Đề tài nghiên cứu khoa học Mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu vốn và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam

pdf 92 trang hapham 690
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài nghiên cứu khoa học Mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu vốn và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfde_tai_nghien_cuu_khoa_hoc_moi_quan_he_giua_cau_truc_so_huu.pdf

Nội dung text: Đề tài nghiên cứu khoa học Mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu vốn và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam

  1. i Mã số: . MỐI QUAN HỆ GIỮA CẤU TRÚC SỞ HỮU VÀ RỦI RO TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM
  2. i TÓM TẮT CÔNG TRÌNH Lí do chọn đề tài Một trong những nguyên nhân sâu xa của thực trạng bất ổn trong hệ thống NHTM Việt Nam hiện này là do cấu trúc sở hữu khác nhau. Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài cho công trình của mình là: “Mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu vốn và rủi ro của các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam”. Mục tiêu nghiên cứu Lƣợc khảo nền tảng lý thuyết về cấu trúc sở hữu, rủi ro và mối quan hệ giữa hai nhân tố này; phân tích hoạt động của ngành NH trong thời gian vừa qua; kiểm định mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và rủi ro; đề xuất một số kiến nghị cho hệ thống NHTM Việt Nam. Phƣơng pháp nghiên cứu Phƣơng pháp tổng hợp, so sánh; phƣơng pháp thống kê mô tả; phƣơng pháp kiểm tra định lƣợng. Dữ liệu đƣợc lấy từ dữ liệu vĩ mô của nền kinh tế và dữ liệu nội tại của 11 NHTM trong đó bao gồm 4 NHTMNN và 7 NHTMCP trong giai đoạn 2007 - 2012 Nội dung nghiên cứu - Chƣơng 1: Giới thiệu tổng quan về công trình nghiên cứu. - Chƣơng 2: Khung lý thuyết về cấu trúc sở hữu và rủi ro của ngân hàng thƣơng mại. - Chƣơng 3: Tổng quan về cấu trúc sở hữu và rủi ro của các NHTM Việt Nam - Chƣơng 4: Nghiên cứu về mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và rủi ro của ngân hàng thƣơng mại. Đóng góp của đề tài Đề xuất những kiến nghị nhằm đóng góp vào kế hoạch tái cấu trúc hệ thống ngân hàng hiện này của chính phủ. Định hƣớng phát triển đề tài Mở rộng số lƣợng NH và năm nghiên cứu, đƣa thêm biến, mở rộng mẫu nghiên cứu sang quốc gia khác và mở rộng thêm các loại hình NH.
  3. ii MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT v DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO vi 1. GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU 1 1.1 Lý do chọn đề tài 1 1.2 Mục tiêu nghiên cứu 2 1.3 Phƣơng pháp nghiên cứu 2 1.4 Phạm vi nghiên cứu và dữ liệu 3 1.5 Nội dung nghiên cứu 4 1.6 Đóng góp của đề tài 5 1.7 Định hƣớng phát triển đề tài 5 2. KHUNG LÝ THUYẾT VỀ CẤU TRÚC SỞ HỮU VÀ RỦI RO CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 7 2.1 Khung lý thuyết về cấu trúc sở hữu 7 2.1.1 Cấu trúc sở hữu của doanh nghiệp phi tài chính 7 2.1.2 Cấu trúc sở hữu của ngân hàng 8 2.2 Rủi ro tín dụng của ngân hàng thƣơng mại 13 2.2.1 Khái niệm rủi ro tín dụng 13 2.2.2 Nguyên nhân của rủi ro tín dụng 14 2.2.3 Ảnh hƣởng của rủi ro tín dụng 16 2.2.4 Các nghiên cứu về rủi ro tín dụng của ngân hàng 17 2.3 Rủi ro mất khả năng thanh toán của ngân hàng 18 2.3.1 Khái niệm rủi ro mất khả năng thanh toán 19 2.3.2 Nguyên nhân của rủi ro mất khả năng thanh toán 19
  4. iii 2.3.3 Ảnh hƣởng của rủi ro mất khả năng thanh toán 21 2.3.4 Các nghiên cứu về rủi ro mất khả năng thanh toán trƣớc đây 21 2.4 Tổng quan các bài nghiên cứu trƣớc đây về mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và rủi ro của ngân hàng 22 Kết luận chƣơng 2 26 3. TỔNG QUAN VỀ CẤU TRÚC SỞ HỮU VÀ RỦI RO CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM 27 3.1 Thực trạng hoạt động của ngân hàng thƣơng mại Việt Nam 27 3.1.1 Hoạt động huy động vốn 28 3.1.2 Hoạt động cho vay 29 3.1.3 Diễn biến lãi suất 31 3.1.4 Năng lực tài chính 31 3.2 Thực trạng cấu trúc sở hữu ngân hàng thƣơng mại Việt Nam 33 3.3 Thực trạng về rủi ro tín dụng và rủi ro mất khả năng thanh toán của ngân hàng thƣơng mại Việt Nam 40 3.3.1 Rủi ro tín dụng 40 3.3.2 Rủi ro mất khả năng thanh toán 43 Kết luận chƣơng 3 46 4. NGHIÊN CỨU VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CẤU TRÚC SỞ HỮU VÀ RỦI RO CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM 47 4.1 Phƣơng pháp nghiên cứu 47 4.1.1 Mô hình tác động cố định (Fixed effects model) 48 4.1.2 Mô hình tác động ngẫu nhiên (Random effects model) 49 4.1.3 Kiểm định lựa chọn mô hình 50
  5. iv 4.2 Dữ liệu nghiên cứu 51 4.3 Mô hình thực nghiệm 55 4.4 Kết quả thực nghiệm 61 4.4.1 Mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và rủi ro tín dụng 61 4.4.2 Mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và rủi ro mất khả năng thanh toán 64 Kết luận chƣơng 4 68 5. KẾT LUẬN, ĐẾ XUẤT VÀ ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU TRONG TƢƠNG LAI 69 5.1 Các kết quả chính của đề tài 69 5.2 Các đề xuất với cơ quan quản lý Nhà nƣớc và ngân hàng thƣơng mại 69 5.2.1 Đề xuất đối với cơ quan quản lí 69 5.2.2 Đề xuất đối với ngân hàng thƣơng mại 71 5.3 Hạn chế của đề tài 72 5.4 Định hƣớng phát triển đề tài 72 Kết luận chƣơng 5 73 KẾT LUẬN CHUNG 74 PHỤ LỤC 1 vii PHỤ LỤC 2 ix PHỤ LỤC 3 xi DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO xii
  6. v DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Vi ết tắt Tên đầy đủ MCLR Mô hình hồi quy tuyến tính đa biến cổ điển FEM Mô hình tác động cố định REM Mô hình tác động ngẫu nhiên LSDV Ƣớc lƣợng hồi quy biến giả tối thiểu SDROA Độ lệch chuẩn ROA NHTM Ngân hàng thƣơng mại NHTMNN Ngân hàng thƣơng mại nhà nƣớc NHTMCP Ngân hàng thƣơng mại cổ phần TCTD Tổ chức tín dụng BĐS Bất động sản Ngân hàng nhà nƣớc NHNN Đồng bằng Sông Cửu Long ĐBSCL NH Ngân hàng TP HCM Thành phố Hồ Chí Minh
  7. vi DANH MỤC HÌNH VẼ - ĐỒ THỊ VÀ BẢNG Hình 3.1 Tăng trƣởng các chỉ tiêu tiền tệ (2007 – 2011) Hình 3.2 Tăng trƣởng tín dụng (2008-2012) Hình 3.3 Cấu trúc sở hữu của ngân hàng Nhà Nƣớc trong những năm 2010-2012 Hình 3.4 Ma trận sở hữu vốn giữa các ngân hàng Hình 3.5 Chỉ số Z-score trung bình giữa nhóm 7 NHTMCP và 4 NHTMNN Hình 3.6 Giá trị nợ xấu và tỉ lệ nợ xấu toàn hệ thống (2004 – tháng 9/2012) Hình 3.7 Tăng trƣởng tín dụng GDP, tín dụng và tỷ lệ tín dụng/GDP (200 1- 2011) Bảng 3.1 Quy mô vốn điều lệ của một số NHTM các quốc gia trong khu vực (2011) Bảng 3.2 Loại hình các tổ chức tín dụng năm 2008 và 2013 Bảng 3.3 Mức vốn pháp định áp dụng cho các loại hình ngân hàng qua các năm Bảng 3.4 Thƣơng vụ M&A có yếu tố nƣớc ngoài trong giai đoạn 2007-2012
  8. 1 1. GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU 1.1 Lý do chọn đề tài Trong nền kinh tế Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung, ngành ngân hàng đóng một vai trò rất quan trọng trong việc dẫn vốn cho nền kinh tế. Một hệ thống ngân hàng khỏe mạnh sẽ góp phần giúp nền kinh tế phát triển, và ngƣợc lại hệ thống ngân hàng suy yếu sẽ ảnh hƣởng đến toàn bộ nền kinh tế. Thực tế điều này đã đƣợc kiểm chứng ở cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2007 - 2008 vừa qua, với sự sụp đổ tín dụng ở Mỹ cùng với sự phá sản của những tập đoàn, công ty lớn trong ngành ngân hàng nhƣ Lehman Brothers, Merrill Lynch. Hậu quả tất yếu của điều này đã đẩy toàn bộ nền kinh tế rơi vào thảm cảnh ảm đạm. Do vậy việc đảm bảo tính an toàn và ổn định hệ thống ngân hàng đóng vai trò hàng đầu trong chính sách của mỗi quốc gia đặc biệt trong giai đoạn hậu khủng hoảng hiện nay. Việt Nam là một trong những quốc gia có nền kinh tế mới nổi và chịu ảnh hƣởng nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đặc biệt là hoạt động ngân hàng. Thực trạng hiện nay của hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn còn rất nhiều bất ổn, đặc biệt là tỷ lệ nợ xấu vẫn còn chiếm tỷ trọng tƣơng đối cao. Thật vậy, tháng 9/2012, trên tạp chí Wall Street, Barclays - tập đoàn ngân hàng lớn của nƣớc Anh nhận định rằng tỷ lệ nợ xấu Việt Nam đã ở mức 20%, tƣơng đƣơng con số 16 tỷ USD (nguồn: tapchitaichinh.vn, ngày 18/06/2012), ngoài ra trong hệ thống còn tồn tại rủi ro mất khả năng thanh toán của các ngân hàng nhỏ đang hoạt động yếu kém. Một trong những nguyên nhân sâu xa của thực trạng trên là vấn đề sở hữu chéo tràn lan ở giữa các ngân hàng với nhau và việc ảnh hƣởng từ các cấu trúc vốn khác nhau. Vậy câu hỏi đƣợc đặt ra là làm thế nào để hệ thống ngân hàng Việt Nam luôn đảm bảo đƣợc tính ổn định và hạn chế đƣợc các vấn đề rủi ro một cách tốt nhất trong bối cảnh hội nhập kinh tế. Xuất phát từ thực tế trên về hoạt động của hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt Nam, đề tài nghiên cứu đƣợc lựa chọn là: “Mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và rủi ro của các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam”. Đề tài sử dụng mô hình cấu trúc sở hữu vốn để tiến
  9. 2 hành nghiên cứu cho các ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam, từ đó đƣa ra các đề xuất về cấu trúc sở hữu vốn hiệu quả cho hệ thống. 1.2 Mục tiêu nghiên cứu Để tìm hiểu về mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu vốn và rủi ro của các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam, đề tài xác định các mục tiêu nghiên cứu sau: - Lƣợc khảo nền tảng lý thuyết về cấu trúc vốn, rủi ro và mối quan hệ giữa hai nhân tố này trong hoạt động của các ngân hàng thƣơng mại - Phân tích hoạt động của ngành ngân hàng trong thời gian vừa qua, đặc biệt là thực trạng về rủi ro mất khả năng thanh toán và rủi ro tín dụng trong hệ thống. - Kiểm định mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và rủi ro tín dụng, rủi ro mất khả năng thanh toán của các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam bằng mô hình định lƣợng. - Từ kết quả của mô hình nghiên cứu, đề tài đƣa ra những đề xuất về cấu trúc sở hữu vốn nhằm hạn chế những rủi ro trong hoạt động của hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt Nam. 1.3 Phƣơng pháp nghiên cứu Với mục tiêu của đề tài nhằm nghiên cứu mối quan hệ giữa rủi ro của NHTM trong các cấu trúc sở hữu khác nhau, đề tài áp dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau đây: - Phƣơng pháp tổng hợp, so sánh đƣợc áp dụng để thực hiện lƣợc khảo các kiến thức lý thuyết cũng nhƣ các nghiên cứu trƣớc đây liên quan đến nội dung của đề tài - Phƣơng pháp thống kê mô tả áp dụng để phân tích tình hình hoạt động của các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam trong giai đoạn năm 2007-2012, đồng thời, áp dụng phƣơng pháp phân tích so sánh để đánh giá rủi ro trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. - Phƣơng pháp kiểm tra định lƣợng đƣợc áp dụng thông qua ứng dụng các mô hình hồi qui với chuỗi dữ liệu bảng thông qua sử dụng phần mềm Eview 8.0. Nội dung
  10. 3 đề tài đã áp dụng các mô hình kiểm định khác nhau nhƣ mô hình Fixed Effect và mô hình Random Effect. Trong đề tài, mô hình định lƣợng cấu trúc sở hữu vốn của ngân hàng thƣơng mại đƣợc chia thành 3 nhóm: cổ đông nƣớc ngoài, cổ đông cá nhân và cổ đông là tổ chức trong nƣớc. Để nghiên cứu mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và hành vi chấp nhận rủi ro ở các ngân hàng, đề tài đo lƣờng tác động của cấu trúc sở hữu đến hai biến rủi ro là rủi ro tín dụng thông qua tỷ lệ nợ xấu và rủi ro mất khả năng thanh toán thông qua hệ số Z-score. 1.4 Phạm vi nghiên cứu và dữ liệu Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào NHTMNN và NHTMCP trong hệ thống các tổ chức tín dụng ở Việt Nam giai đoạn 2007-2012. Cụ thể, để tìm hiểu về thực trạng hoạt động của các NHTM, đề tài sử dụng các dữ liệu phản ảnh hoạt động của hệ thống ngân hàng. Trong khi đó, để nghiên cứu mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và rủi ro của NHTM, đề tài sử dụng dữ liệu nghiên cứu đƣợc thu thập từ 11 ngân hàng thƣơng mại trong đó bao gồm 4 NHTMNN và 7 NHTMCP. Hai rủi ro chính trong hoạt động của hệ thống ngân hàng thƣơng mại đƣợc đề cập trong để tài là rủi ro tín dụng và rủi ro mất khả năng thanh toán. Về dữ liệu, có ba nguồn dữ liệu chính đƣợc thu thập trong đề tài. Cụ thể: Các dữ liệu vĩ mô về hoạt động của hệ thống NHTM đƣợc tham khảo từ báo cáo thƣờng niên của Ngân Hàng Nhà nƣớc, trong khi đó, các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô nhƣ là tỉ lệ lạm phát, lãi suất cơ bản đƣợc thu thập từ website của Tổng cục thống kê. Các dữ liệu nội tại của ngân hàng nhƣ là cấu trúc sở hữu của NHTM, các chỉ tiêu phản ảnh rủi ro cũng nhƣ tình hình họat động của ngân hàng đƣợc tham khảo từ các báo cáo thƣờng niên của các ngân hàng thƣơng mại trong giai đoạn năm 2007-2012 và cơ sở dữ liệu của Bankscope đƣợc cung cấp bởi công ty Bureau van Dijk.
  11. 4 1.5 Nội dung nghiên cứu Để thực hiện những nội dung nghiên cứu đề cập ở trên, đề tài nghiên cứu đƣợc chia thành 5 phần, bao gồm: Chương 1: Giới thiệu tổng quan về công trình nghiên cứu. Nội dung chƣơng này trình bày một cách tổng quát nhất về đề tài bao gồm: lí do nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, phƣơng pháp nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, dữ liệu nghiên cứu, kếu cấu của đề tài, đóng góp của đề tài và định hƣớng phát triển của đề tài. Chương 2: Khung lý thuyết về cấu trúc sở hữu và rủi ro của ngân hàng thương mại. Nội dung chƣơng này sẽ trình bày các lý thuyết cơ sở liên quan đến cấu trúc sở hữu và rủi ro của ngân hàng thƣơng mại. Về cấu trúc sở hữu, đề tài tìm hiểu cấu trúc sở hữu của các doanh nghiệp phi tài chính và ngân hàng. Về khung lý thuyết rủi ro, đề tài trình bày những nghiên cứu liên quan đến hai loại rủi ro chính đƣợc đề cập là rủi ro tín dụng và rủi ro mất khả năng thanh toán. Chương 3: Tổng quan về cấu trúc sở hữu và rủi ro của các NHTM Việt Nam Nôi dung chƣơng này trình bày tổng quan về hoạt động của các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam dựa trên các khía cạnh hoạt động huy động vốn, hoạt động tín dụng và năng lực cạnh tranh. Các nội dung phân tích về cấu trúc sở hữu và thực trạng về rủi ro tín dụng và rủi ro mất khả năng thanh toán của các ngân hàng trong hệ thống cũng đƣợc đề cập để đánh giá về hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam Chương 4: Nghiên cứu về mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và rủi ro của ngân hàng thương mại. Nội dung chƣơng 4 trình bày nghiên cứu thực nghiệm về mô hình đo lƣờng mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và rủi ro của ngân hàng bao gồm: Phƣơng pháp nghiên cứu mô hình, dữ liệu nghiên cứu và các kết quả thực nghiệm phản ảnh mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và rủi ro trong hoạt động của các NHTM.
