Cẩm nang chẩn trị đông y - Chẩn trị những bệnh chứng thường gặp bằng châm cứu

pdf 90 trang hapham 2540
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Cẩm nang chẩn trị đông y - Chẩn trị những bệnh chứng thường gặp bằng châm cứu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfcam_nang_chan_tri_dong_y_chan_tri_nhung_benh_chung_thuong_ga.pdf

Nội dung text: Cẩm nang chẩn trị đông y - Chẩn trị những bệnh chứng thường gặp bằng châm cứu

  1. CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y - CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU
  2. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH, CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU NGUYÊN TẮC TRỊ LIỆU BẰNG CHÂM CỨU Trị liệu bằng châm cứu và dùng thuốc vùng theo một nguyên tắc giống nhau. Đầu tiên phải chẩn đoán rõ ràng, chính xác, xác định vị trí bệnh ở kinh nào, bệnh phủ thuộc tạng phủ nào. Khi chữa dùng cách châm hay cách cứu, dùng phép bổ hay dùng phép tả, sau đó tiến hành trị liệu, như vậy mới thu được hiệu quả mong muốn. A. Thực thì tả Khi bệnh tà mới xâm nhập vào cơ thể, sức đề kháng còn mạnh, xuất hiện bệnh lý thực, cần phải dùng châm nhiều, thủ pháp tả nhiều, không thể dùng cứu (trừ trường hợp hàn thực chứng). B. Hư thì bổ Nói về tinh thần và trạng thái người bệnh không tốt, năng lực đề kháng giảm yếu, xuất hiện chứng hư, cần dùng thủ pháp bổ, thường dùng phép cứu (trừ trường hợp người bệnh âm hư, không thể dùng cứu). C. Nhiệt thì nhanh Nói về bệnh nhiệt tà quá thịnh, cần dùng cách châm nhanh, rút kim nhanh (hoặc kết hợp chích điểm nặn máu) để trừ trị. D. Hàn thì ôn Hàn tà xâm nhập kinh lạc hoặc trú ở tạng phủ, cần dùng phương pháp ôn cứu để trừ trị (hoặc châm xong cứu thêm). Đ. Tắc thì chích Cục bộ ứ tắc thì dùng phép chích, là khi cục bộ kinh lạc không thông, khí huyết ứ trệ, phải dùng cách chích máu làm lưu thông kinh lạc, khử trừ bệnh tật. E. Không hư, không thực Theo kinh mà chữa. Khi cơ thể có bệnh biến hư thực không rõ ràng, mới chỉ là một số chứng trạng xuất hiện trên đường kinh đi, nên lấy huyệt trên kinh đó mà châm, chích dùng phép bình bổ, bình tả. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 1
  3. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y QUY TẮC XỬ PHƯƠNG TRONG CHÂM CỨU Chữa bệnh bằng châm cứu là phương pháp điều trị thông qua châm ở huyệt vị. Mỗi huyệt chữa được một số bệnh, mỗi bệnh thường dùng một số huyệt để chữa mới có thể phát huy hết tác dụng. Vì vậy phải nắm vững các huyệt và phối hợp chúng với nhau. Phối hợp huyệt cũng chính là xử phương. Phối hợp huyệt phù hợp sẽ nâng cao kết quả chữa bệnh. Xử phương phải theo qui luật nhất định. Nói chung có mấy loại như sau: A. Theo kinh lấy huyệt Xem bệnh ở kinh nào lấy huyệt ở kinh đó để chữa bệnh. Như mũi có bệnh thuộc về kinh thủ dương minh đại trường, lấy huyệt ở kinh đó. Bệnh tim thuộc về kinh thủ quyết âm, lấy huyệt trên kinh đó. Bệnh dạ dày thuộc về kinh túc dương minh, lấy Túc tam lý trên kinh đó. Cách này còn gọi là cách lấy huyệt đường xa (viễn đạo). B. Lấy huyệt lân cận Xem bệnh chỗ nào thì lấy huyệt ở đó, tại đó. Như đau đầu lấy Bách hội, hoặc lấy Phong trì, Thượng tinh, Thái dương; đau vai thì lấy Kiên ngung hoặc Khúc trì; đau lưng thì lấy Thận du hoặc Hoàn khiêu, bệnh mắt thì lấy Tình minh hoặc Tán trúc. C. Lấy huyệt phối hợp Nguyên tắc này là đã lấy một huyệt nhưng sức chữa chưa đủ, lại lấy thêm 1 hoặc 2 huyệt nữa, để tăng thêm hiệu quả chữa bệnh. Cách lấy huyệt phối hợp này ứng dụng rộng rãi trên lâm sàng. Đại thể có mấy loại như sau: 1. Phối hợp xa - gần Là phối hợp cách lấy huyệt đường xa và lấy huyệt lân cận. Như đau dạ dày lấy Túc tam lý ở đường xa, phối hợp lấy Trung quản ở gần. Bệnh mũi lấy Hợp cốc ở đường xa, với Nghinh hương ở gần. Đau bụng hành kinh lấy Thái xung ở đường xa với Quan nguyên ở gần. Bệnh mắt lấy Hậu Khê ở đường xa, với Tình minh ở gần. 2. Phối hợp phải - trái Còn gọi là song huyệt, đồng thời lấy một huyệt vị có tác dụng chủ trị mỗi bên phải, trái. Như bệnh dạ dày, lấy hai Túc tam lý hoặc hai Nội quan; đau đầu lấy hai Thái dương hoặc hai Liệt khuyết; bệnh phụ khoa lấy hai Tam âm giao hoặc hai Huyết hải 3. Phối hợp trên - dưới Ta lấy huyệt ở chi trên phối hợp hỗ trợ tương ứng với huyệt ở chi dưới. Như Nội quan với Túc tam lý chữa bệnh ruột và dạ dày; Thần môn với Tam âm giao chữa mất ngủ; Chi câu với Dương lăng tuyền chữa đau hai bên sườn; Hợp cốc với Nội đình chữa đau răng; Chi câu với Chiếu hải chữa táo bón Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 2
  4. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 4. Phối hợp trước - sau Còn gọi là trong ngoài hô ứng, lấy một huyệt ở trước, một huyệt ở sau phối hợp hỗ tương. Như Nghinh hương với Phong trì trị mũi tắc khó thở. 5. Phối hợp Biểu - Lý Cũng gọi là phối hợp âm dương. Căn cứ vào ba kinh dương với ba kinh âm phối hợp hỗ trợ tương biểu lý, như lấy Hợp cốc ở kinh đại trường và Liệt khuyết ở kinh phế để trị cảm mạo, lấy Túc tam lý ở kinh vị và Tam âm giao ở kinh tỳ để trị tiêu hóa kém. 6. Phối hợp Khoá - Chốt Lấy huyệt phối hợp tương ứng, tương hỗ, tương liên, trên dưới vài ba huyệt đồng thời ở cùng một chi. Như chi trên đau đớn thì lấy Kiên ngung, Khúc trì, Hợp cốc, bán thân bất toại thì lấy Hoàn khiêu, Dương lăng tuyền, Huyền chung 7. Phối hợp Du - Mộ Mỗi một tạng phủ có bệnh, có thể lấy Bối du và Mộ huyệt tương ứng. Như bệnh ở vùng dạ dày có thể lấy Trung quản phối hợp với Vị du; bệnh ở bàng quang có thể lấy Bàng quang du phối hợp Trung cực. 8. Phối hợp Nguyên - Lạc Nguyên huyệt có thể chữa bệnh hư, thực ở kinh ấy. Lạc huyệt có thể chữa bệnh chứng ở kinh biểu lý. Nguyên huyệt và Lạc huyệt phối hợp ứng dụng làm tăng tác dụng chữa bệnh. Như ho, hen suyễn là bệnh chứng của thủ thái âm phế kinh, lấy Nguyên huyệt của kinh ấy là Thái uyên, lấy Lạc huyệt Thiên lịch của kinh biểu lý thủ dương minh đại trường kinh; đau bụng, sôi ruột, ỉa chảy là bệnh chứng của kinh thủ dương minh đại trường, lấy Nguyên huyệt Hợp cốc của kinh ấy, lấy Lạc huyệt Liệt khuyết của kinh biểu lý thủ thái âm phế kinh. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 3
  5. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y TÁM PHÉP TRỊ CƠ BẢN BẰNG CHÂM CỨU Tám phép trị cơ bản là: Hoà, thanh, ôn, bổ, hãn, hạ, thổ, tiêu. Trong khí tiến hành chữa bệnh ngoại cảm hoặc nội thương, có thể gặp một số triệu chứng biểu hiện lâm sàng giống nhau, phải vận dụng những phép trị cơ bản để làm tiêu trừ, hoãn giải các biểu hiện lâm sàng đó để giảm bớt khó chịu cho người bệnh, hạn chế ảnh hưởng của nó với sức khỏe và bệnh tình của người bệnh. Tám phép trị cơ bản bằng châm cứu như sau: A. Hòa pháp (còn gọi là phép hòa giải), nhằm làm êm các rối loạn công năng (bất hòa). Có ba chứng bất hòa là: Can vị bất hòa, trường vị bất hòa và doanh vị bất hòa. Phương huyệt và thủ pháp • Can vị bất hòa: Bổ Túc tam lý, tả Thái xung. • Trường vị bất hòa: Bình bổ bình tả; Trung quản, Thiên khu, Hợp cốc, Túc tam lý. • Doanh vị bất hòa: (chứng bán biểu bán lý). Châm Ngoại quan thấu Nội quan, dùng thủ pháp thấu Thiên lương. • Khí huyết bất hòa: (hành kinh đau bụng). Châm tả Nội đình bổ Tam âm giao. B. Thanh pháp (phép làm hạ nhiệt, còn gọi là phép thanh nhiệt), nhằm làm hạ cơn sốt cao. Sốt cao là tà chính cùng mạnh đấu tranh nhau, là phản ứng của rất nhiều loại bệnh khác nhau, cách chữa theo nguyên nhân bệnh khác nhau. Nhưng khi sốt quá cao cần cấp cứu hạ nhiệt để tránh tác hại nhiều mặt của nó. Phương huyệt và thủ pháp • Chích Nhĩ tiêm nặn máu, chích Thiếu thương nặn máu, chích Thương dương nặn máu. • Châm tả, lưu kim kích thích mạnh các huyệt Đại chùy, Khúc trì, Hợp cốc. C. Ôn pháp (phép làm nóng ấm người lên), nhằm vào chứng thân nhiệt giảm thấp. Bất kể lý do gì gây ra tụt nhiệt độ, cần cấp tốc nâng thân nhiệt lên để tránh thoát dương khí. Phương huyệt và thủ pháp Cứu các huyệt Thái khê, Côn luân, cứu trực tiếp 10 mồi trở lên. Quan nguyên cứu trực tiếp, Thần khuyết cứu cách muối liên tục cứu cho tới khi thân nhiệt trên 36oC và trở lại 37oC mới thôi. D. Bổ pháp (phép bồi bổ), nhằm vào người bệnh suy nhược sau bệnh nặng kéo dài, sau lao động quá sức kéo dài. Phương huyệt và thủ pháp Cứu các huyệt Cách du, Đảm du, Cao hoang du, Túc tam lý. Nếu người bệnh già yếu, có thể cứu thêm các huyệt: Tâm du, Tỳ du, Vị du, Thận du, Trung quản, Quan nguyên, Khí hải, Túc tam lý, Tam âm giao. Đ. Hãn pháp (phép xử lý về mô hôi), phép này gồm có phát hãn và chỉ hãn. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 4
  6. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 1. Phát hãn (làm cho ra mồ hôi), nhằm vào chứng biểu thực, cần giải quyết bằng cách làm cho ra mồ hôi Phương huyệt và thủ pháp Châm bổ huyệt Hợp cốc, làm thủ pháp lão dương số (bổ 81 lần), kết hợp đếm và vê, nâng và ấn theo phép bổ (gọi là 1 độ) hết 1 độ lại dừng 1-2 phút, lại làm lại độ thứ hai, dừng 1-2 phút, lại tiếp tục. Khi nào thấy ra mồ hôi thì dừng. 2. Chỉ hãn (làm cho cầm mồ hôi), nhằm vào chứng biểu hư, hoặc phát hãn nhầm, mồ hôi ra quá nhiều, cần phải cầm lại, để phòng đại hãn vong dương (hạ nhiệt độ trụy mạch). Phương huyệt và thủ pháp Châm tả huyệt Hợp cốc, làm thủ pháp lão âm số (tả 36 lần hoặc 36 x 3 lần), kết hợp đếm và vê, nâng và ấn theo tả pháp. Sau đó châm bổ huyệt Phục lưu, làm thủ pháp lão dương số (bổ 81 lần), kết hợp đếm và vê, nâng và ấn theo bổ pháp. E. Hạ pháp (phép xử lý về đại tiện), phép này gồm có tả hạ và chỉ tả. 1. Tả hạ (làm cho đi đại tiện được), nhằm vào chứng bí đại tiện do thực nhiệt ở dương minh gây ra, cần tả hạ để tránh nhiệm độ phân. Phương huyệt và thủ pháp Châm bổ huyệt Đại chung, làm thủ pháp lão dương số (bổ 81 lần), kết hợp đếm và vê, nâng và ấn theo bổ pháp. 2. Chỉ tả (làm cho cầm ỉa chảy), nhằm vào chứng ỉa chảy do hư hàn mà rối loạn đường ruột gây ra. Phương huyệt và thủ pháp Châm bổ các huyệt Bách hội, Thái khê, làm thủ pháp lão dương số (bổ 81 lần), Bách hội chỉ đếm và vê, Thái khê kết hợp cả đếm và vê, nâng và ấn theo phép bổ. G. Thổ pháp (phép xử lý về chứng nôn), phép này gồm có thôi thổ và chỉ ẩu. 1. Thôi thổ (gây nôn), nhằm vào chứng thực trệ, đồ ăn không tiêu, ứ đọng ở dạ dày gây trướng tức, đau đớn và chứng ngộ độc thức ăn khi đồ ăn còn ở dạ dày. Phương huyệt và thủ pháp Có hai cách làm: Một là châm tả Sùng cốt, hai là cứu Tiểu chỉ tiêm đầu. • Châm tả huyệt Sùng cốt, châm trên đỉnh mỏm gai đốt cổ 6, mũi kim chếch lên, làm lão âm số (36 hoặc 36 x 3), kết hợp đếm và vê nâng và ấn theo tả pháp. • Cứu Tiểu chỉ tiêm đầu (đầu nhọn ngón chân út). Để hai bàn chân dựng ngón lên, gót sát nền giường, đặt mồi ngải nhỏ trực tiếp lên 2 đầu nhọn ngón chân út hai bên, đốt lửa cùng một lúc, cứu hết mồi này tiếp mồi khác, đến khi nôn được thì dừng (không được đốt riêng từng chân). 2. Chỉ ấu (cầm nôn), nhằm vào chứng nôn nhiều, cần phải cầm nôn. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 5
  7. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y Phương huyệt và thủ pháp Châm các huyệt Nội quan, Túc tam lý. Huyệt Nội quan dùng phép tả theo hơi thở, ra lệnh cho người bệnh hít vào thì tiến kim người bệnh thở ra thì rút kim lên, kết hợp đếm và vê, nâng và ấn theo hơi thở như trên 6 lần, hoặc 36 lần. Huyệt Túc tam lý dùng phép bổ lão dương số (bổ 81 lần), kết hợp đếm và vê, nâng và ấn theo phép bổ. Bà chửa do nghén mà nôn thì dùng phép cứu mồi ngải ở hai huyệt kể trên. H. Tiêu pháp Gồm phép làm tiêu sưng mụn nhọt, tiêu đờm, tiêu thũng, tiêu huyết ứ do va đập chấn thương. (Các loại trưng, hà, u bướu không thuộc phạm vi này). 1. Tiêu sưng mụn nhọt: Nhằm làm tiêu sưng các loại mụn nhọt đầu đanh, áp-xe, hậu bối, đinh râu Phương huyệt và thủ pháp Lấy các huyệt Thân trụ, Linh đài, Hợp cốc, Ủy trung. Cả 4 huyệt trên đều chích nặn máu. Chứng nhẹ, ít điểm sưng thì mỗi ngày chích một lần; chứng nặng, nhiều điểm sưng thì ngày chích hai lần. 2. Tiêu đờm Phương huyệt và thủ pháp • Đờm ở phổi: Châm tả các huyệt Phế du, Thiên đột, Chiên trung, Phong long. • Đàm ẩm ở vị: Châm tả Trung quản, Phong long. • Đàm ngưng kinh lạc: Châm tả Liệt khuyết, Phong long. 3. Tiêu thũng Chứng thũng là thủy dùng thiên Thủy thũng ở chương 16: Chẩn trị các chứng trạng lâm sàng, có kết hợp Tây y trong chẩn đoán phân liệt, có gia giảm thêm như sau: Phương huyệt và thủ pháp Lấy các huyệt Thủy phân, cứu, Âm lăng tuyền và Túc tam lý làm bổ pháp. • Nếu đầu mặt phù thũng rõ rệt, gia Liệt khuyết, tả pháp. • Nếu hai ống chân sưng rõ rệt, gia Phong long tả pháp, Phục lưu bổ pháp. • Nếu tỳ hư là chính, gia bổ Tỳ du, Tam âm giao. • Nếu thận hư là chính, gia bổ Thận du, Phục lưu. 4. Tiêu huyết ứ do va đạp chấn thương. Phương huyệt và thủ pháp Châm một đến huyệt tại chỗ và lân cận, làm tả pháp, sau đó châm huyệt Túc lâm khấp, làm bổ pháp, thời gian lưu kim lấy mồi ngải bó vào cán kim đốt (ôn châm cứu), số mồi đốt là hai mồi. Đốt xong đợi cán kim nguội thì rút kim. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 6
