm mét vuông và nhiều khi cao đến bốn mét. Trong số các di tích đền thờ Mẹ Đất nổi tiếng có Gò Tháp ở Đồng Tháp, Gò Hàng ở Long An, Gò Thành ở Vĩnh Long, Nền Chùa ở Kiên Giang và Gò Óc Eo, Gò Cây Thị, Gò Cây Trôm gần núi Ba Thê ở An Giang. Nơi các Thành Mọi nằm giữa cao nguyên Cò Rạt và Tây Nguyên nước ta thì gò nổi chỉ là một khoảnh đất đắp. Nhưng khi cư dân tiến về đồng thấp thì họ mang theo các khối đá xếp lên mặt gò thành một Yoni dạng tròn, vuông hay chữ nhật để thờ, gọi là các gò đá nổi nay để lại nhiều đìa đá nằm giữa đồng bằng. Sang thời kỳ thứ ba người ta xếp đá thành huyệt vuông giật cấp trên lớn dưới nhỏ ở trung tâm Yoni để chôn đất. Đất trong huyệt và cả đá bên ngoài được chở đến từ một nơi thánh tức các núi Bà như Ba Thê hay Sdachao. Nhiều nhà nghiên cứu lầm tưởng huyệt đất là các huyệt mộ, mặc dầu ở đó không có xương cốt cũng không có vết tích hỏa táng. Kiến trúc phồn thực nguyên thể đạt đến đỉnh cao trong các thế kỷ IX và X nhờ vào kỹ thuật lắp dựng đá đẽo khai thác từ các núi thiêng như Kulen ở Siem Reap hay Merapi ở Yogyakarta. Nhóm đền thờ bằng đá không để Yoni lộ thiên mà xây mái công phu thể hiện cõi niết bàn hay các tháp cao để chỉ núi thánh. Mỗi mặt đá đều được khắc chạm hình ảnh sinh động theo các sự tích tôn giáo. Nổi tiếng nhất trong nhóm là đền Borobudur (760 - 825) ở cố đô Yogyakarta của Indonesia, đền Ba Kông (881) và đền Ba Kheng (893) trong quần thể Angkor ở Kampuchia. Trong tín ngưỡng phồn thực, chất liệu đá chỉ được dùng để xây đền không dùng xây nhà, và nhiều phế tích đền thờ nay vẫn giữ được âm Bà trong tên gọi phổ thông. Kể từ thế kỷ X các kiến trúc phồn thực phức thể xuất hiện ngày một nhiều, tạo thành phần lớn quần thể Angkor và nhiều khu đền vùng Đông Nam Á. Mỗi phức thể kiến trúc gồm một ngôi đền chính là Yoni trung tâm nổi cao lên
- giữa một hay nhiều Yoni khác thấp hơn vây quanh. Hình mẫu bằng đá xanh gọi là Yoni đô thị của kiểu phức thể này đã được chế tác từ thế kỷ X, gần đây được tìm thấy trong di chỉ Đá Nổi gần thành phố Long Xuyên. Trên thực địa người ta phân định các lớp Yoni nhờ vào hệ thống hào nước bao quanh khu đền. Đến đây ý niệm phồn thực chuyển từ thờ Mẹ tức Bà chúa đất hay vị chúa xứ sở sang thờ vua là chúa một nước có lãnh thổ nằm giữa các biển thể hiện bởi các hào nước. Quần thể Angkor ở Siem Reap không chỉ là một mà nhiều thành phố theo mẫu hình Yoni đô thị nằm sát bên nhau hoặc chồng phủ lên nhau. Có khoảng 40 khu đền đã được biết tới, một số đã chỉnh trang cho khách đến thăm, số khác đang được trùng tu, nhưng cũng có những đền ẩn khuất đâu đó dưới các rừng cây. Lúc đầu Indravarman I (877 - 889) xây dựng kinh đô Ba Kông rồi Yasovarman I (889 - 910) thiết lập kinh đô Ba Kheng theo kiểu kiến trúc phồn thực nguyên thể. Sau này Suryavarman II (1113 - 1150) xây Angkor Wat rồi Jayavarman VII (1181 - 1219) thiết lập đại hoàng thành Angkor Thom theo kiểu phức thể. Angkor Wat được xây bởi các khối đá đẽo nặng từ 3,5 đến 5 tấn lấy từ Kulen cách đó 70 cây số. Sách sử ghi rằng 1.800 con voi phải vận chuyển suốt 37 năm và hơn 1.000 thợ điêu khắc được tập trung suốt 21 năm để điêu khắc và hoàn