Giáo trình Phát triển kỹ năng quản trị - Nguyễn Quốc Tuấn (Phần 1)

pdf 78 trang hapham 3400
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Phát triển kỹ năng quản trị - Nguyễn Quốc Tuấn (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_phat_trien_ky_nang_quan_tri_nguyen_quoc_tuan.pdf

Nội dung text: Giáo trình Phát triển kỹ năng quản trị - Nguyễn Quốc Tuấn (Phần 1)

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH TS. Nguyễn Quốc Tuấn – ThS. Nguyễn Thị Loan PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG QUẢN TRỊ
  2. CHƯƠNG 1 TỰ NHẬN THỨC I. TẦM QUAN TRỌNG CỦA SỰ TỰ NHẬN THỨC Hơn 300 năm nay, những hiểu biết về chính bản thân chúng ta đã được xem như là một điều rất thầm kín về những của hành vi con người chúng ta. Trong số các chuyên gia, ông Alfred Lord Tennyson đã nói: “Lòng tự trọng/lòng tự ty, sự tự hiểu biết về mình, hay tự điều khiển mình, là ba chìa khóa chính, nếu đạt được sẽ mang lại cho bạn một sức mạnh tối cao”. Qua đó ta có thể thấy được tầm quan trọng của việc tự nhận thức Messinger đã nhắn nhủ với chúng ta rằng: “Tôi sẽ quản lý những người khác nhưng điều đầu tiên mà tôi thực hiện đó là quản lý chính tôi đã ”. Việc tự nhận thức phải luôn nằm trong trái tim của khả năng quản trị chính mình, nhưng như vậy là chưa đủ đâu nhé. Trong khi khả năng tự quản trị chính mình phụ thuộc đầu tiên và lớn nhất vào khả năng tự nhận thức, như đã được trình bày ở Hình 1, thì các kỹ năng tự quản trị khác là có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ và liên kết lại với nhau thì mới có thể hình thành nên khả năng tự nhận thức chính mình. Chẳng hạn phát triển việc tự kiểm soát mình (Self-control), tức chọn lọc ra những mục tiêu và những điều ưu tiên giúp các cá nhân tạo ra định hướng cho cuộc sống của chính bản thân mình. Quản trị thời gian và những sự căng thẳng (Stress) một cách hiệu quả sẽ tạo một khả năng cho các cá nhân có được một sự phù hợp và thích nghi với môi trường xung quanh. Triệu Quản lý stress chứng Quản lý thời gian Xác định mục tiêu và các ưu tiên Tự nhận thức Vấn đề 1 Hình 1: Phân cấp kỹ năng tự quản trị
  3. II. ĐIỀU THẦM KÍN CỦA TỰ NHẬN THỨC 1. Điều thầm kín của tự nhận thức Brouwer (1964) cũng đã nhận định rằng: “Việc tự xem xét lại chính mình (Self-Examination) là một bước chuẩn bị cơ bản cho cái bên trong, một điều kiện để có thể gieo “hạt giống” của việc tự hiểu biết chính mình (Self-understanding) và “bông hoa” về “việc hành vi được thay đổi” sẽ dần được nở ra”. Chúng ta không thể cải thiện chính mình hoặc phát triển những khả năng mới trừ khi và cho đến khi chúng ta biết mức độ về những khả năng hiện thời mà mình đang nắm giữ. Những bằng chứng dựa vào kinh nghiệm đã chứng tỏ cho ta thấy được rằng: “những cá nhân người mà càng nhận thức rõ về chính bản thân mình bao nhiêu thì họ càng cảm thấy khoẻ hơn, thực hiện công việc tốt hơn trong vai trò quản trị và lãnh đạo và hiệu năng hơn trong công việc” Tuy nhiên, tự biết về mình (Self-Knowledge) có thể sẽ ngăn chặn những sự cải thiện của các cá nhân thay vì tạo ra những sự cải thiện như ta đã nghĩ. Lý do của điều này là do những cá nhân thường tránh nhìn nhận những sự phát triển của cá nhân và những sự hiểu biết mới về chính bản thân mình. Họ kháng cự lại việc đạt được nhiều thông tin hơn nhằm bảo vệ lòng tự trọng và những sự mặc cảm của chính bản thân mình. Nếu họ có được những thông tin mới về chính bản thân mình thì họ sẽ trở nên xấu đi, những thông tin đó sẽ chống lại họ, tạo ra cho họ một cảm giác thấp kém, vì đó là những thông tin về những điều xấu, những điểm yếu, những điều kinh khủng và xấu xa. Vì vậy họ tránh để đối diện với chính mình. Như Maslow đã phát biểu rằng: “Chúng ta có khuynh hướng e ngại một số thông tin về chính chúng ta vì nó sẽ là nguyên nhân khiến chúng ta trở nên xem thường chính chúng ta hoặc làm chúng ta cảm thấy thua kém, yếu đi, ngại ngùng hơn, ghê tởm chính mình. Chúng ta bảo vệ chính chúng ta và những hình ảnh chân thật của chính chúng ta bằng cách thể hiện những sự ngăn chặn cùng với những biểu hiện khác, cách mà chúng ta sử dụng để trốn tránh những cái có nguy cơ làm hại ta và gây nguy hiểm cho chính chúng ta.” Như vậy, chúng ta tránh sự phát triển cá nhân, vì chúng ta lo sợ những điều được làm sáng tỏ ra từ chính chúng ta, có nghĩa chúng ta che dấu những đặc điểm của mình. Nếu đây là một cách tốt hơn, hiểu biết về bản thân mình sẽ làm cho trường hợp hiện tại của chúng ta bị mất cân bằng và bị hạ thấp xuống. Rất khó để chấp nhận những điều đó. Tuy nhiên hãy nghĩ lại rằng việc kháng cự và không chấp nhận hiểu biết về mình nó sẽ làm cho tình trạng chúng ta xấu thêm. Freud 2
  4. cũng đã khẳng định rằng “chúng ta nên chân thật với chính chúng ta là cách tốt nhất để chấp nhận những điều của chính chúng ta, bởi vì chỉ có lòng chân thật của chính chúng ta mới có thể đạt được và tìm được nhiều hơn những thông tin về mình và mới có thể cải thiện được chính mình”. Vì vậy, tìm kiếm những kiến thức về chính mình được xem là một điều thầm kín. Đó là điều kiện tiên quyết để phát triển và cải thiện, những điều này cũng có thể ngăn chặn những sự phát triển và những cải thiện của chính chúng ta. Nó sẽ gây nên một tình trạng trì trệ đi vì chúng ta không muốn biết nhiều hơn. 2. Điểm nhạy cảm Một câu nói thường liên quan đến những khái niệm có tính dễ bị tác động, đó được xem là những “điểm nhạy cảm” (sensitive line), cũng có thể được xem là những mặc cảm của bản thân. Khái niệm này có hàm ý đề cập đến một điểm, mà ở đó những cá nhân thường sẽ đưa ra một sự phòng thủ hoặc một sự cảnh giác đối với những thông tin mà ta chạm đến những điểm đó, thường đó là những thông tin về chính bản thân họ, những khái niệm mà mâu thuẫn với chính “những quan niệm của chính bản thân họ” (Self-concept), hoặc cũng có thể đó là những điều mà ta yêu cầu họ thay đổi những hành vi của họ. Mặt khác, nếu càng đưa ra những thông tin có tính trái ngược, hoặc đưa ra những điều có hàm ý có tính nghiêm trọng hơn đối với những quan niệm của chính bạn (Self-concept), thì nó sẽ càng dễ để thăm dò những điểm nhạy cảm của bản thân bạn, và bạn sẽ cảm thấy sẽ rất là cần thiết để nhận ra rằng cần phải dựa vào chính bản thân của mình, chứ không dựa vào bất cứ nguồn nào hết. Ví dụ, có một đồng nghiệp nói bạn rằng bạn chẳng có một tư cách, trình độ gì của một nhà quản trị cả, điều này có thể đã đụng đến “điểm nhạy” của bạn nếu bạn nghĩ là bạn có thể làm tốt công việc của một nhà quản trị. Điều này sẽ được xem là một sự thật nếu như người đồng nghiệp này là một người có ảnh hưởng mạnh đối với bạn. Những câu trả lời của bạn sẽ có thể phụ thuộc vào chính bản thân bạn, tức bạn sẽ phản xạ lại bằng những thông tin có tính bảo vệ bạn, bảo vệ hình ảnh của chính bạn. Những cá nhân cũng sẽ trở nên có ý thức tâm lí hơn và phản ứng cứng rắn hơn khi đụng phải những thông tin có tính đe doạ đến những quan niệm của chính họ. Họ có khuynh hướng làm tăng cường thêm những sự cố gắng của họ để bảo vệ cái mà họ xem là thoải mái và thân thiết với mình. Khi những sự khác nhau trong những sự tự nhận thức (Self-image) bị đụng chạm, tính chất hợp lí của thông tin 3
  5. hoặc những nguồn của nó là bị phủ nhận thì những loại kỹ xảo phòng thủ sẽ được sử dụng để đảm bảo cho những khái niệm của chính họ vẫn được vững chắc. Như vậy, khi đụng đến những điểm nhạy này sẽ tạo ra một sự không linh hoạt và bản năng tự bảo vệ sẽ trổi dậy trong mỗi người. Đối với những tính cách phòng thủ này, chúng ta có thể đưa ra một câu hỏi: Phải làm thế nào để có thể gia tăng hiệu quả của việc tự hiểu mình (self- knowledge) và những sự thay đổi nhận thức cá nhân nào cần phải tiến hành để đạt được điều đó. Ở đây có ít nhất hai câu trả lời. Một là những thông tin tự tìm hiểu mình (self-knowledge) phải là những thông tin có thể xác minh được, có thể đoán trước được và có thể kiểm soát được và do đó nó rất ít đụng chạm đến những điểm nhạy hơn so với những thông tin mà không có những đặc điểm trên. Nếu một cá nhân có thể kiểm soát tính hiệu lực của những thông tin trái ngược nhau, những thông tin là không như mong đợi hoặc ngoài vùng kiểm soát của bản thân mình thì bạn sẽ nhận được những thông tin phản hồi để mà nghe mà chấp nhận. Một câu trả lời thứ hai đối với vấn đề này đó là việc vượt qua những sự trở ngại để tự xem xét lại những thông tin không thật trong vai trò của những người khác. Và hầu như, chúng ta cũng không thể phát triển những kỹ năng này trong việc tự nhận thức trừ khi chúng ta mạnh dạn đối mặt với nó và vạch trần những điều của chính chúng ta trước những người khác. Trừ khi chúng ta sẵn sàng thừa nhận những điều đó trước những người khác, để từ đó có thể thoải mái hơn trong việc thảo luận với những chuyên gia hoặc những người bên cạnh về những điều mà bản thân mình còn mơ hồ hoặc không biết, có như vậy thì chúng ta mới có thể phát triển bản thân được. Việc tự vạch trần (Self-disclosure) bản thân mình được xem là chìa khoá để cải thiện việc tự nhận thức (Self-awareness). Điều cần thiết đầu tiên là bạn cần cởi mở đối với những người khác khi bạn gặp phải những khái niệm có tính mơ hồ. Bạn hãy nghĩ rằng nếu bạn đứng trước gương và thấy rõ mình hơn trong đó nhưng bạn sẽ chẳng nhận thấy được gì cả, nhưng nếu bạn bày tỏ với những người khác thì bạn sẽ nhận được nhiều điều bổ ích hơn thế. Đó là bởi vì cơ bản chúng ta là một con người trong xã hội, một thành viên trong tổ chức, chứ không phải lẻ loi, cô độc một mình ” Nhiều cuộc nghiên cứu đã chứng minh được điều đó. Sinh viên là những người thường bộc bạch những tâm sự, những điều mà họ còn nghi vấn với nhau, để trao dổi với nhau. Những cá nhân có đức tính tự bộc bạch (self-disclosure) là 4