  8. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y CHỮA NHỮNG BỆNH THƯỜNG GẶP 1. Cảm mạo Cảm mạo, còn gọi là thương phong, có thể bị ở cả bốn mùa. Bệnh thường sinh vào những lúc khí trời đột nhiên nóng, lạnh, hoặc lao động ra nhiều mồ hôi. Chủ yếu là do ngoại cảm phong hành, hoặc thân thể suy nhược, sức đề kháng giảm mà phát bệnh. Cảm mạo có các biểu hiện là: Nghẹt mũi chảy nước mũi trong, hắt hơi, ho hắng, đau đầu, ăn không ngon Cảm mạo nặng nặng (cúm lây lan): Phần nhiều là sợ lạnh, sốt, đau đầu, đau họng, ho, đau lưng, đau khớp tứ chi, không muốn cử động, có thể quặn bụng, buôn nôn. Cách chữa: Lấy huyệt Đại chuỳ, Hợp cốc, Phong trì, 3 huyệt này tác dụng chủ yếu chữa cảm mạo. Đều dùng hào kim vê chuyển tiến kim, dùng thủ pháp bình bổ bình tả. Lưu kim 30'. Gia giảm: • Đau đầu gia huyệt Ấn đường, Thái dương, nặn máu. • Cuống họng đau, dùng kim ba cạnh châm nặn máu ở Thiếu thương. • Ho hắng gia Liệt khuyết, Thái uyên. • Tắc mũi gia Nghinh hương. • Sốt cao gia Khúc trì, Thập tuyên, châm nhanh, nặn máu. • Toàn thân và tứ chi đau buốt gia Khúc trì, Thừa sơn. • Quặn bụng, buôn nôn gia Nội quan. Giảng nghĩa của phương: Phương này lấy giải biểu, tán hành làm chính.Do phế và đại trường cùng biểu lý, nên lấy Hợp cốc ở kinh đại trường để giải biểu tán hàn, phát hãn(*), tuyên thông phế khí để dứt ho. Lấy Phong trì để khu phong( ) mà dứt đau đầu. Đại chuỳ là huyệt ở đốc mạch, cũng là huyệt hội của thủ, túc tam dương kinh, cho nên có thể trị được ngoại tà xâm phạm vào cơ thể làm cho kinh khí ở âm dương ngưng tắc phát thanh nhiệt. Huyệt Thái dương là huyệt lạ ngoài kinh (kinh ngoại kỳ huyệt), dùng kim ba cạnh châm nặn máu có tác dụng tiết nhiệt, làm mát đầu mắt, có thể chữa đau góc đầu, trán. Huyệt Ấn đường trị đau trước đầu. Thiếu thương là kinh huyệt thủ thái âm phế có tác dụng làm tiết tà nhiệt ở phế kinh, cho nên nó là huyệt vị chính để chữa đau họng. Liệt khuyết là Lạc huyệt của thủ thái âm kinh, Thái uyên là Nguyên huyệt của thủ thái âm kinh. Hai huyệt này có tác dụng rất lớn đối với việc tuyên phế, vì vậy có thể chữa được ho do phế khí không tuyên (không thông). Thủ dương minh đại trường kinh tuần hanh đến mũi, vì thế huyệt Nghinh hương có thể trị mũi tắc không thông. Thập tuyên có công hiệu tuyên khiếu, khai bế (thông khiếu, mở chỗ bị đóng tắc), sơ dương khí, thanh nhiệt. Huyệt Khúc trì có tác dụng tiết tà nhiệt ở dương (*) Phát hãn: Làm cho ra mồ hôi. ( ) Khu phong: Đuổi phong tà. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 7
  9. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y kinh, lại có thể thanh nhiệt, giải biểu, trị nóng đau. Đau phía sau bụng chân có quan hệ với kinh bàng quang, vì vậy lấy huyệt Thừa sơn của kinh đó để thông kinh khí mà dứt đau. Nội quan là Lạc của thủ quyết âm, kinh mạch của thủ quyết âm ở dưới hoành cách có nhanh nối (lạc) với tam tiêu, vì vậy có thể tuyên thông khí cơ tam tiêu, khoan cách, hòa vị, giáng nghịch, điều khí, làm dứt nôn mửa. Phương huyệt kinh nghiệm đạt hiệu quả cao • Phong trì, Can du, Túc tam lý (mùa xuân). • Phong trì, Hợp cốc, Phục lưu (mùa đông). Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 8
  10. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 2. Ho Ho là triệu chứng thường gặp của bệnh phổi, nhưng bệnh của các cơ quan khác cũng có thể ảnh hưởng đến phổi mà sinh ra ho. Vì vậy rất nhiều có triệu chứng này. Nguyên nhân dẫn đến ho tuy nhiều, nhưng không ngoài hai mặt ngoại cảm và nội thương. a. Ngoại cảm ho hắng: Phát sốt, sợ lạnh, mũi nghẹt, hắt hơi, ho có đờm lỏng và trắng hoặc kèm đau đầu. Cách chữa: Đại chùy, Phong trì, Hợp cốc, Phế du, Liệt khuyết. Các huyệt kể trên đều dùng hào kim vê chuyển tiến kim, thủ pháp bình bổ, bình tả, lưu kim 20 phút. Giảng nghĩa của phương: Đại chùy, Phong trì, Hợp cốc để tuyên thông(*) dương khí, sơ giải biểu tà. Liệt khuyết tuyên phế để dứt ho. Phế du là chỗ khí của phế tạng chuyển qua, tả thì lưu điều phế khí, bổ thì hòa ích phế khí, vì vậy là huyệt chính để chữa ho. b. Nội thương ho hắng: Có lúc ho, lúc không, nhổ ra đờm trắng, dính, hoặc ho khan không có đờm, họng khô, đau rát, ngứa, miệng khô, môi hồng, có trường hợp đau ở ngực và lưng trên, lòng bàn tay, lòng bàn chân nóng. Cách chữa: Lấy các huyệt Phế du, Đại trù, Túc tam lý, Như tế. Dùng hào kim châm bổ, thêm cứu sau khi châm. Giảng nghĩa của phương: Lấy Phế du để tuyên thông phế khí, bổ phế để dứt ho. Đại trù khử phong tuyên phế. Túc tam lý bổ tỳ, ích khí. Ngư tế có thể thanh phế hỏa mà dứt ho. (*) Tuyên thông: Khí thông thuận lợi. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 9
  11. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 3. Hen Hen suyễn cũng gọi là bệnh hống. Nguyên nhân gây bệnh rất phức tạp, nói chung do thể lực suy nhược, ngoại cảm phong hàn, hoặc bị bệnh đường hô hấp không chưa tận gốc cho dứt. Triệu chứng chủ yếu là thở hít nhanh gấp, đờm khó long, hầu kêu như kéo cưa, nhổ đờm ra xong thì dễ chịu. Bệnh nặng thì há miệng so vai, không thể nằm ngay ngắn, cử động dễ ra mồ hôi, chân tay lạnh, sức mặt trắng bợt. Cách chữa: Khi phát cơ hen, lấy bình suyễn làm chính, lấy huyệt: Định suyễn, Chiên trung, Nội quan. Trước hết láy huyệt Định suyễn, dùng phép vê chuyển, làm cho châm cảm lan tỏa xuống dưới lưng, mông. Châm Chiên trung, châm dưới da chếch thẳng xuống hơn một thốn, dùng phép vê kim. Gia giảm: Đờm nhiều gia Phong long, Liệt khuyết. Suyễn lâu người yếu, châm thêm Phế du, Thận du, Khí hải. Phế khí tức đầy, có thể khêu nặn máu ở Phế du, gia bầu giác, làm cho máu ứ lại ở dưới da, có hiệu lực chặn cơn suyễn. Giảng nghĩa của phương: Phương này lấy bình suyễn(*), khử đờm làm chính. Định suyễn là huyệt kinh nghiệm lâm sàng. Nội quan nới giãn ngực và cơ hoành, phế khí tự giáng. Chiên trung có công hiệu thuận khí hóa đờm thấp. Nếu đờm nhiệt tại phế, cản trở phế khí, tuyên giáng (thông xuống) thất thường nên dùng Phong long, Liệt khuyết để khử đờm, tiết nhiệt. Người yếu cứu Phế du, Thận du, Khí hải để bổ thêm phế khí và thận khí. Phế, thận đầy đủ khí lực thì trên có thể khỏi, dưới có thể nạp, khí cơ tự thăng giáng bình thường, chứng suyễn sẽ tự khỏi. Phương huyệt kinh nghiệm đạt hiệu quả cao • Cứu huyệt Linh đài, Côn luân. (*) Bình suyễn: Dẹp cơn suyễn. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 10
  12. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 4. Đau đầu Đau đầu là một triệu chứng thường có ở nhiều loại bệnh, ngoại cảm hay nội thương đều dẫn tới đau đầu. Ngoại cảm dẫn tới đau đầu, phần nhiều biểu hiện sợ lạnh, sốt, chảy nước mũi, ho hắng. Nội thương đau đầu do hư tổn ở ba tạng can, tỳ, thận. Biểu hiện ngủ không ngon, thân thể mệt mỏi, váng đầu tức ngực, buôn nôn, tiêu hóa kém, đầu não sinh chứng "phiền muộn". Cách chữa: Do nguồn gốc sinh bệnh khác nhau, người bệnh thấy đau ở những chỗ khác nhau, vì vậy tuỳ theo nguyên nhân và điểm đau mà xử lý. a. Điều trị theo điểm đau + Đau cả đầu Phương 1 lấy huyệt: Túc tam lý, Hợp cốc, Dương lăng tuyền. Ba huyệt trên, lấy cả hai bên, dùng hào kim châm tả pháp, đồng thời vê chuyển, có cảm giác tê tức thì dừng, lưu kim 30 phút. Mỗi ngày hoặc cách ngày châm một lần. Phương 2 lấy huyệt: Bách hội, Thần đình, Phong trì. Cả ba huyệt đều dùng mồi ngải cứu từ ba đến năm mồi. + Đau đỉnh đầu, lấy huyệt: Bách hội, Liệt khuyết. Dùng hào kim châm Bách hội, châm chếch lên, vê chuyển tiến kim, đến khi cảm giác tê tức lan đến khuỷu tay thì dừng. Đều lưu kim 30 phút. Các huyệt khác như Phong trì, Đại trù, Thái dương có thể chọn dùng. Phương huyệt kinh nghiệm đạt hiệu quả cao + Bách hội, Hành gian, chữa đau đỉnh đầu do can hoả. + Bách hội, Thông thiên, Dũng tuyền, chữa đau đỉnh đầu do thận hư. + Đau bên đầu Phương 1: Lấy huyệt Huyền chung, dùng hào kim vê chuyển tiến kim theo phép tả, lưu kim 15 phút. Phương 2: Lấy huyết Dũng tuyền, dùng ngải nhung cứu ba mồi. Phương 3: Lấy huyệt Đầu duy, Liệt khuyết, dùng hào kim châm huyệt Đầu duy trước, châm dưới da, chếch lên đỉnh đầu, đến khi có cảm giác trướng tức thì dừng, sau đó châm huyệt Liệt khuyết, châm chếch lên, lưu kim 30 phút. Hoặc châm thêm huyệt Ty trúc không. Phương huyệt kinh nghiệm đạt hiệu quả cao + Đầu duy, Khúc phát, Chi câu. Chữa đau một bên đầu có nhức mắt (thiên đầu thống). + Huyền lư, Hàm yếm. Chữa đau vùng tóc mai hai bên đầu. + Đau giữa phía trước đầu, lấy huyệt: Thượng tinh, Bách hội, Hợp cốc, Liệt khuyết. Các huyệt đều dùng hào kim vê chuyển tiến kim, theo phép tả, lưu kim 15 đến 20 phút. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 11
  13. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y Phương huyệt kinh nghiệm đạt hiệu quả cao + Thượng tinh, Tiền đỉnh. + Đau phía sau đầu, lấy huyệt: Phong trì, Ngoại quan, Côn lôn, Liệt khuyết. Cách châm như trên. Phương huyệt kinh nghiệm đạt hiệu quả cao + Hậu đỉnh, Thân mạch. + Đau quanh ụ mày, lấy các huyệt: Đầu duy, Tán trúc, Liệt khuyết, Thần đình, Ty trúc không. Cách châm như trên. b. Chữa theo nguyên nhân Cách chữa: Trước hết lấy các huyệt: Bách hội, Ấn đường, Hợp cốc. Dùng hào kim châm Bách hội, châm chếch ra phía sau, vê tiến kim 3 phân. Sau đó châm Ấn đường cho đến khi tê tức rõ rệt tại chỗ thì rút kim. Hợp cốc vê chuyển tiến kim theo phép tả, kết quả không tốt thì tiếp chứng lấy huyệt, nói chung lấy từ 2 đến 4 huyệt là vừa. Gia giảm: + Theo ngoại cảm đau đầu gia Phong trì, Liệt khuyết. + Nội thương đau đầu gia Túc tam lý. + Sốt cao gia Đại chuỳ, Khúc trì. + Váng đầu mất ngủ gia Thần môn, Tam âm giao. + Tiêu hóa kém gia Trung quản, Túc tam lý. + Quặn bụng, nôn mửa gia Nội quan. + Bụng ngực cứng đau gia Nội đình. + Đau quanh ụ mày gia Tán trúc thấu Ngư yêu. Giảng nghĩa của phương: Các huyệt nêu ở các phương trên như: Bách hội, Thần đình, Ấn đường, Đầu duy, Thượng tinh, Thái dương, Tán trúc, Ty trúc không đều là cách châm gần để khử phong ở đầu. Châm đường xa lấy Túc tam lý để bổ trung ích khí. Hợp cốc là huyệt chủ yếu để chữa bệnh vùng đầu mặt. Dương lăng tuyền, Huyền chung, Thái xung lợi can, đảm, thanh thấp nhiệt. Phong trì, Ngoại quan, Đại trữ để thanh phong tà ở đầu. Côn lôn, Liệt khuyết khử phong, thanh lạc. Dũng tuyền thanh thận nhiệt, giáng âm hỏa, phù hợp với chứng đau đầu do thần kinh. Gia Đại chuỳ, Khúc trì để thanh nhiệt, Thần môn để an thần, định chí, Tam âm giao bổ ích thận, Trung quản điều vị, Nội quan giáng nghịch chỉ nôn. Nội đình thông giáng vị khí, hòa trường, hóa trệ. Thán trúc thấu Ngư yêu chữa đau cục bộ. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 12
  14. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 5. Choáng váng Choáng váng, còn gọi là "Huyễn vận", "Huyền não", là bệnh nhân cảm thấy chóng mặt, hai mắt mờ tối như ngồi trên thuyền con bị chòng chành, mỗi lần đứng lên là lại đổ xuống, có thể kèm chứng quặn bụng nôn nao, thường gọi là tối mặt, hoa mắt. Bệnh này thường do khí huyết hư nhược gây ra (hội chứng thần kinh tiền đình). Cách chữa: Lấy huyệt Bách hội, Thái khê. Dùng ngải cứu, cứu hai huyệt Bách hội, Thái khê trước. Gia giảm: Nếu váng đầu, ngủ không yên, cứu Túc tam lý, Hợp cốc. Nếu buồn nôn châm thêm Trung quản, Nội quan, châm xong lại cứu. Nếu tâm phiền tim hồi hộp, châm thêm Thần môn. Giảng nghĩa của phương: Phương này chủ yếu là an thần, kiện tỳ, tư thận(*). Bệnh này phần nhiều do khí huyết hư nhược, dương khí không thể đi lên. Bách hội khai thượng tiêu, thanh khiếu. Thái khê để tư thận âm. Túc tam lý ôn bổ tỳ, vị, tăng tiến việc ăn uống, làm cho khí huyệt được dồi dào, phối Hợp cốc để tăng thông suốt kinh khí, giúp cho đầu mắt được thanh, choáng váng tự trừ. Trung quản, Nội quan là hai huyệt nới giãn lồng ngực, giáng vị khí. Thần môn an thần, định chí có kết quả rất rõ rệt. Phương huyệt kinh nghiệm đạt hiệu quả cao • Bệnh này là "Rối loạn thần kinh tiền đình", nguyên nhân rất phức tạp, có một phương cho kết quả tốt, tỷ lệ khỏi bệnh cao, các huyệt như sau: Bách hội, phong trì, Can du (đều tả), Thận du, Nội quan, Túc tam lý, Âm lăng tuyền, Tam âm giao, Thái khê (đều bổ). (*) Tư là béo bổ, tư thận là bổ thận. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 13
