Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia bảo hiểm tôm nuôi của hộ nông dân tại tỉnh Bạc Liêu

pdf 8 trang hapham 1610
Bạn đang xem tài liệu "Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia bảo hiểm tôm nuôi của hộ nông dân tại tỉnh Bạc Liêu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfcac_nhan_to_anh_huong_den_quyet_dinh_tham_gia_bao_hiem_tom_n.pdf

Nội dung text: Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia bảo hiểm tôm nuôi của hộ nông dân tại tỉnh Bạc Liêu

  1. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần D: Khoa học Chính trị, Kinh tế và Pháp luật: 35 (2014): 97-104 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYẾT ĐỊNH THAM GIA BẢO HIỂM TÔM NUÔI CỦA HỘ NÔNG DÂN TẠI TỈNH BẠC LIÊU Phan Đình Khôi1 và Quách Vũ Hiệp2 1 Khoa Kinh tế & Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Cần Thơ 2 Sinh viên ngành Tài chính - Ngân hàng, Trường Đại học Cần Thơ ABSTRACT Thông tin chung: Ngày nhận: 14/08/2014 Shrimp farming is subject to high risks including natural disasters and Ngày chấp nhận: 31/12/2014 diseases which hammer shrimp farming’s income. To mitigate the consequences of shrimp farming risks, Decision 315/2011/QĐ-TTg was Title: issued to conduct a pilot program on shrimp farming insurance for the period Determinants of of 2011-2013 in Bac Lieu and other 2 provinces in the Mekong River Delta. households’ decision to The evaluation of the pilot program after 2 years showed that the number of purchase insurance for households insured is still low compared with the potential. Hence, this study shrimp farming in Bac aims to analyze the determinants of shrimp farmers’ decision to participate in Lieu Province the pilot program on shrimp farming insurance in Bac Lieu province. The result shows that government employees, access to information of shrimp Từ khóa: farming insurance program and farm size are positively associated with Quyết định tham gia, Bảo shrimp farmers’ decision to participate in the shrimp farming insurance hiểm, Nuôi tôm, Bạc Liêu program. In addition, the result shows that characteristics of shrimp farmers such as education level are less likely to participate in the insurance Keywords: program. The results also show that the characteristics of shrimp farmers Decision to purchase, such as gender, training, years of experience, status of borrowing, and Insurance, Shrimp shrimp farming costs do not significantly affect households' decisions to farming, Bac Lieu participate in the insurance program for shrimp farming. TÓM TẮT Hoạt động nuôi tôm ở thường phải đối mặt với nhiều rủi ro như thiên tai hay dịch bệnh làm ảnh hưởng đến kết quả của hoạt động nuôi tôm. Để giảm thiểu thiệt hại do rủi ro trong hoạt động nuôi tôm, Chính phủ đã ban hành Quyết định 315/2011/QĐ-TTg để thực hiện thí điểm bảo hiểm tôm nuôi giai đoạn 2011-2013 tại Bạc Liêu và 2 tỉnh khác ở Đồng bằng sông Cửu Long. Đánh giá về chương trình thí điểm sau 2 năm thực hiện cho thấy số hộ nuôi tôm tham gia bảo hiểm lẫn diện tích nuôi tôm được bảo hiểm còn rất thấp so với mục tiêu. Bài viết này phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia bảo hiểm nuôi tôm của các hộ là đối tượng được tham gia chương trình thí điểm bảo hiểm nuôi tôm ở tỉnh Bạc Liêu. Kết quả chỉ ra rằng có mối tương quan thuận giữa làm việc tại địa phương và tiếp cận thông tin bảo hiểm, và diện tích ao nuôi với quyết định tham gia bảo hiểm của nông hộ. Ngoài ra, kết quả phân tích hồi quy cũng cho thấy yếu tố trình độ học vấn càng cao có xu hướng ít tham gia vào loại hình bảo hiểm này. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy các đặc điểm của hộ như yếu tố giới tính, tập huấn, kinh nghiệm, vay vốn, và chi phí sản xuất không có ý nghĩa thống kê trong quyết định tham gia bảo hiểm tôm nuôi. 97