  6. những người có khuynh hướng đến những điều tốt nhất và sẽ nhận được những sự chấp nhận từ những người khác. Tuy nhiên cũng đừng bao giờ sử dụng những thông tin mà bạn chia sẻ hay nhận được để phán quyết hay làm tổn thương, xúc phạm đến những người khác. Chính sự thật lòng của chính bạn sẽ làm cho bạn có được mối quan hệ gắn bó, thân thiết với nhau những người mà bạn có thể chia sẻ với họ, có như vậy việc thổ lộ với nhau sẽ dễ dàng, đây là điều kiện tiên quyết để có thể tự tìm hiểu. III. HIỂU RÕ VÀ CHẤP NHẬN SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CÁC CÁ NHÂN Việc tự hiểu biết về mình sẽ giúp bạn có cơ hội để xem xét lại những giả định mà bạn cho là đúng, những điểm mặc cảm, những điểm nhạy, những điểm mạnh cũng như những điểm yếu của bạn, Những thông tin như vậy nó sẽ rất hữu dụng cho tất cả chúng ta, không phải bởi vì chúng ta có thể hoặc nên thay đổi những thước đo, những cách xác định cơ bản mà đã được hình thành theo cách nhìn nhận của chính chúng ta, mà bởi vì nó giúp chúng ta có thể đưa ra những cách tác động đến những người khác một cách có hiệu quả và sâu sắc hơn. Nó cũng giúp chúng ta có thể hoàn thiện khả năng nhìn nhận diện vấn đề của chúng ta, từ đó đóng góp vào việc xây dựng những giá trị của vai trò nghề nghiệp tương lai của chúng ta và những điểm mạnh đặc biệt của chúng ta so với những người khác. Và lịch sử cũng đã chứng minh được rằng những anh hùng, những danh nhân là những người đã có những sự khác biệt đó và họ đã biết cách sử dụng những điểm mạnh đó để có thể làm nên những điều phi thường, họ thành công vì được cho là uy tín, thông minh và cá tính. Việc tự hiểu biết về mình sẽ cho phép chúng ta nhận ra những điểm đặc biệt và những điểm mạnh trong chúng ta, để từ đó ta có thể lợi dụng nó cùng với những năng lực vốn có của chúng ta. Phán đoán được những điểm khác nhau cơ bản ở những khác nhau được xem là một phần quan trọng để cấu thành nên một nhà quản trị hiệu quả. Sự nhận thức, khuynh hướng đồng cảm, những viễn cảnh khác nhau, nhu cầu và những “độ lệch” của những người khác nhau là khác nhau, đây được xem là một phần quan trọng để có thể nắm bắt được những cảm xúc và tính chân thật giữa các cá nhân với nhau. Tuy nhiên, hầu hết mọi người đều có khuynh hướng tác động lẫn nhau, để từ đó nhận ra những nguời có những sự giống về mặt tâm lí với mình, rồi chọn những người đó cùng làm việc nhóm với mình, còn những người dường như có những sự khác nhau về một vài điểm nào đó thì ta loại trừ họ ra. 5
  7. Mặc dầu chúng ta khuyến khích những sự giống nhau, những sự hợp nhau để chúng ta có thể tác động, giao tiếp với họ một cách dễ dàng hơn, đặc biệt là làm việc nhóm, tuy nhiên để có thể tạo ra những sự sáng tạo, giải quyết được những vấn đề phức tạp thì buộc chúng ta phải chấp nhận sự khác nhau đó, chấp nhận sự thay đổi những ứng xử của chính chúng ta để đi đến những sự thống nhất. Ngoài ra, đây cũng là chìa khoá giúp chúng ta có thể thu thập được những ý kiến và những ý tưởng khác nhau từ những người khác nhau nhờ việc chia sẻ cho nhau những lời cam kết, những ý kiến khác nhau (Differences), chứ không phải là một sự phân biệt (Distinction). Chúng ta quan sát những sự khác nhau, chúng ta tạo ra những sự phân biệt. Những sự khác nhau sẽ giúp chúng ta hiểu rõ được những nguồn nguy cơ của những sự hiểu lầm giữa mọi người và nó sẽ cung cấp cho chúng ta những đầu mối, những cách để chúng ta có thể làm việc với nhau một cách hiệu quả hơn. Sự phân biệt (Distinction) tạo ra một rào cản trong xã hội giữa mọi người với nhau, bên cạnh đó nó cũng đã tạo ra những thuận lợi và những khó khăn cho chúng ta. Khi một vài người không để ý đến những ý kiến của những đồng nghiệp trong nội bộ với lý do là người đó là một không thuộc “thế hệ của chúng ta” hoặc “đó chỉ là người làm Maketing mà thôi” hoặc “chỉ là một người đàn bà” hoặc “Không có trình độ độ đại học”, Như vậy là chúng ta đã đã tạo ra một sự phân biệt, tiềm năng để gây ra những tổn thương cho người khác và đây cũng chính là những điều đã gây nên những bất lợi cho tổ chức Việc tạo ra một sự phân biệt sẽ phá hỏng niềm tin giữa mọi người với nhau, thậm chí sự phân biệt đó sẽ làm cho chúng ta trở nên xa họ hơn. Nếu bạn là người đưa ra một sự phân biệt và xem thường những người khác trong nhóm, đồng nghĩa với việc chúng ta đã gieo một hạt “không có niềm tin”vào trong suy nghĩ của mọi người và họ sẽ nghĩ rằng sự phân biệt của bạn là nhằm hạ thấp họ. Nhận thấy được những sự khác nhau, sự đa dạng nó sẽ mang lại cho chúng ta một giá trị không giống như đưa ra một sự phân biệt. Sự tự nhận thức và có thể hiểu rõ những sự khác nhau không thể xuất hiện nếu như ta không có khả năng để tự đòi hỏi một sự nhìn nhận và đề cao những sự khác nhau đó, không nên tạo ra những sự phân biệt giữa mọi người với nhau, nó sẽ chỉ có hại mà thôi. Sự tự nhận thức và có thể hiểu rõ những sự khác nhau không thể xuất hiện nếu như ta không có khả năng để tự bộc lộ mình, không có một sự chia sẻ, và một niềm tin trong những cuộc trao đổi. Sự tự hiểu mình đòi hỏi một sự nhìn nhận và 6
  8. đề cao những sự khác nhau đó, không nên tạo ra những sự phân biệt giữa mọi người với nhau, nó sẽ chỉ có hại mà thôi. IV. CÁC YẾU TỐ CỐT LÕI CỦA TỰ NHẬN THỨC 1. Giá trị Những giá trị cá nhân, được đề cập đến đầu tiên bởi vì đây là một trong những khía cạnh nhận thức được xem là “cốt yếu nhất trong việc đưa ra những khả năng ứng xử năng động về hành vi, và nó cũng là một phần quan trọng nhất trong việc hình thành nhân cách của mỗi chúng ta”. Giá trị là một đặc điểm vững chắc và lâu dài nhất của mỗi cá nhân. Nó được xem như là nền tảng chính để hình thành nên những quan điểm và những sở thích riêng của mỗi cá nhân. Giá trị là nền tảng của những quyết định cốt yếu, những định hướng sống và sự cảm nhận của mỗi cá nhân. Nhờ nó mà trong bản thân mỗi chúng ta có thể xác định, điều nào là “đúng”, những điều mà đối với chúng ta là những “đạo lí” và những quan niệm của bản thân chúng ta được hình thành đối với thế giới xung quanh. Phần lớn những quan niệm trong bản thân chúng ta được hình thành trong suốt quá trình sống của mỗi chúng ta, là những sản phẩm của những giá trị cơ bản (basic value) trong chính chúng ta. Tuy nhiên, điều đáng lo về giá trị là chúng được xem như là một sự hiển nhiên con người thường không ý thức về chúng. Trừ khi những giá trị của cá nhân được thay đổi, thì những giá trị thường được cố định và duy trì trong một thời gian dài đến nỗi nó rất khó để phát hiện sự hiện diện của nó. Mọi người không nhận thức được rằng họ đang nắm giữ một số giá trị được xem là quan trọng hơn của những người khác. Sự vô ý thức này sẽ đưa chúng ta đến những hành động hoặc hành vi mà đôi khi nó lại trái ngược đối với bản chất về những giá trị, thậm chí nó còn đối lập, phủ nhận những giá trị đó. Cho đến khi mọi người đối mặt với sự mâu thuẩn hoặc thậm chí đó là một sự đe doạ đối với những giá trị cơ bản của họ, thì họ hiếm khi đưa ra những biểu hiện ăn khớp với những giá trị của họ hoặc đưa ra mọt sự sàn lọc chúng. Một vài giá trị của chúng ta là bị ảnh hưởng một cách đáng kể bởi quốc gia và nền văn hoá. a. Giá trị văn hóa Theo nhà nghiên cứu Trompenaars (1996,1998) đã xác định ra 7 thước đo giá trị, được hình thành trên cơ sở những sự khác nhau có ý nghĩ tồn tại giữa các 7
  9. nền văn hoá của các quốc giá. Cuộc nghiên cứu của Ông được tiến hành dựa trên 30000 nhà quản trị thuộc khoảng 55 quốc gia khác nhau, và Ông đã phát hiện ra rằng mỗi nền văn hoá cụ thể sẽ nhấn mạnh và tập trung vào một số giá trị nổi bật nào đó so với những nền văn hoá khác, và không có một nền văn hoá quốc gia nào là chỉ nhấn mạnh đến một loại thước đo giá trị nào đó và loại trừ những thước đo khác. Năm thước đo đầu tiên của mô hình này bàn đến cá nhân quan hệ với người khác như thế nào. Thứ nhất: Sự hiểu biết - Sự tôn thờ Ở một vài quốc gia (Ví dụ như: Mỹ, NaUy, Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ) thường nhấn mạnh đến một loại giá trị đó là “Sự hiểu biết”, và hành vi của những con người nơi đây là bị chi phối bởi những nguyên tắc và tiêu chuẩn của sự hiểu biết (Ví dụ như không nói dối, không gian lận, không vượt đèn đỏ, .). Những nguyên tắc chung của xã hội đóng vai trò chi phối hành vi của mỗi người. Còn đối với những quốc gia khác (như: Hàn Quốc, Trung Quốc, Indonesia, Singapore) sẽ đi theo một loại giá trị của “sự tôn thờ” mà trong đó mối quan hệ cá nhân chi phối hành vi (Ví dụ, xem nguời khác là một người bạn hoặc là một thành viên trong gia đình hoặc có một mối quan hệ ruột rà gì chăng với mình?). Thứ hai: Chủ nghĩa cá nhân – Chủ nghĩa tập thể Giá trị của “Chủ nghĩa cá nhân”- nhấn mạnh đến chính bản thân mình, nhấn mạnh đến sự độc lập và đề cao tính duy nhất. Nó đối lập với chủ nghĩa tập thể- nhấn mạnh đến nhóm, sự kết hợp giữa các đơn vị và sự cùng tham gia của các cá nhân khác. Gía trị của chủ nghĩa cá nhân thường hướng đến việc đề cao sự đóng góp của riêng một cá nhân, nhưng ngược lại đối với văn hoá của chủ nghĩa tập thể thì nó lại nghiêng về việc đề cập đến sự đóng góp của một tập thể. Thứ ba: Biểu lộ cảm xúc nơi công cộng – Trung lập Thước đo giá trị thứ ba nhằm đề cập đến sự biểu lộ cảm xúc nơi công cộng. Nó xác định một khuynh hướng biểu lộ cảm xúc tự nhiên đối lập với khuynh hướng không rõ ràng, trung lập. Những giá trị của nền văn hoá biểu lộ cảm xúc rõ ràng nhấn mạnh đến việc thể hiện những cảm xúc một cách cởi mở và gắn những sự biểu lộ cảm xúc như cười to, giận dữ, và phản ứng mạnh mẽ Những giá trị được quy định bởi nền văn hoá trung lập, thể hiện những cảm xúc không rõ ràng, Họ thường đưa ra những cách tiếp cạn có lý trí và có tính chịu đựng trong những 8
  10. nghịch cảnh khi tiến hành giải quyết vấn đề. Mục tiêu định hướng hành vi của họ hơn là để tình cảm dẫn dắt, định hướng mục tiêu ngự trị trong các mối quan hệ của họ với người khác. Thứ tư: Sự tách biệt – Sự hòa nhập Sự tách biệt đối lập với sự hoà nhập, nhằm mô tả sự khác biệt giữa các nền văn hoá. Một bên là nhằm nói về sự tách biệt giữa những vai trò khác nhau trong cuộc sống để duy trì sự cách biệt và sự tự quyết cho bản thân mình, với một bên là sự hoà nhập và hợp nhất các vai trò lại với nhau. Văn hoá nhấn mạnh đến sự cách biệt, tách rời nhau rõ ràng trong mối quan hệ công việc với mối quan hệ gia đình, ngược lại văn hoá hoà nhập, hợp nhất, lẫn lộn nhau, đặc biệt là sự đan xen lẫn lộn giữa mối quan hệ gia đình với mối quan hệ công việc. Người mà có giá trị của sự tách biệt sẽ rất là khó để trao đổi để biết nhau hơn bởi vì đối với họ luôn có một ranh giới rõ ràng giữa đời sống cá nhân và đời sống công việc. Người mà sống trong nền văn hoá hoà nhập thì dường như là quá sốt sắng và quá hời hợt, thường không kỹ luỡng trong công việc, bởi vì dường như là họ chia sẻ những thông tin cá nhân một cách tự do và vô tội vạ. Văn hoá hoà nhập nó sẽ làm cho tỷ lệ lợi nhuận trong công việc giữa các nhân viên đạt được là thấp hơn, nhưng ngược lại thì lòng trung thành, trung nghĩa, gắn bó dài lâu giữa họ thì lại có một mức độ cao hơn, lý do được đưa ra ở đây, đó là do tình cảm của mối quan hệ cá nhân và mối quan hệ công việc là luôn bện vào nhau. Thứ năm: Khuynh hướng vươn cao – khuynh hướng đổ lỗi Thước đo gía trị thứ năm về sự khác nhau giữa các nền văn hoá, đó là sự nhấn mạnh đến khuynh hướng vươn cao để đạt được và khuynh hướng đổ lỗi, viện cớ do người khác. Tại nền văn hoá của một số quốc gia thì mọi người có khuynh hướng muốn vươn lên để đạt được những địa vị cấp bậc cao, dựa vào sự vận động của chính bản thân, sự hoàn thành nhiệm vụ của chính mình, nhưng ngược lại ở một số nền văn hoá khác thì người ta thường chú trọng nhiều đến thân thế và địa vị uy thế, thì người ta có xu hướng né tránh trách nhiệm, đổ lỗi cho những đặc điểm như tuổi tác, giới tính, dòng họ quý tộc hoặc gia đình quyền quý. “Bạn biết ai?” (văn hoá đổ lỗi, né tránh trách nhiệm, nhờ vả) đối lập với “Bạn có thể làm gì?” (Văn hoá vươn lên bằng khả năng bản thân), Thứ sáu: Hiện tại - tương lai Thước đo giá trị thứ sáu liên quan đến cách làm thế nào mà mọi người thể hiện/hiểu và quản trị thời gian. Nó phân biệt sự nhấn mạnh đến những hoàn cảnh 9
