Đặc điểm nghệ thuật ca Huế

pdf 9 trang hapham 1270
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm nghệ thuật ca Huế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfdac_diem_nghe_thuat_ca_hue.pdf

Nội dung text: Đặc điểm nghệ thuật ca Huế

  1. Tư liệu tham khảo Số 41 năm 2012 ___ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CA HUẾ TRẦN KIỀU LẠI THỦY* TÓM TẮT Số lượng người hiểu tương đối tường tận về Ca Huế và thật sự yêu thích nó không nhiều. Bài viết này trình bày những đặc điểm của nghệ thuật Ca Huế; trong đó có những điểm chung với các thể loại âm nhạc truyền thống Việt Nam và những điểm riêng độc đáo của thể loại Ca Huế. Hi vọng bài viết góp thêm tư liệu nhằm bảo tồn và phát triển nghệ thuật Ca Huế. Từ khóa: Ca Huế, sự tô điểm (hoa lá), nét nhạc, giọng Huế. ABSTRACT The artistic features of Ca Hue Not many people thoroughly know and really love Ca Hue. This article introduces the features of Ca Huế, which share some common features with other genres of Vietnamese traditional music besides its remarkable unique features. The article can serve as a reference material used for the conservation and development of Ca Hue. Keywords: Ca Hue, ornamentation, melodic pattern, intonation of Hue. 1. Mở đầu sự sai lệch về phong cách trình diễn, nội Có một thể loại âm nhạc cổ truyền dung trình diễn làm hạ thấp giá trị của gắn liền với tổng thể văn hóa Huế, nơi Ca Huế và làm công chúng có sự ngộ một thời là kinh đô hoa lệ vào bậc nhất nhận về Ca Huế. Vì vậy, cần tiến hành của Việt Nam, đó là Ca Huế. Ca Huế là nghiên cứu, phân tích, làm rõ các giá trị một trong ba thể loại âm nhạc thính nghệ thuật của Ca Huế; từ đó mới có thể phòng truyền thống tiêu biểu của Việt kêu gọi mọi người yêu mến giữ gìn, phổ Nam. Nó có sự kết hợp nhuần nhuyễn biến và phát triển loại hình nghệ thuật giữa âm nhạc cung đình và âm nhạc dân này một cách tốt nhất. gian miền Trung Việt Nam. Cái tên Ca 2. Những nét tương đồng với âm Huế được mọi người ngày nay biết đến nhạc truyền thống Việt Nam như một thể loại ca cổ truyền nhưng số Nghệ thuật Ca Huế có những đặc lượng người am hiểu về Ca Huế và thật điểm chung với các loại hình nghệ thuật sự yêu thích nó không nhiều. Không chỉ âm nhạc truyền thống Việt Nam. Một có công chúng ít hiểu biết về Ca Huế, mà trong những đặc điểm quan trọng nhất là ngay cả một phần không nhỏ những giai điệu nhạc thường đi theo thanh điệu người đang sống bằng nghề biểu diễn Ca của giọng nói địa phương. Ngôn ngữ nói Huế cũng có sự hiểu biết rất hạn chế về của người Việt gần như thống nhất về loại hình nghệ thuật này; từ đó dẫn đến ngôn từ ở mọi miền đất nước từ Bắc chí Nam, vì người Việt là cùng một nguồn cội, từ miền Bắc, theo quá trình lịch sử, * ThS, Nhạc viện TPHCM dân chúng di cư dần về phía Nam. Điểm 140