  2. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần D: Khoa học Chính trị, Kinh tế và Pháp luật: 35 (2014): 97-104 1 ĐẶT VẤN ĐỀ 2 PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH Nuôi tôm giữ vai trò quan trọng trong ngành 2.1 Mô hình lý thuyết nuôi trồng thủy sản của tỉnh Bạc Liêu, với hơn Quyết định lựa chọn tham gia chương trình bảo 95% tổng diện tích nuôi trồng thủy sản của tỉnh. hiểm nông nghiệp xuất phát từ nhu cầu đảm bảo lợi Bạc Liêu hiện đứng thứ hai về sản lượng tôm của ích cho hoạt động sản xuất của hộ. Vì sản xuất cả nước, với tốc độ tăng trưởng sản lượng ổn định nông nghiệp chịu nhiều rủi ro và mức độ thiệt hại bình quân 5% mỗi năm. Tuy nhiên, hoạt động nuôi do rủi ro thay đổi theo điều kiện thời tiết và thị tôm phải đối mặt với nhiều rủi ro chủ yếu do ảnh trường. Trong đó, những tác động từ rủi ro trong hưởng của thời tiết và dịch bệnh. Năm 2012, toàn sản xuất làm biến động đáng kể đến thu nhập của tỉnh Bạc Liêu có khoảng 17.305 ha diện tích nuôi hộ từ đó làm ảnh hưởng đến phúc lợi của hộ. tôm bị nhiễm bệnh và nhiễm khuẩn, trong đó có Binswanger (1980) chỉ ra rằng nông dân thường sợ gần 5.000 ha bị mất trắng (Tổng Cục Thống Kê, rủi ro và vì thế họ cố gắng hạn chế rủi ro thông qua 2012). Thực tế trên đòi hỏi phải có một cơ chế các công cụ và hoạt động quản lý rủi ro, khi đó bảo giúp giảm thiểu thiệt hại do rủi ro cho hoạt động hiểm nông nghiệp là một công cụ thường được nuôi tôm để ổn định nghề nuôi tôm cho nông dân dùng để hạn chế thiệt hại do rủi ro trong sản xuất, trong tỉnh. giúp ổn định thu nhập của nông dân. Để giảm thiểu thiệt hại do rủi ro trong sản xuất Quyết định tham gia chương trình bảo hiểm còn nông nghiệp bao gồm nuôi trồng thủy sản, Chính phụ thuộc vào mức độ phát triển của thị trường bảo phủ ban hành Quyết định 315/QĐ-TTg thực hiện hiểm. Trong điều kiện thị trường bảo hiểm chưa Chương trình thí điểm Bảo hiểm nông nghiệp giai phát triển, cung bảo hiểm cho hộ nông dân bị giới đoạn 2011-2013, trong đó Bạc Liêu được chọn là hạn và hoạt động cung ứng dịch vụ bảo hiểm một trong những tỉnh thành triển khai chương trình không chỉ đơn thuần dựa trên nhu cầu bù đắp thiệt thí điểm bảo hiểm nuôi tôm. Mục tiêu của chương hại trong sản xuất mà còn phụ thuộc vào mức độ trình thí điểm bảo hiểm nuôi tôm là nhằm tạo ra thông tin bất cân xứng trong thị trường bảo hiểm. một khuôn khổ pháp lý để triển khai rộng rãi hoạt Bất cân xứng thông tin giữa nông hộ và công ty động bảo hiểm trong nông nghiệp. Nội dung của cung cấp dịch vụ bảo hiểm dẫn đến vấn đề lựa chương trình thí điểm bảo hiểm là cơ sở để tiến tới chọn bất lợi và rủi ro đạo đức . Just, Calvin và xác định cơ chế hoạt động của bảo hiểm nuôi tôm Quiggin (1999) kết luận rằng lựa chọn bất lợi là và chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với người một nguyên nhân quan trọng ngăn cản công ty nuôi tôm. Đồng thời Chương trình hướng tới tạo cung cấp bảo hiểm cho nông dân. Lựa chọn bất lợi điều kiện cho người dân tiếp cận được với các hình xảy ra khi người có nhiều khả năng gặp rủi ro có thức bảo hiểm theo nguyên tắc tự nguyện, nông xu hướng tham gia bảo hiểm nhiều hơn, trong khi dân tham gia thông qua việc đóng phí bảo hiểm và đó công ty bảo hiểm áp đặt mức phí do thông tin được đền bù tổn thất khi thiên tai hoặc dịch bệnh hạn chế. Vì thế, những người mua bảo hiểm xảy ra. thường có xu hướng nhận được tiền bồi thường Tuy nhiên, Báo cáo tổng kết sơ bộ của chương nhiều hơn; công ty bảo hiểm sẽ gánh chịu tổn thất. trình thí điểm bảo hiểm nuôi tôm cho thấy tỉ lệ hộ Nếu nâng mức phí để tránh sự thất bại của thị tham gia bảo hiểm nuôi tôm còn thấp (chiếm trường, kết quả dẫn đến chương trình bảo hiểm chỉ 19,82%) so với tổng số hộ nuôi tôm (Sở bao gồm những người đồng ý trả phí bảo hiểm cao NN&PTNN Bạc Liêu, 2013). Vì vậy, vấn đề đặt ra để nhận được lợi ích tuyệt đối từ việc bảo hiểm. là tại sao bảo hiểm nuôi tôm chưa thật sự đi vào Mặt khác, Chambers (1989) cho rằng rủi ro đạo hoạt động sản xuất của của hộ nuôi tôm. Bài viết đức có ảnh hưởng đáng kể đến quyết định cung bảo