Báo cáo tốt nghiệp Khảo sát văn khắc Hán Nôm tại xã Thuỷ Dương, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo tốt nghiệp Khảo sát văn khắc Hán Nôm tại xã Thuỷ Dương, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
bao_cao_tot_nghiep_khao_sat_van_khac_han_nom_tai_xa_thuy_duo.doc
Nội dung text: Báo cáo tốt nghiệp Khảo sát văn khắc Hán Nôm tại xã Thuỷ Dương, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế
- BÁO CÁO TỐT NGHIỆP Đề tài "Khảo sát văn khắc Hán Nôm tại xã Thuỷ Dương, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế" 1
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Mục đích, ý nghĩa đề tài 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2 4. Phương pháp nghiên cứu 3 5. Cấu trúc của đề tài 3 NỘI DUNG 4 Chương 1 4 MỘT VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ XÃ THỦY DƯƠNG VÀ HIỆN TRẠNG VĂN KHẮC Ở XÃ 4 1.1. Một vài nét khái quát về xã Thủy Dương 4 1.1.1. Vị trí địa lý và lịch sử xã Thủy Dương 4 1.1.2. Vài nét về kinh tế, văn hoá xã hội của xã Thuỷ Dương 8 1.2. Hiện trạng văn khắc chữ Hán ở xã Thuỷ Dương 8 Chương 2 12 SƯU TẦM VÀ PHIÊN DỊCH VĂN KHẮC HÁN NÔM TẠI XÃ 12 THUỶ DƯƠNG 12 2.1. Văn khắc Hán Nôm ở đình làng 12 2.1.1. Đình Thanh Thuỷ Thượng 12 2.2. Văn khắc Hán Nôm ở chùa 15 2.2.1. Chùa Diệu Viên 15 2
- MỞ ĐẦU 1. Mục đích, ý nghĩa đề tài Chữ Hán là thứ chữ viết gắn liền với dân tộc Việt Nam ta từ buổi đầu của nền độc lập. Với ý thức tự cường xây dựng một nhà nước vững mạnh và chống lại mọi âm mưu đồng hoá của các triều đại phong kiến phương bắc, ông cha ta đã sử dụng chữ Hán và đưa nó trở thành hệ thống chữ viết chính thức của mình trong suốt cả ngàn năm lịch sử. Ngày nay, với tinh thần xây dựng một nền văn hoá mới đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta không còn dùng đến chữ Hán nữa. Nhưng một nền văn hoá mới không có nghĩa là bỏ qua mọi giá trị tốt đẹp mà ông cha đã tạo dựng từ cả ngàn năm về trước mà phải giữ gìn và kế thừa những vốn quý đó. Chính vì vậy, bảo tồn và phát huy di sản Hán Nôm là một việc làm rất cần thiết. Kho tàng tư liệu Hán Nôm trên đất nước ta hiện nay rất đa dạng và phong phú, từ những pho tư liệu khoa học-hành chính của các triều đại phong kiến cho đến những văn bản được ghi chép trên giấy tồn tại trong dân gian. Đặc biệt nhất phải kể đến mảng văn khắc được thể hiện trên các công trình kiến trúc văn hoá truyền thống. Bởi vốn tư liệu ở đây thể hiện rõ nét nhất về nguồn cội, về quê hương đất nước, về phong tục tập quán và đời sống văn hoá của con người. Vì vậy muốn hiểu rõ về những cái đó ta phải nắm được những giá trị nội dung mà người xưa đã gửi gắm. Những câu đối hay những bức hoành phi trên những đền chùa, miếu mạo không chỉ là những tâm tư tình cảm và tấm lòng của con người mà nó còn chứa đựng những giá trị thẩm mỹ, mang đậm dấu ấn bản sắc văn hoá dân tộc. Trải qua thời gian cùng sự bào mòn của những yếu tố ngoại cảnh và cả sự thiếu quan tâm của con người thì vốn tư liệu này ngày càng bị mai một. Bởi vậy bên cạnh xây dựng một nền văn hoá mới phải có sự quan tâm bảo tồn và phát huy vốn di sản văn hoá của dân tộc mà cha ông đã dày công tạo dựng. Đằng sau những câu chữ đó là cả tiếng lòng của tổ tiên từ ngàn xưa vọng tới, nhắc nhở chúng ta về cội nguồn xa xưa của dân tộc và là nền tảng vững chắc để tiến tới tương lai. Vì vậy việc giữ gìn và phát huy vốn di sản Hán Nôm là một trách 3
- nhiệm và nghĩa vụ cao cả của mọi người. Đề tài "Khảo sát văn khắc Hán Nôm tại xã Thuỷ Dương, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế" không chỉ hoàn thành một khoá luận của sinh viên trong những năm đại học mà còn mong muốn góp phần giữ gìn vốn di sản văn hoá của dân tộc, đóng góp một chút công sức của mình vào sự phát triển chung của xã hội và đất nước. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Hiện nay, hầu như ở địa phương nào trên phạm vi cả nước cũng có một lượng tư liệu Hán Nôm rất lớn cả về các văn bản chép tay cũng như mảng văn khắc. Thừa Thiên Huế là một trong những địa phương có kho tàng di sản Hán Nôm phong phú và đa dạng bậc nhất. Ngoài các sách vở, tàng thư của triều đình phong kiến còn có mảng văn khắc được thể hiện trên các công trình đền đài, cung điện, lăng tẩm và cả mảng văn khắc trên các công trình kiến trúc văn hoá trong dân gian. Trong những năm gần đây đã có nhiều nhà nghiên cứu tiến hành khảo sát, sưu tầm và tuyển dịch nhưng do lượng nhiều người ít nên mới chỉ thực hiện được một phần nào đó ở những địa bàn lân cận. Xã Thuỷ Dương huyện Hương Thuỷ là một vùng đất có bề dày về lịch sử và văn hoá, nơi đây tồn tại một lượng văn khắc Hán Nôm dân gian rất lớn và đa dạng về chủng loại nhưng chưa được sưu tầm có hệ thống trên toàn bộ địa bàn xã, mà mới chỉ có những cuộc sưu tầm và tuyển dịch riêng về văn bia. Tấm văn bia "Lê Trọng, Văn, Đắc, Bá, Thúc, Quý tộc thủy tổ mộ bi kí" ở nhà thờ họ Lê Thúc, Bá, Trọng, Quý, đã được nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh sưu tầm và tuyển dịch trong cuốn văn bia và văn chuông Hán Nôm dân gian Thừa Thiên Huế do nhà xuất bản Thuận Hoá ấn hành năm 2006. Còn mảng văn khắc phong phú còn lại chưa được ai thực hiện. Vì vậy với đề tài này chúng tôi đã khảo sát một cách hệ thống, cụ thể mảng văn khắc Hán Nôm trên toàn bộ địa bàn xã Thuỷ Dương và tìm hiểu những giá trị nội dung nghệ thuật chứa đựng trong đó. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
- Trong quá trình thực hiện đề tài này, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi đó là văn khắc Hán Nôm tức là các chữ Hán-Nôm được khắc, nề trên các chất liệu cứng như vữa xây, gỗ, đá, kim loại Còn phạm vi nghiên cứu của đề tài là toàn bộ khu vực xã Thuỷ Dương, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế. 4. Phương pháp nghiên cứu Đây là đề tài phải trải qua điền dã thực tế mới có thể trực tiếp tiếp cận với nguồn tư liệu và tiến hành khảo sát, sưu tầm, phiên dịch. Sau khi thu thập toàn bộ nguồn tư liệu mới có thể tiến hành sắp xếp, phân loại, đồng thời tham khảo các cách làm của những người đi trước để có thể thực hiện đề tài một cách có hệ thống, cuối cùng là phiên âm và dịch nghĩa toàn bộ nguồn tư liệu. Để dễ dàng hơn trong cách hình dung hệ thống văn khắc trên tất cả các di tích, phần hoành phi, đại tự được đóng khung (kể cả lạc khoản); phần phiên âm được in nghiêng và phần dịch nghĩa được in thường. Phần câu đối chữ Nôm chúng tôi chỉ ghi lại phần phiên âm ra quốc ngữ. Tất cả đều được sắp xếp giống như thực tế, các hoành phi câu đối được xếp từ ngoài vào trong theo đúng như hệ thống kiến trúc. Những phần chữ bị hư và mất nét chúng tôi vẫn đưa vào và để thành dấu chấm hỏi. 5. Cấu trúc của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, đề tài có ba chương nội dung chính: Chương 1. Một vài nét khái quát về xã Thuỷ Dương và hiện trạng văn khắc ở xã 1.1. Một vài nét khái quát về xã Thuỷ Dương 1.1.1. Vị trí địa lý và lịch sử xã Thuỷ Dương 1.1.2. Vài nét về kinh tế, văn hoá xã hội xã Thuỷ Dương 1.2. Hiện trạng văn khắc tại xã Thuỷ Dương Chương 2. Sưu tầm và tuyển dịch văn khắc chữ Hán tại xã Thuỷ Dương 2.1. Văn khắc ở đình 5
- 2.2. Văn khắc ở chùa 2.3. Văn khắc ở miếu, lăng 2.4. Văn khắc ở nhà thờ Chương 3. Giá trị nội dung và nghệ thuật văn khắc Hán Nôm tại xã Thuỷ Dương 3.1. Giá trị nội dung 3.2. Giá trị nghệ thuật NỘI DUNG Chương 1 MỘT VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ XÃ THỦY DƯƠNG VÀ HIỆN TRẠNG VĂN KHẮC Ở XÃ 1.1. Một vài nét khái quát về xã Thủy Dương 1.1.1. Vị trí địa lý và lịch sử xã Thủy Dương Thủy Dương là một xã nằm ở phía nam thành phố Huế, phía đông giáp xã Thuỷ Phương; phía tây giáp xã Thuỷ Bằng của huyện Hương Thuỷ và các phường: An Đông, An Tây của thành phố Huế; phía nam giáp xã Thuỷ Bằng; phía bắc giáp xã Thuỷ Thanh. Xã Thủy Dương cách trung tâm thành phố Huế 4km, có đường quốc lộ và đường sắt bắc nam đi qua và là vùng kinh tế trọng điểm của địa bàn huyện Hương Thủy. Toàn xã có diện tích 1.249,8 ha, xã chia làm 5 thôn trong đó có một thôn ở vùng gò đồi, gồm 2.310 hộ và 11.640 nhân khẩu. Cũng như bao địa phương khác ở xứ Thuận Hoá xưa, xã Thuỷ Dương cũng được hình thành từ những cuộc nam tiến của người Việt mà cụ thể ở đây là cuộc nam chinh thảo phạt Chiêm Thành diễn ra dưới thời Lê Thánh Tông năm 1470, mặc dù mảnh đất Thuận Hoá đã sát nhập vào bản đồ Đại Việt từ rất lâu trước đó. Ta biết rằng sau cuộc kháng chiến thần thánh đánh đuổi quân Mông Nguyên xâm lược thì uy tín và danh tiếng của Đại Việt ngày một lẫy lừng, các nước láng giềng đều mong muốn được kết thân hoà hiếu. Vua Trần Nhân Tông sau giai đoạn lãnh 6
- đạo kháng chiến giành thắng lợi đã nhường ngôi cho thái tử Thuyên lui về làm Thái thượng hoàng và bắt đầu cuộc đời tu hành truyền đạo. Tháng 3 năm Tân Sửu (1301), trong một lần dạo chơi sang Chiêm, thấy tướng mạo và cốt cách đĩnh đạc của vua Chiêm Thành (chính là thái tử Harijit, người chỉ huy quân Chiêm đánh bại quân Mông Nguyên xâm lược), Thượng hoàng đã hứa gả con gái út của mình là công chúa Huyền Trân cho Chế Mân (Jaya Simhavar man). Bởi vậy, năm Bính Ngọ (1306), sau khi nhận nhiều thứ lễ vật gồm hương quý và vàng bạc cầu hôn, vua Anh Tông gả Huyền Trân cho Chế Mân. Chế Mân liền đem hai châu Ô và Rí làm sính lễ và phong Huyền Trân làm hoàng hậu. Khi công chúa đã về Chiêm thì người dân hai châu Hoan Ái (Thanh Nghệ) nối nhau vào tiếp nhận vùng đất mới. Các vùng đất này được Trần Anh Tông đổi tên là Thuận Châu và Hoá Châu, (Nay thuộc vùng từ nam Quảng Trị đến bắc Quảng Nam) lãnh thổ Đại Việt ở phía nam đã vươn tới sông Thu Bồn. Tuy nhiên nhân dân các thôn La Thuỷ, Tác Hồng và Đà Bồng không theo, triều đình liền cử Đoàn Nhữ Hài vào phủ dụ dân chúng, chọn số trong số người Chăm ở địa phương ra làm quản lý, cấp ruộng đất và tha thuế trong ba năm để thu phục lòng dân ở vùng đất mới. Nhưng mới về Chiêm chưa được bao lâu và cũng mới vừa sinh hạ thái tử thì vua Chiêm đột ngột qua đời, theo tục lệ bản quốc khi vua chết thì hoàng hậu cũng phải lên giàn hoả thiêu để chết theo. Nhận được tin, do thương em gái nên vua Anh Tông đã sai Đỗ Khắc Chung là quan Nhập nội hành khiển Thượng thư tả bộc xạ và An phủ sứ Đặng Văn sang Chiêm tìm cách cứu công chúa và đưa thái tử Chiêm về nước. Sau khi cứu được công chúa, người Chiêm vô cùng tức giận vì vậy vua Chiêm mới là Chế Chí không phục nhà Trần, có ý đòi lại đất đã dâng, liên tiếp đem quân quấy rối và đòi lại hai châu Ô, Rý. Năm 1311, vua Anh Tông thân chinh thảo phạt Chiêm Thành. Vua Chiêm là Chế Chí lượng sức mình không thắng nổi bèn quy hàng. Anh Tông lập làm vương nhưng lại giam lỏng ở trong nước mình, lại phong cho em trai Chế Chí tước hầu để trông coi nước Chiêm. Hai năm sau, Chế Chí chết trên đất Đại Việt. Từ đó quan hệ Việt Chiêm căng thẳng đưa tới những cuộc chiến tranh Việt Chiêm quy mô lớn (13 cuộc) mà nổi bật nhất là dưới thời vua Chiêm Chế Bồng Nga. Đến thời Hồ, vẫn có những 7
- cuộc chiến tranh quy mô giữa hai nước. Thuận Hoá là vùng biên giới tiếp giáp với nước Chiêm và mỗi lần Đại Việt nam chinh đều đóng quân trên vùng đất này nên nơi đây trở thành chiến trường giao tranh ác liệt, nhân dân bị ảnh hưởng bởi chiến tranh tàn phá rồi phu phen tạp dịch nên cuộc sống rất khổ sở. Do đó, điều lưu ý ở đây theo tiến sỹ Song Jung Nam là "Ngoài chuyện gả Huyền Trân công chúa cho vua Champa để nhận hai châu Ô- Rý, sau đó, thời nhà Trần "không nhận được một tấc đất nào từ Champa", mà còn "vài lần phải lâm vào thế tự vệ". Đến thời Hồ khi quân Minh sang xâm lược nước ta, đặt ách thống trị lên toàn bộ đất nước. Tướng Minh lúc ấy là Trương Phụ lấy được cả Thuận Hóa và Tân Bình liền làm sổ ghi chép số dân đinh ở hai châu này, đặt quan cai trị và để quân binh ở lại phòng giữ chỗ giáp giới nước Chiêm Thành. Khi Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa, nhận thấy Thuận Hoá là nơi trọng yếu nên rất chú ý xây dựng nơi đây thành một vùng chiến lược quan trọng. Tháng 7 mùa thu năm Ất Tị (1425), Bình Định Vương sai tư đồ Trần Hãn và thượng tướng Lê Nỗ đem hơn ngàn quân đi tuần các xứ Tân Bình và Thuận Hoá rồi hội quân với Lê Ngân gồm 70 chiến thuyền từ Nghệ An vào, các đạo quân tề tựu đông đủ, thuỷ bộ phối hợp với nhau tấn công thành. Đại quân đi đến đâu liền được nhân dân một lòng hưởng ứng và quy thuận. Trong cuộc kháng chiến trường kì chống quân Minh giành lại nền độc lập dân tộc, nhân dân Thuận Hoá đóng góp rất nhiều công sức. Sang thời Lê, mối quan hệ giữa Đại Việt và Chiêm Thành tương đối giao hảo. Nhưng đến năm 1470 mối quan hệ này lại bắt đầu căng thẳng, vua Chiêm là Trà Toàn (Pau Kubah, em trai của Trà Duyệt), Trà Duyệt chết thì ngôi thuộc về Trà Toàn. Trà Toàn là người hung hãn, hoang dâm, không được lòng người và rất tự phụ. Trà Toàn do đó không có ý thần phục Đại Việt, cho quân lính gây hấn cướp phá Hoá Châu và vượt biển sang cầu viện Trung Quốc. Lúc này, Đại Việt đang trong giai đoạn hùng mạnh bậc nhất trong lịch sử dưới sự trị vì anh minh của vua Lê Thánh Tông. Là một người văn võ song toàn, sáng suốt và quyết đoán, Lê Thánh Tông quyết định chinh phạt Chiêm Thành. Một mặt sai sứ sang Tàu trình bày rõ ràng việc làm của Trà Toàn với Minh Hiến Tông (Chu Kiến Thâm) một mặt tự thống lĩnh đại quân gồm 20 vạn vào đánh Chiêm Thành. Khi 8