  12. 5 Chương 5: Kết luận, đề xuất và một số định hướng nghiên cứu trong tương lai Từ kết quả thực nghiệm, nội dung chƣơng này trình bày những kết quả chính của mô hình, một số kiến nghị gắn liền với cấu trúc sở hữu và rủi ro trong hoạt động của các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam cùng với những hạn chế của mô hình và định hƣớng phát triển trong tƣơng lai. 1.6 Đóng góp của đề tài Công trình nghiên cứu đã khái quát đƣợc bức tranh tổng thể về thực trạng của hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt Nam hiện nay đồng thời cũng cung cấp thêm một số lý thuyết vể cấu trúc sở hữu và rủi ro trong hệ thống ngân hàng, đặc biệt là rủi ro tín dụng và rủi ro mất khả năng thanh toán. Thêm vào đó, bài nghiên cứu đã nêu đƣợc mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu vốn và rủi ro của ngân hàng. Từ đó chúng tôi đã đề xuất một số kiến nghị dành cho các ngân hàng thƣơng mại và cơ quan quản lý nhằm giảm thiểu rủi ro trong ngân hàng thông qua các biện pháp thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài nhƣ xây dựng môi trƣờng cạnh tranh trong ngân hàng Việt Nam, tăng hiệu quả hoạt động của ngân hàng . Chúng tôi mong bài nghiên cứu sẽ đóng góp phần nào đó vào việc giải quyết vấn đề đang đặt ra cấp thiết hiện nay của nƣớc ta là tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, giúp hệ thống ngân hàng Việt Nam hoạt động hiệu quả, phát triển bền vững, nhất là trong thời kỳ mở cửa của nƣớc ta hiện nay, việc tăng cƣờng tính cạnh tranh của Ngân hàng Việt Nam và ngân hàng nƣớc ngoài là một vấn đề vô cùng quan trọng. 1.7 Định hƣớng phát triển đề tài Đề tài nghiên cứu vẫn có những hạn chế nhất định nên cần phải hoàn thiện thêm theo một vài định hƣớng sau để nâng cao giá trị bài nghiên cứu: Thứ nhất, số lƣợng ngân hàng cũng nhƣ số năm nghiên cứu cần đƣợc mở rộng hơn trong điều kiện thông tin minh bạch và thống nhất.
  13. 6 Thứ hai: chúng ta cần đƣa thêm vào bài nghiên cứu biến về cấu trúc sở hữu nhƣ phần trăm cổ phần của các nhà quản trị để phân tích. Thứ ba: bài nghiên cứu sẽ tiếp tục phát huy điểm mạnh của hồi quy dữ liệu bảng bằng cách mở rộng mẫu nghiên cứu sang các quốc gia trong khu vực để từ đó có thể xem xét và so sánh. Thứ tƣ, đề cập thêm nhiều loại ngân hàng vào bài nghiên cứu nhƣ các ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, để chúng ta có đƣợc kết quả mang tính toàn diện hơn.
  14. 7 2. KHUNG LÝ THUYẾT VỀ CẤU TRÚC SỞ HỮU VÀ RỦI RO CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Trong hoạt động của ngân hàng thƣơng mại, việc đa dạng hóa cấu trúc sở hữu ảnh hƣởng rất nhiều đến hoạt động của tổ chức, do vậy để tìm hiểu mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và rủi ro của ngân hàng, nội dung chƣơng này cung cấp những cơ sở lý luận nền tảng về cấu trúc sở hữu cũng nhƣ rủi ro của các ngân hàng thƣơng mại. Cụ thể, về cấu trúc sở hữu, bài nghiên cứu sẽ phân tích cụ thể về sở hữu trong các doanh nghiệp phi tài chính và trong ngân hàng. Trong khi đó, rủi ro đƣợc xét đến ở hai loại cụ thể là rủi ro tín dụng và rủi ro mất khả năng thanh toán. 2.1 Khung lý thuyết về cấu trúc sở hữu Rất nhiều bài nghiên cứu đã đƣợc thực hiện cho đến thời điểm này về đề tài cấu trúc sở hữu và các ảnh hƣởng của nó. Phạm vi nghiên cứu không chỉ chung cho các loại công ty mà còn đặc biệt đƣợc chú ý đi sâu vào mảng ngân hàng và các công ty trong lĩnh vực tài chính. Nhìn chung, cấu trúc sở hữu có thể tác động đến hiệu quả hoạt động, hiệu quả quản trị của doanh nghiệp, các mối quan hệ của công ty với khu vực nhà nƣớc và các công ty khác, thậm chí nó còn có thể ảnh hƣởng đến nhiệm kì điều hành của các công ty. Và hầu hết các đề tài nghiên cứu này đều kết luận rằng cấu trúc sở hữu là một yếu tố thật sự có ý nghĩa tác động đến các công ty. Sau đây, các nghiên cứu trƣớc về cấu trúc sở hữu sẽ đƣợc chia ra phân tích theo hai hƣớng: các nghiên cứu cho công ty phi tài chính và các nghiên cứu cho ngân hàng thƣơng mại, công ty hoạt động trong lĩnh vực tài chính. 2.1.1 Cấu trúc sở hữu của doanh nghiệp phi tài chính Trong nghiên cứu của Gerald R. Salancik và Jeffrey Pfeffer (1980) về ảnh hƣởng của sở hữu và hiệu suất hoạt động công ty lên nhiệm kì điều hành của các tổng công ty ở Mỹ đã khẳng định rằng: Rõ ràng là quyền sở hữu trung gian mối quan hệ giữa điều hành hoạt động doanh nghiệp. Kết luận này đƣợc đƣa ra thông qua việc điểm định ba giả thuyết sau:
  15. 8 Giả thuyết thứ nhất: quyền sở hữu và hiệu quả hoạt động tƣơng tác với nhau ảnh hƣởng đến nhiệm kì điều hành của công ty. Nhiệm kì sẽ có tƣơng quan lớn nhất trong trƣờng hợp công ty đƣợc điều hành từ phía ngoài, và ít tƣơng quan hơn với những doanh nghiệp có chủ sở hữu quản lý doanh nghiệp. Giả thuyết thứ hai: tỉ lệ ban giám đốc bên trong công ty càng cao thì nhiệm kì của giám đốc điều hành càng dài. Giả thuyết thứ ba: tỉ lệ ban giám đốc bên trong công ty càng cao, nhiệm kì càng ít bị ảnh hƣởng bởi biểu hiện yếu kém của công ty Bài nghiên cứu về cấu trúc sở hữu và giá trị của những công ty niêm yết tại Việt Nam trên tạp chí Tài Chính của Phạm Hữu Hồng Thái (2013) cũng đề cập đến vấn đề này . Ông cho rằng tỷ lệ sở hữu tƣ nhân của doanh nghiệp càng cao thì giá trị của doanh nghiệp đó càng cao. Do đó, để nâng cao giá trị doanh nghiệp, việc cần thiết là giảm tỉ trọng sở hữu nhà nƣớc và nâng cao tỉ trọng sở hữu tƣ nhân. Tuy nhiên, chính phủ Việt Nam muốn bảo vệ các công ty trong nƣớc trƣớc quá trình hội nhập sau và rộng nên đã hạn chế vai trò của các chủ sở hữu nƣớc ngoài thông qua việc giới hạn số vốn tối đa họ đƣợc sở hữu trong một công ty. Điều này đã làm giảm hiệu quả của cấu trúc vốn nƣớc ngoài trong việc góp phần tạo nên giá trị lớn hơn cho công ty. 2.1.2 Cấu trúc sở hữu của ngân hàng Theo điều 6 luật các tổ chức tín dụng năm 2010 thì ngân hàng thƣơng mại Việt Nam có thể đƣợc tổ chức dƣới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc công ty cổ phần. Cũng tại khoản 6 điều 52 luật này đã quy định, các tổ chức tín dụng hoạt động dƣới hình thức công ty cổ phần phải có tối thiểu 100 cổ đông. Có thể thấy cổ đông chính là những chủ sở hữu của ngân hàng thƣơng mại. với số lƣợng cổ đông lớn nhƣ vậy, các tổ chức tín dụng, và đặc biệt là ngân hàng sẽ có cấu trúc chủ sở hữu cực kì đa dạng. Vậy cấu trúc sở hữu ảnh hƣởng đến những mặt nào của ngân hàng thƣơng mại?
  16. 9 Hoạt động trong lĩnh vực tài chính với nghiệp vụ chính là mua bán các nguồn vốn, cấu trúc vốn chủ sở hữu có những ảnh hƣởng rất quan trọng đối với ngành công nghiệp ngân hàng. Thứ nhất, cấu trúc sở hữu có thể ảnh hƣởng đến nợ xấu và an toàn vốn của các ngân hàng. Shehzad, Haan và Scholtens (2010) trong nghiên cứu của mình trên Journal of Banking & Finance đã nhận định sự tập trung trong sở hữu có ảnh hƣởng cực kì lớn đến chất lƣợng nợ và nguồn vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Các tác giả chỉ ra rằng đối với tỉ lệ an toàn vốn, thì tác động của việc tập trung sở hữu là rất tích cực, nó lại có tác động cản trợ nợ xấu. Bên cạnh đó, nếu có hai hoặc ba cổ đông chiếm giữ những khối cổ phần lớn thì kết quả dẫn đến là chất lƣợng của danh mục đầu tƣ ngân hàng có thể xấu đi một cách trầm trọng. Có một hƣớng tiếp cận khác đối với việc quản lý nợ và nguồn vốn của ngân hàng thƣơng mại là hành vi chấp nhận rủi ro của họ. Một trong những nghiên cứu về vấn đề này có thể kể đến đóng góp của Srairi (2013) khi phân tích mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và hành vi chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thƣơng mại ở khu vực Trung Đông và Bắc Phi, nơi các ngân hàng hồi giáo phát triển một cách mạnh mẽ. Bằng chỉ số Z-score và tỉ lệ nợ xấu trên tổng dƣ nợ, các tác giả đã cho thấy việc thay đổi trong cấu trúc sở hữu sẽ là nguồn gốc dẫn đến những khác biệt trong rủi ro của các ngân hàng. Có thể thấy rằng rủi ro thanh khoản và cả rủi ro tài sản sẽ thấp hơn đối với những ngân hàng có cấu trúc sở hữu tập trung. Nhƣ vậy nghiên cứu có thể cho thấy rằng các ngân hàng hồi giáo sẽ có rủi ro tín dụng thấp hơn các ngân hàng bình thƣờng, mặc dù họ phải đối mặt với một số rủi ro về hoạt động và đầu tƣ xuất phát từ mô hình tôn giáo phức tạp của họ. Sở hữu của chính phủ rất đƣợc quan tâm trong khía cạnh chấp nhận rủi ro của ngân hàng đặc biệt trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Loại hình sở hữu này chiếm phần lớn trong các ngân hàng trong những năm trƣớc đây, cụ thể có thể thấy năm 1995, tỉ trọng sở hữu của khu vực nhà nƣớc đối với ngành công nghiệp ngân hàng trên toàn thế giới xấp xỉ 41.6% (khoảng 38.5% nếu không bao gồm ngành ngân hàng của các nƣớc xã hội chủ
  17. 10 nghĩa). Có thể thấy sự ảnh hƣởng to lớn của sở hữu nhà nƣớc đến hoạt động cho vay của các ngân hàng qua bài nghiên cứu của Paola Sapienza (2002). Trong cùng một điều kiện huy động vốn nhất định giữa ngân hàng sở hữu nhà nƣớc và ngân hàng tƣ nhân thì điều khác biệt là ngân hàng có sở hữu nhà nƣớc có xu hƣớng cho vay với lãi suất thấp hơn khu vực sở hữu tƣ nhân với cùng những đối tƣợng khách hàng nhƣ nhau. Mặc khác, hoạt động tín dụng của các ngân hàng có sở hữu nhà nƣớc còn bị tác động bởi các hoạt động bầu cử ở địa phƣơng, các khu vực có hoạt động của các đảng phái liên quan đến ngân hàng càng mạnh thì lãi suất cho vay ở khu vực đó càng thấp. Nghiên cứu của Nicolò và Loukoianova (2007) tìm hiểu về ảnh hƣởng của sở hữu đến cấu trúc thị trƣờng và rủi ro. Các tác giả đã tập trung nghiên cứu ngành ngân hàng ở các quốc gia đang phát triển_nơi mà hoạt động của ngành ngân hàng đang trên quá trình đổi mới cả về hình thức hoạt động cũng nhƣ cấu trúc sở hữu. Với 10.000 quan sát cho 133 quốc gia đang phát triển trong giai đoạn 1993-2004, mô hình hồi quy đã đƣa ra 4 kết quả đáng chú ý. Thứ nhất, có một mối quan hệ cùng chiều giữa sự tập trung quyền lực trong ngân hàng và rủi ro phá sản của nó. Tƣơng quan này sẽ lớn nhất khi các ngân hàng nhà nƣớc sở hữu một thị phần đáng kể thị trƣờng tài chính trong nƣớc. Thứ hai, tùy thuộc vào từng điều kiện cụ thể của các quốc gia và doanh nghiệp mà rủi ro của các ngân hàng sở hữu nhà nƣớc sẽ cao hơn rất nhiều so với rủi ro của các ngân hàng sở hữu tƣ nhân trong nƣớc. Thứ ba, khi tiến hành mở rộng thị phần, các ngân hàng nƣớc ngoài và ngân hàng sở hữu nhà nƣớc sẽ gặp phải rủi ro cao hơn các ngân hàng tƣ nhân. Thứ tƣ, các ngân hàng nhà nƣớc và nƣớc ngoài sẽ có tầm ảnh hƣởng lớn hơn và chi phi phá sản thấp hơn đối với các ngân hàng thƣơng mại sở hữu tƣ nhân. Ngoài ra, bài nghiên cứu còn cho thấy tác động của từng loại sở hữu khác nhau đến thị phần hoạt động của các ngân hàng. Giai đoạn từ sau năm 1994 đã đánh dấu sự gia tăng
  18. 11 mạnh mẽ trong thị phần của các ngân hàng sở hữu nƣớc ngoài, điều này có thể cho thấy lợi thế về quy mô vốn, chất lƣợng dịch vụ cũng nhƣ trình độ công nghệ của các nƣớc phát triển đang ngày càng đƣợc mở rộng ở thị trƣờng của các nƣớc đang phát triển ngoại trừ nhóm có thu nhập trung bình thấp. Bên cạnh đó, các ngân hàng sở hữu nhà nƣớc cũng giảm thị phần liên tục trong khu vực thu nhập thấp và đẩy mạnh thị phần ở khu vực thu nhập cao hơn. Nếu sở hữu nhà nƣớc đƣợc nhắc nhiều trong ảnh hƣởng của cấu trúc sở hữu đến việc chấp nhận rủi ro của ngân hàng thì sở hữu tƣ nhân, sở hữu nƣớc ngoài sẽ đƣợc chú trọng nghiên cứu nhiều hơn trong việc phân tích ảnh hƣởng của nó đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Gần đây, làn sóng tƣ nhân hóa các ngân hàng đã xảy ra mạnh mẽ, ngày càng nâng cao vai trò của các chủ sở hữu nội địa và chủ sở hữu nƣớc ngoài. Trong nghiên cứu của Alvaro Taboada (2008) về tác động của việc thay đổi trong cấu trúc sở hữu đến hiệu quả phân bổ nguồn vốn thì việc tƣ nhân hóa sở hữu ngân hàng đã đƣợc thực hiện trên toàn thế giới, xu hƣớng sở hữu nƣớc ngoài cũng đƣợc mở ra và phát triển mạnh mẽ. Không những nghiên cứu cấu trúc sở hữu ảnh hƣởng nhƣ thế nào đến hiệu quả phân phối nguồn vốn của ngân hàng, Alvaro Taboada còn nhận định về ảnh hƣởng của yếu tố sở hữu này tác động nhƣ thế nào đến GDP của nền kinh tế. Thông qua việc phân phối nguồn vốn một cách hiệu quả, cấu trúc sở hữu gián tiếp cung cấp thêm tín dụng cho các ngành công nghiệp, từ đó họ có thể mở rộng sản xuất và tạo ra GDP lớn hơn. Ở đây, hiệu quả phân phối nguồn vốn đƣợc hiểu nhƣ là sự gia tăng nguồn tài trợ đối với những ngành kinh tế đang phát triển giảm nguồn tài trợ này với các ngành kinh tế kém phát triển (Wurgler (2000)) Micco và các đồng sự (2004) sau khi phân tích số liệu gồm 50,000 quan sát từ 119 quốc gia trong khoảng thời gian từ năm 1995 đến năm 2002, sử dụng mô hình định lƣợng riêng cho nhóm quốc gia đang phát triển và nhóm phát triển đã thấy đƣợc sự khác nhau trong mức độ liên quan giữa sở hữu và hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Ông tìm ra rằng ở các nƣớc đang phát triển, mối tƣơng quan giữa cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của