  11. trong quá khứ, hiện tại hoặc trong tương lai ở các nền văn hoá khác nhau. Chẳng hạn, ở một vài nền văn hoá, thì người ta thường chú trọng đến giá trị quá khứ và truyền thống hơn là tương lai; ở những nền văn hóa khác chú trọng đến giá trị tương lai hơn là quá khứ. Bạn đã từng có những vấn đề gì trong quá khứ, trong khi đó ở một vài nền văn hoá khác thì người ta lại thường đặt câu hỏi bạn có thể làm được gì, đi đến đâu trong tương lai. Đồng thời cũng tồn tại một tầm nhận thức cho ngắn hạn và cho dài hạn. Thứ bảy: Kiểm soát bên trong và bên ngoài Một số người thì cho rằng những cá nhân trong việc kiểm soát số phận của mình thì chịu sự kiểm soát của những lực lượng siêu nhiên nào đó ở bên ngoài (kiểm soát bên ngoài). Trong khi nhiều người khác thì nhấn mạnh đến quản trị chính bản thân mình và điều khiển kiểm soát chính mình (kiểm soát bên trong). b. Giá trị cá nhân Rokech (1973) khẳng định rằng con người có một số lượng không lớn các giá trị và tất cả các cá nhân đều có những giá trị như nhau, nhưng ở những mức độ khác nhau, chẳng hạn mọi người đều có giá trị hòa bình nhưng một số người thì cho nó có giá trị ưu tiên cao hơn những người khác. Nói chung theo Rokech có hai loại giá trị và mỗi loại đều có tính độc lập ưu tiên riêng của mình (hai tập hợp giá trị này không liên quan nhau). Một loại là giá trị phương tiện và một loại là giá trị mục tiêu cuối cùng hoặc là định hướng mục tiêu và giá trị phương tiện. Giá trị phương tiện mô tả những tiêu chuẩn mong muốn về tư chất đạo đức hoặc phương pháp để đạt được mục đích. Hai loại của giá trị phương tiện liên quan đến đạo đức và khả năng thực hiện công việc. Những giá trị phi đạo lý (chẳng hạn hành vi sai trái) gây ra cảm giác tội lỗi, trong khi những giá trị thiếu khả năng thực hiện công việc (chẳng hạn hành vi bất tài, không làm được) gây ra cảm giác xấu hỗ. Giá trị mục đích mô tả mục đích hoặc mục tiêu mong muốn cuối cùng của cá nhân. Theo Rokech thì giá trị mục tiêu có ít hơn giá trị phương tiện, cho nên toàn bộ cá nhân trong tất cả các xã hội đều có thể nhận biết được. Giá trị mục đích có thể là chú trọng vào cá nhân hoặc xã hội (chẳng hạn sự bình yên của bản thân hoặc là một thế giới hòa bình). Rokech đã tìm thấy một sự gia tăng về quyền ưu tiên của một xu hướng giá trị cá nhân cao làm gia tăng sự ưu tiên về giá trị cá nhân và giảm ưu tiên của giá trị xã hội. Ngược lại, một sự gia tăng về quyền ưu tiên của xu hướng xã hội cao làm gia tăng sự ưu tiên của những giá trị xã hội và làm giảm 10
  12. giá trị của những giá trị cá nhân. Những cá nhân mà gia tăng sự ưu tiên của họ về một thế giới hòa bình cũng sẽ gia tăng sự ưu tiên của họ về sự công bằng trong khi đó sẽ làm giảm sự ưu tiên của họ về niềm vui thích của mình hoặc lòng tự trọng. Con người có xu hướng khác nhau trong đánh giá, họ tự nhận thức chống lại khuynh hướng của người khác về những giá trị của mình. Bảng 2 đưa ra 18 giá trị mục đích “những giá trị quan trọng nhất trong xã hội Hoa Kỳ” Những giá trị mục đích và phương tiện NHỮNG GIÁ TRỊ MỤC ĐÍCH NHỮNG GIÁ TRỊ PHƯƠNG TIỆN Một cuộc sống tiện nghi (thịnh vượng) Tham vọng (làm việc chăm chỉ, khao khát) Một cuộc sống thú vị (hành động, hào Cao thượng (có tư tưởng rộng rãi) hứng) Một ý thức về sự hoàn thành nhiệm vụ Khả năng (năng lực, hiệu quả) (sự đóng góp lâu dài) Một thế giới hòa bình (không chiến Đấu tranh tranh và xung đột) Một thế giới xinh đẹp (sự xinh đẹp của Sạch sẽ (gọn gàng, ngăn nắp) thiên nhiên và nghệ thuật) Công bằng (tình huynh đệ, cơ hội công Can đảm (đứng lên vì lòng tin của bằng cho tất cả mọi người) mình) Một gia đình an toàn (tình yêu đối với Khoan dung (sẵn sàng tha thứ cho người khác) người khác) Tự do (độc lập, tự do lựa chọn) Giúp đỡ (làm việc vì hạnh phúc của người khác) Hạnh phúc (sự thỏa mãn) Trung thực (chân thành, thật thà) Cân đối bên trong (thoát khỏi những Giàu trí tưởng tượng (táo bạo, sáng xung đột bên trong) tạo) Một tình yêu thật sự (cả về tinh thần và Độc lập (tự tin và có đủ khả năng) thể xác) An ninh quốc gia (bảo vệ không bị tấn Trí tuệ (thông minh, biết suy nghĩ) công) 11
  13. Ước mơ (một cuộc sống thú vị và ung Logical/hợp lý (kiên định, có lý trí) dung) Sự cứu tế (cuộc sống cứu giúp, thường Đằm thắm (sự trìu mến, tế nhị) xuyên) Tự trọng (tự hào) Biết vâng lời (ý thức chấp hành nhiệm vụ, kính trọng) Sự thừa nhận của xã hội (sự kính trọng, Lịch sự (nhã nhặn, lịch thiệp) sự khâm phục) Tình bạn chân thành (tình bạn thân thiết) Trách nhiệm (đáng tin cậy, có thể tin được) Sự thông thái (một sự hiểu biết đầy đủ Tự kiểm soát (kiềm chế được, tự chịu về cuộc sống) kỷ luật) Trong một nghiên cứu 567 nhà quản trị ở 12 quốc gia, những nhà quản trị có lòng tự hào cao nhất về những giá trị phương tiện như khoáng đạt (có tư tưởng rộng rãi), năng lực, và can đảm, nhưng ý nghĩa là khác nhau ở các quốc gia khác nhau. Trong một nghiên cứu 1460 nhà quản trị Hoa Kỳ, Schmidt và Posner đã xác định những loại giá trị quan trọng nhất ở nơi làm việc. Sử dụng những giá trị phương tiện mà Rokeach đã đưa ra trong bảng 2, để nhận diện những giá trị mong muốn nhất của các nhà quản trị ở nơi làm việc là trách nhiệm và trung thực/chân thành được xác định là quan trọng nhất (hơn 85% nhà quản trị đã lựa chọn chúng), sau đó 65% là năng lực và 55% là giàu trí tưởng tượng, logic là 49%. Ý thức chấp hành nhiệm vụ, sạch sẽ, lịch sự, và lòng khoan dung là ít quan trọng - chỉ chiếm 10%. Các nhóm khác nhau có xu hướng nắm giữ những giá trị khác nhau. Chẳng hạn, trong một nghiên cứu khác, những sinh viên và các giáo sư ở các trường kinh doanh có xu hướng cao về tham vọng, năng lực, trách nhiệm và tự do hơn so với những nhóm khác. Họ có xu hướng ít coi trọng việc quan tâm và giúp đỡ người khác, khiếu thẩm mỹ và những giá trị văn hóa, và chinh phục sự không công bằng xã hội. Trong một nghiên cứu khác đã so sánh những nhà quản trị thành công cao, bình thường và thất bại, những nhà quản trị thành công cao đã có điểm số cao hơn về giá trị kinh tế (như là cuộc sống tiện nghi) và chính trị (như là sự thừa nhận của xã hội) so với những nhà quản trị kém thành công. 12
  14. Một so sánh chung trong công chúng, về căn bản những nhà quản trị đã sắp xếp giá trị hơn về ý thức hoàn thành nhiệm vụ, lòng tự trọng, một cuộc sống tiện nghi, và độc lập. Giá trị phương tiện mà những nhà quản trị nắm giữ cao nhất trong bản thân họ là tham vọng. Giá trị mục đích cuối cùng cao nhất mà họ sở hữu là ý thức hoàn thành nhiệm vụ. Những giá trị cá nhân (giá trị cá nhân chứ không phải là giá trị xã hội) đối với các nhà quản trị định hướng sự thành đạt là trội hơn hẳn. Nói chung trong công chúng, một nghiên cứu đã xác định rằng sự chân thành – một sự phối hợp nhấn mạnh khả năng về lòng khoan dung, giàu trí tưởng tượng, tự do và tự điều khiển mình đối lập với sự nhấn mạnh về sự chấp nhận, sự vâng lời, và sự tuân thủ là giá trị ngự trị trong số đông chúng ta. Không có sự khác nhau về giới tính đã được xác định trong nghiên cứu của Rokech (1995). Trình bày những giá trị này có thể giải thích tại sao những sinh viên kinh doanh và thậm chí tự thân các nhà quản trị đã phê phán bản thân mình trở nên quá tập trung vào bản thân và không kiên nhẫn về sự thành đạt cá nhân và sự tiến bộ. Một sự cân bằng về những giá trị cá nhân và giá trị xã hội, cũng như sự công bằng và giúp đỡ có thể là những đặc điểm thích hợp hơn cho nhà quản trị trong tương lai. Những giá trị định hướng cá nhân và thành tích không có nghĩa đảm bảo trở thành những nhà quản trị thành công. Tuy nhiên, rõ ràng rằng những giá trị gây ảnh hưởng đến hành vi cá nhân, cũng như khả năng tương hợp về những giá trị phương tiện và mục đích được nghiên cứu khẳng định là có mối quan hệ mật thiết với hiệu quả làm việc nhóm. Một số tác giả đã tranh cãi rằng hành vi được thể hiện bởi cá nhân là sản phẩm về mức độ trưởng thành về những giá trị của họ. Các cá nhân khác nhau về mức độ phát triển giá trị của họ, vì thế các cá nhân nắm giữ những giá trị phương tiện khác nhau ở những giai đoạn phát triển khác nhau. Con người tiến bộ từ mức độ trưởng thành này đến mức độ trưởng thành khác, vì thế thứ tự ưu tiên các giá trị cũng sẽ thay đổi. Những cá nhân tiến bộ về mức độ trưởng thành hơn về sự phát triển giá trị sở hữu những giá trị phương tiện chất lượng cao hơn những cá nhân ở mức độ trưởng thành thấp. Lý thuyết trưởng thành về những giá trị (values maurity) hoặc phát triển đạo đức, phẩm hạnh được các nhà nghiên cứu chấp nhận và một nghiên cứu đã xác định có quan hệ mật thiết với sự tự nhận thức và hiệu quả quản trị. Vì vậy chúng ta nên bàn bạc một vài chi tiết về vấn đề trưởng thành về những giá trị. Trưởng thành về những giá trị 13