- đại quân đã tiến đến Thuận Hoá vua cho tập dượt ngày đêm để chắc phần chiến thắng, bèn xuống chiếu cho vệ quân ở Thuận Hoá ra biển thi thuỷ chiến; lại hạ lệnh cho Nguyễn Vũ là người ở địa phương vẽ nộp đồ bản về những nơi hiểm yếu. Vua còn soạn "sách lược bình Chiêm" ban phát cho tướng sĩ các doanh. Về phía Chiêm, Trà Toàn sai em đưa sáu tướng cùng quân lính bí mật kéo đến sát doanh trại vua. Vua biết được bèn sai Lê Hy Cát đem thuyền vượt biển lẻn vào cửa Sa Kỳ lập đồn luỹ để chặn đường về của quân Chiêm, còn vua dẫn thuỷ quân ra biển kéo cờ và đánh trống để tăng cường thanh thế, lại sai Nguyễn Đức Trung dẫn quân bộ đi sát chân núi. Quân Chiêm trông thấy thanh thế quân Đại Việt sợ hãi mà bỏ chạy toán loạn về thành Chà Bàn. Quân của Lê Hy Cát có nhiệm vụ chặn đường về của giặc đã tung ra ngăn đánh. Nhà vua đóng ở cửa biển Thái Cần, đốc quân sĩ dốc đánh, chém hơn 300 tên và bắt sống hơn 60 tên, Trà Toàn sợ hãi dâng biểu xin đầu hàng. Nhà vua lại dẫn quân vào đánh thành Thi Nại, chiếm xong lại tiến đến đánh thành Đồ Bàn. Nhằm ngày 1 tháng 3 năm 1471, quân Đại Việt phá vỡ thành, Trà Toàn bị vệ quân Thuận Hoá bắt sống và dẫn đến trước mặt vua, vua Lê Thánh Tông không giết mà còn phủ dụ, lại cho ở ngoài ty trấn điện. Có một bại tướng Chiêm là Bô Trì Trì sợ vua còn đánh tiếp nên đã xin thần phục và triều cống. Vua Thánh Tông một mặt sát nhập miền bắc nước Chiêm từ đèo Hải Vân đến tận bắc Phú Yên vào bản đồ Đại Việt, một mặt không muốn tiến đánh thêm nữa bèn nghĩ kế làm cho nước Chiêm tự suy yếu bằng cách chia nước Chiêm thành ba nước nhỏ do ba vua đứng đầu. Như vậy, qua cuộc nam chinh của vua Lê Thánh Tông năm 1470 đã đem về cho Đại Việt thêm nhiều mảnh đất mới, biên giới phía nam Đại Việt đã tới tận núi Đá Bia thuộc Phú Yên. Vua có cho khắc bia ma nhai trên đỉnh núi để kỉ niệm chiến thắng và phân định ranh giới. Do đó Thuận Hoá không còn là vùng biên cương phía nam của đất nước nữa, từ đây mảnh đất này đi vào thời kỳ xây dựng và phát triển. Nhân dân ổn định cuộc sống và bắt đầu khai canh lập ấp để định cư lâu dài. Điều đặc biệt ở đây đó chính là 12 vị tổ khai canh tại xã Thuỷ Dương, huyện Hương Thuỷ đều là những võ quan nhỏ gốc người miền bắc, từng giữ chức đội trưởng dưới thời Lê Thánh Tông. Khi chiến tranh kết thúc, họ ở lại Thuận Hoá để chiêu vời những 9
- lưu dân xiêu dạt về khai khẩn những vùng đất hoang, lập nên làng mới trong đó có làng Thanh Thuỷ, tiền thân của xã Thuỷ Dương. 1.1.2. Vài nét về kinh tế, văn hoá xã hội của xã Thuỷ Dương Từ bến xe phía nam thành phố Huế đi xuống khoảng hai cây số, qua cây cầu vượt Thuỷ Dương ta đã chính thức đi vào địa phận xã Thuỷ Dương thuộc huyện Hương Thuỷ. Từ hai bên con đường quốc lộ chạy thẳng về nam chính là địa bàn dân cư của xã. Đây là một địa bàn có nhiều đơn vị kinh tế và một trong những trung tâm của huyện Hương Thuỷ nên đã tạo cho xã Thuỷ Dương một bộ mặt mới mẻ. Bên cạnh những ngành nghề kinh tế đang hoạt động, cư dân trong xã không chỉ đơn thuần làm nông nghiệp mà xen lẫn vào đó là các hoạt động dịch vụ khác cụ thể là: lao động nông nghiệp chiếm 19,1%, CN-TTCN-XD 26,7%, lao động dịch vụ chiếm 29,6%, CB-CNV và lao động khác chiếm 24,6%. Mạng lưới giao thông đi lại giữa các vùng miền và giữa các xã rất thuận lợi, có nhiều đơn vị kinh tế lớn đóng trên địa bàn. Trên địa bàn hiện có 1 HTX nông nghiệp, 1 quỹ tín dụng nhân dân, 2 trường tiểu học, 1 trường THCS, 1 trường mầm non. Trong những năm qua đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Thủy Dương đã phấn đấu xây dựng, tập trung đầu tư, chuyển đổi ngành nghề có hiệu quả kinh tế cao, đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa với nhiều công trình có giá trị lớn, cơ sở hạ tầng kĩ thuật hiện đại, bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới, đời sống vật chất tinh thần của người dân được nâng lên, quốc phòng an ninh được giữ vững. Từ ngày 9 tháng 2 năm 2010, xã Thuỷ Dương đã chính thức trở thành phường Thuỷ Dương theo Nghị quyết số 08/NQ-CP của Chính phủ Việt Nam về việc thành lập thị xã Hương Thủy và thành lập các phường thuộc thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. 1.2. Hiện trạng văn khắc chữ Hán ở xã Thuỷ Dương Chữ Hán là phương tiện chuyển tải thông tin rất hữu hiệu và mang đầy đủ nét văn hoá đặc sắc ở các dân tộc trong vòng văn hoá chữ Hán nói chung và Việt Nam nói riêng. Đây là một trong những hệ thống chữ viết được dùng lâu đời trên 10
- thế giới. Xưa kia chưa có giấy, bút và mực, người Trung Hoa cổ đại khắc chữ trên mai rùa, xương thú vật hay vỏ cây vì thế được gọi là giáp cốt văn, đây chính là một hình thức của văn khắc và nó được ra đời từ rất sớm. Đến thời kỳ sau này khi người Trung Hoa phát minh ra giấy, bút lông và mực nên đã tạo nên sự vượt trội cũng như tiện lợi hơn về cách ghi chép và truyền tải thông tin của chữ Hán, hình thức văn viết ghi chép trên giấy đã ra đời. Nhờ có giấy mà chữ Hán trở nên đắc dụng và phát triển mạnh mẽ hơn rất nhiều so với chữ khắc trên mai rùa và xương thú nên đã tồn tại cho đến tận ngày nay. Không gian ảnh hưởng của nó không chỉ bó hẹp trong đất nước Trung Quốc mà còn lan ra cả những nước xung quanh như Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Nhưng nói như vậy không phải là văn khắc không còn tồn tại và phát triển mà ngược lại, văn khắc vẫn phát triển mạnh mẽ và sâu rộng. Văn khắc vẫn tồn tại song song với văn viết ghi chép trên giấy, có điều là chất liệu khắc đã được thay đổi. Trước kia văn khắc chỉ xuất hiện trên mai rùa và xương thú thì nay được khắc bằng dao, đục, dũa hay nề trên các chất liệu mới có độ bền và mang tính thẩm mỹ cao như vữa xây, đá, kim loại, gỗ hay gốm Từ đây văn khắc không chỉ chuyển tải nội dung thông tin mà còn là một hình thức nghệ thuật mang đậm dấu ấn văn hoá bởi tuyệt đại đa số nó được thể hiện trên các bức hoành phi, đại tự, câu đối, văn bia và văn chuông Tất cả đều được gắn với những công trình kiến trúc văn hoá, tôn giáo và tín ngưỡng ở cả cung đình lẫn trong dân gian, mang trong mình sự thiêng liêng và trân trọng của mọi tầng lớp. Đặc biệt, do văn khắc được thực hiện trên các chất liệu bền chắc nên nó vượt trội hơn ở việc bảo lưu nguyên bản nội dung thông tin tốt hơn rất nhiều so với văn viết chép trên giấy. Và có thể khẳng định rằng nếu như không có văn khắc thì không có chữ Hán trên những công trình kiến trúc văn hoá truyền thống, mà không có chữ Hán ở những công trình đó thì tất cả dường như không có hồn và nét độc đáo trong văn hoá nữa. Xã Thuỷ Dương cũng là một vùng trọng điểm văn hoá ở Hương Thuỷ nói riêng và Thừa Thiên Huế nói chung. Văn khắc Hán Nôm dân gian Huế cũng bao gồm các văn bản Hán Nôm nhưng nó không phải thuộc loại cung đình và sơn môn, đó là các thể tài: hoành phi, đại tự, câu đối, văn bia, văn chuông Mảng 11
- văn khắc này trên địa bàn xã rất phong phú và bao gồm nhiều chủng loại, nhiều nhất phải kể đến câu đối và hoành phi, đại tự. Một điều đặc biệt là những công trình kiến trúc trên địa bàn xã từ nhà thờ họ cho đến đền chùa hay miếu mạo hầu hết mới được đại trùng tu lại trong thời gian gần đây, vì vậy mảng văn khắc đều đầy đủ, đa dạng và rõ ràng, ít bị thời gian và điều kiện ngoại cảnh làm hư hỏng, mờ nhạt. Nhưng cũng lý do này mà việc sưu tầm lại trở nên khó khăn hơn bởi ở những công trình mới, những người quản lý không cho tiếp xúc với nội điện vì lý do "Sợ mất cắp đồ thờ có giá trị và ảnh hưởng đến sự linh thiêng của tổ tiên dòng họ" (phải kể đến ở đây là nhà thờ họ Lê Thúc, Bá, Trọng, Quý và chùa Hoa Nghiêm) Phần văn khắc trên đá, trên địa bàn xã chỉ có một tấm bia duy nhất là tấm văn bia "Lê Trọng, Văn, Đắc, Bá, Thúc, Quý tộc thủy tổ mộ bi kí" ở quần thể nhà thờ và lăng mộ họ Lê, Thúc, Bá, Trọng, Quý. Tấm bia này khắc năm 2000, có nhà bia bảo vệ, bia nhỏ, gồm 432 chữ. Chữ Hán được khắc theo lối chữ chân phương, rõ ràng, sắc nét, ngôn ngữ gần với ngôn ngữ hiện đại. Cả hai mặt của bia đều được khắc chữ: mặt dương khắc chữ Hán và mặt âm khắc bản dịch bằng chữ quốc ngữ. Nội dung chủ yếu giới thiệu và ca ngợi về ngài thuỷ tổ của dòng họ. Vì bia dựng vào thời hiện đại nên không có phần hoa văn cũng như các trang trí theo kiểu truyền thống. Bia cũng không được đặt trên lưng rùa mà chỉ dựng trên đế bia hình khối chữ nhật đúc bằng xi măng, đây cũng là một đặc điểm của văn bia dân gian Huế. Tấm văn bia này đã được nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh tuyển dịch trong cuốn "Văn bia và văn chuông Hán Nôm dân gian Thừa Thiên Huế" do nhà xuất bản Thuận Hoá ấn hành năm 2006, trang 307. Phần văn khắc trên chất liệu kim loại chỉ có trên chuông đồng, không có văn khắc trên khánh và thạp. Chuông là một pháp khí rất quan trọng, là thứ đứng đầu bát âm và có thể nói là không thể thiếu được trong văn hoá tín ngưỡng Á đông, đặc biệt là ở chùa. Khi dựng chùa xong thì phải có chuông, đã có chuông ắt phải có bài văn khắc lên để kỉ niệm. Thông thường là ghi tên các thiện nam tín nữ đã có công đức xây dựng nên chùa hay ghi bài minh chuông để nguyện cầu. Trên địa bàn xã hiện nay có năm cái ở ba ngôi chùa: một chiếc ở chùa Nam Sơn, hai 12
- chiếc ở chùa Diệu Viên, một chiếc ở chùa Hoa Nghiêm và một chiếc ở chùa Đông Hải. Về nội dung thì cả năm chuông đều có nội dung câu chữ hầu hết giống nhau, đó là đều khắc bài minh chung và văn chung, chỉ khác tên chùa và ngày đúc. Riêng chuông chùa Đông Hải ghi những thông tin về chuông như năm đúc, làng xã đúc và trọng lượng của chuông. Phần câu đối, hoành phi, đại tự chiếm số lượng lớn nhất, có giá trị nhiều mặt cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Mảng văn khắc này hầu hết được khắc trên gỗ và nề trên vữa, văn khắc trên gỗ chủ yếu ở nội điện và văn khắc (nề) trên vữa chủ yếu ở ngoài trời. Nó xuất hiện hầu hết trong những công trình kiến trúc văn hoá và được bảo lưu khá nguyên vẹn. Những hoành phi câu đối là phần không thể thiếu được bởi nó không chỉ chứa đựng những nội dung tốt đẹp mà còn là cả một nghệ thuật mang tính thẩm mỹ cao, cả hai kết hợp tạo nên nét cổ kính, trang nghiêm và tĩnh lặng. Như đã trình bày ở trên do những công trình kiến trúc trên địa bàn xã hầu hết mới được sửa sang lại trong thời gian gần đây, vì vậy mảng văn khắc đều đầy đủ, đa dạng và rõ ràng. Còn lại một số công trình khác do điều kiện thời tiết và thời gian tác động làm cho những chữ đều mờ nhạt, mất nét không còn đọc rõ được. Chùa Đông Hải là nơi chịu ảnh hưởng mạnh nhất: chữ viết nề trên trụ biểu và ở cả miếu chùa qua sự bào mòn của mưa nắng đã bị rêu phong bám mọc và vảy lóc, mất hẳn hết chữ không còn đọc được. Một khó khăn nữa trong việc sưu tầm và ghi chép là do chữ Hán được khắc trên các công trình trong dân gian do đó tự dạng một số chữ được viết theo kiểu cách khác biệt không thể đoán ra được kể cả dựa vào mạch câu văn. Những chữ này lại không hề có trong từ điển hay phần mềm vi tính chữ Hán. Một số chữ có tự dạng giống nhau bị viết nhầm chữ này thành chữ kia (như chữ mao và chữ thủ). Hay như một số chữ bị viết sai nét do những người thợ nề không biết chữ Hán mà chỉ đồ theo khuôn mẫu có sẵn, trải qua thời gian và qua nhiều người nên chữ đó bị biến dạng, không còn đúng nét của chữ Hán nữa. Trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng tôi đã khảo sát tại một ngôi đình, năm ngôi chùa, chín ngôi miếu lăng và mười một nhà thờ họ với tổng số: văn bia 13