  19. 12 ngân hàng sẽ lớn hơn rất nhiều đối với các nƣớc công nghiệp phát triển. Một vấn đề nữa đƣợc đề cập trong bài nghiên cứu đó là đối với các quốc gia đang phát triển, nên đẩy mạnh tỉ lệ sở hữu tƣ nhân và sở hữu nƣớc ngoài trong ngân hàng. Bởi sở hữu nhà nƣớc tồn tại bấy lâu nay đã đƣa các ngân hàng hoạt động theo hƣớng lợi nhuận thấp trong khi chi phí quá cao. Khu vực tƣ nhân và nƣớc ngoài sẽ đón vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng, tạo ra một nền công nghiệp ngân hàng năng động hơn với tỉ suất sinh lợi cao và chi phí hoạt động giảm đáng kể. Tăng trƣởng tín dụng của các ngân hàng cũng là vấn đề rất đƣợc quan tâm. Burcu Aydın đã cho thấy ảnh hƣởng của cấu trúc sở hữu đến sự phát triển trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng ở các quốc gia CEE, nơi có nền tài chính và kinh tế cực kì phát triển. Tác giả đã chú trọng phân tích tác động của sở hữu nhà nƣớc và sở hữu nƣớc ngoài trong bài nghiên cứu này. Tác giả cũng đã chỉ ra các xu hƣớng tích cực của các ngân hàng sở hữu nƣớc ngoài trong khâu tín dụng. Thứ nhất, tốc độ tăng trƣởng tín dụng của các ngân hàng nƣớc ngoài khá cao so với khối sở hữu nhà nƣớc. Thêm vào đó, hoạt động cho vay của các ngân hàng nƣớc ngoài khá linh hoạt, họ không gặp phải hạn chế về vốn của thị trƣờng trong nƣớc. Tác động tích cực thứ ba là các ngân hàng nƣớc ngoài cạnh tranh khá tốt với nhau cùng nhau giảm chi phí huy động vốn. Loại hình ngân hàng nƣớc ngoài thật sự phát triển mạnh ở CEE là bởi sự phát triển tốt của nền kinh tế cũng nhƣ mức lãi suất khá hấp dẫn. Mỗi nhà nghiên cứu khi thực hiện các phân tích của mình đều phân chia cấu trúc sở hữu thành các thành phần khác nhau, phù hợp với mục đích và mô hình mà họ hƣớng đến. Mayers và các cộng sự (1990) khi nghiên cứu về nhu cầu bảo hiểm của các doanh nghiệp đã đƣa ra các biến giả trong mô hình để thể hiện cho các loại cấu trúc sở hữu mà họ nghiên cứu bao gồm: sở hữu Lloyd’s, công ty cổ phần, sở hữu lẫn nhau và sở hữu đối ứng. Hơn nữa, loại hình công ty cổ phần còn đƣợc xem xét dƣới góc độ chủ sở hữu của công ty là hiệp hội, hộ gia đình, tổ chức đóng (từ 100 cổ đông trở xuống) hay tổ chức mở
  20. 13 rộng (trên 100 cổ đông). Ông còn phân tích dƣới góc độ công ty cổ phần này là công ty con cho các doanh nghiệp hay là một bộ phận của một tập đoàn kinh tế lớn. Tóm lại, đã có rất nhiều nghiên cứu viết về cấu trúc sở hữu của các ngân hàng thƣơng mại đƣợc thực hiện ở các nƣớc trên thế giới trong những khoản thời gian, bằng những phƣơng pháp khác nhau. Tuy nhiên, ở Việt Nam, chƣa có nhiều bài viết về vấn đề này. Trong khi đó hình thức sở hữu ở Việt Nam khá đa dạng và có nhiều thay đổi mạnh mẽ trong những năm gần đây nên việc tìm hiểu về cấu trúc sở hữu của ngân hàng thƣơng mại theo các nhóm: sở hữu cá nhân, sở hữu nhà nƣớc, sở hữu tổ chức và sở hữu nƣớc ngoài là rất cần thiết. 2.2 Rủi ro tín dụng của ngân hàng thƣơng mại 2.2.1 Khái niệm rủi ro tín dụng Cụm từ tín dụng có nguồn gốc từ tiếng Latinh, “credittum”, với ý nghĩa là sự tin tƣởng, tín nhiệm. Một cách đơn giản, tín dụng chính là sự vay mƣợn dƣới hình thức tiền tệ dựa trên uy tín của ngƣời đi vay, bên đi vay có nghĩa vụ hoàn trả khoản nợ đã vay theo thời hạn thỏa thuận và kèm với lãi suất. Vậy thực chất, tín dụng thể hiện mối quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tín dụng nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu vốn tạm thời cho quá trình tái sản xuất và đời sống theo nguyên tắc hoàn trả. Trong lĩnh vực ngân hàng, tín dụng là một trong những nghiệp vụ rất quan trọng, thể hiện một mối quan hệ hình thành giữa các ngân hàng với nhau, giữa ngân hàng với các tổ chức tín dụng khác hoặc với các đối tác kinh tế-tài chính của toàn xã hội bao gồm doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức xã hội, cơ quan nhà nƣớc. Trong mối quan hệ này ngân hàng sẽ chuyển nhƣợng quyền sử dụng vốn từ ngân hàng sang khách hàng hoặc ngƣợc lại, trong một thời gian nhất định và đồng thời bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả cả vốn gốc lẫn lãi khi đến hạn thanh toán. Trong bài nghiên cứu này chúng tôi tập trung phân tích nghiệp vụ tín dụng dƣới góc cạnh là hoạt động cho vay của ngân hàng.
  21. 14 Nghiên cứu về nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng thƣơng mại, rủi ro tín dụng (credit risk) là một khía cạnh luôn đƣợc các nhà phân tích kinh tế quan tâm. Có rất nhiều định nghĩa về rủi ro tín dụng của Ngân hàng thƣơng mại. Theo thông tƣ số 02/2013/TT-NHNN tại khoản 1 điều 3, rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng là “tổn thất có khả năng xảy ra đối với nợ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình theo cam kết.” Theo Thomas P.Fitch (2000) trong “Từ điển thuật ngữ chuyên ngành Ngân Hàng Barron” rủi ro tín dụng là rủi ro xảy ra khi bên đi vay không thể thanh toán các khoản nợ theo thỏa thuận trong hợp đồng dẫn đến việc không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn. Trong cuốn “Phân tích và quản trị rủi ro Ngân Hàng”, Greuning và Bratanovic (2003) cho rằng rủi ro tín dụng là nguy cơ mà ngƣời đi vay không có khả năng chi trả tiền lãi hoặc hoàn trả vốn gốc đã đƣợc qui định trong hợp đồng tín dụng. Việc hoàn trả đó có thể sẽ bị trì hoãn hoặc thậm chí không đƣợc thực hiện và điều này sẽ dẫn đến những vấn đề liên quan đến dòng tiền và gây ảnh hƣởng cho thanh khoản của ngân hàng. Vậy nói một cách tổng quát, rủi ro tín dụng là việc ngƣời đi vay không trả đƣợc nợ khi đến hạn phải thanh toán theo hợp đồng. 2.2.2 Nguyên nhân của rủi ro tín dụng Dựa vào tiêu chí đối tƣợng gây ra rủi ro, nguyên nhân hình thành rủi ro tín dụng ngân hàng có thể chia thành nguyên nhân từ phía khách hàng hay cụ thể là các doanh nghiệp và nguyên nhân từ phía bản thân ngân hàng. Từ phía khách hàng Nguyên nhân hình thành rủi ro tín dụng thƣờng bắt nguồn từ việc các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng cho các hoạt động đầu tƣ, kinh doanh nhƣng sau đó bị thua lỗ dẫn đến mất khả năng thanh toán khoảng tiền đã vay. Kinh tế vĩ mô là một trong những yếu tố dẫn đến rủi ro tín dụng tại các ngân hàng. Những yếu tố vĩ mô của nền kinh tế trong nƣớc nhƣ GDP, lạm phát, FPI, FDI có sự
  22. 15 ảnh hƣởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Ví dụ nhƣ khi các dòng vốn nƣớc ngoài đổ vào Việt Nam giảm do khủng hoảng tài chính toàn cầu hoặc lạm phát đang nằm ở mức khá cao sẽ khiến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bị đình trệ, thua lỗ, từ đó dẫn đến khó khăn trong việc hoàn trả các khoản đã vay cho ngân hàng khi đến hạn thanh toán. Trong giai đoạn gần đây cũng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu nói về vấn đề này nhƣ Pesola (2011), PGS TS. Trƣơng Đông Lộc, Ths. Nguyễn Thị Tuyết (2011), Castro (2013). Bên cạnh đó, hầu hết các doanh nghiệp ở Việt Nam chủ yếu vẫn dựa vào sản xuất nông nghiệp nên hoạt động kinh doanh có hiệu quả hay không vẫn còn phụ thuộc rất lớn vào thời tiết, khí hậu. Chính sự phụ thuộc này đã dẫn đến không ít những doanh nghiệp ở Việt Nam đã bị tổn thất nặng nề thậm chí dẫn đến phá sản khi thời tiết thay đổi bất thƣờng hoặc bất ngờ có thiên tai (lũ lụt, hạn hán ) xảy ra. Không chỉ bị tác động bởi những yếu tố trong nƣớc, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam còn bị ảnh hƣởng rất lớn từ thế giới. Các sản phẩm ở nƣớc ta chủ yếu là các mặt hàng gia công, nguyên vật liệu phần lớn đƣợc nhập khẩu từ nƣớc ngoài. Một sự thay đổi trong giá cả đầu vào có thể gây khó khăn cho tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Hơn nữa, quá trình hội nhập ở Việt Nam ngày càng đƣợc đẩy mạnh đã khiến các doanh nghiệp nƣớc ngoài dễ dàng tiếp cận với thị trƣờng trong nƣớc, dẫn đến sự cạnh tranh trong thị trƣờng ngày càng gay gắt. Các doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả sẽ nhanh chóng bị loại ra khỏi cuộc chơi, thua lỗ, phá sản trong khi vẫn còn một khoản nợ chƣa thanh toán cho ngân hàng. Ngoài các nguyên nhân của kinh tế vĩ mô, môi trƣờng pháp lý cũng là một trong những nguyên nhân khách quan dẫn đến rủi ro tín dụng của ngân hàng. Tại Việt Nam, khung pháp lí quy định các luật lệ, chính sách quản lý kinh tế còn khá nhiều những bất cập và hay thay đổi đột ngột đã gây không ít khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp. Một số nhà nghiên cứu trên thế giới cũng đã đƣa ra những nhận định của mình về môi trƣờng đặc thù này nhƣ González (2004) nói về mối quan hệ giữa những qui định hạn chế và hành vi chấp nhận rủi ro của ngân hàng hay Haq, Faff, Seth, Mohanty (2013) bàn về những công cụ quản lý và rủi ro của ngân hàng các nƣớc châu Á Thái Bình Dƣơng.
  23. 16 Ngoài ra những rủi ro bất ngờ khác nhƣ cháy nổ, dịch bệnh cũng là một trong những nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Những nguyên nhân từ chủ quan từ phía doanh nghiệp nhƣ quản lí kém, nguồn lực không đủ để có thể ứng phó trƣớc những biến động bất ngờ của thị trƣờng hoặc sử dụng vốn sai mục đích cũng là những yếu tố quan trong gây ra rủi ro tín dụng của ngân hàng hay nói cách khác là nguyên nhân dẫn đến việc thua lỗ và không thanh toán đƣợc nợ của doanh nghiệp cho ngân hàng. Từ phía ngân hàng Rủi ro tín dụng không chỉ bắt nguồn từ phía các doanh nghiệp, tổ chức vay vốn mà còn bắt nguồn từ chính bản thân ngân hàng. Nhiều ngân hàng do muốn tranh giành thị trƣờng với các ngân hàng khác hoặc gấp gáp trong việc giải ngân đã nới lỏng chính sách cho vay quá mức khiến cho các quy trình thẩm định tín dụng trở nên lỏng lẻo dẫn đến việc tỉ lệ nợ quá hạn trên tổng dƣ nợ ngày càng lớn. Hơn nữa, chất lƣợng đội ngũ cán bộ tín dụng ở nƣớc ta vẫn chƣa cao, một số do thiếu trình độ chuyên môn, thiếu kinh nghiệm trong nghiệp vụ thẩm định nên không đánh giá chính xác đƣợc hồ sơ vay vốn của doanh nghiệp, một số khác do vi phạm đạo đức nghề nghiệp, thông đồng với doanh nghiệp đi vay để chiếm đoạt tài sản ngân hàng và kèm theo đó là công tác quản lý, kiểm soát còn hời hợt nên hệ quả cuối cùng là nợ xấu trong hệ thống ngày càng tăng cao. Thông tin bất cân xứng cũng là một trong những yếu tố ảnh hƣởng đến chất lƣợng thẩm định của ngân hàng. Các ngân hàng Việt Nam hầu hết vẫn chƣa có một hệ thống dữ liệu đầy đủ về khách hàng, những thông tin đƣợc ngân hàng phân tích trƣớc khi đƣa ra quyết định cho vay hầu hết đều dựa trên thông tin đƣợc cung cấp từ khách hàng và thƣờng không đƣợc thông qua bất kì kênh kiểm tra chéo nào. 2.2.3 Ảnh hƣởng của rủi ro tín dụng Là một trong những loại rủi ro chủ yếu của ngân hàng nên rủi ro tín dụng có thể dẫn đến rất nhiều hậu quả cho hoạt động của ngân hàng. Đầu tiên, rủi ro tín dụng có thể làm giảm
  24. 17 lợi nhuận của ngân hàng thông qua việc ngân hàng phải trích lập các khoản dự phòng tùy theo mực độ nợ xấu và tài sản đảm bảo. Thứ hai, uy tín của ngân hàng có thể bị ảnh hƣởng khi tồn tại một tỉ lệ nợ xấu cao trong hệ thống. Mỗi năm, các ngân hàng đều phải thống kê và thể hiện các chỉ số tài chính lên báo cáo thƣờng niên và công bố cho mọi cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế nói chung cũng nhƣ cổ đông nói riêng biết. Việc có một tỉ lệ nợ xấu trên tổng dƣ nợ lớn sẽ tác động không nhỏ đến tâm lý của ngƣời dân cũng nhƣ các cổ đông, mọi ngƣời sẽ không còn tin tƣởng ngân hàng dẫn đến chữ tín của ngân hàng bị ảnh hƣởng nghiêm trọng. Uy tín bị ảnh hƣởng, ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc huy động vốn do lúc này các cá nhân, tổ chức cảm thấy bất an và không muốn gửi tiền vào ngân hàng khiến thanh khoản của ngân hàng trở nên xấu đi, thậm chí một số trƣờng hợp nghiêm trọng hơn, các cá nhân do tâm lý theo số đông lo sợ bị mất tiền vì ngân hàng đang hoạt động không tốt sẽ rút tiền ào ạt và dẫn đến sự phá sản của ngân hàng. 2.2.4 Các nghiên cứu về rủi ro tín dụng của ngân hàng Trƣớc đây đã có rất nhiều giáo sƣ, nhà phân tích kinh tế thực hiện các nghiên cứu về rủi ro tín dụng của hoạt động ngân hàng. Bàn về sự ảnh hƣởng của các yếu tố vĩ mô đến rủi ro tín dụng, Castro (2013) đã áp dụng mô hình bảng động với dữ liệu là các quốc gia GIPSI từ quí 1 năm 1997 đến quí 3 năm 2011 và nhận thấy rằng rủi ro tín dụng tăng khi sự tăng trƣởng GDP, chỉ số giá cổ phiếu và giá nhà ở có xu hƣớng giảm và tỉ lệ thất nghiệp, lãi suất thị trƣờng và tăng trƣởng tín dụng có xu hƣớng tăng. Bên cạnh đó, rủi ro tín dụng cũng có mối quan hệ cùng chiều với sự tăng giá của tỉ giá hối đoái thực. Không những thế, rủi ro tín dụng còn gia tăng đáng kể trong giai đoạn nền kinh tế đang lâm vào khủng hoảng. Theo Yurdakul (2013), khi ông nghiên cứu mối quan hệ của rủi ro tín dụng với một số biến vĩ mô khác tại quốc gia Thổ Nhĩ Kì từ tháng 1 năm 1998 đến tháng 7 năm 2012, tốc độ tăng trƣởng và chỉ số ISE-100 tăng sẽ làm giảm rủi ro tín dụng trong dài hạn trong khi cung tiền, tỉ giá hối đoái, tỉ lệ thất nghiệp, tỉ lệ lạm phát và lãi suất tăng sẽ làm tăng rủi ro
  25. 18 này khi. Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho thấy rủi ro tín dụng của kì trƣớc sẽ có ảnh hƣởng đến rủi ro kì sau. Nói về mối quan hệ giữa môi trƣờng pháp lý và rủi ro tín dụng, Chen (2007) đã nghiên cứu ảnh hƣởng của sắc lệnh Ngân hàng năm 1993 ở châu Âu đối với rủi ro của các ngân hàng thuộc liên minh châu Âu từ năm 1990 đến 1999. Nghiên cứu này cho thấy việc bãi bỏ một số những kiểm soát về qui định của nhà nƣớc đối với ngành ngân hàng, tạo điều kiện cho các ngân hàng nƣớc ngoài dễ dàng tham gia vào thị trƣờng trong nƣớc sẽ khiến các ngân hàng nội địa thận trọng hơn trong việc cho vay, các cá nhân, tổ chức đi vay lúc này sẽ bị sàn lọc kĩ lƣỡng hơn (cho dù lãi suất cho vay lúc này có thể thấp hơn do sự cạnh tranh ngày càng gay gắt) khiến rủi ro tín dụng của ngân hàng giảm. Không chỉ chịu sự chi phối của các yếu tố bên ngoài, rủi ro tín dụng còn chịu ảnh hƣởng không nhỏ từ các yếu tố bên trong của ngân hàng. Haq và Heaney (2012) đã nghiên cứu sự ảnh hƣởng của nguồn vốn chủ sở hữu, vốn điều lệ, hoạt động ngoại bảng, tỉ lệ chi trả cổ tức và quy mô của ngân hàng đối với rủi ro ngân hàng nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng. Bài nghiên cứu dựa trên dữ liệu số liệu của 117 tổ chức tín dụng tại 15 quốc gia châu Âu từ năm 1996 đến năm 2010 và đã đƣa ra một số nhận định. Nguồn vốn chủ sở hữu cũng nhƣ vốn điều lệ của ngân hàng có mối quan hệ phi tuyến tính với rủi ro tín dụng, đồng thời trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu, tác động ngƣợc chiều của hai yếu tố này đối với rủi ro tín dụng càng đƣợc thể hiện rõ nét hơn . Việc gia tăng các hoạt động ngoại bảng có thể làm tăng rủi ro tín dụng và ngân hàng với qui mô càng lớn sẽ có xu hƣớng chịu rủi ro tín dụng càng thấp. 2.3 Rủi ro mất khả năng thanh toán của ngân hàng Bên cạnh rủi ro tín dụng, tuy không thƣờng xuyên xảy ra nhƣng rủi ro mất khả năng thanh toán lại giữ một vị trí rất quan trọng trong các loại rủi ro do nó liên quan đến sự sống còn của một ngân hàng và đôi khi là cả hệ thống tài chính của một quốc gia.
