Đại cương Kinh tế thương mại

pdf 57 trang hapham 2860
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đại cương Kinh tế thương mại", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfdai_cuong_kinh_te_thuong_mai.pdf

Nội dung text: Đại cương Kinh tế thương mại

  1. Chương 1: Chương mở đầu 1.1. Bản chất kinh tế của thương mại 1.1.2. Bản chất kinh tế của thương mại 1.1.2.1. Một số cách tiếp cận khi nghiên cứu bản chất kinh tế của Thương mại Nghiên cứu bản chất kinh tế của Thương mại chúng ta có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Trong giáo trình này chúng tôi sẽ đề cập tới 3 cách tiếp cận cơ bản nhất: a. Thương mại - hoạt động kinh tế. Nếu nhìn dưới góc độ một hoạt động kinh tế thì thương mại là một trong những hoạt động kinh tế cơ bản và rất phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Mọi hoạt động thương mại đều bắt đầu bằng hành vi mua hàng và kết thúc bằng hoạt động bán.Mục đích của hoạt động thương mại là nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Có thể tóm tắt hoạt động thương mại bằng công thức sau: T - H - T' . Đối tượng của các hoạt động thương mại là các hàng hóa vá dịch vụ. Chủ thể của hoạt động thưong mại gồm những người bán (người sản xuất hàng hóa, người cung ứng dịch vụ, thương gia ) và những người mua( người sản xuất, thương gia, những người tiêu dùng).Tuy nhiên tham gia vào hoạt động thương mại còn có một số người khác như : người môi giới, người đại lý thương mại Hoạt động thương mại xảy ra trong khâu lưu thông, trên thị trường với những điều kiện kinh tế, xã hôi, luật pháp, chính tri, và môi trường vật chất cụ thể. Trong hành vi mua, người ta chuyển đổi hình thái giá trị của hàng hóa từ hình thái tiền tệ sang hình thái hiện vật và cùng với quá trình này là sự chuyển đổi về sở hữu, người mua đổi quyền sở hữu tiền tệ để có được quyền sở hữu hàng hóa. Nhờ vậy mà có được quyền sử dụng sản phẩm cho việc thỏa mãn nhu cầu. Trong hành vi bán hàng, quá trình diễn ra hoàn toàn ngược lại. Hoạt động thương mại là một quá trình bao gồm các hoạt động cơ bản là mua và bán. Ngoài các hoạt động cơ bản còn có các hoạt động hỗ trợ cho các hoạt động mua bán, người ta gọi chung các hoạt động này là dịch vụ thương mại. Dịch vụ thương mại gồm tất cả những hoạt động thương mại ngoài hoạt động thương mại cơ bản (hoạt động mua và bán ), chúng phát sinh gắn với mua bán, hỗ trợ cho mua bán được thực hiện nhanh chóng và có hiệu quả. Hoạt động thương mại được tiến hành theo nguyên tắc tự nguyện, tự thỏa thuận và cùng có lợi. Vì thế quá trình mua bán vừa là quá trình cạnh tranh vừa là quá trình hợp tác giữa người bán và người mua. 1
  2. Thông qua các hoạt động thương mại, người bán đạt được giá trị nhằm mục đích lợi nhuận, người mua có được giá trị sử dụng để thỏa mãn các nhu cầu tiêu dùng khác nhau. Chính nhờ hoạt động thương mại mà sản xuất và tiêu dùng nối liền với nhau trong điều kiện của kinh tế hàng hóa. b. Thương mại - khâu trao đổi (lưu thông) của quá trình tái sản xuất xã hội Tái sản xuất xã hội gồm 4 khâu cơ bản: Sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Bốn khâu này có quan hệ mật thiết và tác động qua lại với nhau trong đó mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng là mối quan hệ cơ bản nhất. Là hình thái phát triển của trao đổi và lưu thông hàng hóa, thương mại được coi là một khâu cơ bản của tái sản xuất. Thương mại chính là khâu trao đổi nằm trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng. Trong điều kiện xã hội hóa sản xuất và lưu thông hàng hóa ngày một phát triển, hàng hóa được tạo ra trong khâu sản xuất, sau đó được chuyển sang khâu lưu thông qua các giai đoạn khác nhau của khâu lưu thông: Mua > Vận chuyển > Dự trữ > Bán. Kết thúc khâu lưu thông, hàng hóa sẽ được chuyển sang lĩnh vực tiêu dùng. Trong điều kiện kinh tế hàng hóa, đại bộ phận các sản phẩm và dịch vụ được sản xuất ra đều phải trải qua khâu lưu thông, thông qua hoạt động mua bán bằng tiền mới có thể chuyển sang lĩnh vực tiêu dùng để thỏa mãn nhu cầu khác nhau của xã hội. Vì thế khâu lưu thông rất quan trọng. Nó là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Nền kinh tế hàng hóa giống như một cơ thể sống. Trong đó, lưu thông hàng hóa, thương mại được xem như hệ tuần hoàn. Thương mại phát triển, lưu thông hàng hóa thông suốt là biểu hiện của nền kinh tế lành mạnh, thịnh vượng. c. Thương mại - ngành kinh tế Nếu nhìn dưới giác độ phân công lao động xã hội thì thương mại được coi là một ngành kinh tế độc lập của nền kinh tế. Ngành thương mại chuyên đảm nhận chức năng tổ chức lưu thông hàng hóa và cung ứng các dịch vụ cho xã hội thông qua việc thực hiện mua bán nhằm sinh lợi. 1.1.2.2. Bản chất kinh tế của Thương mại Nghiên cứu Thương mại dưới các góc độ cơ bản: Hoạt động kinh tế, khâu của quá trình tái sản xuất xã hội cũng như góc độ ngành kinh tế của nền kinh tế quốc dân, chúng ta đều nhận thấy đặc trưng chung nhất của Thương mại là buôn bán, trao đổi hàng hóa và cung ứng dịch vụ gắn với tiền tệ và nhằm mục đích lợi nhuận. Từ đó có thể rút ra bản chất kinh tế chung của Thương mại là: Thương mại là tổng hợp các hiện tượng, các hoạt động và các quan hệ kinh tế gắn và phát sinh cùng với trao đổi hàng hóa và cung ứng dịch vụ nhằmi mục đích lợi nhuận. 2
  3. Thương mại, tiếng Anh là “Commerce” , ngoài ra còn có thuật ngữ khác là Trade, tiếng Pháp “Commerce”, tiếng Latinh “Commercium”, về cơ bản các từ này đều được hiểu là buôn bán hàng hóa với mục đích sinh lợi. Luật Thương mại của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng ghi: Hoạt động Thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi bao gồm: mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động sinh lợi khác. 1.1.3. Phân loại Thương mại 1.1.3.1. Theo phạm vi hoạt động thương mại Người ta phân thành Thương mại nội địa (nội thương) và Thương mại Quốc tế (ngoại thương) Thương mại nội địa có thể được phân thành: Thương mại thành thị và Thương mại nông thôn, Thương mại vùng đặc biệt,thương mại biên giới, thương mại vùng sâu, vùng xa, Thương mại nội địa phản ánh những quan hệ kinh tế thị trường của các chủ thể kinh tế của một quốc gia. Các hoạt động thương mại nội địa về cơ bản diễn ra trong phạm vi biên giới của một quốc gia. Thương mại Quốc tế bao gồm việc mua bán hàng hóa và dịch vụ qua biên giới quốc gia có thể ở phạm vi toàn cầu (WTO), có thể ở phạm vi khu vực (EU, ASEAN ) hoặc thương mại song phương giữa 2 quốc gia. Thương mại quốc tế phản ánh những mối quan hệ kinh tế thương mại giữa các chủ thể kinh tế của các quốc gia với nhau. Chúng tuân thủ những luật lệ và những thông lệ buôn bán toàn cầu, khu vực và các hiệp định thương mại ký kết song phương giữa các quốc gia. Trong hoạt động ngoại thương, xuất khẩu là việc bán hàng hóa và dịch vụ cho nước ngoài và nhập khẩu là việc mua hàng hóa và dịch vụ của nước ngoài. Ngoại thương là hoạt động kinh tế đã có từ rất lâu, nhưng ngoại thương chỉ thực sự phát triển trong thời đại Tư bản chủ nghĩa. Ngày nay toàn cầu hóa kinh tế thế giới và tự do hóa thương mại là một xu hướng phổ biến, thì sự phát triển ngoại thương hết sức mạnh mẽ. Ngoại thương không chỉ có ý nghĩa đơn thuần là sự trao đổi buôn bán với bên ngoài mà thực chất cùng với các quan hệ kinh tế đối ngoại khác ngoại thương tham gia vào phân công lao động quốc tế. Thương mại nội địa diễn ra trên thị trường nội địa, ngoại thương là hoạt động thương mại diễn ra trên thị trường quốc tế. Thị trường thế giới và thị trường nội địa là những thị trường khác nhau vì vậy thương mại nội địa và ngoại thương được thực hiện theo những hình thức và phương pháp hoàn toàn không giống nhau. 1.1.3.2. Theo các khâu của quá trình lưu thông Người ta phân thành Thương mại bán buôn và thương mại bán lẻ. 3
  4. Thương mại bán buôn chủ yếu xảy ra trong lĩnh vực buôn bán các sản phẩm vật thể. Chủ thể của hoạt động thương mại bán buôn là những nhà sản xuất và thương gia. Chúng phản ánh các mối quan hệ kinh tế thương mại giữa những nhà sản xuất, giữa nhà sản xuất với thương gia và giữa những người thương gia với nhau. Khi hoàn thành các hoạt động mua bán buôn, hàng hóa vẫn chưa kết thúc quá trình lưu thông, chúng nằm lại trong khâu sản xuất để sau khi kết thúc sản xuất lại tiếp tục quay trở lại lưu thông hoặc vẫn nằm trong lưu thông để chờ bán cho người tiêu dùng cuối cùng. Thương mại bán lẻ: phản ánh mối quan hệ buôn bán hàng hóa và các dịch vụ giữa những nhà sản xuất, nhà cung ứng dịch vụ hoặc các thương gia với bên kia là những người tiêu dùng cuối cùng. Khi hoàn thành các hoạt động mua, bán lẻ hàng hóa sẽ kết thúc quá trình lưu thông và đi vào lĩnh vực tiêu dùng để thỏa mãn những nhu cầu khác nhau của xã hội. Sự phân biệt giữa thương mại bán buôn và thương mại bán lẻ dựa chủ yếu về sự khác biệt theo các khâu của quá trình lưu thông của sản phẩm. Bất kỳ mối quan hệ thương mại nào mà một bên có sự tham gia của người tiêu dùng cuối cùng quan hệ thương mại đó thuộc về thương mại bán lẻ và ngược lại thì đó là thương mại bán buôn. Các hoạt động bán buôn diễn ra ở các chợ đầu mối, thị trường với trung tâm buôn bán trong nước và quốc tế Ngược lại, hoạt động bán lẻ diễn ra ở các chợ, các cửa hàng chuyên doanh, tổng hợp, các siêu thị, hội chợ thương mại 1.1.3.3. Theo đối tượng của hoạt động thương mại Ngưới ta phân thành thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ. Thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ là những khái niệm phân biệt với nhau chủ yếu dựa vào sự khác biệt về đối tượng của hoạt động trao đổi trong thương mại. Nếu thương mại hàng hóa về cơ bản là trao đổi các sản phẩm hữu hình thì Thương mại dịch vụ là lĩnh vực trao đổi, mua bán các sản phẩm “vô hình” . Thương mại dịch vụ là lĩnh vực rất rộng và phức tạp. Trong nền kinh tế hiện đại, thương mại dịch vụ ngày càng phát triển mạnh mẽ. Thương mại dịch vụ tồn tại song song cùng thương mại hàng hóa và ngày càng giữ vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế của xã hội hiện đại. Thương mại hàng hóa gồm thương mại hàng tư liệu sản xuất và thương mại hàng tiêu dùng. Người ta có thể phân chia thương mại theo từng nhóm hàng. Ví dụ: Thương mại về hàng công nghiệp, hàng nông sản, thực phẩm, thủy sản,hay theo mặt hàng Ví dụ như: gạo, cà phê, chè hay sắt thép, máy nông nghiệp 1.1.3.4. Theo kỹ thuật trao đổi, buôn bán Người ta phân thành thương mại truyền thống và thương mại điện tử. 4
  5. Sự phân biệt giữa hai khái niệm này dựa trên sự khác biệt về các phương thức mua bán trong thương mại. Các phương thức mua bán trong thương mại truyền thống được xẩy ra trong môi trường tự nhiên ở đó người mua, người bán thường tiếp xúc trực tiếp trên thị trường dưới nhiều hình thức khác nhau.Trong thương mại truyền thống người mua người bán gặp gỡ trực tiếp, tiến hành các giao dịch mua bán ở các chợ, siêu thị, trung tâm thương mại, hội chợ triển lãm thương mại truyền thống đã có từ rất lâu cùng với sự ra đời của trao đổi . Ngược lại, thương mại điện tử là một phương thức trao đổi mua bán bằng phương pháp điện tử trong môi trường điện tử. Thương mại điện tử chỉ xuất hiện trong xã hội hiện đại. Hiện nay thương mại điện tử đang phát triển rất nhanh chóng trên toàn thế giới và đó là xu hướng phát triển tất yếu vừa là yếu tố hợp thành của nền kinh tế số hóa. Theo định nghĩa phổ biến hiện nay, thương mại điện tử là phương thức hoạt động thương mại bằng các phương pháp điện tử, là việc trao đổi thông tin thương mại thông qua các phương tiện công nghệ điện tử mà không cần phải in ra giấy trong bất cứ công đoạn nào của quá trình giao dịch. Các phương tiện điện tử được sử dụng trong phương thức mua bán này rất đa dạng: điện thoại, máy fax, truyền hình,các hệ thống thiết bị công nghệ thanh toán điện tử, các mạng nội bộ (intranet), mạng ngoại bộ (extranet), mạng toàn cầu internet Cần lưu ý rằng “Thương mại điện tử” còn được hiểu theo nghĩa rộng hơn so với cách hiểu thông thường chỉ là buôn bán các hàng hóa và dịch vụ. Trong thực tế, áp dụng thương mại điện tử sẽ làm thay đổi hình thái hoạt động của gần như tất cả các hoạt động kinh tế. Thương mại điện tử sẽ trở thành phương thức thương mại phổ biến trong xã hội tương lai, tuy nhiên thương mại truyền thống vẫn giữ nguyên giá trị về kinh tế và văn hóa, nó vẫn tồn tại song song cùng với thương mại điện tử mặc dù kinh tế thị trường và thương mại thế giới không ngừng mở rộng và phát triển. 1.1.3.5. Phân loại theo mức độ cản trở thương mại Người ta phân thành thương mại có bảo hộ và thương mại tự do hóa. Thương mại bảo hộ thường được các quốc gia áp dụng trong một số lĩnh vực nhạy cảm để bảo vệ các lợi ích quốc gia hoặc để bảo vệ sản xuất trong nước, nhất là đối với những ngành công nghiệp non trẻ, mới hình thành. Các biện pháp thường được sử dụng trong thương mại bảo hộ là thuế quan và các biện pháp phi thuế quan như: các biện pháp hành chính, cấm nhập khẩu, hạn ngạch, giấy phép, các quy định kỹ thuật, các tiêu chuẩn đồng thời các quốc gia còn có thể áp dụng nhiều chính sách ưu đãi đối với sản xuất trong nước. 5