  15. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 6. Mất ngủ Mất ngủ là trong đêm không ngủ yên, ngủ không say, khó ngủ, hoặc ngủ được nhưng dễ tỉnh, và không thể nào ngủ lại được, nghiêm trọng thì suốt cả đêm không thấy buồn ngủ, đồng thời hơi váng đầu, hồi hộp, trí nhớ giảm, chân tay mỏi mệt. Bệnh này phần lớn do lao tâm quá độ gây nên. Cách chữa: • Phương 1: Lấy huyệt Nội quan, Thần môn, Tam âm giao. Dùng hào kim vê chuyển tiến kim, thủ pháp bình bổ, bình tả, lưu kim 30 đến 50 phút. Ngoài ra, trước khi đi ngủ dùng mồi ngải nhỏ cứu Ẩn bạch, Chí âm, mỗi chỗ 3 mồi cũng có kết quả. Mỗi ngày chữa một lần, thường chữa 15 ngày. nếu không có kết quả lại châm tiếp. Giảng nghĩa của phương: Phương này lấy an thần, kiện tỳ làm chính. Thần môn an thần, định chí; Nội quan, hoãn giải cơn co thắt cơ hoành, ngực, kiêm có tác dụng hòa vị; Tam âm giao có tác dụng diều tỷ khí. Cơ năng tỳ, vị kiện toàn khỏe mạnh tức tâm huyết được đầy đủ, thần có thể yên. • Phương 2: lấy huyệt: An miên (An miên 1, An miên 2, luân lưu sử dụng) và Túc tam lý. Chập tối trước khi đi ngủ thì châm. Dùng cách vê nhè nhẹ, lưu kim 15 đến 30 phút, giúp gây ngủ nhanh. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 14
  16. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 7. Say nắng Say nắng phần nhiều phát sinh do lao động lâu hoặc đi bộ đường dài dưới ánh nắng mùa hạ. Triệu chứng chung: Đầu tiên thấy đau đầu, choáng váng, chân tay rã rời, nôn mửa, quặn bụng, tiếp đến dột nhiên té ngã, hàm răng cắn chặt, sắc mặt trắng bợt. Nếu bị say nắng mà không kịp thời cấp cứu, có thể chết. Nên kết hợp Đông, Tây y để xử trí. Cách chữa: Trước hết cần phải chuyển bệnh nhân đến chỗ có bóng mát, thoáng gió, đồng thời châm cứu các huyệt: Hợp cốc, Nội quan, Túc tam lý, Nhân trung. Trước hết lấy móng tay bấm mạnh Nhân trung, rồi châm Hợp cốc, Nội quan, Túc tam lý, trước dùng tả pháp, sau dùng bổ pháp lưu kim 10 đến 15 phút. Gia giảm: Sốt cao gia Khúc trì, Thập tuyên, hoặc dùng 12 Tỉnh huyệt chích máu. Nếu có co rúm chân, chích ra máu ở Ủy trung, Khúc trạch. Tâm phiền hồi hộp thì châm thêm Thông lý. Giảng nghĩa của phương: Phương này lấy thanh thử, tỉnh thần làm chính. Hợp cốc thoái nhiệt, giải biểu. Nội quan thanh tâm, an thần. Túc tam lý là huyệt chủ yếu lưu điều trung khí, thanh hòa(*) trường, vị. Nhân trung khai thượng tiêu, thanh khiếu( ) để thanh thần chí. Khúc trì tả nhiệt. Thập tuyên, Thập nhị (12) Tỉnh huyệt đều có thể dụng tuyên khiếu khai bế, sơ dương khí để thanh thử tà( ). Ủy trung, Khúc trạch) chích máu để tả nhiệt ở huyết phần. Thông lý ninh tâm, an thần. (*) Thanh hòa: Làm mát và êm. ( ) Thanh khiếu: Làm mát những cửa chủ yếu tạng phủ. ( ) Thanh thử tà: Làm mát cái tà nóng nực. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 15
  17. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 8. Hôn mê Hôn mê là trạng thái bệnh đã nghiêm trọng, không những mất hẳn tri giác mà có biểu hiện ngủ mê mệt rất sâu, dùng các loại kim châm đều không có phản ứng. Nguyên nhân của hôn mê rất nhiều: Bệnh ở não, ngộ độc thuốc, sốt cao và một số bệnh nặng đều dẫn đến hôn mê. Đông y cho rằng hôn mê thường do: Khí, huyết, đàm, thực, thử nhiệt gây ra, khí cơ đột nhiên nghịch loạn. Nếu khí hư bất túc, thì khí hãm không thể đi, thanh dương không thể thăng tán, do đó cũng dễ đột nhiên gây ra hôn mê. Trên lâm sàng thường chia ra làm hai loại: Thực chứng và hư chứng. Ngoài việc tiến hành chữa theo nguyên nhân ra, cần phải hết sức nhanh chóng làm người bệnh tỉnh lại và giảm nhẹ chứng trạng. Một số bệnh có chứng hôn mê có thể kết hợp phương dưới mà chữa. Khi cần thiết phải kết hợp Đông, Tây y để cứu chữa. a. Thực chứng Đột nhiên quay đơ, thần thức không rõ ràng, hàm răng cắn chặt, chân tay co rúm, mình mẩy phát sốt hoặc không sốt. Cách chữa: Lấy huyệt Nhân trung, Nội quan, Dũng tuyền. Trước hết lấy kim to đâm vào Nhân trung, dùng hào kim châm vào huyệt Nội quan, Dũng tuyền để cấp cứu lại. Nếu huyết áp tụt xuống thấp thì cứu Bách hội, châm Thái khê thường làm cho huyết áp trở lại bình thường và có thể duy trì được một vài giờ, điều này rất có ý nghĩa cứu nạn. Gia giảm: + Đờm nhiều, gia Phong long. + Sốt cao, gia Đại chuỳ, Thập tuyên. + Co quắp, gia Tứ quan (cả hai Hợp cốc, hai Thái xung gọi là tứ quan). Giảng nghĩa của phương: Phương này chủ yếu là thanh não, tỉnh thần. Châm Nhân trung để tỉnh thần, thần thức tỉnh lại thì bệnh cũng giảm nhẹ. Nội quan là Lạc huyệt củ tâm bào lạc, cũng để thanh tâm, an thần. Dũng tuyền tư thủy giáng nghịch khí. Phong long trừ đờm, đờm mất thì khí cơ thêm thông suốt, thần được thanh. Đại chùy tiết nhiệt. Thập tuyên thông khí 12 kinh và có tác dụng tỉnh thần tiết nhiệt, nhiệt mất thì thần an. Gia Tứ quan để chữa co quắp. Phương huyệt kinh nghiệm đạt hiệu quả cao + Chích Nhĩ tiêm nặn máu để giảm đạm huyết, chống hôn mê gan. + Tả Suất cốc, để giảm ngộ độc axêtôn do say rượu. b. Hư chứng Đột nhiên quay đơ, thần thức không rõ ràng, sắc mặt trắng bợt, mồ hôi vã ra, bàn tay xòe ra, miệng há, đái dầm, chân tay mát lạnh, thở ra yếu. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 16
  18. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y Cách chữa: Lấy các huyệt Khí hải, Thần khuyết, Túc tam lý, Bách hội. Bốn huyệt trên đều dùng điếu ngải cứu, hoặc cứu cách gừng từ 5 đến 15 phút. Giảng nghĩa của phương: Phương này chủ yếu là hồi dương cố thoát. Cứu Khí hải, Thần khuyết để hồi dương, cứu Bách hội để nâng dương khí lên, cứu Túc tam lý để ôn bổ tỳ vị, làm cho hồi dương, tứ chi ấm áp, dứt mồ hôi. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 17
  19. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 9. Choáng (hưu khắc) Choáng thường do các bệnh nghiêm trọng hoặc ngoại thương gây ra, chủ yếu là sắc mặt trắng nhợt, tay chân lạnh, mồ hôi lạnh nhớt như dầu, chân tay mềm yếu không có khí lực, đau thắt ngực, váng đầu, thần thức tỉnh táo hoặc mơ hồ, huyết áp tụt. Cách chữa: Lấy huyệt Nhân trung, Nội quan, Bách hội, Tố liêu. Trước hết châm Nhân trung mấy lần (có cách thời gian), nếu hiệu quả không tốt, gia thêm Nội quan. Huyệt Bách hội lấy kim ba cạnh đâm nhẹ 2 đến 3 phân, nếu huyết áp không lên, dùng huyệt Tố liêu làm thủ pháp vừa và mạnh. Giảng nghĩa của phương: Phương này chủ yếu là hồi dương, tỉnh thần. Dùng Nhân trung để tỉnh thần. Nội quan, Tố liêu để hồi dương, nâng huyết áp. Bách hội khai thượng tiêu, thanh khiếu, thanh đầu mắt. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 18
  20. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 10. Trúng gió Trúng gió cũng là "Tốt trúng", phần nhiều là người già và người béo hay mắc bệnh này. Thường thường do tình cảm không thoải mái dẫn đến can dương thiên vượng(*), hoặc do uống rượu nhiều sinh đờm, hóa nhiệt, do thân thể gầy yếu hoặc cảm thụ phong hàn gây ra. Khi mắc bệnh, đột nhiên té ngã, hôn mê không biết gì, kèm theo có các chứng: Miệng, mắt méo lệnh, bán thân bất toại. Châm cứu có tác dụng cấp cứu. Khi cần thiết phải kết hợp Đông, Tây y để xử trí. Căn cứ vào nguyên nhân và cơ thể chế bệnh khác nhau, có thể chia ra hai loại: Bế chứng và thoát chứng. a. Bế chứng (thực chứng) Phần lớn do khí hỏa xung ngệich, đàm trọc tỏa thịnh, chứng sẽ thấy là: Hai mắt trợn ngược, hàm răng cắn chặt, hai tay nắm rất chắc, trong họng có tiếng đờm như kéo cưa, sắc mặt đỏ, tiếng thở hít to, đại tiểu tiện bí. Cách chữa: Lấy huyệt Nhân trung, Thập tuyên, Hợp cốc, Bách hội. Trước hết lấy kim ba cạnh chích máu Nhân trung, Thập tuyền; dùng hào kim châm huyệt Bách hội và Hợp cốc, đều dùng tả pháp, lưu kim 10 đến 15 phút. Gia giảm: + Đờm nhiều, gia Phong long, Xích trạch. + Miệng mắt méo lệch, gia Địa thương, Giáp xa, Hạ quan. + Nóng nhiều, gia Đại chuỳ, Khúc trì. + Thần chí mơ màng, gia Thần môn. + Tứ chi co rúm, gia Kiên ngung, Dương lăng tuyền. + Bán thân bất toại, gia Hoàn khiêu, Dương lăng tuyền, Huyền chung, Ủy trung. Giảng nghĩa của phương: Phương này để bình can(*), dập tắt phong, khai khiếu, tiết nhiệt. Cơ chế bệnh bế chứng là do âm dương bế tắc, nghịch loạn, lấy Thập tuyên để tuyên khiếu khai bế( ). Hợp cốc thì sơ điều khí âm, dương. Bách hội là chỗ hội của chư dương, Nhân trung điều đốc mạch, do đó đều có tác dụng thanh hỏa, tiết nhiệt của mọi thứ dương khí. Gia Phong long, Xích trạch để thanh nhiệt, trục đờm. Địa thương, Giáp xa, Hạ quan điều kinh khí ở mặt. Đại chuỳ, Khúc trid để tiết nhiệt, Thần môn tiết nhiệt, tỉnh thần chí. Kiên ngung, Dương lăng tuyền để lưu khí huyết, thông kinh lạc. Hoàn khiêu, Huyền chung, Ủy trung có tác dụng thư gân, hoạt huyết thông lạc. b. Thoát chứng (hư chứng) Do chân khí suy yếu, nguyên dương bạo thoát, nên miệng há, mắt nhắm, hai tay xoè, đái dầm, chân tay lạnh, hít thở yếu, hoặc trên người ra những giọt mồ hôi to. (*) Can dương thiên vượng: Nhiệt ở gan có xu hướng tăng lên. (*) Bình can: Dẹp khí ở can nghịch loạn. ( ) Tuyên khiếu khai bế: Thông cửa chủ yếu của tạng phủ, mở chỗ bị tắc. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 19
  21. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y Cách chữa: Lấy huyệt Quan nguyên, Khí hải, Thần khuyết, Tam âm giao, Nhân trung. Dùng mồi ngải cứu Quan nguyên, Khí hải, Thần khuyết (cứu cách muối), Tam âm giao, mỗi chỗ cứu 10 mồi, châm huyệt Nhân trung. Nếu có đái dầm, cứu Bách hội, lại châm Thận du, dùng phép bổ. Giảng nghĩa của phương: Lấy Quan nguyên, Khí hải, Thần khuyết, Tam âm giao để bồi thêm nguyên khí, làm giảm khí âm, hồi khí dương và giữ không cho thoát. Lấy Nhân trung để thông điều đốc mạch, khai khiếu tỉnh thần. Cứu Bách hội để nâng dương khí lên. Châm Thận du để bổ ích thận khí. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 20
  22. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 11. Miệng mắt méo lệch Miệng mắt méo lệch gọi là "liệt mặt", "thần kinh mặt tê bại". Phong hàn thấp gây ra liệt mặt, thường phát sinh sau một đêm bị nhiễm lạnh hoặc bị ẩm thấp, ngày thứ hai mới phát hiện ra. Một bên mí mắt không thể nhắm được, chảy nước mắt, không thể chau mày, nếp nhăn ở trước trán mát đi, cơ bên mặt bị liệt nhẽo ra, cảm thấy vướng, góc mép trễ xuống và lệch về bên lành, có thuyết gọi là "lậu phong" vì miệng chảy nước dãi, đồ ăn lưu ở bên má có bệnh. Cách chữa: Lấy huyệt Địa thương thấu Giáp xa, Tứ bạch, Dương bạch, Hợp cốc. Dùng hào kim châm Địa thương, Giáp xa. Huyệt Tứ bạch châm dưới da từ trên xuống. Dương bạch châm thấu Ngư yêu. Đều dùng thủ pháp bình bổ, bình tả. Hợp cốc dùng tả pháp. Mỗi ngày hoặc cách ngày châm một lần. Những người bệnh khó kéo về cân được, có thể gia thêm Địa thương thấu Nhân trung, hoặc Địa thương thấu Thừa tương ở bên không méo có thể thu được hiệu quả. Bị gió lạnh thì gia cứu hoặc chườm nóng. Gia giảm: • Chảy nước mắt thì gia huyệt Tình minh. • Khó nhai đồ ăn thì gia huyệt Hạ quan. • Mắt khó nhắm thì gia Dương bạch thấu Ngư yêu. Giảng nghĩa của phương: Phương này chủ yếu là khử phong để dễ thông kinh khí. Dùng Địa thương, Giáp xa, Tứ bạch, Dương bạch để điều kinh khí ở mặt, phối Hợp cốc để điều kinh khí ở kinh gốc ấy. Kinh khí dễ thông mà phong tự mất. Nếu bị gió nhẹ gây ra thì dùng ngải cứu chườm nóng để ôn kinh, tán hàn(*) làm cho khí huyết dễ thông, gân mạch được nuôi dưỡng. Tình minh, Hạ quan, Dương bạch thấu Ngư yêu đều là đối chứng cục bộ mà lấy huyệt. (*) Ôn kinh tán hàn: Ấm kinh mạch, tan khí lạnh. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 21
  23. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 12. Chứng giản (động kinh) Chứng giản (động kinh) thường gọi là "dương giản phong" còn gọi là "điên giản". Bệnh xuất hiện từng cơn. Đột nhiên mất ý thức, kèm chân tay co quắp, cơn thường lặp đi lặp lại. Ngoài tính chất bẩm sinh, phần lớn lúc mới sinh có co giật để lại di chứng. Khi phát cơn đột nhiên ngã nhào, hôn mê không biết gì, sắc mặt trắng bợt, hàm răng cắn chặt, tay chân co quắp, mắt trợn ngược, miệng mũi đờm dãi, có khi trong mồm phát ra tiếng như dê, lợn kêu, sau một lúc lâu sẽ tự tỉnh lại, khi tỉnh lại thì như người bình thường. Trước lúc phát cơn thấy căng đầu, mệt mỏi. Cơn phát không có qui luật nhất định, có khi mấy năm một lần, có khi mấy ngày một lần, có khi mấy tháng mấy lần. Cách chữa: Châm cứu đối với động kinh có tác dụng giảm bớt số lần, đối với cơ nhỏ có thể chữa khỏi. Nếu lên cơn liên tục có thể lấy để cấp cứu. • Phương 1: Thương bạch, Dũng tuyền. Khi lên cơn lấy dây mềm buộc ép chặt hai ngón tay cái tay, chân người bệnh lại ngay ngắn, mồi ngải đặt trùm lên chỗ hai gốc móng (của từng đốt ngón tay hoặc chân), cứu đồng thời trên dưới, liên tiếp một số mồi sẽ tỉnh lại. Lại cứu huyệt Dũng tuyền 4 hay 5 mồi. • Phương 2: Đại chuỳ, Bách hội, Nhân trung, Gian sử. Các huyệt trên dùng hào kim mà châm, lưu kim 20 phút. Đại chuỳ, Bách hội châm xong thì gia cứu. Các huyệt khác như Phong phủ, Giáp xa, Thừa tương, Thần môn, Khúc trì, Phong long, Hậu khê đều có thể tuỳ chứng mà chọn để châm thêm. Giảng nghĩa của phương: Thương bạch và Dũng tuyền là phương huyệt kinh nghiệm tốt, có tác dụng khai khiếu tỉnh lại cơn ngất; Bách hội tỉnh não; Nhân trung, Gian sử tỉnh thần; Đại chuỳ thanh tiết phong dương(*), ninh thần, tỉnh não. (*) Phong dương: Phong do nhiệt mà thành. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 22