  26. 19 2.3.1 Khái niệm rủi ro mất khả năng thanh toán Rủi ro mất khả năng thanh toán (insolvency risk) là một trong những rủi ro đƣợc đề cập trong giai đoạn gần đây đặc biệt khi các cuộc khủng hoảng trên phạm vi toàn cầu nói chung và từng khu vực nói riêng liên tiếp xảy ra. Tuy nhiên khái niệm về rủi ro mất khả năng thanh toán vẫn chƣa đƣợc đề cập phổ biến trong các nghiên cứu. Theo Lastra và Schiffman (1999), tình trạng mất khả năng thanh toán có thể đƣợc định nghĩa bằng hai cách. Thứ nhất, đó là sự thất bại trong việc hoàn trả những nghĩa vụ tài chính khi đến hạn. Thứ hai, đó là tình trạng khoản mục nợ phải trả vƣợt quá tài sản trên bảng cân đối kế toán. Nhƣ vậy có thể hiểu rằng rủi ro mất khả năng thanh toán là một biến cố bất ngờ xảy ra khi một cá nhân hoặc một tổ chức không thể thực hiện nghĩa vụ tài chính của mình đối với bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Rủi ro này thƣờng có thể dẫn đến việc phá sản của tổ chức. Đối với ngành ngân hàng, rủi ro mất khả năng thanh toán xuất hiện khi ngân hàng mất khả năng chi trả các khoản nợ khi đến ngày đáo hạn. Các ngân hàng lúc này sẽ rơi vào tình trạng kiệt quệ về tài chính và đi đến việc phá sản hoặc hợp nhất, sáp nhập với ngân hàng khác nhằm tạo ra một ngân hàng mới vững mạnh hơn và bảo vệ quyền lợi của ngƣời cho vay. 2.3.2 Nguyên nhân của rủi ro mất khả năng thanh toán Do tính đặc thù về kinh tế, việc mất khả năng thanh toán của ngân hàng không phải lúc nào cũng có thể xảy ra trừ trƣờng hợp các yếu tố gây rủi ro tác động liên tục trong một thời gian dài hoặc xảy ra bất ngờ khiến các ngân hàng chƣa kịp có kế hoạch hành động. Nguyên nhân thƣờng đƣợc đề cập chính là trƣờng hợp ngân hàng mắc phải những tin đồn thất thiệt, gây tâm lý hoang mang cho ngƣời gửi tiền dẫn đến hành động rút tiền ào ạt, ảnh hƣởng đến thanh khoản của ngân hàng. Điển hình nhƣ trƣờng hợp của ngân hàng thƣơng mại cổ phần Á Châu năm 2003, khi rộ lên tin đồn tổng giám đốc bỏ trốn, ngƣời dân đã kéo nhau đến các trụ sở của ngân hàng này để rút tiền khiến ngân hàng rơi vào tình trạng thanh khoản kém. Nhƣ vậy nếu tình trạng này xảy trong một thời gian dài và
  27. 20 ngân hàng lúc này không có sẵn một lƣợng tiền mặt đủ lớn hoặc không tuân thủ các qui định về dự trữ bắt buộc chắc chắn sẽ gặp khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, dẫn đến sự tê liệt trong hoạt động, cuối cùng phải đi đến việc sáp nhập, hợp nhất. Hơn nữa, các ngân hàng nói chung và ở Việt Nam nói riêng có mối quan hệ sở hữu chéo rất phức tạp, việc một ngân hàng mất khả năng thanh toán đôi khi có thể ảnh hƣởng đến hoạt động thanh toán của các ngân hàng liên quan đặc biệt là những ngân hàng nhỏ, tiềm lực tài chính còn yếu. Bên cạnh đó, qua những phân tích trên , chúng ta có thể thấy rằng , ở một khía cạnh nào đó, rủi ro thanh khoản và rủi ro mất khả năng thanh toán có thể có mối quan hệ với nhau. Một nguyên nhân khác gây ra rủi ro mất khả năng thanh toán cho các ngân hàng thƣờng bắt nguồn từ việc các cá nhân, tổ chức vay vốn của ngân hàng không hoàn trả vốn gốc và lãi đúng hạn hoặc bị phá sản, không còn khả năng chi trả khiến tài sản của ngân hàng lúc này thấp hơn so với những khoản nợ phải trả. Việc không thu hồi đƣợc các khoản nợ có thể từ các yếu tố khách quan nhƣ rủi ro thiên tai, hỏa hoạn khiến các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản hoặc yếu tố chủ quan từ phía ngân hàng khi thực hiện các nghiệp vụ thẩm định lỏng lẻo nhƣ theo Campell (2007) rủi ro mất khả năng thanh toán của ngân hàng có mối liên hệ với tỉ lệ nợ xấu trên tổng dƣ nợ. Cuối cùng về lâu dài nếu không có biện pháp khắc phục sẽ dẫn đến việc ngân hàng không đủ nguồn lực tài chính để hoàn trả các khoản nợ đã vay. Năng lực quản lý kém tuy ít khi dẫn đến rủi ro mất khả năng thanh toán ở các ngân hàng nhƣng trong một số trƣờng hợp, đặc biệt với các ngân hàng nhỏ, sức cạnh tranh trong thị trƣờng còn yếu, rủi ro này vẫn có thể xảy ra. Ngân hàng là một ngành rất nhạy cảm với yếu tố tâm lý. Khi một ngân hàng bị cho là có năng lực điều hành kém và qui mô vốn nhỏ sẽ rất khó để thực hiện các nghiệp vụ huy động vốn và cho vay. Chính vì thế xét trong thời gian dài, hoạt động kinh doanh của ngân hàng này sẽ gặp nhiều khó khăn dẫn đến thua lỗ, cuối cùng sẽ không còn đủ khả năng để thực hiện nghĩa vụ trả nợ của mình.
  28. 21 2.3.3 Ảnh hƣởng của rủi ro mất khả năng thanh toán Rủi ro mất khả năng thanh toán là một trong những rủi ro khá hiếm khi xảy ra nhƣng lại có ảnh hƣởng rất lớn đến hoạt động của các ngân hàng. Rủi ro này xuất hiện đồng nghĩa với việc ngân hàng đang rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính và nếu không có biện pháp kịp thời, khả năng dẫn đến sự phá sản của ngân hàng là rất cao. Tuy nhiên, hiện tại ở Việt Nam vẫn chƣa có qui định cụ thể về việc phá sản ngân hàng nên hầu hết các ngân hàng khi rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán trong thời gian dài thƣờng sẽ đi đến việc hợp nhất, sáp nhập với các ngân hàng khác. Ngân hàng là một ngành khá nhạy cảm, do đó sự sụp đổ của một ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng lớn có thể ảnh hƣởng đến niềm tin của ngƣời dân vào hệ thống tài chính của quốc gia. Chính vì thế, rủi ro mất khả năng thanh toán không chỉ ảnh hƣởng đến hoạt động của bản thân ngân hàng, mà còn có thể ảnh hƣởng đến cả hệ thống tài chính của một quốc gia. Thông thƣờng, các ngân hàng lớn sẽ đƣợc giúp đỡ bởi ngân hàng trung ƣơng, điển hình nhƣ các trƣờng hợp ngân hàng bị mất khả năng thanh khoản do tin đồn. Tuy nhiên, cũng chính hành động này có thể sẽ khiến ngân hàng trung ƣơng phải đối mặt với vấn đề thay đổi chính sách tiền tệ hiện tại, sao cho vừa có thể điều tiết nền kinh tế vĩ mô, vừa có thể đƣa ngân hàng thoát khỏi tình trạng mất khả năng thanh khoản. 2.3.4 Các nghiên cứu về rủi ro mất khả năng thanh toán trƣớc đây Nghiên cứu tác động của qui định về an toàn vốn, Shu Ling Lin, Jack H.W.Penm, Shang- Chi Gong và Chinh-Shan Chang (2005) sau khi lấy mẫu là 40 ngân hàng ở Trung Quốc đã nhận thấy rằng trƣớc khi ban hành những qui định mới về an toàn vốn (trƣớc năm 1998) tỉ lệ an toàn vốn và rủi ro mất khả năng thanh toán ở các ngân hàng có mối quan hệ ngƣợc chiều, trong khi đó, mối quan hệ này thay đổi khi các qui định mới ban hành. Kết quả thực nghiệm đã cho thấy rằng yêu cầu an toàn vốn càng cao thì rủi ro mất khả năng thanh khoản cũng càng cao. Hay nói cách khác khi những qui định quản lý an toàn vốn càng khắt khe thì ngân hàng sẽ có xu hƣớng chấp nhận rủi ro nhiều hơn và cũng đồng nghĩa với việc dễ dàng bị tổn thƣơng hơn. Điều này cũng đã đƣợc chứng minh bởi nhiều
  29. 22 nghiên cứu trƣớc nhƣ Kahane (1997), Koehn và Santomero (1980), Kim và Santomero(1988), Chen (1993). Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng cho thấy qui mô tài sản và chỉ số rủi ro mất khả năng thanh khoản có mối quan hệ cùng chiều sau khi qui định mới đƣợc thực hiện và ngƣợc lại trong khoảng thời gian trƣớc đó. Theo Rivard và Thomas (1997), khi rủi ro mất khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì lợi nhuận của nó sẽ càng thấp. Chính vì thế, nếu các ngân hàng muốn giảm thiểu rủi ro này sẽ cần phải mở rộng phạm vi hoạt động, cố gắng đa dạng hóa các sản phẩm làm doanh thu tăng trƣởng và hạn chế sự biến động của lợi nhuận. Thông qua việc sử dụng mô hình hồi qui logistic trên 400 ngân hàng từ năm 1987 đến năm 1993, Laitinen (2000) đã cho thấy tỉ lệ tiền mặt trên tổng tài sản, dòng tiền trên tổng tài sản, vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản đều có ảnh hƣởng đến rủi ro mất khả năng thanh toán của ngân hàng. 2.4 Tổng quan các bài nghiên cứu trƣớc đây về mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và rủi ro của ngân hàng Các nghiên cứu về cấu trúc sở hữu ngân hàng đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ vào những năm 90 của thế kỷ trƣớc, chứng tỏ ảnh hƣởng quan trọng của nó đến hoạt động của hệ thống ngân hàng nói riêng và cả nền kinh tế nói chung. Một số bài nghiên cứu không những đo lƣờng mối quan hệ của cấu trúc ngân hàng và các yếu tổ ảnh hƣởng đến hoạt động kinh doanh của chúng mà còn đặt vào một số giai đoạn nhất định, chứng tỏ sự ảnh hƣởng của các sự kiện kinh tế toàn cấu đến mối quan hệ đó. Đầu tiên là nghiên cứu của Suanders, A., Strock, E. và Travlos , N. (1990), nhóm tác giả đã nghiên cứu sự ảnh hƣởng của cấu trúc sở hữu đến việc chấp nhận rủi ro trong thời kỳ các khung pháp lý đang đƣợc dở bỏ (1979-1982). Bài nghiên cứu tập trung vào hai đối tƣợng chính là ngân hàng mà những nhà quản trị chỉ nắm số ít cổ phần, hoạt động với phƣơng thức là tối đa hóa lợi nhuận của họ và ngân hàng mà những nhà quản trị nắm giữ số lƣợng lớn cổ phần và phƣơng thức hoạt động là tối đa hóa lợi nhuận cổ đông. Tác giả đã đƣa ra kết luận rằng loại hình ngân hàng thứ nhất chấp nhận rủi ro cao hơn loại hình
  30. 23 thứ hai và nó càng thể hiện rõ hơn trong giai đoạn các đạo luật đang đƣợc bãi bỏ vào giai đoạn 1979-1982. Tiếp theo cũng nghiên cứu về mối quan hệ giữa cấu trúc và rủi ro của ngân hàng nhƣng trong giai đoạn khủng hoảng tài chính châu Á và thay đổi đối tƣợng nghiên cứu sang ngân hàng quốc doanh và ngân hàng tƣ nhân, nhóm tác giả M.M., Guo, L., Khaksari, S ., và Tehranian , H.(2010) đã tìm ra đƣợc rằng trƣớc năm 2001, mô hình ngân hàng quốc doanh có khả năng sinh lợi kém hơn, nguồn vốn ít hơn và rủi ro tín dụng cao hơn so với ngân hàng tƣ nhân. Điều này còn thể hiện rõ hơn vì sự can thiệp của chính phủ và các chính sách chính trị nhiều hơn. Hơn nữa, từ năm 1997 đến năm 2000, bốn năm sau khi cuộc khủng hoảng bắt đầu sự suy giảm trong lợi nhuận từ dòng tiền, nguồn vốn và chất lƣợng tín dụng của ngân hàng quốc doanh lớn hơn rất nhiều so với ngân hàng tƣ nhân đặc biệt là các quốc gia bị ảnh hƣởng nặng của cuộc khủng hoảng. Tuy vậy đến giai đoạn năm 2001-2007 sự khác biệt trong hiệu quả kinh doanh của ngân hàng quốc doanh và ngân hàng tƣ nhân đã đƣợc giảm đi đáng kể, cụ thể là trong thu nhập từ dòng tiền, nguồn vốn và nợ xấu. Nhƣ vậy chúng ta thấy đƣợc rằng ảnh hƣởng của cấu trúc sở hữu lên rủi ro cũng nhƣ hiệu quả kinh doanh của hệ thống ngân hàng bị ảnh hƣởng khá lớn của các giai đoạn kinh tế gắn liền với sự thay đổi trong chính sách của các nƣớc. Bàn về sự ảnh hƣởng của mức độ tập trung sở hữu lên rủi ro của ngân hàng, trên tạp chí “Banking and Finance”, Shehzad, C.T., De Haan, J., và Scholtens, B. (2010) đã nghiên cứu sự ảnh hƣởng của mức độ tập trung sở hữu lên chất lƣợng của những khoản cho vay và an toàn vốn. Bài nghiên cứu đã dùng hai chỉ số để chỉ mức độ rủi ro của ngân hàng đó là tỉ lệ nợ xấu và an toàn vốn. Với số mẫu khá lớn, 300 ngân hàng thƣơng mại trên hơn 50 quốc gia nhóm tác giả đã tìm ra đƣợc mối quan hệ giữa mức độ tập trung sở hữu ( đại diện bởi mức độ cổ phần ) có ảnh hƣởng đến tỉ lệ nợ xấu trong ngân hàng. Cụ thể, trong điều kiện giám sát từ xa và quyền lợi của cổ đông đƣợc bảo về, việc tập trung sỡ hữu sẽ làm giảm đáng kể tỉ lệ nợ xấu. Hơn nữa, trong điều kiện có sự bảo vệ cổ đông thì sự tập trung sở hữu sẽ ảnh hƣởng tích cực đến tỉ lệ an toàn vốn. Nhƣng nếu trong diểu kiện quyền lợi bảo vệ của cổ đông và sự giám sát thấp thì sự tập trung sở hữu sẽ làm giảm rủi ro trong ngân hàng. Cùng một mối quan tâm là mức độ tập trung sở hữu Iannotta, G., Nocera, G., và Sironi, A.(2007) đã công bố báo cáo nghiên cứu ảnh hƣởng của cấu trúc