này nhằm mục tiêu phân tích các nhân tố ảnh hiểm, đặc biệt đối với hoạt động giám sát và bồi hưởng đến quyết định tham gia bảo hiểm nuôi tôm thường thiệt hại. Rủi ro đạo đức liên quan đến việc của nông hộ tại tỉnh Bạc Liêu. Từ đó, bài viết kỳ người tham gia bảo hiểm thay đổi hành vi trong vọng góp phần cung cấp nguồn thông tin quan hoạt động sản xuất nhằm mục đích làm tăng xác trọng cho Ban chỉ đạo các cấp, công ty bảo hiểm để suất xảy ra sự kiện bảo hiểm hoặc mức độ nghiêm điều chỉnh, xây dựng chương trình bảo hiểm nuôi trọng của sự mất mát. Kết quả là công ty bảo hiểm tôm hiệu quả hơn trong thời gian tới, cũng như tạo sẽ gánh chịu tổn thất cho người mua bảo hiểm và thuận lợi cho việc mở rộng dịch vụ bảo hiểm tôm dẫn đến thất bại của thị trường. nuôi tại nhiều địa phương. Khung phân tích để nghiên cứu quyết định 98
  3. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần D: Khoa học Chính trị, Kinh tế và Pháp luật: 35 (2014): 97-104 tham gia bảo hiểm của hộ nuôi tôm được dựa trên yếu tố ảnh hưởng đến mức tiêu dùng có thể đạt giả định rằng các nông hộ tối đa hóa hữu dụng kỳ 1 0 được của hộ ( Wi và Wi ) trong các phương trình vọng (expected utility) thông qua việc lựa chọn các (1) và (2). Huy, Khôi và Nguyệt (2014) chỉ ra rằng nhân tố sản xuất, kể cả phí bảo hiểm tôm nuôi, các yếu tố ảnh hưởng quyết định mua bảo hiểm cho trong điều kiện nguồn lực khan hiếm và công nghệ sản xuất nông nghiệp thường bao gồm đặc điểm sản xuất bị giới hạn (Sherrick, Barry, Ellinger & của hộ, đặc điểm của hoạt động sản xuất, mức phí Schnitkey, 2004). Để đi đến quyết định có mua bảo bảo hiểm, mức đền bù mà hộ có khả năng nhận hiểm cho tôm nuôi hay không, các nông hộ sẽ so được và các yếu tố tổ chức sản xuất khác. sánh mức độ hữu dụng giữa việc mua và không mua bảo hiểm và chọn phương án có mức độ hữu Nếu gọi x là véc tơ các biến giải thích cho các dụng cao nhất. Nói cách khác, hộ sẽ ước lượng i mức tiêu dùng có thể đạt được cho từng trường hợp yếu tố ảnh hưởng đến mức tiêu dùng có thể đạt và so sánh chúng với nhau. Giả sử với mức tiêu được ở phương trình (1) và (2), và ký hiệu *10 dùng tối thiểu để đảm bảo mức phúc lợi cơ wWWiii- là sự khác biệt về mức tiêu dùng có Wmin bản của nông hộ, Rue (2009) chỉ ra rằng mức tiêu thể đạt được này, mô hình phân tích có thể được dùng có thể đạt được của hộ i khi mua bảo hiểm viết như sau: * tôm nuôi sẽ là: w =x   (3) ii i 1 WMax[W,iiii min RC a ] (1) trong đó i là đại lượng sai số ngẫu nhiên đại Trong đó Ri là doanh thu, Ci là chi phí,  là diện cho yếu tố không quan sát được nhưng có ảnh * phí bảo hiểm và là giá trị kỳ vọng được bồi hưởng lên wi , và  là các tham số của mô hình thường khi rủi ro xảy ra tôm nuôi; ai là giá trị tài cần phải ước lượng. sản và các khoản thu nhập khác. Ngược lại, nếu * không mua bảo hiểm tôm nuôi, mức tiêu dùng có Vì mức chênh lệch về tiêu dùng wi không thể đạt được của hộ sẽ là: quan sát được cho từng hộ, việc ước lượng các hệ số  thông qua mô hình hồi quy tuyến tính không 0 WMax[W, RCa ] (2) iiiimin thể thực hiện được. Tuy nhiên, quyết định có tham gia hay không tham gia bảo hiểm của hộ lại quan Để đưa ra quyết định mua bảo hiểm cho tôm 1 0 sát được vì vậy mô hình ước lượng với biến phụ nuôi hay không, hộ sẽ so sánh Wi với Wi , đồng thuộc là biến nhị phân thường được áp dụng trong thời hộ cũng đánh giá mức độ chắc chắn của các * trường hợp này. Cụ thể, wi được đo lường thông khả năng. Như vậy, ngoài thái độ đối với rủi ro, các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua hay không qua biến phụ thuộc Ii như sau: mua bảo hiểm cho tôm nuôi của hộ chính là các * 1, đó là hộ tham gia bảo hiểm nuôi tôm, nếu wi 0 ; I = (4) i * 0, đó là hộ không tham gia nuôi tôm, nếu wi 0 . Do biến phụ thuộc Ii là biến nhị phân được Trong đó, Gi () là hàm phân phối tích lũy (cdf), quan sát (nhận một trong hai giá trị 0 và 1), và nếu với gi () là hàm mật độ phân phối (pdf). Tuy i là đại lượng sai số ngẫu