  15. Mô hình của Kohlberg được biết đến và được vận dụng phổ biến trong các nghiên cứu trưởng thành về giá trị. Nó tập trung vào các lý lẽ được sử dụng để đưa ra kết luận về một vấn đề là những ý nghĩa giá trị hoặc đạo đức. Mô hình gồm ba mức độ chủ yếu, trong mỗi mức độ có hai giai đoạn. Bảng 3, tóm tắt những đặc điểm của mỗi giai đoạn. Các giai đoạn là một dãy liên tục tức là một cá nhân không thể tiến đến giai đoạn ba mà không qua giai đoạn hai, và mỗi giai đoạn giới thiệu một mức độ cao hơn của sự trưởng thành. Kohlberg sử dụng các thuật ngữ Preconventional, Thường/theo tục lệ (Conventional), và Postconventional. Bảng 3: Phân loại các giai đoạn phát triển của đạo đức Mức độ căn bản về vấn đề đạo đức Giai đoạn phát triển A. Mức độ tập trung vào bản 1. Sự trừng phạt và tuân thủ thân Điều đúng được xác định bởi tránh được sự Giá trị đạo đức tập trung vào trừng phạt hoặc không phá bỏ những quy tắc những nhân tố bên ngoài, và quyền lực. hậu quả, không liên quan đến 2. Mục tiêu phương tiện cá nhân và sự con người và các mối quan hệ. trao đổi Điều đúng thỏa mãn ngay lập tức những lợi ích của bản thân, và điều gì là công bằng và không thiên vị đối với người khác B. Mức độ tuân thủ 3. Những kỳ vọng trưởng thành cá nhân, Giá trị đạo đức tập trung vào các mối quan hệ và sự tuân theo trách nhiệm, bổn phận, duy trì Điều đúng được tập trung vào cảm nhận của một sự liên kết xã hội và đảm người khác và duy trì sự trung thực bằng bảo các cam kết những kỳ vọng và những cam kết. Những quy tắc xử sự đúng mực là thích đáng. 4. Hệ thống xã hội và gìn giữ lương tâm Điều đúng là thực hiện trách nhiệm xã hội và ủng hộ quy tắc thứ bậc xã hội C. Giá trị được nguyên tắc hóa 5. Sự hợp lý ưu tiên và cam kết xã hội hoặc tính thiết thực 14
  16. Điều đúng ủng hộ sự hợp lẽ phải, những giá trị, và cam kết với người khác trong xã hội, hành vi đạo đức là sự lựa chọn một cách tự do 6. Những nguyên tắc đạo đức chung Điều đúng được dẫn dắt bởi những nguyên tắc đạo đức chung và bên trong. Khi pháp luật vi phạm những nguyên tắc này, pháp luật bị lờ đi, không để ý đến. Ra quyết định đạo đức và giá trị Lợi ích của việc tự hiểu mình và sự nhận thức là rất quan trọng để giúp bạn có thể trưởng thành hơn trong việc nâng cao khả năng đưa ra các quyết định có tính đạo đức cao dựa trên những giá trị của chính bạn. Hầu hết các cá nhân quản lý đều bị một sức ép nặng nề trong việc dàn xếp một sự thoả hiệp giữa các tiêu chuẩn của cá nhân với mục tiêu của công ty, bởi rất là khó để có được cả hai. Tồn tại một sự mâu thuẫn về giá trị mà các nhà quản trị buộc phải đối mặt nhiều lần. Đó là một sự mâu thuẫn giữa một bên là cực đại hoá lợi nhuận cho tổ chức (ví dụ: doanh thu, chi phí, lợi nhuận, ), với một bên là sự tuân thủ các nguyên tắc của xã hội, của tổ chức (Ví dụ: Trách nhiệm đối với người lao động, công nhân, nhà cung cấp, ). Biện pháp tốt nhất để tiến hành thực hiện được cả hai mục đích đó là cần đi đến một sự thoả hiệp có tính đạo đức giữa hai điều này: mục tiêu kinh tế đối lập với mục tiêu xã hội. Để đưa ra những quyết định loại này một cách có hiệu quả, không phải chỉ đơn thuần là chúng ta chọn một trong hai, giữa đúng và sai, giữa tốt và xấu. Những cá nhân có thể đưa ra những loại quyết định quản trị loại này hiệu quả, đó là bởi vì họ là những người có được một ý thức trong sạch, rõ ràng đối với những giá trị của mình và họ là những người có thể phát triển một nguyên tắc đạo đức đúng đắn và thành thục. Họ có một sự phát biểu rõ ràng và dễ hiểu về bản chất của chính họ, họ sở hữu những giá trị như: sự hiểu biết, sự nhận thức, sự lĩnh hội, và có một sự kiên định về những nguyên tắc mà chúng ta có thể tìm thấy nó thể hiện rõ ở trong những quyết định của họ. Hiếm khi 15
  17. gặp trường hợp mà lúc nào nhà quản trị cũng đưa ra những quyết định mà luôn nghiêng về mục tiêu kinh tế, và cũng chẳng có trường hợp mà lúc nào nhà quản trị cũng nhất nhất là chọn mục tiêu xã hội. Một sự thoả hiệp giữa hai mục tiêu là không thể tránh được. Không phải là một vấn đề đơn giản để một cá nhân có thể thể hiện được một sự hiểu biết, sự nhận thức, sự lĩnh hội, và có một sự kiên định về những nguyên tắc, những điều được xem là có thể cung cấp cho chúng ta một sự hướng dẫn để đưa ra những quyết định hiệu quả. Theo kết quả của cuộc nghiên cứu của Kohlberg, thì hầu hết chúng ta thường không đi theo một cấu trúc rõ ràng, không để ý dến những nguyên tắc phát triển trong việc ra quyết định. Thứ nhất, đó là do chúng ta không được cung cấp một mô thức hay những ví dụ điển hình về những nguyên tắc ra quyết định đó. Chúng tôi sẽ cung cấp cho các bạn một số tiêu chuẩn để các bạn có thể kiểm tra và thiết lập lại những nguyên tắc bên trong các bạn, những nguyên tắc dành cho việc đưa ra những sự lựa chọn có tính đạo đức và thuộc những những giá trị luân thường đạo lý. Những tiêu chuẩn sau đây là không phải là một sự lĩnh hội và cũng không phải là tuyệt đối chính xác và cũng càng không phải chúng là tồn tại độc lập với những cái khác. Chúng đơn giản chỉ là một sự tham khảo lại, hệ thống lại những nguyên tắc bên trong các bạn đang sở hữu, nó bao gồm những trạng thái của cá nhân bạn. 1. Kiểm tra tình huống phải đối diện: Tôi có cảm thấy bối rối nếu quyết định của tôi trở thành một dòng tiêu đề trên tờ báo địa phương không? Tôi có cảm thấy thoải mái để mô tả những hoạt động hay những quyết định của tôi đối với khách hàng hoặc một cổ đông hay không? 2. Kiểm tra những nguyên tắc vàng: Tôi có cảm thấy sẵn sàng để được ứng xử trong những cách cư xử giống nhau? 3. Kiểm tra chân giá trị và sự được phép: Những chân giá trị và sự được phép của những người khác có được gìn giữ bởi những quyết định này không? 4. Kiểm tra cách đối xử công bằng 5. Kiểm tra những lợi ích cá nhân. 6. Kiểm tra sự thích hợp 16
  18. 7. Kiểm tra các thủ tục công lý 8. Đánh giá chi phí và lợi nhuận 9. Kiểm tra giấc ngủ buổi tối Trong phần cách tiếp cận kỹ năng trong chương này, bạn có thể xem xét những sự lựa chọn việc hệ thống lại những sự hiểu biết, sự nhận thức, sự lĩnh hội, và có một sự kiên định về những nguyên tắc. Bạn cũng nên có một sự nhận thức, tuy nhiên những nguyên tắc cá nhân sẽ cũng bị ảnh hưởng bởi những khuynh hướng của bạn cho việc đạt được và phản hồi lại những thông tin mà bạn nhận được. Khuynh hướng này gọi là phong cách học. 2. Phong cách học (Learning style) Đôi khi chúng ta thường đưa ra sự trình bày với một sự nhấn mạnh quá mức đến số lượng của thông tin, nhưng nếu chúng ta nhìn nhận lại thì thực ra chỉ có một số điểm là đáng để chú ý và chúng ta chỉ cần tốn một khoảng thời gian nhỏ cho việc xem xét nó. Bây giờ bạn có một số thông tin để đăng nhập vào trong đầu bạn, có liên quan đến những chức năng trong cơ thể bạn hoặc có liên quan đến những đặc trưng ở chỗ bạn đang ngồi trong căn phòng của bạn hoặc những từ trên trang giấy này hoặc những ý tưởng, những kỷ niệm hiện lên trong tâm trí của bạn khi bạn đọc về sự nhận thức, những lòng tin có ảnh huởng lâu dài và sự thu thập lại những sự kiện gần đây. Không phải tất cả những thông tin này đều được nhận ra một cách rõ ràng, mặt khác tâm trí của bạn thỉnh thoảng sẽ trở nên quá tải đối với thông tin và bạn sẽ trở nên điên cuồng, mệt mỏi với sự quá tải đó. Vì vậy, tất cả ai trong chúng ta đều mong muốn sẽ bỏ qua một số loại thông tin không cần thiết và dành tâm trí cho một số loại thông tin khác cần thiết hơn. Những chiến lược trở thành những thói quen ăn sâu vào những hành vi của chúng ta, đó cũng chính là mục tiêu mà phần phong cách học sẽ hướng đến. Phong cách học nhằm ám chỉ đến những định hướng của mỗi nguời chúng ta trong việc lĩnh hội, làm sáng tỏ và đáp lại những thông tin một cách chắc chắn. Phong cách học về cơ bản dựa trên hai loại thước đo chính sau: (1) Cách mà bạn thu thập thông tin, (2) Cách mà bạn đánh giá và sử dụng những thông tin cần thiết. Một sự đa dạng về những giá trị phương tiện tồn tại để đo lường những khía cạnh khác nhau của nhận thức và phong cách học, nhưng cái mà chúng ta tập trung làm sáng tỏ ở đây đó là những thước đo cơ bản nhất của phong cách học. Bây giờ 17
  19. chúng ta sẽ tiếp cận những công cụ đánh giá được sử dụng rộng rãi nhất để có thể xác định rõ được phong cách học. Những công cụ đánh giá này đã được sử dụng trong hơn 500 cuộc nghiên cứu về hành vi trong hoạt động quản trị và tinh thần lãnh đạo. Và qua đó, nó cũng đã được chứng minh như là một công cụ dự báo thông minh khi nghiên cứu về phong cách học và những loại tiến trình thông tin. Một trong những lý do chính của việc tập trung nghiên cứu đối với phong cách học, đó là để chúng ta có thể có được một sự thành công hơn, và mỗi người cần phải có một sự kiên định trong việc học. Rõ ràng rằng sự hiểu biết và có nhiều kiến thức được coi là quan trọng nhất để duy trì những lợi thế cạnh tranh. Bởi vì, sau khoảng 3 năm thì ½ kiến thức của bạn sẽ trở nên bị lỗi thời, đồng thời số lượng kiến thức mới có thể sẽ tăng lên gần gấp đôi so với số lượng kiến thức sẵn có của một người bình thường, do đó việc học được coi như là một điều kiện tiên quyết để có thể có được một cuộc sống hữu ích. Nếu mọi người ngừng học, họ sẽ nhanh chóng trở nên lỗi thời và mất những kỹ năng cá biệt. Việc không ngừng học được xem như là một chìa khoá thành công trong cuộc sống, thêm vào đó, nó sẽ giúp chúng ta thành công hơn trong những hoạt động quản trị. Bạn cần hoàn thành phần “những công cụ về phong cách học” (Learning Style Instrument - LSI) ở mục đánh giá trong chương này. Và để có thể thấy rõ được những điều ẩn chứa đằng sau những điểm số mà bạn đã đạt được, chúng tôi nghĩ bạn sẽ rất muốn biết một vài điều bên trong của lý thuyết về phong cách học và vòng tròn của việc học. Thuyết này được phát triển và chắt lọc bởi David Kolb cùng với một số đồng nghiệp của ông ta tại Viện Case Western Reserve. Nó cũng thừa nhận rằng khi những cá nhân phải đối mặt với những thông tin, thì họ thường có khuynh hướng chỉ tập trung và cố học vào những điều mà họ cảm thấy là rõ ràng hơn là việc để ý đến những cái khác. Thêm vào đó, các cá nhân cũng thường có khuynh hướng tiếp nhận những thông tin bằng nhiều cách khác khi mà họ cố gắng để hiểu và làm sáng tỏ nó. Hình 3 minh họa hai khía cạnh chính của phong cách học: đó là khía cạnh về việc thu thập thông tin, cái mà chỉ ra sự phân biệt những kinh nghiệm cụ thể (concrete experience: CE) từ những lý thuyết, khái niệm trừu tượng (abstract conceptualization: AC); và khía cạnh về việc phản hồi những thông tin, cái mà phân biệt sự quan sát có suy nghĩ (reflective observation: RO) với những hành động thực tiễn (active experimentation: AE). 18