  2. Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trần Kiều Lại Thủy ___ khác biệt chủ yếu trong ngôn ngữ giữa của bài nhạc. Đoạn này không chỉ tự do các miền là thanh điệu giọng nói. Dân ca về sự sáng tạo giai điệu mà còn tự do về và âm nhạc truyền thống mang tính tiết nhịp, không cần tiết nhịp đều đặn như chuyên nghiệp của Việt Nam thường có thường thấy trong các tác phẩm âm nhạc giai điệu phát triển dựa trên đặc điểm châu Âu. Mặc dù ở châu Á, Ấn Độ cũng thanh điệu địa phương. Ca Huế cũng vậy, có kiểu dạo nhạc đầu bài gọi là Alapa, trong các bài bản Ca Huế có lời, người ta nhưng đoạn “rao” trong Ca Huế và ca thấy giai điệu phối hợp nhuần nhuyễn với nhạc Tài tử ở Việt Nam có những nét đặc thanh điệu trong lời ca để tạo nét riêng trưng riêng. Nhà nghiên cứu Trần Văn cho Ca Huế (sẽ phân tích kĩ ở phần sau). Khê cho biết: “Cái rao của chúng ta Một đặc điểm chung nữa của nghệ chẳng những tạo một bầu không khí phù thuật Ca Huế là kiểu trình tấu theo hợp với bản đàn, vui tươi cho bản Bắc, nguyên tắc thẩm mĩ “học chân phương, trang nghiêm cho bản Nhạc, êm ả cho đàn hoa lá”. Tức là khi học thì phải theo bản Xuân, buồn dịu cho bản Ai, mà còn bản dạy của thầy thật sát. Đó là những là một dịp cho nhạc công thử dây đàn nét nhạc cơ bản (chân phương). Nhưng như người kị mã thử ngựa và lúc đó khi biểu diễn, nghệ sĩ có thể thêm thắt người nhạc công có thể phô tài của mình một vài chữ nhạc để cho giai điệu và tiết hay tùy hứng sáng tác những khúc mới tấu thêm phần hào hứng (hoa lá). Tuy lạ” [4, tr.573]. nhiên trong ca nhạc Huế, phần hoa lá và Cách dạo nhạc của mỗi nhạc công những thay đổi trong chữ nhạc không cho thấy phong cách riêng của mỗi người nhiều như trong ca nhạc Tài tử miền Nam và chứng tỏ trình độ âm nhạc của từng vì Ca Huế thuộc loại bảo tồn truyền nhạc công (trình độ cảm thụ nội dung bài thống và lề luật khá nghiêm ngặt, nhất là bản, trình độ ứng tấu theo điệu thức của trong cách phân câu, phân đoạn phải rõ bài, kĩ thuật sử dụng nhạc cụ). ràng, mạch lạc. 3. Những nét đặc trưng của Ca Huế Bên cạnh các đặc điểm trên, cũng Ngoài những đặc điểm chung với như đờn ca Tài tử, nghệ thuật ca Huế còn các loại hình âm nhạc dân tộc Việt Nam, thể hiện nét đặc sắc của mình trong phần trong nghệ thuật Ca Huế, chúng ta có thể dạo đầu mỗi bài ca hay bản nhạc. Trong tìm thấy những nét rất riêng của thể loại hình thức ca có nhóm nhạc đệm, người ca âm nhạc miền Trung này. Những nét và người đàn phải kết hợp nhuần nhuyễn riêng đó góp phần tạo nên bản sắc văn với nhau. Phần dạo nhạc của người đàn là hóa Huế. yếu tố rất quan trọng dẫn dắt cảm xúc của Các buổi biểu diễn Ca Huế thường người nghe và người ca đi vào giai điệu diễn ra vào buổi tối, trong khung cảnh chính của bài. Người dạo đàn (trong âm gió mát trăng thanh. Trăng thường xuất nhạc Tài tử Nam Bộ gọi là “rao”) phải hiện trong các bài Ca Huế với vẻ đẹp mĩ đàn ngẫu hứng một đoạn nhạc mở đầu miều, lung linh, tôn thêm chất thơ cho bài với cốt lõi là thang âm điệu thức chính ca. Vẻ tĩnh mịch ban đêm cũng góp phần 141