nhiên độc lập được giả nhiên, việc trực tiếp sử dụng các hệ số ước lượng định tuân theo quy luật phân phối logistic chuẩn  để giải thích ý nghĩa của mô hình khá khó. (standard logistic distribution), các hệ số  có thể Thông thường, hiệu ứng biên sẽ được tính toán và được ước lượng thông qua mô hình hồi quy xác được sử dụng để giải thích ý nghĩa của mô hình suất (binary logistic). Trong đó, xác suất để hộ thay cho các hệ số ước lượng  (Wooldridge, tham gia bảo hiểm nuôi tôm được biểu diễn qua 2002), dựa theo công thức: công thức sau: Gi () * g () (6) Pr(IPrwPr 1|)xxx ( 0|) (  0) i k iiii xik Pr (iixxx ) Pr ( iiii ) G (  )(5) 99
  4. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần D: Khoa học Chính trị, Kinh tế và Pháp luật: 35 (2014): 97-104 Việc ước lượng các hệ số  cũng như hiệu ứng Bảo hiểm nông nghiệp nói chung và bảo hiểm nuôi tôm nói riêng tuy bước đầu đã được chấp biên g ()  từ mô hình này là được thực hiện bằng i k nhận rộng rãi trong nông dân, điều này không chỉ phương pháp ước lượng hợp lý tối đa (MLE). xuất phát từ lợi ích trực tiếp thị trường bảo hiểm 2.2 Mô hình nghiên cứu thực nghiệm mà còn tác động gián tiếp mạnh mẽ trên thị trường tín dụng. Bảo hiểm có thể dẫn đến một sự mở rộng Theo Mishra và Goodwin (2006), quyết định thị trường tín dụng cho các nhóm khách hàng vay mua bảo hiểm nông nghiệp của hộ phụ thuộc vào trước đây không có được món vay, bởi vì việc sử các nhân tố như: độ tuổi, trình độ học vấn, quy mô dụng bảo hiểm làm gia tăng khả năng trả nợ. Người sản xuất, đặc điểm tài chính, đặc điểm của hoạt cho vay có lợi thế trong chuyển đổi tài sản mà động sản xuất của hộ hay công tác truyền thông. khách hàng trước đây không có tài sản có giá trị để Thêm vào đó, Goodwin (1993) cho rằng hai yếu tố thế chấp thành những tài sản có thể chấp nhận ảnh hưởng mạnh nhất đến nhu cầu tham gia bảo được, do đó đảm bảo an toàn cho khoản vay, người hiểm nông nghiệp của nông hộ là diện tích sản xuất đi vay cũng đạt được mục tiêu bảo hiểm cho hoạt và tổng chi phí sản xuất. Trong nghiên cứu này, động sản xuất khi tham gia một hạn mức tín dụng, bên cạnh yếu tố diện tích ao nuôi và chi phí đầu tư tức là khi có tổn thất xảy ra, người được bảo hiểm cho vụ nuôi ảnh hưởng đến W của hộ nuôi tôm ở i cũng không bắt buộc hoàn trả khoản vay bằng các phương trình 1 và 2, các yếu tố khác còn được sử nguồn lực khác hoặc rời khỏi kinh doanh vì được dụng để kiểm soát cho sự khác biệt trong hoạt động bù đắp bằng tiền bồi thường bảo hiểm (Baquet & nuôi tôm và thu nhập của hộ ở phương trình 3. Các Smith, 1996). Hơn nữa, Binswanger và Donald yếu tố này bao gồm: giới tính của chủ hộ, trình độ (1983) chỉ ra rằng khi hệ thống tài chính phát triển, học vấn; làm việc ở địa phương, kinh nghiệm nuôi, những điều khoản của một hợp đồng tín dụng được tham gia tập huấn, vay vốn. Ngoài ra, phí bảo hiểm quy định chặt chẽ, các tổ chức tín dụng không thể được cho là đóng một vai trò quan trọng trong điều chỉnh mức lãi suất cao hơn cho nhóm khách quyết định có tham gia bảo hiểm, tuy nhiên chương hàng “không tốt”. Vì vậy, các tổ chức tín dụng trình thí điểm bảo hiểm nuôi tôm ở Việt Nam giai thường yêu cầu người vay mua bảo hiểm như là đoạn 2011- 2013 theo Quyết định 315/QĐ-TTg một cơ sở để đảm bảo rủi ro cho món vay. thực hiện hỗ trợ phí bảo hiểm theo khung quy định cho hộ nuôi tôm là những đối tượng tham gia Bảng 1 trình bày các biến giải thích được sử chương trình. Vì vậy, thêm biến giải thích này hầu dụng trong nghiên cứu này và kỳ vọng về hướng như không có ý nghĩa trong mô hình. tác động của chúng đến quyết định tham gia chương trình thí điểm bảo hiểm nuôi tôm của hộ. Bảng 1: Các biến giải thích trong mô hình thực nghiệm và kỳ vọng về hướng tác động đến quyết định tham gia bảo hiểm nuôi tôm của hộ Tên biến Diễn giải Kỳ vọng về dấu Là giới tính của chủ hộ: nhận giá trị 1 nếu là nam, nhận giá GIOITINH +/- trị 0 nếu là nữ TRINHDO Trình độ học vấn được đo lường