  6. Thương mại tự do hóa được thể hiện qua việc xóa bỏ và giảm thiểu hàng rào thuế quan, dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan, bảo đảm quyền tự do kinh doanh cho các thương nhân, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa trong nước và quốc tế lưu thông thông suốt. Thương mại tự do hóa có nhiều cấp độ và hình thức khác nhau. 1.2. Những lý thuyết cơ bản và lợi thế so sánh trong thương mại 1.2.1. Lý thuyết của Adam Smith Lý thuyết về lợi thế so sánh tuyệt đối ra đời vào cuối thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XIX. Người đề xướng đầu tiên là David Hume (1752) tiếp đến là Adam Smith (1723-1790) và sau đó được tiếp tục phát triển bởi những người kế tục của ông. Lợi thế tuyệt đối đề cập tới số lượng của một loại sản phẩm có thể được sản xuất, khi sử dụng cùng một nguồn lực ở hai nước khác nhau. Lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất một loại sản phẩm có thể do các lợi thế tự nhiên hoặc các lợi thế có được do kỹ thuật và sự lành nghề. Theo lý thuyết lợi thế so sánh tuyệt đối thì các quốc gia nên chuyên môn hóa sản xuất những sản phẩm mà họ có lợi thế tuyệt đối sau đó bán những hàng hóa này sang quốc gia khác để đổi lấy các sản phẩm mà nước ngoài có lợi thế hơn. Bằng việc chuyên môn hóa sản xuất những sản phẩm có lợi thế tuyệt đối cả hai quốc gia đều có lợi khi quan hệ thương mại với nhau. Ví dụ: Nước Mỹ có điều kiện tự nhiên thuận lợi trong việc trồng lúa mì. Ngược lại nước Anh có nhiều thuận lợi trong sản xuất vải vóc. Khi đó nước Mỹ sẽ chuyên môn hóa sản xuất lúa mì còn nước Anh sẽ chuyên môn hóa sản xuất vải vóc. Nước Anh sẽ sản xuất được nhiều vải vóc hơn và nước Mỹ cũng sẽ sản xuất được nhiều lúa mì hơn so với khi hai nước đó còn ở tình trạng tự túc tự cấp. Nước Mỹ sẽ tiến hành trao đổi một phần lúa mì để đổi lấy một lượng vải vóc của nước Anh. Người ta cũng chứng minh được rằng cả 2 nước Mỹ và Anh sẽ cùng được hưởng lợi nhờ quan hệ thương mại với nhau. 1.2.2.Lý thuyết của D. Recardo hay còn gọi là lý thuyết về lợi thế so sánh Nhược điểm của lý thuyết về lợi thế so sánh tuyệt đối của A. Smith là không lý giải được hoạt động thương mại khi một trong hai nước có lợi thế tuyệt đối sản xuất tất cả các mặt hàng. David Ricardo đã phát triển và đưa ra một lý thuyết tổng quát hơn về thương mại so với lý thuyết của A. Smith đó là Lý thuyết lợi thế so sánh. Lí thuyết này được trình bày trong tác phẩm “những nguyên lý của kinh tế chính trị học 1817”. Theo D. Ricardo thương mại giữa 2 nước dựa trên lợi thế tương đối. Lợi thế tương đối hay còn gọi là lợi thế so sánh đề cập tới việc các quốc gia có thể sản xuất ra khối lượng các mặt hàng giống nhau khi sử dụng các nguồn lực như nhau nhưng với chi phí khác nhau. 6
  7. Do sự không đồng đều về lợi thế tuyệt đối, nếu mỗi nước chuyên môn hóa vào sản xuất mặt hàng có lợi thế tuyệt đối lớn hơn và dùng một phần để trao đổi với nước khác bằng mặt hàng có lợi thế tuyệt đối nhỏ hơn thì cả 2 nước sẽ cùng thu được lợi ích thông qua thương mại. Ví dụ: Có 2 nước X và Y và cùng có 2 loại hàng dệt may và lúa mì. Chi phí sản xuất hàng dệt may của nước X a = Chi phí sản xuất hàng dệt may của nước Y Chi phí sản xuất lúa mì của nước X b = Chi phí sản xuất lúa mì của nước Y Nếu a < b thì nước X nên chuyên môn hóa vào sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may và ngược lại nước Y chuyên môn hóa vào sản xuất và xuất khẩu lúa mì. Sau quá trình chuyên môn hóa và thương mại, tổng sản phẩm hàng dệt may và lúa mì mà 2 nước sản xuất đều tăng lên và số lượng hàng hóa mà người dân của mỗi nước có thể tiêu dùng đều được cải thiện. 1.2.3.Lý thuyết của Haberler về lợi thế so sánh Lợi thế tương đối là một khái niệm rất quan trọng của kinh tế học. Hạn chế của David Ricardo ở chỗ mới chỉ đề cập đến khái niệm lợi thế tương đối trên cơ sở lý thuyết về lao động, trong khi đó lao động lại chỉ là một yếu tố của sản xuất. Haberler đã đưa ra cách giải thích toàn diện hơn dựa trên lý thuyết về chi phí cơ hội. Theo Haberler, chi phí cơ hội của hàng hóa là số lượng các hàng hóa khác phải cắt giảm để nhường lại đủ các nguồn tài nguyên để sản xuất thêm 1 đơn vị hàng hóa thứ nhất. Một nước có lợi thế tương đối về sản xuất một mặt hàng nào đó so với nước khác khi nó có thể sản xuất mặt hàng đó với chi phí cơ hội thấp hơn so với nước khác. Ví dụ: ở 2 nước X và Y khi không có thương mại quốc tế thì X phải bỏ đi 2/3 số đơn vị của vải để sản xuất thêm 1 đơn vị của thép. Như thế chi phí cơ hội sản xuất thép ở X là 1 thép = 2/3 đơn vị vải vóc. Còn ngược lại, chi phí cơ hội về thép ở nước Y là 1 thép = 2 vải. Vậy là nước X có lợi thế về sản xuất thép còn nước Y có lợi thế tương đối trong sản xuất vải. Theo lập luận của lý thuyết này thì mỗi quốc gia đều có lợi thế so sánh so với một quốc gia khác trong việc sản xuất một sản phẩm khi mà chi phí cơ hội để sản xuất sản phẩm này ở quốc gia này là rẻ hơn so với quốc gia khác. Và theo đó, mỗi quốc gia nên chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm mà mình có lợi thế so sánh để đổi lấy các sản phẩm mà nước khác sản xuất rẻ hơn một cách tương đối. Người ta cũng chứng minh được rằng trong quan hệ thương mại này cả 2 quốc gia đều cùng có lợi. 7
  8. 1.2.4.Lý thuyết của Heckscher – Ohlin Hai nhà kinh tế học Thụy Điển Eli Heckscher (1919) và Recto Ohlin (1933) đưa ra một cách giải thích khác về nguồn gốc của lợi thế so sánh. Theo hai ông, lợi thế so sánh của một quốc gia xuất phát từ sự khác biệt về mức độ sẵn có của các yếu tố sản xuất. Các yếu tố sản xuất mà lý thuyết này đề cập là: đất đai, lao động và tư bản. Trên cơ sở lý thuyết về lợi thế tương đối, Heckscher và Ohlin đã phân tích ảnh hưởng của các yếu tố sản xuất tiềm tàng đến thương mại và giải thích các động thái thương mại xuất phát từ sự khác nhau về mức độ sẵn có của các yếu tố sản xuất. Một quốc gia sẽ chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng mà việc sản xuất chúng sử dụng nhiều yếu tố sản xuất mà nước đó tương đối dư thừa và rẻ, đồng thời sẽ nhập khẩu những mặt hàng khi sản xuất chúng đòi hỏi sử dụng nhiều yếu tố sản xuất mà nước đó tương đối khan hiếm và đắt. Cụ thể một quốc gia tương đối dư thừa lao động, nhưng lại thiếu vốn sẽ sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng cần nhiều lao động và nhập khẩu những mặt hàng cần nhiều vốn. Heckscher và Ohlin cũng cho rằng trong trường hợp này, quan hệ thương mại làm lợi cho cả 2 quốc gia tham gia vào trao đổi 2.3. Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu môn học Kinh tế thương mại 2.3.1. Đối tượng, nội dung và kết cấu của môn học kinh tế thương mại Kinh tế thương mại là môn học kinh tế, môn kinh tế ngành. Giống như kinh tế chính trị học và kinh tế học là những môn khoa học nghiên cứu các nguyên lý, các quy luật kinh tế chi phối và vận động nền kinh tế quốc dân. Kinh tế thương mại dựa trên những nguyên lý mà kinh tế chính trị học, kinh tế học đã phát hiện để đi sâu nghiên cứu các nguyên lý, các quy luật kinh tế nhằm bổ sung và cụ thể hóa chúng trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa và dịch vụ. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế thương mại là tất cả các hiện tượng, các hoạt động và các mối quan hệ kinh tế trong lĩnh vực buôn bán trong một quốc gia và của quốc gia đó với bên ngoài. Các hiện tượng, các hoạt động và các mối quan hệ kinh tế trong buôn bán nội địa và buôn bán quốc tế luôn vận động theo những quy luật và tính quy luật nhất định. Kinh tế thương mại nghiên cứu chúng nhằm tìm ra bản chất kinh tế của chúng, cũng như tìm ra các quy luật chung hoặc tính quy luật vận động của chúng. Trên cơ sở đó xây dựng cơ sở khoa học cho việc tổ chức và quản lý các hoạt động thương mại phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Các hiện tượng, các hoạt động và các mối quan hệ thương mại một mặt vận động theo những quy luật chung, phổ biến, tuy nhiên những biểu hiện của chúng trong những điều kiện cụ thể, những quốc gia khác nhau và ở mỗi thời kỳ khác nhau của lịch sử đều có những nét riêng, đặc thù. Kinh tế thương mại không chỉ nghiên cứu những vấn đề 8
  9. chung, những nguyên lý chung và các quy luật chung trong lĩnh vực buôn bán mà nó còn nghiên cứu những vấn đề đặc thù trong những hoàn cảnh cụ thể, các quốc gia cụ thể và các giai đoạn lịch sử cụ thể. Việc nghiên cứu những biểu hiện cụ thể của các nguyên lý, các quy luật chung trong lĩnh vực thương mại trong điều kiện của Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa (tập trung, quan liêu, bao cấp) sang nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt nam hiện nay cũng là một nội dung nghiên cứu quan trọng của kinh tế thương mại. 2.3.2. Kết cấu của môn học kinh tế thương mại Kinh tế thương mại được chia làm 2 học phần: Học phần thứ nhất: Kinh tế thương mại đại cương. Học phần này nhằm trang bị cho sinh viên những kiến thức căn bản nhất về Kinh tế thương mại. Những khái niệm, phạm trù, nguyên lý và những quy luật trình bày trong học phần này là những vấn đề chung và có tính phổ biến cho mọi nước, mọi nền kinh tế. Học phần này bắt đầu nghiên cứu các khái niệm, phạm trù nhằm chỉ rõ bản chất kinh tế của thương mại. Tiếp đó là các vấn đề liên quan tới chức năng và các tác động của thương mại trên các mặt kinh tế, xã hội và môi trường. Những vấn đề tiếp sau là những vấn đề cốt lõi nhất của kinh tế thương mại hàng hóa, kinh tế thương mại dịch vụ và các khía cạnh thương mại có liên quan tới đầu tư và quyền sở hữu trí tuệ theo cách tiếp cận của WTO. Từ đó tiếp tục nghiên cứu các vấn đề nguồn lực phát triển thương mại và hiệu quả thương mại theo cách tiếp cận phát triển bền vững. Học phần 2: Kinh tế thương mại. Học phần này chủ yếu nghiên cứu những vấn đề cơ bản nhất và đặc thù của kinh tế thương mại Việt nam trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Học phần này bắt đầu từ việc nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển thương mại Việt nam nhằm tổng kết và rút ra những bài học từ lịch sử. Tiếp đến là nghiên cứu những nội dung chủ yếu của quá trình chuyển đổi thương mại từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam từ năm 1986. Phần cuối của học phần sẽ nghiên cứu những vấn đề cốt lõi và đặc thù của kinh tế thương mại Việt nam như: thương mại và thị trường nông thôn, hội nhập thương mại Việt nam với thế giới và khu vực, kế hoạch hóa thương mại vĩ mô Khi đề cập đến nội dung của môn học, có thể có rất nhiều những ý kiến khác nhau. Những nội dung đề cập đến trong giáo trình này trước hết dựa vào chương trình môn học đã được hội đồng khoa học trường Đại học Thương mại thông qua. Ngoài ra những người biên soạn cố gắng chú trọng trình bày những vấn đề có tính chất phổ biến, và những vấn 9
  10. đề đặc trưng nhất, thiết yếu nhất của kinh tế thương mại Việt nam trong giai đoạn hiện nay. 2.3.3. Phương pháp nghiên cứu môn học và vị trí của môn học Kinh tế thương mại Kinh tế thương mại là môn học kinh tế ngành. Là môn khoa học xã hội nên các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được sử dụng nghiên cứu kinh tế thương mại. Phương pháp duy vật biện chứng đòi hỏi phải nghiên cứu các sự vật và các hiện tượng trong sự vận động và trong mối quan hệ tác động qua lại với các hiện tượng và sự vật khác. Phép biện chứng duy vật coi nguồn gốc của sự phát triển là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, và quá trình phát triển không ngừng của các hiện tượng và sự vật là sự tích lũy những biến đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất. Trong khi đó, phương pháp duy vật lịch sử đòi hỏi nghiên cứu sự vật, hiện tượng ở thực tại nhưng có mối liên hệ chặt chẽ với quá khứ, lịch sử của sự vật và hiện tượng đó. Nhờ vậy mà có thể dự báo được xu hướng vận động và phát triển của sự vật và hiện tượng trong tương lai. Thương mại là một hệ thống kinh tế với sự tham gia của nhiều yếu tố cấu thành. Vì vậy phương pháp tiếp cận hệ thống cũng cần thiết sử dụng làm phương pháp nghiên cứu môn học. Ngoài ra môn học còn sử dụng nhiều phương pháp khác như điều tra xã hội, phân tích thống kê và mô hình hóa nhằm phân tích tổng hợp, diễn dịch và quy nạp nhằm làm rõ nội dung và đặc thù của môn học. Trong kinh tế thương mại cũng như các môn khoa học xã hội nói chung, phương pháp trừu tượng hóa khoa học có ý nghĩa rất to lớn. Trừu tượng hóa cho phép gạt bỏ những yếu tố cụ thể, ngẫu nhiên, rời rạc, để tìm thấy những cái điển hình, bền vững, ổn định, có tính phổ biến, trên cơ sở đó chỉ ra bản chất của các hiện tượng, phát hiện ra các quy luật và tính quy luật vận động của các hiện tượng các mối quan hệ kinh tế thương mại. Kinh tế thương mại là môn học chuyên môn chính trong chương trình đào tạo cử nhân kinh tế thương mại của trường đại học Thương mại. Ngoài ra kinh tế thương mại đại cương giữ vị trí của môn học cơ sở của các chuyên ngành quản trị kinh doanh, kinh doanh quốc tế, tài chính và kế toán thương mại và các chuyên ngành khác của trường đại học thương mại. Kinh tế thương mại có quan hệ chặt chẽ với các môn khoa học khác như kinh tế học, kinh tế chính trị học, kinh tế phát triển, lịch sử các học thuyết kinh tế Kinh tế thương mại sử dụng các khái niệm và phạm trù đó trong lĩnh vực lưu thông và trao đổi buôn bán các hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế thị trường. 10