  24. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 13. Nấc Nấc chủ yếu là do vị khí xung lên, khí đến giữa hầu thì phát ra tiếng nấc, tiếng nấc ngắn, liên tục. Chứng trạng này nếu tự nhiên sinh ra có thể không cần chữa cũng tự nhiên mất đi, nếu kéo dài cơ thì phải chữa. Cách chữa: Lấy huyệt Nội quan, dùng hào kim châm. Thầy thuốc lệnh cho bệnh nhân hít vào thì tiến kim, ngón cái vê mạnh về phía trước, tiến sâu 5 phân, lui kim ra ba phân, lệnh cho người bệnh thở ra; lại tiến kim và lui kim theo hơi thở như trên, 3 lần; rồi lưu kim 10 đến 15 phút. Nếu không dứt có thể gia các huyệt Thái khê, Cách du, Ách nghịch hoặc Nhân trung. Giảng nghĩa của phương: Nội quan giải cơn co thắt cơ hoành, hòa vị. Thái khê ôn dương, tán hàn. Cách du, Ách nghịch có tác dụng giáng khí, hòa trung. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 23
  25. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 14. Nôn mửa Nôn mửa là một triệu chứng của rất nhiều bệnh. Nôn mửa thường do ngoại cảm, ăn uống không giữ gìn, đồ ăn uống tích trệ, can khí không thư và trong vị ứ nước nhiều quá gây ra. Trên lâm sàng thường chia ra hai loại hàn và nhiệt. • Nhiệt thổ: Sau khi ăn một tí là nôn ra, vật nôn có mùi hôi, nóng, chua, đắng, kiêm miệng hôi, khát, tiểu tiện ít, vàng, đại tiện táo bón. • Hàn thổ: Ăn xong sau một thời gian rất dài mới nôn, nôn ra dãi trong, sợ lạnh, thích ấm, đại tiện phân nát, toàn thân mỏi mệt không có khí lực. Cách chữa: Lấy huyệt Khúc trì, Nội quan, Túc tam lý. Trước hết lấy hào kim châm Khúc trì, Nội quan, đều dùng tả pháp. Sau đó lại châm Túc tam lý, chếch xuống dưới vê chuyển tiến kim, thủ pháp bình bổ, bình tả, lưu kim 30 phút. Gia giảm: Nhiệt thổ gia Hợp cốc, Ủy trung. Hàn thổ gia Tỳ du, Trung quản, Khí hải. Sau khi châm dùng cứu cách gừng hoặc sao muối chườm ở bụng. Nôn không dứt gia chích máu ở Kim tân, Ngọc dịch. Giảng nghĩa của phương: Phương này chủ yếu là giáng vị khí, dứt nôn. Huyệt Khúc trì thanh thấp nhiệt(*) ở ngực và cách; phối Nội quan để thông xướng trung tiêu, phối Túc tam lý để dẫn vị hỏa xuống dưới. Nhiệt thổ gia Hợp cốc để tiết nhiệt ở thủ dương minh, Ủy trung để tiết nhiệt ở phần huyết. Hàn thổ gia Tỳ du để ôn vận tỳ dương. Trung quản để thông giáng vị khí. Khí hải để ôn dương ở hạ tiêu mà khử hàn thấp. Nếu không dứt, gia Kim tân, Ngọc dịch để tiết nhiệt sinh tân. (*) Thấp nhiệt: Thấp khí gây nóng. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 24
  26. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 15. Đau dạ dày Thường đau ở chính giữa vùng bụng trên, phần nhiều do bị lạnh, nóng, đàm ẩm, no, đói không đều hoặc tức giận quá độ, can khí không thư dẫn đến vị khí bất hòa, sinh ra đau. Bị lạnh mà đau dạ dày thì nôn ra nước trong, hoặc dãi lỏng, ăn xong lâu mới nôn, thích uống nước ấm, sợ lạnh. Bị nhiệt hoặc nhiệt bên trong quá thịnh, thường ăn xong nôn ngay, nôn ra thứ chua, đắng, nóng, hôi, miệng khát đòi uống nước mát, sợ nóng. Đau mà nôn ra bọt dãi, váng đầu, hồi hộp, thường là đàm ẩm, đồ ăn không tiêu hóa, ngực bụng trướng đầy, đau, ăn xong càng đau tăng, khó chịu, ợ hơi. Can khí không thông thì đau buốt xương sườn. Vị khí hư nhược thì vùng dạ dày đau lâm râm, ăn nhiều nhưng thường gầy mòn. Cách chữa: Lấy huyệt Trung quản, Nội quan, Túc tam lý, Vị du. Bốn huyệt trên đều dùng phép nâng ấn tả (nâng mạnh, ấn nhẹ), lưu kim, 30 phút, cách ngày châm 1 lần. Gia giảm: • Nhiệt thì châm, hàn thì cứu Hợp cốc, Nội đình. • Can khí bất thư, gia Thái xung, Dương lăng tuyền. • Tỳ, vị hư hàn, cứu Khí hải. • Đàm ẩm gia Chiên trung, Phong long. • Nhiệt thổ không dứt, gia Kim tân, Ngọc dịch, chích ra máu. Giảng nghĩa của phương: Phương này hòa vị chỉ thống( ), Trung quản, Vị du là phối hợp du, mộ, gia Túc tam lý để thêm công năng thông giáng vị khí. Nội quan có tác dụng tuyên thông khí cơ ở Tam tiêu, điều trung, thư giãn dạ dày. Hợp cốc, Nội đình, tả khí thủ dương minh, túc dương minh để tiết nhiệt, dùng cứu có thể ôn vị, tán hàn. Thái xung, Dương lăng tuyền để bình can mộc hoành nghịch(*). Cứu Khí hải để ôn dương tán hàn, đại bổ trung khí. Phong long vận khí tỳ, vị. Chiên trung điều khí ở mình mẩy, làm khí hành thì hết đau. Kim tân, Ngọc dịch điểm chích ra máu để tiết nhiệt. ( ) Chỉ thống: Dứt đau. (*) Hoành nghịch: Ngang ngược. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 25
  27. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 16. Đau bụng Cả vùng ổ bụng đau, đây là một triệu chứng của rất nhiều bệnh, có khi chỉ gặp lạnh, sinh hơi, thức ăn không tiêu cũng gây đau bụng. Theo nơi đau mà phân thành đau bụng trên, đau quanh rốn, đau bụng dưới. Thông thường, khi chưa tìm ra nguyên nhân chính xác có thể điều trị bằng châm cứu. Sau khi chẩn đoán chính xác, thì căn cứu vào bệnh tình mà chọn cách chữa cho phù hợp. Cách chữa: • Đau bụng trên, lấy huyệt Trung quản, Nội quan, Túc tam lý. Cách châm và gia giảm xem ở bệnh đau dạ dày. • Đau quanh rốn, lấy huyệt: Thiên khu, Khí hải, Túc tam lý. Nếu có sốt chỉ được châm, không cứu, khi không sốt thì cả châm và cứu, hoặc thêm cứu cách muối ở Thần khuyết. Giảng nghĩa của phương: Thiên khu là mộ huyệt của đại trường, có thể điều hòa cơ năng của trường, vị. Khí hải ôn dương khí của hạ tiêu, khử hàn thấp. Túc tam lý điều khí của tỳ, vị. • Đau bụng dưới, lấy huyệt Tam âm giao. Dùng hào kim vê chuyển tiến kim, sâu 6 phân, dùng phép tả (ngón cái hướng phía sau, lui kim lên 3 phân lại vê chuyển tiến kim đến 6 phân, làm lại như thế đủ 3 lần, cuối cùng châm đứng kim sâu 1 thốn), lưu kim 15 đến 20 phút. Nếu châm xong không giảm đau, có thể phối hợp với huyệt ở cục bộ như Khí hải, Quan nguyên, hoặc gia thêm Vị du. Nếu không sốt có thể dùng cả châm và cứu, có thể cứu cách gừng ở Quan nguyên, Khí hải. Đau bụng trên, nhất thiết châm Túc tam lý trước. Đau bụng dưới, nhất thiết châm Tam âm giao trước. Các huyệt ở tay chân thường dùng tả pháp. Các huyệt cục bộ dùng phép bình bổ bình tả. Giảng nghĩa của phương: Tam âm giao điều kinh khí của tam âm. Khí điều thì tà không ngưng trệ nên hết đau. Gia Khí hải để điều khí hành trệ( ). Vị du để hòa trường, vị, tiêu ứ đọng. Quan nguyên đại bổ nguyên khí, chữa chứng đau bụng do hư. ( ) Hành trệ: Làm trôi chảy cái ngưng đọng. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 26
  28. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 17. Tiêu chảy Tiêu chảy còn gọi là "thác dạ". Nếu số lần ỉa tăng lên nhiều, phân lỏng hoặc có lẫn nước dính thì gọi là tiêu chảy. Rất nhiều bệnh có thể gây ra tiêu chảy, thường là do ăn uống không cẩn thận, ăn nhiều đồ ăn tươi sống, hoặc không sạch sẽ, hoặc bị lạnh. Trên lâm sàng chia ra 2 loại: Tiêu chảy cấp tính và tiêu chảy mạn tính. Ngoài ra có một loại gần sáng ỉa chảy cũng thuộc về loại mạn tính. a. Tiêu chảy cấp tính Phát bệnh rất nhanh, đau bụng, mỗi ngày ỉa mấy lần, hoặc nhiều lần, phân lỏng màu vàng nhạt, hoặc có nước trong, có lẫn nhiều thức ăn chưa tiêu hóa được, tiểu tiện ít, đỏ, có thể đau đầu và sốt nhẹ. Cách chữa: Lấy huyệt Trung quản, Thiên khu, Túc tam lý. Ba huyệt trên dùng hào kim vê chuyển tíên kim theo tả pháp, lưu kim 20 phút. Bụng đau nhiều gia cứu Thần khuyết cách muối. Giảng nghĩa của phương: Lấy tăng cường công năng của trường, vị là chính. Trung quản là mộ huyệt của kinh vị. Thiên khu là mộ huyệt của kinh đại trường, vì vậy lấy hai huyệt này có công năng diều hòa vị, trường, làm chi vị, trường khôi phục chuyển hóa bình thường, dinh dưỡng được bổ sung, tăng cường sức chống trị bệnh, tiêu chảy tự dứt. Châm Túc tam lý để khôi phục công năng của tỳ, vị. b. Tiêu chảy mạn tính Bệnh phát chậm tiêu chảy lâu không khỏi, mỗi ngày số lần ỉa ít nhưng ăn xong một tí thì ỉa. Sức ăn giảm dần, bụng đau âm ỉ, ỉa ra đồ chưa tiêu, lẫn nước dẻo hoặc giống như nước mủ. Cách chữa: Lấy huyệt Trung quản, Thiên khu, Tỳ du, Vị du, Túc tam lý. Các huyệt trên đều cứu cách gừng. Nếu phân có lẫn ít máu thì gia cứu Mệnh môn. Giảng nghĩa của phương: Trung quản, Thiên khu và Túc tam lý châm bổ và cứu làm cho công năng của tỳ, vị được khôi phục bình thường. Tỳ du, Vị du làm mạnh thêm công năng vận hóa của tỳ, tăng cường sức đề kháng. c. Gần sáng ỉa chảy Là một loại tiêu chảy mạn tính. Khi trời gần sáng, bụng dưới đau, kế theo đó là đi ỉa 1 lần, bụng lạnh, có khi bụng trướng, chân lạnh. Cách chữa: Lấy huyệt Chiếu hải, Khí hải, Thận du, Quan nguyên. Dùng hào kim châm Chiếu hải, Khí hải, Thận du, đều dùng bổ pháp, lưu kim 30 phút. Thời gian lưu kim vê chuyển 3 lần. Mỗi ngày hoặc cách ngày châm một lần. Khí hải và Thận du châm xong gia cứu Quan nguyên cứu cách gừng. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 27
  29. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y Giảng nghĩa của phương: Phương này lấy ôn bổ thận dương làm chính. Bổ Chiếu hải, Quan nguyên, Thận du, hoặc dùng ngải cứu để tăng công năng thận khí. Thận dương sung túc(*) mới có thể ôn dưỡng tỳ, vị, tăng sức vận hóa của trường, vị, chính khí vượng thịnh thì bệnh sẽ tự trừ. (*) Sung túc: Dồi dào, đầy đủ. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 28
  30. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 18. Bệnh lỵ Bệnh lỵ là một bệnh truyền nhiễm đường ruột, thường thấy vào giữa mùa hạ và mùa thu. Phần nhiều do không chú ý giữ gìn vệ sinh ăn uống, ăn phải thức ăn ôi thiu và hoa quả sống lạnh, hoặc bị hàn, thẻ, thấp tà mà dẫn đến bệnh. Triệu chứng chủ yếu là đi ỉa, mỗi ngày mấy lần, có khi mấy chục lần, bụng đau quặn từng cơn, ở hậu môn nặng tức khác thường, giống như mót ỉa, nhưng ỉa không nhiều, phân có nhầy trắng, nhầy đỏ, có khi trắng đỏ lẫn lộn. Nhầy trắng nhiều gọi là bạch lỵ, nhầy đỏ nhiều gọi là xích lỵ. Cách chữa: Lấy huyệt Trung quản, Thiên khu, Túc tam lý. Cả ba huyệt trên dùng hào kim châm, vê chuyển tiến kim, dùng phép bình bổ, bình tả, lưu kim 30 phút, mỗi ngày châm 1 lần. Gia giảm: • Có cơn nóng lạnh, gia Đại chùy, Hợp cốc, Khúc trì. • Đau bụng nhiều, gia Thái xung, Chi câu. • Đau đầu, gia Phong trì, Bách hội. • Nhầy trắng nhiều thì trong khi lưu kim cần cứu thêm Thiên khu. • Lòi dom, gia cứu Bách hội. • Nếu không sốt mà số lần đi nhiều, có thể cứu cách muối ở Thần khuyết. Giảng nghĩa của phương: Phương này chủ yếu là thanh điều khí ở đại trường. Trung quản là hòa vị khí để hóa thấp, giáng trọc. Thiên khu, Túc tam lý để điều chỉnh chức năng của trường, vị làm cho chức năng của tỳ, vị trở lại bình thường, thải nhiệt độc, bệnh lỵ tự hết. Gia Đại chuỳ, Hợp cốc, Khúc trì để thanh nhiệt, giải biểu. Thái xung để điều kinh ở can kinh. Chi câu thông tiện, Bách hội để thăng thanh dương khí( ), phong trì để khử phong. Cứu Thiên khu để ôn tán hàn thấp, cứu Bách hội để trị hư khí hạ hãm( ), cứu Thần khuyết để cố nguyên hồi dương( ). ( ) Thăng thanh dương khí: Đưa khí nóng ấm sạch sẽ lên. ( ) Hư khí hạ hãm: Khí yếu đuối bị kẹt ở dưới. ( ) Cố nguyên hồi dương: Giữ chắc nguyên khí, làm dương khí phục hồi. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 29
  31. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 19. Thổ tả Thổ tả là loại bệnh vừa nôn vừa ỉa chảy cùng một lúc, bệnh do công năng của trường vị bị rối loạn gây ra, thường phát sinh về mùa hạ, mùa thu. Đặc điểm lâm sàng là: Tự nhiên miệng nôn, trôn tháo, nước dãi trắng trong, bụng đau dữ dội, miệng môi xanh nhợt nhạt, chân tay lạnh ngắt, trên mình vã mồ hôi nhớt như dầu, hoặc hôn mê bất tỉnh, chân tay co quắp. Cách chữa: Lấy huyệt Túc tam lý, Trung quản, Nội quan, Hợp cốc, Thiên khu. Các huyệt kể trên đều dùng hào kim vê chuyển tiến kim thủ pháp bình bổ bình tả, lưu kim 30 phút. Gia giảm: • Nếu chân tay lạnh giá, ra nhiều mồ hôi, gia cứu Quan nguyên, Khí hải. • Bụng đau không dứt, châm Khí hải, Tam âm giao, Dương lăng tuyền. • Mê mệt bất tỉnh, gia châm Ngoại quan, Nhân trung, Nội đình, Thái xung. • Nếu phát sốt, miệng khát, bứt rứt không yên, gia châm Ủy trung, Thập tuyên xuất huyết. • Bắp chân co rút, gia châm Côn luân, Thừa sơn. Giảng nghĩa của phương: Túc tam lý, Trung quản, Thiên khu có thể lưu điều trung khí, thanh hòa trướng, vị, để dứt nôn, chữa tháo. Nội quan thư giãn lồng ngực, cơ hoành, ổn định bụng dạ. Phối Hợp cốc để khử tà ở ngực và bụng. Gia cứu Khí hải, Quan nguyên để tán hàn, giữ nguyên khí. Tam âm giao điều kinh khí. Dương lăng tuyền để thư giãn gân. Ngoại quan, Nhân trung, Nội đình, Thái xung, Ủy trung sơ tiết khí thái dương kinh để tiết nhiệt tà và thanh nhiệt trong máu. Thập tuyên để tỉnh thần, tiết nhiệt. Côn lôn, Thừa sơn để lưu thông kinh khí mà dứt đau. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 30