  20. Hình 3: Mô hình phong cách học Kinh nghiệm cụ thể (CE) ngh Quan sát có suy n (AE) ễ c ti ự Đánh giá thông tin tin p Thông ậ ng th ng ĩ (RO) độ Thu th Hành Trừu tượng, khái quát (AC) Đầu tiên chúng ta hãy xem xét khía cạnh thu thập thông tin. Nhiều người có khuynh hướng thiên về việc nắm bắt thông tin trực tiếp thông qua những kinh nghiệm thực tế mà họ gặp phải (CE). Họ học từ những điều mà họ gặp phải, mà điều đó là xác thực, rõ ràng, hữu hình, hiển nhiên. Đối với họ, chất lượng của nguồn thông tin được thể hiện ở những điểm mà họ có thể thấy được và có thể cảm nhận được rõ ràng, vì thế họ có xu hướng đắm mình trong những hoàn cảnh để học tập chúng. Chúng ta sẽ mô tả những cá nhân mà có khuynh hướng nghiêng về việc học dựa vào những kinh nghiệm cụ thể. Họ học tốt nhất thông qua kinh nghiệm và tình trạng tâm trí bị thu hút vào. Một vài người có khuynh hướng nắm bắt những thông tin tốt nhất khi những thông tin đó có các đặc tính như sự trừu tượng, hình tượng hay những giả thiết. Họ cho rằng việc học của họ có hiệu quả nhất khi họ có cơ hội đọc được những ý tưởng, những thuyết, rồi sau đó có cơ hội để suy nghĩ và phân tích về chúng một cách có hệ thống, có logic. Họ thích tiếp thu những thông tin mà họ xem là đã được kiểm tra sự hợp lý của nó một cách cẩn thận. Chúng ta sẽ khảo sát những đặc trưng của những cá nhân thuộc khuynh hướng này, khuynh hướng thiên về những lý thuyết và khái niệm trừu tượng (AC). Đối với những người có khuynh hướng học từ những kinh nghiệm thực tế trong cuộc sống thì chủ yếu họ sẽ tác động, va chạm đến những người khác để từ đó có thể thu thập được thông tin, nhưng ngược lại đối với những người học dựa trên những khái niệm lý thuyết trừu tượng, thì họ có được những thông tin là từ những cuốn sách. Chúng ta sẽ nghiên cứu thước đo thứ hai của mô hình phong cách học. Đây là thước đo nhằm hướng đến những chiến lược trong việc diễn giải, đánh giá và 19
  21. đáp lại đối với những thông tin thu thập được. Những khác biệt trong hai loại khía cạnh này được thể hiện rõ nét thông qua những mẫu để giải quyết những vấn đề đặc biệt. Ví dụ sau khi thông tin được phát ra, thì có một vài người nghiêng về việc đặt nó trong những hoàn cảnh khác, để ngẫm nghĩ lại về nó và để thăm dò những nghĩa khác nhau mà có thể trình bày về nó. Họ là những người nghiêng về quan sát và xem xét kỹ lưỡng thông tin hay nói cách khác là để cam kết đối với sự quan sát có suy nghĩ (RO). Việc đưa ra những sự phán xét hấp tấp là điều tối kỵ đối với những người đi theo khuynh hướng này, một sự cân nhắc kỹ lưỡng và có suy nghĩ đối với những thông tin nhận được là những đặc trưng tiêu biểu cho những cá nhân này. Mặt khác, một số người thì lại có khuynh hướng đưa ra những hành động một cách nhanh chóng trước những thông tin mà họ nhận được. Họ đáp lại những thông tin đó bằng những hành động như trở thành là những người tiên phong thực hiện, thử nghiệm những thông tin mới hoặc đưa ra lại một vấn đề hay tình huống có liên quan liền sau đó. Họ thử nghiệm lại để khám phá ra những ẩn ý và những điều có ích, có liên quan đến thông tin. Bằng những việc tác động lên nó, họ có thể khám phá ra nhiều giả thuyết về nó. Và chúng ta sẽ mô tả về đặc điểm của những người có khuynh hướng thiên về những hành động thực tiễn (AE). Mỗi định hướng hay khuynh hướng đại diện cho một sự lựa chọn cụ thể. Ví dụ, hầu như không thể để làm cùng một lúc hai công việc: lái một chiếc xe hơi (kinh nghiệm cụ thể) trong khi lại muốn phân tích những đặc điểm của một chiếc và lực mômen quay của chiếc nó (những lý thuyết, khái niệm trừu tượng-AC). Và theo như kết quả của một cuộc nghiên cứu về những thước đo có liên quan đến sự nhận thức thì người ta đã không tìm ra được một mối quan hệ nào đối với những loại vấn đề mà họ gặp phải đối với từng loại người. Tuy nhiên, họ cũng đã nhận ra được rằng hầu hết những cá nhân thường sử dụng loại phong cách học xuất phát từ sự nhìn nhận của họ về tính hữu dụng của mỗi loại để tiếp cận vấn đề. Họ thích và thậm chí tìm kiếm những mẫu quyết định đối với những loại tình huống, loại vấn đề được xem là thích hợp với phong cách học của họ (ví dụ như, đối với những cá nhân có mức điểm cao về các mặt AC và AE thì họ thường thích những vấn đề được giải quyết một cách trình tự theo từng bước). Trong một cuộc nghiên cứu khác thì người ta cho ra một kết quả như sau: các nhà quản trị là những người 20
  22. thường đạt những điểm số cao ở RO và AC (phần phía dưới bên phải của Hình 3) hơn là AE và CE (phần phía trên bên trái Hình 3) thì lại muốn bổ sung thêm việc dựa vào những hệ thống cơ sở máy tính và những thủ tục hợp lý trước khi đưa ra những quyết định. Ở những cuộc nghiên cứu khác, các nhà quản trị lại tiến hành định nghĩa những vấn đề khác nhau phụ thuộc vào những phong cách học của họ (Ví dụ như một vài suy nghĩ đối với một vấn đề là đòi hỏi cần phải đáp lại bằng những hành động, trong khi một số người khác thì lại nghĩ rằng vấn đề đó đòi hỏi cần phải có một sự phân tích thấu đáo). Ở những cuộc nghiên cứu khác thì người ta tìm ra được sự khác nhau giữa các phong cách học, để từ đó mỗi loại phong cách học sẽ quy định những quy trình ra quyết định khác nhau trong hoạt động quản trị. Hình 4 là giản đồ điểm số phong cách học, cung cấp cho chúng ta một tập hồ sơ điểm số trên đó và đó chính là những điểm số mà bạn có thể đạt được từ LSI (công cụ đánh giá phong cách học). Trong hình này, hãy tìm mức điểm trên cột dọc trục CE tương xứng với điểm số của bạn. Làm tương tự cho điểm số về RO, AC và AE của bạn. Bằng việc đặt những điểm số trên mỗi trục của giản đồ trên Hình 4 và nối những điểm này lại với nhau, bạn sẽ có được một số hình “có dạng hình cánh diều". Thông qua những hình này sẽ làm cho các bạn thấy được phong cách học của mình. Kết quả sẽ được so sánh với hành vi của khoảng 1500 nhà quản lý và những sinh viên tốt nghiệp ở những trường kinh tế quản trị. Nếu điểm số của bạn ở trục CE là trên 31, tức bạn đã đạt cao hơn 80% của những nhà quản trị và những sinh viên đã tốt nghiệp. Nếu điểm số của bạn dưới 19 ở thước đo CE, tức là bạn chỉ đạt dưới 20% của những nhà quản trị này và sinh viên tốt nghiệp. 21
  23. KINH NGHIỆM THỰC TẾ (CE) 31 100% QUAN SÁT CÓ SUY NGH SÁT QUAN 27 80% ) AE ( 24 60% EN EN Ĩ 40% C T 20% Ự 19 42 38 34 29 24 28 31 35 NG TH NG 22 Ĩ ( RO ĐỘ ) HÁNH 29 31 36 KHÁI QUÁT, TRỪU TƯỢNG (AC) Hình 4: Giản đồ điểm số phong cách học 22
  24. Bây giờ hãy sử dụng số điểm bạn đạt được để biểu diễn lên Hình 4, bạn sẽ nhận thấy được bạn có thể nhận thấy được tính cách của bạn và kể cả khuynh hướng về phong cách học của bạn. Và bạn sẽ thấy có 4 góc cung phần tư của vòng tròn trong hình 4 được tạo ra, và vùng phần tư nào lớn nhất sẽ thể hiện phong cách học nổi trội nhất của bạn, chúng ta sẽ xét vùng phần tư nổi trội đó. Trong một cuộc nghiên cứu với thời gian lên đến 30 năm đã xác định được 4 nhóm loại chính của những nguời học, đó là: Sự bất đồng , Sự đồng hoá, Sự đồng quy, và Sự cung cấp của Phong cách học. Sự bất đồng (diverging): Phong cách học bất đồng được thể hiện ở những cá nhân có điểm số ở thước đo về mặt kinh nghiệm thực tế (CE) và sự quan sát có suy nghĩ (RO). Những người có phong cách học này là những người có khả năng rất tốt trong việc đưa ra nhiều khía cạnh, quan điểm, cách nhìn khác nhau khi gặp một tình huống trong thực tế. Phong cách học này mang tên là sự bất đồng bởi vì những cá nhân này thực hiện rất tốt trong những tình huống đòi hỏi những ý tưởng tổng quát và sự sáng tạo trong việc đưa ra những khả năng lựa chọn cách giải quyết. Đó là những nhóm người có những đặc trưng tiêu biểu như: óc sáng tạo, có tài phát minh trong các hoạt động cần sự giải quyết đối với những vấn đề được đặt trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Những người này thường thích tiếp nhận nhiều thông tin và thường xuyên phải đối mặt với sự động não (Brainstorming). Họ thích suy nghĩ và họ quan tâm đến nhiều thứ và mở rộng tầm hiểu biết về nó. Trong một cuộc nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người trong nhóm này thường có óc tưởng tượng và có cảm xúc rất mạnh, vì vậy họ thiên về nghệ thuật và thích làm việc với nhóm. Sự đồng hoá (assimilating): Những người thuộc phong cách học đồng hoá là những người đạt được số điểm ưu thế đối với thước đo về sự quan sát có suy nghĩ (RO) và sự nhận thức trừu tượng (AC). Những người có phong cách học này thường là những người có khả năng rất tốt trong việc xử lý những thông tin có một phạm vi khá rộng, lộn xộn thành những ý nhỏ ngắn gọn, súc tích, có tính logic cao. Họ hiếm khi có khuynh hướng để đạt được những thông tin bởi việc tiếp xúc từ những người khác và ngược lại họ rất hứng thú khi được suy nghĩ những ý tưởng mơ hồ và mang đậm chất lý thuyết. Họ là những người có những đặc tính nổi trội như: có những lý luận súc tích, quy nạp và có khả năng thiết lập và sắp 23
  25. xếp những tài liệu vào trong một bố cục phù hợp. Đối với họ,rất là quan trọng để có được một lý thuyết với một sự logic hoàn hảo hơn là những giá trị thực tế, thiết thực. Một cuộc nghiên cứu đã đã chứng minh được rằng những người đồng hoá là những người có khuynh hướng đến những nghề nghiệp có sự tiếp cận thông tin và mang tính khoa học, và họ thích để nghiên cứu giảng dạy, thích đọc sách, và thích phân tích trong hoạt động của họ. Sự hội tụ (converging): Đối với những người có phong cách học hội tụ là những người có một sự nổi trội về điểm số đối với những thước đo của cung phần tư về sự nhận thức trừu tượng (AC) và những hoạt động thực tiễn (AE). Những người có phong cách học này thường có khả năng rất tốt trong việc tìm ra cách áp dụng những ý tưởng và những lý thuyết suông thành những bài tập thực hành có ích. Họ được xem là những người chuyên về giải quyết những vấn đề và làm ra những quyết định, họ quan tâm đến những công việc kỹ thuật và những công việc liên quan đến việc xử lý vấn đề hơn là những công việc đồi hỏi tính xã hội cao hoặc có tính tương tác với những cá nhân khác. Họ là những người nổi trội trong việc đưa ra những cách tiếp cận thực tế có tính chính xác cao của những ý tưởng và những lý thuyết suông. Kết quả của một cuộc nghiên cứu đã cho thấy rằng những người có phong cách học này thường là những người rất thành công và có những định hướng nghề nghiệp của bản thân về những ngành kỹ thuật và kỹ sư. Sự dễ dãi, xuề xoà (accommodating): Những người có phong cách học dễ dãi là những người đạt được những điểm số cao đối với những thước đo về hoạt động thực tiễn (AE) và kinh nghiệm thực tế (CE). Những người sở hữu phong cách học này là những người có khả năng rất tốt trong việc phát huy những kinh nghiệm thực hành của họ. Họ thích tiến hành thực hiện những kế hoạch mang tính sáng tạo và thách thức đối với ho, và những kế hoạch đó đòi hỏi có một sự vận dụng những kinh nghiệm mà họ có được để mà thành công. Họ là những người thiên về sự cảm nhận và sự phán đoán, hơn là dựa vào những sự phân tích hợp lý và họ rất thích cộng tác làm việc với những người khác để tiến hành giải quyết vấn đề hơn là phải đưa ra những lời bình luận về vấn đề đó một cách có hệ thống. Họ phù hợp với những hoạt động đòi hỏi sự mạo hiểm và sự chính xác, ví dụ như khởi sự kinh doanh. Một cuộc nghiên cứu đã phát hiện ra rằng những người thuộc nhóm này thường có khuynh hướng nghề nghiệp ở những lĩnh vực như Marketing, 24