  11. Chương 2: Chức năng và Những tác động của thương mại 2.1. Chức năng của thương mại 2.1.1. Chức năng chung của thương mại Được hình thành trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và trình độ phân công lao động xã hội nên chức năng của thương mại mang tính khách quan. Thương mại đã từng tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Bản chất kinh tế xã hội của các hình thái kinh tế xã hội này mặc dù có sự khác nhau nhưng chức năng chung của thương mại là giống nhau. Con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các chức năng của thương mại chứ không thể tùy tiện áp đặt hoặc thay đổi các chức năng đó. Trong mọi hình thái kinh tế xã hội còn tồn tại sản xuất và lưu thông hàng hóa chức năng của thương mại là thực hiện lưu thông hàng hóa và cung ứng dịch vụ thông qua mua bán bằng tiền. Tuy nhiên cũng cần phân biệt chức năng thương mại với các tư cách là khâu của tái sản xuất, hoạt động kinh tế và ngành kinh tế. Là hoạt động kinh tế thương mại thực hiện chức năng mua bán hàng hóa và các dịch vụ bằng tiền. Là một khâu của tái sản xuất thương mại thực hiện chức năng cầu nối giữa sản xuất với tiêu dùng thông qua trao đổi, đảm bảo thực hiện tái sản xuất nhanh chóng, hiệu quả trong điều kiện của kinh tế hàng hóa. Là một ngành kinh tế, thương mại thực hiện chức năng tổ chức lưu thông hàng hóa và cung ứng dịch vụ, thông qua mua bán để gắn liền sản xuất với thị trường trong và ngoài nước nhằm thỏa mãn nhu cầu thị trường về hàng hóa và dịch vụ với chi phí thấp nhất. 2.1.2. Biểu hiện chức năng của thương mại trong lĩnh vực thương mại hàng hóa Trong thương mại hàng hóa, chức năng của thương mại có thể được chia thành 2 nhóm chức năng cơ bản sau: 11
  12. 2.1.2.1. Chức năng thay đổi hình thái giá trị, thực hiện giá trị Thương mại có chức năng thay đổi hình thái giá trị từ tiền sang hình thái vật chất trong hành vi mua (T - H) và ngược lại trong hành vi bán. Cùng với việc thay đổi hình thái giá trị là quá trình chuyển đổi quyền sở hữu về hàng hóa và tiền tệ. Quyền sở hữu tiền tệ chuyển từ người mua sang người bán và ngược lại, quyền sở hữu hàng hóa chuyển từ người bán sang người mua. Nhờ chức năng này của thương mại mà người bán đạt được giá trị nhằm tìm kiếm lợi nhuận, người mua có được các giá trị sử dụng để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng khác nhau của họ. Để thực hiện được chức năng này, thương mại phải tiến hành hàng loạt những hoạt động gắn với việc thay đổi hình thái giá trị và chuyển đổi quyền sở hữu như: mua hàng, bán hàng, xúc tiến thương mại, tiếp thị, quảng cáo Về lý thuyết, các hoạt động này không tạo ra giá trị mới, không làm tăng giá trị sử dụng của hàng hóa nhưng nó rất cần thiết và có ích cho xã hội. 2.1.2.2. Chức năng tổ chức quá trình phân phối hàng hóa, đưa hàng hóa từ lĩnh vực sản xuất đến thị trường và tiếp tục hoạt động sản xuất trong lĩnh vực lưu thông Sản xuất với tiêu dùng thường không ăn khớp với nhau về không gian, thời gian, số lượng, chủng loại Vì vậy, thương mại cần thực hiện việc đưa các sản phẩm được sản xuất ra đến các thị trường nơi mà con người có nhu cầu phù hợp các đòi hỏi của thị trường về số lượng, cơ cấu, thời gian và không gian với chi phí thấp nhất. Nhờ có chức năng này mà thương mại có thể tiếp tục thực hiện chức năng thay đổi hình thái giá trị, thực hiện giá trị hàng hóa mà chúng ta vừa đề cập ở trên. Cũng thông qua chức năng này thương mại giải quyết được những mâu thuẫn vốn có giữa cung, cầu, sản xuất và tiêu dùng trong điều kiện kinh tế hàng hóa. Chức năng này của thương mại được thực hiện qua hàng loạt những hoạt động khác nhau. Hoạt động vận tải nhằm di chuyển sản phẩm từ nơi sản xuất đến thị trường và những dịch vụ có liên quan đến vận tải như: làm các thủ tục vận tải, giao nhận hàng hóa Hoạt động giữ gìn, bảo quản hàng hóa. Những hoạt động này nhằm bảo vệ giá trị sử dụng của hàng hóa về số lượng, chất lượng trong quá trình vận chuyển cũng như lưu kho phát sinh do sự không ăn khớp giữa sản xuất và đòi hỏi của thị trường về không gian và thời gian. Các hoạt động tiếp tục sản xuất trong lĩnh vực lưu thông như: phân loại, chia nhỏ, đóng gói, bao bì sản phẩm và các hoạt động gia công, chế biến, hoàn thiện sản phẩm trước khi bán cho người tiêu dùng 12
  13. Các hoạt động thương mại thực hiện nhóm chức năng này là các hoạt động sản xuất. Chúng xảy ra trong khâu lưu thông và được thực hiện bởi ngành thương mại. Chúng góp phần làm tăng giá trị hàng hóa, bảo vệ và làm tăng giá trị sử dụng. Hoạt động thương mại xét về góc độ này trực tiếp góp phần tạo ra thu nhập quốc dân. 2.1.2.3. Sự phát triển nhận thức về chức năng thương mại hàng hóa trong xã hội hiện đại Trong xã hội hiện đại cùng với việc phồn thịnh về kinh tế, nhu cầu của con người ngày càng gia tăng và đa dạng hơn. Việc thoả mãn những nhu cầu ngày càng tăng và đa dạng của xã hội làm nảy sinh mâu thuẫn trong phân bổ và sử dụng quĩ thời gian của con người. Để thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng và đa dạng của con người, đòi hỏi một mặt phải không ngừng sản xuất ra ngày càng nhiều của cải và dịch vụ , mặt khác phải tăng quĩ thời gian sử dụng cho cho việc tiêu dùng các của cải và các dịch vụ. Mâu thuẫn là ở chỗ quĩ thời gian tự nhiên của mỗi con người là một hằng số trong khi đó xã hội càng phát triển quĩ thời gian dành cho tiêu dùng trong tổng quĩ thời gian tự nhiên đòi hỏi ngày càng gia tăng. Để gia tăng thời gian cho tiêu dùng trong điều kiện quĩ thời gian tự nhiên không đổi thì vấn đề tiết kiệm và sử dung hợp lý quĩ thời gian trong tiêu dùng trở nên rất bức thiết. Việc mở rộng các dịch vụ bán hàng đặc biệt là các dịch vụ trước, trong và sau bán hàng như: dịch vụ hoàn thiện sản phẩm , các dịch vụ chuẩn bị sẵn sàng nhất cho người tiêu dùng và các dịch vụ liên quan đến quá trình tổ chức phục vụ quá trình tiêu dùng cá nhân nhằm tạo sự thoải mái, thuận tiện, tiết kiệm thời gian cho người tiêu dùng đang ngày gắn với hoạt động buôn bán và trở thành các hoạt động thuộc chức năng của thương mại trong xã hội hiện đại. Kinh tế thị trường hiện đại với các đặc trưng không phải là “khan hiếm” mà “dư thừa” làm cho cạnh tranh khốc liệt ngày càng buộc các doanh nghiệp thương mại cần phải nhận thức sâu sắc hơn xu hướng thay đổi này trong chức năng của thương mại. 2.1.3. Biểu hiện các chức năng thương mại trong lĩnh vực dịch vụ Do những đặc tính riêng biệt của dịch vụ: tính vô hình, sản xuất và tiêu dùng đồng thời, nên chức năng của thương mại cũng có sự biểu hiện khác so với thương mại hàng hóa. Thương mại dịch vụ thực hiện đồng thời cả chức năng sản xuất, chức năng lưu thông và chức năng tổ chức tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ. Nghĩa là trong thương mại dịch vụ các doanh nghiệp không chỉ thuần túy thực hiện việc mua bán, ngoài việc thực hiện chức năng thương mại nó còn đồng thời thực hiện chức năng sản xuất ra các dịch vụ 13
  14. và tổ chức cả quá trình tiêu dùng các dịch vụ cho khách hàng. Các chức năng này vế cơ bản được thực hiện đồng thời ở cung một không gian và trong cùng một thời gian. Trong thương mại dịch vụ về cơ bản không có các hoạt động vận tải, bảo quản, dự trữ Việc thay đổi hình thái giá trị, quá trình chuyển đổi sở hữu tiền tệ và sở hữu sản phẩm có những đặc thù so với thương mại hàng hóa. Việc nhận thức đúng và vận dụng đúng các chức năng của thương mại có ý nghĩa to lớn không chỉ trong tổ chức hoạt động cung ứng dịch vụ ở phạm vi doanh nghiệp mà nó còn có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quản lý nhà nước đối với thương mại dịch vụ ở phạm vi vi mô. 2.2. Cơ sở luận nghien cứu và phân loại các tác động của thương mại 2.2.1. Cơ sở luận nghiên cứu tác động thương mại Khi nghiên cứu tác động thương mại cần quán triệt các vấn đề lí luận cơ bản sau: Thứ nhất: Thương mại là một hoạt động kinh tế cơ bản và phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Là một hoạt động kinh tế cơ bản, thương mại có liên quan mật thiết và ảnh hưởng đến những hoạt động kinh tế khác như: kinh doanh, đầu tư, Là hoạt động kinh tế phổ biến vì thế thương mại tác động đến nhiều chủ thể kinh tế và các quan hệ kinh tế khác nhau trong nền kinh tế thị trường. Thứ hai: Thương mại là khâu lưu thông trong quá trình tái sản xuất xã hội Thương mại là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng và có liên hệ mật thiết với khâu phân phối. Một mặt thương mại chịu sự chi phối của sản xuất và tiêu dùng, mặt khác thương mại cũng có những tác động đến quy mô, cơ cấu và sự phát triển của sản xuất và tiêu dùng xã hội. Thứ ba: Thương mại là một ngành kinh tế rất quan trọng của nền kinh tế. Theo nghĩa rộng, ngành thương mại không chỉ gồm những doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bán buôn, bán lẻ hàng hóa mà gồm cả những doanh nghiệp cung ứng các dịch vụ đa dạng trong nhiều ngành dịch vụ vì mục tiêu lợi nhuận. Đó là lĩnh vực rất rộng, bao gồm nhiều ngành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Ngành thương mại thông qua hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ với mục đích lợi nhuận có liên quan và tác động to lớn tới nhiều ngành, nhiều lĩnh vực đa dạng của nền kinh tế. Thứ tư: Thương mại còn được xem như một hệ thống kinh tế. Thương mại là một tập hợp các yếu tố có mối liên hệ qua lại thực hiện việc trao đổi mua bán hàng hóa và các dịch vụ thông qua tiền tệ vì lợi nhuận. Hệ thống thương mại được hình thành bởi 2 hệ thống con là cung và cầu. Các hệ thống này hoạt động và liên hệ với nhau qua hoạt động của người mua, người bán trên thị trường. Đó là một hệ thống 14
  15. kinh tế mở với môi trường kinh tế, chính trị, luật pháp, công nghệ, xã hội và môi trường tự nhiên bên ngoài. Thương mại một mặt chịu sự chi phối của các yếu tố môi trường nói trên, những yếu tố này có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của thương mại nhưng ngược lại thương mại cũng tác động trở lại làm biến đổi những yếu tố môi trường. Vì thế tác động thương mại không chỉ thuần túy mang tính chất kinh tế, thương mại còn có tác động mang tính chất xã hội, chính trị, pháp luật, công nghệ và ảnh hưởng mật thiết với môi trường tự nhiên. 2.2.2. Phân loại tác động của thương mại Tác động của thương mại rất phức tạp và đa chiều. Chúng ta có thể phân loại tác động thương mại trên một số tiêu chí cơ bản sau: 2.2.2.1. Theo xu hướng ảnh hưởng của tác động Tác động của thương mại được phân thành các tác động tích cực và tác động tiêu cực. Những tác động của thương mại mà kết quả của ảnh hưởng có thể là những lợi ích (vật chất hoặc tinh thần) hoặc tạo ra sự thúc đẩy vận động của các quá trình kinh tế-xã hội theo chiều hướng tiến bộ. Đó là những tác động tích cực. Ngược lại những tác động của thương mại mà kết quả mang lại là những tổn thất (về vật chất và tinh thần) hay tạo ra xu hướng kìm hãm, đẩy lùi sự vận động của các quá trình kinh tế - xã hội được coi là những tác động tiêu cực. Cần lưu ý rằng: Một hoạt động thương mại cụ thể, một chính sách thương mại nhất định có thể vừa chứa đựng trong đó những tác động tích cực và cả những tác động tiêu cực. Rất ít trường hợp tác động thương mại chỉ thuần túy mang tính tích cực hay tiêu cực. 2.2.2.2. Theo phạm vi ảnh hưởng Tác động của thương mại được phân thành các tác động vi mô và vĩ mô. Những tác động vi mô là ảnh hưởng của thương mại trong phạm vi doanh nghiệp, hộ gia đình. Những tác động thương mại vĩ mô là những tác động mà ảnh hưởng của nó vượt ra ngoài khuôn khổ các doanh nghiệp, các đơn vị kinh doanh, những tác động này có thể ở phạm vi toàn cầu, hoặc một khu vực kinh tế (ASEAN, EU, ), phạm vi quốc gia hoặc địa phương trong mỗi quốc gia. Hoạt động kinh doanh ở đơn vị kinh tế ngoài việc xem xét tác động vi mô cần phải tính đến các tác động vĩ mô mà nó có thể ảnh hưởng. Ngược lại, quản lý nhà nước ở phạm vi vĩ mô với hoạt động thương mại cần xem xét toàn diện ảnh hưởng của tác động thương mại ở cả phạm vi vi mô và vĩ mô một cách hài hòa. 2.2.2.3. Dựa theo lĩnh vực tác động 15