  32. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 20. Sốt rét Sốt rét thường phát sinh vào mùa thu, do muỗi truyền. Khi phát cơn, trước hết sợ lạnh, lạnh phát thành cơn rét rồi lại phát cơn nóng, sau đó toàn thân ra mồ hôi. bệnh phát có thời gian nhất định, có loại mỗi ngày mọt lần, có loại cách ngày một trận, có loại 3 ngày một trận. nên kết hợp Đông, Tây y để cứu chữa. Cách chữa: • Phương 1: Lấy huyệt Đại chùy, Gian sử, Hậu khê. Trước cơn sốt vài giờ, dùng hào kim châm huyệt Đại chùy, chếch mũi kim lên, sâu 5 phân hoặc 6 phân, gây cảm giác tê, cứu cán kim 2 hay 3 mồi (ôn châm), tiếp theo dùng hào kim châm 2 huyệt Gian sử và Hậu khê, vê chuyển tiến kim theo thủ pháp bình bổ bình tả, đều lưu kim 30 phút. Gia giảm: + Nôn mửa, gia huyệt Trung quản, Nội quan. + Đau bụng, gia Trung quản, Túc tam lý. + Đau đầu dữ dội, gia Bách hội, Phong trì. + Nếu sốt rét lâu ngày gầy yếu, hạ sườn trái có báng (sưng lá lách) thì cứu thêm Tỳ du, Túc tam lý. • Phương 2: Lấy A thị huyệt. Trước khi lên cơn sốt vài giờ, bảo người bệnh cởi áo, ngồi ngay ngắn, thầy thuốc dùng hai ngón tay cái và trỏ ấn dọc hai bên gai sống, cách đều giữa là mọt thốn, bắt đầu từ Đại chuỳ ấn xuống, ấn tới đâu thấy cảm giác khí chịu nhất, đấy là huyệt, dùng hào kim châm sâu 3 đến 5 phân, cứu 7 mồi. Phương huyệt kinh nghiệm đạt hiệu quả cao • Sốt sưng lá lách (kể cả tới số 3 số 4), ôn châm hoặc cứu các huyệt: Tỳ du, Bĩ căn, hương môn, Công tôn. • Sốt thể lạnh, hạ thân nhiệt dưới 35,5oC, cứu Thái khê, Côn lôn. • Châm A thị huyệt như kể trên xong, châm tả Khúc trì, Huyết hải. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 31
  33. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 21. Táo bón Táo bón là đi đại tiện không thoát, phải từ 3 đến 5 ngày, hoặc lâu hơn nữa mới đại tiện một lần, hoặc đại tiện rất khó ra phân, phải cố sức rặn mới ra. Táo bón thường xuất hiện trong khi mắc các bệnh nhiệt chứng, cũng có khi xuất hiện đơn độc. Châm cứu là biện pháp điều trị táo bón rất hiệu nghiệm. Cách chữa: Lấy huyệt Chi câu, Chiếu hải. Huyệt Chi câu vê chuyển tiến kim. Chiếu hải hướng vào giữa gầm bàn chân châm đứng kim, vê theo thủ pháp bình bổ bình tả, có cảm giác tê buốt thì ngừng vê. Lưu kim 30 phút. Giảng nghĩa của phương: Chi câu có thể tuyên thông khí cơ tam tiêu. Chiếu hải bổ thận thủy để trị chứng táo bón có hiệu quả. Phương huyệt kinh nghiệm đạt hiệu quả cao • Táo bón lâu dài, châm bổ Đại chung sẽ thông. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 32
  34. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 22. Đại tiện ra máu Đại tiện ra máu có hai loại, ra máu trước phân và đại tiện xong ra máu. Loại ra máu trước phân, máu thường đỏ tươi hoặc đục mà phân không rắn, hoặc hậu môn sưng đau là trong ruột có nhiệt. Loại đại tiện phân trước máu sau, máu xám tím bầm, trong bụng đau lâm râm, tinh thần mệt mỏi, lười nói, phân nát, sinh ra do có bệnh lâu dài, cơ thể yếu. Cách chữa: Lấy huyệt Mệnh môn, Thiên khu, Trường cách, Cách du, Thận du. Trước hết lấy các huyệt Mệnh môn, Thận du, đều cứu 7 mồi. Cách du cứu 10 mồi. Lại dùng hào kim châm huyệt Trường cường, mũi kim chếch lên, châm xong gia cứu 10 mồi, cách hai ngày châm cứu một lần. Nếu hậu môn sưng đau, chỉ châm không cứu. Giảng nghĩa của phương: Thiên khu là huyệt chủ yếu để thông tiết khí ở đại trường. Trường cường có tác dụng sơ tiết khí uất trệ(*) ở hậu môn. Huyết hội là Cách du, lấy huyệt này để bổ huyết. Mệnh môn, Thận du để bồi nguyên cố bản( ), làm cho khí huyết sung túc mà huyết tự giữ vững. Phương huyệt kinh nghiệm đạt hiệu quả cao • Ỉa ra máu tươi, cứu Yêu Dương quan 10 mồi. (*) Uất trệ: Bị vướng bí mà đọng lại một cách khó chịu. ( ) Bồi nguyên cố bản: Bồi bổ nguyên khí để giữ gốc được chắc. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 33
  35. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 23. Viêm ruột thừa Viêm ruột thừa là trong ruột sinh ra mụn nhọt (viêm loét), thường do ăn uống không giữ gìn, hoặc ăn phải vật tươi sống, làm cho thức ăn bị trệ vướng trong ruột, vận chuyển khó khăn, khí cơ bị vây hãm. Cũng có khi do vấp ngã tổn thương, làm cho đoạn ruột bị thương có máu ứ ở trong gây ra. Triệu chứng chủ yếu là bụng dưới đau, lúc đầu thường ở bụng trên, hoặc chung quanh rốn, sau chuyển sang đau đoạn ruột non bên phải. Lấy tay sờ vào đau tăng lên dữ dội, da bụng căng nhanh rõ rệt, không trở mình được, đùi phải co không duỗi được, chỉ muốn co mà nằm nghiêng, nếu kéo chân ra phía sau thì đau càng tăng. Cần ưu tiên xử trí bằng Tây y, cách chữa này chỉ để tham khảo khi cần. Cách chữa: Lấy huyệt Lan vỹ, Quan nguyên, Túc tam lý, dùng hào kim châm Túc tam lý, vê chuyển tiến kim theo pháp bình bổ bình tả, lưu kim 20 đến 30 phút. Cứ 5 phút vê kim một lần, châm xong lấy muối sao bọc vải chườm huyệt Quan nguyên, chườm nhiều lần, nguội thì sao lại. Mỗi ngày theo phép trên châm chữa một vài lần, làm đến khi nào dứt bệnh mới thôi. Gia giảm: • Bụng đau nhiều, gia huyệt Thiên khu. • Nôn mửa nhiều, gia huyệt Nội quan, đều theo phép tả, lưu kim 1 giờ, cứ 15 phút vê kim một lần. • Bệnh tình nghiêm trọng, phải châm ra máu ở các huyệt Khúc trì, Ủy trung. • Có sốt, gia huyệt Khúc trì. Giảng nghĩa của phương: Phương này chủ yếu là thanh nhiệt tiêu sưng, tán ứ, dứt đau. Viêm ruột là do khí cơ của đại trường bất hòa, huyết dịch ngưng ứ sinh viêm, vì vậy lấy Lan vỹ để lưu dẫn khí ở thủ túc dương minh kinh và phủ. Túc tam lý để thanh tiết uất nhiệt ở trường phủ. Quan nguyên để điều bổ chính khí, làm cho chính khí vượng thịnh, thì bệnh tự trừ. Lấy mộ của Đại trường là Thiên khu để tuyên thông khí cơ ở trường phủ. Lấy Nội quan để sơ thôg lồng ngực và cơ hoành. Châm Khúc trì và Ủy trung để tiết nhiệt tà mà giữ tân dịch. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 34
  36. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 24. Chứng bại liệt Bắp thịt hoặc khớp xương đau buốt, tê dại gọi là bại. Bại cũng có nghĩa là tà khí bế tắc và khí trệ. Chứng bại phần lớn là sinh ra do bị cảm gió lạnh hoặc ở lâu nơi ẩm thấp. Do mức độ cảm thụ ba khí: Phong, hàn, thấp khác nhau, cho nên phân ra như sau: Nếu phong khí nặng gọi là phong bại, nếu hàn khí nặng gọi là hàn bại (đau bại), nếu thấp khí nhiều gọi là thấp bại. Đau lung tung khắp tứ chi, nơi đau không cố định gọi là Phong bại. Đau nửa người hoặc đau cục bộ, có nơi đau cố định, chườm nóng hoặc hơ nóng giảm đau, những ngày trời âm u đau tăng gọi là Thống bại. Da thịt tê bại, đau các khớp chân tay, đau một chỗ nhất định, nhạy cảm với thời tiết gọi là Thấp bại. Nếu các khớp sưng đỏ, nóng, đau, chườm mát tháy dễ chịu hơn gọi là Nhiệt bại. Cách chữa: Căn cứ vào nơi đau và theo kinh mà lấy huyệt đường xa là chính. Lấy huyệt: • Đau vai: Kiên ngung, Khúc trì, Ngoại quan. • Đau khuỷu tay: Xích trạch, Khúc trì, Hợp cốc, Ngoại quan. • Đau cổ tay: Dương trì, Liệt Khuyết, Chi câu, Dịch môn. • Đau ngón tay: Hợp cốc, Hậu khê. • Đau cột sống: Thận trụ, Thận du, Ủy trung, Côn lôn (Côn luân). • Đau hông: Hoàn khiêu, Ủy trung, Dương lăng tuyền. • Đau mắt cá: Giải khê, Côn lôn. • Đau bàn chân: Thái khê, Côn lôn, Thái xung. Gia giảm: • Phong bại, gia Huyết hải, Cách du. • Thống bại, gia Thận du, Quan nguyên. • Thấp bại, gia Túc tam lý. • Nhiệt bại, gia Đại chùy, Khúc trì, A thị huyệt. Thủ pháp: Nhiệt bại và Phong bại dùng tả pháp châm nông. Đau bại hay dùng phép cứu hay phép tả. Nếu đau dữ dội có thể cứu cách gừng. Thấp bại cũng vừa châm vừa cứu, nhưng nếu sưng nóng, đỏ đau thì châm mà không cứu. Giảng nghĩa của phương: Bệnh này chủ yếu căn cứ vào bệnh thuộc nơi nào, theo đường kinh tuần hành mà lấy huyệt để lưu thông sự tắc trệ của khí huyết kinh lạc. Làm cho kinh khí dễ lưu thông, cơ thể có sức khoẻ thì ba thứ tà Phong, Hàn, Thấp không còn chỗ nương tựa, bệnh bại được giải. Bệnh ở da thịt thì châm nông, bệnh ở gân, xương thì châm sâu và lưu kim, tuỳ theo chứng mà biến hoá, xận dụng các cách châm khác nhau và cách thao tác khác nhau. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 35
  37. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y Cách du, Huyết hải là huyệt chủ yếu để hoạt huyết mà trị phong thấp theo nguyên lý: "Trị phong, tiên trị huyết; huyết hành, phong tự diệt", Thấp bại lấy Túc tam lý vì thấp thuỷ đình lưu tất nhiên trước hết do tỳ khí không vận, tỳ chủ tứ chi, vận tỳ là chữa thấp từ gốc, cho nên lấy kiện vận(*) tỳ, vị mà hoá thấp; đến khi đau lại kéo dài, dương khí tất sẽ suy, phối hợp cứu Quan nguyên, Thận du để giúp nguồn của hoả, dương khí mạnh mẽ sẽ đuổi hàn tà. Nhiệt bại gia Đại chuỳ, Khúc trì để thanh nhiệt, giải biểu. (*) Kiện vận: Đưa đầy khỏe. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 36
  38. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 25. Đau lưng Đau lưng chủ yếu là đau một vùng lưng. Nguyên nhân gây bệnh có rất nhiều thường do bị gió lạnh, bị ẩm thấp, bị chấn thương ảnh hưởng đến vướng tắc bên trong hoạc do thận hư, không thể nuôi dưỡng gân xương mà gây ra. Cách chữa: • Phương 1: Thận du, Uỷ trung, Thừa sơn. Cả 3 huyệt trên đều dùng hào kim châm đứng, theo tả pháp, lưu kim 30 phút. Bệnh đã lâu ngày, châm xong gia cứu. Nếu do bong gân hoặc chấn thương mà đau lưng thì dùng kim ba cạnh chích ra máu huyệt Uỷ trung. Nếu đau lan xuống đùi, chân thâm huyệt Hoàn khiêu. Đau cứng thắt lưng và lưng trên, châm thêm huyệt Nhân trung, Yêu du. Nếu thận hư đau lưng, cứu huyệt Mệnh môn. Giảng nghĩa của phương: Lưng là phủ ngoài của thận, châm cứu Thận du không những trừ khử hàn thấp ở lưng mà còn điều ích thận khí. Mạch bàng quang kẹp cột sống đến tận xương cùng, có nhanh sang thận, châm Uỷ trung là thông qua kinh bàng quang mà tác dụng vào chỗ đau, lại cùng với Yêu du thông qua đốc mạch mà tuyên dương khí, do đó có tác dụng dứt đau. Cạnh ngoài chân, đùi có liên quan đến đảm kinh, vù lấy huyệt Hoàn khiêu để tuyên thông kinh khí mà dứt đau. Nhân trung điều đốc mạch để giải trừ tà khí ở dương kinh. Cứu Mệnh môn để bổ chân dương(*) ở trong thận, là phương pháp trị gốc về thận hư đau lưng. • Phương 2: Điều sơn. Dùng hoà kim châm thẳng từ huyệt điều khẩu (ở kinh vị) tiến kim hướng về huyệt Thừa sơn (bàng quang kinh), vê chuyển cho mũi kim tới dưới da huyệt Thừa sơn, dùng thủ pháp vê kim, nâng ấn kim, làm cho cảm giác tê buốt lan đến lưng. Lưu kim 10 phút. Phép này cũng có thể chữa được cánh tay đau. (*) Chân dương: Chân khí về nóng ấm. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 37
  39. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 26. Đau sườn ngực Là bệnh đau giữa ngực và đau hai bên sườn, thường kèm theo khó chịu, buồn bã ở ngực, thở hít khó, kém ăn, không thở sâu được, không ho to tiếng được. Tâm trạng không thoải mái, khí huyết vận hành khó, hoặc vấp ngã, va đập, huyết ứ đình trệ, đều có thể gây ra đau sườn, ngực. Cách chữa: • Phương 1: Lấy huyệt Chi câu, Thái xung, Ngoại quan. Dùng kim châm, làm thủ pháp bình bổ, bình tả, lưu kim 30 phút. Dứt đau thì rút kim, hoặc gia thêm Túc khiếu âm. Giảng nghĩa của phương: Phương này sơ điều kinh khí của can đảm. Can và đảm cùng biẻu lý mạch huyết âm và thiếu dương đều ở ngực, sườn. Do vậy mà Thái xung, Ngoại quan phối hợp để sơ tiết can khí, tả chi câu để điều khí cơ, làm cho khí huyết thông dẫn, bệnh tật tự khỏi. • Phương 2: Lấy huyệt Nội quan. Dùng hào kim vê chuyển tiến kim và nâng ấn, lưu kim 30 phút, mỗi ngày châm một lần, để giãn nở lồng ngực, giải cơ hoành, điều hoà vị. • Phương 3: Lấy huyệt Ngư tế. Ở khu vực huyệt Ngư tế, tìm cho ra điểm ấn đau, dùng hào kim châm đứng, sâu 6 đến 8 phân, lưu kim 30 phút, mỗi ngày châm một lần, để thanh tiết nội nhiệt. Trên lâm sàng, đau cả lồng ngực và các bộ phận trong lồng ngực thường châm Nội quan. Đau vùng ngực thường châm Ngoại quan. Đau sườn thường châm Chi câu. Lồng ngực và nội tạng can, tỳ đau, gia huyệt Can du, Đảm du. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 38