  3. Tư liệu tham khảo Số 41 năm 2012 ___ tạo nên màu sắc đặc trưng của Ca Huế. sĩ Ca Huế thường chọn lựa lúc yên tĩnh, Trong khung cảnh đêm thanh êm đềm đó, mát mẻ để chơi nhạc. Vì vậy các buổi Ca các bài Ca Huế thường có nhịp độ chậm Huế thường được diễn ra vào ban đêm, rãi, thong dong, trữ tình. Nghệ thuật Ca không chỉ có cảnh vật xung quanh yên Huế thiên về nhịp điệu chậm. Nhịp điệu tĩnh mà cả tâm hồn của người chơi nhạc này thể hiện phong cách của người Huế: cũng phải trầm tĩnh, phong thái nghiêm chậm rãi, thong thả, điềm đạm và hay suy trang và luôn mong có được những người tư. Phong cách đàn và ca trong Ca Huế đồng điệu thưởng thức. coi trọng sự nhấn, rung, tỉ mỉ chứ thường Trong Ca Huế có 2 loại điệu thức không coi trọng tốc độ diễn tấu, diễn chính là điệu Bắc (cũng gọi là điệu xướng nhanh. Cách đàn, ca của Ca Huế khách) và điệu Nam. Trong bài báo này, phong lưu, đài các, khác với cách đàn, ca nếu chúng ta chọn độ cao của chữ hò là bình dân, phóng túng của đờn ca Tài tử nốt đô của quãng tám 1, điệu thức được miền Nam. biểu diễn trên khuông nhạc theo kiểu Ca nhạc Huế (hay Ca Huế) được châu Âu cổ điển, thì chúng ta có: các vị quý tộc quan lại cung đình triều Điệu Bắc: mang màu sắc tươi vui Nguyễn và giới trí thức sính nhạc ở Huế hoặc trang nghiêm. Hai âm Xư và Công rất coi trọng. Các buổi tụ họp sinh hoạt rung. Rất nhiều bài bản Ca Huế được Ca Huế đều được chuẩn bị kĩ càng. Nghệ diễn xướng theo điệu thức này. Ví dụ 1. Điệu Bắc Điệu Nam hơi Ai: Đây là điệu thức đặc trưng, chỉ có ở miền Trung Việt Nam. Nếu ghi âm bằng kí hiệu nốt trên khuông nhạc cổ điển châu Âu thì điệu Nam hơi Ai này cũng tương tự điệu Bắc. Nhưng khi diễn tấu thực tế thì nó có sự xê dịch “già”, “non”. Ví dụ 2. Điệu Nam hơi Ai Điệu thức này mang tính buồn thương. Có nhiều cấp độ khác nhau của sắc thái buồn được diễn tả ở điệu Nam hơi Ai này. 142
  4. Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trần Kiều Lại Thủy ___ Hơi Dựng: Hơi Dựng không phải là độ so với giọng miền Bắc. Dấu thanh một điệu thức riêng biệt. Nó là sự chuyển ngang được đưa cao lên hơn thanh ngang điệu từ điệu thức Nam sang điệu thức của miền Bắc. Thanh sắc không đứng yên Bắc (hoặc ngược lại). ở âm vực cao mà lượn từ âm vực thấp Cảm xúc chủ yếu trong các bài bản lên, nhưng điểm cao nhất cũng không cao Ca Huế là cảm xúc buồn. Những khúc ca bằng thanh sắc của miền Bắc. Thanh điệu Nam ghi dấu trong lòng người đậm nặng thì xuống thấp hơn thanh nặng miền đà hơn những khúc ca điệu Bắc. Điệu Bắc, làm cho giọng Bình Trị Thiên có vẻ Nam hơi Ai diễn tả nỗi buồn xa xăm như nặng hơn giọng Bắc. Hai thanh hỏi và vọng về từ cõi xưa, từ những câu chuyện ngã không phân biệt như ở miền Bắc. Cả buồn trong quá khứ. Qua từng bài bản hai thanh này của người Việt tại Bình Trị điệu Nam, người thưởng thức sẽ trải Thiên đều ở âm vực trầm, nhưng cao hơn nghiệm nét buồn với vẻ đẹp yêu kiều ở thanh