  16. Tác động của thương mại được phân thành các tác động kinh tế, tác động xã hội (xã hội, chính trị, văn hóa) và tác động môi trường tự nhiên. Tác động kinh tế bao gồm những ảnh hưởng của thương mại đến tốc độ tăng trưởng kinh tế , sự thay đổi cơ cấu kinh tế, hoạt động đầu tư, các cân đối kinh tế vi mô trong nền kinh tế Tác động xã hội bao gồm những ảnh hưởng của thương mại tới sự ổn định chính trị quốc gia, tới thực hiện đường lối, chính sách của nhà nước, ảnh hưởng tới hệ thống luật pháp của quốc gia.Ngoài ra nó còn bao gồm cả những tác động thương mại tới yếu tố dân cư, hôn nhân và tổ chức gia đình, mức sống và trình độ giáo dục, phong tục, tập quán, lối sống, hệ thống giá trị trong xã hội. Tác động môi trường tự nhiên bao gồm những ảnh hưởng của thương mại tới môi trường sống: bảo tồn các yếu tố tự nhiên (khí hậu, nguồn nước, khoáng sản, hệ thực vật, động vật ), các yếu tố hạ tầng (giao thông vận tải, hệ thống thông tin, truyền thông ) Con người càng ngày càng nhận thức sự cần thiết và quan trọng của sự phát triển bền vững. Vì vậy nghiên cứu các tác động thương mại cần xem xét toàn diện không chỉ ảnh hưởng về kinh tế mà cả những khía cạnh tác động thương mại về xã hội, môi trường cũng ngày càng được chú trọng trong việc hoạch định chiến lược và chính sách thương mại phát triển của các quốc gia. 2.2.2.4. Các cách phân loại khác Ngoài các cách phân loại cơ bản trên, người ta còn có thể phân loại tác động thương mại theo nhiều tiêu thức khác như: Tác động trực tiếp hoặc gián tiếp, tác động có thể lượng hóa được (đo lường được) và những tác động khó đo lường được (nhiều tác động thương mại có thể cảm nhận được bằng định tính song rất khó định lượng). Một số tác động thương mại mà hậu quả của nó có thể khắc phục được dễ dàng, nhưng cũng có nhiều tác động mà hậu quả lại có thể là vĩnh viễn không khắc phục được hoặc nếu sửa chữa được thì phải tốn kém nhiều tiền của, sức lực và thời gian. 2.2.3. ý nghĩa của việc nghiên cứu những tác động của thương mại Nghiên cứu những tác động của thương mại rất quan trọng, nó không chỉ giúp cho việc thúc đẩy hoạt động thương mại ở phạm vi doanh nghiệp đạt được những mục tiêu kinh doanh mà còn có tầm quan trọng đối với việc quản lý hoạt động thương mại ở phạm vi vi mô một cách có kết quả và hiệu quả, góp phần đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội của thương mại cũng như đáp ứng những đòi hỏi của sự phát triển kinh tế bền vững. 16
  17. Chương 3. Thương mại hàng hóa 3.1. Bản chất và các phương thức mua bán chủ yếu trong thương mại hàng hóa. 3.1.2. Những đặc điểm cơ bản của thương mại hàng hóa 3.1.2.1. Tính hữu hình của đối tượng trao đổi Sản phẩm đưa ra thị trường trao đổi tồn tại ở dạng vật thể hữu hình, nên các chủ thể thương mại có thể dùng các giác quan để cảm thụ về hàng hoá. Nhà kinh doanh, người tiêu dùng và cơ quan quản lý nhà nước đều có thể dễ dàng hơn trong việc nhận biết sản phẩm về số lượng, chất lượng, mức độ công năng, lợi ích và sự an toàn của sản phẩm đối với người sử dụng. 3.1.2.2. Sự chuyển quyền sở hữu sản phẩm trong trao đổi Dù các giao dịch có đa dạng thế nào chăng nữa, trong thương mại hàng hoá, kết thúc quá trình mua bán quyền sở hữu về sản phẩm sẽ chuyển từ người bán sang người mua. Tuy nhiên, người mua không được sở hữu về tài sản trí tuệ hay bản quyền, nhãn hiệu sản phẩm đó. 3.1.2.3. Lưu thông hàng hoá tách rời sản xuất và tiêu dùng Chức năng sản xuất, lưu thông và tiêu dùng đối với hàng hoá tương đối độc lập với nhau. Đối với nhà sản xuất, có thể sản xuất ra bán ngay hoặc chưa bán, người tiêu dùng mua hàng hoá nhưng chưa sử dụng, còn đối với nhà thương mại có thể mua nhưng chưa bán, hoặc bán nhưng lại chưa mua. 3.1.2.4. Tính thống nhất và mâu thuẫn giữa các khâu của quá trình lưu thông Quá trình lưu thông hàng hoá bao gồm quá trình mua, bán, vận chuyển và dự trữ kho hàng. Nhìn nhận tổng thể quá trình lưu thông, hàng hoá chỉ thoát khỏi quá trình sản xuất và vân động tới tiêu dùng nếu có sự thống nhất và kết hợp các quá trình bộ phận lưu chuyển hàng hoá (mua, bán) và giao nhận (vận chuyển và kho hàng). Tuy nhiên, ở từng khâu của quá trình lưu thông lại có sự mâu thuẫn và tách rời giữa lưu chuyểnhàng hoá và giao nhận, hoặc mâu thuẫn trong từng quá trình bộ phận đó. 3.1.3. Các phương thức mua bán chủ yếu trong thương mại hàng hóa Có nhiều phương thức mua bán được sử dụng trong thương mại hàng hoá. Mỗi phương thức mua bán, trao đổi thương mại đều có đặc điểm riêng, bao gồm những hình thức cụ thể và có ý nghĩa thực tiễn ở các góc độ nghiên cứu khác nhau. Đối với nhà kinh doanh, đòi hỏi vận dụng các phương thức mua bán hoặc xuất nhập khẩu phù hợp với từng loại hàng hoá, điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp và hoàn cảnh cụ thể của môi trường thương mại . 17
  18. Đối với nhà nước, cần có chính sách khuyến khích phát triển các phương thức kinh doanh tiến bộ, đa dạng, tạo thuận lợi về hành lang pháp lý cho doanh nghiệp sử dụng các phương thức đó mà không gặp các trở ngại, rủi ro trong chính sách thương mại, đồng thời bảo vệ quyền lợi chính đáng của người bán và người mua, nhà sản xuất và người tiêu dùng. Dưới đây là một số phương thức mua bán chủ yếu: 3.1.3.1. Mua bán buôn và mua bán lẻ Mua bán buôn là phương thức trao đổi hàng hoá giữa các chủ thể nhà sản xuất, thương nhân nhưng hàng hoá vẫn còn trong khâu lưu thông, chưa đến lĩnh vực tiêu dùng. Mua bán buôn và dự trữ kho hàng thường với khối lượng lớn. Thời gian chu chuyển hàng hoá và thu hồi vốn nhanh. Thanh toán thông qua ngân hàng thương mại và sử dụng các chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt. Mua bán lẻ là phương thức trao đổi giưã các chủ thể người sản xuất, thương nhân và người tiêu dùng, hàng hoá ra khỏi lưu thông và bắt đầu đến lĩnh vực tiêu dùng. Mua bán lẻ và dự trữ kho hàng với khối lượng nhỏ. Chu chuyển hàng hoá và thu hồi vốn chậm. Thanh toán trực tiếp và sử dụng tiền mặt trong thanh toán là chủ yếu. 3.1.3.2. Mua bán trực tiếp và qua trung gian Mua bán trực tiếp là phương thức mà các chủ thể người mua, người bán trực tiếp quan hệ, giao dịch và trao đổi hàng hoá-tiền tệ, không có sự xuất hiện của người thứ 3. Mua bán trực tiếp có phân biệt giữa hoạt động nội thương và ngoại thương (về trụ sở của người giao dịch, đồng tiền thanh toán, sự di chuyển của hàng hoá). Mua bán trực tiếp diễn ra trên cả thị trường bán buôn và bán lẻ, trong các cửa hàng, trung tâm thương mại, siêu thị và các chợ. Mua bán qua trung gian. Trong thương mại không phải các nhà sản xuất và người tiêu dùng đều có điều kiện để thiết lập quan hệ mua bán trực tiếp, mà phải tiến hành giao dịch thương mại qua trung gian, tức người thứ 3. Nhiều hàng hoá xuất khẩu không qua chế biến, ở dạng thô, hàng nguyên liệu công nghiệp hay dây chuyền công nghệ không tiếp cận được thị trường nguồn đều phải mua bán qua trung gian thương mại. 3.1.3.3. Mua bán qua đại lý và môi giới Mua bán qua đại lý. Người sản xuất muốn trao đổi mua bán với nhau hoặc với người tiêu dùng, trong trường hợp này phải qua đại lý. Đại lý là người đại diện mua, bán hoặc xuất, nhập khẩu hàng hoá cho người khác. Họ không bỏ tiền ra mua, bán hàng và không chịu những rủi ro trong kinh doanh thương mại thay người uỷ thác. Họ có thể là pháp nhân hay thể nhân tiến hành một hoặc một số hành vi thương mại theo sự uỷ thác của người uỷ thác. Quan hệ giữa họ và người uỷ thác thể hiện trong các hợp đồng đại lý. Họ được hưởng một khoản hoa hồng nhất định theo kết quả mua bán theo thoả thuận 18
  19. trong hợp đồng. Những mặt hàng áp dụng phương thức mua bán này thường có quy mô sản xuất lớn, tính chuyên môn hoá cao và được tiêu chuẩn hoá. Mua bán qua môi giới. Trong trường hợp nay giữa người mua và người bán không tiến hành các quan hệ và giao dịch trực tiếp mà thông qua môi giới. Người môi giới cũng không bỏ vốn ra kinh doanh như người đại lý, mà chỉ chắp nối các quan hệ trao đổi thông qua cung cấp các thông tin, tư vấn, làm cầu nối cho người mua, người bán tiếp xúc, ký kết hợp đồng và triển khai hoạt động thương mại có hiệu quả. Họ được hưởng hoa hồng từ cả người bán và người mua theo thoả thuận của mỗi lần giao dịch với người uỷ thác. Người môi giới có thể được người bán hoặc người mua uỷ thác cả công việc bán và mua hàng hoá. Phương thức này thường được áp dụng trong trường hợp người bán không biết người mua hoặc ngược lại, ngoài ra còn có những yếu tố khác như năng lực giao dịch trực tiếp bị hạn chế 3.1.3.4. Mua bán truyền thống và qua mạng internet Mua bán truyền thống. Đây là phương thức phổ biến, mang tính truyền thống lâu đời trong lịch sử. Người bán và người mua phải tiếp xúc với nhau tại các địa điểm nhất định để thực hiện các giao dịch mua bán và thanh toán. Các quan hệ mua bán diễn ra theo hợp đồng hoặc không nhất thiết phải có thoả thuận từ trước. Mua bán qua mạng internet. Khác với phương thức mua bán truyền thống, phương thức trao đổi này sử dụng mạng internet để tiến hành các giao dịch mua bán hoặc xuất nhập khẩu. Phương thức này luôn luôn phải dựa vào nền tảng công nghệ thông tin, viễn thông. Trong nền kinh tế số hoá, khi thương mại điện tử phát triển, các giao dịch thương mại về cơ bản sẽ không cần đến giấy tờ. Trên thực tế, mua bán qua mạng có thể khép kín từ khâu đầu đến khâu cuối cùng, nhưng cũng có thể kết hợp với các giao dịch của phương thức thương mại truyền thống (chẳng hạn, tìm kiếm thông tin, đặt hàng qua mạng nhưng giao hàng và thanh toán thì người mua trả tiền trực tiếp cho người bán hoặc người được uỷ quyền). Các hình thức cụ thể về mua bán qua mạng tuỳ thuộc vào hạ tầng của thương mại điện tử và thói quen của các chủ thể kinh doanh. 3.1.3.5. Mua bán thanh toán ngay và mua bán chịu Mua bán thanh toán ngay có thể áp dụng cho toàn bộ lô hàng hoặc cả hợp đồng hoặc giao hàng đén đâu thanh toán đến đó. Mua bán chịu áp dụng trong trường hợp giao hàng trước thanh toán sau. Ngoài ra trong thương mại hàng hoá quốc tế còn có các kỹ thuật thanh toán khác. 3.1.3.6. Các phương thức khác Trong thương mại hàng hoá còn có các phương thức khác như: 19
  20. Tạm nhập tái xuất: Là phương thức xuất khẩu trở lại nước ngoài (ở nước tái xuất) đối những sản phẩm trước đây đã nhập khẩu, nhưng chưa qua chế biến. Phương thức mua bán này phản ánh giao dịch thương mại của 3 bên: nước xuất khẩu, nhập khẩu và nước tái xuất. Hàng hoá đi từ nước xuất khẩu sang nước tái xuất rồi đi tiếp đến nước nhập khẩu. Nước tái xuất trả tiền cho nước xuất khẩu và thu tiền của nước nhập khẩu. Phương thức này bao gồm cả hình thức chuyển khẩu (hàng hoá đi thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu). Buôn bán đối lưu: Là phương thức hàng đổi hàng trong đó hoạt động mua và bán kết hợp chặt chẽ với nhau, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi tương đương với nhau về giá trị. Phương thức này phản ánh hoạt động không phải vì mục đích tiền tệ, mà là một lượng hàng hoá có giá trị tương đương. Yêu cầu cơ bản của giao dịch thương mại là sự cân bằng (về mặt hàng, giá, tổng trị giá, điều kiện giao hàng). Buôn bán đối lưu còn có các hình thức bù trừ, bồi hoàn). Xuất nhập khẩu tại chỗ: Là phương thức mua bán giữa một bên trong nước với một bên nước ngoài nhưng thông qua thể nhân hoặc pháp nhân của nước này đang hiện diện ở nước bên kia và ngược lại. Trong trường hợp này, hàng hoá không có sự di chuyển qua biên giới của nước có quan hệ trao đổi thương mại. Phương thức này phù hợp và áp dụng ngày càng phổ biến ở các nước tham gia vào tiến trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Gia công thương mại: Là phương thức trao đổi mà bên nhận gia công tiếp nhận vật tư, nguyên liệu do bên đặt gia công giao hoặc bán cho, cùng bản vẽ thiết kế và tiến hành lắp ráp, chế tạo sản phẩm theo yêu cầu kỹ thuật đã quy định trước, sau đó giao hoặc bán lại hàng hoá cho bên đặt gia công. Bên nhận gia công sẽ nhận được một khoản thù lao (gọi là phí gia công) theo thoả thuận trong hợp đồng. Đây là phương thức thường được áp dụng trong thương mại quốc tế đối với các nước đang phát triển (nơi có nhiều lao động, giá nhân công thấp ) trong một số lĩnh vực như dệt may, da giày, Đấu giá: Là phương thức mua bán đặc biệt, trong đó hàng hoá được tổ chức bán công khai tại một địa điểm nhất định, những người mua được xem trước hàng hoá, tự do cạnh tranh về giá và cuối cùng hàng hoá được bán cho người trả giá cao nhất. Những mặt hàng áp dụng phương thức mua bán này thường là những hàng hoá khó tiêu chuẩn hoá. Đấu thầu: Là phương thức mua bán đăc biệt, trong đó người mua (là người gọi thầu) công bố các điều kiện mua hàng để người bán (người dự thầu) báo giá cả và các điều kiện trả tiền, sau đó người mua sẽ chọn mua của người báo giá rẻ nhất và điều kiện về tín dụng, giao hàng phù hợp hơn cả so với yêu cầu mà người mua đã đưa ra. Phương thức này áp dụng phổ biến trong mua sắm (đấu thầu mua hàng) và thi công (đấu thầu dịch vụ xây lắp) cấc công trình. 20