  31. 24 sở hữu đến rủi ro và hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng châu Âu. Nghiên cứu này dùng biến đo lƣờng độ tập trung sở hữu để đại diện cho cấu trúc sở hữu khác nhau và đo lƣờng sự ảnh hƣởng của nó lên khả năng sinh lợi, hiệu quả chi phí và rủi ro của ngân hàng. Tác giả đã nghiên cứu 181 ngân hàng lớn ở 15 nƣớc châu Âu và chia chúng làm 4 loại hình sở hữu: Ngân hàng sở hữu nhà nƣớc, ngân hàng sở hữu bởi cá nhân, ngân hàng đại chúng và ngân hàng tiết kiệm. Qua bài nghiên cứu, nhóm tác giả đã rút đƣợc ba kết quả chính. Thứ nhất, sau khi đã loại bỏ tính chất đặc thù của từng ngân hàng và ảnh hƣởng của quốc gia cũng nhƣ thời gian, ngân hàng tiết kiệm và ngân hàng nhà nƣớc có khả năng sinh lợi thấp hơn và chi phí cao hơn ngân hàng sở hữu cá nhân. Thứ hai, ngân hàng đại chúng có chất lƣợng các khoản cho vay thấp hơn và nguy cơ phá sản cao hơn so với tất cả các loại ngân hàng khác và ngân hàng là ngân hàng có chất lƣợng cho vay tốt nhất và rủi ro tài sản thấp nhất . Tuy nhiên, kết luận cuối cùng khá khác biệt so với các nghiên cứu trƣớc vì cho rằng mức độ tập trung sở hữu không ảnh hƣởng đến khả năng sinh lợi. Bên cạnh đó, họ vẫn khẳng định mức độ này có ảnh hƣởng đến chất lƣợng các khoản cho vay, rủi ro tài sản và rủi ro phát sản. Cụ thể, khi ngân hàng có mức độ tập trung sở hữu cao hơn thì chất lƣợng các khoản cho vay sẽ tốt hơn, rủi ro về tài sản và rủi ro phá sản cũng sẽ giảm đi. Chính vì những khác biệt này cộng thêm sự khác biệt về cấu trúc tài sản và cấu trúc vốn mà mỗi hình thức sở hữu ngân hàng sẽ tạo ra những mô hình tài chính khác nhau. Bên cạnh việc nghiên cứu mối quan hệ của mức độ tập trung sở hữu và rủi ro của ngân hàng, nhiều công trình nghiên cứu còn phân tích sự khác nhau trong hành vi chấp nhận rủi ro của các loại hình ngân hàng. Nhóm tác giả Garcia-Marco, T. và Roles-Fernandez, M.D (2008) đã thực hiện một nghiên cứu ở Tây Ban Nha để tìm hiểu về sự khác nhau này với đối tƣợng nghiên cứu chính là ngân hàng tiết kiệm và ngân hàng thƣơng mại. So với các bài nghiên cứu trƣớc đây, nhóm tác giả đã đƣa vào thêm yếu tố quy mô của ngân hàng và nhận thấy rằng khi có cùng quy mô thì ngân hàng tiết kiệm có rủi ro đồng nhất hơn so với ngân hàng thƣơng mại. Ngân hàng thƣơng mại hƣớng tới lợi nhuận nhiều hơn nên sẽ có xu hƣớng chấp nhận dữ án có rủi ro cao hơn ngân hàng tiết kiệm. Đồng thời, các ngân hàng thƣơng mại vừa và nhỏ có mức độ tập trung sở hữu càng cao thì hành vi
  32. 25 chấp nhận rủi ro càng cao, nhƣng đối với ngân hàng thƣơng mại vừa và lớn thì hoàn toàn ngƣợc lại, nghĩa là khi mức độ tập trung sở hữu càng cao thì hành vi chấp nhận rủi ro càng thấp. Đây là kết luận khá mới mẻ so với các nghiên cứu trƣớc vì biến quy mô đƣợc đƣa vào và phân tích cụ thể trên từng loại cấu trúc sở hữu. Cùng một mục tiêu nghiên cứu các loại hình ngân hàng khác nhau, nhóm tác giả Barry, T.A., Lepetie, L., và Tarazi, A. (2011) đã tìm hiểu hai loại hình ngân hàng ở châu Âu là ngân hàng đại chúng và ngân hàng sở hữu bởi cá nhân và đã cho ra một số kết luận rằng cấu trúc sở hữu ảnh hƣởng mạnh mẽ lên rủi ro của ngân hàng sở hữu bởi cá nhân hơn ngân hàng đại chúng. Tỉ lệ tài sản góp vốn của cá nhân, gia đình hoặc tổ chức tín dụng vào ngân hàng càng lớn thì càng làm giảm mức độ rủi ro trong tài sản và rủi ro trong việc mất khả năng thanh toán. Thêm vào đó khi các tổ chức đầu tƣ và các công ty phi tài chính có phần góp vốn lớn thì mang lại rủi ro lớn nhất cho ngân hàng. Đối với ngân hàng đại chúng, nhƣ đã nói, việc thay đổi trong cấu trúc sở hữu không ảnh hƣởng đến việc chấp nhận rủi ro vì chính áp lực thị trƣờng mới có ảnh hƣởng quan trọng tới hành vi chấp nhận rủi ro của nó, và nhóm tác giả đã nêu lên kết luận khá khác biệt so với những nghiên cứu trƣớc rằng cấu trúc sở hữu không còn là yếu tố quan trọng giải thích sự khác nhau trong rủi ro ở ngân hàng đại chúng. Mặc dù vậy, việc nắm giữ phần góp vốn của các tổ chức ngân hàng lớn sẽ dẫn đến rủi ro tín dụng và rủi ro mất khả năng chi trả giảm. Đi sâu hơn vào các loại hình sở hữu, nhóm tác giả Berger, A. N., Clarke, G. R., Cull, R., Klapper, L., và Udell, G. (2005) đã nghiên cứu ba loại sở hữu là sở hữu trong nƣớc, sở hữu nƣớc ngoài và sở hữu nhà nƣớc. Nhóm tác giả đã rất coi trọng các chỉ tiêu của các hoạt động quản trị có liên quan và hầu nhƣ đƣa hết chúng vào mô hình. Số liệu đƣợc họ sử dụng là ở Argentina vào những năm 1990. Họ đã đƣa ra đƣợc những kết luận rằng ngân hàng thuộc sở hữu nhà nƣớc có hiệu quả kinh doanh rất thấp trong thời gian dài và tạo nên gánh nặng khi nó tƣ nhân hóa. Nhƣng sau khi tƣ nhân hóa, các ngân hàng này đã có bƣớc phát triển khá vƣợt bậc. Không chỉ nghiên cứu về các loại hình của ngân hàng, nghiên cứu của nhóm tác giả Anderson, R.C., và Fraser, D.R. (2000) đã bổ sung thêm yếu tố quản trị vào nghiên cứu của mình, góp phần đóng góp vào sự hiểu biết của chúng ta về những nhân tố ảnh hƣởng
  33. 26 đến hành vi chấp nhận rủi ro của ngân hàng cũng nhƣ tình trạng sức khỏe hệ thống ngân hàng của mỗi nƣớc nói chung và từng ngân hàng nói riêng. Nhóm tác giả cung cấp bằng chứng về việc cổ phần của những nhà quản trị là yếu tố quan trong trong việc chấp nhận rủi ro của ngân hàng. Cổ phần của những nhà quản trị có mối quan hệ cùng chiều với không chỉ từng rủi ro cụ thể mà còn là toàn bộ rủi ro trong những năm 1980s khi các điều luật về ngân hàng không đƣợc thắt chặt và hệ thống ngân hàng đang chịu ảnh hƣởng của áp lực tài chính. Mặc dù vậy, những quy định năm 1989 và 1991 đƣợc ban hành để làm giảm rủi ro và cũng phản ánh sự cải thiện đáng kể trong giá trị của ngân hàng. Việc các nhà quản trị nắm cổ phần có ảnh hƣởng ngƣợc chiều đến toàn bộ rủi ro trong những năm 1990. Ngƣợc lại, rủi ro hệ thống không có mối quan hệ với việc nắm giữ cổ phần của các nhà quản trị trong cả hai khoảng thời gian. Kết luận chƣơng 2 Chƣơng 2 đã cung cấp khung lí thuyết và một số những nghiên cứu trƣớc đây về cấu trúc sở hữu cũng nhƣ rủi ro của ngân hàng thƣơng mại, đặc biệt là rủi ro tín dụng và rủi ro mất khả năng thanh toán. Qua đó, chúng tôi thấy rằng rủi ro của ngân hàng thƣơng mại bị ảnh hƣởng từ rất nhiều yếu tố và cấu trúc sở hữu là một trong những yếu tố quan trọng. Cấu trúc này có thể làm giảm hoặc tăng rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt. Tùy vào điều kiện ở các không gian, thời gian khác nhau, mối quan hệ giữa rủi ro và cấu trúc sở hữu của ngân hàng thƣơng mại sẽ có sự khác nhau. Vì vậy, khi kiểm tra sự ảnh hƣởng của cấu trúc sở hửu lên hành vi chấp nhận rủi ro của ngân hàng, chúng tôi vô cùng thận trọng xem xét các điều kiện để đảm bảo mô hình mang tính thực nghiệm cao nhất. Những phân tích sâu hơn về mối quan hệ này sẽ đƣợc chúng tôi trình bày ở những phần tiếp theo.
  34. 27 3. TỔNG QUAN VỀ CẤU TRÚC SỞ HỮU VÀ RỦI RO CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM Dựa vào nội dung chƣơng 2 đề cập đến những nền tảng lý thuyết cơ sở về cấu trúc sở hữu và rủi ro của của ngân hàng từ các nghiên cứu khác nhau trên thế giới, nội dung chƣơng 3 sẽ trình bày tình hình hoạt động của các NHTM Việt Nam, cấu trúc sở hữu vốn hiện nay của các ngân hàng và thực trạng rủi ro trong hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt Nam. 3.1 Thực trạng hoạt động của ngân hàng thƣơng mại Việt Nam Quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ trên thế giới đem lại một sự gắn kết cho nền kinh tế giữa các quốc gia. Cùng với xu hƣớng đó, năm 2007 Việt Nam chính thức gia nhập WTO, mang lại những kết quả tích cực. Tuy nhiên mặt trái của toàn cầu hóa cũng khiến cho nền kinh tế Việt Nam đƣơng đầu với nhiều thách thức. Do đó sự phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam cũng không thể đi ngƣợc lại với xu hƣớng chung, đặc biệt trong giai đoạn 2007-2012 tình hình thế giới có nhiều biến động lớn. Khủng hoảng kinh tế năm 2008 đƣợc khởi đầu bằng sự sụp đổ của hàng loạt các ngân hàng lớn ở Mỹ trực tiếp ảnh hƣởng đến hoạt động ngân hàng trong nƣớc. Tiếp đó, 2010 bùng nổ nợ công xảy ra ở các nƣớc châu Âu bắt đầu từ Hy Lạp, tài chính thế giới rơi vào bất ổn khiến hoạt động của các ngân hàng Việt Nam khó khăn. Trong nƣớc, dƣới áp lực mở cửa thị trƣờng, các ngân hàng TMNN đã tiến hành cổ phần hóa. Ngoài ra, đề án tái cấu trúc hệ thống ngân hàng trong giai đoạn 2011-2015 bắt đầu đƣợc thực thi. Theo đó quan điểm của đề án là, thứ nhất cơ cấu lại hệ thống ngân hàng là một quá trình thƣờng xuyên và liên tục, dựa vào đó, các ngân hàng sẽ phát triển theo hƣớng an toàn hiệu quả, vững chắc, khắc phục những yếu kém khó khăn mà ngành ngân hàng đang phải đối mặt. Thứ hai đa dạng hóa các hình thức sở hữu và quy mô của ngành, trong đó các NHTMNN đóng vai trò chủ lực của hệ thống. Thứ ba khuyến khích hoạt động hợp nhất, sáp nhập giữa các TCTD nhằm giảm thiểu rủi ro và tăng hiệu quả hoạt động. Thứ tƣ hoạt động tái cơ cấu đƣợc áp dụng phù hợp với từng TCTD cụ thể. Và quan điểm cuối cùng là không để xảy ra đổ vỡ và mất an toàn trong hoạt động của ngành.
  35. 28 Thông qua đề án trên có thể thấy đƣợc nổ lực lành mạnh hóa thị trƣờng tài chính ngân hàng và củng cố năng lực hoạt động của các TCTD. Dƣới tác động của các nhân tố vĩ mô trong và ngoài nƣớc, ngành ngân hàng Việt Nam đã đạt đƣợc những thành tựu nhất định nhƣng vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Dƣới đây chúng tôi sẽ phản ánh một số khía cạnh chính của bức tranh toàn cảnh ngành ngân hàng Việt Nam thể hiện qua tình hình huy động vốn, hoạt động tín dụng và năng lực tài chính. 3.1.1 Hoạt động huy động vốn Năm 2007, huy động vốn của toàn hệ thống tăng trƣởng mạnh với tỷ lệ 47,64%, đây có thể đƣợc xem nhƣ giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của huy động và tín dụng ngân hàng thƣơng mại. Trong đó khối ngân hàng cổ phần, chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài và các TCTD khác đạt tốc độ nhanh nhất 101,85% cao gấp 5 lần so với khối NHTMNN (24,5%) mặc dù các NHTMNN có mức độ nhận biết thƣơng hiệu mạnh, mạng lƣới hoạt động rộng khắp. Diễn biến hoạt động huy động vốn trong toàn hệ thống cũng chịu ảnh hƣởng mạnh mẽ từ tình hình kinh tế vĩ mô. Suy thoái kinh tế thế giới năm 2008 và tình trạng vỡ nợ của các nƣớc châu Âu đã kiềm hãm tốc độ tăng trƣởng huy động và xuống thấp nhất vào năm 2008 và 2011 với mức 22.87% và 14.6%. Giai đoạn 2008-2012, do điều kiện kinh tế Việt Nam cũng nhƣ thế giới gặp nhiều khó khăn, hàng loạt các doanh nghiệp trong nƣớc ngừng hoạt động, nhu cầu đầu tƣ sụt giảm. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến sự thu hẹp quy mô huy động vốn của các ngân hàng.
  36. 29 Hình 3.1: Tăng trƣởng huy động (2007-2012) 60 50 40 30 20 10 0 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Nguồn: Báo cáo thường niên NHNN 3.1.2 Hoạt động cho vay Hoạt động cho vay là một trong những nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của các NHTM. Tại Việt Nam, hoạt động cho vay của ngân hàng có nhiều chuyển biến quan trọng trong giai đoạn 2007 - 2012. Cụ thể từ khi gia nhập WTO, hoạt động đầu tƣ trong nƣớc phát triển, tăng trƣởng dƣ nợ cao (53,89%). Hoạt động cho vay có sự tăng trƣởng nóng với đột phá của khối ngân hàng cổ phần, chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài và các tổ chức tín dụng (TCTD) 105,27% trong khi khối NHTMNN chiếm hơn 50% tổng tài sản của các ngân hàng thuơng mại chỉ đạt tăng trƣởng ở mức 31,09%. Nhƣng xét về cơ cấu cho vay, khối ngân hàng sở hữu nhà nƣớc vẫn chiếm ƣu thế với hơn 50%. Khi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bùng nổ, tăng trƣởng có phần chậm lại trong năm 2008. Không chỉ riêng ngân hàng, ngành bất động sản (BĐS) cũng rơi vào trạng thái đóng băng mà nguyên nhân sâu xa xuất phát từ ngân hàng thƣơng mại. Thị trƣờng BĐS phụ thuộc rất lớn vào cung cầu tín dụng, khi thị trƣờng BĐS hƣng thịnh thì vai trò của ngân hàng thƣơng mại rất lớn, khi thị trƣờng BĐS đóng băng tác động ngƣợc trở lại làm thị trƣờng tài chính bất ổn. Sau đó, bằng các chính sách kích thích kinh tế và kích cầu, hỗ trợ lãi suất của nhà nƣớc, thị trƣờng tín dụng có phần khởi sắc hơn vào giai đoạn 2009-2010. Có thể nhận thấy
  37. 30 chuyển biến tích cực trong tốc độ tăng trƣởng tín dụng với mức trên 30%. Đồng thời, giai đoạn này, thị phần tín dụng của các ngân hàng thƣơng mại cổ phần (NHTMCP) và chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài cũng đƣợc mở rộng. Hình 3.2: Tăng trƣởng tín dụng (2007-2012) 60 50 40 30 20 10 0 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Nguồn: Ngân hàng nhà nước Năm 2011-2012 tình hình trong nƣớc theo tinh thần Nghị quyết 11/NQ-CP, Chính Phủ thực hiện chính sách tiền chặt chẽ nhằm kiềm chế lạm phát. Dƣới áp lực của chính sách này, tăng trƣởng đầu tƣ cho nền kinh tế giảm mạnh nhất trong 10 năm trở lại đây làm hoạt động đầu tƣ cho nền kinh tế giảm, do đó tăng trƣởng tín dụng ở cả hai khối ngân hàng cũng giảm sút đáng kể. Sau giai đoạn suy thoái, ngành ngân hàng có dấu hiệu phục hồi, tiếp tục chức năng huyết mạch trong việc làm cầu nối giữa sản xuất tiêu dùng và tiết kiệm. Các chỉ tiêu tiền tệ nhƣ tổng phƣơng tiện thanh toán, huy động vốn và tín dụng có sự tăng trƣởng trở lại mặc dù kết quả đạt đƣợc vẫn chƣa bằng mức năm 2007. Các NHTMNN vẫn tiếp tục đóng góp quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu về vốn, đặc biệt trong điều kiện khó khăn của nền kinh tế. Đây chính là kênh chuyển tải nhanh nhất các cơ chế chính sách hỗ trợ của Chính phủ cho các thành phần kinh tế, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phục hồi và phát triển. Vì vậy, GDP của sáu tháng đầu năm 2010 đã đạt khoảng 6,4%, mức tăng cao nhất kể từ quí 4 năm 2008 đến nay.