nặng. Thanh huyền ở vị trí trung những cung bậc khác nhau. Ông Lê Văn gian, cao hơn thanh hỏi, thanh ngã, thanh Hảo có nhận xét: “ ở bài Nam xuân nặng và thấp hơn thanh ngang, thanh sắc. buồn dịu nhẹ, thanh thản, ở Nam ai buồn Sự chênh lệch không nhiều giữa các trầm lắng, nỉ non, ở Nam bình buồn bồi dấu thanh làm cho giai điệu của dân ca hồi, dịu dặt mà thanh thoát” [3, tr.1072]. Bình Trị Thiên và giai điệu Ca Huế ít phụ Nét đặc sắc của Ca Huế còn thể thuộc vào dấu thanh của lời ca như giai hiện rõ ở đường nét giai điệu. Giai điệu điệu dân ca các vùng khác trong nước. và điệu thức trong các bài bản Ca Huế Giai điệu của các bài hát miền Bình Trị được sáng tạo dựa trên giọng nói Huế. Thiên có thể tự do lên xuống, không cần Giọng nói của người Việt ở miền Bắc có chú trọng nhiều đến dấu thanh trong lời đầy đủ sáu dấu thanh: ngang, huyền, sắc, ca mà người nghe cũng không cảm thấy nặng, hỏi, ngã. Nhưng khi người Việt di có sự khiên cưỡng. Có lẽ đó cũng là lí do cư vào chung sống với cư dân địa các nhà sáng tác có thể dễ dàng ghép phương vùng Bình Trị Thiên, ngôn ngữ nhiều lời ca khác nhau vào một giai điệu tiếng Việt có nhiều biến đổi, chủ yếu là Ca Huế có trước. về cao độ của các dấu thanh. Vùng Bình Mặt khác, tiếng nói “trọ trẹ” của Trị Thiên xưa thuộc vương quốc Chăm- người Bình Trị Thiên hợp với giai điệu pa. Ngôn ngữ của người Chăm không Ca Huế làm thành một chất riêng đặc thù, phân biệt ngữ nghĩa theo các dấu thanh phân biệt rõ với các vùng khác. Ông Ưng như người Việt. Cao độ lên xuống trong Bình nhận định: “Gọi là Ca Huế, vì thanh giọng nói người Chăm cũng không có âm người Huế hợp với điệu ca này, mà khoảng cách xa như người Việt. Vì thế xứ Huế như người Quảng Trị với Quảng khi ngôn ngữ Việt vùng Bình Trị Thiên Bình cũng ca được, còn từ Linh Giang dĩ bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ Chăm, Bắc, Hải Vân quan dĩ Nam đều có người khoảng cách các dấu thanh cũng gần lại. ca, mà ca giỏi thế nào cũng có nơi trạy Hơn nữa, một số dấu thanh của vùng bẹ, ấy là câu chuyện ai cũng biết rồi ” Bình Trị Thiên còn bị biến đổi thứ tự cao [1, tr.3]. 143
  5. Tư liệu tham khảo Số 41 năm 2012 ___ Ví dụ 3. Trích đoạn đầu bài Nam Ai do Đào Quý Duy sưu tầm và ghi âm [5] Ví dụ 3 cho thấy giai điệu nốt nhạc giai điệu lại xuống thấp tới nốt đô 1. Từ ở chữ “lui” vuốt từ nốt sol 1 lên cao “ngập ngừng” xuất hiện lần thứ hai cũng quãng 4 đến nốt đô 2. Sau đó giai điệu lại vậy, cao độ của chữ “ngập” (la - sol) vẫn xuống thấp ở 2 chữ “cố quốc” tiếp theo. cao hơn chữ “ngừng” (mi - rê - fa). Vậy trong đoạn này, thanh ngang cao hơn Ví dụ 4 dưới đây cho thấy sự phối hẳn thanh sắc, chỗ xa nhất là một quãng 8 hợp giữa giai điệu nhạc và dấu thanh (từ đô 1 đến đô 2). Tiếp theo, chúng ta trong ca từ tạo nên chất riêng phân biệt thấy chữ “ngập” ở thanh nặng mà giai Ca Huế và dân ca Bình Trị Thiên; Đó là điệu lại vuốt lên từ nốt fa 1 đến đô 2. trích