  21. 3.2. Những vấn đề cơ bản của kinh tế thương maị hàng hóa 3.2.1. Nhu cầu có khả năng thanh toán về hàng hóa 3.2.1.1. Nhu cầu có khả năng thanh toán, quỹ mua và sức mua hàng hoá Nhu cầu có khả năng thanh toán là một bộ phận của nhu cầu nói chung. Đó là nhu cầu về hàng hoá bị giới hạn bởi khả năng thanh toán bằng tiền hay các tài sản thanh toán của dân cư và xã hội. Nhu cầu có khả năng thanh toán luôn được thể hiện trên thị trường ở tổng số và cơ cấu hàng hoá mà xã hội và dân cư đòi hỏi thị trường phải thoả mãn trong một khoảng thời gian nhất định. Thu nhập bằng tiền của dân cư và xã hội dùng để mua hàng hay thanh toán hàng hoá chính là quỹ mua hàng hoá. Sức mua hàng hoá trên thị trường phản ánh khối lượng hàng hoá mà người tiêu dùng nhận được khi sử dụng quỹ mua để thanh toán tiền hàng trong điều kiện giá cả xác định. Sức mua hàng hoá trên thị trường phụ thuộc vào sức mua của đồng tiền và quỹ mua của dân cư và xã hội. Giữa nhu cầu có khả năng thanh toán, quỹ mua và sức mua trên thị trường có quan hệ tỷ lệ thuận. Giá cả hàng hoá tỷ lệ nghịch với sức mua và nhu cầu có khả năng thanh toán về hàng hoá. 3.2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu có khả năng thanh toán a. Nhóm yếu tố thuộc về nhu cầu nói chung Nhu cầu là cơ sở của nhu cầu có khả năng thanh toán, do vậy các nhân tố ảnh hưởng tới nhu cầu cũng tác động tới quy mô, cơ cấu nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư và xã hội. Các yếu tố về dân cư, điều kiện sinh hoạt và lao động của con người: Nhìn chung số dân càng đông, số người trong mỗi gia đình càng lớn thì nhu cầu về hàng hoá càng tăng. Thay đổi quy mô dân số và số người trong mỗi gia đình còn ảnh hưởng tới cơ cấu nhu cầu có khả năng thanh toán. Thông thường thu nhập thấp, nhưng số dân đông, số thành viên trong gia đình lớn thì hướng chi tiêu cho hàng lương thực, thực phẩm sẽ cao. Trong trường hợp ngược lại, sẽ chi tiêu cho mua hàng phi lương thực, thực phẩm nhiều hơn. Các sở thích, tập quán, thói quen tiêu dùng: Các yếu tố tâm lý, sở thích của con người, tập quán, thói quen tiêu dùng của dân cư, kỳ vọng của người tiêu dùng có thể ảnh hưởng theo hướng kích thích hoặc hạn chế nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội. Các điều kiện về tự nhiên: Sự biến đổi của môi trường tự nhiên, thời tiết khí hậu đều có ảnh hưởng tới nhu cầu và nhu cầu có khả năng thanh toán. b. Nhóm yếu tố về thu nhập và phân phối thu nhập của dân cư, của xã hội Thu nhập bằng tiền tăng lên, thì thường nhu cầu có khả năng thanh toán sẽ mở rộng và cơ cấu của nhu cầu cũng thay đổi theo hướng sử dụng nhiều hàng phi lương thực, thực phẩm hơn và ngược lại. 21
  22. Ngoài ra, hướng sử dụng thu nhập bằng tiền sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô và cơ cấu chi tiêu của dân cư, của xã hội để mua hàng hoá trên thị trường. Nếu dân cư giảm dự trữ hoặc không gửi tiết kiệm tiền mặt thì chi tiêu mua hàng hoá và thanh toán dịch vụ sẽ tăng lên. Nếu giảm chi tiêu cho dịch vụ thì nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư và xã hội về hàng hoá sẽ tăng và ngược lại. c. Nhóm yếu tố về sản xuất, cung ứng Sản xuất và cung ứng có sự phù hợp về quy mô, cơ cấu và chất lượng hàng hoá cũng như tính đều đặn, đảm bảo tiến độ thời gian giao hàng theo yêu cầu của thị trường sẽ làm tăng nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội và ngược lại. Hoạt động sản xuất, cung ứng với tính ổn định càng cao và chi phí càng thấp càng kích thích làm tăng nhu cầu có khả năng thanh toán. d. Nhóm yếu tố về giá cả, thị trường và cạnh tranh Giá hàng tiêu dùng tăng thông thường làm hạn chế hoặc giảm nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư và ngược lại. Giá các mặt hàng bổ sung gia tăng sẽ không kích thích nhu cầu có khả năng thanh toán. Giá mặt hàng thay thế giảm sẽ làm chuyển dịch nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư sang mặt hàng thay thế đó. Hạ tầng của thị trường về kỹ thuật, về dân cư và pháp lý, dung lượng thị trường, quan hệ cung cầu, xu hướng cạnh tranh về chất lượng, về dịch vụ hỗ trợ như quảng cáo, tư vấn, giao nhận, đều ảnh hưởng tới nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư và xã hội. e. Nhóm yếu tố về chính sách điều tiết vĩ mô của chính phủ Chính sách của chính phủ có thể điều tiết cung, cầu và mối quan hệ đó, cũng như giá cả. Xu hướng các tác động từ chính sách vĩ mô của chính phủ là nhằm kích cung hoặc kích cầu và cải thiển mối quan hệ đó, bình ổn giá cả để đáp ứng tốt hơn các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. 3.2.2. Cung ứng và nguồn cung ứng hàng hóa 3.2.2.1. Khái niệm và các nhân tố ảnh hưởng tới cung ứng hàng hoá a. Khái niệm Cung ứng hàng hoá là tổng trị giá và cơ cấu hàng hoá hiện có và sẽ có bán trên thị trường đề đáp ứng nhu cầu có khả năng thanh toán trong một khoảng thời gian nhất định. Cung ứng hàng hoá bao gồm những hàng hoá là các thành phẩm đã kết thúc quá trình sản xuất, những bán thành phẩm sẽ được hoàn tất quá trình sản xuất để đưa vào lưu thông. Cung ứng hàng hoá thể hiện ở cả tổng trị giá và lượng hàng hoá đưa ra thị trường từ các nguồn hàng khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư và xã hội trong một khoảng thời gian xác định. b. Các yếu tố ảnh hưởng tới cung ứng hàng hoá bao gồm 22
  23. Yếu tố về sản xuất như năng lực sản xuất trong nước thể hiện ở quy mô vốn, nhân lực và trình độ công nghệ, chu kỳ sống của sản phẩm. Các yếu tố đó ảnh hưởng tới sự phát triển nguồn hàng trong nước, ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng, quy mô và cơ cấu cũng như thời gian cung ứng hàng hoá trên thị trường. Ngoài ra, yếu tố sản xuất còn phụ thuộc vào công tác nghiên cứu và triển khai, phát triển sản phẩm. Yếu tố về nguồn hàng nhập khẩu. Quy mô, cơ cấu, khoảng cách địa lý và tính ổn định hay sự thay đổi của nguồn hàng nhập khẩu có ảnh hưởng trực tiếp đến cung ứng hàng hoá trong nước. Ngoài ra, năng lực, uy tín của các nhà cung cấp nước ngoài và yếu tố xuất khẩu cũng ảnh hưởng tới hoạt động cung ứng đối với các hàng hoá nhập khẩu để lưu thông trên thị trường nội địa. Yếu tố về thị trường. Giá cả hàng hoá và các sản phẩm thay thế, những thay đổi của nhu cầu, tình hình cạnh tranh trong nước và quốc tế, có thể ảnh hưởng tới quy mô hay cơ cấu cung ứng hàng hoá trên thị trường. Các chính sách vĩ mô đối với cung và nguồn hàng bao gồm các chính sách thương mại, đầu tư, tài chính, đất đai, tài nguyên môi trường, và quy hoạch phát triển nguồn hàng. 3.2.2.2. Nguồn hàng cung ứng trên thị trường a. Khái niệm Nguồn hàng là nguồn tạo ra hàng hoá để cung ứng trên thị trường. Đó là nơi phát ra các luồng hàng hoá vận động trên thị trường trong nước và quốc tế, là nơi cung ứng hàng hoá phục vụ nhu cầu tiêu dùng, sản xuất nội địa và xuất khẩu. Tuy nhiên, nguồn hàng không phải đơn thuần là khái niệm chỉ vị trí địa lý, nơi khởi nguồn các dòng chảy của hàng hoá vào kênh phân phối, mà còn hàm chứa quy mô, cơ cấu và sự phân bố nguồn hàng, tiềm năng đưa hàng hoá ra thị trường trong một khoảng thời gian nhất định. b. Tạo lập nguồn hàng cung ứng trên thị trường Nguồn hàng có 2 loại: nguồn hàng trong nước và nguồn nhập khẩu. Mỗi nguồn hàng có vị trí, vai trò quan trọng khác nhau đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Một mặt quy mô, cơ cấu và sự phân bố nguồn hàng có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động cung ứng hàng hoá trên thị trường. Mặt khác, sự phát triển của nguồn hàng phụ thuộc vào sản xuất, các quy hoạch phát triển kinh tế và chính sách vĩ mô của chính phủ về tài chính, thương mại và đầu tư cũng như các hỗ trợ khác về hạ tầng cơ sở, các yếu tố của môi trường quốc tế. Nhà nước cần phải có chính sách tạo lập và phát triển nguồn hàng, đảm bảo nguồn hàng mang tính ổn định, hợp lý và cân đối. Doanh nghiệp cũng cần chủ động tham gia đầu tư vào các khu vực nguồn hàng để tạo ra cơ sở vật chất cho hoạt động cung ứng liên tục, mang tính cạnh tranh và có hiệu quả, nhất là trong điều kiện hội nhập quốc tế 23
  24. 3.2.3. Dự trữ hàng hóa trong lưu thông 3.2.3.1. Khái niệm và sự cần thiết của dự trữ hàng hoá a. Khái niệm dự trữ hàng hoá Dự trữ hàng hoá là một hình thái dự trữ sản phẩm xã hội, bao gồm toàn bộ hàng hoá cần thiết đang vận động trong các khâu khác nhau của quá trình lưu thông. Đó là những hàng hoá đã thoát khỏi quá trình sản xuất nhưng chưa đi vào lĩnh vực tiêu dùng. Các hình thái dự trữ sản phẩm xã hội bao gồm: dự trữ trong sản xuất, trong lưu thông và trong tiêu dùng. Dự trữ trong lưu thông là dự trữ hàng hoá, có quan hệ ảnh hưởng tới dự trữ trong sản xuất và tiêu dùng. Dự trữ trong lưu thông bao gồm hàng hoá ở kho thành phẩm của nhà sản xuất, kho trạm của mạng lưới thương mại bán buôn, bán lẻ và hàng đang đi trên đường, hàng gửi bán. Dự trữ hàng hoá khác tồn kho ở chỗ nó chủ động hình thành và cần thiết cho lưu thông, luôn đổi mới không ngừng trong quá trình vận động. Tồn kho còn bao gồm cả hàng hoá do hậu quả của lưu thông để lại. b. Sự cần thiết của dự trữ hàng hoá Dự trữ hàng hoá là điều kiện cần thiết của lưu thông, đảm bảo cho lưu thông hàng hoá diễn ra liên tục thông suốt. Không có dự trữ hàng hoá thì không có lưu thông hàng hoá. Tuy nhiên, dự trữ hàng hoá phải hợp lý mới rút ngắn thời gian lưu thông, thúc đẩy nhanh quá trình tái sản xuất và tiết kiệm chi phí. Dự trữ hàng hoá hình thành là do quan hệ cung cầu, giá cả và tình hình cạnh tranh thị trường, do yêu cầu xử lý mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng, nhằm đảm bảo cho quá trình lưu thông hàng hoá diễn ra liên tục, thông suốt. Mặt khác, dự trữ hàng hoá là cần thiết còn do vai trò của nó trong các công cụ, chính sách điều tiết vĩ mô của chính phủ, thông qua đó để nắm bắt, khai thác các cơ hội thị trường và giảm thiểu các nguy cơ rủi ro. 3.2.3.2. Phân loại dự trữ hàng hoá a. Theo công dụng của hàng hoá dự trữ Dự trữ hàng sản xuất bao gồm toàn bộ hàng hoá vật tư, nguyên, nhiên phụ liệu, máy móc thiết bị, phụ tùng, công nghệ là những “đầu vào” phục sản xuất được lưu thông trên thị trường. Dự trữ hàng tiêu dùng bao gồm hàng lương thực, thực phẩm và hàng công nghiệp tiêu dùng được lưu thông trên thị trường phục vụ tiêu dùng đời sống dân cư. b. Theo mục đích sử dụng Dự trữ thường xuyên bao gồm toàn bộ những hàng hoá thường xuyên phải có bán trên thị trường. Nếu thiếu hàng sẽ gián đoạn lưu thông, gây khó khăn trở ngại cho sản xuất và đời sống (Ví dụ: xăng dầu, phân bón, sắt thép, xi măng, lương thực, thực phẩm ). 24
  25. Dự trữ thời vụ, là những hàng hoá được hình thành ở vào thời vụ của sản xuất và tiêu dùng nhằm tận dụng tối đa các cơ hội trong mua và bán hàng hoá hoặc khắc phục tính thời vụ của sản xuất và tiêu dùng (chẳng hạn, kinh doanh hàng nông sản, hàng thuỷ sản ở vào mùa thu hoạch, hàng tiêu dùng trong các dịp lễ, tết, và chính sách vĩ mô của chính phủ đối với dự trữ lưu thông đối với các mặt hàng có tính thời vụ đó) . Dự trữ bảo hiểm là loại dự trữ đề phòng những rủi ro, bất trắc xảy ra (chẳng hạn, do bán nhanh hết hàng, do vận chuyển hàng đến chậm, do thiên tai, do chiến tranh ). c. Các phân loại khác (theo quy mô, thời gian, hình thức biểu hiện và sự vận động của dự trữ) Theo quy mô gồm có dự trữ thấp nhất, cao nhất và bình quân. Theo thời gian gồm có dự trữ đầu kỳ, cuối kỳ. Theo hình thức biểu hiện có dự trữ hiện vật, trị giá dự trữ và thời gian (số ngày) dự trữ hàng hoá. Theo quá trình vận động gồm hàng hoá dự trữ trong các kho hàng, hàng hoá đang trên đường đi, hàng gửi bán hoặc quảng cáo tại các hội chợ thương mại. 3.2.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới dự trữ hàng hoá Các yếu tố thuộc về sản xuất như quy mô, cơ cấu, trình độ, tính chất và sự phân bố sản xuất. Hệ thống giao thống và hạ tầng kỹ thuật: số lượng, chất lượng, cơ cấu các loại tuyến đường và phương tiện giao thông cũng như sự phân bố hạ tầng giao thông. Các hạ tầng kỹ thuật khác như thông tin, viễn thông, ngân hàng, điện năng, Mạng lưới thương mại và hệ thống phân phối bao gồm cửa hàng, kho hàng, trung tâm thương mại, siêu thị, hội chợ triển lãm, các chợ bán buôn, bán lẻ, Cơ sở vật chất kỹ thuật thương mại gồm các phương tiện kinh doanh trong các khâu mua bán, kho hàng và vận chuyển hàng hoá. Tình hình thị trường và cạnh tranh trong thương mại. Quan hệ cung cầu hàng hoá, giá cả, mức độ cạnh tranh và xu hướng biến động của các yếu tố và quan hệ đó. Chính sách kinh doanh của doanh nghiệp và cơ chế quản lý nhà nước đối với hàng hoá lưu thông. Các yếu tố khác (điều kiện tự nhiên, những bất trắc khác). 3.2.4. Chi phí lưu thông hàng hóa 3.2.4.1. Khái niệm chi phí lưu thông Chi phí lưu thông là biểu hiện bằng tiền toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá phục vụ cho việc tổ chức và quản lý quá trình lưu thông hàng hoá trong nền kinh tế. Các hao phí về lao động vật hoá bao gồm các bộ phận cấu thành chủ yếu như hao mòn vật chất về tài sản, phương tiện trong các khâu mua, bán, kho hàng và vận chuyển 25