- 1 đơn vị, văn chuông 5 đơn vị, hoành phi và đại tự có 244 đơn vị và câu đối 267 đôi, trong đó có 6 đôi bằng chữ Nôm. Chương 2 SƯU TẦM VÀ PHIÊN DỊCH VĂN KHẮC HÁN NÔM TẠI XÃ THUỶ DƯƠNG 2.1. Văn khắc Hán Nôm ở đình làng 2.1.1. Đình Thanh Thuỷ Thượng Trụ biểu, mặt ngoài 清也若水靈也若仙鶴表琴亭玄光自在 水之有源木之有本祖功尊德終古長留 Thanh dã nhược thủy, linh dã nhược sơn, hạc biểu cầm đình huyền quang tự tại Thủy chi hữu nguyên, mộc chi hữu bản, tổ công tôn đức chung cổ trường lưu. Trong như nước, thiêng như núi, trụ biểu mái đình sáng tươi tự tại; Cây có cội, nước có nguồn, công đức tổ tông lưu mãi muôn năm. 精靈得造化高清濯濯洋洋萬古猶流正氣 英秀對岑山香水煌煌赫赫千秋共拜神庥 Tinh linh đắc tạo hóa, cao thanh trạc trạc dương dương, vạn cổ do lưu chính khí; Anh tú đối Sầm sơn, Hương Thủy hoàng hoàng hách hách, thiên thu cộng bái thần hưu. Thiêng liêng nhờ tạo hoá, thanh cao rực rỡ mênh mông, muôn thuở lưu truyền chính khí; Anh tú đối diện với đụn Sầm, Hương Thuỷ sáng trong mát mẻ, ngàn năm cùng đội ơn che chở của Thần. Mặt trong 清氣為天高彌來後箕尾托 14
- 水泉在地翰公南海榜碑靈 Thanh khí vi thiên, cao di lai hậu Cơ Vĩ thác; Thủy tuyền tại địa, Hàn công nam hải bảng bi linh. Khí lành là của trời, về sau lại càng cao như sao Cơ, sao Vĩ; Suối nước tại đất, tiên Hàn Tương Tử ở biển nam linh thiêng ở bảng bia đây. 得一以靈滾滾清泉一脈 有三不朽巍巍岑嶺三峰 Đắc nhất dĩ linh, cổn cổn thanh tuyền nhất mạch; Hữu tam bất hủ, nguy nguy sầm lĩnh tam phong. Được một đã linh, cuồn cuộn một mạch suối trong lành; Có ba bất hủ, nguy nga ba ngọn núi Sầm. Bình phong, mặt trước 屏立清亭迎瑞氣 風來水面送奇香 Bình lập thanh đình nghênh thụy khí; Phong lai thủy diện tống kì hương. Bình phong đứng ở trước đình sáng đón mời khí lành; Gió thổi tới mặt nước toả ra mùi hương lạ. Bình phong, mặt sau 文武常班列 江山足護持 Văn võ thường ban liệt; Giang sơn túc hộ trì. Văn võ thường xếp bày; Non sông đủ hộ trì. Tiền đường 清水上亭 15 丁酉年秋吉日造
- Thanh Thủy Thượng đình Đinh Dậu niên thu cát nhật tạo Đình Thanh Thủy Thượng Xây dựng ngày tốt mùa thu năm Đinh Dậu 物阜民康 清泉勝蹟 風淳俗美 Vật phụ dân khang Thanh tuyền thắng tích Phong thuần tục mỹ Dân giàu vật tốt tươi Cảnh đẹp suối trong xanh Phong tục thuần hậu tốt đẹp Nội điện 德流光 享克誠 功則祀 Đức lưu quang Hưởng khắc thành Công tắc tự Đức sáng lưu truyền mãi Hưởng sự thành kính Có công thì thờ phụng 護國庇民澤同香水潤 調元贊化功等象山高 Hộ quốc tí dân, trạch đồng Hương thủy nhuận; Điều nguyên tán hóa, công đẳng Tượng sơn cao. Bảo vệ nước che chở dân, ơn trạch thấm đẫm như sông Hương; Điều nguyên chuyển hóa, công lao cao lớn sánh với núi Voi. 德其盛 16
- Đức kỳ thịnh Công đức thịnh 為德其盛矣 有功則祀之 Vi đức kỳ thịnh hỹ; Hữu công tắc tự chi. Việc làm công đức thật là thịnh; Có công thì thờ phụng. Nhà truyền thống 萬世師 Vạn thế sư Người thầy của muôn đời 聖道千秋留越地 師傳萬世照南天 Thánh đạo thiên thu lưu Việt địa; Sư truyền vạn thế chiếu Nam thiên. Đạo của thánh nhân ngàn năm lưu ở đất Việt; Bậc thầy của muôn đời sáng mãi ở trời Nam. 17
- 岑嶺巍巍山錦鏽 清泉滾滾水文章 Sầm lĩnh nguy nguy sơn cẩm tú; Thanh tuyền cổn cổn thủy văn chương. Núi Sầm vời vợi ấy là núi tươi đẹp; Suối trong xanh cuồn cuộn ấy là nước văn chương. 2.2. Văn khắc Hán Nôm ở chùa 2.2.1. Chùa Diệu Viên Đỉnh đồng 妙圓寺鼎 Diệu Viên tự đỉnh Vạc chùa Diệu Viên Nóc điện 大光明臧 phía trên Đại Quang Minh tạng Tạng Đại Quang Minh 18
- Nóc điện phía dưới 大覺世尊 Đại giác thế tôn Đại giác thế tôn Bốn bài kệ trên tường mái 諸有聽徒來至此 或在地上或居空 常於人世起慈心 盡夜自身依法住 願諸世界常安隱 無邊福智蓋群生 南無罪業並銷除 迷離眾苦歸圓寂 天阿修羅餓鬼等 來聽法者應至心 使常存名各動行 世尊教 恆用戒看塗荃体 常持定服以資身 菩提妙法遍莊嚴 隨兩往生處常安樂 19
- Chư hữu thính đồ lai chí thử, Hoặc tại địa thượng hoặc cư không. Thường ư nhân thế khởi từ tâm, Tận dạ tự thân y pháp trụ. Nguyện chư thế giới thường an lạc, Vô biên phúc trí cái quần sinh. Nam mô tội nghiệp tịnh tiêu trừ, Mê ly chúng khổ quy viên tịch. Thiên A tu la ngạ quỷ đẳng, Lai thính pháp giả ứng chí tâm. Sử thường tồn danh các động hành Thế tôn giáo. Hằng dụng giới khan đồ thuyên thể, Thường trì định phục dĩ tư thân. Bồ Đề diệu pháp biến trang nghiêm, Tùy lưỡng vãng sinh xứ thường an lạc. Có những con người tới nơi đây để nghe pháp, Có kẻ ngồi ở trên đất, có kẻ ngồi ở trên cao. Thường ở nơi nhân thế sẽ nổi lên lòng từ bi, Chấm dứt bóng đêm tự thân dựa vào pháp mà an trú. Mong cho các thế giới đều yên vui, Phúc và trí vô biên phủ khắp muôn loài. Nam mô nghiệp tội đều tiêu trừ, Các thứ khổ ải mê muội đều về với viên tịch. 20
- Các loài thiên, A tu la và ngạ quỷ, Người nào tới nghe giảng pháp thì nên có “chí tâm”. Khiến cho bảo tồn danh, mỗi người đều làm theo giáo pháp của Thế tôn. Thường dùng để răn xem thể cây Thuyên, Thường giữ định phục để làm béo tốt mình mẩy. Diệu pháp bồ đề đều trang nghiêm, Tùy vào hai chốn vãng sinh thì thường yên vui. 妙圓寺 佛歷二千五百四十四年 歲次庚辰季春大重修 Diệu Viên tự Phật lịch nhị thiên ngũ bách tứ thập tứ niên Tuế thứ Canh Thìn quý xuân đại trùng tu Chùa Diệu Viên Đại trùng tu cuối xuân Canh Thìn, Phật lịch năm 2544 (2000) Nội điện 依正金章 大雄寶殿 如是莊嚴 Y chính kim chương Đại hùng bảo điện Như thị trang nghiêm Dựa vào kim chương Điện báu của bậc Đại Hùng Trang nghiêm như thế Gian ngoài 21
- 拜手灼玄香三千世結祥雲奉獻如來蓮座上 信心持佛號百八聲成正念即生淨土寶花中 佛歷二五四四年辛巳仲春吉日大重修落成之禮 妙圓尼寺眾法侄同奉供 Bái thủ chước huyền hương, tam thiên thế kết tường vân, phụng hiến Như Lai liên tòa thượng; Tín tâm trì Phật hiệu, bách bát thanh thành chính niệm, tức sinh tịnh thổ bảo hoa trung. (Phật lịch nhị ngũ tứ tứ niên Tân Tị trọng xuân cát nhật, đại trùng tu lạc thành chi lễ. Diệu Viên ni tự chúng pháp điệt đồng phụng cúng) Lạy đốt hương thơm, Ba ngàn thế giới kết thành đám mây lành, phụng dâng lên đức Phật trên tòa sen; Tâm tin giữ hiệu của Phật, một trăm lẻ tám tiếng chuông thành chính niệm, lập tức sinh vào cõi tịnh thổ trong cõi hoa báu. (Lễ khánh thành đại trùng tu ngày tốt giữa xuân năm Tân tị, Phật lịch năm 2545. Các Phật tử chùa ni Diệu Viên cùng phụng cúng) 妙義如來廣含藏行深了悟能體了 圓修正玄戒定慧即凡心化作聖心 佛子黃文蓮黃公明明奉供 順化京春妙圓寺大重修落成之禮 Diệu nghĩa Như Lai quảng hàm tàng, hành thâm liễu ngộ năng thể liễu; Viên tu chính huyền giới định tuệ, tức phàm tâm hóa tác thánh tâm. (Phật tử Hoàng Văn Liên Hoàng Công Minh phụng cúng. Thuận Hóa kinh xuân Diệu Viên tự đại trùng tu lạc thành chi lễ) 22
- Làm mầu nhiệm đạo nghĩa Như Lai thấm nhuần rộng lớn, thực hiện sâu sắc việc giác ngộ mới có thể giác ngộ được; Tu một cách tròn đầy giới định trí tuệ chân chính huyền diệu, lập tức tâm phàm tục biến thành tâm của bậc thánh nhân. (Phật tử Hoàng Văn Liên và Hoàng Công Minh phụng cúng. Lễ khánh thành đại trùng tu chùa Diệu Viên ở kinh đô Phú Xuân) Gian giữa 五峰山境人緣已定會聚修學佛 當吉地名祖道住錫初興逢玄場 佛子武天玉奉供 順化京春妙圓寺大重修落成之禮 Ngũ phong sơn cảnh, nhân duyên dĩ định, hội tụ tu học Phật; Đương cát địa danh, tổ đạo trú tích, sơ hưng phùng huyền tràng. (Phật tử Vũ Thiên Ngọc phụng cúng. Thuận Hóa kinh xuân Diệu Viên tự đại trùng tu lạc thành chi lễ) Cõi núi Ngũ phong, nhân duyên đã định, hội họp mà tu học Phật; Địa danh tốt lành, đạo tổ dựng thiền trượng, khi mới hưng gặp cõi nhiệm màu. (Phật tử Vũ Thiên Ngọc phụng cúng. Lễ khánh thành đại trùng tu chùa Diệu Viên ở kinh đô Phú Xuân) Gian trong cùng 振錫提攜 振錫提攜 Chấn tích đề huề Chấn tích đề huề Cùng nhau dựng tích trượng 將此深心奉塵剎 是則名為報佛恩 23
- Tương thử thâm tâm phụng trần sát; Thị tắc danh vi báo Phật ân. Đem cái thâm tâm này phụng ngôi chùa trần thế; Ấy là danh để báo ơn Phật. 人依法法依人頓妙隨机聞妙現 佛即心心即佛古今不異合真宗 Nhân y pháp, pháp y nhân, đốn diệu tùy cơ văn diệu hiện; Phật tức tâm, tâm tức Phật, cổ kim bất dị hợp chân tông. Người nương pháp, pháp dựa người, nhanh chóng tuỳ cơ nghe mà hiện ra mầu nhiệm; Phật là tâm, tâm là Phật, xưa nay chẳng khác hợp với chân tông. 掌上明珠光攝大千之界 手中金錫振開地獄之門 Chưởng thượng minh châu, quang nhiếp đại thiên chi giới; Thủ trung kim tích, chấn khai địa ngục chi môn. Quả minh châu nắm trên tay, soi sáng cả trăm ngàn cõi; Gậy tầm xích vàng giữ trong tay, nâng mở cửa địa ngục. Hậu điện 五峰金地叢林孤同光含空即色 當吉山頭寶剎群巒翠鎖古猶今 Ngũ phong kim địa tùng lâm, cô đồng quang hàm không tức sắc; Đương cát sơn đầu bảo sát, quần loan thúy tỏa cổ do kim. Rừng rậm nơi đất vàng ở núi Ngũ Phong, lẻ loi ánh sáng ngậm không tức là sắc; Chùa báu đầu non là nơi tốt đẹp, những ngọn núi biếc vây quanh từ xưa đến nay. Chuông Chuông to 妙圓銅鐘 24
- Diệu Viên đồng chung Chuông đồng chùa Diệu Viên 願此鐘聲超法界 鐵圍幽暗悉皆聞 聞塵清淨證圓通 一切眾生成正覺 聞鐘聲煩惱輕 智慧長菩提生 離地獄出火坑 願成佛度眾生 唵伽羅帝耶沙訶 Nguyện thử chung thanh siêu pháp giới, Thiết vi u ám tất giai văn. Văn trần thanh tịnh chứng viên thông, Nhất thiết chúng sinh thành chính giác. Văn chung thanh phiền não khinh, Trí tuệ trưởng bồ đề sinh. Ly địa ngục độ chúng sinh, Nguyện thành Phật độ chúng sinh. Úm gia la đế da sa ha. 25
- Chuông nhỏ 鐘偈銘云 願此鐘聲超法界 鐵圍幽暗悉皆聞 聞塵清淨證圓通 一切眾生成正覺 聞鐘聲煩惱輕 智慧長菩提生 離地獄出火坑 願成佛度眾生 唵伽羅帝耶沙訶 Chung kệ minh vân Nguyện thử chung thanh siêu pháp giới, Thiết vi u ám tất giai văn. Văn trần thanh tịnh chứng viên thông, Nhất thiết chúng sinh thành chính giác. Văn chung thanh phiền não khinh, Trí tuệ trưởng bồ đề sinh. Ly địa ngục độ chúng sinh, Nguyện thành Phật độ chúng sinh. Úm gia la đế da sa ha. (Nội dung đã dịch rõ ở chuông chùa Hoa Nghiêm, xin lược) 26
- Miếu 恭請本境山神土地列位 五行列位仙娘 外境外乾英靈 Cung thỉnh bản cảnh sơn thần thổ địa liệt vị: Ngũ hành liệt vị tiên nương; Ngoại cảnh ngoại càn anh linh. Cung kính thỉnh các vị thần núi và thần đất ở nơi đây : Các vị tiên nương ngũ hành; Anh linh ngoại cảnh ngoại càn . Các lăng tháp Lăng hội chủ Hoàng Công Viết 安養神 An dưỡng thần Thần an dưỡng 佛護持名標淨域 神祲覺地赴蓮城 Phật hộ trì danh tiêu tịnh vực; Thần tẩm giác địa phó liên thành. Phật hộ trì danh hiệu, nêu cao cõi tịnh thổ; Thần tẩm giúp đỡ đất giác ngộ, đi đến thành hoa sen. 承佛慈力 Thừa Phật từ lực Kế thừa sức từ bi của Phật 27
- Bia 顯考受菩提戒慈嚴寺會主黃公曰咨名心明之墓 辛亥年立春寂于辛亥年八月十六日 長子黃公由仝親眷內外寺奉立 Hiển khảo thụ bồ đề giới Từ Nghiêm tự hội chủ Hoàng Công Viết tư danh Tâm Minh chi mộ. (Tân Hợi niên lập xuân. Tịch vu Tân Hợi niên bát nguyệt thập lục nhật. Trưởng tử Hoàng Công Do đồng thân quyến nội ngoại tự phụng lập) Mộ hiển khảo, nhận bồ đề giới chùa Từ Nghiêm hội chủ Hoàng Công Viết, tên tự là Tâm Minh. (Lập xuân năm Tân Hợi. Tịch vào ngày 16 tháng tám năm Tân Hợi. Con cả Hoàng Công Do cùng thân quyến trong và ngoài chùa phụng lập) Tháp Trang Nghiêm 莊嚴塔 Trang Nghiêm tháp Tháp Trang Nghiêm 寺旁另開新塔景 山頭依在舊風光 Tự bàng lánh khai tân tháp cảnh; Sơn đầu y tại cựu phong quang. Bên chùa mở riêng cảnh tháp mới; Đầu non dựa vào phong quang cũ. 28
- Bia 臨濟法派受毘丘尼戒重建妙圓尼寺住持諱心玄字真通之塔 妙圓尼眾並孝徒世眷仝奉立 Lâm Tế pháp phái thụ tì kheo ni giới, trùng kiến Diệu Viên ni tự trụ trì, húy Tâm Huyền, tự Chân Thông chi tháp. (Diệu Viên ni chúng tịnh hiếu đồ thế quyến đồng phụng lập) Tháp của trụ trì trùng kiến chùa Diệu Viên, pháp phái Lâm Tế nhận tì kheo ni giới, húy Tâm Huyền, tự Chân Thông. (Các sư nữ chùa Diệu Viên và các học trò hiếu cùng thân quyến phụng lập) Lăng Diệu Nhẫn 敬如在 Kính như tại Kính như đang ở trước mặt 昊天罔極劬勞苦 蒼海難窮養育恩 Hạo thiên võng cực cù lao khổ; Thương hải nan cùng dưỡng dục ân. Cù lao khổ cực lớn như trời xanh lồng lộng; Bể cả khó sánh cùng ơn nuôi dưỡng. 常樂我淨 Thường lạc ngã tịnh 29
- Thanh tịnh thường lạc Lăng ngài khai sơn chùa Thích Nữ Hướng Đạo 雲開碧岫山粧面 月印寒泉水畫眉 Vân khai bích tụ sơn trang diện; Nguyệt ấn hàn tuyền thủy họa mi. Mây mở ra màu biếc nơi góc núi, núi trang điểm cho nét mặt; Trăng in suối lạnh, nước vẽ mi. 風梳翠竹和煙裊 露滴喬松帶月圓 Phong sơ thúy trúc hòa yên niểu; Lộ trích kiều tùng đới nguyệt viên. Gió chải tre xanh cùng khói xoáy; Sương đẫm trên cây thông cao như treo cả trăng tròn. Tháp Kim Diệu 金妙塔 Kim Diệu tháp Tháp Kim Diệu Bia 妙圓尼寺住持毘丘尼號金妙之塔 佛歷二千五百十七年甲寅三月初一日寂 孝徒奉立 Diệu Viên ni tự trụ trì tì kheo ni hiệu Kim Diệu chi tháp. 30
- (Phật lịch nhị thiên ngũ bách thập thất niên Giáp Dần tam nguyệt sơ nhất nhật tịch. Hiếu đồ phụng lập) Tháp của sư trụ trì tì kheo ni chùa Diệu Viên, hiệu là Kim Diệu. (Viên tịch ngày mồng một tháng ba năm Giáp Dần, Phật lịch năm 2517. Các đệ tử hiếu phụng lập) Bài thơ khắc ở tường sau 龍女獻珍珠 仰伏威神 速成正果 喬曇尊敬法 依憑妙力 早澄真乘 Long nữ hiến trân châu, Ngưỡng phục uy thần. Tốc thành chính quả, Kiều đàm tôn kính pháp. Y bằng diệu lực, Tảo trừng chân thừa. Long nữ dâng hạt ngọc trân châu, Nép trông uy nghiêm của thần. Mau nên chính quả, Phép tôn kính Cù Đàm. Dựa vào sức tinh diệu, Sớm gạn lọc chân thừa. Lăng bà Nguyễn Thị Cúc 常樂 31
- Thường lạc Thường vui 旦墓神鐘風迷響 高低松嶺月常臨 Đán mộ thần chung phong mê hưởng; Cao đê tùng lĩnh nguyệt thường lâm. Chuông thần sớm tối, gió mê đều thổi tới; Thông trên đỉnh núi thấp cao, trăng thường soi đến. Bài vị 奉為順寂沙彌尼法名心直字如滿阮氏菊真靈 寂于丁未年六月初三日 本師釋女真通奉立 Phụng vi: Thuận tịch sa di ni pháp danh Tâm Trực tự Như Mãn Nguyễn Thị Cúc chân linh. Tịch vu Đinh Mùi niên lục nguyệt sơ tam nhật. (Bản sư Thích Nữ Chân Thông phụng lập) Phụng vi: chân linh Thuận tịch sa di ni, pháp danh Tâm Trực, tự Chân Mãn Nguyễn Thị Cúc. Tịch vào ngày mồng 3 tháng 6 năm Đinh Mùi. (Bản sư Thích Nữ Chân Thông phụng lập) Mộ hội chủ Hồ Thị 觀自在 Quán tự tại Tự tại mà xét thấu 32