đoạn bài Tứ đại cảnh do Dương Trong khi chữ “ngừng” ở thanh huyền thì Tiến Trường kí âm [2, phụ lục]. Ví dụ 4. Chúng tôi tạm thời đánh số ô nhịp ngược với thứ tự cao độ dấu thanh ở đoạn nhạc này theo thứ tự 1, 2, 3 để miền Bắc và miền Nam (ở hai miền này, tiện việc theo dõi. Ở ô nhịp 1, quãng 8 người dân thường đọc thanh ngã cao hơn đúng từ sol trung tới sol 1 (2 nốt trong thanh huyền). ngoặc) ứng với chữ “nhớ” luyến từ dưới Ở ô nhịp 5, hai nốt trong ngoặc lên, mô phỏng cách phát âm các từ có luyến lên quãng 4 (sol - đô), ứng với chữ thanh sắc trong giọng Huế. Ô nhịp 2, “câu”. Chữ “câu” ở thanh ngang, thông phần nốt trong ngoặc ứng với chữ “vườn” thường ở các vùng miền khác được hát và chữ “cũ”. Chúng ta thấy cao độ nốt chỉ ở một cao độ. Ở ô nhịp 5 này, nó nhạc của chữ “vườn” từ trên luyến xuống được đi qua hai cao độ, luyến lên quãng (fa - rê), cao hơn chữ “cũ” (đô), trái 4, mô phỏng cách phát âm có ý nhấn 144
  6. Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trần Kiều Lại Thủy ___ mạnh các từ thanh ngang của dân Bình “nhớ” thanh sắc từ dưới luyến lên (đô - Trị Thiên. rê). Các nốt trong ngoặc ở ô nhịp 6 là Có lẽ do khoảng cách dấu thanh sự kết hợp khéo léo giữa giai điệu và dấu gần nhau, khó phân biệt, giai điệu hát lại thanh của lời ca để thể hiện đặc điểm độc dễ dàng biến hóa lên xuống hơn. Trong đáo của người Bình Trị Thiên là đọc âm rất nhiều bài Ca Huế, chúng ta sẽ thấy ở thanh ngang cao hơn âm ở thanh sắc. các quãng nhảy xa về cao độ thường Chữ “thương” thanh ngang được luyến từ xuyên xuất hiện, như ví dụ 5 sau đây: trên cao xuống (la - sol), cao hơn chữ Ví dụ 5. Trích đoạn đầu bài Nam Bình [5] Những chỗ có đánh dấu ngoặc là chỗ có quãng nhảy xa về cao độ. Cả năm vị trí có dấu ngoặc nhảy quãng, chúng ta đều thấy lời ca được luyến lên hoặc luyến xuống tương đối xa (quãng 4, quãng 5, quãng 6). Sự luyến lên xuống những quãng xa như vậy tạo màu sắc đặc trưng cho Ca Huế. Bài Nam Ai [5] cũng có nhiều chỗ nhảy quãng xa tương tự: Ví dụ 6. 145
  7. Tư liệu tham khảo Số 41 năm 2012 ___ Cách phát âm địa phương từ vùng “hoang”; “làn” và “làng” đều phát âm là Bình Trị Thiên trở vào phía Nam Việt “làng”. Nam có những đặc điểm khác với phát - Vần “oi” phát âm thành gần như âm miền Bắc. Đặc điểm này cũng thể “ôay”: “noi gương” phát âm thành “nôay hiện trong thể loại Ca Huế. Có thể nêu gương”; “coi ngó” phát âm thành “côay một số ví dụ như sau: ngó”. - Một số tiếng không phân biệt phụ Trong tiếng địa phương của miền âm cuối “t” và “c”, đều phát âm như phụ Trung Việt Nam có những từ dùng khác âm cuối “c”: “việc” và “Việt” đều phát hẳn với các vùng khác. Những từ đó là: âm là “việc”; “mác” và “mát” đều phát mô, tê, răng, rứa, ni, ri, tề Các từ địa âm là “mác”. phương này xuất hiện nhiều trong dân ca - Không phân biệt phụ âm cuối “n” Bình Trị Thiên. Và theo dòng dân ca, nó và “ng”, đều phát âm như phụ âm cuối dần đi vào thể loại Ca