  40. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 27. Đái dầm Đái dầm là bệnh tiểu tiện không chủ động được, nước tiểu tự ra khi ngủ. Trên lâm sàng chia làm hai loại: Đái dầm trong lúc ngủ, ở những trẻ yếu, từ 4-5 tuổi đến dưới 15 tuổi. Nếu số lần đái dầm nhiều, khoảng cách thời gian ngắn, hoặc són luôn không dứt, không thể tự chủ được, gọi là đái không cầm. Bệnh này cũng thường thấy ở người già hay những người yếu sau các trận ốm nặng. Đái dầm lâu ngày không khỏi, mặt vàng, bắp thịt gầy, ăn kém, tinh thần uể oải, trí nhớ giảm. Cách chữa: Lấy huyệt Tam âm giao, Đại đôn, Bách hội, Trung cực. Các huyết trên dùng hào kim. Tam âm giao, Trung cực dùng bổ pháp, lưu kim 1 giờ. Bách hội và Đại đôn không lưu kim, Đại đôn, Bách hội, Trung cực châm xong thì cứu. Giảng nghĩa của phương: Bệnh này có quan hệ mật thiết với ba kinh âm ở chân, vì vậy lấy Tam âm giao để điều khí ở ba kinh âm, để dứt đái dầm. Kinh túc quyết âm can tụ khí ở bôn máy sinh dục vì thế lấy Đại đôn tiết khí ở can kinh. Bách hội có thể nâng trung khí hạ hãm(*). Trung cực là mộ huyệt của bàng quang, có tác dụng làm tăng cơ năng của bàng quang. Châm cứu nhiều lần bốn huyệt kể trên làm cho thận khí đầy đủ, cơ năng bàng quang được kiện toàn, khôi phục tiểu tiện bình thường. Phụ chú: Trong thời ký chữa bệnh phải định kỳ thời gian gọi trẻ thức, cho đi tiểu, về chiều cho trẻ uống ít nước để giảm nhẹ sự chịu đựng của bàng quang, ban ngày không để trẻ chơi quá mệt, phải gây thành thói quen đi tiểu để củng cố kết quả chữa. Phương huyệt kinh nghiệm đạt hiệu quả cao • Nếp gấp ngoài phía đầu ngón tay út là huyệt. Châm vào giữa nếp gấp cũng có tác dụng chữa đái dầm, trẻ nhỏ chỉ cần bấm 50 lần vào những buổi tối, bấm liền một số buổi là khỏi (con trai ở ngón út tay trái, con gái ở ngón út tay phải). (*) Trung khí hạ hãm: Khí của tỳ bị kẹt giữ ở dưới. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 39
  41. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 28. Lòi dom Lòi dom là một đoạn trực tràng lòi ra ngoài hậu môn không thể tự co lên được. Phần nhiều do cơ thể yếu hoặc bệnh lỵ lâu ngày gây ra, gần đây nhiều người tập thở (khí công) không đúng phương pháp cũng bị lòi dom. Loại bệnh này rất dễ phát sinh ở trẻ em và người già. Mới đầu, sau khi đại tiện, nó lòi ra rồi lại tự động co vào. Bệnh nặng thì sau lúc làm việc mệt, hoặc mỗi lần đại tiện lại lòi ra, không thể co vào, phải dùng ngón tay ấn vào trong hậu môn. Người bệnh thường có cảm giác tức nặng ở hậu môn hoặc không có cảm giác đã ỉa xong, lúc nào cũng như sắp ỉa. Lòi dom lâu ngày tinh thần thường mệt mỏi, hụt hơi, ngại nói, sắc mặt vàng vọt, ăn ít, hoặc váng đầu, hồi hộp. Cách chữa: Lấy huyệt Thừa sơn, Bách hội, Trường cường. Dùng hào kim châm huyệt Bách hội, hướng ra sau châm dưới da; huyệt Trường cường mũi kim hướng lên; huyệt Thừa sơn châm đứng kim, đều theo thủ pháp ấn nặng, nâng nhẹ, lưu kim 20 đến 30 phút. Châm cứu xong cứu thêm, cách ngày một lần. Giảng nghĩa của phương: Phương này có tác dụng thăng cử thu nhiếp(*). Thừa sơn là huyệt bàng quang kinh, (bàng quang kinh qua hậu môn) là huyệt thường dùng để trị bệnh ở hậu môn, châm ở đó có thể tăng khả năng có rút trực tràng. Bách hội là huyệt ở đốc mạch, dương khí ở cơ thể con người gom chung về đốc mạch, cứu Bách hội có thể nâng dương khí lên. Trường cường ở ngay sau hậu môn, châm kim có thể tăng mạnh hoạt động của cơ năng hậu môn. Ba huyệt trên có hiệu quả nhất định đối với lòi dom độ nhẹ. Nếu lòi dom đã quá lâu không co rút lên, cần phối hợp uống thuốc thang, lấy bài Bổ trung ích khí mà chữa. (*) Thăng cử thu nhiếp: Nâng lên gom giữ lại. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 40
  42. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 29. Rối loạn kinh nguyệt Kinh nguyệt bình thường của phụ nữ là trên dưới 28 ngày một lần. Nếu vượt quá hoặc ít hơn, gọi là kinh nguyệt sớm hoặc muộn. Sớm là có trước 7-8 ngày trở lên hoặc một tháng 2 lần. Muộn là sau 7-8 ngày trở lên hoặc 2-3 tháng một lần. Cả hai tình huống gọi là rối loạn kinh nguyệt. Thường do can khí bất thư hoặc do thân thể yếu đuối gây ra. a. Hành kinh sớm: Chưa đến kỳ tháng đã thấy kinh, lượng máu ra nhiều, màu đỏ sẫm hoặc tím đen, có cục, có kèm bứt rứt, nóng nẩy, miệng khô khát, thích uống lạnh,bụng dưới đau từng cơn, bầu vú hơi cứng lên, rất dễ cáu, đại tiện táo bón, nước tiểu ít, vàng. Cách chữa: Lấy huyệt Khí hải, Trung cực, Huyết hải, Tam âm giao, Thái xung, Tỳ du. Các huyệt trên dùng hào kim vê chuyển kim theo chủ pháp tả, hoặc bình bổ tả. Lưu kim 20 phút. Giải nghĩa của phương: Phương này chủ yếu là thông điều xung, nhâm mạch, lý khí, hoà huyết. Khí hải điều nguyên khí toàn thân. Khí là soái của huyết. Khí đủ thì hệ thông huyết tự điều. Trung cực điều nhâm mạch mà thông địa đạo(*), Huyết hải có thể đến thẳng huyết phần mà hành tích( ). Phối hợp với Thái xung để tiết nhiệt ở 3 âm, để thanh nhiệt dưỡng âm. Tỳ du để vận khoẻ tỳ vị, làm cho khí huyết sung túc, tức kinh nguyệt tự điều. b. Hành kinh chậm: Hành kinh chậm muộn, có khi 40 ngày hay 50 ngày mới hành kinh một lần. Lượng máu rất ít, máu nhạt, sắc mặt trắng bợt, tinh thần mệt mỏi, sợ lạnh, trong hoặc sau khi hành kinh bụng dưới đau lâm râm, thường váng đầu, có quầng đen ở ổ mắt, hồi hộp, đau lưng. Cách chữa: Lấy huyệt Quan nguyên, Mệnh môn, Thận du. Đều dùng hào kim vê chuyển tiến kim theo bổ pháp, lưu kim 30 phút, châm xong cứu thêm. Giải nghĩa của phương: Quan nguyên điều kinh khí của nhâm mạch. Mệnh môn để ôn dương, phối hợp với Thận du bổ thận ích kinh, kinh nguyệt chậm do hư hàn rất nên dùng. (*) Địa đạo: Đường của đất, đường của huyết (thiên khí, địa huyết). ( ) Hành tích: Làm lưu thông sự ứ đọng góp lại. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 41
  43. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 30. Hành kinh đau bụng Phụ nữ trước, sau, hoặc trong khi hành kinh, từ rốn trở xuống và lưng đau đớn, có khi đau quá không chịu nổi, gọi là đau bụng kinh. Bệnh này do cuộc sống tình cảm không tốt, tinh thần căng thẳng, hoặc bị lạnh, bị rét, ăn nhiều thứ tươi sống làm cho khí trệ, huyết ứ, hoặc khí huyết bất túc gây ra. Trước và trong khi hành kinh, bụng dưới đau dữ dội, sờ nắn đau tăng, có khi bầu vú cũng sưng đau, thậm chí có kèm đau lưng đùi. Sau khi thấy kinh các chứng giảm dần. Máu kinh màu tím có lẫn cục đỏ là chứng thực. Cuối kỳ hành kinh, hoặc sau kỳ hành kinh mà bụng dưới thấy đau, sờ nắn vào thấy giảm đau, máu kinh màu nhạt và ít, đó là chứng hư. Châm cứu trị hành kinh đau bụng kết quả rất tốt. Nhưng cần phải bắt đầu chữa trước đợt hành kinh vài ba ngày và cần liên tục chữa khoảng 3 kỳ hành kinh như vậy. Cách chữa: a. Trước hoặc trong kỳ hành kinh đau bụng, lấy huyệt: Nội đình, Tam âm giao. Trước hết dùng hào kim châm Nội đình, sau châm huyệt Tam âm giao, đều theo tả châm, lưu kim 20 đến 30 phút có thể dứt đau. Nếu chưa có thể châm thêm Hợp cốc, Túc tam lý, Quan nguyên, Trung cực, nhẹ thì 1-2 lần, nặng thì 4-5 lần. Giảng nghĩa của phương: Tả Nội đình để khí huyết đi xuống, phối hợp Tam âm giao để thông xướng(*) khí của ba kinh âm, gia Hợp cốc để đẩy mạnh khí huyết xuống mà giảm đau. Quan nguyên điều kinh khí của nhâm mạch. Túc tam lý thông xướng tỳ, vị. Trung cực lý hạ tiêu, đầu cuối đều có tác dụng dứt đau. b. Sau kỳ hành kinh đau bụng: Lấy huyệt Thận du, Mệnh môn, Quan nguyên, Túc tam lý, Tam âm giao. Đều dùng phép bổ, châm xong thì cứu. Giảng nghĩa của phương: Thận du, Mệnh môn ôn dương, tán hàn. Quan nguyên đại bổ nguyên khí. Túc tam lý kiện vận khí của tỳ, vị. Bổ Tam âm giao, ôn thông kinh khí tam âm. (*) Thông xướng: Thông đạt, thông thấu. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 42
  44. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 31. Tắc kinh Phụ nữ tới thời kỳ hành kinh mà không có kinh nguyệt gọi là tắc kinh. Con gái phát dục bình thường, khoảng trên dưới 14 tuổi thấy có hành kinh. Nếu vượt quá tuổi đó mà không thấy kinh nguyệt, hoặc trước đã có kinh, qua một thời gian dài không thấy kinh nhưng không có thai, đồng thời xuất hiện những triệu chứng kèm theo, đều gọi là tắc kinh. Nếu do sau khi bị bệnh nặng, khí huyết hao tổn, hoặc sau đẻ ra máu quá nhiều, các lần hành kinh sau dần dần giảm ít hoặc tắc hẳn, tiêu hoá kém, phân nát, chân tay lạnh, đầu váng, hồi hộp, tinh thần mệt mỏi, toàn thân không có khí lực, môi mặt kém tươi, gọi là huyết khô tắc kinh. Nếu cáu giận, suy nghĩ, hoặc hành kinh bị cảm phong, thấp, ăn thứ tươi sống đưa đến huyết mạch ứ trệ, kinh nguyệt tự nhiên ngừng dứt, đau bụng dưới, khi đau không cho sờ, ngực tức, sườn đau, miệng đắng, táo bón, gọi là huyết trệ tắc kinh. a. Huyết khô tắc kinh Cách chữa: Lấy huyệt Thận du, Tỳ du, Khí hải, Túc tam lý. Đều dùng pháp bổ, không lưu kim, chủ yếu là cứu. Giải nghĩa của phương: Phương này chủ yếu là điều bổ khí huyết. Đàn bà lấy huyết làm chủ tỳ thống huyết, lấy Tỳ du, Khí hải có thể ôn thông hạ tiêu, điều bổ nguyên khí Túc tam lý điều bổ trung khí. Thận du bồi nguyên cố bản. Kinh khí sung túc mà kinh tự hành. b. Huyết trệ tắc kinh Cách chữa: Lấy huyệt Huyết phủ, Túc tam lý, Tam âm giao, Hợp cốc. Huyết phủ dùng hào kim vê chuyển tiến kim theo tả pháp, lưu kim 30 phút (thời gian lưu kim không vê). Sau khi rút kim, nghỉ 5 phút lại châm Túc tam lý, Tam âm giao, Hợp cốc. Lưu kim 30 phút. Cách 4 ngày châm một lần. Các huyệt khác như Cách du, Trung cực, Hành gian, Khí hải, Thận du, đều có thể dùng, mỗi lần mấy huyệt, thay nhau châm trị. Giải nghĩa của phương: Huyết phủ là huyệt kinh nghiệm để chữa tắc kinh. Túc tam lý lưu thông kinh khí dương minh. Hợp cốc, Tam âm giao làm cho khí huyết đi xuống để thông kinh. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 43
  45. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 32. Băng lậu huyết Trong âm đạo ra nhiều máu, hoặc ra máu không dứt gọi là băng lậu. Băng lậu huyết thường do suy nghĩ bực bội hoặc khí huyết, tạng phủ đều hư; bị hàn, bị nhiệt, kinh huyết vọng hành gây ra. Bệnh này xảy ra rất nhanh, đột nhiên máu kinh ra ồ ạt không dứt, giống như "núi lở", lượng máu rất nhiều gọi là băng huyết. Xảy ra chậm chạp, giống như "nhà dột", lượng máu ra ít, kéo dài, từng ít một không dứt, gọi là "lậu huyết". Loại bệnh này hay xảy ra ở đàn bà trên 40 tuổi, còn lứa tuổi trẻ hơn rất ít. Triệu chứng: Váng đầu, hoa mắt, tim đập nhanh, sắc mặt vàng vọt, lưng đau buốt, chân tay mệt mỏi. Nếu máu nhiều màu đỏ tươi thuộc chứng nhiệt. Máu xám nhạt, bụng dưới lạnh đau thuuộc chứng hàn. Máu màu tím đen, lẫn có máu cục, bụng sợ nắn thuộc chứng ứ huyết. Khi cần thiết phải kết hợp Đông và Tây y để cứu. Cách chữa: Lấy huyệt Ẩn bạch, Đại đôn. Dùng hào kim châm đứng, lưu kim 20 phút, nên ôn châm, hoặc không châm mà chỉ dùng cỏ bấc đèn cứu hai huyệt đó. Cách làm là lấy cỏ bấc đèn chấm vào dầu ăn (dầu ăn hoặc dầu vừng) rồi châm lửa đốt, nhằm đúng huyệt vị, dí vào và nhấc ra ngay. Gia giảm: • Chứng nhiệt, gia Tam âm giao. • Hư hàn, gia Mệnh môn, Tỳ du. Châm xong lại cứu. • Ứ huyết gia Thái xung hoặc Hành gian. Giải nghĩa của phương: Ẩn bạch là huyệt ở tỳ kinh, chuyên trị băng huyết, lại có công năng bổ huyết và nhiếp huyết(*). Đại đôn để thanh tiết nhiệt trong huyết. Tam âm giao là để thông kinh khí ở ba kinh âm, kinh khí thông xướng thì nhiệt tự mất. Chứng hư hàn thì cứu Mệnh môn, Tỳ du để ôn dương, kiện tỳ, khử hàn tà. Thái xung tán khí ở can kinh mà hành ứ, điều huyết. Hành gian tiết khí ở can kinh để tăng lưu thông doanh huyết. Phương huyệt kinh nghiệm đạt hiệu quả cao • Châm hai huyệt: Trung cực, Tử cung. • Cứu huyệt Huyết sầu chữa băng huyết do rối loạn nội tiết. (*) Nhiếp huyết: Nắm giữa lấy huyết. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 44
  46. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 33. Khó đẻ Đàn bà có thai đủ tháng, thai đã chuyển xuống dưới, lưng bụng đau từng cơn, bụng dưới trụt nặng, nước ối và máu đều đã ra, nhưng lâu không thấy con ra, gọi là đẻ khó. Thường do thai quá to, hoặc khung chậu hẹp, hoặc ngôi thai lệch, hoặc khí huyết của sản phụ vận hành không thư mà tạo thành. Cách chữa: Châm cứu phù hợp với ngôi thai lệch hoặc khí huyết vận hành không thư gây ra khó đẻ. Lấy huyệt: • Phương 1: Lấy ở cạnh ngoài khớp bàn + ngón út chân. Cách một giờ dùng điếu ngải hơ 15 phút, hoặc cứu bằng mồi ngải cũng được, làm liên tục trong 3 giờ thì thôi. • Phương 2: Chí âm, Hợp cốc, Tam âm giao, Thái xung, Côn lôn. Trước hết lấy Chí âm ôn châm 10 phút, ngừng 10 phút, lại ôn châm 10 phút, sau đó lấy hào kim châm Hợp cốc, vê chuyển từ từ tiến kim, đắc khí thì nâng ấn, vê kim theo bổ pháp, không lưu kim. Châm tiếp Tam âm giao, vê chuyển đắc khí rồi dùng tả pháp, lưu kim 30 phút. Nếu vẫn chưa sinh, tiếp tục châm Thái xung, Côn lôn, dùng tả pháp, làm cho có cảm giác tê tức rồi lưu kim, cứ cách 5 phút vê kim một lần, mỗi lần vê chuyển trái phải 7 cái, làm như thế đến lúc sinh thì rút kim. Giảng nghĩa của phương: Chí âm, Côn lôn đều có thể lưu khí của túc thái dương. Thái xung hành ứ lý huyết(*). Khí huyết ứ trệ lấy bổ Hợp cốc, tả Âm giao, là bổ trên, tả dưới, làm cho khí huyết đi xuống lưu thông thuận lợi, thai nhi tự ra. (*) Hành ứ lý huyết: làm thông cái ứ để cho máu lưu thông tự nhiên. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 45