  26. quản trị doanh nghiệp và những công việc liên quan đến sự chỉ đạo. Ở những tình huống được đặt ra trong phần phong cách học thì họ rất thích để được thảo luận với những người khác để hoàn thành bài đánh giá của mình, để đạt được những mục tiêu mà mình đã đặt ra, để có thể đúc kết cho riêng mình một sự đa dạng về những cách tiếp cận trước một vấn đề cụ thể nào đó. Những yếu tố quan trọng khác ở mô hình phong cách học của Kolb sẽ giải thích cách làm thế nào mà chúng ta có thể sử dụng được mỗi thước đo trong quá trình cải thiện việc học của mình. Bốn loại chính của phong cách học được thể hiện một cách rõ ràng ở vòng tròn trong Hình 5 (Hình 5 mô tả cách làm thế nào để thành công hơn trong việc học). Một cuộc nghiên cứu cũng đã chứng minh được rằng nếu các bạn biết áp dụng một cách trình tự theo các bước được trình bày trong Hình 5 thì hiệu quả của việc học của các bạn sẽ được cải thiện một cách rõ rệt, kiến thức sẽ được các bạn tiếp thu dễ dàng hơn và nó sẽ được lưu giữ lại trong một khoảng thời gian lâu hơn, và các kỹ năng của bạn cũng ngày càng được nâng cao hơn. Và chi tiết các bước thực hiện như đã trình bày trong Hình 5. 25
  27. BƯỚC 1: KINH NGHIỆM THỰC TẾ (CE) EN B Ĩ ƯỚ C T 2 UNSTC SUY NGH SÁT CÓ C2: QUAN Ự NG TH ĐỘ C 4: HÁNH Ớ Ư B Ĩ ( RO ) BƯỚC 3: KHÁI QUÁT, TRỪU TƯỢNG (AC) Hình 5: Vòng tròn của việc học 26
  28. Bước 1: Kinh nghiệm thực tế (CE) _ Học nhờ vào những kinh nghiệm +Học từ những kinh nghiệm đặc biệt +Quan hệ với mọi người +Nhạy cảm trong việc cảm nhận và tiếp xúc với những người khác Bước 2: Sự quan sát có suy nghĩ (RO) _ Học nhờ vào sự suy nghĩ +Quan sát thật cẩn thận trước khi đưa ra những sự phán xét +Xem xét vấn đề từ những khía cạnh và hoàn cảnh khác nhau +Hãy cố gắng suy nghĩ về ý nghĩa của mọi thứ Bước 3: Nhận thức trừu tượng _ Học nhờ vào sự suy nghĩ +Phân tích những ý yưởng một cách hợp lý +Tìm ra được những lý thuyết mới và tạo ra những sự liên kết đối với những lý thuyết đó Bước 4: Kinh nghiệm hành động (AE) _ Học nhờ vào sự thực hành +Hãy cố gắng đưa ra tất cả những khả năng có thể khi gặp một vấn đề nào đó +Hãy đề cập đến những nguy cơ có thể đe doạ chúng ta +Tác động đến mọi người xung quanh và những vấn đề bằng những hành động Khi một người có được một kinh nghiệm nào đó (Bước 1, CE), việc học sẽ kém hiệu quả trừ khi một vài loại sự quan sát có suy nghĩ sẽ được bổ sung thêm vào đó (Bước 2, RO). Việc thu thập một số thông tin và làm sáng tỏ những ý nghĩa của nó được xem là một bước quan trọng trong việc học từ kinh nghiệm. Bước này được xem là bước được hình thành từ lý thuyết về thông tin, điều này có nghĩa là chúng ta cần tạo ra một sự tương tự nào đó để kết nối giữa nó với những kinh nghiệm khác, từ đó chúng ta có thể rút lại để đưa ra một sự kết luận về những sự liên quan và tính hữu dụng của những kinh nghiệm đó (Bước 3, AC). Một sự khái quát thành những kinh nghiệm đặc biệt cho phép bạn có thể áp dụng đối với mọi tình huống hơn là chỉ đưa ra cách giải quyết chỉ dành cho một trường hợp riêng cụ thể nào đó mà thôi. Cuối cùng, hãy kiểm tra lại một lần nữa những điều kết luận mà bạn đã rút ra được, khái quát những lý thuyết dài dòng đó và hãy hệ thống lại 27
  29. một cách rõ ràng chính xác những điều đó, như vậy thì nó sẽ giúp bạn có thể sử dụng những điều đó dễ dàng hơn và thành công hơn (Bước 4, AE). Khi chúng ta tiến hành việc học ở những tình huống mới, nói một cách khác, điều đó sẽ dẫn đến những những kinh nghiệm thực tế khác (Bước 1), và vòng tròn nó sẽ lại được bắt đầu lại. Một người có thể vận hành vòng tròn việc học ở bất kỳ những điểm nào, dĩ nhiên không phải chỉ bắt đầu từ bước CE. Tuy nhiên các bạn cũng nên luôn nhớ rằng điểm đó phải là một trong 4 bước chính của quá trình học, có như vậy thì mới đảm bảo việc học của bạn đạt hiệu quả cao. 3. Thái độ đối với sự thay đổi (Attitudes toward changce) Để lợi dụng một cách triệt để những điểm mạnh phong cách học của bạn, bạn cũng nên có một sự nhận thức về những định hướng có xu hướng thay đổi. Trong một môi trường luôn thay đổi theo những chiều hướng khác nhau như hỗn loạn hơn, mang tính ngắn hạn, phức tạp hơn thì có thể làm cho các nhà quản trị điều hành trở nên bị lúng túng hơn, bị động hơn và quá tải về thông tin, trong khi đó khả năng của bạn trong việc thu thập và xử lý thông tin chỉ ở một chừng mực nào đó mà thôi, vả lại khả năng đó lại bị thúc ép bởi sự thay đổi của một số quan điểm thay đổi. Đây cũng chính là lý do mà bạn cần có một sự nhận thức về những sự thay đổi này. Hầu hết không có một ai phản đối sự gia tăng những thay đổi xảy ra trong tương lai, nó không chỉ làm thay đổi trình tự của những bước đi mà cả ở những mục tiêu và phạm vi. Thách thức đối với các sinh viên và các nhà quản trị ở những năm đầu thế kỷ 21 đó là rất khó khăn để đưa ra những dự đoán về những thay đổi trên thế giới mà chỉ dựa vào những kinh nghiệm quá khứ. Theo nhà kinh tế học Peter Ducker (Cha đẻ của những quan điểm quản trị hiện đại), cứ khoảng từ 200 đến 300 năm thì những điều kiện này sẽ bị thay đổi đi, và sự thay đổi này có tính thường xuyên hơn. Và như chúng ta đã thấy những mốc sự kiện thay đổi lớn trong lịch sử thế giới của chúng ta đó là sự ra đời của Thời kỳ Phục Hưng và sự bắt đầu của cuộc đại Cách mạng công nghiệp. Thế giới thay đổi một cách đột ngột và không thể dễ dàng dự đoán trước được những điều gì. Những “khuôn mẫu (công thức)” ở quá khứ không thể sử dụng để dự đoán những những khuynh hướng biến đổi của tương lai thế giới. Những sự thay đổi ngoài sức tưởng tượng của chúng ta xuất hiện một cách thường xuyên. Tương tự như vậy, bằng cấp của các trường dạy 28
  30. về kinh tế, quản trị, thương mại, sẽ phải đối mặt với những sự thay đổi về môi trường, về những điều kiện, từ đó dẫn đến nguy cơ của sự đánh mất giá trị của những bằng cấp đó, điều này đồng nghĩa với việc những người đã có kinh nghiệm về dự đoán trước đây trở nên lỗi thời. Một nửa số lượng kiến thức trong mỗi chúng ta có thể bị thay đổi với một tốc độ không thể tin nổi. Thậm chí những kiến thức chuyên môn được chúng ta tiếp thu trong cả một quá trình có thể sẽ thay đổi chỉ trong vòng một năm mà thôi. (Hãy đánh giá mức độ hiện đại của cái máy tính mà bạn đang sử dụng, bất kể thời gian bạn mua nó là gần đây hay trước đây). Chúng ta sẽ thấy điều này rõ hơn khi chúng ta so sánh nó với những điều kiện cách đây 10 năm, ví dụ như, đối với một người sử dụng máy tính sẽ trở nên lỗi thời nếu họ không biết rằng sự “khắc axit trong các phân tử” của những năm trước đây thì nay đã được thay thế bằng một thuyết mới đó là “sự khắc axit trong chất silicon”. Nhờ sự phát hiện ra thuyết này mà hiện nay người ta có thể sản xuất ra một loại chíp máy tính có kích thước rất nhỏ, có thể bằng cái đầu của một cây bút chì để cắm sâu vào trong cơ thể của con người, để từ đó có thể điều khiển tốc độ máu lưu thông và nhịp đập của con tim, hoặc có thể đặt loại chip đó vào trong cái mắt kiếng và nó sẽ hiện lên trước mắt ta tên của mỗi người mà ta gặp trên đường phố. a. Khả năng chịu đựng sự mơ hồ (tolerance of ambiguity) Thước đo quan trọng đầu tiên đó chính là khả năng chịu đựng sự mơ hồ, nó chỉ ra mức độ giới hạn để những cá nhân bị đe doạ ảnh hưởng hoặc có một sự khó khăn khi phải đối mặt với những tình huống có tính mơ hồ. Tính mơ hồ ở đây được định nghĩa như là một sự thay đổi xuất hiện một cách liên tục hoặc có tính không thể dự đoán được, những thông tin có tính mơ hồ tức là những thông tin có những đặc điểm như không tương xứng, không đầy đủ và không rõ ràng hoặc tồn tại một sự phức tạp, rắc rối xung quanh những thông tin đó. Nó tạo ra một môi trường giàu các tác nhân kích thích và sự quá tải thông tin. Khi gặp những trường hợp đó, người ta bất chấp ý nghĩ sẽ giải quyết thông tin dựa trên sự hiểu biết và kinh nghiệm, từ đó những năng khiếu của họ cũng bị quên lãng đi trong việc đưa ra cách giải quyết đối với một số trường hợp và tình huống. Và đối với mỗi người thì nó tồn tại một phạm vi chịu đựng khác nhau, một phạm vi ngăn cách giữa những sự suy nghĩ cẩn thận với một sự phán xét một cách 29
  31. vô thức. Đó cũng chính là một phạm vi để họ có thể đương đầu với với những tình huống có tính mơ hồ, không đầy đủ, không theo một cấu trúc nào cả và có tính linh hoạt (tính hai mặt). Những cá nhân có khả năng chịu đựng một sự mơ hồ cao cũng chính là những người có khuynh hướng nhận thức phức tạp. Họ là những người có khuynh hướng nhận ra được nhiều điểm mấu chốt của thông tin để từ đó họ có thể khai thác được nhiều thông tin hơn, tìm ra được nhiều đầu mối hơn, cũng như có được một đầu óc minh mẫn hơn những người có ít khả năng nhận thức phức tạp. Trong một cuộc nghiên cứu gần đây người ta đã chứng minh được rằng những người có khả năng nhận thức phức tạp là những người có được một sự lưu truyền và xử lý thông tin trong đầu óc họ một cách sâu sắc và nhanh nhạy hơn những người khác, từ đó làm hiệu quả công việc của họ được nâng cao hơn, họ đưa ra những hành vi hợp lý hơn và mềm dẻo hơn khi đối mặt với những điều kiện có tính mơ hồ và quá tải so với những người khác. Hầu hết các nhà quản trị đạt được điểm số cao về khả năng chịu đựng sự mơ hồ là những người đạt được những thành công trong hoạt động quản trị của mình, họ có khả năng sàng lọc những thông tin trong những môi trường phức tạp, họ cũng có thể là những người có khả năng nhận ra những nét đặc trưng của những nghề nghiệp của họ để từ đó họ có thể hướng đến những nhiệm vụ có tính linh hoạt hơn. Bên cạnh đó là những người đạt được hiệu quả cao cũng như những sự thành công khi đối mặt với những sự thay đổi trong tổ chức, sự căng thẳng cũng như những cuộc xung đột trong công việc. Trong một môi trường có quá nhiều thông tin, khả năng chịu đựng và sự nhận thức phức tạp là càng thích hợp hơn với những trường hợp có những đặc điểm khá trái ngược nhau. Trong phần Đánh giá kỹ năng, hoàn thành Mục đánh giá mức độ khả năng chịu đựng sự mơ hồ sẽ đánh giá phạm vi mức độ về khả năng chịu đựng của các bạn. Mục này đưa ra những loại tình huống phức tạp khác nhau để các bạn đưa ra những sự chọn lựa. Và những điều ẩn chứa đằng sau những điểm số của Mục đánh giá này được thể hiện ở Phụ lục 1, nó bao gồm có 3 khoảng điểm khác nhau được phân ra để đánh giá. Khoảng điểm thứ nhất có tên gọi là Sự mới mẻ (Novelty), đây là mức độ nhằm thể hiện rằng bạn là người có khả năng chịu đựng, có khả năng tiếp nhận và có mức độ nhận thức trước những cái mới, những thông tin không bình thường và những tình huống xa lạ của bạn là khá cao, sự tư duy logic của bạn là cao. Khoảng điểm thứ hai có tên gọi là Sự phức tạp (Complex), với mức độ này 30