  38. 31 3.1.3 Diễn biến lãi suất Nhìn chung lãi suất chỉ ổn định trong giai đoạn đầu sau đó diễn biến khá phức tạp. Đặc biệt trong năm 2008 lãi suất tăng đột biến với mức 3,36%, lãi suất huy động đã đạt đỉnh điểm ở 19%/năm . Các ngân hàng thƣơng mại chạy đua lãi suất huy động nhằm thu hút nguồn vốn, vô hình chung đã tạo nên gánh nặng chi phí trả lãi của các doanh nghiệp khi mức lãi suất tín dụng chạm ngƣỡng 25%/năm ở một số thời điểm. Trƣớc tình trạng trên Ngân hàng Nhà nhƣớc (NHNN) đã can thiệp bằng công điện số 02 yêu cầu các ngân hàng thƣơng mại không đƣợc tăng lãi suất quá mức 12%. Tình hình lãi suất có phần hạ nhiệt từ năm 2009-2010 duy trì ở mức khoảng 10% đối với lãi suất huy động và 12% với lãi suất cho vay. Tuy nhiên tính ổn định không thể duy trì đến năm 2011bằng chứng là lãi suất tăng cao trong 6 tháng đầu năm do các tổ chức tín dụng gặp khó khăn trong thanh khoản. Thời gian sau đó từ các tín hiệu tốt của nền kinh tế nhƣ tỷ lệ lạm phát giảm, tỷ giá và thị trƣờng hối đoái ổn định góp phần hạ nhiệt lãi suất và đến năm 2012 lãi suất đã quay về xấp xỉ năm 2007, cũng trong thời gian này NHNN đã tiến hành giảm lãi suất cơ bản 6 lần nhằm chia sẽ gánh nặng cho các doanh nghiệp và tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. 3.1.4 Năng lực tài chính Xét về quy mô vốn điều lệ các NHTM Việt Nam tƣơng đối thấp so với các nƣớc trong khu vực nhƣ Thái Lan, Malaysia mặc dù các ngân hàng không ngừng nâng cao sức mạnh tài chính của mình.
  39. 32 Bảng 3.1: Quy mô vốn điều lệ của một số NHTM các quốc gia trong khu vực (2011) Quốc gia Vốn Quốc gia Vốn INDONESIA MALAYSIA Bank Mandiri 2122 Maybank 4102 Bank BNI 1499 Public bank (PBB) 2382 Commerce Asset – Bank Central Asia 1304 1695 Holding Bank Rakyat 1070 AMMB Holding 1476 Indonesia Bank Danamon 807 RHB Bank Berhad 1179 Indonesia Panin Bank 363 Hong Leong Bank 1128 VIETNAM THAILAN Viettinbank 577 Bangkok Bank 3178 Siam Commercial BIDV 724 2189 Bank Vietcombank 621 Kasikombank 1996 Agribank 1062 Krung Thai Bank 1837 Sacombank 344 Siam City Bank 853 ACB 401 Thai Military Bank 802 Techcombank 355 Bank of Ayudhya 771 PHILIPPINES SINGAPORE Bank of Philippine 975 DBS Bank 9623 Islands Metropolian Bank Et United overseas 704 6279 Trust company Bank Oversea- Chinese Equitable PCI Bank 464 Banking 5589 Corporation Nguồn: www.thebanker.com/top100 Xét về tỷ số vốn an toàn tối thiểu đƣợc đo bằng hệ số CAR. Theo quy định của NHNN Việt Nam các TCTD trừ các chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài, phải duy trì tỷ lệ này tối thiểu ở mức 9% theo khoản 1, điều 4 thông tƣ 13/2010/TT-NHNN. Qua thống kê thực tế nhận thấy đa số các ngân hàng Việt Nam có hệ số CAR đều cao hơn mức qui định. Cụ thể, đến thời điểm 31/12/2010 : ngân hàng thƣơng mại cổ phần ngoại thƣơng Việt Nam (VCB) xấp xỉ 10%; ngân hàng thƣơng mại cổ phần Á Châu (ACB): 10,6%; ngân hàng thƣơng mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank): 17,8% ; ngân hàng phát triển
  40. 33 nhà Hà Nội (Hahubank): 12,29%; ngân hàng thƣơng mại cổ phần kĩ thƣơng Việt Nam (Techcombank): 13,1% Tuy nhiên xét theo tiêu chuẩn Basel II đã ở mức 12% (có tính đến vốn dành cho rủi ro thị trƣờng) thì số lƣợng các ngân hàng Việt Nam đạt chuẩn là khá thấp. Bên cạnh đó nguồn thu của các ngân hàng Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào các nghiệp vụ truyền thống nhƣ huy động và tín dụng, chƣa chú trọng đến việc đa dạng loại hình và nâng cao chất lƣợng dịch vụ. Trong khi các ngân hàng nƣớc ngoài đi sâu nghiên cứu, phát triển nhiều sản phẩm tiện ích ở nhiều lĩnh vực khác nhau. 3.2 Thực trạng cấu trúc sở hữu ngân hàng thƣơng mại Việt Nam Việc ký kết Hiệp định thƣơng mại song phƣơng Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA) năm 2001 và sau đó là gia nhập WTO vào năm 2007 đã đƣa quá trình hội nhập của Việt Nam lên một tầm cao mới. Theo các thỏa thuận này, Việt Nam cam kết mở cửa thị trƣờng cho các ngân hàng con 100% vốn nƣớc ngoài và loại bỏ dần các hạn chế đối với hoạt động của chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài. Dẫn đến số lƣợng các ngân hàng nƣớc ngoài tăng lên nhanh chóng . Để nâng cao sức cạnh tranh của các ngân hàng trong nƣớc trƣớc sức ép hội nhập, Việt Nam đã thực hiên cải cách đối với lĩnh vực ngân hàng. Bắt đầu từ giữa năm 2005 Việt Nam đã đƣa ra quyết định tái cơ cấu và cổ phần hóa các ngân hàng thƣơng mại Nhà nƣớc. Sau đây là bảng thống kê các loại hình Ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam trong giai đoạn 2008-2013. Bảng 3.2: Loại hình các tổ chức tín dụng năm 2008 và 2013 STT Loại hình các TCTD 31/12/2008 31/12/2013 1 Ngân hàng TM Nhà nƣớc 05 06 2 Ngân hàng TM cổ phần 40 35
  41. 34 Ngân hàng 100% vốn nƣớc 05(chƣa khai 3 05 ngoài trƣơng hoạt động) 4 Ngân hàng liên doanh 05 04 Chi nhánh ngân hàng nƣớc 5 45 50 ngoài Nhằm lành mạnh hóa tình hình hoạt động của các NHTM NN, 4 trong 6 ngân hàng thuộc sỡ hữu Nhà nƣớc đã tiến hành cổ phần hóa đó là VCB cổ phần hóa năm 2007, ngân hàng thƣơng mại cổ phần công thƣơng Việt Nam (VietinBank) năm 2008; ngân hàng thƣơng mại cổ phần phát triển nhà ĐBSCL (MHB) năm 2010, ngân hàng đầu tƣ phát triển Việt Nam (BIDV). So với các NHTM NN thì các NHTMCP khác có quy mô vốn khá khiêm tốn và năng lực tài chính nhiều ngân hàng còn yếu kém. Do đó năm 2011 ngày 22/11/2006 chính phủ ban hành nghị định 141/2006/NĐ-CP quy định lại mức vốn điều lệ vốn của ngân hàng và các TCTD khác ở Việt Nam áp dụng vào năm 2010 theo đó các TCTD phải đảm bảo mức vốn pháp định nhƣ sau: Bảng 3.3: Mức vốn pháp định áp dụng cho các loại hình ngân hàng qua các năm Đơn vị tính: tỷ đồng Mức vốn pháp định áp dụng cho đến năm STT Loại hình TCTD 2008 2010 2011 1 Ngân hàng thƣơng mại Nhà Nƣớc 3000 3000 3000 2 Ngân hàng thƣơng mại cổ phần 1000 3000 3000
  42. 35 3 Ngân hàng liên doanh 1000 3000 3000 4 Ngân hàng 100% vốn nƣớc ngoài 1000 3000 3000 5 Chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài 15 triệu USD 15 triệu USD 15 triệu USD Nguồn: Nghị định ban hành danh mục vốn pháp định của CTCTD Nghị định này buộc các ngân hàng thƣơng mại cổ phần phải nâng cao vốn pháp định của mình từ 1000 tỷ đồng lên 3000 tỷ đồng trong thời gian ngắn. Điều này đã tạo nên một làn sóng sáp nhập mạnh mẽ giữa các ngân hàng, riêng một số khác mở rộng quy mô bằng cách thu hút nguồn vốn từ các doanh nghiệp trong và ngoài nƣớc. Trong hai năm 2008-2009 do ảnh hƣởng khủng hoảng kinh tế số vụ mua bán sáp nhập thành công không nhiều. Bƣớc sang năm 2010 suy thoái kinh tế qua khỏi thời kì khó khăn nhất, số thƣơng vụ tăng đột biến, mở màn cho làn sóng sáp nhập là thƣơng vụ của ba ngân hàng tại khu vực phía Nam : Ngân hàng Đệ nhất, Việt nam Tín nghĩa ngân hàng và ngân hàng thƣơng mại cổ phần Sài gòn – SCB. Trong số đó có đến 9 thƣơng vụ có liên quan đến 20% các ngân hàng vốn nhà nƣớc và các ngân hàng thƣơng mại cổ phần. Ngoại trừ Agribank, cả bốn NHTMNN còn lại đã thực hiện cổ phần hóa với tỷ lệ nắm giữ của Nhà nƣớc lần lƣợt là 77,1% ở VCB, 80,3% ở Vietinbank và 95,8% ở BIDV. Riêng ngân hàng MHB vẫn chƣa hoàn thành thủ tục đăng kí phát hành đại chúng (IPO) nên vẫn chƣa thực sự trở thành NHTMCP.
  43. 36 Hình 3.3: Cấu trúc sỡ hữu của ngân hàng thƣơng mại Nhà Nƣớc trong những năm 2010-2012 Nhà nƣớc IFC Mizuho 6.7% 80.3% 95.8% 100% 100% 77.1% 15% NH CÔNG NH Đầu tư NH NN&PTNN NH PT Nhà NH THƢƠNG VN Phát Triển VN VN ĐBSCL Ngoại thương (Vietinbank) VN (BIDV) (Agribank) (MHB) (Vietcombank) k) 11% 50% 5.3% 8.2% 11% 5.1% 50% 51% 50% 34% 15% NH Hàng Hải NH Sài Gòn- NH NH Công NH Quân Phương NH NH NH LD NH NH (Maritime Thương Eximbank Đội Đông Indovi VID Publich Vi ệt-Nga Việt-Lào Vinaslam Bank) Nguồn: Mậu và Thành (năm 2013) Một thực tế có thể thấy hầu hết đứng sau các ngân hàng là các tập đoàn và tổng công ty nhà nƣớc lớn. Điển hình: NH Quân Đội đƣợc sở hữu bởi các cổ đông nhà nƣớc là Tập đoàn Viễn thông Quân Đội (Viettel) (10%), Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn (5,7%) và Tổng công ty Trực thăng VN (7,2%). Tập đoàn Bƣu chính viễn thông VNPT đồng thời sở hữu 12,5% ngân hàng Hàng Hải, 6% Ngân hàng Bƣu Điện Liên Việt. Và Tập đoàn Dầu khí (PetroVietnam) hiện đang nắm giữ 20% cổ phần của NH Đại Dƣơng, 3,2% cổ phần của NH Dầu khí Toàn cầu thông qua Công ty Cổ phần Đầu tƣ Tài chính Công đoàn
  44. 37 Dầu khí Việt Nam (PVFI) và 1,5% của NH Đông Nam Á thông qua Tổng công ty khí Việt Nam (PV Gas). Hơn 25% cổ phần của Ngân hàng An Bình thuộc về tập đoàn Điện Lực Việt Nam. Ngoài ra các cơ quan Đảng và chính quyền địa phƣơng cũng sở hữu ngân hàng thông qua hình thức trực tiếp hay gián tiếp. Có 4 ngân hàng hiện đang thuộc sỡ hữu của thành ủy TP HCM là Việt Á, Phƣơng Đông, Đông Á và Sài Gòn Công Thƣơng. Tuy nhiên hình thức sở hữu phổ biến nhất hiện nay là các ngân hàng sở hữu ngân hàng. Nổi bật trong năm 2012 là hoạt động thâu tóm của Eximbank qua công ty cổ phần đầu tƣ Sài Gòn Exim ngân hàng này đã sở hữu 5,6% cổ phần của Sacombank. Tƣơng tự Ngân hàng Phƣơng Nam bằng hình thức gián tiếp qua các công ty liên quan là Công ty Chứng khoán Phƣơng Nam và Công ty Vàng bạc Đá quý Phƣơng Nam cũng đang nắm giữ cổ phần của Sacombank. Và 5% cổ phần khác của Sacombank đang thuộc về Công ty cổ phần Đầu tƣ Tài chính Sài Gòn Á Châu, một cổ đông lớn của ACB. Riêng ACB hiện đang là cổ đông của Eximbank(20%) và nhiều NHTMCP khác là Việt Nam Thƣơng tín (10%), Đại Á (10,8%), Kiên Long (6,1%). Tình trạng trên đã tạo ra một ma trận sỡ hữu chéo phức tạp giữa các ngân hàng trong nƣớc mà ngoài ra còn có sự tham gia của các ngân hàng nƣớc ngoài. Một số với vai trò cổ đông chiến lƣợc nắm giữ 15% vốn điều lệ của các ngân hàng Việt Nam theo Nghị định 69/2007/NĐ-CP, sau này tỷ lệ đã chính thức đƣợc nâng lên thành 20% trong Nghị định 01/2014/NĐ-CP. Điển hình cổ đông chiến lƣợc ở Ngân hàng An Bình là MayBank với tỷ lệ nắm giữ 15% vốn điều lệ và hiện nay là 20%. Thƣơng vụ M&A có yếu tố nƣớc ngoài mới nhất là Viettinbank với 20% cổ phần thuộc về ngân hàng Bank of Tokyo-Mishubishi UFJ tháng 12/2012.