bằng năm đi học (năm) +/- SONAMKN Là số năm nuôi tôm (năm) +/- Nhận giá trị 1 nếu hộ có tham gia tập huấn kỹ thuật nuôi, TAPHUAN + nhận giá trị 0 nếu hộ không tham gia Nhận giá trị 1 nếu gia đình có thành viên làm việc ở địa LAMVIECDP + phương, ngược lại là 0 Nhận giá trị 1 nếu hộ có tiếp nhận thông tin về bảo hiểm THONGTINBH + tôm nuôi, ngược lại là 0 Nhận giá trị bằng 1 nếu nông hộ có vay vốn cho hoạt động VAYVON + nuôi tôm, nhận giá trị 0 nếu không có DIENTICHAO Diện tích ao nuôi tôm của nông hộ (1.000 m2) + Chi phí đầu tư một vụ trên 1.000m2 mặt nước nuôi tôm của CHIPHI +/- nông hộ (ngàn đồng/1000m2) Ghi chú: '+' thể hiện mối quan hệ thuận chiều với biến phụ thuộc '-' thể hiện mối quan hệ ngược chiều với biến phụ thuộc 100
  5. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần D: Khoa học Chính trị, Kinh tế và Pháp luật: 35 (2014): 97-104 2.3 Số liệu 3.1 Đặc điểm của hộ nuôi tôm Số liệu sơ cấp sử dụng trong nghiên cứu này Kết quả khảo sát cho thấy hoạt động nuôi tôm được thu thập thông qua điều tra phỏng vấn 113 hộ thâm canh và bán thâm canh của hộ trên địa bàn nuôi tôm trên địa bàn thành phố Bạc Liêu và huyện nghiên cứu được hình thành và phát triển từ nhiều Hòa Bình, hai trong ba địa bàn được chọn tham gia năm, điều này được thể hiện qua kinh nghiệm sản thí điểm bảo hiểm nuôi tôm ở Bạc Liêu. Trong đó, xuất trung bình là 9,3 năm và diện tích đầu tư trung 2 xã Vĩnh Trạch (23 hộ) và Phường 2 (31 hộ) thuộc bình khoảng 14.000 m2 của mỗi nông hộ. Bên cạnh thành phố Bạc Liêu và 2 xã Vĩnh Mỹ A (24 hộ) và những lợi thế về kinh nghiệm sản xuất, người nuôi Vĩnh Hậu (35 hộ) được chọn để điều tra thu thập tôm cũng đang bộc lộ nhiều hạn chế trong việc tiếp thông tin. Thời gian điều tra được thực hiện trong cận các khóa tập huấn kỹ thuật. Đồng thời, hộ nuôi năm 2013. Các hộ gia đình được phỏng vấn trực tôm có trình độ học vấn trung bình khá thấp, ở mức tiếp bằng bảng câu hỏi đã chuẩn bị sẵn. Các thông cấp hai. Điều này được xem như sẽ là trở ngại lớn tin được hỏi bao gồm: tuổi, giới tính, số thành viên đối với hộ nuôi tôm có nhu cầu ứng dụng tiến bộ trong gia đình, trình độ học vấn, nghề nghiệp của kỹ thuật, quy trình nuôi cải tiến nhằm nâng cao chủ hộ, thu nhập, tổng tài sản và các thông tin khác năng suất và chất lượng sản phẩm. Kết quả điều tra liên quan đến đặc điểm của hộ nuôi tôm. Thông tin còn cho thấy hoạt động đầu tư cho hình thức nuôi liên quan đến hoạt động nuôi tôm và quyết định thâm canh và bán thâm canh của hầu hết nông hộ tham gia chương trình thí điểm bảo hiểm tôm nuôi trên địa bàn nghiên cứu được thực hiện bằng nguồn của hộ bao gồm: hộ có tham gia chương trình thí vốn tín dụng, chủ yếu là tín dụng phi chính thức điểm không, các lý do tham gia hay không tham (chiếm 81,6% tổng số hộ có vay vốn) mặc dù thực gia, thông tin về diện tích ao nuôi, chi phí sản xuất, tế tín dụng chính thức luôn được các nhà nước xem sản lượng thu hoạch, giá bán tôm và các thông tin như là kênh cung cấp vốn chính cho khu vực nông có liên quan. thôn. Ngoài ra, hộ nuôi tôm ở địa bàn Bạc Liêu đang đối mặt với tình trạng chi phí đầu tư cho thức Nguồn số liệu thứ cấp được thu thập từ các văn ăn và hóa chất chữa bệnh cho tôm khá cao, mức kiện báo cáo tổng kết, từ các sở, ban ngành, niên trung bình 15 triệu đồng/1.000 m2, trong khi thu giám thống kê của tỉnh Bạc Liêu và của các huyện nhập có xu hướng giảm do ảnh hưởng bởi giá tôm được điều tra. Đồng thời, các nguồn số liệu thứ cấp nguyên liệu bấp bênh và dịch bệnh thường xuyên. từ sách, báo, hay các tạp chí chuyên ngành cũng Do đó, nông dân cần các chính sách hỗ trợ hoặc được thu thập và tổng hợp để phục vụ cho mục công cụ tài chính để giúp họ giảm thiểu thiệt hại do đích nghiên cứu. rủi ro để họ an tâm tiếp tục nuôi tôm trên địa bàn. 3 KẾT QUẢ Bảng 2: Thống kê mô tả các biến trong mô hình Tên biến Trung bình Lớn nhất Nhỏ nhất Độ lệch chuẩn GIOITINH 0,841 1 0 0,368 TRINHDO 7,7 16 0 3,3 SONAMKN 9,3 17 3 3,2 LAMVIECDP 0,195 1 0 0,398 TAPHUAN 0,425 1 0 0,497 VAYVON 0,673 1 0 0,471 THONTINBH 0,522 1 0 0,502 DIENTICHAO 13,9 48,5 1 9,9 CHIPHI 15.137,881 135.200 886,364 19.318,160 Tổng số quan sát (hộ) 113 Nguồn: Số liệu điều tra hộ năm 2013 3.2 Kết quả bàn tỉnh Bạc Liêu đề tài sử dụng mô hình Logit để phân tích. Kết quả ước lượng của mô hình được Để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quyết trình bày ở Bảng 3. định mua bảo hiểm tôm nuôi của nông hộ trên địa 101