- 藏百年生死 歸一路涅槃 Tàng bách niên sinh tử; Quy nhất lộ niết bàn. Giấu sự sống chết trong trăm năm; Về một đường tới niết bàn. 妙圓寺會主胡氏法名紅秀字金鐘一品夫人之墓 丙子年五月五日生 壬午年五月九日死 Diệu Viên tự hội chủ Hồ thị, pháp danh Hồng Tú, tự Kim Chung nhất phẩm phu nhân chi mộ. (Bính Tý niên ngũ nguyệt ngũ nhật sinh. Nhâm ngọ niên ngũ nguyệt cửu nhật tử) Mộ của hội chủ chùa Diệu Viên Hồ thị, pháp danh Hồng Tú, tự Kim Chung nhất phẩm phu nhân. (Sinh ngày 5 tháng 5 năm Bính Tý. Mất ngày 9 tháng 5 năm Nhâm Ngọ) Tháp Chân Bảo 真寶塔 Chân Bảo tháp Tháp Chân bảo 33
- 種田即果結 修業善道成 Chủng điền tức quả kết; Tu nghiệp thiện đạo thành. Trồng ruộng thì kết được quả; Tu nghiệp thì đạo tốt thành. Bia 陪濟源流毘丘尼菩薩戒法名心愛字真寶號金珠李氏之墓 丙子年仲秋造. 釋女如花同亶信等奉立 Bồi tế nguyên lưu tì kheo ni Bồ Tát giới, pháp danh Tâm Ái, tự Chân Bảo, hiệu Kim Châu Lý thị chi mộ. (Bính Tý niên trọng thu tạo. Thích Nữ Như Hoa đồng thiện tín đẳng phụng lập) Mộ của bồi tế nguyên lưu tì kheo ni bồ tát Lý thị, pháp danh Tâm Ái, tự Chân Bảo, hiệu Kim Châu. (Tạo dựng giữa thu năm Bính Tý. Thích Nữ Như Hoa cùng các thiện nam tín nữ phụng lập) Tháp Phúc Tuệ 福慧塔 Phúc Tuệ tháp Tháp Phúc Tuệ 幻理沒伽藍地 真性逍寂滅城 Huyễn lý một Già Lam địa; 34
- Chân tính tiêu tịch diệt thành. Lý lẽ ảo làm mất đi đất Phật; Chân tính tiêu dao nơi thành tịch diệt. Bia 臨濟四十世受毘邱尼菩薩戒諱上心下福字真祿尼師之塔 Lâm Tế tứ thập thế thụ tì khâu ni Bồ Tát giới, húy Thượng Tâm Hạ Phúc, tự Chân Lộc ni sư chi mộ. Mộ của ni sư pháp phái Lâm Tế đời thứ 40 nhận tì kheo ni bồ tát giới, húy là Thượng Tâm Hạ Phúc, tự là Chân Lộc. Tháp Nhật Trí 日智塔 Nhật Trí tháp Tháp Nhật Trí 淨心存正念 英氣轉凡性 Tịnh tâm tồn chính niệm; Anh khí chuyển phàm tính. Tâm tịnh luôn tồn tại suy nghĩ ngay thẳng; Khí tinh anh sẽ lay chuyển được cái tính phàm tục. Bia 妙圓法派喜尼寺毘丘尼日智字淨英吳氏之塔 丙戌年十一月二十二日 妙喜尼寺尼眾仝奉立 Diệu Viên pháp phái hỉ ni tự tì kheo ni Nhật Trí tự Tịnh Anh ngô thị chi tháp. 35
- (Bính Tuất niên thập nhất nguyệt nhị thập nhị nhật. Diệu Hỷ ni tự ni chúng đồng phụng lập) Tháp của Nhật Trí tự Tịnh Anh Ngô thị tì kheo ni chùa Hỉ Ni pháp phái Diệu Viên . (Ngày 22 tháng 11 năm Bính Tý. Các sư nữ chùa Diệu Hỷ cùng phụng lập) Cổng thành 青竹峒 Thanh trúc động Động Thanh Trúc 紫竹林中是踏紅蓮千葉色 青蓮座上手持翠柳一枝春 Tử trúc lâm trung, thị đạp hồng liên thiên diệp sắc; Thanh liên tòa thượng, thủ trì thúy liễu nhất chi xuân. Trong rừng tre tím, áp lên sen hồng ngàn lá sắc; Trên tòa sen xanh, tay cầm một cành liễu biếc tươi. 觀自在 Quán tự tại Tự tại mà xét thấu 佛躡金蓮從鷲嶺 法關寶藏離龍宮 Phật nhiếp kim liên tòng Thứu lĩnh; Pháp quan bảo tạng ly long cung. 36
- Phật theo sen vàng lên núi Linh Thứu; Cổng pháp tàng báu xa lìa long cung. 2.2.2. Chùa Đông Hải Tam quan 建法一智即俗即真歸覺道 德同法寒空談空有轉迷心 Kiến pháp nhất trí, tức tục tức chân quy giác đạo; Đức đồng pháp hàn, không đàm không hữu chuyển mê tâm. Dựng nên đạo pháp bằng trí tuệ, dù là tục hay là chân đều về nơi giác đạo; Đức cùng pháp, luống nói, luống có đều xoay chuyển được lòng mê. 法雨洗除門外穢 慈風以去路邊塵 Pháp vũ tẩy trừ môn ngoại uế; Từ phong dĩ khử lộ biên trần. Mưa pháp tẩy trừ ô uế ngoài cửa; Gió lành thổi sạch bụi bên đường. Mặt trong tam quan 東海寺 己丑年 Đông Hải tự 孟春造 Kỷ Sửu niên mạnh xuân tạo 37
- Chùa Đông Hải Xây dựng đầu xuân Kỷ Sửu Trụ biểu Mặt trước 車土 ? 慧日方升領開里野 ? ? ? 慈雲普照 共濟沈淪 Xa thổ ? tuệ nhật phương thăng lĩnh khai lý dã; ? ? ? từ vân phổ chiếu cộng tế trầm luân. ??? Mặt trời trí tuệ lên cao mở ra rộng sáng; ???Mây từ phủ khắp cùng tế độ trầm luân. 一透真空清水波 永專安樂岑山草重自青青 Nhất thấu chân không Thanh Thủy ba; Vĩnh chuyên an lạc Sầm sơn thảo trọng tự thanh thanh. Một thấu chân không, sóng Thanh Thủy ?; Mãi mãi an lạc, núi Sầm cỏ rậm tự xanh tươi. Mặt sau 保大二年三月重修寺宇 清水上甲第四共仰併息 Bảo Đại nhị niên tam nguyệt trùng tu tự vũ; Thanh Thủy Thượng giáp đệ tứ cộng ngưỡng tịnh tức. Tháng ba niên hiệu Bảo Đại thứ hai trùng tu ngôi chùa này; Giáp thứ tư làng Thanh Thủy Thượng cũng ngẩng trông . 少門由童示自丁李陳黎而來 38
- Sa môn do đồng thị tự Đinh Lý Trần Lê nhi lai Tì kheo từ các đời Đinh Lý Trần Lê đến giờ . Điện 東土遍莊嚴日放重新景色 海覺常燦爛雲開顯現祥光 Đông thổ biến trang nghiêm, nhật phóng trùng tân cảnh sắc; Hải giác thường xán lạn, vân khai hiển hiện tường quang. Mảnh đất phía đông đều nghiêm trang, mặt trời lên cao cảnh sắc mới; Biển biết đều sáng rạng, mây mở hiển hiện điềm lành. 開方便 大師三界 遍莊嚴 Khai phương tiện Đại sư tam giới Biến trang nghiêm Mở ra phương tiện Đại sư ba giới Tất cả đều trang nghiêm 東海會蓮臺鷲嶺遍聞獅吼雨 西天開寶殿祇園超感雉鳴風 沐息會主馮有志和南上供 Đông hải hội liên đài, Thứu lĩnh biến văn sư hống vũ; Tây thiên khai bảo điện, Kỳ viên siêu cảm trĩ minh phong. (Mộc tức hội chủ Phùng Hữu Chí hòa nam thượng cúng) Bể đông hội đài sen, khắp núi Thứu đều nghe tiếng sư tử rống trong mưa; Trời tây mở điện báu, vườn Kỳ siêu cảm tiếng chim trĩ hót trong gió. (Mộc tức hội chủ Phùng Hữu Chí hòa nam thượng dâng cúng) 39
- 道法麟往大會君臣仝一德 義扶漢鼎并收吳魏貫三分 Đạo pháp lân vãng, đại hội quân thần đồng nhất đức; Nghĩa phù Hán đỉnh, tịnh thu Ngô Ngụy quán tam phân. Đạo pháp xung quanh đều tới, vua tôi đại hồi đều cùng một đức; Lấy nghĩa khuông phù vạc nhà Hán, gộp thu Ngô Ngụy bình dẹp sự chia ba. 東海寺 成泰丁未年造 本邑官邑奉供Đông Hải tự (Thành Thái Đinh Mùi niên tạo Bản ấp quan ấp phụng cúng) Chùa Đông Hải (Xây dựng năm Đinh Mùi đời Thành Thái. Quan bản ấp phụng cúng) 海會遍聞兜率有天成樂土 玄關大覺菩提隨地蔭慈雲 Hải hội biến văn, Đâu suất hữu thiên thành lạc thổ; Huyền quan đại giác, Bồ đề tùy địa ấm từ vân. Hội biển đều nghe, Đâu suất theo trời thành đất lạc; Cửa huyền vi mở ra giác ngộ, Bồ đề theo đất phủ mây lành. Hậu điện 洗劫塵心清水光回慧日 40
- 栽成福果岑山高捧慈雲 領兵阮改詳奉供 Tẩy kiếp trần tâm, thanh thủy quang hồi tuệ nhật; Tài thành phúc quả, Sầm sơn cao bổng từ vân. (Lãnh binh Nguyễn Cải Tường phụng cúng). Rửa sạch lòng trần, nước trong quay lại với vẻ sáng của mặt trời trí tuệ; Gây trồng nên quả phúc, đụn Sầm cao ôm mây lành. (Lãnh binh Nguyễn Cải Tường phụng cúng). 德業信為天下法 尊親長是 世 人心 本隊正隊長率隊阮致祥奉供 Đức nghiệp tín vi thiên hạ pháp; Tôn thân trường thị thế nhân tâm. (Bản đội chính đội trưởng suất đội Nguyễn Cải Tường phụng cúng) Nghiệp đức tin rằng đây là pháp của thiên hạ; Tôn thân thích mãi là lòng người trong thế gian. (Suất đội chính đội trưởng bản đội Nguyễn Cải Tường phụng cúng) Chữ khắc trên đèn thờ (phải-trái) 法界蒙勳 吉祥如意 Pháp giới mông huân Cát tường như ý Cõi pháp chịu công Tốt lành như ý Chuông Bản ấp quan lại khưu ni đồng chú 本邑官吏 Quan lại ở bản ấp cùng tăng và ni góp đúc 丘尼仝鑄 41
- 清水社上 Thanh Thủy xã thượng giáp đệ tứ ấp Ấp thứ tư giáp trên xã Thanh Thủy 甲第四邑 Duy Tân Nhâm Tý mạnh thu hạ hoán 維新壬子 Hạ tuần đầu mùa thu năm Nhâm Tý đời vua 孟秋下浣 Duy Tân Bình trọng đồng nhất bách thất thập cân 平重銅臺 Chuông bằng đồng nặng 171 cân 百柒拾斤 2.2.3. Chùa Hoa Nghiêm Tam quan 解脫 花嚴寺 清淨 Giải thoát Hoa Nghiêm tự Thanh tịnh Giải thoát Chùa Hoa Nghiêm Thanh tịnh 慧日照長空草木山河成秀麗 慈風吹淨地士農工賈共清涼 Tuệ nhật chiếu trường không, thảo mộc sơn hà thành tú lệ; Từ phong xuy tịnh địa, sĩ nông công cổ cộng thanh lương. Mặt trời trí tuệ chiếu khắp không gian, cây cỏ nước non nên đẹp đẽ; Gió lành thổi đất tịnh, sĩ nông công thương đều mát lành. 花發曼陀流水高山吟長短 42
- 嚴成寶剎白雲紅日空去來 Hoa phát mạn đà, lưu thủy cao sơn ngâm trường đoản; Nghiêm thành bảo sát, bạch vân hồng nhật không khứ lai. Hoa nở tốt tươi, non cao nước chảy ngâm khúc nhạc dài ngắn; Uy nghiêm chùa ngọc, mây trắng mặt trời hồng luống lại qua. Xung quanh chùa 花嚴妮寺 Hoa Nghiêm ni tự Chùa ni Hoa Nghiêm 香花莊嚴 Hương hoa trang nghiêm Hương hoa trang nghiêm 慈風普扇 Từ phong phổ phiến Gió lành quạt khắp 聞思修慧 Văn tư tu tuệ Nghe, suy nghĩ, sửa mình, trí tuệ Nội điện 行願無量 三界道師 慧光普照 43
- Hành nguyện vô lượng Tam giới đạo sư Tuệ quang phổ chiếu Hành nguyện vô lượng Đạo sư ba giới Ánh sáng nhà Phật chiếu khắp 拜手炷摽香奉獻如來蓮座上 信心持佛號祈生淨土寶花中 Bái thủ chú tiếu hương, phụng hiến Như Lai liên tòa thượng; Tín tâm trì Phật hiệu, kì sinh Tịnh thổ bảo hoa trung. Chắp tay thắp hương, phụng dân lên đức Phật trên tòa sen; Lòng tin theo Phật hiệu, kì sinh cõi Tịnh thổ trong hoa báu. 真傳妙義引誘迷徒普化群生超彼岸 圓成道果三界往來勸進人間聞一乘 Chân truyền diệu nghĩa, dẫn dụ mê đồ, phổ hóa quần sinh siêu bỉ ngạn; Viên thành đạo quả, tam giới vãng lai, khuyến tiến nhân gian văn nhất thặng. Chân truyền nghĩa diệu, dẫn dắt quần mê, hóa khắp quần sinh qua bờ bên kia; Đạo quả tròn đầy, ba giới qua lại, khuyến khích nhân gian nghe một thặng. 萬德具 大雄寶殿 三覺圓 Vạn đức cụ Đại hùng bảo điện Tam giác viên M Muôn đức đầy đủ Điện báu của bậc Đại Hùng Ba giác ngộ tròn đầy 皈依佛皈依法皈依僧不墜三途苦 莊嚴戒莊嚴定莊嚴慧敬禮無上尊 Quy y Phật, quy y pháp, quy y tăng, bất trụy tam đồ khổ; Trang nghiêm giới, trang nghiêm định, trang nghiêm tuệ, kính lễ vô thượng tôn. Quy y Phật, quy y pháp, quy y tăng, không rơi vào ba đường khổ; Trang nghiêm giới, trang nghiêm định, trang nghiêm tuệ, kính lễ bậc cao quý vô thượng. 44
- 花曇現瑞相愛道尼留祖印傳燈深妙偈 嚴持戒定標向道計承後學闡揚頓漸開 Hoa đàm hiện thụy, tương ái đạo ni lưu, tổ ấn truyền đăng thâm diệu kệ; Nghiêm trì giới định, tiêu hướng đạo kế thừa, hậu học xiển dương đốn tiệm khai. Hoa đàm hiện điềm lành, đạo thương yêu nhau mà lưu giữ, tổ ấn truyền đèn sáng kệ tinh diệu; Giữ nghiêm giới định, lòng hướng về đạo mà thừa kế, kẻ hậu học mở to ra sự đốn ngộ. Mộ tháp Tháp Chân Tịnh 真心常安樂 淨德可融通 Chân tâm thường an lạc; Tịnh đức khả dung thông. Tâm chân luôn yên vui; Đức tịnh nên có thể ung dung thông suốt. 真淨塔 Chân Tịnh tháp Tháp Chân Tịnh Bài vị 臨濟法派四十三世花嚴寺住持諱心好字真淨毘丘尼真靈之塔 佛歷二五三三己巳中秋 門徒並親眷仝奉立 45
- Lâm Tế pháp phái tứ thập tam thế Hoa Nghiêm tự trụ trì húy Tâm Hảo, tự Chân Tịnh tù kheo ni chân linh chi tháp. (Phật lịch nhị ngũ tam tam Kỷ Tị trung thu. Môn đồ tịnh thân quyến đồng phụng lập) Tháp của trụ trì chùa Hoa Nghiêm phái Lâm Tế đời thứ bốn mươi ba, húy Tâm Hảo, tự Chân Tịnh tì kheo ni. (Trung thu năm Kỷ Tị, Phật lịch năm 2533. Môn đồ cùng người thân phụng lập) Tháp Giác Tuệ 覺慧塔 Giác Tuệ tháp Tháp Giác Tuệ 水流歸大海 月落還雄天 Thủy lưu quy đại hải; Nguyệt lạc hoàn hùng thiên. Nước chảy về biển cả; Trăng lặn trở về trời. 妙珠塔 Diệu Châu tháp Tháp Diệu Châu 46
- 妙性離生滅 珠光映古今 Diệu tính ly sinh diệt; Châu quang ánh cổ kim. Tính huyền diệu có thể thoát rời được sinh và diệt; Ánh sáng ngọc sáng cả xưa lẫn nay. Bia tháp 花嚴寺眾首毘丘尼釋女妙珠法名源英阮氏雪生癸巳卒壬申真靈之塔 佛歷二五三六壬申仲秋 本寺並親眷奉立 Hoa Nghiêm tự chúng thủ tì kheo ni Thích Nữ Diệu Châu pháp danh Nguyên Anh Nguyễn Thị Tuyết (sinh Quý Tỵ, tốt Nhâm Thân) chân linh chi tháp. (Phật lịch nhị ngũ tam lục Nhâm Thân trọng thu. Bản tự tịnh thân quyến phụng lập) Tháp của chúng thủ chùa Hoa Nghiêm tì kheo ni Thích Nữ Diệu Châu, pháp danh Nguyên Anh Nguyễn Thị Tuyết (sinh năm Quý Tỵ, mất năm Nhâm Thân). (Giữa thu năm Nhâm Thân, Phật lịch năm 2536. Bản chùa cùng với thân quyến phụng lập) Chuông 鳴鐘 願此鐘聲超法界 鐵圍幽暗悉皆聞 聞塵清淨證圓通 一切眾生成正覺 聞鐘 47
- 聞鐘聲煩惱輕 智慧長菩提生 離地獄出火坑 願成佛度眾生 唵伽羅帝耶沙訶 慈曇寺住持沙門號善起和尚証明承天化省教會諸大眾仝護念 南無阿彌陀佛花嚴尼寺 佛歷二五三九歲次丙子三月十九日奉鑄 Minh chung Nguyện thử chung thanh siêu pháp giới; Thiết vi u ám tất giai văn. Văn trần thanh tịnh chứng viên thông; Nhất thiết chúng sinh thành chính giác. Văn chung Văn chung thanh phiền não khinh; Trí tuệ trưởng bồ đề sinh. Ly địa ngục xuất hỏa khanh; Nguyện thành Phật độ chúng sinh. Úm gia la đế da sa ha. Từ Đàm tự trụ trì sa môn hiệu Thiện Khởi hòa thượng chứng minh, Thừa Thiên Huế tỉnh giáo hội chư đại chúng đồng hộ niệm. Nam mô A di đà Phật Hoa Nghiêm ni tự. Phật lịch nhị ngũ tam cửu, tuế thứ Bính Tý tam nguyệt thập cửu nhật phụng. Bài minh chuông Mong tiếng chuông này vượt ra hết cõi pháp ; 48
- Trong ngục sắt tăm tối cũng nghe được hết. Nghe xong bụi trần nên thanh tịnh và chứng được viên thông; Tất cả chúng sinh đều thành chính giác. Nghe chuông Nghe tiếng chuông phiền não trở nên nhẹ nhõm ; Trí tuệ lớn mạnh, Bồ Đề nảy sinh. Thoát khỏi địa ngục, ra khỏi hố lửa ; Mong được thành Phật để cứu độ chúng sinh. Úm gia la đế da sa ha. Trụ trì sa môn chùa Từ Đàm hiệu Thiện Khởi hòa thượng chứng minh, giáo hội và đại chúng tỉnh Thừa Thiên Huế cùng hộ niệm. Nam mô A di đà Phật, chùa ni Hoa Nghiêm. Phật lịch năm 2539, phụng đúc ngày 9 tháng 3 năm Bính Tý. 2.2.4. Chùa Nam Sơn Tam quan 南山寺 歲在乙亥造 Nam Sơn tự (Tuế佛曆二五三九年 tại Ất Hợi tạo. Phật lịch nhị ngũ tam cửu niên) Chùa Nam Sơn (Xây dựng năm Ất Hợi. Phật lịch năm 2539) 入解脫門半點無憂心常樂 承三寶力六塵不染眼放寬 Nhập giải thoát môn, bán điểm vô ưu, tâm thường lạc; 49
- Thừa tam bảo lực, lục trần bất nhiễm, nhãn phóng khoan. Vào cửa giải thoát, không chút ưu phiền tâm luôn lạc quan; Nối sức tam bảo, bụi đời không nhiễm mắt rộng nhìn. 覺性圓明無我無人無壽者 真心清淨有悲有智有菩提 Giác tính viên minh, vô ngã vô nhân vô thọ giả; Chân tâm thanh tịnh, hữu bi hữu trí hữu Bồ Đề. Giác tính tròn đầy, chẳng người, chẳng ta, chẳng có kẻ thọ; Chân tâm thanh tịnh, có bi, có trí, có Bồ Đề. Tiền đường 南山寺 Nam Sơn tự Chùa Nam Sơn 現性離塵起分別而隨自在 真心無妄出是非以妙莊嚴 Hiện tính ly trần, khởi phân biệt nhi tùy tự tại; Chân tâm vô vọng, thi phi dĩ diệu trang nghiêm. Thấy tính rời bụi đời, nên phân biệt mà theo tự tại; Chân tâm không sai phạm, rời khỏi thị phi mà nghiêm trang. 皈依佛皈依法皈依僧一心頂禮 淨其身淨其口淨其意三恭育修 50