  32. làm cho các bạn thấy rõ được phạm vi chịu đựng của bạn là khá cao khi đối mặt với những vấn đề và thông tin rời rạc, phức tạp, đặc biệt. Khoảng điểm thứ ba có tên gọi là Sự không giải quyết được (Insolubility), đây là mức độ thấp nhất trong ba mức độ, qua đó nó nhằm chỉ ra sự khó khăn trong việc giải quyết vấn đề mơ hồ bởi vì có nhiều giải pháp được đưa ra để chọn lựa là có tính không hợp lý, những thông tin được đưa ra để giải thích là không rõ ràng hoặc có khi những phần trong cùng một vấn đề là rời rạc và chưa có một sự gắn kết giữa chúng. Những người có khả năng chịu đựng càng cao thì họ chính là những người có khả năng thành công nhiều hơn ở hoạt động quản trị của mình trong một môi trường mà thông tin thì quá tải và có tính mơ hồ. Họ là những người ít bị chi phối bởi những tình huống và trường hợp mơ hồ. Mức độ về sự nhận thức phức tạp và khả năng chịu đựng sự mơ hồ hoàn toàn không có mối liên hệ gì với sự hiểu biết thông minh của bạn cả, điều có nghĩa là điểm số của bạn đạt được ở Phần đánh giá về Khả năng chịu đựng sự mơ hồ là không nói lên được gì về chỉ số thông minh của bạn cả. Mọi người đều có thể luyện tập để nâng cao khả năng chịu đựng sự mơ hồ và nâng cao tính mềm dẻo của chính mình trong quá trình tiếp nhận và xử lý thông tin. Bước đầu tiên đó là bạn cần xác định xem bạn đang ở mức độ nào trong phần Đánh giá Kỹ năng. Tiếp theo, các bạn cần hoàn thành Phần đánh giá về Kỹ năng Phân tích và Kỹ năng thực hành trong chương này, chúng được trình bày song song với những bài thảo luận chúng ta, và cuối cùng chúng tôi sẽ cung cấp cho các bạn những cách để rèn luyện khả năng chịu đựng sự mơ hồ và mức độ nhận thức phức tạp của mình. Nó cũng rất là thú vị và cần thiết để lưu ý đến sự tương quan tồn tại giữa khả năng chịu đựng sự mơ hồ và thước đo thứ 2 của những khuynh hướng thay đổi sẽ được thảo luận tiếp theo đó là nơi kiểm soát. b. Nơi kiểm soát (Locus of control) Thước đo thứ hai trong những khuynh hướng thay đổi đó là nơi tiến hành sự kiểm soát (Locus of Control). Nó là một trong những chủ đề được xem là quan trọng và đáng quan tâm nhất trong Phần những khuynh hướng thay đổi. Qua chủ đề này sẽ chỉ ra cho chúng ta thấy rõ những quan điểm của mọi người trong việc phát triển cách đánh giá về phạm vi, mức độ kiểm soát và làm chủ số phận ở mỗi chúng ta. Khi một cá nhân nhận được những thông tin kết quả về sự thành công 31
  33. hay thất bại của những hoạt động mà họ thực hiện hoặc khi mà một vài thứ bị thay đổi trong môi trường xung quanh họ, và tuỳ theo quan điểm mỗi người sẽ đưa ra những lời giải thích khác nhau cho những kết quả và những sự thay đổi đó. Phần lớn họ sẽ đưa ra những lời biện hộ cho những kết quả đó để bênh vực cho mình, bên cạnh sự thừa nhận còn có cả những lời phủ nhận đối với những kết quả đó, họ cố gắng để thay đổi chúng. Nếu những cá nhân có khuynh hướng đưa ra những lời giải thích về những kết quả họ đạt được hôm nay là phụ thuộc vào những hành động ngày hôm qua, thì gọi đó là những người có khuynh hướng kiểm soát bên trong (“Chính tôi là nguyên nhân quyết định đến sự thành công hay thất bại của mọi sự thay đổi”). Còn nếu những cá nhân đưa ra những lời giải thích hàm ý sự phụ thuộc vào những thế lực bên ngoài, thì được gọi là những người có khuynh hướng kiểm soát bên ngoài (“Thành công hay thất bại còn phải tuỳ thuộc vào ý trời”). Bên cạnh đó, người ta cũng đang dần hình thành cho mình một “sự trông chờ có tính chung chung” trong nhận thức của mình về những thế lực có thể ủng hộ, khuyến khích và bênh vực họ. Họ trở nên chờ đợi vào sự kiểm soát bên ngoài và ngay cả bên trong khi môi trường thay đổi. Kết quả điều tra ở một số cuộc nghiên cứu về các hoạt động của nhà quản trị cũng đã chỉ ra rằng những cá nhân có khuynh hướng nhận thức sự kiểm soát bên trong thường là những người ít bị chi phối bởi những yếu tố bên ngoài của môi trường, họ cảm thấy thoải mái đối với công việc hiện tại của mình, họ ít bị căng thẳng bởi công việc và là những con người năng động ở mọi vị trí công việc hơn so với những người có khuynh hướng nhận thức sự kiểm soát bên ngoài. Ở kết quả của một cuộc nghiên cứu khác về tinh thần lãnh đạo và thành tích trong hoạt động quản trị thì các nhà nghiên cứu đã chứng minh được rằng những người có xu huớng nhận thức kiểm soát bên trong thường là những người thích hợp với vai trò là người lãnh đạo, họ là những người đạt được nhiều thành công và hiệu quả hơn trong công việc so với những người có khuynh hướng nhận thức về sự kiểm soát bên ngoài. Những người có xu huớng nhận thức kiểm soát bên trong thường là những người thực hiện tốt hơn những người khác trong những tình huống gây ra căng thẳng (Stressful Situation), ngay cả trong những hoạt động quản trị, ngoài ra họ thường là những người rất lanh lợi trong và đạt được sự thành công cao hơn trong công tác quản trị so với những người có nhận thức sự kiểm soát bên ngoài. Sự khác nhau giữa hai nhóm khuynh hướng này cũng thể hiện ở uy tín và quyền 32
  34. lực trong lúc thực hiện công việc. Những nhà lãnh đạo có khuynh hướng nhận thức bên ngoài thường có khuynh hướng điều hành dựa vào quyền lực và những lời đe doạ, ngược lại những nhà lãnh đạo có khuynh hướng nhận thức bên trong thường dựa nhiều hơn vào sự tin tưởng và sự thành thạo chuyên môn, đối với họ đó chính là nguồn gốc để tạo ra quyền lực của nhà quản trị. Và một kết luận cuối cùng, đó là những người có khuynh hướng nhận thức bên trong thường là những người thích hợp hơn với công việc của một nhà lãnh đạo. Trên đây là các kết quả được rút ra từ nhiều cuộc nghiên cứu tiêu biểu của một số tác giả mà chúng tôi muốn trình bày cho các bạn. Một cuộc nghiên cứu về khuynh huớng nhận thức sự kiểm soát đã được điều tra đối với các nhà quản trị cấp cao đã chứng minh được rằng hầu hết các công ty đều sử dụng sự lãnh đạo với khuynh hướng nhận thức bên trong trong hoạt động kinh doanh của mình, và các công ty lãnh đạo theo khuynh hướng này thường thành công hơn đối với những công ty lãnh đạo theo khuynh hướng khác về những sự đổi mới, trong những dự án mạo hiểm, những vị trí dẫn dầu thị trường, những kế hoạch chiến lược dài hạn, sự nắm bắt nhanh chóng những sự thay đổi của môi trường xung quanh và là những hãng đi đầu trong việc sở hữu những kỹ thuật công nghệ hiện đại. Đối với văn hoá Mỹ, thì người ta quan niệm rằng: những người đi theo khuynh hướng nhận thức bên ngoài thường là những người hay gặp trở ngại, trắc trở trong cuộc sống. Một cuộc nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng khuynh hướng nhận thức bên trong là hoàn toàn không phải là một “loại thuốc diệu kỳ” có thể chữa được tất cả các “bệnh” trong hoạt động quản trị. Và nó cũng chẳng phải là một điều tượng trưng hoàn toàn cho tính tính cực, tính hiệu quả. Và các cá nhân với khuynh hướng nhận thức kiểm soát bên ngoài thường thích hợp cho những nhà quản trị trong giai đoạn đầu trước khi họ trở thành những nhà quản trị thực sự (vì đây là giai đoạn đòi hỏi sự tiếp thu những nhiệm vụ của một nhà quản trị thực sự). Những người có khuynh hướng nhận thức bên ngoài là những người có khả năng tiếp thu và học hỏi tốt hơn những người khác, họ có khả năng tiếp nhận một cách chính xác những thông tin phản hồi về những sự thành công và thất bại của chính mình. Những người có khuynh hướng nhận thức bên trong thường là những người rất khó khăn 33
  35. để đi đến những quyết định nhanh chóng đối với những vấn đề có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng đến những người khác. Nhận thức về nơi kiểm soát (bên trong hoặc bên ngoài) sẽ giúp chúng ta có thể nhận biết được những mặt mạnh và mặt yếu ở mỗi chúng ta, cụ thể hơn, khuynh hướng nhận thức sự kiểm soát nếu ta đặt đúng chỗ ở từng tình huống cụ thể sẽ giúp đỡ chúng ta rất nhiều trong công việc, và các bạn cũng hãy nhớ một điều rằng khuynh huớng kiểm soát bên ngoài không phải là một khuynh hướng xấu, và nó cũng không thể là nguyên nhân để ngăn cản các bạn trở thành một nhà lãnh đạo ở những vị trí cao trong tổ chức của mình. Bởi vậy, chẳng có vấn đề gì phải lo lắng cả về điểm số bạn đã đạt được trong bài đánh giá về khuynh hướng kiểm soát bên trong - bên ngoài của bạn. Bạn hoàn toàn có thể trở thành một nhà quản trị thành đạt, có thể lựa chọn cho riêng mình khuynh huớng kiểm soát bên trong hay bên ngoài. Chúng ta sẽ thành công khi chúng ta biết làm chủ và kiểm soát được mọi thứ dù ở trong hoàn cảnh nào thuộc bất cứ nền văn hoá nào đi nữa Phần đánh giá Nơi kiểm soát (bên trong hoặc bên ngoài) của Mục đánh giá Kỹ năng sẽ giúp các bạn có được một mức điểm số cụ thể, từ đó chúng ta sẽ nhận ra được một phạm vi kiểm soát bên trong - bên ngoài của chính bản thân mình. Tóm lại, Sự kết hợp giữa hai điểm chính của những quan điểm có khuynh hướng thay đổi là: Khả năng chịu đựng sự mơ hồ (Tolerance Of Ambiguity) và Nhận thức về sự kiểm soát (Locus of Control) sẽ tạo ra những sự thành công trong việc của những nhà quản trị nếu họ có một cái nhìn nhận đúng về nó. Biết rõ được điểm số mà bạn đạt được ở Phần đánh giá của hai mục này sẽ giúp bạn biết cách để phát huy những điểm mạnh của chính mình để tạo ra những sự thành công tiềm năng bên trong của các bạn. Trong khi đó, kết quả ở một số cuộc nghiên cứu quan trong khác lại chỉ ra rằng sự kết hợp giữa những hành vi quản trị cụ thể cùng với sự nhận thức về khuynh hướng kiểm soát và khả năng chịu đựng sự mơ hồ sẽ không đảm bảo cho sự thành công của những nhà quản trị, cũng như đảm bảo cho họ có thể giải quyết tốt được những vấn đề mà các nhà quản trị gặp phải. Hiểu rõ được những điểm số bạn đạt được, bạn có thể chọn lựa những cách giải quyết những vấn đề, những tình huống mà bạn cảm thấy thoải mái, đạt được kết quả thực hiện cao, sẽ hiểu được những quan điểm, cách nhìn nhận của bạn đối những 34