  45. 38 Hình 3.4: Ma trận sở hữu vốn giữa các ngân hàng NH Ngoại thương NH VN (Vietcombank) NN&PTNN NH quân NH hàng hải NH bưu điện đội liên việt NH phát triển NH An Mekong Bình Nguồn: Mậu và Thành (năm 2013)
  46. 39 Bảng 3.4: Thƣơng vụ M&A có yếu tố nƣớc ngoài trong giai đoạn 2007-2012 STT Thời gian Thƣơng vụ 01 1/2007 Citigroup mua 10% cổ phần Ngân hang Đông Á 02 6/2006 HSBC mua 12% cổ phần Techcombank và tăng lên 20% vào 2008 Sumitomo Mitsui Bank mua 15%cổ phần EximBank trị giá 225 triệu 03 7/2007 USD Deutsche Bank trở thành đối tác chiến luợc của Habubank 10% vào 04 10/2007 2007,nay là 20% BNP Parisbass mua 15% cổ phần Oceanbank và tăng lên 20% vào 05 2007 2009 Maybank mua 15% cổ phần AnBinhBank trị giá 200 triệu USD,giờ 06 3/2008 tăng lên 20% vào 2009 07 8/2008 France’s Societe Generale mua 15% cổ phần Seabank 08 7/2008 Standard Chartered Bankmua 15% cổ phần ACB United Overseas Bank mua 15% cổ phần Ngân Hàng Phƣơng Nam 09 10/2008 trị giá 15.6 triệu USD 10 2008 OCBC của Singapore mua lại 15% cổ phần của VP Bank 11 4/2010 VIB bán 15% cổ phần cho Ngân hang Commonwealth of Australia 12 3/2011 IFC mua 10% cổ phần VietinBank trị giá 182 triệu USD 13 12/2011 Hợp nhất 3 ngân hàng SCB, TinNghiaBank và FicomBank 14 2011 Mizuho mua 15% cổ phần VietcomBank trị giá 567.3 triệu USD Bank of Tokyo-Mitsubishi UFJ mua 20% cổ phần VietinBank trị 15 12/2012 giá 743 triệu USD Nguồn:www.tapchitaichinh.vn Thực tiễn hoạt động sáp nhập và tái cơ cấu hệ thống các TCTD đã xuất hiện 6 nhóm sở hữu chéo khác nhau: nhóm 1 là sở hữu của các ngân hàng trong nƣớc và nƣớc ngoài tại các ngân hàng liên doanh, nhóm 2 là cổ đông chiến lƣợc nƣớc ngoài tại các NHTM trong nƣớc, nhóm 3 là các công ty quản lí quản lí quỹ đóng vai trò cổ đông tại các ngân hàng,
  47. 40 nhóm 4 là sỡ hữu của các ngân hàng thƣơng mại nhà nƣớc tại các NHTMCP, nhóm 5 là sỡ hữu lẫn nhau giữa các ngân hàng thƣơng mại cổ phần, nhóm 6 là sỡ hữu các NHCP bởi các tập đoàn tổng công ty nhà nƣớc và tƣ nhân. Ba nhóm sở hữu chéo đầu tiên có tính tích cực vì nó thúc đẩy hoạt động thƣơng mại giữa Việt Nam và các nƣớc, bên cạnh đó các TCTD Việt Nam có thể học hỏi các kinh nghiệm quản lí hiệu quả từ các đối tác nƣớc ngoài. Trong khi đó ba nhóm còn lại ẩn chứa khá nhiều rủi ro. Thứ nhất nguồn lực và khả năng chống đỡ rủi ro của các ngân hàng không đƣợc đánh giá đúng mức, thông qua sỡ hữu chéo các ngân hàng quy mô nhỏ sẽ vay vốn từ các ngân hàng lớn để tăng vốn điều lệ lách đƣợc nghị định 141. Thứ hai việc kiểm định chất lƣợng tín dụng của các dự án không đƣợc đảm bảo, các dự án không đủ tiêu chuẩn của các doanh nghiệp là cổ đông của ngân hàng vẫn đƣợc thông qua gây áp lực nợ xấu nghiêm trọng. Thứ ba, các ngân hàng thực hiện cho vay đảo nợ, bỏ qua các quy định về giới hạn tín dụng, phân loại nợ và trích lập dự phòng. Từ những phân tích trên có thể thấy hoạt động sở hữu chéo gây khó khăn cho công tác quản lí và ảnh hƣởng đến sự minh bạch của thị trƣờng tín dụng Việt Nam. 3.3 Thực trạng về rủi ro tín dụng và rủi ro mất khả năng thanh toán của ngân hàng thƣơng mại Việt Nam Trong suốt quá trình hoạt động, hệ thống ngân hàng luôn phải gánh chịu các rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống. Có thể kể đến một số rủi ro trong hoạt động kinh doanh bao gồm: rủi ro thanh khoản, rủi ro tỷ giá, rủi ro lãi suất,rủi ro tín dụng trong bài nghiên cứu này, chúng tôi sẽ đi sâu phân tích về hai loại rủi ro đƣợc quan tâm nhất là rủi ro tín dụng và rủi ro mất khả năng thanh toán, đây cũng chính là hai biến phụ thuộc chúng tôi đo lƣờng trong mô hình định lƣợng nhằm đánh giá rủi ro của các ngân hàng thƣơng mại trong nƣớc. 3.3.1 Rủi ro tín dụng Trong bức tranh toàn cảnh ngành ngân hàng Việt Nam tỷ lệ nợ xấu cao hiện lên nhƣ một vấn đề cấp bách của rủi ro tín dụng cần xử lí. Mặc dù trong những năm gần đây tăng
  48. 41 trƣởng tín dụng không cao nhƣng chất lƣợng tín dụng kém do các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam chƣa có kĩ năng tốt trong thẩm định dự án đầu tƣ tín dụng. Bên cạnh đó thì khả năng quản trị rủi ro của ngân hàng vẫn còn hạn chế dẫn tới tình trạng nợ xấu vƣợt tầm kiểm soát. Hình 3.6: Giá trị nợ xấu và tỉ lệ nợ xấu toàn hệ thống (2004 – tháng 9/2012) Đơn vị: Nghìn tỷ đồng 300 10.00% 9.00% 250 8.00% 7.00% 200 6.00% 150 5.00% giá trị nợ xấu 4.00% tỉ lệ nợ xấu 100 3.00% 2.00% 50 1.00% 0 0.00% 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Nguồn: Thiện (năm2013) Nợ xấu luôn tồn tại trong hệ thống ngân hàng tuy nhiên từ năm 2007 đến nay xu hƣớng tăng tỷ lệ nợ xấu thể hiện khá rõ rệt. Đáng chú ý năm 2012 tỷ lệ nợ xấu toàn ngành ở mức 8,86% (cao gần gấp 3 lần so với năm 2011). Mặt khác nhƣ đánh giá của TCTD uy tín nƣớc ngoài thì con số này cao hơn nhiều. Tháng 9/2012 Wall Street journal nhận định tỷ lệ nợ xấu Việt Nam ở mức 20% đẩy bậc tín nhiệm các Trái Phiếu Việt Nam từ mức B1 xuống B2. Giai đoạn từ năm 2007 tăng trƣởng tín dụng Việt Nam luôn cao hơn GDP trong khi nền kinh tế Việt Nam luôn phải đối mặt với nhiều bất ổn, khiến nợ xấu tồn đọng qua các năm. Thêm vào đó tăng trƣởng GDP cũng không thể bắt kịp với tín dụng trong nƣớc, chi phí
  49. 42 trả lãi vay của các doanh nghiệp quá lớn trong khi tăng trƣởng toàn nền kinh tế không cao càng đẩy tình trạng rủi ro tín dụng gia tăng. Theo tiêu chuẩn quốc tế thì mức cảnh báo cần phải xem xét nợ xấu ở ngƣỡng 3% (nợ xấu/GDP). Trong khi đó 9 tháng đầu năm 2012 nợ xấu đã chiếm 12,8% GDP tăng 211% so với năm 2011. Hình 3.7: Tăng trƣởng tín dụng GDP, tín dụng và tỷ lệ tín dụng/GDP (2001 – 2011) 35% 70% 30% 60% 25% 50% 20% 40% tốc độ tăng trưởng GDP 15% 30% tín dụng nội địa/GDP 10% 20% 5% 10% 0% 0% 2007 2008 2009 2010 2011 Nguồn ADB, Tổng Cục Thống Kê Phân theo nhóm ngành, tỷ lệ nợ xấu chiếm cao nhất ở 6 nhóm sau: Công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 22,5% nợ xấu toàn hệ thống, Hoạt động kinh doanh bất động sản và dịch vụ lần lƣợt là 7,83% và 19,25%, Buôn bán sửa chữa ô tô xe máy 18,52%, Vận tải kho bãi chiếm 11% và Xây dựng 9,5%. Tuy nhiên những số liệu trên chƣa phản ánh đƣợc hết thực trạng nợ xấu Việt Nam hiện nay. Nợ xấu của các doanh nghiệp Nhà Nƣớc chƣa đƣợc phản ánh trung thực, các khoản nợ này thƣờng trông chờ vào sự hỗ trợ của ngân sách thông qua xóa nợ, khoanh nợ, chuyển nợ, bổ sung vốn. Những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng nợ xấu tăng cao có thể thấy theo hai hƣớng chủ quan và khách quan. Xét về mặt khách quan yếu tố đầu tiên từ chính sách tiền tệ nới lỏng trong thời gian dài. Các ngân hàng đã tập trung nguồn tín dụng này vào các lĩnh vực phi sản xuất nhƣ bất động sản làm suy giảm chất lƣợng tín dụng. Tiếp đó tình
  50. 43 hình kinh tế thế giới khó khăn, ảnh hƣởng trong nƣớc làm đóng băng thị trƣờng bất động sản đã đƣa các doanh nghiệp vào tình trạng mất một phần hoặc toàn bộ khả năng chi trả cho các khoản nợ. Yếu tố thứ hai công tác thanh tra quản lí, giám sát còn yếu kém không kịp thời phát hiện và ngăn chặn các vi phạm quy định về cấp tín dụng và đầu tƣ vào các ngành rủi ro cao. Một yếu tố khác rất quan trọng tạo nên thực trạng nợ xấu xuất phát từ sự can thiệp của Nhà Nƣớc vào hoạt động của NHTM, tiêu biểu là khoản nợ của Vinashin và Vinalines. Với sự cho phép của Chính Phủ, ngân hàng BIDV đã cho Vinashin vay tới 6600 tỷ đồng trong điều kiện doanh nghiệp này hoạt động không hiệu quả, đến hiện nay tổng dƣ nợ Vinashin còn tồn đọng là 5000 tỷ(sau khi đã chuyển qua cho Vinalines). Tình hình tƣơng tự cũng diễn ra ở Habubank khi khoản nợ của Vinashin đã làm tăng tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng này lên mức 16,06%(theo tiêu chuẩn quốc tế 32,08%). Về nguyên nhân chủ quan xuất phát từ trong hệ thống ngân hàng. Thời kì tăng trƣởng nóng năm 2007 các ngân hàng cho vay ồ ạt mà không thẩm định chất lƣợng dự án, các doanh nghiệp yếu kém vẫn có thể tiếp cận nguồn vốn. Thực trạng sở hữu chéo, các ngân hàng sãn sàng cấp tín dụng cho các cổ đông mà bất chấp những rủi ro có thể phát sinh. Bên cạnh đó một bộ phận cán bộ ngân hàng suy thoái đạo đức nghề nghiệp đã thẩm định không chính xác móc ngoặc với doanh nghiệp trục lợi cho bản thân. 3.3.2 Rủi ro mất khả năng thanh toán Thông thƣờng chỉ số Z-score đƣợc sử dụng để đo lƣờng rủi ro mất khả năng thanh toán của các ngân hàng nhƣ trong nghiên cứu của Laetitia và Frank (2013), Srairi(2013). Sau đây là bảng chỉ số Z-score trung bình của nhóm NHTMCP đại diện là 7 ngân hàng An Bình, Ngân hàng Vietcapital, ngân hàng Sài Gòn – Hà Nội (SHB), ngân hàng Việt Nam Thịnh Vƣợng , ngân hàng Á Châu (ACB), ngân hàng Quân đội, ngân hàng Sacombank và 4 ngân hàng NHTMNN là BIDV, Vietcombank, Eximbank, Viettinbank. Qua các năm chỉ số Z-score có xu hƣớng giảm thể hiện rõ rệt nhất bắt đầu từ năm 2008, đặc biệt ở khối ngân hàng thƣơng mại cổ phần, điều này cho thấy các ngân hàng thƣơng
  51. 44 mại cổ phần có nguy cơ rủi ro mất khả năng thanh toán cao hơn. Nguyên nhân có thể dẫn đến chênh lệch xu hƣớng trên là do đa phần các NHTMCP có nguồn vốn nhỏ và hoạt động còn yếu kém trong khi khối NHTMNN có nguồn vốn lớn mạnh nên chỉ số Z-score gần nhƣ ổn định. Hình 3.5: chỉ số Z-score trung bình giữa nhóm 7 NHTMCP và 4 NHTMNN 40 35 30 25 20 NHTMCP NHTMNN 15 10 5 0 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Trong giai đoạn 6 năm mà bài nghiên cứu của chúng tôi hƣớng đến (từ 2007-2012), thanh khoản của hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt Nam trải qua nhiều biến cố lớn cũng là một trong những nguyên nhân lớn dẫn đến rủi ro mất khả năng thanh toán của hệ thống. Với ảnh hƣởng từ chính sách tiền tệ nới lỏng trong giai đoạn 2003-2007, lạm phát trong nƣớc đƣợc đẩy lên cao với mức 12% vào cuối năm 2007 trong khi lãi suất cho vay danh nghĩa không có sự điều chỉnh lớn. Lúc này các doanh nghiệp trong nƣớc ồ ạt sử dụng nguồn vốn rẻ từ các tổ chức tín dụng cho hoạt động đầu tƣ, đặc biệt là đầu tƣ vào bất động sản. Các ngân hàng thƣơng mại trong nƣớc tận dụng cơn lốc đầu tƣ cho vay mạnh mẽ trên toàn hệ thống, tăng trƣởng tín dụng đạt mức cao. Rủi ro bây giờ đƣợc đẩy về phía những ngƣời gửi tiền khi thanh khoản của ngân hàng xuống khá thấp.
  52. 45 Trƣớc tình hình đó, NHNN tiến hành thắt chặt tiền tệ, 16/1/2008 tỉ lệ dự trữ bắt buộc đƣợc tăng lên 1% (tƣơng đƣơng 10 nghìn tỷ đồng), bên cạnh đó NHNN rút một lƣợng lớn tiền khỏi lƣu thông khi tiến hành bán 20 nghìn tỉ đồng tín phiếu bắt buộc với 41 ngân hàng. Những điều chỉnh này càng đẩy các ngân hàng vào tình trạng rủi ro mất khả năng thanh khoản trầm trọng. Bản thân các ngân hàng không thể gom nhanh một lƣợng tiền lớn trong khoản thời gian ngắn để mua tín phiếu của NHNN nên đã vay với lãi suất cao trên thị trƣờng liên ngân hàng. Lãi suất tăng liên tục vào cuối tháng 2/2008. Kế hoạch kiểm soát lạm phát trong trung hạn lại dẫn đến lạm phát trầm trọng hơn trong ngắn hạn khi NHNN buộc phải cứu thanh khoản cho hệ thống ngân hàng thƣơng mại bằng gói tín dụng 33 nghìn tỷ đồng. Các điều chỉnh bất hợp lý trên thị trƣờng ngân hàng đã dẫn đến tâm lý lo lắng cho ngƣời dân, nguy cơ vỡ nợ kỹ thuật tăng cao. Có thể nói chính sách thắt chặt tiền tệ nhanh và gấp của NHNN là một trong những nguyên nhân đƣa đến tình trạng khủng hoảng và mất khả năng thanh khoản nêu trên. Sau khi NHNN chủ động kiểm soát tăng trƣởng tín dụng ở mức 25% tình hình thanh khoản trong hệ thống ngân hàng dần đƣợc ổn định. Nhƣng đến năm 2011 huy động vốn từ dân cƣ và các tổ chức kinh tế gặp khó khăn dẫn đến giảm tốc độ luân chuyển tiền tệ của toàn nền kinh tế. Thêm vào đó lãi suất trần huy động 14% đã khuyến khích ngƣời dân duy trì tài sản ở dạng vàng, bất động sản càng làm cho tình trạng thanh khoản trở nên tồi tệ. Hơn thế sự căng thẳng về thanh khoản thể hiện rõ qua việc niêm yết lãi suất gần nhƣ bằng nhau (bằng đúng lãi suất trần 14%) cho các kì hạn 1-12 tháng. Chi phí trả lãi của ngân hàng quá cao trong khi thời hạn thanh toán ngắn làm rủi ro mất khả năng thanh toán càng tăng cao. Khi gặp khó khăn trong khâu huy động ở thị trƣờng I thì thị trƣờng II trở thành cứu cánh cho các ngân hàng nhỏ. Thực trạng vay nợ chằng chịt giữa các ngân hàng khiến cho dòng vốn không thể cho vay ra nền kinh tế mà luân chuyển qua lại trong hệ thống. Đồng thời
  53. 46 rủi ro của toàn ngành trở nên lớn hơn. Lãi suất liên ngân hàng trong tháng 10/2011 đã lên đến 30-40% /năm đã bộc lộ rõ việc thiếu hụt thanh khoản của các ngân hàng thƣơng mại. Năm 2012 vấn đề thanh khoản dần lắng dịu do tốc độ tăng trƣởng huy động luôn cao hơn nhiều so với tín dụng. Tuy nhiên nguồn thanh khoản luôn dồi dào dẫn đến thực trạng thừa vốn trong điều kiện kinh tế vĩ mô khó khăn, nhu cầu đầu tƣ của các doanh nghiệp giảm. Hoạt động chạy đua lãi suất giữa các ngân hàng đã đƣợc kiểm soát, không còn tình trạng rút vốn từ tổ chức tín dụng này sang TCTD khác để hƣởng chênh lệch lãi suất, giúp các ngân hàng chủ động hạn chế rủi ro thanh khoản đồng thời hạn chế rủi ro mất khả năng thanh toán của mình. Kết luận chƣơng 3 Nội dung chƣơng này đã trình bày một cách khái quát nhất bức tranh toàn cảnh hoạt động của hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt Nam giai đoạn 2007-2012. Có thể thấy cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã ảnh hƣởng không nhỏ đến hiệu quả của ngành thể hiện ở các chỉ tiêu tăng trƣởng tín dụng và huy động thấp trong khi rủi ro mất khả năng thanh khoản và tín dụng lại tăng cao. Qua đó chúng tôi thấy đƣợc có sự khác biệt trong hoạt động và rủi ro giữa các khối ngân hàng có cấu trúc sở hữu vốn khác nhau. Mối quan hệ này đã đƣợc nhiều tác giả trên thế giới nghiên cứu đến. Do đó trong chƣơng 4 chúng tôi sẽ thực hiện mô hình định lƣợng để kiểm chứng mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu vốn và rủi ro của ngân hàng thƣơng mại Việt Nam mà tiêu biểu là rủi ro tín dụng và rủi ro mất khả năng thanh toán
  54. 47 4. NGHIÊN CỨU VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CẤU TRÚC SỞ HỮU VÀ RỦI RO CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM Chƣơng 3 đã trình bày thực trạng khá đa dạng về hình thức sở hữu và rủi ro trong hoạt động của các NHTM tại Việt Nam. Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn mối quan hệ giữa các nhân tố này, nội dung chƣơng 4 nghiên cứu về mối quan hệ thông qua việc áp dụng các mô hình kiểm tra định lƣợng. Kết quả nghiên cứu về mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và rủi ro của các NHTM VN đƣợc trình bày chi tiết ở phần 4.3 của chƣơng này. 4.1 Phƣơng pháp nghiên cứu Để xác định mối tƣơng quan giữa cấu trúc sở hữu và rủi ro trong hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt Nam, đề tài sử dụng hồi quy dữ liệu bảng (Data Panel). Đây là phƣơng pháp nghiên cứu đã đƣợc áp dụng trong rất nhiều nghiên cứu trƣớc đây. Chẳng hạn nhƣ Srairi (2013) đã sử dụng mô hình hồi quy dữ liệu bảng phƣơng pháp tác động cố định (Fixed-effects) để kiểm tra mức độ rủi ro tại các ngân hàng quốc gia Hồi giáo. Caroline Van Rijckeghem (2003) đã sử dụng hồi quy dự liệu bảng để phân tích dòng tiền của các ngân hàng. Hay là bài nghiên cứu về mối liên hệ giữa sự cạnh tranh của các tổ chức tín dụng ảnh hƣởng đến mức độ hiệu quả của tác giả Barbara Casu (2009). Và còn các bài nghiên cứu trên rất nhiều vấn đề về nền kinh tế đã sử dụng mô hình hồi quy bảng. Theo phƣơng pháp hồi quy dữ liệu bảng, hai mô hình hồi quy phổ biến là mô hình hồi quy tác động cố định (Fixed-effects) và hồi quy tác động ngẫu nhiên (Random-effects) đƣợc sử dụng trong phân tích dữ liệu bảng (đôi khi còn đƣợc gọi là dữ liệu dài: longitudinal data). Dữ liệu bảng là sự kết hợp của dữ liệu chéo (cross-section) và dữ liệu thời gian (time series). Để thu thập dữ liệu bảng, cần phải thu thập nhiều đối tƣợng (units) giống nhau trong cùng một hoặc nhiều thời điểm. Sử dụng dữ liệu bảng có hai ƣu điểm lớn nhƣ: i) Dữ liệu bảng cho các kết quả ƣớc lƣợng của các tham số trong mô hình đáng tin cậy hơn; ii) Dữ liệu bảng cho phép chúng ta xác định và đo lƣờng tác động mà những tác động này không thể đƣợc xác định và đo lƣờng khi sử dụng sử dụng chéo hoặc dữ liệu thời gian.