  26. hàng hoá, hao hụt, tổn thất hàng hoá. Ngoài ra, còn bao gồm những hao phí vật chất ở các cơ quan quản lý nhà nước về thương mại. Hao phí về lao động sống bao gồm hao phí sức lao động của nhân sự thực hiện các công việc ở các khâu lưu thông nói trên và công tác quản lý thương mại. Chi phí lưu thông trong nền kinh tế bao gồm chi phi lưu thông của nhà sản xuất trong mua các yếu tố “đầu vào”, tiêu thụ sản phẩm “đầu ra”, chi phi lưu thông của nhà thương mại và chi phí thời gian mua sắm của người tiêu dùng, trong đó chi phí lưu thông của thương mại là bộ phận lớn nhất. 3.2.4.2. ý nghĩa của việc hạ thấp chi phí lưu thông trong nền kinh tế Hạ thấp chi phí lưu thông được hiểu là giảm thấp tỷ suất chi phí chứ không phải giảm quy mô, khối lượng chi phí phục vụ quá trình lưu thông hàng hoá. Hạ thấp chi phí lưu thông có ý nghĩa như sau: Tiết kiệm chi phí và vốn đầu tư của nhà nước, của xã hội và doanh nghiệp vào lĩnh vực lưu thông, dành vốn ưu tiên cho các lĩnh vực khác trong nền kinh tế. Nâng cao hiệu quả thương mại và sức cạnh tranh của hàng hoá, của doanh nghiệp cũng như của cả nền kinh tế. Tiết kiệm chi phí thời gian và tiền bạc trong quá trình mua sắm hàng hoá của người tiêu dùng. 3.2.4.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chi phí lưu thông Khối lượng và cơ cấu hàng hoá lưu thông. Quy mô lưu chuyển hàng hoá tăng làm khối lượng chi phí cũng tăng lên, nhưng tỷ lệ chi phí lưu thông có xu hướng giảm, nhờ tiết kiệm các chi phí cố định. Mỗi loại hàng, nhóm hàng có đặc điểm kinh doanh khác nhau, đòi hỏi hao phí trong quá trình trao đổi khác nhau, do vậy, sự chuyển dịch cơ cấu hàng hoá lưu chuyển sẽ làm thay đổi quy mô và cơ cấu chi phí lưu thông. Dự trữ hàng hoá và thời gian lưu thông. Dự trữ hàng hoá càng lớn, thời gian lưu thông hàng hoá càng kéo dài chi phí càng tăng và thậm chí gây lãng phí lớn tiền vốn đầu tư vào lĩnh vực thương mại. Giá cả hàng hoá và giá các dịch vụ. Tỷ suất chi phí lưu thông có quan hệ tỷ lệ nghịch với giá cả và tỷ lệ thuận với giá các dịch vụ. Sử dụng các phương thức mua bán, các phương tiện kinh doanh thích hợp vừa thúc đẩy chu chuyển hàng hoá, vừa giảm thấp chi phí trong lưu thông nói chung và chi phí khâu thanh toán tiền hàng. Công tác quản lý cũng như trình độ nguồn nhân lực, thủ tục thương mại đều có ảnh hưởng đến quy mô và cơ cấu chi phí lưu thông trong nền kinh tế. Các yếu tố khác như điều kiện tự nhiên, những bất trắc do chiến tranh, xung đột sắc tộc, dịch bệnh, thiên tai. 26
  27. 3.2.5. Kết quả trong thương mại hàng hóa 3.2.5.1. Khái niệm kết quả thương mại Đó là phạm trù kinh tế phản ánh kết cục hoạt động thương mại của chủ thể nào đó trong một thời kỳ nhất định. Kết quả thương mại thường được xác định trên tầm vĩ mô và doanh nghiệp. Kết quả phản ánh mục tiêu mà hoạt động thương mại cần hoặc đã đạt được trong khoảng thời gian xác định. Kết quả và hiệu quả thương mại có quan hệ tỷ lệ thuận với nhau. Tuy nhiên hiệu quả bao giờ cũng phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực để đạt được kết quả thương mại theo mục tiêu đã đặt ra, không thể đồng nhất với kết quả. 3.2.5.2. Các chỉ tiêu chủ yếu biểu hiện kết quả trong thương mại hàng hoá Tổng mức lưu chuyển hàng hoá. Kết quả hoạt động thương mại nội địa hay lưu thông hàng hoá trong nước được thể hiện ở tổng mức lưu chuyển hàng hoá. Trong trường hợp này, toàn bộ kết quả hoạt động trao đổi được tính theo trị giá, đo lường theo đồng nội tệ (bản tệ). Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bao gồm tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán buôn và bán lẻ. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán buôn phản ánh kết quả dưới hình thái giá trị các giao dịch thương mại diễn ra trên thị trường giữa các nhà doanh nghiệp với nhau trong hoạt động mua bán buôn, hàng hoá vẫn nằm trong khâu lưu thông, chưa kết thúc khâu bán lẻ để tới người tiêu dùng cuối cùng. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ (hay tổng mức bán lẻ xã hội). Đó là chỉ tiêu phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động lưu thông hàng hoá trong nước. Tất cả kết quả các giao dịch mua bán giữa chủ thể người bán với người tiêu dùng cuối cùng trên thị trường dưới hình thái giá trị đều được phản ánh qua chỉ tiêu tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ. Chỉ tiêu này rất cần thiết cho các phân tích kinh tế vĩ mô về cân đối cung cầu, quỹ mua và nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư và xã hội. Đây là chỉ tiêu quan trọng và là bộ phận hợp thành chủ yếu của tổng mức lưu chuyển hàng hoá trong nền kinh tế. Kết quả thương mại còn được biểu hiện dưới hình thức hiện vật, đó là khối lượng hàng hoá lưu chuyển. Thông thường những mặt hàng quan trọng, thiết yếu thuộc cân đối lớn trên tầm vĩ mô của quốc gia, cần phải thống kê và phân tích theo cả 2 hình thức giá trị và hiện vật để phục vụ cho công tác hoạch định chính sách kinh tế và quản lý thương mại của nhà nước. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu phản ánh toàn bộ hoạt động thương mại quốc tế hai chiều (ngoại thương) của một quốc gia, bao gồm kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu. Đơn vị sử dụng trong đo lường kết quả hoạt động ngoại thương là đồng ngoại tệ (có thể là 27
  28. đồng tiền chung quốc tế USD hay các đồng tiền của đối tác thương mại). Chỉ tiêu này cũng phản ánh qui mô và cơ cấu cán cân thương mại của quốc gia trong từng thời kỳ cụ thể. Nó cho phép đánh giá chiến lược, chính sách thương mại, cũng như phân tích các xu hướng tăng trưởng, phát triển kinh tế, vị thế của thương mại từng quốc gia trong nền thương mại toàn cầu và khu vực. Kim ngạch xuất khẩu phản ánh kết quả hoạt động ngoại thương một chiều xuất khẩu của quốc gia trong một thời kỳ nhất định. Kim ngạch nhập khẩu phản ánh kết quả hoạt động ngoại thương trong trường hợp ngược lại khi nhập hàng từ nước ngoài về. Ngày nay, do mở cửa thị trường và tự do hoá thương mại, hoạt động ngoại thương của một nước có thể diễn ra ngay tại thị trường trong nước, đó là trường hợp xuất nhập khẩu tại chỗ. Để tính toán và phân tích kết quả hoạt động thương mại nói chung của quốc gia, cần phải quy đổi ra một đơn vị tiền tệ thống nhất các kết quả thương mại trên thông qua lựa chọn đúng đắn quan hệ tỷ giá chuyển đổi giữa đồng nội tệ và ngoại tệ. Chỉ tiêu phản ánh toàn bộ kết quả hoạt động thương mại của quốc gia, đó tổng trị giá thương mại hay tổng thương mại. Giá trị gia tăng trong thương mại hàng hoá. Chỉ tiêu này phản ánh khoảng cách chênh lệch tuyệt đối giữa kết quả đạt được và chi phí nguồn lực bỏ ra trong trao đổi thương mại hàng hoá của quốc gia. Giá trị gia tăng có phân biệt khi mua bán hàng hóa và dịch vụ trên thị trường nội địa và quốc tế. Giá trị gia tăng là chỉ tiêu phản ánh kết quả tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Nó cho phép phân tích, đánh giá sự tham gia, đóng góp của thương mại vào thu nhập quốc dân của nền kinh tế. Nếu so sánh tương quan (số tương đối) giữa giá trị gia tăng với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó thì đây còn là thước đo về hiệu quả và sức cạnh tranh của thương mại. Ngoài ra, còn có chỉ tiêu trị giá thương mại hàng gia công. Trong thương mại, ngoài kết quả trao đổi theo các giao dịch thông thường, còn có gia công, lắp ráp, chế biến sản phẩm. Kết quả của các hoạt động này tuy mang tính chất sản xuất nhưng lại diễn ra trong khâu lưu thông nên được tính vào giá trị thương mại. Trị giá hàng hoá gia công trong thương mại quốc tế được coi là kim ngạch xuất khẩu. Chỉ tiêu này có ý nghĩa quan trọng trong đánh giá hiệu quả xã hội của thương mại thể hiện ở thu hút việc làm, khai thác lợi thế về nhân công dồi dào, giá rẻ. 3.2.5.3. Đặc điểm phát triển có tính quy luật trong thương mại hàng hoá (1) Quy mô thương mại hàng hoá ngày càng tăng lên trên cả thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu, tỷ trọng thương mại có xu hướng giảm trong tổng thương mại. Cơ sở: Do nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất và đời sống xã hội ngày càng tăng lên. Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển với trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến. Chiến lược 28
  29. và các chính sách phát triển kinh tế và thương mại của quốc gia ngày càng phù hợp với quá trình tự do hoá thương mại và toàn cầu hoá kinh tế thế giới. Sự phát triển của thương mại dịch vụ và thương mại điện tử. Biểu hiện: Tổng mức lưu chuyển hàng hoá trên thị trường nội địa, kim ngạch xuất nhập khẩu ngày càng gia tăng, năm sau cao hơn năm trước về trị giá thương mại. Các nước phát triển sẽ gia tăng thương mại đối với những hàng hoá có yêu cầu đổi mới công nghệ và chuyển giao kỹ thuật, phát triển quy mô thương mại ở thị trường nước ngoài. Các nước đang và chậm phát triển tăng quy mô thương mại trên cở sở khai thác quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tiếp nhận chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm kinh doanh quản lý quốc tế. Thương mại hàng hoá không chỉ tăng lên về quy mô, mà còn có khả năng gia tăng tốc độ, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng không đều, tỷ trọng có xu hướng giảm trong tổng thương mại. (2) Cơ cấu thương mại hàng hoá ngày càng thay đổi theo hướng đa dạng hơn, phong phú hơn và đáp ứng ngày càng nhanh hơn, tốt hơn nhu cầu thị trường. Cơ sở: Do yêu cầu cuả thị trường ngày càng cao về chất lượng, đa dạng về chủng loại, nhanh chóng về thời gian cung cấp. Do chu kỳ sống của sản phẩm ngày càng rút ngắn nhờ tiến bộ khoa học công nghệ. Do cạnh tranh ngày càng quyết liệt đòi hỏi phải nâng cao chất lượng và hiệu quả thương mại. Do những xu hướng tiêu dùng, do ảnh hưởng của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đến phân bổ nguồn lực thương mại, phát triển và thay đổi các luồng thương mại quốc tế. Biểu hiện: Những hàng hoá đã qua chế biến, hàng hoá có hàm lượng lao động kĩ thuật, chất xám cao, các hàng hoá đắt tiền, có giá trị lớn ngày càng gia tăng làm thay đổi cơ cấu, tỷ trọng thương mại. Những hàng hoá có tính mốt gia tăng nhanh và rất đa dạng. Kiểu mốt hàng hoá thay đổi nhanh chóng. Xu hướng này diễn ra trên cả thị trường trong và ngoài nước. Hàng hoá có giá trị dinh dưỡng cao, an toàn vệ sinh, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống ngày càng được quan tâm và chiếm vị trí quan trọng trong đời sống, tiêu dùng xã hội. (3) Hàng hoá ngày càng phong phú về nhãn hiệu, có xuất xứ ngày càng đa dạng và được tiêu chuẩn hoá. Cơ sở: 29
  30. Do đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng và sản xuất ngày càng phát triển. Do cạnh tranh và hội nhập trong thương mại quốc tế thúc đẩy sự đa dạng của hàng hoá, nâng cao uy tín thương hiệu, nhãn hiệu. Do yêu cầu đặt ra của hệ thống luật pháp cũng như các thông lệ buôn bán quốc tế. Biểu hiện: Nhiều nhãn hiệu sản phẩm mới ra đời và được cung ứng trên thị trường. Sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng, chứng nhận ISO ngày càng gia tăng. Sản phẩm trao đổi ngày càng chú trọng đến các tiêu chuẩn về lao động, vệ sinh, môi trường. Sản phẩm có xuất xứ đa dạng, khác nhau, nhưng rõ ràng về nguồn gốc là xu hướng mang tính phổ biến trong thương mại hàng hoá quốc tế. Bên cạnh những đặc điểm trên, thương mại hàng hoá toàn cầu hiện nay đang gặp phải những khó khăn trở ngại rất lớn là vấn đề hàng giả và buôn bán phi pháp, nhất là trong điều kiện hội nhập quốc tế. Chương 4: Thương mại dịch vụ , thương mại quyền sở hữu trí tuệ và thương mại liên quan đến đầu tư 4.1. Thương mại dịch vụ 4.1.1. Bản chất của thương mại dịch vụ 4.1.1.1. Khái niệm về thương mại dịch vụ a. Khái niệm về thương mại dịch vụ Thương mại dịch vụ là một khái niệm phân biệt với khái niệm thương mại về hàng hoá. Nếu thương mại hàng hoá về cơ bản là mua bán các sản phẩm hữu hình, thì thương mại dịch vụ về cơ bản là trao đổi về các sản phẩm vô hình. “Bất kỳ thứ gì mua bán trong thương mại mà không thể rơi vào chân bạn đó là dịch vụ”. Trên thị trường dịch vụ được cung cấp thông qua các phương thức khác nhau để đổi lấy tiền công trả cho việc cung cấp các dịch vụ đó. Dịch vụ có thể được cung cấp trên thị trường như một sản phẩm độc lập (ví dụ cung cấp một khoá học tiếng anh), một số trường hợp chúng được cung cấp nhu một tập hợp nhiều dịch vụ riêng lẻ có tính chất bổ sung lẫn nhau (ví dụ một tour du lịch bao gồm: dịch vụ vận chuyển, dịch vụ lưu trú, dịch vụ nhà hàng ), trường hợp khác chúng phải đi kèm 30