  6. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần D: Khoa học Chính trị, Kinh tế và Pháp luật: 35 (2014): 97-104 Bảng 3: Kết quả mô hình Logit cho quyết định mua bảo hiểm tôm nuôi Tên biến Hệ số Hiệu ứng biên Giá trị P GIOITINH 0,316 0,074 0,781 TRINHDO - 0,252 - 0,057 0,037 SONAMKN 0,072 0,016 0,445 DIENTICHAO 0,159 0,036 0,011 VAYVON 0,294 0,068 0,687 LAMVIECDP 1,871* 0,331 0,084 THONGTINBH 2,334 0,497 0,002 TAPHUAN 2,545 0,503 0,002 CHIPHI - 0,000 - 0,000 0,218 Hằng số - 2,906* _ 0,067 Tổng số quan sát 113 Pr  2 0,000 Log likelihood -32,676 Tỉ lệ dự báo đúng (%) 89,38 Ghi chú: *, , tương ứng với các mức mức ý nghĩa 10%, 5% và 1% Nguồn: Số liệu điều tra hộ năm 2013 Giá trị kiểm định mô hình (P-value = 0,000) quyền lợi của nông dân khi tham gia bảo hiểm. Đặc cho biết các biến giải thích có thể được sử dụng để biệt, các quy định về bồi thường còn nhiều phức giải thích cho quyết định tham gia bảo hiểm nuôi tạp, trải qua nhiều khâu trung gian nên tốn nhiều tôm của hộ. Kiểm định đa cộng tuyến được tiến thời gian và thâm chí dư luận cũng phản ánh một hành thông qua hệ số phóng đại phương sai (VIF). số đại lý bảo hiểm thiếu trách nhiệm và vấn đề rủi Kết quả kiểm định cho thấy các giá trị VIF đều nhỏ ro đạo đức trong khâu bồi thường thiệt hại (một số hơn 0,8, do đó có thể bỏ qua tương quan giữa các trường hợp nông dân muốn nhận được tiền bồi biến độc lập trong mô hình. Hệ số Pseudo-R2 kết thường nhanh thì phải trả một khoản phí hoa hợp với tỉ lệ dự báo đúng của mô hình (89,38%) hồng, ). Thực tế trên làm cho một số nông dân có cho phép kết luận tính phù hợp của mô hình ước hiểu biết không muốn tham gia bởi vì họ thiếu tin lượng. Vì vậy, các biến có ý nghĩa trong mô hình tưởng sản phẩm và không muốn đem đến phiền bao gồm TRINHDO, LAMVIECDP, TAPHUAN, phức cho gia đình. Ngược lại, nhiều hộ nuôi có DIENTICHAO, THONGTINBH được dùng để giải trình độ học vấn thấp thường thiếu nhận thức về thích cho quyết định tham gia chương trình bảo các quy tắc và điều khoản hợp đồng bảo hiểm hiểm nuôi tôm của hộ (Bảng 3). nhưng do vận động của địa phương đã chấp nhận tham gia theo phong trào. Hệ số TRINHDO có mối quan hệ tương quan nghịch với xác suất mua bảo hiểm của nông hộ ở Làm việc ở địa phương (LAMVIECDP) có ảnh mức ý nghĩa 5%. Điều này ngụ ý rằng chủ hộ có hưởng thuận chiều với quyết định tham gia bảo của trình độ học vấn càng cao thì ít tham gia vào loại nông hộ ở mức ý nghĩa 10%. Hộ gia đình có thành hình bảo hiểm này. Tuy phát hiện này trái ngược viên làm việc ở địa phương có khả năng tham gia với kết luận của các nghiên cứu phổ biến (xem bảo hiểm cao hơn 33,1 điểm phần trăm so với Sadati và ctv, 2010) mối quan hệ này có thể được những hộ khác. Điều này là do các hộ có thành lý giải trong điều kiện thị trường bảo hiểm nuôi viên làm việc ở địa phương có nhiều thông tin về tôm ở Việt Nam. Đề cập đến bảo hiểm tôm nuôi, chương trình triển khai bảo hiểm, họ dễ dàng biết một loại hình bảo hiểm hoàn toàn mới ở địa bàn được quy trình thủ tục tham gia, được đặc ân trong nông thôn, những nông dân có trình độ học vấn ký kết hợp đồng và giải quyết bồi thường nhờ mối thường có sự cân nhắc rất kỹ giữa chi phí và lợi ích quan hệ với đơn vị bảo hiểm. Bên cạnh đó, quyết từ bảo hiểm. Do chương trình thí điểm bảo hiểm định mua bảo hiểm tôm nuôi cũng một phần mang tôm nuôi lần đầu triển khai nên còn tồn tại nhiều tính chất bắt buộc, bởi vì những cán bộ địa phương bất cập trong văn bản hướng dẫn, công tác triển thường chủ động tham gia và chương trình nhằm khai, chẳng hạn các đại lý bảo hiểm và cán bộ địa thể hiện tinh thần nêu gương trong việc thực hiện phương đã được tập huấn nhưng hoạt động còn chính sách bảo hiểm nông nghiệp, làm cơ sở tuyên yếu, chưa thông tin đầy đủ về trách nhiệm và truyền nhân rộng trong nhân dân. 102