  55. 48 4.1.1 Mô hình tác động cố định (Fixed effects model) Xét một mối quan hệ kinh tế, với biến phụ thuộc, Y, và hai biến giải thích quan sát đƣợc, X1 và X2, và một hoặc nhiều biến không quan sát đƣợc. Chúng ta có dữ liệu bảng cho Y, X1, và X2. Dữ liệu bảng bao gồm N-đối tƣợng và T-thời điểm, và vì vậy chúng ta có NxT quan sát. Mô hình hồi quy tuyến tính cổ điển không có hệ số cắt đƣợc xác định bởi: Yit = β1Xit1 + β2Xit2 + μit với i = 1, 2, , N và t = 1, 2, , T trong đó Yit là giá trị của Y cho đối tƣợng i ở thời điểm t; Xit1 là giá trị của X1 cho đối tƣợng i ở thời điểm t, Xit2 là giá trị của X2 cho đối tƣợng i ở thời điểm t, và μit là sai số của đối tƣợng i ở thời điểm t. Mô hình hồi quy tác động cố định, là một dạng mở rộng của mô hình hồi quy tuyến tính cổ điển, đƣợc cho bởi: Yit = β1Xit1 + β2Xit2 + νi + εit trong đó μit = νi + εit. Sai số của mô hình hồi quy tuyến tính cổ điển đƣợc tách làm hai thành phần. Thành phần νi đại diện cho các yếu tố không quan sát đƣợc khác nhau giữa các đối tƣợng nhƣng không thay đổi theo thời gian. Thành phần εit đại diện cho những yếu tố không quan sát đƣợc khác nhau giữa các đối tƣợng và thay đổi theo thời gian. Phương pháp ước lượng Có hai phƣơng pháp ƣớc lƣợng đƣợc sử dụng để ƣớc lƣợng các tham số của mô hình tác động cố định. i) Ƣớc lƣợng hồi quy biến giả tối thiểu LSDV với mỗi biến giả là đại diện cho mỗi đối tƣợng quan sát của mẫu. ii) Ƣớc lƣợng tác động cố định (Fixed effects estimator). Khi N lớn, việc sử dụng ƣớc lƣợng LSDV sẽ rất cồng kềnh hoặc không khả thi. Chẳng hạn, giả sử chúng ta muốn ƣớc lƣợng mô hình xác định lƣơng. Chúng ta có mẫu N = 1000 ngƣời lao động. Để sử dụng ƣớc lƣợng LSDV, chúng ta sẽ cần tạo ra 1000 biến giả
  56. 49 và chạy hồi quy OLS cho hơn 1000 biến. Trong trƣờng hợp nhƣ vậy, ƣớc lƣợng tác động cố định sẽ thích hợp hơn. Nguyên tắc của ƣớc lƣợng tác động cố định đƣợc hiểu nhƣ sau. Để đánh giá tác động nhân quả của các biến độc lập X1 và X2 lên biến phụ thuộc Y, ƣớc lƣợng tác động cố định sử dụng sự thay đổi trong X1, X2, và Y theo thời gian. Gọi Zi kí hiệu cho một biến không quan sát đƣợc khác nhau giữa các đối tƣợng nhƣng không đổi theo thời gian và vì vậy bao gồm cả phần sai số trong đó. Bởi vì Zi không thay đổi theo thời gian nên nó không thể gây ra bất kì sự thay đổi nào trong Yit; Sở dĩ nhƣ vậy là vì không thay đổi theo thời gian, Zi không thể giải thích bất kì sự thay đổi nào trong Yit theo thời gian. Vì vậy, loại trừ tác động cố định của Zi lên Yitbằng cách sử dụng dữ liệu sự thay đổi trong Yit theo thời gian. 4.1.2 Mô hình tác động ngẫu nhiên (Random effects model) Xét một mối quan hệ kinh tế bao gồm một biến phụ thuộc, Y, và hai biến giải thích quan sát đƣợc, X1 và X2. Chúng ta có dữ liệu bảng cho Y, X1, và X2. Dữ liệu bảng gồm có N đối tƣợng và T thời điểm, và vì vậy chúng ta có NxT quan sát. Mô hình tác động ngẫu nhiên đƣợc viết dƣới dạng: Yit = β1Xit1 + β2Xit2 + νi + εit với i = 1, 2, , N và t = 1, 2, , T Trong đó, sai số cổ điển đƣợc chia làm 2 thành phần. Thành phần νi đại diện cho tất các các yếu tố không quan sát đƣợc mà thay đổi giữa các đối tƣợng nhƣng không thay đổi theo thời gian. Thành phần εit đại diện cho tất cả các yếu tố không quan sát đƣợc mà thay đổi giữa các đối tƣợng và thời gian. Giả sử rằng vi đƣợc cho bởi: vi = α0 + ωi, với i = 1, 2, , N Trong đó, vi lại đƣợc phân chia làm hai thành phần: i) thành phần bất định a0, ii) thành phần ngẫu nhiên ωi.
  57. 50 Giả định rằng, ωi cho mỗi đối tƣợng đƣợc rút ra từ một phân phối xác suất độc lập với giá 2 trị trung bình bằng 0 và phƣơng sai không đổi, đó là, E(ωi) = 0 Var(ωi) = sω Cov(ωi,ωs) =0. N biến ngẫu nhiên ωi đƣợc gọi tác động ngẫu nhiên (random effects). Mô hình tác động ngẫu nhiên có thể đƣợc viết lại: Yit = α0 + β1Xit1 + β2Xit2 + μit Trong đó μit = ωi + εit. Một giả định quan trọng trong mô hình tác động ngẫu nhiên là thành phần sai số μit không tƣơng quan với bất kì biến giải thích nào trong mô hình. Phương pháp ước lượng Ƣớc lƣợng OLS cho mô hình tác động ngẫu nhiên sẽ cho các tham số ƣớc lƣợng không chệch nhƣng lại không hiệu quả. Hơn nữa, các ƣớc lƣợng của sai số chuẩn và do đó thống kê t sẽ không còn chính xác. Sở dĩ nhƣ vậy là vì ƣớc lƣợng OLS bỏ qua sự tự tƣơng quan trong thành phần sai số μit. Để kết quả ƣớc lƣợng không chệch và hiệu quả, chúng ta có thể sử dụng ƣớc lƣợng GLS khả thi (FGLS) để khắc phục hiện tƣợng sai số nhiễu tự tƣơng quan. Ƣớc lƣợng FGLS còn đƣợc gọi là ƣớc lƣợng tác động ngẫu nhiên (Random effects estimator). Ngoài hai phƣơng pháp tác động cố định và tác động ngẫu nhiên, trong một số trƣờng hợp nhà nghiên cứu vẫn sử dụng ƣớc lƣợng OLS thô (Pooled OLS) cho dạng dữ liệu thu thập này. Ƣớc lƣợng thô là ƣớc lƣợng OLS trên tập dữ liệu thu đƣợc của các đối tƣợng theo thời gian, do vậy nó xem tất cả các hệ số đều không thay đổi giữa các đối tƣợng khác nhau và không thay đổi theo thời gian (Gujarati, 2004 trang 641). 4.1.3 Ki ểm định lựa chọn mô hình Câu hỏi đặt ra là mô hình nào sẽ là mô hình phù hợp: FEM hay REM. Sự phù hợp của ƣớc lƣợng tác động ngẫu nhiên và tác động cố định đƣợc kiểm chứng trên cơ sở so sánh với ƣớc lƣợng thô.
  58. 51 Cụ thể, ƣớc lƣợng tác động cố định đƣợc kiểm chứng bằng kiểm định F với giả thuyết H0 cho rằng tất cả các hệ số vi đều bằng 0 (nghĩa là không có sự khác biệt giữa các đối tƣợng hoặc các thời điểm khác nhau). Bác bỏ giả thuyết H0 với mức ý nghĩa cho trƣớc (mức ý nghĩa 5% chẳng hạn) sẽ cho thấy ƣớc lƣợng tác động cố định là phù hợp. Đối với ƣớc lƣợng tác động ngẫu nhiên, phƣơng pháp nhân tử Lagrange (LM) với kiểm định Breusch- Pagan đƣợc sử dụng để kiểm chứng tính phù hợp của ƣớc lƣợng (Baltagi, 2008 trang 319). Theo đó, giả thuyết H0 cho rằng sai số của ƣớc lƣợng thô không bao gồm các sai lệch giữa các đối tƣợng var(vi) = 0 (hay phƣơng sai giữa các đối tƣợng hoặc các thời điểm là không đổi). Bác bỏ giả thuyết H0, cho thấy sai số trong ƣớc lƣợng có bao gồm cả sự sai lệch giữa các nhóm, và phù hợp với ƣớc lƣợng tác động ngẫu nhiên. Kiểm định Hausman sẽ đƣợc sử dụng để lựa chọn phƣơng pháp ƣớc lƣợng phù hợp giữa hai phƣơng pháp ƣớc lƣợng tác động cố định và tác động ngẫu nhiên (Baltagi, 2008 trang 320; Gujarati, 2004 trang 652). Giả thuyết H0 cho rằng không có sự tƣơng quan giữa sai số đặc trƣng giữa các đối tƣợng (vi) với các biến giải thích Xit trong mô hình. Bác bỏ giả thuyết H0 dẫn đến kết luận ƣớc lƣợng tác động cố định là phù hợp hơn so với ƣớc lƣợng tác động ngẫu nhiên. Ngƣợc lại, chƣa có đủ bằng chứng để bác bỏ Ho nghĩa là không bác bỏ đƣợc sự tƣơng quan giữa sai số và các biến giải thích thì ƣớc lƣợng tác động cố định không còn phù hợp và ƣớc lƣợng ngẫu nhiên sẽ ƣu tiên đƣợc sử dụng. 4.2 Dữ liệu nghiên cứu Đề tài sử dụng dữ liệu nghiên cứu đƣợc thu thập từ 11 ngân hàng thƣơng mại Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2012. Cụ thể Bảng 4.1 Thống kê các Ngân hàng đƣợc nghiên cứu Ngân hàng thƣơng mại Nhà nƣớc Ngân hàng thƣơng mại cổ phần Phát triển Nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long ( MHB) Ngân hàng thƣơng mại cổ phần Đầu Tƣ và Phát triển Việt Nam (BIDV)
  59. 52 Ngân hàng thƣơng mại cổ phần Công Thƣơng Việt Nam ( Vietinbank) Ngân hàng thƣơng mại cổ phần Ngoại Thƣơng Việt Nam (Vietcombank) Ngân hàng Thƣơng mại cổ phần Ngân hàng thƣơng mại cổ phần Sài Gòn Thƣơng Tín (Sacombank) Ngân hàng thƣơng mại cổ phần Xuất Nhập Khẩu (Eximbank) Ngân hàng thƣơng mại cổ phần Á Châu (ACB) Ngân hàng cổ phần Việt Nam Thịnh Vƣợng (VPbank) Ngân hàng thƣơng mại cổ phần Quân Đội (MB) Ngân hàng thƣơng mại cổ phần Bản Việt (Vietcapital bank) Ngân hàng thƣơng mại cổ phần Sài Gòn Hà Nội ( SHB) Để xây dựng mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và rủi ro của ngân hàng, đề tài sử dụng hai biến phụ thuộc là tỷ lệ nợ xấu và Z-score: Tỷ lệ nợ xấu Bên cạnh sử dụng chỉ số Z-score chúng tôi còn đƣa thêm một chỉ số vào để kiểm định rủi ro tín dụng của ngân hàng đó là chỉ lệ nợ xấu (non-performing loan). Tỷ lệ nợ xấu sẽ đƣợc đo lƣờng nhƣ sau: Tỷ lệ nợ xấu =
  60. 53 Trên thế giới, khi đánh giá về ngân hàng đã có rất nhiều bài nghiên cứu sử dụng tỷ lệ nợ xấu chẳng hạn nhƣ tác giả Barry, Lepetit, Tarazi (2011) nghiên cứu vấn đề sở hữu ngân hàng đƣợc nắm giữ bởi nhà nƣớc hay tƣ nhân thì loại nào sẽ rủi ro hơn, hay Srairi (2013) xem xét các ngân hàng đƣợc sở hữu bởi nhà nƣớc, cá nhân hay các công ty tài chính, phi tài chính loại nào sẽ chấp nhận rủi ro ở mức cao hơn. Chỉ số Z-score Trƣớc tiên, chúng ta cần phần biệt chỉ số Z-score của hai tác giả nghiên cứu Boyd và Graham (1986) (chỉ số bài nghiên cứu sử dụng) với chỉ số Z-score của E.I.Altman (1968) Chúng ta thƣờng nghe đến phƣơng pháp Z-score dùng để đánh giá rủi ro phá sản của các doanh nghiệp. Cha đẻ của phƣơng pháp nghiên cứu này chính là E. I. Altman (1968). Nghiên cứu dùng mô hình hồi quy xác suất (logit) với 5 biến để dự báo việc phá sản. Chỉ số Z nằm trong khoảng cụ thể sẽ kết luận doanh nghiệp đó phá sản. Đối với công tác quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng, chỉ số này đƣợc xem là điểm số đánh giá sức khỏe doanh nghiệp đi vay. Từ những năm 1970 các nghiên cứu dựa trên thành quả của Altman bắt đầu chuyên sâu vào từng phân ngành cụ thể nhƣ: doanh nghiệp sản xuất, du lịch, công nghệ thông tin, casino Tuy nhiên, trong bài nghiên cứu này chúng tôi muốn đề cập đó là chỉ số Z-score đƣợc tạo ra bởi hai nhà nghiên cứu Boyd và Graham (1986), chỉ số này chuyên sử dụng cho việc đánh giá nguy cơ xảy ra mất khả năng thanh toán tại các hệ thống tín dụng nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Và trong bài nghiên cứu này, khi sử dụng chỉ số Z-score chúng ta mặc định đây là chỉ số Z-score của Boyd và Graham (1986). Vào năm 1986 chỉ số Z-score đƣợc xuất hiện với công thức ban đầu nguyên thủy nhƣ sau: Z-score = Chỉ số Z-score đƣợc tạo ra nhằm đánh giá rủi ro mất khả năng thanh toán của các tập đoàn tài chính ngân hàng. Và tính chất của chỉ số Z-score là chỉ số Z-score càng cao thì