  47. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 34. Choáng váng sau đẻ Sản phụ sau khi đẻ xong mất máu quá nhiều, đột nhiên váng đầu, hoa mắt, không ngồi được dậy, hoặc buồn tức dưới tim, quặn bụng buồn nôn, nặng thì mê man bất tỉnh, miệng không há nổi gọi là choáng váng sau đẻ. Cần kết hợp Tây y để xử trí cấp cứu. Cách chữa: Lấy huyệt Chi câu, Tam âm giao,Túc tam lý. Dùng hào kim châm Chi câu, Tam âm giao, dùng phép bổ, lưu kim 30 phút. Huyệt Túc tam lý châm xong lại cứu. Nếu ra mồ hôi lạnh không dứt, gia cứu Khí hải, Quan nguyên, Thần khuyết (lót muối). Giảng nghĩa của phương: Chi câu có tác dụng tuyên thông khí tam tiêu. Tam âm giao ôn thông dương khí của ba kinh âm.Túc tam lý đại bổ trung khí. Gia khí hải để bổ khí. Quan nguyên, Thần khuyết để ôn dương tán hàn, dương khí khôi phục làm mồ hôi tự dứt. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 46
  48. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 35. Táo bón sau đẻ Đàn bà đẻ xong do ra máu quá nhiều, thân thể yếu đuối tạo thành đại tiện khó, hoặc mấy ngày mới ỉa, hoặc phân khô, rặn không ra, gọi là sản hậu táo bón. Cách chữa: Lấy huyệt Ngoại quan, Chiếu hải. Dùng hào kim châm, đều dùng phép bình bổ, bình tả, lưu kim 30 phút. Giảng nghĩa của phương: Chiếu hải là huyệt kinh nghiệm thông táo bón có hiệu quả, có tác dụng bổ thận thuỷ, lại gia Ngoại quan điều khí cơ thì công hiệu tốt hơn. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 47
  49. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 36. Thiếu sữa Đàn bà đẻ xong sữa quá ít, không đủ cho con bú, hoặc hoàn toàn không có sữa gọi là mất sữa. Nguyên nhân ít sữa chủ yếu là do người yếu hoặc đẻ xong mất quá nhiều máu, do khí huyết không đủ gây ra. Có khi tình cảm không thoải mái, kinh mạch tuần hoàn trở ngại, làm mất sữa. Cũng có khi phương pháp cho bú không đúng gây ra, Cách chữa: • Phương 1: Lấy huyệt Chiên trung. Dùng điếu ngải hơ 20 phút mỗi ngày một lần. • Phương 2: Lấy huyệt Chiên trung, Dịch môn. Dùng kim to châm hơi dưới huyệt Chiên trung, luồn dưới da, mũi kim chếch lên bên phải và phía trên, vê sâu vào đến tám phân, mũi kim chuyển về phía trên bên trái, vê kim vào 8 phân, lui ra 5 phân, cứ thế làm lạI 3 lần, cuối cùng dùng mũi kim hướng lên, ngón cái vê mạnh về phía bên phảI người bệnh tiến kim, đến khi tay thầy thuốc có cảm thấy dưới kim chìm nặng thì lưu kim. Tiếp theo châm huyệt Dịch môn, cả hai huyệt lưu kim 15 phút. Giảng nghĩa của phương: Chiên trung, lý khí của toàn thân. Dịch môn tuyên thông hết vướng tắc khí huyết ở tam tiêu. Khí cơ điều hoà thì huyết đi xuống, nước sữa tự ra. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 48
  50. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 37. Sa dạ con Dạ con không ở vị trí bình thường mà theo âm đạo trụt xuống, gọi là sa dạ con, Chủ yếu do thể chất ốm yếu, đẻ xong khí huyết chưa hồi phục, lúc đẻ rặn quá nhiều, hoặc đẻ xong phải làm việc nặng nhọc. Sa dạ con chia làm 3 mức: Nhẹ, vừa và nặng. • Nhẹ: Tự cảm giác trong âm đạo có vật gì sa xuống. • Vừa: Một phần dạ con lòi ra ngoài cửa mình. • Nặng: Toàn bộ dạ con lòi ra ngoài âm đạo, to như quả trứng gà, nằm nghỉ ngơi xong có thể tự co vào, khi ho, đi bộ thì thòi ra nhiều, làm việc nặng lại phát trở lại. Người bệnh thấy lưng buốt, đùi mỏi khác thường, bụng chân chảy xuống, đi đái nhiều lần hơn, nặng thì ra khí hư trắng, nước vàng, tinh thần uể oải. Cách chữa: Lấy huyệt Duy bào, Quy lai, Tam âm giao. Trước hết lấy hào kim châm Duy bào, chếch theo rãnh háng vê góc độ lớn tiến kim, làm cho chỗ Hội âm có cảm giác co lên. Nếu hiệu quả không rõ thì châm Quy lai, Tâm âm giao. Gia giảm: • Nếu khí hư, gia cứu Khí hải, Quan nguyên. • Thấp nhiệt thì gia châm Âm lăng tuyền, Thái xung. • Lâu ngày chưa khỏi thì châm Túc tam lý, Tâm âm giao, dùng phép bổ và cứu huyệt Bách hội. Giảng nghĩa của phương: Quy lai có tác dụng ôn thông(*) dạ con. Duy hào là huyệt chủ yếu trị sa dạ con. Cứu Quan nguyên, Khí hải để bổ nguyên khí. Thái xung, Âm lăng tuyền để tả nhiệt ở can, tỳ. Bổ Túc tam lý để tăng vận khí của vị. Bách hội để nâng dương khí lên. (*)Ôn thông: Dùng sức ấm làm nóng. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 49
  51. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 38. Ho gà Ho gà là loại ho từng cơn, dứt cơn một lúc lại phát cơn tiếp, mỗi ngày có từ mấy cơn đến mấy chục cơn ho. Do quá trình bệnh kéo dài nên còn gọi là ho “Bách nhật”. Bệnh thường thấy về cuối Đông, đầu Xuân, phần nhiều trẻ em từ 2 đến 4 tuổi hay mắc, ít thấy ở trẻ trên 10 tuổi. Bệnh do gió lạnh gây ra, chớm bị thì phát sốt sợ gió, mũi chảy nước trong, tắc mũi, sau đó ho ngày càng nặng hơn. Ho liền hơi từ 10 đến mấy chục tiếng, khi ho cong lưng vươn cổ, nước mắt nước mũi giàn giụa, khi hít hơi vào trong họng có tiếng rít như mèo kêu, liên tục phát cơn ho đến khi nôn ra đồ ăn, hoặc đờm dãi mới thôi, có khi miệng mũi ra máu. Ho lâu ngày mi mắt, ổ mắt sưng húp lên. Cách chữa: Lấy huyệt Thiếu thương, Thương dương. Hai huyệt trên đều dùng kim ba cạnh chích ra máu, cách ngày một lần, liên tục chữa. Trong đờm ho có lẫn máu, thì dùng hào kim châm huyệt Xích trạch, hoặc Phong trì, Đại chuỳ, Phế du, Hợp cốc, Khúc trì. Đồng thời ở huyệt Thân trụ chích ra máu, dùng bầu hút tăng thêm hiệu quả. Giảng nghĩa của phương: Thiếu thương tiết nhiệt ở tất cả các tạng. Thương dương thanh nhiệt ở dương minh. Xích trạch thanh tiết khí ở phế, Phong trì thanh tiết phong dương. Phế du lưu điều phế khí. Hợp cốc, Khúc trì tiết tà nhiệt, thanh thần chí. Đại chuỳ, Thân trụ tuyên thông khí của các dương kinh và có tác dụng khử tà. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 50
  52. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 39. Kinh phong (co giật) Kinh phong là một loại chứng trạng xuất hiện trong nhiều bệnh của trẻ em. Trên lâm sàng thường chia làm hai loại: Kinh phong cấp và kinh phong mạn. Cần kết hợp Tây y trong xử lý. a. Kinh phong cấp Đa số do sốt cao gây ra, bệnh xảy ra rất nhanh, phát sốt cao, hôn mê, hai mắt nhìn ngược lên, hàm răng cắn chặt, chân tay co quắp, cánh mũi phập phồng, môi mép động đậy, sắc mặt xanh tím, thậm chí đại tiểu tiện dầm dề. Cách chữa: Lấy huyệt Nhân trung, Đại chuỳ, Hợp cốc, Thái xung, Thiếu thương, Trung xung. Trước hết chính ra máu các huyệt Nhân trung, Trung xung, Thiếu thương; châm Đại chuỳ, Hợp cốc, Thái xung, dùng cách vê kim. Gia giảm: • Sốt cao, gia huyệt Khúc trì. • Hàm răng cắn chặt, gia huyệt Giáp xa. • Chân tay co quắp, gia huyệt Hậu khê, Nội quan. • Uốn vặn mình, gia Phong trì, Thân trụ. • Đờm nhiều, gia Liệt khuyết, Phong long. • Hôn mê, bất tỉnh, gia huyệt Dũng tuyển. • Ngủ không nhắm mắt, gia huyệt Nội quan, Thần môn. Giảng nghĩa của phương: Phương này lấy tiết nhiệt, dẹp tà khí, an thần, chữa cơn co giật là chính. Châm Nhân trung để thông điều đốc mạch, khai khiếu, tỉnh thần. Đại chuỳ tuyên thông dương khí mà khử biểu tà. Hợp cốc, Thiếu thương thanh tuyến phế khí để giảm thân nhiệt. Thái xung, Trung xung cũng tiết hoả ở can kinh và tâm kinh, có thêm công hiệu khai khiếu(*) thanh thần. Khúc trì giảm nhiệt. Giáp xa điều kinh khí ở mặt. Hậu khê, Nội quan thanh hoả ở tâm, dìm cái dương đang động để dứt co quắp. Phong trì, Thân trụ khử phong tiết nhiệt. Liệt khuyết, Phong long tuyên phế, giáng trọc( ), hoá đàm( ), bổ ích thận thuỷ, thanh tâm, tỉnh thần. Nội quan, Thần môn tiết nhiệt ở tâm kinh để an thần. b. Kinh phong mạn Do những đợt thổ tả kéo dài, ốm nặng, tỳ, vị hư nhược gây ra. Triệu chứng: thấy phong cổ xẩy ra không nhanh, hình thể gầy yếu, sắc mặt trắng bợt, tinh thần mệt mỏi, ngủ mê, có khi co quắp, châm tay mát lạnh, phân nát, có khi lắc đầu, cứng cổ. Cách chữa: Lấy huyệt Trung quản, Túc tam lý, Khí hải, Thiên khu. Tất cả đều dùng hào kim vê chuyển châm vào. Dùng phép bổ, châm xong thì cứu. (*) Khai khiếu: Mở những cửa chính yếu của tạng phủ. ( ) Giáng trọc: Làm lắng cái vẩn đục xuống. ( ) Hóa đờm: Làm cho đàm trở lại thành tân dịch. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 51
  53. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y Gia giảm: • Có khi co giật thì gia Hợp cốc, Thái xung, Ấn đường. • Ý thức lơ mơ thì gia huyệt Thần môn. • Cổ cứng thì gia Phong trì, Thân trụ. • Chân tay mát lạnh thì gia cứu huyệt Quan nguyên. Giảng nghĩa của phương: Phương này lấy ôn bổ tỳ, vị, bồi nguyên khí, dẹp phong làm chính. Lấy Trung quản, Túctam lý để kiện vận tỳ, vị, giúp cái gốc của hậu thiên. Khí hải, Thiên khu bồi nguyên, điều khí, ôn bổ trường, vị bị hư hàn để trị chứng phân nát. Hợp cốc, Thái xung cũng gọi là huyệt Tứ quan, phối hợp với huyệt Ấn đường sơ thông dương khí để dứt co quắp. Thần môn an thần định chí(*). Phong trì, Thân trụ sơ phong, khử tà. Cứu Quan nguyên để ôn bổ nguyên dương, khử hàn tà. (*) Định chí: Tình cảm yên ổn. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 52
  54. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 40. Phong lỗ rốn (uốn ván ở trẻ sơ sinh) Phong lỗ rốn là do trẻ sơ sinh lúc cắt rốn không sát trùng cẩn thận gây ra. Triệu chứng: Môi miệng xanh, miệng cắn chặt, không chịu bú, chân tay co quắp, mình uốn vặn. Bệnh này thường xuất hiện khoảng sau sinh từ 4 đến 6 ngày, nên xử trí cấp cứu theo Tây y, cách chữa theo Đông y ở đây là để tham khảo khi cần. Cách chữa: • Phương 1: Lấy huyệt Thần khuyết. Giã tỏi nát như cháo đắp lên rốn, đặt mồi ngải lên trên tỏi, cứu đến khi trong mồm đứa trẻ có mùi tỏi mới thôi, sau đó lại dùng nước tỏi nhỏ vào mũi đứa trẻ. • Phương 2: Từ hố lõm dưới ngực đến rốn có một đường gân xanh, dùng điếu ngải cứu từ đầu trên đến dầu dưới gân xanh, làm đi làm lại đến khi nào gân xanh tiêu mất thì dừng. Giảng nghĩa của phương: Cả hai phương đều dùng ôn dương khử tà hàn ở bụng. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 53
  55. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 41. Trẻ em tiêu chảy Tiêu chảy ở trẻ em là bệnh thường thấy vào mùa hạ, đa số do ăn quá nhiều hoặc ăn phải thức ăn ôi, thiu, không sạch, hoặc uống nước lã, ăn quả xanh, sống, bị nắng, nóng gây ra đại tiện phân lỏng, ngày mấy lần và có nôn mửa, đau bụng, sôi bụng. Cách chữa: Lấy huyệt Bách hội. Dùng hào kim châm dưới da, mũi kim ra sau, từ từ châm vào sâu 1-2 phân, lưu kim 1 giờ. Trong khi lưu kim phối hợp với ngón tay, trước hết day ở ngón trỏ từ huyệt Thương dương đến Hổ khẩu 30 lần; day ngón tay cái, ở cạnh trụ (phía áp ngón trỏ) từ gốc ngón tay đến từ Hổ khẩu 18 lần, cuối cùng day từ huyệt Ngư tế đi chéo qua nếp gấp ngang, cổ tay hướng huyệt Thần môn 7 lần. Giảng nghĩa của phương: Bách hội để bổ trung ích khí(*) phối hợp với day tay làm cho chân khí nâng lên để dứt tiêu chảy. (*) Bổ trung ích khí: Bổ thêm khí của trung tiêu tỳ vị. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 54
  56. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 42. Trẻ em cam tích (còi xương) Cam tích là bệnh thường thấy ở trẻ em do tiêu hoá kém, bú sữa không hợp, thiếu sữa mẹ gây ra. Ngoài ra còn do các loại mệnh mạn tính, đặc biệt là bệnh đường ruột, ký sinh trùng đường ruột gây ra.Triệu chứng: Mình gầy, bụng to, nổi rõ gân xanh, nôn mửa ra sữa và đồ ăn, phân chua hôi, nước tiểu đục, kêu khóc không có nước mắt, không muốn ăn uống, da dẻ khô mốc, tóc thưa, niêm mạc mắt không có màu máu, bứt rứt không yên, mệt mỏi, uể oải, sốt về đêm. Cách chữa: Lấy huyệt Tứ phùng. Dùng kim ba cạnh chích huyệt ở cả hai tay, nặn ra có chất lỏng như màu lòng trắng trứng gà. Cứ cách hai ngày châm một lần, đến khi nào nặn ra thấy máu là dừng. Gia giảm: • Khi có tiêu chảy thì gia giảm bằng hào kim ở các huyệt: Trung quản, Thiên khu, Túc tam lý. Mỗi huyệt châm xong, vê ngược xuôi mấy lần, rồi rút kim ngay. • Cổ sưng thì cứu huyệt Tỳ du. • Sốt về chiều thì gia châm huyệt Đại chuỳ, Tam âm giao. • Tiêu chảy lâu ngày, người yếu thì gia cứu huyệt Thần khuyết. Giảng nghĩa của phương: Huyệt Tứ phùng rất hiệu nghiệm để chữa bệnh trẻ em còi xương, chậm lớn. Châm xong nặn ra nước vàng, có tác dụng thanh thuỷ thấp(*) bẩn đục ở giữa da thịt. Thêm Trung quản, Thiên khu, Túc tam lý điều lý cơ năng của trường, vị. Cứu Tỳ du để làm mạnh trung khí. Đại chuỳ tiết nhiệt, phối hợp Tam âm giao để trị khí của 3 kinh âm tắc kiệt gây sốt, cứu Thần khuyết ôn dương tán tà. (*) Thanh thủy thấp: Làm sạch không còn thủy thấp bẩn đục. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 55