Huế. “ng”: “hoan” và “hoang” đều phát âm là Ví dụ 7. Bài Lí Hoài Nam [2, tr.phụ lục] Các từ mô, tê, răng, rứa này răng, rứa là từ bình dân trong dân gian không hề thấy xuất hiện trong Ca Huế nên không được đưa vào. Chỉ khi nhà kinh điển từ đầu thế kỉ XX trở về trước. Nguyễn sụp đổ, thì thể loại Ca Huế mới Có lẽ do quan niệm của các quan lại, trí được đến gần với người bình dân, được thức triều nhà Nguyễn cho Ca Huế là thể nuôi dưỡng và phát triển. Người dân đưa loại âm nhạc bác học, và các từ mô, tê, dần dân ca vào Ca Huế và đưa luôn cả 146
  8. Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trần Kiều Lại Thủy ___ mô, tê, răng, rứa vào thể loại nhạc Về nhịp, trong âm nhạc truyền chuyên nghiệp này. thống Huế nói chung và Ca Huế nói riêng Người hát Ca Huế phải luyện tập có các loại: nhịp chính diện (chánh diện công phu cách phát âm để hát cho thật rõ phách), nhịp nội (nội phách), nhịp ngoại lời. Ca nương hát phải “nhả chữ” cho (ngoại phách). Nhịp chính diện là gõ nhịp “tròn vành rõ chữ” theo đặc điểm tiếng ngay vào chữ đàn hoặc lời ca. Nhịp chính địa phương vùng Bình Trị Thiên. Giai diện làm cho câu nhạc rõ ràng, chân điệu phần hát trong thể loại Ca Huế được phương. Trong khi đó, nhịp nội và nhịp sáng tác, tập dượt, trau chuốt kĩ càng theo ngoại mang tính phá cách, thu hút sự chú những nguyên tắc nhất định. Điều này ý của người nghe vì nó nhịp ra ngoài chữ chứng tỏ tính bác học của nghệ thuật Ca đàn hoặc lời ca. Nhịp nội là gõ nhịp Huế. Trong kĩ thuật hát Ca Huế có những ngoài chữ đàn (hay lời ca) mà còn trong kĩ thuật đưa hơi, rung, luyến đặc trưng, câu nhạc. Nhịp nội là gõ nhịp ngoài chữ sử dụng giọng cổ, giọng óc cho đến đàn (hay lời ca) mà ngoài câu nhạc. Sự nay chỉ có thể được truyền thụ bằng kết hợp hài hòa giữa các loại nhịp chính phương pháp truyền khẩu, thị phạm trực diện, nhịp nội và nhịp ngoại làm cho bản tiếp chứ không thể diễn tả, ghi chép đàn, bài ca có sự uyển chuyển, tinh tế. chính xác được. Thứ tự bài bản trong các buổi trình Nghệ thuật hòa đàn và kĩ thuật sử diễn Ca Huế cũng là yếu tố được các dụng nhạc cụ trong ca nhạc Huế cũng có nghệ nhân Ca Huế “sành điệu” rất chú nhiều nét riêng. Cũng như kĩ thuật ca, trọng vì nó góp phần không nhỏ trong trong kĩ thuật đàn Huế, “nhấn” và “rung” việc dẫn dắt cảm xúc của người nghe. là quan trọng nhất. Cùng gọi là “nhấn” và Ông Văn Thanh, một người yêu Ca Huế “rung”, nhưng phải nhấn và rung sao cho và có những nghiên cứu nghiêm túc về ra “chất Huế”, phải phân biệt với lối nhấn Ca Huế nêu đặc điểm thứ tự bài bản Ca và rung của âm nhạc các địa phương Huế như sau: “ Mở đầu bao giờ cũng khác. “Chất Huế” đó là chỗ tế nhị, kì diệu là một số bài bản thuộc cung Bắc, sau đó mà hầu như chỉ có người Việt Nam, đặc mới bắt sang các bài bản thuộc cung biệt là người Bình Trị Thiên mới “làm Nam. Và nếu ta đã thưởng thức nhiều về ra” được. Theo ghi chép của nhà nghiên đàn ca Huế, ta sẽ nhận