- Quy y Phật, quy y pháp, quy y tăng; nhất tâm đỉnh lễ; Tịnh kỳ thân, tịnh kỳ khẩu, tịnh kỳ ý; tam cung dục tu. Theo về với phật, theo về với pháp, theo về với tăng, một lòng thành lễ; Tịnh mình, tịnh miệng, tịnh ý, ba cung kính sửa chữa nên điều tốt. Nội điện 大雄寶殿 南山寺釋心法恭造 佛曆二五百四十年丙子冬 Đại Hùng bảo điện (Nam Sơn tự Thích Tâm Pháp cung tạo. Tuế tại Ất Hợi tạo. Phật lịch nhị ngũ bách tứ thập niên Bính Tý đông) Điện báu của bậc Đại Hùng. (Thích Tâm Pháp chùa Nam Sơn cung kính tạo dựng. Xây dựng năm Ất Hợi. Phật lịch năm 2540, mùa đông năm Bính Tý) 榜記玄微玉宇金音垂後鑒 鷲山超越鏡花水月覺前人 佛曆二五百四十二年戊寅孟秋 南山寺住持釋心法 Bảng kí huyền vi, ngọc vũ kim âm thùy hậu giám; Thứu sơn siêu việt, kính hoa thủy nguyệt giác tiền nhân. (Phật lịch nhị ngũ tứ thập nhị niên Mậu Dần mạnh thu. Nam Sơn tự trụ trì Thích Tâm Pháp) 51
- Bảng ghi huyền vi, điện ngọc tiếng vàng truyền gương soi cho đời sau; Núi Linh Thứu siêu việt, hoa kính trăng nước thấy người xưa. (Đầu thu năm Mậu Dần Phật lịch năm 2542. Trụ trì chùa Nam Sơn Thích Tâm Pháp) Án thờ 三寶慈尊 Tam bảo từ tôn Từ tôn nơi Tam bảo Hậu điện 祖師重光 佛曆二五百四十一年丁丑仲春 Tổ sư trùng quang 南山寺釋心法恭造 (Phật lịch nhị ngũ bách tứ thập nhất niên Đinh Sửu trọng xuân. Nam Sơn tự Thích Tâm Pháp cung tạo) Tổ sư rạng ngời (Giữa xuân Đinh Sửu Phật lịch năm 2541 Thích Tâm Pháp chùa Nam Sơn cung kính dựng) 臣忠子孝千秋鑑 祖德尊功萬世基 Thần trung tử hiếu thiên thu giám; Tổ đức tôn công vạn thế cơ. Tôi trung con hiếu là tấm gương soi ngàn năm; Công đức tổ tôn là cái nền muôn thuở. 52
- 力敵萬人天下有 名垂千古世間無 Lực địch vạn nhân thiên hạ hữu; Danh thùy thiên cổ thế gian vô. Sức đấu muôn người thiên hạ có; Danh lưu vạn thuở thế gian không. 聖德昭彰萬載恩光留越地 神功廣普千秋風化照南天 龍飛己丑年 冬日月上院 Thánh đức chiêu chương, vạn tải ân quang lưu Việt địa; Thần công quảng phổ, thiên thu phong hóa chiếu Nam thiên. (Phi long Kỷ Sửu niên, Đông nhật nguyệt thượng hoán) Đức thánh sáng tươi, ngàn năm ơn huệ lưu ở đất Việt; Công thần trải khắp, muôn đời phong hóa chiếu trời Nam. (Thượng tuần ngày tháng mùa đông năm Kỷ Sửu) Văn chuông 南無十方常住三寶 Nam mô thập phương thường trụ Tam bảo Nam mô thập phương thường trụ Tam bảo 南山寺鐘 Nam Sơn tự chung 53
- Chuông chùa Nam Sơn 佛日增暉 法輪常轉 Phật nhật tăng huy Pháp luân thường chuyển Mặt trời Phật pháp thêm sáng Bánh xe đạo pháp luôn chuyển động 鳴鐘 願此鐘聲超法界 鐵圍幽暗悉皆聞 聞塵清淨證圓通 一切眾生成正覺 聞鐘 聞鐘聲煩惱輕 智慧長菩提生 離地獄出火坑 願成佛度眾生 唵伽羅帝耶沙訶 慈曇寺住持沙門號善起和尚証明承天化省教會諸大眾仝護念 南山寺住持比丘釋心法奉持 佛曆二五百四歲次丙子年六月二十八日 春夏秋冬 54
- Minh chung Nguyện thử chung thanh siêu pháp giới; Thiết vi u ám tất giai văn. Văn trần thanh tịnh trừng viên thông; Nhất thiết chúng sinh thành chính giác. Văn chung Văn chung thanh phiền não khinh; Trí tuệ trưởng bồ đề sinh. Ly địa ngục độ chúng sinh; Nguyện thành Phật độ chúng sinh. Úm gia la đế da sa ha. Từ Đàm tự trụ trì sa môn hiệu Thiện Khởi hòa thượng chứng minh, Thừa Thiên Huế tỉnh giáo hội chư đại chúng đồng hộ niệm. Nam Sơn tự trụ trì tì kheo Thích Tâm Pháp phụng trì. Phật lịch nhị ngũ bách tứ tuế thứ Bính Tý niên lục nguyệt nhị thập bát nhật. Xuân hạ thu đông. (Nội dung phần dịch này đã rõ, xin lược) Trụ trì sa môn chùa Từ Đàm hiệu Thiện Khởi hòa thượng chứng minh, giáo hội và đại chúng tỉnh Thừa Thiên Huế cùng hộ niệm. Trụ trì chùa Nam Sơn tì kheo Thích Tâm Pháp phụng trì. Phật lịch năm 2540, ngày 28 tháng 6 năm Bính Tý 2.2.5. Chùa Thanh Quang Tam quan Mặt ngoài 清澄月色消千瘴 水灑楊枝普八郊 Thanh trừng nguyệt sắc tiêu thiên chướng; Thủy sái Dương chi phổ bát giao. Trong veo bóng trăng tiêu tan ngàn nghiệp chướng; 55
- Nước rửa cành Dương thấm khắp tám cõi xa. 池廣放生魚自在 樹常結果鳥皈依 Trì quảng phóng sinh ngư tự tại; Thụ thường kết quả điểu quy y. Ao rộng phóng sinh, cá tự tại; Cây thường kết quả chim nương tựa. Mặt trong 背擁三峰迴旺氣 面臨一水湧靈潮 Bối ủng tam phong hồi vượng khí; Diện lâm nhất thủy dũng linh triều. Lưng dựa vào ba ngọn núi uốn quanh khí vượng; Mặt đối diện một con nước sóng linh vọt lên. 清淨法門滋百億 光煇佛日揭三千 Thanh tịnh pháp môn tư bách ức; Quang huy Phật nhật yết tam thiên. Cửa pháp thanh tịnh nhuần trăm vạn đời; Mặt trời Phật sáng rạng rọi ba ngàn thế giới. Điện 佛日增煇 法倫常轉 56
- Phật nhật tăng huy Pháp luân thường chuyển Mặt trời Phật pháp tăng vẻ sáng Bánh xe pháp luôn chuyển động 佛智光含天有旦 法門清淨地無塵 Phật trí quang hàm thiên hạ đán; Pháp môn thanh tịnh địa vô trần. Trí tuệ Phật sáng rạng chứa ánh sáng của thiên hạ; Cửa Phật thanh tịnh, đất không có bụi. 一空妙理通天地 半點真如貫古今 Nhất không diệu lý thông thiên địa; Bán điểm Chân Như quán cổ kim. Một điều diệu lý thông suốt cả trời đất; Nửa chút Chân Như xuyên xuốt cả xưa nay. Nội điện 振家聲 久愈徵 求世德 Chấn gia thanh Cửu du vi Cầu thế đức Nâng thanh danh gia đình Nhiệm màu dài lâu Cầu đức ở đời 萬世儀型 Vạn thế nghi hình Khuôn phép lễ nghi muôn đời 心地皆空空昱色 佛光普炤炤如來 57
- Tâm địa giai không không dục sắc; Phật quang phổ chiếu chiếu Như Lai. Tâm địa đều không, không là vẻ sáng ban ngày; Ánh sáng Phật chiếu khắp, chiếu cả Như lai. 2.3. Văn khắc Hán Nôm ở miếu, lăng 2.3.1. Miếu chùa Đông Hải 英靈 Anh linh Anh linh 才超水族興雲瑞 德振山 ?? 石頭 Tài siêu thủy tộc hưng vân thụy; Đức chấn sơn ? ? thạch đầu. Tài vượt trên các loài thủy tộc làm nổi lên mây lành; Đức nhấc núi cao 敬如在 Kính như tại Kính trọng như ngài ở trước mặt 廟宇設成? 界酋 英靈 ?者??? 58
- Miếu vũ thiết thành ? giới tù Anh linh ? giả ??? Miếu điện xếp đặt thành ? Anh linh ? Trong miếu 敬神 Kính Thần Kính trọng bậc Thần Thánh 代天宣聖化 替地起神 聲 Đại thiên tuyên Thánh hóa; Thế địa khởi Thần thanh. Thay trời tuyên truyền giáo hóa của bậc Thánh; Thay đất dấy lên tiếng uy của Thần. 2.3.2. Miếu Di Chúc Bên ngoài 尊 恭奉請 神 Tôn Cung phụng thỉnh Thần Tôn Cung phụng mời Thần Bên trong 乾 奉請 坤 Càn Phụng thỉnh Khôn Quẻ Càn Phụng mời Quẻ Khôn 59
- 五行 Ngũ hành Ngũ hành 東西南北定為白 金木水火土為神 Đông tây nam bắc định vi bạch; Kim mộc thủy hỏa thổ vi thần. Đông tây nam bắc định rõ ràng; Kim mộc thủy hỏa thổ là thần. 震 艮 Chấn Cấn Quẻ Chấn Quẻ Cấn Bài vị 奉請金木水火土五位聖妃之尊位 Phụng thỉnh kim mộc thủy hỏa thổ ngũ vị Thánh phi chi tôn vị. Phụng thỉnh tôn vị của năm vị Thánh phi kim mộc thủy hỏa thổ. 2.3.3. Miếu làng Thanh Dã Tam quan 奉康門廟 Phụng khang môn miếu Phụng làm khang trang miếu điện 60
- 入則平出則安 敬所尊愛所親 Nhập tắc bình, xuất tắc an; Kính sở tôn, ái sở thân. Vào thì bình, ra thì an; Kính người tôn quý, yêu người thân. Bình phong 福 Phúc Phúc 陰超陽泰 求之必應 誠敬尊嚴 報答知恩 Âm siêu dương thái Cầu chi tất ứng Thành kính tôn nghiêm Báo đáp tri ân Âm siêu dương thái Cầu gì ắt được Thành kính tôn nghiêm Biết ơn báo đáp 欲求保安于後世 鄉村留垂萬代存 Dục cầu bảo an vu hậu thế; Hương thôn lưu thùy vạn đại tồn. Muốn cầu được bảo an đến đời sau; Thì nơi thôn xóm lưu truyền đến muôn đời còn mãi. 日月光炤十方供 須憑感格於先靈 Nhật nguyệt quang chiếu thập phương cúng; 61
- Tu bằng cảm cách ư tiên linh. Mặt trời mặt trăng sáng tỏ chiếu rõ mười phương; Nên dựa vào cảm cách ở sự linh thiêng trước đây. 陰 靈顯赫 五行列位 本境城隍 英雄列士 Âm linh hiển hách Ngũ hành liệt vị Bản cảnh thành hoàng Anh hùng liệt sĩ Âm linh hiển hách Liệt vị ngũ hành Thành hoàng bản cảnh Các anh hùng liệt sĩ 2.3.4. Miếu văn thánh Thanh Thuỷ Thượng 如在 Như tại Như đang ở trước mặt 得其門而入也 就有道而正焉 Đắc kỳ môn nhi nhập; Tựu hữu đạo nhi chính yên. Gặp được cửa này mà đi vào; Đạt được đạo này mà sửa mình cho ngay thẳng. 城 隍 Thành hoàng Thành hoàng 62
- 2.3.5. Miếu thôn 1 Cổng 神功 顯赫今如在 廟貌煇煌古有光 Thần công hiển hách kim như tại; Miếu mạo huy hoàng cổ hữu quang. Thần công hiển sáng nay vẫn như còn đó; Vẻ miếu huy hoàng sáng sủa từ xưa. 格 思 Cách tư Nghĩ đến điều chính Trong miếu 千古英靈千古廟 四時香火四時春 Thiên cổ anh linh thiên cổ miếu; Tứ thời hương hỏa tứ thời xuân. Ngàn năm anh linh ở miếu ngàn năm; Bốn mùa hương khói bốn mùa đều là xuân. 2.3.6. Miếu thôn 2 格神思 Cách thần tư Suy nghĩ đến tận cùng về thần 63
- 俗美風淳依福址 人康物阜賴神庥 Tục mỹ phong thuần y phúc chỉ; Nhân khang vật phụ lại thần hưu. Phong thuần mỹ tục nương nền phúc; Dân giàu vật tốt nhờ sự che chở của thần. 古樹廟神常靈顯 鄉村民眾永安康 Cổ thụ miếu thần thường linh hiển; Hương thôn dân chúng vĩnh an khang. Miếu thần nơi cây cổ thụ thường hay linh hiển; Nhờ đó dân chúng trong chòm xóm được mãi mãi an khang. 本土常靈應 民野有康寧 Bản thổ thường linh ứng; Dân dã hữu khang ninh. Đất này thường linh ứng; Nên dân trong làng xóm được an khang yên lành. 2.3.7. Miếu thôn 3 Miếu đôi 陰靈顯地 Âm linh hiển địa Âm linh hiển hiện trên đất 巍巍乎無聲無默 64
- 濯濯而弗見弗聞 Nguy nguy hồ vô thanh vô mặc; Trạc trạc nhi phất kiến phất văn. Vời vợi thay không âm không lặng; Rực rỡ mà chẳng thấy chẳng nghe. 人杰地靈千古在 民安物阜四時春 Nhân kiệt địa linh thiên cổ tại; Dân an vật phụ tứ thời xuân. Người hào kiệt đất thiêng liêng ngàn năm còn đó; Dân yên vật giàu bốn mùa đều xuân. 壬午年八月創造尊廟 清水上本邑永遠留傳 Nhâm Ngọ niên bát nguyệt sáng tạo tôn miếu; Thanh Thủy Thượng bản ấp vĩnh viễn lưu truyền. Tháng 8 năm Nhâm Ngọ tạo dựng tôn miếu; Bản ấp Thanh Thủy Thượng mãi mãi lưu truyền. 2.3.8. Miếu thôn 4 Miếu 敬如在 Kính như tại Kính trọng như đang trước mặt 65
- 萬古勳名垂竹白 千秋義勇壯山河 Vạn cổ huân danh thùy trúc bạch; Thiên thu nghĩa dũng tráng sơn hà. Muôn thuở công danh lưu sách sử; Ngàn thu nghĩa dũng tráng non sông. 祖事業成留代世 規模制正總年儔 Tổ sự nghiệp thành lưu đại thế; Quy mô chế chính tổng niên trù. Sự nghiệp tổ tiên thành công phủ khắp đời này sang đời khác; Quy mô chế độ hết thảy đều theo hết năm này sang năm khác. 神 Thần Thần 洋洋于在上 濯濯爾厥靈 Dương dương vu tại thượng; Trạc trạc nhĩ quyết linh. Lồng lộng ở trên cao; Rực rỡ thật uy linh. 2.3.9. Lăng Lê Trà Lam 66
- Cổng 百世本枝昔樹今花增景色 千秋功德岑山農水等高深 Bách thế bản chi, tích thụ kim hoa tăng cảnh sắc; Thiên thu công đức, Sầm sơn Nông thủy đẳng cao thâm. Cội cành trăm đời, cây xưa hoa nay thêm cảnh sắc; Công đức ngàn năm, núi Sầm sông Nông đều cao sâu. 內外藩城嚴捍衛 高低砥柱壯觀瞻 Nội ngoại phiên thành nghiêm hãn vệ; Cao đê chỉ trụ tráng quan chiêm. Phiên thành trong ngoài bảo vệ nghiêm ngặt; Cột trụ cao thấp làm hùng vĩ cảnh quan. Lăng 南進軍讎驚將勇 北回靈地聚溫泉 Nam tiến quân thù kinh tướng dũng; Bắc hồi linh địa tụ ôn tuyền. Nam tiến thì quân thù khiếp sợ bậc dũng tướng; Bắc quay về đất linh thì tụ được nguồn suối ấm. Bia 本族開耕特進輔國上將軍欽差掌奇錦衣衛該隊茶藍侯黎貴公大郎之神墓 乙亥年仲秋. 後裔同奉立 Bản tộc khai canh đặc tiến Phụ quốc thượng tướng quân khâm sai chưởng cơ, Cẩm y vệ cai đội, Trà Lam hầu, Lê quý công đại lang chi thần mộ. 67
- (Ất Hợi niên trọng thu. Hậu duệ đồng phụng lập) Thần mộ của đại lang Lê quý công tước Trà Lam hầu, Cẩm y vệ cai đội, khai canh đặc tiến Phụ quốc thượng tướng quân khâm sai chưởng cơ. (Giữa thu năm Ất Hợi. Hậu duệ cùng phụng lập) Mặt sau lăng 功高創始千秋在 德大開先一脈泉 Công cao sáng thủy thiên thu tại; Đức đại khai tiên nhất mạch tuyền. Công lao mở mang thật to lớn ngàn năm vẫn còn đó; Đức lớn mở đầu một mạch suối. mộ chao 凜尊嚴 Lẫm tôn nghiêm Lẫm liệt tôn nghiêm 滿目雲山俱是樂 源頭活水共為來 Mãn mục vân sơn câu thị lạc; Nguyên đầu hoạt thủy cộng vi lai. Mây núi đầy mắt ấy đều là niềm vui; Nước chảy đầu nguồn đều hướng tới. 建設江山古 和平日月新 68
- Kiến thiết giang san cổ; Hòa bình nhật nguyệt tân. Xây dựng non sông của cha ông để lại; Hòa bình mặt trời mặt trăng thấy đều mới mẻ. 泰山高 Thái sơn cao Núi Thái Sơn cao 木出千柯由一本 水流萬派總同源 Mộc xuất thiên kha do nhất bản; Thủy lưu vạn phái tổng đồng nguyên. Cây mọc ngàn cành do một gốc; Nước chảy muôn dòng đều chung một nguồn. 耕居恭廣 開創 開拓功高 Canh cư cung quảng Khai sáng Khai thác công cao Khai canh nên rộng lớn Khai sáng Công khai thác lớn lao 2.4. Văn khắc Hán Nôm ở nhà thờ 2.4.1. Nhà thờ họ Lê Bá chi hai phái một 慶留苗裔 進念前恩 百忍太和 Khánh lưu miêu duệ Tiến niện tiền ân Bách nhẫn thái hòa Phúc tổ truyền con cháu Nghĩ tới ơn của tổ tiên Trăm nhẫn thì hòa 69
- Nội điện 百世板枝承舊蔭 千秋香火壯新基 Bách thế bản chi thừa cựu ấm; Thiên thu hương hỏa tráng tân cơ. Trăm đời gốc cành hưởng phúc của tổ tiên; Ngàn năm hương khói làm to đẹp nền móng mới. Án giữa trong cùng 福祿壽 Phúc lộc thọ Phúc lộc thọ 樹草逢春枝葉茂 祖宗積德子孫榮 Thụ thảo phùng xuân chi diệp mậu; Tổ tông tích đức tử tôn vinh. Cây cỏ gặp xuân cành lá tốt; Tổ tiên góp đức con cháu giàu mạnh. Án trái trong cùng 德流光 Đức lưu quang Đức sáng lưu truyền mãi 仁慈再出仁慈子 70
- 孝順還生孝順兒 Nhân từ tái xuất nhân từ tử; Hiếu thuận hoàn sinh hiếu thuận nhi. Nhân từ lại xuất con nhân từ; Hiếu thuận rồi sinh con hiếu thuận. Miếu 若臨 Nhược lâm Như đang soi xét 奉請姑婆 Phụng thỉnh cô bà Phụng mời cô bà 2.4.2. Nhà thờ họ Lê Bá Thúc Trọng Quý Tam quan 黎族 Lê tộc Họ Lê 門迎春夏秋冬福 戶納東西南北祥 Môn nghênh xuân hạ thu đông phúc; 71