  57. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 43. Quai bị (viêm tuyến mang tai) Bệnh viêm tuyến mang tai là một bệnh truyền nhiễm xảy ra về mùa đông. Trẻ em từ 4 đến 15 tuổi thường mắc bệnh rất nhiều. Người lớn ít thấy. Nếu người lớn mắc phải thì bệnh sợ nặng hơn nhiều. Thường thì bệnh do dịch lan tràn. Vì nhiệt thượng lên trệ lưu mà thành. Bệnh này sưng ở dưới tai đau buốt, sau đó là sưng tức. Nếu không có triệu chứng khác xuất hiện thì mấy ngày sau có thể tự khỏi. Bị nặng thì bắt đầu sợ lạnh, phát sốt, đau đầu, nôn mửa, rồi dần dần da dưới tai đỏ lên, đau đớn dữ dội, khi há mồm, nhai ăn, đau càng tăng. Nghiêm trọng thì sốt cao, tâm phiền, miệng khát kèm theo tinh hoàn sưng to, phụ nữ đau ở vùng hố chậu. Cách chữa: Lấy huyệt: Phong trì, Ế phong, Giáp xa, Hợp cốc, Ngoại quan, Khúc trì. Cách huyệt kể trên đều dùng hào kim vê chuyển tiến kim, lưu kim 50 phút, dùng phép tả, mỗi ngày châm một lần. Giảng nghĩa của phương: Phương này có tác dụng sơ phong, tán nhiệt, tiêu thũng( ), định thống( ). Phong trì sơ tán phong nhiệt, Ế phong có thể tuyên tán( ) sự ngưng trệ khí huyết ở kinh lạc khu tai để tiêu thũng. Giáp xa thông khí ở kinh dương minh. Hợp cốc, Khúc trì, Ngoại quan có tác dụng khử phong, thanh hoả. Phương huyệt kinh nghiệm đạt hiệu quả cao • Lấy các huyệt: Giáp xa, Ế phong, Hợp cốc, Khúc trì, Uyển cốt, Thông lý. ( ) Tiêu thũng: Mất hết sưng. ( ) Định thống: Dẹp cái đau. ( ) Tuyên tán: Thông cho tan đi. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 56
  58. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 44. Mụn nhọt (đầu đanh) Mụn nhọt (đầu đanh) là bệnh ngoài da thường thấy. Do hình mụn nhọt, rắn chắc, có gốc sâu giống như một cái đanh đóng vào da thịt nên gọi là đầu đanh. Thường sinh ra ở đầu mặt, tay, chân. Mới đầu có cái trắng như đầu đanh, nhìn giống như hạt lúc, hoặc sinh ra bọc vàng, hoặc trong giữa tím đen, khu vực đó sưng đỏ, đau đớn, kèm theo triệu chứng sợ lạnh, phát sốt. Nhẹ thì đầu đanh từ từ vỡ ra, chảy ra một ít mủ, giảm sưng dứt đau; nặng thì tại chỗ tê dại, không đau, đầu mụn xám ngoét, lõm xuống, đinh độc lan rộng, sốt cao, phiền khát, nôn mửa, thần thức lơ mơ. Đó là đinh độc nội công (nhiễm trùng máu) dễ nguy hiểm đến tính mạng. Ngoài ra còn có loại một sợi tơ đỏ, từ chỗ nhọt chạy vào háng, nách, gọi là viêm ống lâm ba (viêm bạch mạch). Cần phân biệt để kết hợp Tây y xử trí kịp thời. Cách chữa: Lấy các huyệt Thân trụ, Hợp cốc, Uỷ trung. Dùng kim ba cạnh thích Thân trụ cho hơi ra máu, úp lên đó một bầu hút, lưu kim 15 phút rồi bỏ bầu ra. Gia giảm: • Nếu nhọt ở mặt, châm huyệt Hợp cốc, dùng tả pháp. • Mụn sưng ở lưng, châm huyệt Uỷ trung, chích ra máu. • Nhọt ở hai bên cánh mũi, gia châm Thương dương. • Nhọt ở chi trên, gia huyệt Khúc trì, Nghinh hương. • Nhọt ở chi dưới, gia Túc tam lý, Hành gian. • Nếu thấy chứng đinh độc nội công, gia châm Lao cung. Giảng nghĩa của phương: Phương này chủ yếu là thanh nhiệt giải độc, hoạt huyết, thông lạc làm chính. Thân trụ là chỗ phát sinh khí của đốc mạch. Đốc mạch lại thống thuộc chư dương, vì vậy tả Thân trụ có công hiệu sơ tiết uất nhiệt(*), tà hoả ở dương kinh. Hợp cốc có thể tiết nhiệt tà ở tứ chi mà còn có thể thanh tiết ôn độc ở trong máu. Kinh thủ dương minh tận cùng ở cạnh mũi, vì vậy, mụn ở cánh mũi lấy huyệt Thương dương, Khúc trì, Nghinh hương thanh tà nhiệt, sơ khí ở phế, phế khí thanh túc( ), nhiệt độc tự tiêu. Túc tam lý, Hành gian tả thấp nhiệt ở can, vị. Lao cung, Thần môn thông tâm nhiệt, tả nhiệt độc. Phương huyệt kinh nghiệm đạt hiệu quả cao • Chích Linh đài nặn máu, châm Thân trụ, Hợp cốc, Uỷ trung. • Mụn có tơ đỏ: Châm tả Khí xung, Huyết hải. • Chữa ghẻ phồng và ghẻ ngứa khắp người: Chí âm, Bình ế. (*) Uất nhiệt: Nóng khó chịu bị ứ lại. ( ) Thanh túc: Sạch mát nghiêm chỉnh. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 57
  59. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 45. Viêm tuyến vú Bệnh này thường phát sinh ở thời kỳ cho con bú. Thường thấy từ sau khi đẻ, đến hết một tháng, bệnh thường do bầu vú bị loét hoặc tinh thần không thoải mái, nhiệt độc ở kinh vị toả trệ, sữa khó chảy ra nên sinh bệnh. Thoạt đầu vú sưng nóng, đỏ đau, bầu vú căng rắn, sữa khó chảy ra, sau đó rất đau đớn, sốt, sợ lạnh, quặn bụng, phiền khát, đó là biểu hiện chưa có mủ. Tiếp tục sốt cao, cục rắn sưng to, đau cắn từng cơn, đó là hiện tượng đã làm mủ. Cách chữa: Lấy các huyệt Kiên tỉnh, Nhũ căn, Hợp cốc. Trước hết lấy huyệt Kiên tỉnh (bên đau) dùng hào kim châm chếch dưới da về hướng ụ xương vai, làm tả pháp, làm cho cục bộ có cảm giác tức buốt. Huyệt Nhũ căn thì dùng hào kim dài 1,5 thốn châm ở bờ dưới vú, hướng lên, châm nằm ngang trên lồng ngực, không được quá sâu. Cuối cùng châm Hợp cốc, làm tả pháp. Gia giảm: • Vị nhiệt, gia Túc tam lý. • Nước sữa tắc căng, gia Thiếu trạch. • Phát sốt, gia Đại chuỳ, Khúc trì. Giảng nghĩa của phương: Phương này lấy thanh nhiệt, hoạt huyết làm chính. Hợp cốc tả ôn nhiệt. Kiên tỉnh tuyên thông kinh khí. Nhũ căn lưu thông sự tắc trệ khí huyết ở kinh dương minh. Túc tam lý dẫn vị khí đi xuống. Thiếu trạch tả cái nhiệt tắc đi. Đại chuỳ, Hợp cốc thì thoát nhiệt, giải biểu(*). (*) Thái nhiệt, giải biểu: Lui sốt, giải cơ, da. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 58
  60. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 46. Dị ứng mẩn ngứa (nổi phong lạnh) Dị ứng mẩn ngứa thường gọi là "nổi mày đay" hoặc "phong lạnh". Đột nhiên mặt da nổi lên những nốt to, nhỏ không đều, nhỏ thì như hạt kê, to thì như hạt đậu, hoặc thành từng mảng, phát đi phát lại, gặp gió càng dễ phát cơn. Nơi mọc là chi trên và cạnh trong đùi. Mới đầu cảm thấy da rất ngứa, lấy tay gãi xong mới thấy sưng đổ hẳn lên. Càng gãi, càng ngứa, về đêm ngứa càng tăng. Những cơn cấp tính thì sau vài ba ngày hoặc 7, 8 ngày sẽ khỏi. Dị ứng mạn tính thì hay lên cơn, một vài tháng hoặc mấy năm không khỏi. Bệnh này còn thường do dị ứng đồ ăn gây ra. Cách chữa: Lấy các huyệt Khúc trì, Huyết hải, Uỷ trung. Hai huyệt Khúc trì, Huyết hải dùng hào kim vê chuyển tiến kim, lưu kim 30 phút, vê chuyển rút kim. Uỷ trung dùng kim ba cạnh chích ra máu. Gia giảm: • Nếu ở mụn ngứa chảy nước vàng thì ở huyệt Khúc trì cả châm lẫn cứu. • Bụng đau thì châm thêm Trung quản, Khí hải, hoặc Ngoại quan. Giảng nghĩa của phương: Phương này chủ yếu là khử phong, giải biểu là chính, lấy Khúc trì ở thủ dương minh kinh và Huyết hải ở túc thái âm kinh để sơ thông kinh khí mà tiết nhiệt. Uỷ trung để thanh tiết nhiệt độc trong máu và lại có thể tiết nhiệt tà của tứ chi. Phong nhiệt mất đi bệnh có thể khỏi hẳn. Phương huyệt kinh nghiệm đạt hiệu quả cao • Cách du, Thiên tỉnh, Huyết hải. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 59
  61. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 47. Viêm bao hoạt dịch Viêm bao hoạt dịch(*) thường sinh ra do khớp ở tứ chi hoạt động quá sức hoặc nhiễm phong hàn. Thường gặp ở bao gân cổ tay và mu bàn chân. Sờ thấy rắn chắc, nắn thì di động, hoạt động thấy vướng, hoặc có cảm giác đau đớn, tê dại. Cách chữa: Lấy huyệt Á thị huyệt. Trước hết sát trùng bọc sưng ấy, tay trái cố định nó lại, lấy hào kim 1 thốn đến 1,5 thốn, châm 4 kim ở chung quanh bọc theo hình chữ thập, lại lấy một kim châm từ đỉnh bọc xuyên xuống dưới đáy bọc sưng đó. Châm xong 5 kim, làm thủ pháp nâng ấn kim vài lần, làm cho người bệnh thấy tê tức, lưu kim 20 phút. Châm xong, đều ấn và day xoa. Mỗi ngày hoặc cách ngày một lần châm, thường thì châm 3 lần đã khỏi. (*) Hoạt dịch: Chất lỏng, dẻo mà trơn ở ổ khớp, khe cơ. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 60
  62. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 48. Bướu cổ Bướu cổ còn gọi là "chửa cổ". Nay gọi là "bướu cổ địa phương". Chủ yếu là trong đồ ăn thiếu i- ốt, hoặc do tinh thần không thoải mái, khí huyết uất trệ mà thành. Bướu biểu hiện là: Cổ sưng to, chất mềm, ấn không đau, bướu sưng to chèn ép khí quản gây ra khó thở, tiếng nói thều thào, nặng thì gây phiền muộn hồi hộp. Cách chữa: Lấy huyệt Á thị huyệt, Khúc trì. Để người bệnh ngồi ngay, ngửa đầu, hoặc nằm ngửa, dùng ngón trỏ và ngón cái ngón giữa tay trái cố định chắc cục bướu, nâng lên, tay phải cầm hào kim đâm vào giữa cục bướu, cho xuyên qua cục bướu, nhưng không cần thủng cả lớp da phía sau (do nâng cục bướu lên mà chỗ da đó dúm lại) cục bướu, châm vào xong, nâng ấn dăm ba lần. Nếu thu hiệu quả chậm, có thể tăng thêm số lần nâng ấn, hoặc đổi kim to hơn. Phối hợp với huyệt Khúc trì. Mỗi ngày một lần, hoặc cách ngày một lần. Mười lần là một liệu trình. Nghỉ 10 ngày lại tiếp tục châm liệu trình thứ hai. Giai nghĩa của phương: Phương này lấy châm gần và châm xa phối hợp. Gần thì lấy Á thị huyệt, xa thì lấy Khúc trì, vì kinh thủ dương minh đi qua cổ, nên lấy Khúc trì để phối hợp. Phương huyệt kinh nghiệm đạt hiệu quả cao • Hợp cốc, Khúc trì, Thiên đột, Phù bạch, Nội quan, Thái xung. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 61
  63. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 49. Bong gân Bong gân chủ yếu là lao động nặng, hoặc hoạt động thể dục thể thao. Khi cầm vật nặng, nhảy cao, không để ý bước hụt, làm tổn thương gân mạch. Khí huyết trở trệ(*) gây ra. Nơi bong gân thường là các khớp, chỗ bong gân sờ thấy đau buốt hoặc nhìn thấy sưng đỏ hay xanh tím. Cách chữa: Lấy huyệt chỗ đau là chính. Châm bằng hào kim, dùng tả pháp, không lưu kim. Bị đã lâu ngày thì lưu kim, cứu thêm hoặc ôn châm. Nếu không đỡ thì châm bên đối diện tương ứng với vùng đau (như bong gân cổ tay phải, châm ở cổ tay trái). Ngoài ra khi mới bong gân, có thể châm điểm nặn máu. Bong gân các khớp ở bàn tay, chân, trước hết lấy tỉnh huyệt trên đường kinh liên quan, chích nặn máu, sau đó mới châm các huyệt khác. Ngón tay cái bong gân trước hết chích nặn máu ở các huyệt Thiếu thương, Thương dương, rồi lại châm Ngoại quan. Lưng bong gân, trước hết châm Nhân trung, Thừa tương nặn máu, saun đó mới châm huyệt vị chỗ đau. Thường lấy các huyệt: A thị huyệt tại chỗ đau và các huyệt vị gần khớp, dùng hào kim để châm, lưu kim 10 phút hết cảm giác tê tức mới rút kim. Các huyệt lân cận khớp là: • Khu vai: Kiên ngung. • Khu khuỷu tay: Khúc trì, Tiểu hải. • Cổ tay: Hợp cốc, Ngoại quan. • Lưng: Thận du, Uỷ trung. • Hông: Hoàn khiêu, Thừa phù. • Đầu gối: Tất nhỡn, Dương lăng tuyền. • Mắt cá: Giải khê, Côn lôn. Giảng nghĩa của phương: Lấy huyệt chữa bong gân thường căn cứ vào các nguyên tắc lấy huyệt lân cận nơi đau để lưu khí huyết, thông kinh mạch, làm cho tổ chức bị thương được khôi phục bình thường. Nhưng với các bệnh khá nặng cần sử dụng cách lấy huyệt theo đường kinh gần và lấy huyệt từ xa cùng phối hợp. Phương huyệt kinh nghiệm đạt hiệu quả cao • Châm một huyệt tại chỗ và ôn châm Túc lâm khấp, tiêu sưng giảm đau rất nhanh. (*) Trở trệ: Vướng đọng lại. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 62
  64. CHẨN TRỊ NHỮNG BỆNH CHỨNG THƯỜNG GẶP BẰNG CHÂM CỨU CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y 50. Sái cổ (hội chứng vai gáy) Sái cổ là do tư thế nằm ngủ khác thường, để đầu cổ không phù hợp, hoặc gối đầu quá cao, quá cứng, hoặc trong lúc ngủ gặp lạnh gây ra. Khi mới ngủ dậy phát hiện ra cổ bị cong, hướng cổ lệch về một bên, không quay sang phải, sang trái được, có khi đau đớn lan toả xuống vai, lưng. Cách chữa: Lấy huyệt Tuyệt cốt, Lạc chẩm. Dùng hào kim châm huyệt Tuyệt cốt, thủ pháp bình bổ, bình tả, không vê, chỉ nâng ấn, làm cả hai bên, lưu kim 20 phút. Huyệt Lạc chẩm dùng tả pháp, hoặc châm thêm Đại chuỳ, Hậu khê. Giảng nghĩa của phương: Phương này chủ yếu lấy khử phong, tán hàn, thư cân, hoạt lạc(*) là chính. Nếu không cúi ngửa được, phối hợp thêm Liệt khuyết. Không quay phải trái được thì thêm Ngoại quan để sơ thông kinh khí, càng có kết quả. Đại chuỳ tuyên thông khí của chư dương. Kinh thủ thái dương đi qua cổ, huyệt Hậu khê là du huyệt của kinh thủ thái dương lấy huyệt đường xa, cũng có thể chữa sái cổ. Phương huyệt kinh nghiệm đạt hiệu quả cao • Tay trái đỡ cổ bên không đau, ngón cái tay phải thầy thuốc ấn phía dưới huyệt Thiên trụ 1 thốn bên có bệnh, ấn mạnh, day thuận chiều kim đồng hồ. Day một hơi chừng 1 phút, ngừng 1 phút, day lại 1 phút. Bỏ tay ra người bệnh có thể quay cúi dễ dàng ngay. Nếu còn hơi khó chịu, ngày hôm sau day tiếp sẽ dứt (đối với chứng cấp tính). • Lấy các huyệt: Đốt cổ ấn đau và Hiệp tích của nó, Cảnh trung, Kiên trung du. (*) Thư cân, hoạt lạc: Mềm mại gân, trơn tru mạch máu. Bản quyền: Viện Thông tin Thư viện Y học Trung ương 63