  31. cùng với các sản phẩm hàng hoá (ví dụ các dịch vụ nhà hàng luôn đi kèm với thức ăn, đồ uống). Cần lưu ý rằng không phải bất kỳ sự cung ứng dịch vụ nào trong xã hội cũng có tính thương mại. Thương mại dịch vụ chỉ bao gồm những hoạt động mua bán và trao đổi nhằm vào mục đích lợi nhuận. Vậy thương mại dịch vụ là toàn bộ những hoạt động cung ứng dịch vụ trên thị trường thông qua mua bán nhằm mục đích lợi nhuận. 4.1.1.2. Đặc điểm của thương mại dịch vụ a. Tính đặc thù về đối tượng trao đổi trong thương mại dịch vụ Sự khác biệt rõ nhận thấy nhất giữa thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ chính là ở đối tượng của hoạt động trao đổi. Trong thương mại hàng hóa đối tượng trao đổi là các sản phẩm vật thể còn trong thương mại dịch vụ chúng là các sản phẩm phi vật thể. Mặc dù có sự khác biệt nhưng dịch vụ và hàng hóa vẫn có những điểm giống nhau: Là sản phẩm của lao động vì vậy dich vụ mang giá trị. Trong trao đổi giá trị dịch vụ thể hiện thông qua giá cả thị trường. Dịch vụ cũng có giá trị sử dụng, giá trị sử dụng của dịch vụ hay công dụng của chúng chính là các lợi ích mà người tiêu dùng nhận được và thỏa mãn khi tiêu dùng chúng. Vì dịch vụ vô hình nên so với hàng hoá chúng khó thương mại hoá hơn, điều này lý giải vì sao cho mãi đến thập niên 70 các nhà kinh tế học vẫn cho rằng: “ngành dịch vụ là tập hợp chủ yếu của những hoạt động phi thương mại” (theo UNCTAD). Cũng chính vì thế mà cho đến nay tỷ trọng của các ngành dịch vụ trong GDP khá cao nhưng giá trị kim ngạch dịch vụ cho xuất khẩu hoặc trao đổi là tương đối nhỏ. Đối với các nước phát triển tỷ trọng của ngành dịch vụ trong GDP chiếm khoảng hai phần ba nhưng kim ngạch thương mại dịch vụ trong nền kinh tế chỉ chiếm khoảng một phần năm (theo Service Economy). Vì dịch vụ vô hình nên khi xẩy ra mất cân đối cung cầu theo thời gian người ta không dự trữ chúng lại trong các kho hoặc nếu có sự mất cân đối cung cầu theo không gian người ta không thể điều hoà bằng cách vận chuyển chúng từ nơi này qua nơi khác bằng các phương tiện vận tải nhằm điều tiết cung cầu như trong trường hợp thương mại hàng hoá. Trong thương mại dịch vụ để thoả mãn đòi hỏi của khách hàng người ta luôn phải đảm bảo sự sẵn sàng cung ứng tại nơi và thời điểm mà thị trường có nhu cầu. Mâu thuẫn là ở chỗ cầu về dịch vụ thường có tính đàn hồi cao và mang tính thời vụ lớn trong khi cung dịch vụ lại có tính “cứng”. Điều này dẫn tới những mâu thuẫn về cung cầu. Đây là bài toán nan giải trong nhiều ngành dịch vụ. Ví dụ: khả năng truyền tải mạng điện thoại di động hay mạng Internet thì có hạn nhưng cầu lại biến động và mang tính thời vụ rất 31
  32. cao nên thường xẩy ra tình trạng “quá tải” do có nhiều người cùng sử dụng vào những giờ cao điểm hoặc ngược lại có những lúc lại có rất ít người sử dụng như ban đêm hay ngày nghỉ cuối tuần. b. Tính đặc thù về các phương thức cung cấp trong thương mại dịch vụ Do những đặc trưng của sản phẩm dịch vụ nên các giao dịch trong thương mại dịch vụ giữa người mua, người bán thường đòi hỏi phải có sự tiếp xúc trực tiếp. Trao đổi các dịch vụ có thể xảy ra trong các trường hợp sau: dịch vụ được chuyển dịch trực tiếp từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng (trong thương mại hàng hóa hoạt động trao đổi này là phổ biến thì trong thương mại dịch vụ chỉ có một số ít dịch vụ được thực hiện theo cách này. Ví dụ như chuyển tiền qua ngân hàng ). Các trường hợp giao dịch phổ biến trong lĩnh vực dịch vụ là: nhà cung cấp dịch vụ dịch chuyển đến nơi có người tiêu dùng (ví dụ các bác sỹ đến khám bệnh tại nhà) hoặc người tiêu dùng di chuyển đến nơi có nhà cung cấp dịch vụ (ví dụ bệnh nhân đến bệnh viện để khám, chữa bệnh) hoặc nhà cung cấp dịch vụ và người tiêu dùng cùng di chuyển đến một địa điểm thứ ba, ví dụ: một doanh nghiệp của Pháp mở bệnh viện ở Việt Nam (bệnh viện Việt Pháp) để khám, chữa bệnh cho một bệnh nhân đến từ Nhật Bản. Trong buôn bán quốc tế dịch vụ được cung cấp giữa các quốc gia theo một trong bốn phương thức sau: - Phương thức 1: di chuyển qua biên giới của các sản phẩm dịch vụ (các dịch vụ có thể truyền qua phương tiện viễn thông như chuyển tiền qua ngân hàng). - Phương thức 2: di chuyển của người tiêu dùng sang nước khác( khách du lịch sang thăm một nước khác). - Phương thức 3: thiết lập hiện diện thương mại tại một nước để cung cấp dịch vụ (thành lập chi nhánh hay công ty con ở nước ngoài). - Phương thức 4: di chuyển tạm thời của thể nhân sang một nước khác để cung cấp dịch vụ tại đó (các luật sư hay bác sỹ di chuyển đến nước khác để làm việc). c. Tính liên ngành của các dịch vụ Lĩnh vực dịch vụ có một đặc điểm nổi bật là sự liên kết cao giữa các ngành và phân ngành dịch vụ. Một mặt, sự phát triển của mỗi ngành kinh doanh dịch vụ phụ thuộc chặt chẽ vào các ngành dịch vụ khác như là các yếu tố đầu vào. Mặt khác do tính chất của nhiều loại nhu cầu của dịch vụ mà sự thoả mãn chúng đòi hỏi sản phẩm dịch vụ không chỉ là những dịch vụ riêng lẻ mà chúng như là một tổ hợp gồm nhiều dịch vụ có tính chất bổ sung lẫn nhau. Để tạo ra một sản phẩm dịch vụ loại này phải là sự liên kết và phối hợp hoạt động của nhiều ngành dịch vụ khác nhau cùng tạo ra và cung ứng các dịch vụ (ví dụ như sản phẩm du lịch). d. Tính đa dạng cúa các loại hình dịch vụ 32
  33. Dịch vụ là lĩnh vực rất rộng, đa dạng về quy mô và tính chất kinh doanh. Bên cạnh một số ngành dịch vụ quy mô kinh doanh lớn: vốn đầu tư lớn, công nghệ hiện đại, lao động chuyên môn cao như dịch vụ viễn thông, dịch vụ tài chính, dịch vụ hàng không, vận tải biển, vận tải đường sắt còn có vô số những ngành dịch vụ kinh doanh nhỏ, linh hoạt, phân tán, lao động giản đơn, thích hợp với loại hình kinh doanh nhỏ, hộ gia đình và doanh nghiệp nhỏ. Những ngành dịch vụ này tồn tại khách quan do nhu cầu đời sống như trông xe, giữ trẻ, xe ôm, giúp việc gia đình cho dù sự phát triển ở trình độ nào của nền kinh tế thì chúng vẫn tồn tại như là một bộ phận không thể thiếu được của nền kinh tế xã hội và vai trò của chúng không nhỏ, nhất là trong việc thỏa mãn nhu cầu muôn màu, muôn vẻ của đời sống xã hội và tạo công ăn việc làm cho dân cư. Sự đa dạng về vai trò của dịch vụ đối với đời sống và sản xuất: có nhiều ngành dịch vụ là những ngành quan trọng cung cấp yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh và trình độ của những ngành dịch vụ này có ảnh hưởng rất lớn tới sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ của quốc gia ví dụ dịch vụ vận tải, dịch vụ viễn thông Nhiều ngành dịch vụ không chỉ đáp ứng nhu cầu sản xuất mà cả nhu cầu sinh hoạt của dân cư như dịch vụ điện thoại. Ngoài ra có một số dịch vụ hoàn toàn chỉ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của dân cư . e. Tính chất nhạy cảm về tác động của dịch vụ với đời sống kinh tế, xã hội, chính trị và môi trường Thương mại dịch vụ là lĩnh vực hoạt động kinh tế có sự phụ thuộc chặt chẽ và đặc biệt nhậy cảm vấn đề chính trị, an ninh, quốc phòng. Ngược lại, cũng là lĩnh vực mà hoạt động của chúng có tác động rất phức tạp và khó dự báo đối với đời sống xã hội. 4.1.1.3. Phân loại thương mại dịch vụ Ngày nay, dịch vụ là một lĩnh vực bao gồm những hoạt động hết sức rộng lớn. Ban thư ký WTO đã chia các hoạt động dịch vụ khác nhau thành 12 ngành (trong đó gồm 155 tiểu ngành): 1. Các dịch vụ kinh doanh 2. Dịch vụ bưu chính viễn thông 3. Dịch vụ xây dựng và các dịch vụ kỹ thuật liên quan 4. Dịch vụ phân phối 5. Dịch vụ giáo dục 6. Dịch vụ môi trường 7. Dịch vụ tài chính 8. Các dịch vụ xã hội và liên quan đến y tế 9. Các dịch vụ du lịch và dịch vụ liên quan đến lữ hành 10. Các dịch vụ giải trí, văn hoá, thể thao (ngoài dịch vụ nghe nhìn) 11. Dịch vụ vận tải 33
  34. 12. Các dịch vụ khác chưa được thống kê ở trên Cần lưu ý rằng ngoài 11 ngành dịch vụ chính, nhóm dịch vụ thứ 12 (nhóm các dịch vụ khác) là vô số những loại dịch vụ tồn tại một cách khách quan do nhu cầu của đời sống. Những dịch vụ này rất đa dạng và hiện vẫn chưa được xét đến trong thống kê thương mại. 4.1.2. Vai trò của thương mại dịch vụ Trong thời đại ngày nay, thương mại dịch vụ có một ví trí ngày càng quan trọng trong buôn bán toàn cầu và trong cơ cấu kinh tế của các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia phát triển. ở nhiều nước, một số ngành dịch vụ được xem là ngành kinh tế có vị trí mũi nhọn, ngành công nghiệp không ống khói. Theo thống kê của WTO, tổng giá trị thương mại dịch vụ của những năm đầu thế kỷ XI đã tăng gấp 4 lần so với tổng giá trị thương mại dịch vụ năm 1980. Giá trị thương mại dịch vụ năm 2002 đạt 2.900 tỷ USD, chiếm 20% tổng giá trị thương mại thế giới (1). ở các nước phát triển, các ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng khoảng 60-70% GNP, như Anh, Pháp, Đức khoảng 65%, riêng Hoa Kỳ chiếm gần 80%, và ở các nước đang phát triển tỷ trọng này cũng chiếm khoảng 50%. Mỹ, EU và Nhật Bản là những quốc gia có sức cạnh tranh cao trong các ngành dịch vụ, đặc biệt là tài chính, viễn thông, vận tải. Các nước này đang tăng cường vị trí của mình trong thương mại dịch vụ nhiều hơn thương mại hàng hóa. Với vị trí đó, thương mại dịch vụ đã đem lại những vai trò đặc biệt quan trọng cho các quốc gia trong thời đại ngày nay, cụ thể: - Thương mại dịch vụ có vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đóng góp vào GNP của nền kinh tế các quốc gia. Vai trò của thương mại dịch vụ với tăng trưởng kinh tế không những thể hiện ở sự tăng trưởng nhanh chóng của bản thân những ngành dịch vụ mà vai trò này còn thể hiện ở việc thúc đẩy, hỗ trợ các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là vai trò của các ngành dịch vụ như bưu chính - viễn thông, tài chính - ngân hàng, giao thông - vận tải Với khả năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đó, những đóng góp của thương mại dịch vụ vào GNP cũng ngày càng được khẳng định. Theo WTO, giai đoạn 1980-2002, hàng năm bản thân thương mại dịch vụ trên thế giới có tốc độ tăng trưởng bình quân 9%, cao hơn tốc độ tăng 6% của thương mại hàng hóa. Về đầu tư, khoảng 60% giá trị đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ. (2) - Vai trò của thương mại dịch vụ với tăng cường hội nhập khu vực và quốc tế, cải thiện cán cân thương mại của các quốc gia. Xu thế tự do hóa thương mại không chỉ còn diễn ra ở lĩnh vực thương mại hàng hóa, mà tự do hóa thương mại dịch vụ cũng đang từng bước mở ra. Hiện nay, các nước phát (1) Ngun: www.ilo.org (2) Ngun: www.ilo.org 34
  35. triển đang chú trọng vào phát triển và tìm cơ hội xuất khẩu ở các ngành dịch vụ như tài chính, viễn thông, y tế và giáo dục. Các nước này thường thu được lợi ích rất cao nhờ vào những ngành dịch vụ và thường gây sức ép đòi hỏi các nước mở cửa hơn đối với thị trường này. Mặc dù các nước đang phát triển và chậm phát triển thường có nhiều bất lợi khi mở của thị trường dịch vụ, song họ cũng đang khai thác những lợi thế so sánh của mình để hội nhập và cải thiện cán cân thương mại thông qua các ngành dịch vụ như du lịch, xuất khẩu lao động. - Vai trò của thương mại dịch vụ với việc thúc đẩy phân công lao động và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ngày nay, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, các ngành dịch vụ mới không ngừng ra đời và phát triển nhanh chóng. Do vậy, lĩnh vực dịch vụ đã ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu của nền kinh tế quốc dân. Đồng thời, một số ngành dịch vụ ra đời đã thúc đẩy tích cực trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các vùng, giữa các quốc gia, đưa đến xu thế phân bổ nguồn lực theo nguyên lý cân bằng hiệu quả cận biên (Marginal Efficiency). Những tác động đó đã góp phần thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phân công lao động xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong phạm vi từng quốc gia, cũng như trên phạm vi toàn thế giới phù hợp với lợi thế so sách của từng vùng và từng quốc gia. - Vai trò của thương mại dịch vụ đối với việc tạo ra công ăn việc làm cho xã hội. Một mặt, qui mô của lĩnh vực dịch vụ ngày càng được mở rộng sẽ đem lại công ăn việc làm ngày càng nhiều cho xã hội. Mặt khác, đối với một số ngành dịch vụ, sự phát triển nó sẽ đem lại số lượng công ăn việc làm mới cả về số tương đối và tuyệt đối. Đây là những lĩnh vực dịch vụ có cấu tạo hữu cơ mà việc sử dụng lao động sống có xu hướng tăng nhanh hơn lao động vật hóa. Tại nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là các quốc gia phát triển, tỷ trọng lao động của các ngành dịch vụ chiếm khoảng 60-70% công ăn việc làm trong xã hội. Chỉ tính riêng ngành du lịch, năm 2002 đã thu hút khoảng 204 triệu lao động trên toàn thế giới (ước tính cứ 9 lao động thì có 1 lao động làm việc trong lĩnh vực du lịch), chiếm khoảng 10,6% lực lượng lao động thế giới. (3) - Vai trò của thương mại dịch vụ đối với việc nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Trước hết, xuất phát từ những vai trò của thương mại dịch vụ nói trên mà nó đã góp cải thiện tích cực thu nhập cho xã hội và người lao động. Theo đó việc cải thiện thu nhập được xem là một yếu tố quan trọng cho phép con người nâng cao chất lượng cuộc sống của họ. Mặt khác, thực tế ngày nay ở hầu hết các quốc gia thì chất lượng cuộc sống đang phụ thuộc chủ yếu vào khả năng thỏa mãn nhu cầu về các sản phẩm dịch vụ, đặc biệt là (3) Ngun: www.ilo.org 35