- Hộ nạp đông tây nam bắc tường. Cửa đón phúc bốn mùa xuân hè thu đông; Cửa nhà thu hút những tốt lành của bốn phương. Cửa rộng thênh thang người qua lại; Đường đi thẳng tắp khách ra vào. (chữ Nôm) Trụ biểu, mặt trước 根深不怕風撼動 樹正無愁月影斜 Căn thâm bất phạ phong hám động; Thụ chính vô sầu nguyệt ảnh tà. Rễ sâu đâu sợ gió lay động; Cây thẳng nào lo bóng trăng xiên. 百計不如仁義善 千金莫若子孫賢 Bách kế bất như nhân nghĩa thiện; Thiên kim mạc nhược tử tôn hiền. Trăm kế chẳng bằng nhân nghĩa thiện; Ngàn vàng sao so được với cháu con ngoan. Trụ biểu, mặt sau 木出千枝由有本 水流萬派溯從源 Mộc xuất thiên chi do hữu bản; Thủy lưu vạn phái tố tòng nguyên. Cây mọc ngàn cành do có cội; 72
- Nước chảy muôn dòng bởi từ nguồn. 本根色彩於花葉 祖孝精神在子孫 Bản căn sắc thái ư hoa diệp; Tổ hiếu tinh thần tại tử tôn. Sức sống vẻ đẹp của gốc rễ thể hiện ở lá và hoa; Tinh thần của tổ tiên thể hiện ở con cháu. Bính phong Mặt trước 發心造 Phát tâm tạo Phát tâm xây dựng 意順難化易 心和少成多 Ý thuận nan hóa dị; Tâm hòa thiểu thành đa. Ý thuận, khó nên dễ; Tâm hòa, ít thành nhiều. Mặt sau 京兆郡 Kinh Triệu quận Quận Kinh triệu 佛門孝為本 儒道孝為先 73
- Phật môn hiếu vi bản; Nho đạo hiếu vi tiên. Cửa Phật hiếu là gốc; Đạo Nho hiếu là đầu. Vạc đồng 庚辰年六月十九日大修慶成長族長黎伯季容十五世奉供 Canh Thìn niên lục nguyệt thập cửu nhật đại tu khánh thành, trưởng tộc trưởng Lê Bá Quý Dung thập ngũ thế phụng cúng Đại tu khánh thành ngày 19 tháng 6 năm Canh Thìn, trưởng tộc trưởng Lê bá Quý Dung đời thứ 15 phụng cúng Mặt sau vạc đồng 報恩深 Báo ân thâm Báo đáp ơn sâu Tiền đường 黎祠堂 Lê từ đường Nhà thờ họ Lê 人生乎祖 伯叔季 Nhân sinh hồ tổ Bá thúc quý Mộc bản thủy nguyên 木本水源 Người sinh ra bởi tổ Bá thúc quý Cây có cội nước có nguồn 護國庇民 有開必先 Hộ quốc tí dân Tế thần祭神如神在 như thần tại Hữu khai tất tiên 74
- Bảo vệ nước che chở dân Tế thần như thần còn Khai sáng ắt là đầu tiên 殿宇煇煌千古跡 神功浩蕩萬家春 Điện vũ huy hoàng thiên cổ tích; Thần công hạo đãng vạn gia xuân. Miếu điện huy hoàng là dấu vết từ ngàn xưa; Thần công lớn lao muôn nhà được tốt tươi. 德道開民留萬世 功高護國歷千秋 Đức đạo khai dân lưu vạn cổ; Công cao hộ quốc lịch thiên thu. Đạo đức mở mang trong nhân dân lưu truyền muôn thuở; Công bảo vệ đất nước cao lớn trải mãi đến ngàn năm sau. Chính điện gian ngoài cùng 亭外風光增景色 門中日麗得榮花 癸丑年春 Đình ngoại phong quang tăng cảnh sắc; Môn trung nhật lệ đắc vinh hoa. (Quý Sửu niên xuân) Quang cảnh ngoài đình thêm cảnh sắc; Ngày đẹp trong nhà được vinh hoa. (Xuân Quý Sửu) 追恩德澤垂餘敬 75
- 戀想綱常謹寸心 婿孫蔭子吳曰他吳有常奉供 Truy ân đức trạch thùy dư kính; Luyến tưởng cương thường cẩn thốn tâm. (Tế tôn ấm tử Ngô Viết Tha, Ngô Hữu Thường phụng cúng) Tìm vể với ơn đức làm thêm niềm kính trọng; Mến tưởng đến cương thường cẩn thận tấc lòng. (Cháu rể Ngô Viết Tha, Ngô Hữu Thường phụng cúng) gian thứ 2 德流光 敦敘堂 Đức lưu quang Đôn Tự đường Đức sáng lưu truyền mãi Nhà xếp đặt thứ tự 燕翼謀始菊秀蘭芳栽昔樹 鳳毛世美槐蓀桂茁發今花 Yến dực mưu thủy, cúc tú lan phương tài tích thụ; Phượng mao thế mỹ, hòe tôn quế truất phát kim hoa. Mưu kế đời trước, cúc đẹp lan thơm vun gốc cũ; Hậu duệ đời đẹp, hòe thơm lan nhú nảy hoa nay. 鳥革翬飛新砥柱 松苞竹茂舊根基 Điểu cách huy phi tân chỉ trụ; Tùng bao trúc mậu cựu căn cơ. Cánh chim vờn bay cột trụ mới; Thông tươi tre tốt nền móng cũ. 76
- Gian thứ 3 京兆發源明德惟馨來也遠 清村演派有功則祀事繼長 Kinh Triệu phát nguyên, minh đức duy hinh lai dã viễn; Thanh thôn diễn phái, hữu công tắc tự sự kế trường. Bắt nguồn từ quận Kinh Triệu, đức sáng thơm tho đến nay xa vậy; Chảy dòng từ thôn Thanh, có công thì được thờ phụng lâu dài. 祖肇宗培百世精神成萃聚 恩深澤厚一堂氣血合親疏 Tổ triệu tông bồi, bách thế tinh thần thành tụy tụ; Ân thâm trạch hậu, nhất đường khí huyết hợp thân sơ. Tổ tông gây dựng bồi đắp, trăm năm tinh thần nên nơi tụ họp; Nhớ ơn đức dày, một nhà máu mủ hợp thân sơ. Gian thứ tư 德者昌百世增光普系 善餘慶千年永植木枝 Đức giả xương, bách thế tăng quang phổ hệ; Thiện dư khánh, thiên niên vĩnh thực mộc chi. Đức thịnh vượng, trăm đời phổ hệ thêm tươi sáng; Thiện dư vui, ngàn năm mãi trồng cây cành. 看見聞 德惟馨 在左右 Khán kiến văn Đức duy hinh Tại tả hữu Xem xét, thấy, nghe Chỉ có đức là thơm Ở cả hai bên Miếu 會同姑 77
- Hội đồng cô Hội đồng cô Khu lăng mộ ngài khai canh Trụ biểu mặt trước 萬古功成名顯達 千秋德盛姓繁榮 Vạn cổ công thành danh hiển đạt; Thiên thu đức thịnh tính phồn vinh. Muôn thuở công thành danh hiển đạt; Ngàn năm đức thịnh họ phồn vinh. 有作前修兼齒德 不忘後世共尊親 Hữu tác tiền tu kiêm xỉ đức; Bất vong hậu thế cộng tôn thân. Làm ra điều trước đây rồi sửa đổi chúng và cả đạo đức; Chẳng quên đời sau và cả tôn thân. Trụ biểu mặt sau Cội phúc lớn muôn đời quả ngọt; Cành nhân bền vạn thuở hoa tươi. (chữ Nôm) Cá biết về nguồn thăm nghĩa cội; Chim dầu xa tổ nhớ ơn cây. (chữ Nôm) Bình phong, mặt trước 78
- 順雨千山果 和風萬樹花 Thuận vũ thiên sơn quả; Hòa phong vạn thụ hoa. Mưa thuận làm cho rừng cây trên ngàn trái núi sai trĩu quả; Gió hòa làm cho muôn cây cối nở hoa tươi đẹp. Mặt sau 風來香味至 屏立瑞氣臨 Phong lai hương vị chí; Bình lập thụy khí lâm. Gió đưa mùi thơm đến; Bình phong đón khí lành tới. Cổng mộ 柱賴以尊對山河並立 燈高遠炤與日月同明 Trụ lại dĩ tôn, đối sơn hà tịnh lập; Đăng cao viễn chiếu, dữ nhật nguyệt đồng minh. Cột trụ nhờ ở tổ tôn, đứng đối diện với non sông; Đèn cao chiếu rọi xa xôi, sáng cùng với mặt trời mặt trăng. 岑嶺三峰擎筆勢 屏山一字作文星 Sầm lĩnh tam phong kình bút thế; Bình sơn nhất tự tác văn tinh. Ba ngọn núi Sầm nâng hình thế cây bút; 79
- Một chữ núi Bình làm ra dáng ngôi sao văn. Ngôi mộ Đại tự mặt trước 有開必先 Hữu khai tất tiên Khai sáng ắt là đầu tiên 松陰安枕席 石壁掛圖書 Tùng âm an chẩm tịch; Thạch bích quải đồ thư. Dưới bóng thông gối chiếu yên nghỉ; Vách đá treo đồ thư. Đại tự bên phải 仰彌高 Ngưỡng di cao Càng ngẩng trông càng thấy cao 松柏百年慈厚廕 雲仍萬古仰崇峰 Tùng bách bách niên từ hậu ấm; Vân nhưng vạn cổ ngưỡng sùng phong. Thông bách trăm năm làm điều nhân từ che chở; Cháu chắt muôn thuở ngẩng trông núi cao. Đại tự bên trái 祥在上 80
- Tường tại thượng Điều tốt lành ở trên 淒淒碧水三冬月 渺渺青山一片雲 Thê thê bích thủy tam đông nguyệt; Diểu diểu thanh sơn nhất phiến vân. Lạnh lẽo nước biếc in mảnh trăng ba mùa đông; Vời vợi núi xanh một đám mây. Cặp câu đối sau cùng 先祖是皇乃安其寢 孝孫有慶永孚于庥 Tiên tổ thị hoàng nãi an kỳ tẩm; Hiếu tôn hữu khánh vĩnh phu vu hưu. Tiên tổ là bậc vua chúa, mới yên nghỉ ngơi; Cháu hiếu có niềm vui, mãi tin vào sự che chở của tổ tiên. Mộ ngài thủy tổ Khải tổ ngàn năm lưu đức sáng; Cháu con muôn đời nhớ ơn sâu. (chữ Nôm) Hiếu nghĩa nhiều đời con cháu hưởng phúc; Khói hương muôn thuở sáng làng nước ghi công. (chữ Nôm) Bia mộ 奉為 81
- 啟祖考京兆郡黎剛鐵謚正直大郎 啟祖妣京兆郡黎元配號慈惠貴娘 之靈墓 壬午年孟春正月初八日再尊造 清水正上二社黎仲文得伯叔季兩族仝奉供 孝子第一世宏恭侯開耕始祖黎奇拜立 Phụng vi: Khải tổ khảo Kinh Triệu Quận Lê Cương Thiết, thụy Chính Trực đại lang, Khải tổ tỷ Kinh Triệu Quận Lê nguyên phối, hiệu Từ Huệ quý nương Chi linh mộ. (Nhâm Ngọ niên mạnh xuân chính nguyệt sơ bát nhật tái tôn tạo. Thanh Thủy Chính thượng nhị xã Lê Trọng Văn Đắc Bá Thúc Quý lưỡng tộc đồng phụng cúng. Hiếu tử đệ nhất thế Hoằng Cung hầu khai canh thủy tổ Lê Cơ bái lập) Phụng vi linh mộ: Khải tổ khảo Kinh Triệu Quận Lê Cương Thiết, thụy là Chính Trực đại lang, Khải tổ tỷ Kinh Triệu Quận Lê, là vợ cả, hiệu là Từ Huệ quý nương. (Tôn tạo lại ngày mồng 8 tháng giêng đầu xuân Nhâm Ngọ. Hai họ Lê Trọng Văn Đắc Bá Thúc Quý ở hai xã Thanh Thủy Chánh, Thượng cùng phụng cúng. Hiếu tử đời thứ nhất tước Hoằng Cung hầu, là thuỷ tổ khai canh Lê Cơ bái lập) Nhà bia 黎 伯 叔 季 族 得 文 Lê Bá Thúc Quý tộc đắc văn 宏恭侯碑亭 海德山功 82
- Hoằng Cung hầu bi đình Hải đức sơn công Nhà bia Hoằng Cung hầu Công đức như biển núi 端肅尊神 飲河思源 Đoan Túc tôn thần Ẩm hà tư nguyên Đoan túc tôn thần Uống nước nhớ nguồn Văn bia 黎仲文得伯叔季族始祖墓碑記 我黎族原貫中國陝西京兆郡累世定居越南而族普不詳載獨書我始祖長於黎 朝英宗皇帝西歷一五五七年因避莫氏而入乂安歡演處始祖諱奇謚純雅其父 剛鐵謚正直其母慈惠貴娘蓋黎朝武將後隨太祖嘉裕皇帝南歸而滅莫氏立多 勳功順化平定以後祖察其地景色宜人可為安居建業之所乃昭募流民墾荒築 邑變為稠密之處此清泉社富榮縣師魯總溫泉處今香水縣清水正社也雖武將 出親曾為該隊累昇指揮使都指揮使又追封弘恭侯輔國上將軍然務墾殖之事 而死後獲贈端肅尊神置祀田以封孫及上下清水而二社之民奉祀初只數子女 四男一其子孫乃日益繁盛成社中大族及黎景興年間西歷一七四二年族分為 兩支其一猶居其所其一入居水陽社於子孫與社民祖之恩澤甚大永刻心中詩 經蓼莪曰欲報之德昊天罔極謂先祖之功難報矣為子孫我等宜篤志務孝同心 一致保衛其德行而光宗耀祖以我族日益昌盛可報先祖恩德之一而與他族並 行以國家增輝也 祠堂慶成大修紀念之禮 庚辰年陸月壹玖日 83
- 黎伯叔季家族委會謹啟 第拾肆傳子孫 原本族族長黎季覺官員子 原本族族長黎季体員子 同奉供碑與亭 Lê Trọng, Văn , Đắc, Bá, Thúc, Quý tộc thủy tổ mộ bi kí Ngã Lê tộc nguyên quán Trung Quốc, Thiểm Tây, Kinh Triệu quận, lũy thế định cư Việt Nam nhi tộc phổ bất tường tái, độc thư ngã thủy tổ trưởng ư Lê triều Anh Tông hoàng đế Tây lịch nhất ngũ ngũ thất niên nhân tị Mạc thị chi loạn nhi nhập Nghệ An Hoan Diễn xứ. Thủy tổ húy Kỳ, thụy Thuần Nhã. Kỳ phụ Cương Thiết thụy Chính Trực, kỳ mẫu Từ Huệ quý nương ; cái Lê triều võ tướng, hậu tùy Thái Tổ Gia Dũ hoàng đế nam quy, nhi diệt Mạc thị, lập đa huân công. Thuận Hóa bình định dĩ hậu, tổ sát kỳ địa cảnh sắc nghi nhân khả vi an cư kiến nghiệp chi sở, nãi chiêu mộ lưu dân, khẩn hoang trúc ấp biến vi trù mật chi xứ. Thử Thanh Tuyền xã, Phú Vang huyện, Sư Lỗ tổng, Ôn Tuyền xứ, kim Hương Thủy huyện, Thanh Thủy Chính xã dã. Tuy võ tướng xuất thân tằng vi cai đội, lũy thăng Chỉ huy sứ Đô chỉ huy sứ, hựu truy phong Hoằng Cung hầu, phụ quốc thượng tướng quân, nhiên vụ khẩn thực chi sự. Nhi tử hậu hoạch tặng Đoan Túc tôn thần, trí tự điền dĩ phong tôn, cập Thượng, Hạ Thanh Thủy nhị xã chi dân phụng tự. Sơ chỉ sổ tử nữ: tứ nam: nhất kì tử tôn nãi nhật ích phồn thịnh thành xã trung đại tộc. Cập Lê Cảnh Hưng niên gian, Tây lịch nhất thất tứ nhị niên, tộc phân vi lưỡng chi: Kỳ nhất do cư kỳ sở, kỳ nhất nhập cư Thủy Dương xã. Ư tử tôn dữ xã dân, tổ chi ân trạch thậm đại, vĩnh khắc tâm trung. Thi kinh Lục Nga viết: “Dục báo chi đức, hạo thiên võng cực”, vị tiên tổ chi công nan báo hỹ. Vi tử tôn ngã đẳng nghi đốc chí vụ hiếu, đồng tâm nhất trí bảo vệ kỳ đức hạnh, nhi quang tông diệu tổ ngã tộc nhật ích xương thịnh, khả báo tiên tổ ân đức chi nhất, nhi dữ tha tộc thịnh hành dĩ quốc gia tăng huy dã. 84
- Từ đường khánh thành đại tu kỉ niệm chi lễ. Canh Thìn niên lục nguyệt nhất cửu nhật. Lê Bá Thúc Quý gia tộc ủy hội cẩn khải. Đệ thập tứ truyền tử tôn. Nguyên bản tộc tộc trưởng Lê Quý Giác, quan viên tử Nguyên bản tộc tộc trưởng Lê Quý Thể, viên tử. Đồng phụng cúng bi dữ đình. Văn bia mộ ngài thủy tổ họ Lê Trọng, Văn , Đắc, Bá, Thúc, Quý Họ Lê ta vốn quê quán ở quận Kinh Triệu, Thiểm Tây, nước Trung Quốc, nhiều đời định cư ở Việt Nam, nhưng gia phả dòng họ ghi chép không rõ rang, đọc sách thì thì thấy ngài thủy tổ lớn lên vào thời vua Anh Tông triều Lê, Tây lịch năm 1557, vì tránh loạn họ Mạc nên vào xứ Hoan Diễn Nghệ An. Thủy tổ húy Kỳ, thụy Thuần Nhã. Thân phụ húy Cương Thiết, thụy Chánh Trực, thân mẫu thụy Từ Huệ quý nương. Vốn là tướng võ triều Lê sau theo Thái tổ Gia Dụ hoàng đế nam tiến diệt Mạc lập nhiều công lao, sau khi Thuận Hóa được bình định ngài xét thấy mảnh đất này cảnh sắc phù hợp con người có thể an cư lạc nghiệp, bèn vời tuyển lưu dân khẩn hoang lập ấp biến thành nơi đông đúc. Đó là xứ Ôn Tuyền, tổng Sư Lỗ, huyện Phú Vang, tức là làng Thanh Tuyền, nay chính là làng Thanh Thủy Chánh, huyện Hương Thủy. Tuy xuất thân tướng võ từng làm cai đội, thăng dần lên chức chỉ huy sứ đô chỉ huy sứ, lại truy phong làm Hoằng Cung hầu Phụ quốc thượng tướng quân nhưng chăm việc khẩn hoang trồng dựng. Sau khi mất được tặng là Đoan Túc tôn thần, đặt tự điền để phong cho con cháu. Và dân hai xã Thượng Thanh Thủy, Hạ Thanh Thủy thờ phụng. Lúc đầu chỉ có mấy người con: bốn trai một gái, con cháu của một trong số đó ngày càng phồn thịnh trở thành một họ lớn trong xã. Đến đời vua Lê Cảnh Hưng, Tây lịch 1742, dòng họ chia làm hai nhánh, một nhánh vẫn ở chỗ cũ, một nhập vào xã Thủy Dương. Đối với con cháu và xã dân thì ơn đức của ngài là rất lớn lao, mãi mãi ghi nhớ trong lòng. Thiên Lục Nga trong Kinh Thi có câu: “Dục báo chi đức, hạo thiên võng cực” (muốn báo công đức, trời cao vô bờ), ý nói công lao 85
- của tổ tiên khó mà báo đáp được. Là con cháu, chúng ta nên dốc chí chăm hiếu, đồng lòng nhất trí giữ gìn đức hạnh của mình và làm rạng rỡ tổ tông, để dòng họ ta ngày càng phát triển., có thể báo đáp ơn đức của tổ tiên trong muôn một và cùng tiến lên cùng với các dòng họ khác để nước nhà thêm tươi sáng vậy. Lễ kỉ niệm khánh thành đại trùng tu nhà thờ. Ngày 19 tháng 6 năm Canh Thìn (2000). Hội đồng gia tộc họ Lê Bá, Thúc, Quý kính cẩn tâu bày. Con cháu đời thứ 14: Nguyên trưởng tộc bản tộc Lê Quý Giác, quan viên tử. Nguyên trưởng bản tộc Lê Quý Thể, viên tử, cùng phụng cúng bia và nhà bia. (Nhận thức về quê quán này là ngộ nhận theo "Bách tính quận danh" của sách Nho ngày xưa. Mỗi họ của người Trung Hoa (người Hán) được dùng một biệt danh của một quận, đối với người Hoa, có thể có ý nghĩa về nguồn cội. Người Việt đã bắt chước theo để ghi trong văn sớ, bài vị, dẫn tới nhầm lẫn của một số người cho đó là quê quán. Thật ra họ Lê này gốc từ Nghệ An, vào định cư tại làng Thanh Tuyền từ năm 1472 sau cuộc nam chinh của Lê Thánh Tông chứ không phải thời Lê Anh Tông và Nguyễn Hoàng như trong văn bia đã ngộ nhận. TĐV ) 2.4.3. Nhà thờ họ Lê Diên Tiền đường 流光 黎大尊 祖德 Lưu quang Lê đại tôn Tổ đức Sáng soi truyền mãi Họ Lê đại tôn Đức của Tổ tiên 仰彌高鎖彌堅明德來也遠 左群昭右群穆祀事孔彰 86