thấy rằng chính cứu Lê Văn Hảo, cách sử dụng nhạc cụ những bài cung Bắc đi trước làm nổi bật dây trong ca nhạc Huế có nhiều “ngón những bài cung Nam đi sau. Khi bản đàn nhấn” khác nhau như: nhấn nửa bực, cung Bắc vừa chấm dứt, dư âm rộn rã, nhấn một bực, nhấn một bực rưỡi, nhấn vui tươi của điệu nhạc như còn phảng hai bực, thậm chí nhấn đến ba bực, nhấn phất chưa lắng đọng hẳn mà nhạc công vuốt, nhấn mổ, nhấn nhảy, nhấn rung, dạo lên mấy tiếng đàn hơi Ai thật chải chầy, hưởng, vả, mổ, bấm, bịt, day, chớp, chuốt, mơ buồn thì không khí phòng nhạc búng, phi, rải [3, tr.1083] bỗng như thay đổi hẳn. Nó có thể ví như đang từ một không khí oi bức của mùa 147
  9. Tư liệu tham khảo Số 41 năm 2012 ___ hạ, bỗng một cơn gió heo may từ đâu thổi nhạc. Các đặc điểm này chứng tỏ Ca Huế đến báo hiệu cảnh thu sang khiến lòng ta nằm trong cùng một hệ thống âm nhạc như bâng khuâng xao xuyến” [5, tr.23- truyền thống của dân tộc Việt Nam. Bên 24]. cạnh đó, Ca Huế có những đặc trưng rất Nhận xét trên cho thấy, thật ra thứ độc đáo, phân biệt với âm nhạc các vùng tự bài bản Ca Huế trong các buổi trình miền khác như: giai điệu sáng tạo dựa diễn không phải được sắp xếp theo một trên giọng Huế, không gian diễn yên tĩnh thứ tự tỉ mỉ, chi tiết mà được xếp theo thứ vào buổi tối, có trăng thanh gió mát, nhịp tự điệu thức từ Bắc sang Nam để dẫn dắt điệu chậm, cảm xúc buồn, thứ tự bài bản cảm xúc người nghe từ vui sang buồn. sắp xếp từ điệu Bắc sang điệu Nam. Các bài bản trong cùng một điệu thức thì Những đặc trưng này góp phần tạo nên không cần theo thứ tự nhất định. bản sắc riêng của văn hóa xứ Huế. Với 4. Kết luận những giá trị nghệ thuật đặc sắc như vậy, Nghệ thuật Ca Huế có những nét Ca Huế xứng đáng là một trong những chung với các loại hình nghệ thuật âm loại hình văn hóa tiêu biểu cho văn hóa nhạc cổ truyền của Việt Nam như cách Huế nói riêng và văn hóa Việt Nam nói trình tấu “chân phương – hoa lá”, giai chung, cần được chăm sóc, giữ gìn và điệu đi theo thanh điệu giọng nói và phần phát triển đúng mức, đúng hướng. dạo nhạc tự do, dẫn dắt cảm xúc đầu bản TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ưng Bình (1954), Bán buồn mua vui, Vĩ Dạ, Huế. 2. Dương Bích Hà (2009), Ca Huế, Khóa luận tốt nghiệp đại học ngành Lí luận âm nhạc, Học viện Âm nhạc Huế. 3. Lê Văn Hảo (2004), “Một vốn quý trong kho tàng âm nhạc Việt Nam cổ truyền”, Hợp tuyển tài liệu nghiên cứu – lí luận – phê bình âm nhạc Việt Nam thế kỉ XX, tập 2A, Viện Âm nhạc, Hà Nội, tr. 1072-1092. 4. Trần Văn Khê (2004), “Vài cái hay, cái dở trong âm nhạc Việt”, Hợp tuyển tài liệu nghiên cứu – lí luận – phê bình âm nhạc Việt Nam thế kỉ XX, tập 2A, Viện Âm nhạc, Hà Nội, tr. 565-575. 5. Văn Thanh (1989), Tìm hiểu Ca Huế và dân ca Bình Trị Thiên, Sở Văn hóa Thông tin Bình Trị Thiên, Huế. (Ngày Tòa soạn nhận được bài: 11-9-2012; ngày phản biện đánh giá: 04-10-2012; ngày chấp nhận đăng: 20-10-2012) 148