  7. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần D: Khoa học Chính trị, Kinh tế và Pháp luật: 35 (2014): 97-104 Hệ số dương của TAPHUAN có ý nghĩa ở mức triển khai tại địa bàn tỉnh Bạc Liêu, nếu khách hàng 1% ngụ ý rằng các hộ gia đình có tham gia tập không được giải thích đầy đủ và rõ ràng các thông huấn kỹ thuật thì nhu cầu mua bảo hiểm tôm nuôi tin liên quan thì họ rất ngần ngại bỏ ra một số tiền lớn hơn 50,3 điểm phần trăm so với hộ không được đáng kể cho bảo hiểm. tập huấn. Bởi vì khi tham gia tập huấn, nông hộ có 4 KẾT LUẬN cơ hội tiếp cận với kỹ thuật sản xuất phù hợp, đặc biệt là phân biệt được các rủi ro trong sản xuất và Bài viết này tập trung xác định các yếu tố ảnh thiên tai và nhận thức rõ lợi ích của việc tham gia hưởng đến quyết định tham gia chương trình bảo bảo hiểm (Nghi, 2012). Ngoài ra, khóa tập huấn hiểm tôm nuôi nhằm giảm thiểu thiệt hại do rủi ro giúp hộ nuôi tôm áp dụng quy chuẩn kỹ thuật mới của hộ nuôi tôm trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu. Số liệu vào hoạt động sản xuất nhằm năng cao chất lượng, phân tích trong được thu thập thông qua phỏng vấn giảm thiểu nguy cơ xảy ra dịch bệnh, đảm bảo lợi 113 hộ tại huyện Hòa Bình và thành phố Bạc Liêu. ích cho người tham gia bảo hiểm. Đây là 2 địa bàn tập trung nhiều hộ nuôi tôm vì vậy phản ánh khá chính xác thực trạng chương trình thí Hệ số diện tích ao tôm (DIENTICHAO) dương điểm bảo hiểm nuôi tôm ở Bạc Liêu. Kết quả phân và có ý nghĩa ở mức 5%, chỉ ra rằng quy mô nuôi tích chỉ ra rằng hộ nuôi tôm chỉ mua bảo hiểm khi tôm tương quan thuận với xác suất tham gia bảo có thông tin đầy đủ về chương trình bảo hiểm. Rõ hiểm tôm nuôi của hộ, cụ thể diện tích nuôi tăng ràng, việc tư vấn thông tin giúp đối tượng tham gia thêm 1.000 m2 thì nhu cầu mua bảo hiểm tăng 3,6 hiểu biết rõ hơn về đặc tính sản phẩm, những điều điểm phần trăm. Kết quả này phù hợp với kết quả khoản của hợp đồng bảo hiểm tôm nuôi. Do đó, của Knight và Coble (1997) nghiên cứu về bảo hoàn thiện công tác thông tin, tuyên truyền là một hiểm nông nghiệp ở Mỹ và kết quả của Torkamani giải pháp quan trọng. Bên cạnh đó, quyết định (2002) tại Iran. Thực tế cho thấy những hộ nuôi với tham gia bảo hiểm tôm nuôi nhiều hơn nếu chủ hộ quy mô lớn thì khả năng kiểm soát hoạt động nuôi được tham dự các buổi hội thảo, tập huấn kỹ thuật của hộ bị hạn chế, chẳng hạn người canh tác khó có bởi vì nó cung cấp cho nông dân nhiều kiến thức thể quản lý tốt hơn việc kiểm tra yếu tố môi trường về kỹ thuật nuôi trồng và áp dụng kỹ thuật nuôi nước, kỹ thuật chăm sóc tôm trong suốt quá trình phù hợp cho đối tượng tham gia bảo hiểm, đồng nuôi, vì vậy họ nhận thức được nguy cơ đối mặt thời có cơ hội tiếp nhận đầy đủ nội dung chính với rủi ro cao và một trong những giải pháp tối ưu sách bảo hiểm. Làm việc ở địa phương cũng có ảnh là tham gia bảo hiểm. hưởng đến quyết định tham gia bảo hiểm của hộ Hệ số dương của yếu tố THONGTIN có ý nuôi tôm. Những gia đình có thành viên làm việc ở nghĩa thống kê ở mức 1% cho thấy rằng nếu hộ địa phương có nhiều thuận lợi trong việc tiếp nhận nuôi tôm được tiếp cận thông tin về sản phẩm bảo thông tin, ký kết và giải quyết bồi thường bảo hiểm tôm nuôi thì xác suất quyết định mua bảo hiểm, song song đó cũng thể hiện tinh thần trách hiểm sẽ cao hơn 49,7 điểm phần trăm so với những nhiệm trong chủ trương thí điểm, vì vậy xác suất nông hộ khác. Kết quả này phù hợp với lập luận mua bảo hiểm của đối tượng này khá cao. Mặt của Sheth, Mittal và Newman (2001) rằng khách khác, trình độ học vấn của chủ hộ lại là yếu tố hạn hàng chỉ có thể tham gia