- Ngưỡng di cao, tỏa di kiên, minh đức lai dã viễn; Tả quần chiêu, hựu quần mục, tự sự khổng chương. Càng ngẩng trông càng thấy cao, càng khóa càng kiên cố, đức sáng tới từ xa; Bên trái là hàng chiêu, bên phải thì hàng mục, việc thờ tự to lớn sáng tỏ. 前對高山千里風雲生錦色 後依清水一門歌聚永長存 Tiền đối cao sơn, thiên lý phong vân sinh cẩm sắc; Hậu y thanh thủy, nhất môn ca tụ vĩnh trường tồn. Phía trước thì đối diện núi cao, ngàn dặm gió mây sinh vẻ gấm; Sau thì nương theo dòng nước trong, một nhà ca tụ mãi lâu dài. Nội điện Cây có cội nước có nguồn, muôn thuở chưa quên công sáng nghiệp; Người tìm tông chim tìm tổ, trăm năm vẫn nhớ nghĩa sinh thành. (chữ Nôm) 先肇後培功德長存垂萬古 山高海闊見聞永積啟千秋 Tiên triệu hậu bồi, công đức trường tồn thùy vạn cổ; Sơn cao hải khoát, kiến văn vĩnh tích khải thiên thu. Tổ tiên gây dựng con cháu bồi đắp, công đức lâu dài truyền muôn thuở; Non cao bể rộng, góp nhặt điều mắt thấy tai nghe mở ra thời đại ngàn năm. Án giữa 上高祖開耕北江府同知府禮儀仙鑒貴公謚明道先生位 Thượng cao tổ khai canh Bắc Giang phủ đồng tri phủ, lễ nghi tiên giám quý công, thụy Minh Đạo tiên sinh vị. Linh vị của thượng cao tổ khai canh Bắc Giang phủ đồng tri phủ, lễ nghi tiên giám quý công, thụy là Minh Đạo tiên sinh. 87
- 德承先祖千年盛 福蔭兒孫百世榮 Đức thừa tiên tổ thiên niên thịnh; Phúc ấm nhi tôn bách thế vinh. Đức kế thừa từ tổ tiên ngàn năm được thịnh vượng; Ơn phúc che chở cho cháu con được trăm đời tươi sáng. 北江先府君 京肇樹閭馨 Bắc Giang tiên phủ quân; Kinh Triệu thụ lư hinh. Bắc Giang tiên phủ quân; Cây Kinh Triệu thơm tho. Án phải 光前 Quang tiền Rạng rỡ ở đời trước 承祖考遺群 將祀事孔明 Thừa tổ khảo di quần; Tương tự sự khổng minh. Kế thừa nhiều cái để lại của tổ khảo; Việc thờ cúng thật cung kính, rõ ràng. Án trái 裕後 88
- Dụ hậu Giàu mạnh ở đời sau Những án ở mặt bên 奉請 顯姑 之靈位 Phụng thỉnh hiển cô chi linh vị Phụng thỉnh linh vị hiển cô 世世彰顯赫 代代保兒孫 Thế thế chương hiển hách; Đại đại bảo nhi tôn. Đời đời sáng rõ hiển hách; Kiếp kiếp bảo vệ cho cháu con. 奉請 土公 神位 Phụng thỉnh thổ công thần vị Phụng thỉnh thần vị thổ công 為德其盛矣 有功則祀之 89
- Vi đức kỳ thịnh hỹ; Hữu công tắc tự chi. Việc làm công đức thật là lớn lao; Có công thì được thờ phụng. 奉請 奉請 奉請 五代入祀 五代入祀 五代入祀 之靈位Phụng thỉnh ngũ đại之靈位 nhập tự vị linh xuất之靈位 Linh vị phụng thỉnh ngũ đại nhập tự 2.4.4. Nhà thờ họ Lê Viết Tam quan Mặt ngoài 黎曰族 Lê Viết tộc Họ Lê Viết 面對岑山鍾秀氣 前來溪水等高深 Diện đối Sầm sơn chung tú khí; Tiền lai khê thủy đẳng cao thâm. Đối diện đụn Sầm hun đúc nên khí vượng; Khe suối phía trước chảy đến đều sâu. 越地四千年文獻 黎尊扶世紀榮花 90
- Việt địa tứ thiên niên văn hiến; Lê tôn phù thế kỉ vinh hoa. Đất Việt bốn ngàn năm văn hiến; Họ Lê đóng góp cho thời đại được vinh hoa. Mặt trong 德承先祖千年盛 福蔭兒孫萬世榮 Đức thừa tiên tổ thiên niên thịnh; Phúc ấm nhi tôn vạn thế vinh. Đức kế thừa từ tiên tổ ngàn năm thịnh vượng; Phúc để lại cho con cháu được vinh quang muôn thuở. Chữ khắc trên bức tường lưỡng long triều nguyệt 壹樹千枝 有功則祀 Nhất thụ thiên chi Hữu công tắc tự Một cây ngàn cành Có công thì được thờ Trụ biểu 柱立庭前筆勢山河帶印 表標案外文星日月空懸 Trụ lập đình tiền, bút thế sơn hà đái ấn; Biểu tiêu án ngoại, văn tinh nhật nguyệt không huyền. Cột đứng trước sân, như thế cái bút in xuống nước thành một dải; Biểu ở ngoài án, như ngôi sao văn học treo lơ lửng giữa mặt trăng mặt trời. 運會一新局外歐風亞雨 江山依舊門中舜日堯天 91
- Vận hội nhất tân, cục ngoại Âu phong Á vũ; Giang sơn y cựu, môn trung Thuấn nhật Nghiêu thiên. Vận hội mới, ngoài thế cuộc gió Âu mưa Á; Non sông như xưa, trong nhà ngày Thuấn tháng Nghiêu. 岑山鍾秀氣 清水壯洪基 Sầm sơn chung tú khí; Thanh thủy tráng hồng cơ. Đụn Sầm hun đúc nên khí vượng; Nước trong làm hùng vĩ nền móng lớn. Mặt trong 祖肇孫培萬載榮光此地 孫賢子肖千秋順應乎人 Tổ triệu tôn bồi, vạn tải vinh quang thử địa; Tôn hiền tử tiếu thiên thu thuận ứng hồ nhân. Tổ gây dựng, cháu bồi đắp, mảnh đất này muôn đời vinh quang; Cháu con hiền thảo, những người này ngàn năm thuận ứng. 近者悅遠者來睦和家訓 入則孝出則悌禮義門風 Cận giả duyệt, viễn giả lai, mục hòa gia huấn; Nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, lễ nghĩa môn phong. Người gần thì vui lòng, kẻ xa thì tới, hòa thuận với giáo huấn gia đình; Vào thì hiếu, ra thì đễ, lễ nghĩa gia phong. Tiền đường 黎曰族 92
- Lê Viết tộc Họ Lê Viết 千秋不易江山舊 萬古長存建造新 Thiên thu bất dịch giang san cựu; Vạn cổ trường tồn kiến tạo tân. Ngàn năm chẳng đổi, non sông vẫn như cũ; Muôn thuở trường tồn, xây dựng nên cái mới. Hai bên chái 木本 水源 Mộc bản Thủy nguyên Cây có cội Nước có nguồn Nội điện, gian ngoài cùng: 在其德 Tại kỳ đức Chính tại đức này 德繼馨 流于尊 德流光 Đức kế hinh Lưu vu tôn Đức lưu quang Đức mãi mãi thơm tho Truyền cho con cháu Đức sáng truyền mãi 尊功祖德千秋永照 93
- 子孝孫賢百世長流 Tôn công tổ đức thiên thu vĩnh chiếu; Tử hiếu tôn hiền bách thế trường lưu. Công đức của tổ tiên ngàn năm chiếu mãi; Con hiếu cháu ngoan trăm đời chảy mãi. 父慈子孝萬古人倫 兄許弟恭一家和順 Phụ từ tử hiếu vạn cổ nhân luân; Huynh hứa đệ cung nhất gia hòa thuận. Cha từ con hiếu là đạo người muôn thuở; Anh hòa em thuận êm ấm một nhà. 福祿壽 Phúc lộc thọ Phúc lộc thọ Gian trong cùng Án giữa 祖德高 Tổ đức cao Đức tổ tiên cao 今而古來來往往 子若孫繼繼承承 Kim nhi cổ lai lai vãng vãng; Tử nhược tôn kế kế thừa thừa. Nay cũng như xưa, đều đi tới rồi lại qua; 94
- Con rồi cháu cứ tiếp nối và kế thừa mãi mãi. 人生由乎祖 禮義裕于孫 Nhân sinh do hồ tổ; Lễ nghĩa dụ vu tôn. Người ta sống là bởi kế thừa ở tổ tiên; Lễ nghĩa đầy đủ lưu lại cho con cháu. 光前 Quang tiền Rạng rỡ từ trước 春秋存祀典 世代 在馨香 Xuân thu tồn tự điển; Thế đại tại hinh hương. Năm này qua năm khác vẫn lưu giữ trong các phép tắc thờ tự; Đời đời tồn tại hương thơm. 烈後 Liệt hậu Vẻ vang ở đời sau 箕裘傳世牒 95
- 詩禮在門風 Cơ cừu truyền thế điệp; Thi lễ tại môn phong. Con cháu nối nghiệp cha ông truyền đời trong gia phả; Lễ nghĩa thi thư đều ở trong gia phong. 千枝都本樹 萬派出源頭 Thiên chi đô bản thụ; Vạn phái xuất nguyên đầu. Ngàn cành đều từ một gốc cây; Muôn dòng đều chảy ra từ đầu nguồn. 土公 Thổ công Thổ công 氣旺四時季後 位烈五爵?先 Khí vượng tứ thời quý hậu; Vị liệt ngũ tước tiên. Khí vượng bốn mùa sau cuối; Ngôi vị sáng rõ đứng đầu ngũ tước. 敬誠 Kính thành Thành kính 96
- 千枝歸一本 萬派總同源 Thiên chi quy nhất bản; Vạn phái tổng đồng nguyên. Ngàn cành đều có cùng một gốc; Muôn dòng nước đều có cùng một nguồn. Am thờ Am phải 號家未慰生前位 附廟式憑死後靈 Hiệu gia vị úy sinh tiền vị; Phụ miếu thức bằng tử hậu linh. Hiệu nhà chưa an ủy ngôi vị khi còn sống; Linh thiêng khi chết đi thì dựa vào miếu. Giữa 今而古來來往往 子若孫繼繼承承 Kim nhi cổ lai lai vãng vãng; Tử nhược tôn kế kế thừa thừa. Nay cũng như xưa, đều đi tới rồi lại qua; Con rồi cháu cứ tiếp nối và kế thừa mãi mãi. Trái 國色天下有 靈女世間無 97
- Quốc sắc thiên hạ hữu; Linh nữ thế gian vô. Sắc nước hương trời trong thiên hạ có nhiều người như vậy; Nhưng tiên nữ linh thiêng thì thế gian không có. Miếu họ thờ những người có công 傳流善美 Truyền lưu thiện mỹ Cái đẹp và cái thiện được lưu truyền 功德清名垂不朽 子孫設立報訓恩 Công đức thanh danh thùy bất hủ; Tử tôn thiết lập báo huấn ân. Công đức thanh danh rủ muôn đời; Cháu con thiết lập miếu này để báo ơn dạy dỗ. 垂 裕 Thùy dụ Giàu đẹp đông đúc 明德來遠矣 有功則祀之 Minh đức lai viễn hỹ; 98
- Hữu công tắc tự chi. Đức sáng từ xa xưa vẫn chiếu soi; Có công thì con cháu thờ phụng. 2.4.5. Nhà thờ họ Ngô Tam quan 吳族門 Ngô tộc môn Cửa nhà thờ họ Ngô 三綱為重道 五常達人倫 Tam cương vi trọng đạo; Ngũ thường đạt nhân luân. Tam cương là đạo nặng; Ngũ thường ấy nhân luân. 入則孝出則悌 和而至尊而光 Nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ; Hòa nhi chí, tôn nhi quang. Vào thì hiếu, ra thì đễ ; Hòa thì đạt, tôn thì sáng. Bình phong 祖墓外歐風亞雨 99
- 祠堂中舜日堯天 Tổ mộ ngoại Âu phong Á vũ ; Từ đường trung Thuấn nhật Nghiêu thiên. Ngoài mộ tổ gió Âu mưa Á; Trong nhà thờ ngày Thuấn tháng Nghiêu. Mộ tổ 萬古留傳三兄弟 千秋繼世二鄉村 Vạn cổ lưu truyền tam huynh đệ ; Thiên thu kế thế nhị hương thôn. Muôn thuở Lưu truyền ba huynh đệ; Ngàn năm nối đời hai làng quê. Bia mộ 皇朝敕授本土第貳開耕特進輔國上將軍錦依衛正營掌奇力才侯吳府君著封 翊保中興加端肅尊神之墓 清水社吳族二甲仝拜誌 Hoàng triều sắc thụ bản thổ đệ nhị khai canh, đặc tiến Phụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ chính doanh chưởng cơ Lực Tài hầu Ngô phủ quân, trước phong Dực Bảo Trung Hưng, gia tặng Đoan Túc tôn thần chi mộ. (Thanh Thủy xã, Ngô tộc nhị giáp đồng bái chí) Mộ ngài được hoàng triều sắc tặng khai canh thứ hai của bản xã đặc tiến là Phụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ chính doanh chưởng cơ Lực Tài hầu Ngô phủ quân, trước phong Dực Bảo Trung Hưng, gia tặng Đoan Túc tôn thần. (Hai giáp Họ Ngô xã Thanh Thủy cùng bái ghi) Bình phong sau mộ tổ 福祿壽 100
- Phúc lộc thọ Phúc lộc thọ 屏風朝龍馬 渤海演文瀾 Bình phong triều long mã; Bột hải diễn văn lan. Rồng ngựa chầu ở bình phong; Sóng văn trào ở biển Bột. Mặt sau bình phong 季丑年孟秋造 Quý Sửu niên mạnh thu tạo Xây dựng đầu thu năm Quý Sửu Vạc đồng giữa sân 福祿壽 Phúc lộc thọ Trụ biểu 艮向面前迎清水 出入禮儀萬古存 Cấn hướng diện tiền nghênh Thanh thủy; Xuất nhập lễ nghi vạn cổ tồn. Mặt trước hướng Cấn đón dòng nước trong; Ra vào nghi lễ muôn thuở vẫn còn mãi. 往來孝悌千秋在 出入禮儀萬古存 101
- Vãng lai hiếu đễ thiên thu tại; Xuất nhập lễ nghi vạn cổ tồn. Qua lại hiếu đễ ngàn năm vẫn còn đó; Ra vào lễ nghi vẫn tồn tại muôn thuở. Điện 大尊祠 Đại Tôn từ Nhà thờ Đại Tôn 始祖功高魚峒岑山連五岳 開耕德重符牌清水合三村 Thủy tổ công cao, Ngư động Sầm sơn liên ngũ nhạc; Khai canh đức trọng, Phù Bài Thanh Thủy hợp tam thôn. Thủy tổ công lao to lớn, núi Ngư và đụn Sầm liền với ngũ nhạc; Khai canh đức trọng, Phù Bài và Thanh Thủy hợp thành ba thôn. 居義由仁裕後澤同香水潤 開基拓土奉先功等聚山高 Cư nghĩa do nhân, dụ hậu trạch đồng Hương thủy nhuận; Khai cơ thác thổ phụng tiên công đẳng tụ sơn cao. Ở nghĩa bởi nhân, giàu mạnh đời sau ơn huệ thấm đẫm cùng Hương thủy; Mở nền khai thác, công lao tiên tổ cao cùng mọi núi. 瞻於在前忽然在後 仰之彌高鎖之彌堅 Chiêm ư tại tiền hốt nhiên tại hậu; 102
- Ngưỡng chi di cao tỏa chi di kiên. Trông ở trước bỗng nhiên lại thấy ở sau; Càng ngẩng trông càng thấy cao, càng khóa chặt lại càng kiên cố. Nội điện 劬勞義重 奉先恩 鞠育恩深 Cù lao nghĩa trọng Phụng tiên ân Cúc dục ân thâm Cù lao nghĩa nặng Chịu ơn của tổ tiên Nuôi nấng ơn sâu 符嶺昔開彊歷代飲河從一脈 青山今拓土經秋食果認同根 甲寅年中秋. 派員長族同奉供 Phù lĩnh tích khai cương, lịch đại ẩm hà tòng nhất mạch; Thanh san kim thác thổ, kinh thu thực quả nhận đồng căn. (Giáp Dần niên trung thu. Phái viên trưởng tộc đồng phụng cúng) Xưa mở cương giới ở núi Phù Bài, đời này qua đời khác uống nước từ một nguồn; Nay mở đất ở Thanh Sơn, năm này qua năm khác ăn quả biết cùng một gốc. (Trung thu năm Giáp Dần. Phái viên tộc trưởng cùng phụng cúng) 繼其美 德繼馨 允不忘 Kế kỳ mỹ Đức kế hinh Doãn bất vong Nối tiếp cái đẹp Đức càng thơm Thành thực không quên 思若儼 Sắc 誠能格 phong (khắc gỗ) 103
- Tư nhược nghiễm Thành năng cách Nghĩ đến như kính sợ Thành thực đáng nêu tỏ Bản sắc phong thời Khải Định được khắc gỗ năm 1998 敕承天府香水縣清水社上甲從前奉事原贈翊保中興靈扶開耕特進輔國上將 軍錦衣衛正營掌奇力才侯吳府君尊神護國庇民稔著靈應節蒙頒給敕封準許 奉事肆今正值朕四旬大慶節經頒寶詔覃恩禮隆登秩著加贈端肅尊神持準奉 事用誌國慶而申祀典欽哉 啟定玖年柒月貳拾伍日 Sắc Thừa Thiên phủ, Hương Thủy huyện, Thanh Thủy xã thượng giáp tòng tiền phụng sự. Nguyên tặng Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù Khai Canh, Đặc tiến Phụ quốc thượng tướng quân, Cẩm y vệ chính doanh, Chưởng cơ Lực Tài hầu Ngô phủ quân tôn thần. Hộ quốc tí dân, nẫm trước linh ứng, tiết mông ban cấp sắc phong chuẩn hứa phụng sự. Tứ kim chính trị trẫm tứ tuần đại khánh, tiết kinh ban bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng trật, trước gia tặng Đoan Túc tôn thần, đặc chuẩn phụng sự, dụng chí quốc khánh nhi thân tự điển. Khâm tai. Khải Định cửu niên thất nguyệt nhị thập ngũ nhật. Sắc cho xã Thanh Thủy huyện Hương Thủy tỉnh Thừa Thiên từ trước đã phụng sự. Nguyên tặng tặng Dực bảo trung hưng linh phù khai canh, đặc tiến Phụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ chính doanh Chưởng cơ Lực Tài hầu Ngô phủ quân tôn thần, bảo vệ nước, che chở dân, linh ứng từ lâu, đã được ban sắc phong chuẩn cho thờ phụng. Nay đúng dịp đại lễ mừng thọ 40 của trẫm, ban bảo chiếu ra ân lớn, lễ long trọng nên tăng thêm cấp bậc, gia tặng là Đoan Túc tôn thần. Đặc chuẩn cho thờ phụng, để ghi nhớ lễ mừng của nước mà tỏ rõ phép tắc thờ tự. Kính thay! Ngày 25 tháng 7 năm Khải Định thứ 9. 104
- 開拓功高萬古鴻猷原一本 耕徵德重千秋祀典列同尊 乙未年仲夏月中浣 符牌社吳族族長得訓仝本族奉供 Khai thác công cao, vạn cổ Hồng Du nguyên nhất bản; Canh trưng đức trọng, thiên thu tự điển liệt đồng thân. (Ất Mùi niên trọng hạ nguyệt trung hoán. Phù Bài xã Ngô tộc tộc trưởng Đắc Huấn đồng bản tộc phụng cúng) Công mở mang cao vời vợi, muôn thuở Hồng Du vốn cùng một gốc; Đức khai khẩn lớn lao, ngàn năm tự điển xếp họ hàng. (Trung tuần tháng giữa hè năm Ất Mùi. Tộc trưởng họ Ngô xã Phù Bài là Đắc Huấn cùng với bản tộc phụng cúng. 德 Đức Đức 木樹千枝由一本 水流萬派總同源 Mộc thụ thiên chi do nhất bản; Thủy lưu vạn phái tổng đồng nguyên. Cây cối ngàn cành đều từ một gốc; Nước chảy muôn dòng hết thảy đều cùng nguồn. 觀 105