  36. các dịch vụ liên quan đến chăm sóc sức khỏe, nâng cao dân trí, giải trí hay phục vụ cho các nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Ngoài ra, thương mại dịch vụ còn đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường giao lưu văn hóa, chuyển giao công nghệ 4.2. Thương mại quyền sở hữu trí tuệ 4.2.1. Bản chất của thương mại quyền sở hữu trí tuệ 4.2.1.1. Khái niệm tài sản trí tuệ, quyền sở hữu trí tuệ và thương mại quyền sở hữu trí tuệ a. Khái niệm tài sản trí tuệ Tài sản trí tuệ là sản phẩm của óc sáng tạo của con người, tri thức của nhân loại. Các sản phẩm trí tuệ gồm: Các ý tưởng sáng tạo, phát minh sáng chế, công nghệ, các tác phẩm văn học nghệ thuật Tài sản trí tuệ có 4 đặc trưng cơ bản sau: - Tính vô hình. - Mang đặc tính của hàng hóa, dịch vụ công - Tính phái sinh - Tinh tương đối Tài sản trí tuệ về bản chất là vô hình, nhưng nói chung nó được chứa đựng trong một hình thái hữu hình cố định. Tuy nhiên, những vật thể này thường chẳng bao giờ có một giá trị tương đương với giá trị của những ý tưởng được tổ chức mà vật thể đó thể hiện. b. Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của các tổ chức, cá nhân đối với các tài sản trí tuệ. Quyền sở hữu trí tuệ cho phép chủ sở hữu quyền lựa chọn ai có thể tiếp cận và sử dụng tài sản của mình và bảo vệ nó trước việc sử dụng không được phép. Quyền sở hữu trí tuệ được trao cho chủ sở hữu về ý tưởng, phát minh và những biểu hiện có đặc điểm sáng tạo mang tính chất của tài sản (tài sản trí tuệ). Như vậy, quyền sở hữu trí tuệ là quyền hợp pháp đối với kết quả của các hoạt động trí óc trong các lĩnh vực khoa học, công nghiệp và văn học nghệ thuật. Quyền sở hữu bao gồm quyền sử dụng, quyền hưởng dụng và quyền định đoạt đối với một tài sản, các quyền lợi này gọi là các quyền lợi đối vật vì được hành xử trên các vật hữu hình. Tuy nhiên, bên cạnh quyền lợi đối vật và các quyền lợi đối nhân (nghĩa vụ dân sự) còn có một quyền lợi thứ ba gọi là các quyền lợi tinh thần (quyền nhân thân) như quyền được bảo vệ danh dự, quyền đối với bí mật đời tư, quyền được xác định tử hệ Các quyền lợi này có tính chất phi tài sản, không thể giá trị bằng tiền bạc và đương nhiên chúng không thể đem ra trao đổi. 36
  37. Quyền sở hữu trí tuệ có tính chất đặc biệt, nó vừa là một quyền lợi về tài sản, vừa là phi tài sản. Khi nói đến quyền sở hữu nói chung người ta thường nghĩ đến các quyền lợi tài sản của chủ sở hữu. Song đối với quyền sở hữu tài sản trí tuệ thì các quyền lợi phi tài sản (quyền lợi tinh thần) lại có tính trội yếu. Quyền sở hữu trí tuệ hiện được đề cập chủ yếu bao gồm: Quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với người gây giống. Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tác hoặc sở hữu. Quyền liên quan đến quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa. Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạng tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh. Quyền đối với người gây giống là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu. Những quyền sở hữu trí tuệ chỉ có giá trị trong nền kinh tế thị trường. Những quyền này tạo ra một cơ chế cho những vật không thể sờ thấy được (sản phẩm vô hình) để được buôn bán trên thị trường và quan hệ cung cầu trên thị trường sẽ quyết định giá trị của tài sản trí tuệ. Việc thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ sẽ góp phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội thông qua việc thúc đẩy sự sáng tạo, phổ biến và sử dụng kết quả của hoạt động trí óc và khuyến khích trao đổi công bằng. c. Khái niệm thương mại quyền sở hữu trí tuệ Thương mại quyền sở hữu trí tuệ có thể được hiểu là toàn bộ những hiện tượng, hoạt động và những quan hệ kinh tế phát sinh gắn với việc mua bán, chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ mang tính thương mại trên thị trường. Trong trường hợp này quyền sở hữu đối với những tài sản trí tuệ là đối tượng của hoạt động thương mại. Trong thực tế, không phải mọi hoạt động chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ đều mang tính thương mại, chẳng hạn việc chuyển nhượng đó chỉ đơn thuần là việc hiến, tặng của tác giả cho người khác, hoặc cho xã hội mà việc chuyển nhượng này không mang tính cạnh tranh và không vì lợi ích kinh tế. Đồng thời, việc chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ cũng chỉ được xem là có tính thương mại khi người nhận chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ phải sử dụng và khai thác các quyền đó liên quan đến mục đích sinh lợi. 37
  38. Các chủ thể tham gia vào hoạt động thương mại quyền sở hữu trí tuệ cũng bao gồm người người bán (người chuyển nhượng) và người mua (người nhận chuyển nhượng). Người bán có thể là bất kỳ cá nhân, tập thể hoặc tổ chức nào có quyền sở hữu đối với một tài sản trí tuệ. Người bán có thể là tác giả (trường hợp tác giả và chủ sở hữu tài sản trí tuệ là một) hoặc có thể người bán chỉ là người chủ sở hữu tài sản trí tuệ mà không đồng thời là tác giả (ví dụ: Một tổ chức thuê người nghiên cứu ra phát minh sáng chế thì người phát minh sáng chế là tác giả nhưng chủ sở hữu tài sản trí tuệ lại thuộc về tổ chức thuê nghiên cứu). Người mua có thể là cá nhân hoặc tổ chức có nhu cầu đối với một tài sản trí tuệ nào đó nhằm mục đích chủ yếu là khai thác giá trị của tài sản này để kiếm lợi. Thương mại quyền sở hữu trí tuệ có thể diễn ra trong các lĩnh vực sau: Chuyển nhượng quyền sở hữu các tác phẩm văn học nghệ thuật; Chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp; Chuyển nhượng quyền sở hữu giống cây trồng. Cùng với sự phát triển của thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ, thương mại quyền sở hữu trí tuệ cũng ngày càng phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là thương mại quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến chuyển giao công nghệ từ những nước phát triển sang các nước đang phát triển. 4.2.1.2. Đặc điểm của thương mại quyền sở hữu trí tuệ a. Đặc điểm của đối tượng chuyển nhượng (mua, bán) trong thương mại quyền sở hữu trí tuệ - Đối tượng chuyển nhượng trong thương mại quyền sở hữu trí tuệ là quyền sở hữu đối với những tài sản trí tuệ, những tài sản do lao động trí óc của con người tạo ra. - Quyền sở hữu trí tuệ về cơ bản chỉ thực sự trở thành đối tượng chuyển nhượng khi quyền sở hữu đối với các tài sản trí tuệ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thừa nhận và bảo hộ. Lẽ đương nhiên, quyền sở hữu trí tuệ sẽ không được thừa nhận là đối tượng chuyển nhượng trong thương mại quyền sở hữu trí tuệ nếu quyền sở hữu tài sản đó đã hết thời gian bảo hộ. - Quyền sở hữu trí tuệ với tư cách là đối tượng chuyển nhượng chỉ là quyền về tài sản. Như đã nói ở trên, quyền sở hữu trí tuệ có tính chất đặc biệt, nó vừa là một quyền lợi về tài sản, vừa là phi tài sản. Trong thương mại quyền sở hữu trí tuệ, các quyền nhân thân (hay quyền phi tài sản) không phải là đối tượng chuyển nhượng. Chẳng hạn, trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, khi tác giả chuyển nhượng tác phẩm của mình cho người khác thì người này chỉ trở thành chủ sở hữu các quyền lợi tài sản đối với tác phẩm mà thôi, các quyền phi tài sản vẫn thuộc về tác giả. Do đó, sau khi chuyển nhượng, người chủ sở hữu cho phép người khác khai thác tác phẩm thì vẫn phải được sự chấp thuận của tác giả. Nói cách khác, đối tượng chuyển nhượng ở đây chỉ là các quyền lợi tài sản của tác giả trên tác phẩm mà không phải là quyền tác giả đối với tác phẩm. 38
  39. - Không phải mọi quyền sở hữu trí tuệ đều có thể trở thành đối tượng của hoạt động chuyển nhượng nói chung và chuyển nhượng mang tính thương mại nói riêng. Những quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ chỉ mang tính phân biệt chung về xuất xứ nơi sản xuất và địa phương có điều kiện về con người và tự nhiên đặc biệt cho việc sản xuất ra sản phẩm thì không thể đưa ra chuyển nhượng, đó là tên gọi xuất xứ hoặc chỉ dẫn địa lý của hàng hóa. b. Đặc điểm về chủ thể tham gia vào quá trình chuyển nhượng trong thương mại quyền sở hữu trí tuệ - Do đối tượng chuyển nhượng trong thương mại quyền sở hữu trí tuệ chỉ là quyền tài sản nên người nhận chuyển nhượng (người mua) trong quan hệ thương mại này phải tôn trọng các quyền nhân thân (quyền phổ biến, quyền về sự tôn trọng tên tuổi, quyền về sự tôn trọng tác phẩm) của tác giả. Người nhận chuyển nhượng phải nêu rõ tên hoặc bút hiệu của tác giả trên tác phẩm; phải tôn trọng sự toàn vẹn của tác phẩm, không được thay đổi, thêm bớt, sửa chữa tác phẩm nếu không được tác giả đồng ý. - Trong thương mại quyền sở hữu trí tuệ, người nhận chuyển nhượng phải thực hiện trả thù lao (mức giá cả) cho tác giả tài sản trí tuệ hoặc theo một tỷ lệ phần trăm trên thu nhập từ việc khai thác tài sản trí tuệ hoặc là một khoản tiền khoán nhất định. Tuy nhiên, phương thức phổ biến là trả theo tỷ lệ phần trăm. Bởi vì, nếu trả một khoản tiền khoán nhất định cho tác giả có thể đem lại sự rủi ro và thiệt thòi cho một trong hai bên hoặc người khai thác hoặc tác giả. c. Đặc điểm liên quan đến điều kiện chuyển nhượng trong thương mại quyền sở hữu trí tuệ - Việc thực hiện các hoạt động thương mại quyền sở hữu trí tuệ chỉ có thể diễn ra trong môi trường pháp lý có thực thi nghiêm túc sự bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của Nhà nước. Bởi vì nếu không có sự bảo hộ này các tài sản trí tuệ sẽ trở thành hàng hóa công, và do vậy các hoạt động chuyển nhượng mang tính thương mại sẽ không thể diễn ra. - Việc chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ chủ yếu được thực hiện thông qua hợp đồng chuyển nhượng bằng văn bản với những điều khoản chủ yếu như quyền lợi được chuyển nhượng (quyền sao chép, in ấn, trình diễn ); Thời hạn khai thác; Hành vi vi phạm phát sinh trong quan hệ thương mại giữa các bên; Đặc điểm này bắt nguồn từ tính dễ gian lận và đặc thù của đối tượng chuyển nhượng. d. Các đặc điểm khác Như là ính nhạy cảm trong thương mại quyền sở hữu trí tuệ đối với những sản phẩm trí tuệ liên quan đến bảo vệ sức cạnh tranh của nền kinh tế, đến các cuộc chạy đua vũ trang; tính cạnh tranh; giá cả trong thương mại quyền sở hữu trí tuệ. 4.2.2 Vai trò của thương mại quyền sở hữu trí tuệ 39
  40. - Vai trò kích thích các hoạt động sáng tạo của con người. Một thực tế là nếu hoạt động lao động mà không đem lại lợi ích, đặc biệt là lợi ích về kinh tế thì hoạt động lao động đó rất khó diễn ra và diễn ra có chất lượng. Các hoạt động thương mại quyền sở hữu trí tuệ đem lại quyền lợi kinh tế thỏa đáng cho người sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật hay những sáng chế, giải pháp hữu ích. Thông qua các hoạt động thương mại, tác giả của những tài sản trí tuệ có thể chuyển nhượng sản phẩm của mình trên thị trường theo quan hệ cung cầu. Trong thời đại ngày nay, do hoạt động thương mại quyền sở hữu trí tuệ được phát triển và mở rộng đã đang đem lại cho loài người một khối lượng sản phẩm trí tuệ ngày càng nhiều trong hầu hết các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, y tế, bưu chính viễn thông Chính vì vậy, sự hình thành và phát triển của nền kinh tế tri thức ngày nay có một vai trò rất quan trọng của thương mại quyền sở hữu trí tuệ. - Vai trò thúc đẩy ứng dụng các tiến bộ về công nghệ, gống cây trồng và phổ biến các tác phẩm nghệ thuật. Ngày nay, tiến bộ xã hội chủ yếu dựa vào việc ứng dụng những tài sản trị tuệ trong đời sống văn hóa, tinh thần và kinh tế. Nếu các tác phẩm văn chương, nghệ thuật có vai trò làm giàu, đẹp đời sống văn hóa, tinh thần của con người thì các sáng chế, các giải pháp hữu ích lại góp phần làm giàu của cải vật chất cho xã hội. Tuy nhiên, những tài sản trí tuệ đó chỉ có thể phục vụ hiệu quả cho con người khi nó có một cơ chế khai thác thích hợp. Việc chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ thông qua thương mại cho phép người có nhu cầu ứng dụng, khai thác các tài sản trí tuệ được thuận lợi hơn trong tìm kiếm, lựa chọn các tài sản phù hợp. Đồng thời, trong quá trình chuyển nhượng này cũng đòi hỏi những người khai thác phải sử dụng một cách triệt để và có hiệu quả tài sản mà mình đã mua. Thực tế, những sáng tạo của con người là vô hạn và nó có thể đem lại sự tiến bộ nhanh chóng về công nghệ, cũng như những giá trị khoa học khác. Điều này còn đòi hỏi người khai thác phải đẩy nhanh sự ứng dụng thì mới có thể đem lại hiệu quả cho đầu tư của mình. - Vai trò thúc đẩy chuyển giao công nghệ, giao lưu văn hóa. Hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại mà đặc biệt là thương mại quốc tế, hoạt động chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ mang tính thương mại ở trong từng quốc gia và giữa các quốc gia theo đó cũng đã phát triển rất sôi động. Quá trình này đã giúp các quốc gia giao lưu và hội nhập nhiều hơn về văn hóa, công nghệ, kinh tế Việc chuyển nhượng những ứng dụng khoa học công nghệ và phổ biến các tác phẩm nghệ thuật phục vụ các ngành công nghiệp, nông nghiệp, y tế, giáo dục, viễn thông, điện ảnh, âm nhạc giữa các quốc gia đã góp phần không nhỏ làm giảm bớt khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển giữa các quốc gia và các khu vực. - Các vai trò khác, như vai trò đối vấn đề giải quyết việc làm, thúc đẩy phát triển văn minh nhân loại 40