khi dịch vụ thông tin sản chế mua bảo hiểm tôm nuôi. Thực tế cho thấy, bảo phẩm và sự hỗ trợ được thỏa mãn. Do đặc tính vô hiểm tôm nuôi là mô hình bảo hiểm mới, thông tin hình của sản phẩm bảo hiểm và các thuật ngữ nhận được về sản phẩm còn nhiều điểm chưa rõ chuyên ngành được sử dụng trong hợp đồng, chẳng ràng, do đó, sự đánh đổi giữa phí bảo hiểm và lợi hạn mức phí bảo hiểm, trách nhiệm khi tham gia, ích bảo hiểm đang là một sự lựa chọn có cân nhắc đáng quan tâm hơn là điều khoản bồi thường, nên của nhiều hộ nuôi tôm. Cuối cùng, diện tích nuôi đối với một số khách hàng thì sản phẩm bảo hiểm tôm cũng được xem như là một trong các nhân tố có thể khiến họ không dễ dàng hiểu hoặc hình dung tác động đến quyết định mua bảo hiểm cho tôm cụ thể, vì thế khách hàng thường có xu hướng nuôi. Các hộ nuôi tôm với quy mô lớn có xu hướng không mua những sản phẩm mà họ không hiểu rõ mua bảo hiểm nhiều hơn. Nguyên nhân hiện tượng vì họ sợ rằng sẽ quyết định sai lầm và chịu thiệt này là do khả năng quản lý của hộ nuôi có giới hạn hại. Bên cạnh đó, do đặc thù vị trí địa lý và văn hóa trên diện tích đất canh tác nên họ e ngại gặp rủi ro của những nông dân sống khu vực nông thôn ít tiếp trong khi nuôi, vì thế hộ nuôi tôm chọn giải pháp xúc và sử dụng các công cụ tài chính, cụ thể là các an toàn là tham gia bảo hiểm. Các yếu tố khác như sản phẩm bảo hiểm nhân thọ để bảo vệ cho cuộc số năm kinh nghiệm, vay vốn và chi phí sản xuất sống bản thân chứ chưa nói là bảo hiểm tôm nuôi, không có tác động rõ rệt đến quyết định tham gia một loại hình bảo hiểm hoàn toàn mới, lần đầu tiên bảo hiểm tôm nuôi của nông hộ. 103
  8. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần D: Khoa học Chính trị, Kinh tế và Pháp luật: 35 (2014): 97-104 Dựa vào kết quả nghiên cứu, một số khuyến 2. Binswanger, H. P., 1980. Attitudes Toward nghị cho chính sách hướng tới mở rộng dịch vụ bảo Risk: Experimental Measurement in Rural hiểm cho hộ nuôi tôm ở tỉnh Bạc Liêu bao gồm: (i) India. American Journal of Agricultural xây dựng sản phẩm bảo hiểm nuôi tôm phù hợp với Economics, 62: 174-82. quy mô nuôi tôm của hộ đồng thời cần tập trung 3. Binswanger, H. P. and Donald A. S., 1983. cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho hộ nuôi tôm có quy Risk Aversion and Credit Constraints in mô lớn hoặc chi phí đầu tư cao; (ii) xây dựng và Farmers' Decision Making: A phát triển mạng lưới cung cấp dịch vụ bảo hiểm Reinterpretation. Journal of Development với dưới nhiều hình thức như đại lý bảo hiểm độc Studies, 20: 5-21. lập nhằm giúp người dân dễ dàng tiếp cận với dịch 4. Chambers, R. G., 1989. Insurability and vụ bảo hiểm này; (iii) tiếp tục phổ biến về dịch vụ moral hazard in agricultural insurance bảo hiểm tôm nuôi trên các phương tiện thông tin markets. American Journal of Agricultural đại chúng và thông qua kênh của chính quyền địa Economics, 71: 604-616. phương; (iv) cần có cơ chế phối hợp giữa ngành nông nghiệp ở địa phương và công ty bảo hiểm để 5. Goodwin, B. K., 1993. An empirical tổ chức các buổi hội thảo, chuyên đề để gia tăng sự analysis of the demand for multiple peril hiểu biết của khách hàng về chương trình bảo hiểm crop insurance. American Journal of nông nghiệp như là thủ tục tham gia và bồi thường, Agricultural Economics, 75(2): 425-434. trao đổi thắc mắc với hộ nuôi tôm để họ tin tưởng 6. Huy, H. T., Khôi, P. Đ. và Nguyệt, P. T. A., vào sản phẩm bảo hiểm này. 2014. Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia bảo hiểm cây lúa của hộ trồng TÀI LIỆU THAM KHẢO lúa ở tỉnh Đồng Tháp. Tạp chí Khoa học 1. Baquet, A. and Smith, V., 1996. Demand Đại học Huế, 90 (2): 105-116. for multiple peril crop insurance: Evidence 7. Knight, T. O. and Coble, K.H., 1997. from Montana wheat farms. American Survey of U.S. Multiple Peril Crop Journal of Agricultural Economics, 78(1): Insurance Literature Since 1980. Review of 189-201. Agricultural Economics, 19: 128-156. 104