thiện mặt đá ngôi đền. Phối thể giữa kiến trúc phồn thực và kiến trúc nhà thuyền được nhận ra nơi hầu hết các nước Đông Nam Á, đặc biệt các đền tháp miền Trung nước ta và khu thánh địa Mỹ Sơn nằm giữa thung lũng đầu nguồn con sông Thu Bồn. Khu đền là một quần thể được lần lượt xây dựng từ thế kỷ IV đến XI, gồm các kiến trúc gạch xây giật cấp trên một móng đá bao phủ gò đất đắp. Các kiến trúc trung tâm thể hiện quan niệm 3 thế giới: Mái hình cánh buồm là thế giới của tổ tiên thần linh, bên dưới là nhà dạng thuyền chỉ nơi con người đang sống, tầng dưới gồm nhiều cấu trúc dạng cột để chỉ địa đàng nay đã chìm ngập giữa lòng biển cả. Chính trong phối thể này chúng ta có thêm bằng chứng về truyền tích con rồng cháu tiên, giữa Mẹ Đất tức Bà Âu Cơ và Cha Biển tức Lạc Long Quân vốn được ghi lại trong sách Lĩnh Nam Trích Quái. c. Nghệ thuật biểu diễn đều mang đặc điểm đặc trưng văn hóa trồng lúa nước
- Nghệ thuật biểu diễn của Đông Nam Á là đặc trưng Văn hóa - Nghệ thuật của nền văn minh Lúa nước, mang tính chất văn hóa truyền thống vùng miền khác nhau, nhưng đều được sáng tạo từ quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, quá trình lao động sản xuất, sinh hoạt cộng đồng của tất cả các quốc gia trong khu vực. Hệ thống nhạc cụ chủ đạo là bộ gõ với trống đồng là trống chủ. Trong khi biểu biễn thì nghệ sĩ kết hợp các động tác hát - múa - diễn, đặc biệt sử dụng đôi tay. Nội dung biểu hiện mang đậm tính chất tôn giáo và tính chất nhân văn cao cả. Văn hóa truyền thống Đông Nam Á, như đã nói là văn hóa của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. Sân khấu truyền thống Đông Nam Á, do vậy “bám” khá sát theo chủ đề sản xuất nông nghiệp. Trên sân khấu các quốc gia Đông Nam Á không nước nào là không có những vỡ diễn hoặc những điệu múa liên quan đến các quy trình sản xuất lúa. Từ việc gieo mạ, nhổ mạ, đến cấy lúa, làm cỏ, bỏ phân, tất cả đều được đưa lên sân khấu và trở thành những tiết mục đặc sắc. Trong hệ thống nhạc cụ cổ truyền Đông Nam Á, bộ gõ cùng với nhạc tấy đóng vai trò quan trọng. Trong ba loại nhạc cụ (bộ gõ, bộ thổi, bộ kéo), bộ gõ đa dạng nhất, phổ biến nhất và có truyền thống lâu đời nhất. Nhạc cụ gõ có thể làm bằng đá, bằng gỗ, bằng tre, bằng da, nhưng nhạc cụ bằng đồng là phổ biến hơn cả. Tuyệt đại đa số nhạc cụ gõ xuất hiện từ thời văn hóa Đông Sơn. Điều này được minh chứng bằng những hình vẽ nhạc cụ được ghi khắc trên các dụng cụ bằng đồng thời Đông Sơn. Trống đồng là biểu hiện tập trung nhất và rực rỡ nhất của nhạc cụ truyền thống Đông Nam Á. Trống đồng là nhạc cụ chủ đạo trong bộ gõ nói riêng và trong toàn bộ hệ thống nhạc cụ truyền thống Đông Nam Á nói chung. Nó là trống chủ “điểm nhịp” cho các loại nhạc cụ khác hòa theo. Nói đến trống đồng người ta, người ta nghĩ ngay đến nền văn hóa Đông Sơn. Những hình vẽ, hoa văn được khắc họa trên trống đồng Đông Sơn không chỉ biểu hiện trình độ kĩ thuật cao, tinh xảo của các nghệ sĩ dân gian Đông Nam Á mà đằng sau nó còn là cả một kho tàng thông tin quý giá về đời sống văn hóa của cư dân Đông Nam Á thời tiền sử. Cùng với trống đồng là cồng, chiêng. Có hình y hệt bầu vú của phụ