- Quan Xem xét 木木林森源渤海 日日明晶月增光 Mộc mộc lâm sâm nguyên Bột hải; Nhật nhật minh tinh nguyệt tăng quang. Cây cối tốt tươi nguồn biển Bột; Mặt trời sáng sủa mặt trăng thêm đẹp. 土公 火君 Thổ công Hỏa quân Thổ công Thần lửa Hai bên chái 世永其昌 斯聚斯歌 甲寅年季秋 辛丑年孟秋 Thế vĩnh kỳ xương Tư tụ tư ca Giáp Dần niên quý thu Tân Sửu niên mạnh thu Đời mãi hưng thịnh Tụ họp ca hát nơi đây Cuối thu năm Giáp Dần Đầu thu năm Tân Sửu Miếu 姑派曰 Cô phái Viết Cô phái Viết 106
- 顯赫精神存舊石 巍峨廟宇換新基 Hiển hách tinh thần tồn cựu thạch; Nguy nga miếu vũ hoán tân cơ. Tinh thần hiển hách còn lưu nơi đá cũ; Miếu điện nguy nga đổi nền mới. 姑派有 Cô phái Hữu Cô phái Hữu 曆世不移香火舊 千年復起廟臺新 Lịch thế bất di hương hỏa cựu; Thiên niên phục khởi miếu đài tân. Đời này qua đời khác không thay đổi hương hỏa cũ; Ngàn năm dựng lại miếu điện mới. 姑同宗 Cô đồng tông Cô cùng dòng 龍水左朝分萬派 象山右拱永千年 107
- Long thủy tả triều phân vạn phái; Tượng sơn hữu củng vĩnh thiên niên. Long Thủy chầu về phía trái phân thành muôn dòng nước; Núi Tượng chầu về phía phải vững ngàn năm. 姑派文 Cô phái Văn Cô dòng Văn 背後岑山基址舊 面前清水廟廊新 Bối hậu Sầm sơn cơ chỉ cựu; Diện tiền Thanh thủy miếu lang tân. Núi Sầm ở sau lưng nền móng cũ; Thanh thuỷ trước mặt miếu điện mới. 2.4.6. Nhà thờ họ Nguyễn Trụ biểu trước 柱賴以尊 ?? 栽培留幸福 裘常由正堂? 創造傳榮光 Trụ lại dĩ tôn ?? tài bồi lưu hạnh phúc; Cừu thường do chính đường? sáng tạo truyền vinh quang. Cột nhờ ?? vun trồng lưu hạnh phúc; Y thường bởi chính nhà sáng tạo truyền vinh quang. 入出出入子孝孫賢崇祖德 108
- 往來來往少承老述保宗風 Nhập xuất xuất nhập, tử hiếu tôn hiền, sùng tổ đức; Vãng lai lai vãng, thiểu thừa lão thuật, bảo tông phong. Vào ra ra vào, con hiếu cháu hiền, chuộng đức của tổ tông; Đi qua đi lại, trẻ vâng già dạy, bảo vệ gia phong. Trụ biểu sau 清水為地四面迴旋鋪勝景 岑山作 峙 一方屹立壯奇觀 Thanh thủy vi địa, tứ diện hồi toàn phô thắng cảnh; Sầm sơn tác trĩ, nhất phương ngật lập tráng cơ quan. Thanh Thủy là đất, bốn mặt vây quanh bày cảnh đẹp; Đụn Sầm là núi, một phương cao lớn dựng bày làm hùng tráng cảnh quan. 德美功高世世相承明孝義 上和下睦人人克紹體尊榮 Đức mỹ công cao, thế thế tương thừa minh hiếu nghĩa; Thượng hòa hạ mục, nhân nhân khắc thiệu thể tôn vinh. Đức đẹp công lớn, đời đời nối nhau làm sáng nghĩa hiếu; Trên hòa dưới thuận, người người tiếp nối vẻ tôn vinh. Tiền đường 祠阮堂 Từ Nguyễn đường Nhà thờ họ Nguyễn 衍馮圖 傳流渚 垂燕翼 109
- Diễn phùng đồ Truyền lưu chử Thùy Yến dực Bức tranh giàu đẹp tốt tươi Truyền chảy ra bến Rủ cánh én 北地肇基功德千秋英勇將 南圻舊蹟勳名萬古翊興神 Bắc địa triệu cơ, công đức thiên thu anh dũng tướng; Nam kỳ cựu tích, huân danh vạn cổ dực hưng thần. Đất Bắc gây nền, công đức ngàn năm tướng anh dũng; Cõi Nam vết xưa, công lao muôn thuở thần trung hưng. 祠宇鼎新堂搆相承培義址 江山依舊著存克紹造仁基 Từ vũ đỉnh tân, đường cấu tương thừa bồi nghĩa chỉ; Giang san y cựu, trước tồn khắc thiệu tạo nhân cơ. Miếu đền mới mẻ và vững chãi, nhà cửa tiếp nối vun đắp nền Nghĩa; Non sông như trước, giữ gìn như trước và tiếp tục xây nền Nhân. Hai bên chái 敬尊 敬尊 Kính tôn Kính tôn Tôn kính Tôn kính Nội điện Gian thứ nhất 阮祠堂 Nguyễn từ đường Nhà thờ họ Nguyễn 萃以聚 觀厥成 追遠堂 建福元年造 甲申春上浣 110
- Quan quyết thành Truy viễn đường Tụy dĩ tụ Biết nhìn nhận thì thành công Nhà Truy Viễn Kiến Phúc nguyên niên tạo Giáp Thân xuân thượng hoán Đông đúc để tụ họp Tạo dựng năm Kiến Phước Thượng tuần mùa xuân năm Giáp Thân 祖肇孫培明德也遠 武承文顯德序其煌 龍飛癸未冬中浣 嗣孫阮文朋奉供 Tổ triệu tôn bồi, minh đức dã viễn; Vũ thừa văn hiển, đức tự kỳ hoàng. (Long phi Quý Mùi đông trung hoán. Tự tôn Nguyễn Văn Bằng phụng cúng) Tổ tiên gây dựng, cháu con bồi đắp, đức sáng truyền thật xa; Võ tiếp nối văn mà hiển hách, đức xếp bày thật sáng tỏ. (Long phi Quý Mùi trung tuần mùa đông. Cháu là Nguyễn Văn Bằng phụng cúng) 蘭桂枝垂憑祖蔭 竹松苞茂壯高門 派女阮氏常本枝仝孫婿等奉供 外孫正九品黎仲訓書吏黎仲諧果生黎仲誘供進 Lan quế chi thùy bằng tổ ấm; Trúc tùng bao mậu tráng cao môn. (Phái nữ Nguyễn Thị Thường bản chi đồng tôn tế đẳng phụng cúng. 111
- Ngoại tôn chính cửu phẩm Lê Trọng Huấn, thư lại Lê Trọng Hài, quả sinh Lê Trọng Dụ cung tiến) Lan Quế rủ cành nhờ ơn trạch tổ tiên; Tre Thông tươi tốt làm hùng vĩ thêm cửa nhà. (Cháu gái bản chi cùng chồng con phụng cúng. (Cháu ngoại chính cửu phẩm Lê Trọng Huấn, thư lại Lê Trọng Hài, quả sinh Lê Trọng Dụ cung tiến) 祖肇孫培用宏茲賁 天仁地義興感如存 嗣德己卯年冬 Tổ triệu tôn bồi dụng hoằng tư bí; Thiên nhân địa nghĩa hưng cảm như tồn. (Tự Đức Kỷ Mão niên đông) Tổ gây cháu đắp rộng sáng to lớn thêm; Trời nhân đất nghĩa hưng cảm như còn. (Mùa đông năm Kỷ Mão niên hiệu Tự Đức) Gian thứ 2 名將知兵必敬必戒 文夫遞世惟孝惟忠 Danh tướng tri binh tất kính tất giới; Văn phu đệ thế duy hiếu duy trung. Danh tướng biết mưu lược, ắt kính ắt răn; Văn chương truyền đời, chỉ hiếu chỉ trung. 軒駟風聲傳巨族 臨庭桀戟榜門楣 112
- 成泰甲午春 婿前軍劉恭奉供 Hiên tứ phong thanh truyền cự tộc; Lâm đình kiệt kích bảng môn mi. Thành Thái Giáp Ngọ xuân; Tế: Tiền quân Lưu Cung phụng cúng. Mái hiên gió ruổi truyền đi rằng đây là họ lớn; Trước sân kiệt kích rằng đây là nhà khoa bảng. (Xuân Giáp Ngọ niên hiệu Thành Thái, con rể là Tiền quân Lưu Cung phụng cúng) 累世升坤家蔭裕 億年鐘鼎國恩長 Lũy thế thăng khôn gia ấm dụ; Ức niên chung đỉnh quốc ân trường. Đời này qua đời khác ngày càng phát triển, ơn tổ tiên để lại nhiều; Ngàn năm chuông vạc, chịu ơn nước dài lâu. 鑿丼耕田留地步 開彊率土拓天荒 Tạc tỉnh canh điền lưu địa bộ; Khai cương suất thổ thác thiên hoang. Đào giếng, mở ruộng lưu sổ đất; Mở cõi, mở đất, khai thác đất hoang. 百世雲仍資後裔 113
- 九重雨路仰前朝 Bách thế vân nhưng tư hậu duệ; Cửu trùng vũ lộ ngưỡng tiền triều. Làm giàu có cho trăm đời con cháu; Cửu trùng mưa móc ngửa trông triều trước. 崇德報功憑慶澤 慎終追遠慰香靈 Sùng đức báo công bằng khánh trạch; Thận chung truy viễn ủy hương linh. Chuộng đức báo công nhờ ơn huệ; Cẩn thận trong việc chôn cất, tìm tại việc xa xưa an ủi hương linh. 春露積霜無限感 藻蘋雅帶有餘恩 Xuân lộ tích sương vô hạn cảm; Tảo tần nhã đới hữu dư ân. Móc xuân tích sương vô hạn cảm; Tảo tần nhã đới ơn huệ thừa. 山高海闊生成德 地久天長孝敬心 Sơn cao hải khoát sinh thành đức; Địa cửu thiên trường hiếu kính tâm. Đức sinh thành như núi cao bể rộng; Lòng hiếu kính cùng với đất trời mãi mãi. Gian trong cùng 114
- 木本水源千古在 天經地義百年存 Mộc bản thủy nguyên thiên cổ tại; Thiên kinh địa nghĩa bách niên tồn. Cây có cội nước có nguồn ngàn năm còn mãi; Kinh trời nghĩa đất tồn tại trăm đời. 土功神位 Thổ công thần vị Thần vị của Thổ công 為德其盛矣 有功則祀之 Vi đức kì thịnh hỹ; Hữu công tắc tự chi. Đức của thần thịnh vậy; Có công thì được thờ phụng. 窮 念 Cùng Niệm Nghĩ đến tận cùng Hai bên đốc Bên phải 敬尊 Kính tôn Tôn kính 115
- 敬所尊愛所親禮之徑也 入則孝出則悌人共由之 Kính sở tôn, ái sở thân, lễ chi kính dã; Nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, nhân cộng do chi. Kính trọng và thương yêu những người thân của mình thì đây chính là lối đi của lễ ; Đi vào thì hiếu, đi ra thì đễ đạo người là như vậy. Bên trái 敬尊 Kính tôn Tôn kính Khám thờ (thứ tự từ phải sang trái) Khám thứ nhất Kính敬如在 như tại Kỷ己卯肇造 mão triệu tạo Kính trọng như còn Xây dựng năm Kỷ mão 千古英靈超烈女 四時香火奉同枝 Thiên cổ anh linh siêu liệt nữ; Tứ thời hương hỏa phụng đồng chi. Muôn thuở anh linh siêu liệt nữ; Bốn mùa hương khói thờ phụng người cùng chi. Khám thứ 2 尊靈殿 116
- Tôn linh điện Điện tôn linh 左界田和多頃紫 右邊岑嶺壯奇觀 Tả giới điền hòa đa khoảnh tử; Hữu biên Sầm lĩnh tráng kì quan. Ruộng lúa phía trái nhiều khoảnh đẹp; Đụn Sầm bên phải làm tăng thêm vẻ đẹp. 英靈千古在 香火四時春 Anh linh thiên cổ tại; Hương hỏa tứ thời xuân. Anh linh ngàn năm vẫn còn đó; Hương khói bốn mùa đều như mùa xuân. 顯赫 Hiển hách Hiển hách 僾然見有位 蕩乎觀無名 Ái nhiên kiến hữu vị; Đãng hồ quan vô danh. Phảng phất thấy có vị; 117
- Mờ mịt xem lại là vô danh. Khám thứ 3 仙女 Tiên nữ Tiên nữ 丙申年造冬十月 千秋萬水古來依 Bính Thân niên tạo đông thập nguyệt; Thiên thu vạn thủy cổ lai y. Tháng mười mùa đông năm Bính Thân; Ngàn năm muôn dòng nước từ xưa đã tới dựa vào đây. Khám thứ 4 求必應 Cầu tất ứng Cầu ắt ứng 案外岑山鍾秀氣 庵前地脈慰潛 馨 Án ngoại Sầm sơn chung tú khí; Am tiền địa mạch ủy tiềm hinh. Đụn Sầm ngoài án hun đúc nên khí vượng; Mạch đất trước am an ủi hồn thiêng. 英靈 Anh linh 118
- Anh linh 本枝明祀事 水脈衍清芬 Bản chi minh tự sự; Thủy mạch diễn thanh phân. Chi ta sáng tỏ việc thờ tự; Mạch nước giàu đẹp, tốt tươi. Khám thứ 5 福 Phúc Phúc Lăng ngài khai khẩn 祖德昭彰名垂竹白 孫賢望念福永千秋 Tổ đức chiêu chương danh thùy trúc bạch; Tôn hiền vọng niệm phúc vĩnh thiên thu. Đức tổ sáng tươi tên tuổi ghi vào sách sử; Cháu hiền trông cậy phúc mãi ngàn năm. Bia mộ 奉為前始祖開墾陳留郡阮貴公大郎本尊靈之神墓 戊子年正月二十一日大重修 阮族光清仝奉立 Phụng vị: Tiền thủy tổ khai khẩn Trần Lưu quận Nguyễn quý công đại lang bản tôn linh chi thần mộ. (Mậu Tý niên chính nguyệt nhị thập nhất nhật đại trùng tu. Nguyễn tộc quang thanh đồng phụng lập) 119
- Phụng thờ mộ tôn linh tiền thủy tổ khai khẩn Nguyễn quý công đại lang Trần Lưu quận. (Đại trùng tu ngày 21 tháng tháng giêng năm Mậu Tý. Nguyễn tộc quang thanh đồng phụng lập) Án thờ 日月光昭十方 祖宗留垂萬世 Nhật nguyệt quang chiếu thập phương; Tổ tông lưu thùy vạn thế. Mặt trời mặt trăng sáng soi mười phương; Tổ tông lưu truyền vạn thế. Lăng ngài khai canh 上下同心進其遠祖 光清兩派出自尊公 Thượng hạ đồng tâm tiến kỳ viễn tổ; Quang thanh lưỡng phái xuất tự tôn công. Trên dưới đồng lòng dâng lên tổ tiên; Quang Thanh hai phái đều đi ra từ đó cả. Bia mộ 奉為始祖開耕封贈翊保中興靈扶加贈端肅尊神大隊官英勇將軍雷轟侯阮貴 公之神位 庚辰年六月十六日. 阮族先清仝奉立 Phụng vị: Thủy tổ khai canh phong tặng Dực Bảo Trung Hưng linh phù, gia tặngĐoan Túc tôn thần, đại đội quan anh dũng tướng quân Lôi Oanh hầu Nguyễn quý công chi thần vị. Canh Tý niên lục nguyệt thập lục nhật. Nguyễn tộc quang thanh đồng phụng lập 120
- Phụng thờ thần mộ thủy tổ khai canh phong tặng là Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù, tặng thêm là Đoan Túc tôn thần đại đội quan, Anh dũng tướng quân, Lôi Oanh hầu Nguyễn quý công. (Ngày 16 tháng 6 năm Canh Tý, họ Nguyễn Quang Thanh cùng phụng lập) Án thờ 始祖 Thủy tổ Thuỷ tổ 法性常明了 真親不滅生 Pháp tính thường minh liễu; Chân thân bất diệt sinh. Pháp tính thường sáng tỏ; Chân thân chẳng diệt chẳng sinh, 2.4.7. Nhà thờ họ Nguyễn Diên Tam quan 阮延族 Nguyễn Diên tộc Họ Nguyễn Diên 樹草逢春枝葉茂 祖宗積德子孫榮 Thụ thảo phùng xuân chi diệp mậu; Tổ tông tích đức tử tôn vinh. 121
- Cây cỏ gặp xuân cành lá tốt tươi; Tổ tông tích đức cháu con vinh quang. 木本水源千古念 天經地義百年心 Mộc bản thủy nguyên thiên cổ niệm; Thiên kinh địa nghĩa bách niên tâm. Cây có cội nước có nguồn là tâm niệm ngàn năm; Kinh trời nghĩa đất là tâm niệm trăm đời. Mặt trong 萬古功成名顯達 千秋德盛姓繁榮 Vạn cổ công thành danh hiển đạt; Thiên thu đức thịnh tính phồn vinh. Muôn thuở công thành danh hiển đạt; Ngàn năm đức thịnh họ phồn vinh. Trụ biểu 本根色彩於花葉 祖顯精神在子孫 Bản căn sắc thái ư hoa diệp; Tổ hiển tinh thần tại tử tôn. Sắc thái của gốc rễ thể hiện ở hoa lá; Tổ tông thể hiện tinh thần của mình ở con cháu. 木出千枝由有本 水流萬派溯從源 122
- Mộc xuất thiên chi do hữu bản; Thủy lưu vạn phái tố tòng nguyên. Cây mọc ngàn cành do có gốc; Nước chảy đi muôn dòng bởi có nguồn. Tiền đường 水源 延阮族 木本 Thủy nguyên Diên Nguyễn tộc Mộc bản Nước có nguồn Họ Nguyễn Diên Cây có cội 先祖芳名流國史 子孫續學顯家風 Tiên tổ phương danh lưu quốc sử; Tử tôn tục học hiển gia phong. Tổ tiên thơm danh trong sử nước; Cháu con nối tiếp con đường học tập làm rạng rõ gia phong. 先靈千秋在 香火萬古存 Tiên linh thiên thu tại; Hương hỏa vạn cổ tồn. Sự linh thiêng của tổ tiên còn mãi ngàn năm; Hương hỏa lưu muôn thuở. Nội điện 和 Hòa 123
- Hòa Bàn thờ năm phái 華輅開基以 于斯演澤長 精神如感格 潢澗亦流香 Hoa lộ khai cơ dĩ, Vu tư diễn trạch trường. Tinh thần như cảm cách, Hoàng giản diệc lưu hương. Hoa lộ mở ra nền móng, Phát diễn ra ơn huệ lâu dài. Tinh thần như cảm cách, Ao khe cũng lưu hương thơm. Án thờ ngoài cùng bên phải 奉為顯考阮延儀神魂 奉為顯妣武氏思正魂 伏為阮延娟之香靈 伏為阮延容之香靈 伏為阮延飧香靈 伏為阮氏事香靈 請仝立位合坐 Phụng vi: Hiển khảo Nguyễn Diên Nghi thần hồn, Phụng vi: Hiển tỷ Võ Thị Tư chính hồn, 124
- Phục vi: Nguyễn Diên Quyên chi hương linh, Phục vi: Nguyễn Diên Dung chi hương linh, Phục vi: Nguyễn Diên San hương linh, Phục vi: Nguyễn Thị Sự hương linh, Thỉnh đồng lập vị hợp tọa. Phụng vị: Thần hồn của hiển khảo Nguyễn Diên Nghi, Phụng vị: Chính hồn của Phụng vi hiển tỷ Võ Thị Tư, Phục vị: Hương linh của Nguyễn Diên Quyên, Phục vị: Hương linh của Nguyễn Diên Dung, Phục vi: Hương linh của Nguyễn Diên San, Phục vị: Hương linh của Nguyễn Thị Sự, Mời chư vị cùng lập hợp tọa. Am 享莫大于廟 孝不衰於姑 Hưởng mạc đại vu miếu; Hiếu bất suy ư cô. Hưởng thì không có gì lớn hơn ở miếu; Đối với cô thì hiếu không bao giờ suy giảm. 2.4.8. Nhà thờ họ Phạm Tam quan 君親恩義存天地 祖考精神在子孫 Quân thân ân nghĩa tồn thiên địa; Tổ khảo tinh thần tại tử tôn. Ân nghĩa quân thân còn mãi với đất trời; Tinh thần cha ông thể hiện ở con cháu. 125