  36. tình huống khác nhau. Việc tự nhận thức là điều kiện tiên quyết để bạn có thể tự cải thiện và làm mới nhận thức của bản thân mình. 4. Định hướng giao tiếp giữa các cá nhân (Interpersonal orientation) Khía cạnh thứ tư của việc tự nhận thức đó là những định hướng giữa các cá nhân với nhau. Đối với khía cạnh này, nó khác với ba khía cạnh trước đó là nó có mối quan hệ trực tiếp đến những khuynh huớng hành vi và đến những mối quan hệ với những người khác, tuy nhiên nó lại không có mối liên hệ gì đến những khuynh hướng và những thuộc tính tâm lý của mỗi người. Bởi vì công việc của một nhà quản trị được xem là điển hình tiêu biểu cho những mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau, những định hướng giữa các cá nhân với nhau, hoặc là những định hướng về hành vi cư xử đối với những người xung quanh, và đây cũng chính là những thuộc tính điển hình quan trọng của tự nhận thức. Những nhà quản lý là những người bắt buộc phải giao tiếp, tiếp xúc với những người khác, và tính cách của họ mà không tích cực hướng đến những hành động ứng xử với những người khác thật dễ gây sự thất bại trong hoạt động của mình. Hiệu quả và những loại của hoạt động giao tiếp có thể biến đổi trong một phạm vi khá lớn, không thể lường trước được. Do đó, thật rất quan trọng cho bạn để nắm rõ những xu hướng giao tiếp và những khuynh hướng để cực đại hoá đến mức có thể sự thành công trong giao tiếp. Sự định hướng giao tiếp giữa các cá nhân không phản ánh những mẫu hành vi có thực trên thực tế được trình bày ở những tình huống giữa cá nhân. Đúng hơn, nó cũng chỉ ra những khuynh hướng cơ bản để đưa ra những hành vi cụ thể trong những tình huống cụ thể, bất chấp sự tác động của những người nào hoặc hoàn cảnh nào. Nói chung, sự định hướng giao tiếp giữa các cá nhân với nhau được kích thích xuất hiện xuất phát từ nhu cầu cơ bản của của mỗi cá nhân để tạo mối quan hệ với những người khác. Một thuyết khá nổi tiếng đã được nghiên cứu bởi Schutz, một giả định cơ bản trong mô hình của ông đó là “mọi người luôn cần nhau” (People need people) và tất cả các cá nhân đều cố gắng tìm kiếm cho mình những mối quan hệ tương thích với những cá nhân khác trong những hoạt động giao tiếp xã hội. Và khi họ tạo dựng được những mối quan hệ đó và cố gắng phấn đấu giữ vững sự tương thích đó, từ đó, 3 nhu cầu giao tiếp giữa các cá nhân sẽ phải được thoả mãn nếu như mỗi 35
  37. cá nhân đều cố gắng thực hiện nó một cách hiệu quả và tránh những mối quan hệ không tương thích. Đầu tiên đó là nhu cầu cho sự kết hợp. Mọi người đều rất cần duy trì một mối quan hệ với ngưòi khác, để được bao gồm những hoạt động của chính mình, và để bao gồm họ trong những hoạt động của những người khác. Ở một mức độ nào đó, tất các cá nhân đều muốn mình trở thành một thành viên trong một nhóm nào đó, muốn kiểm soát, hướng dẫn mọi người khác và cũng cần bảo đảm rằng những người khác không lãng quên họ, trong khi đó họ cũng lại muốn để mình được tự do. Ở đây, có một sự tồn tại gắn kết ngẫu nhiên giữa hai khuynh hướng: đó là sự hướng ngoại và sự hướng nội. Giữa các cá nhân có một sự khác nhau về những điểm mạnh về nhu cầu quan hệ của họ đó là: (1) nhu cầu để gắn kết mọi người lại với nhau (2) nhu cầu để được gắn kết với những người khác Nhu cầu thứ hai, đó là nhu cầu cho sự kiểm soát: Đây là nhu cầu để duy trì một sự cân đối thoả đáng về quyền lực và uy thế trong các mối quan hệ. Tất cả các cá nhân rất cần để nắm giữ được một mức độ kiểm soát nào đó, một sự chỉ huy, một sự điều khiển những ngưòi khác trong khi đó họ cũng mong muốn mình được độc lập (không bị ai kiểm soát). Tất cả mọi người cũng đều có nhu cầu để được kiểm soát, được chỉ huy, được điều khiển bởi những người khác, nhưng đồng thời họ lại muốn để duy trì mọt sự tự do làm theo ý mình. Về cơ bản thì đây là một sự kết hợp giữa sự phụ thuộc và sự tự do. Sự khác nhau giữa các cá nhân xuất hiện, do đó, nhu cầu để được kiểm soát bởi những người khác hoặc muốn kiểm soát. Nhu cầu thứ ba đó là nhu cầu về sự ảnh hưởng: Hoặc nhu cầu về sự thiết lập một mối quan hệ thân thiết với những nguời khác. Nhu cầu này bao gồm những thuộc tính như: sự nhiệt tình, sự quen thân, và có một sự đồng thuận từng phần nhỏ của hành vi của nhau. Tất cả các cá nhân đều mong muốn để xây dựng một mối quan hệ thân thiết với người khác, nhưng đồng thời họ lại rất muốn để tránh trở nên tận tâm quá mức hay chặt chẽ quá mức. Tất cả mọi người đều muốn để có một người nào đó cùng sẻ chia tâm sự với mình, luôn thể hiện sự nhiệt tình, ủng hộ với mình và có một sự ảnh hưởng nhất định đến mình nhưng đồng thời họ lại cũng cần để duy trì một vài khoảng cách nhất định nào đó. Đây là một sự kết hợp giữa nhu cầu sáp nhập cao với nhu cầu độc lập cao. Do đó mọi người thường 36
  38. có nhu cầu khác nhau: đó là muốn thể hiện khuynh hướng ảnh huởng đến những người khác và muốn để những ngưòi khác ảnh hưởng đến mình. Như vậy, mỗi loại nhu cầu nêu trên đều được thể hiện ở hai mặt, một mặt được thiết kế để thể hiện nhu cầu và một mặt được thiết kế để thể hiện việc nhận được những hành vi tác động lại từ những người khác. Qua 3 loại thước đo về nhu cầu sẽ xác định khuynh huớng giao tiếp của mỗi cá nhân. Và mỗi cá nhân sẽ tạo cho mình một sự khác biệt về mức độ nhu cầu giao tiếp với những ngưòi khác, trong việc đưa ra hoặc nhận được những hành vi khi sự tương tác với những người khác được diễn ra. Trong phần Đánh giá kỹ năng, chúng tôi cũng đã cung cấp cho các bạn mô hình của Schutz để đánh giá mức độ về nhu cầu kết hợp, nhu cầu kiểm soát và nhu cầu ảnh hưởng. Khi hoàn thành mục đánh giá này hãy sử dụng bảng điểm và những lời chỉ dẫn tại Phần Phụ lục 1, nhớ là phải tính tổng điểm số của bạn cho từng mục về nhu cầu giao tiếp giữa các cá nhân. Và bài thảo luận về những định huớng giao tiếp giữa các cá nhân với nhau trong phần này sẽ rất bổ ích cho bạn nếu như bạn đã hoàn thành được bảng điều tra FIRO-B (Fundamental Interpersonal Relations Orientation – Behavior) trong Phần đánh giá kỹ năng. Sau đây là một số cách cần sử dụng để phân tích và làm sáng tỏ về điểm số mà bạn đạt được. Bạn có thể so sánh những điểm số về sự thể hiện (Expressed) với điểm số về sự đòi hỏi (Wanted) để xác định cho bạn một phạm vi cụ thể, và nằm trong vòng phạm vi đó bạn có thể chủ động đưa ra những hành vi mà mình mong muốn. Những người có được một mức điểm số cao về sự biểu lộ và một mức điểm số khá thấp về sự đòi hỏi thì được gọi là những người có khả năng kiểm soát bởi vì họ có thể đưa ra những hành động nhưng lại không sẵn sàng chấp nhận việc được phản hồi lại. Và ngược lại những người có một số điểm khá cao về sự đòi hỏi và có một điểm số khá thấp về sự thể hiện thì họ được gọi là những người bị động bởi vì những cá nhân này là những người rất mong muốn để nhận được những lời phản hồi nhưng lại không sẵn sàng để chủ động khởi xướng hay lôi kéo những người khác tham gia vào một cuộc giao tiếp. Nhờ việc so sánh những điểm số của từng nhu cầu, bạn có thể xác định nhu cầu nào trong giao tiếp là cần thiết nhất cho bạn. Trong các điểm số bạn đạt được 37
  39. ở 3 loại nhu cầu thì nhu cầu mà có điểm số cao nhất chính là loại nhu cầu thích hợp và đặc trưng nhất của chính bạn. Ngoài ra còn có một số cách khác để làm sáng tỏ điểm số của bạn, đó là các bạn hãy lấy số điểm mà bạn có được để so sánh với những mức điểm được trình bày trong Bảng 4. Chúng ta sẽ thấy các khoảng điểm trong mỗi ô (Ví dụ như là 4- 7) nhằm chỉ ra một khoảng phạm vi điểm trung bình. Ít nhất 50% trong chúng ta nằm trong phạm vi này. Còn những con số nằm ở hàng dưới những khoảng điểm này (Ví dụ như là 5.4) chính là những mức điểm trung bình của mỗi khoảng phạm vi này. Giả dụ như điểm số bạn đạt được là 6 thuộc ô nhu cầu về sự kiểm soát được thể hiện (Expressed control cell), tức ở nhu cầu này, bạn đã đạt được một số điểm cao hơn 75% những người khác. Nhưng nếu số điểm bạn đạt được chỉ là 2 ở ô nhu cầu về sự ảnh hưởng được thể hiện (Expressed affection cell), tức bạn chỉ đạt được một số điểm thấp hơn 75% những người khác. Biểu 4: Đỉểm số trung bình FIRO-B Kết hợp Kiểm soát Ảnh hưởng Tổng điểm số Thể hiện với 4 – 7 2 – 5 5 – 6 9 – 18 người khác 5.4 3.9 4.1 13.4 (expressed) Mong muốn 5 – 8 3 – 6 3 – 6 11 – 20 từ người khác 6.5 4.6 4.6 15.9 (wanted) Tổng điểm số 9 – 15 5 – 11 6 – 12 20 – 38 11.9 8.5 8.9 29.3 Và mức điểm nằm ở hàng dưới tính từ phải qua (được tính bằng cách lấy tổng số điểm ở Mục thể hiện (Expressed) và Mục đòi hỏi (Wanted)) được gọi là những chỉ số nhu cầu giao tiếp. Những mức điểm này nhằm mô tả tất cả các mức độ nhu cầu tương tác. Và mức điểm cao nhất đó là 54. Những người đạt số điểm cao là những người có những nhu cầu rất mạnh mẽ trong việc tương tác với những người khác. Họ là những người có những đặc trưng như thích giao du, thân thiện, 38
  40. cởi mở và thích kết bạn với những người khác. Ngược lại, những người đạt mức điểm thấp là những người có tính nhút nhát và kín đáo. Và kết quả của một số cuộc nghiên cứu đã cho thấy rằng những sinh viên kinh tế là những người có một sự khác biệt to lớn ở chỉ số giao tiếp xã hội, chỉ số này ở mức cao hay thấp còn tuỳ thuộc vào những ngành nghề lĩnh vực chính mà họ đang theo đuổi. Sinh viên ngành Kế toán và ngành Phân tích Hệ thống có chỉ số trung bình lần lượt là 22.3 và 22.6 (thấp hơn mức trung bình). Sinh viên ngành Marketing và ngành Quản trị nguồn nhân lực có chỉ số trung bình lần lượt là 31.0 và 31.9 (Cao hơn mức trung bình). Trong khi đó, sinh viên ngành Tài chính, Quản trị kinh doanh và ngành kỹ thuật là những người có chỉ số ở mức trung bình. Tồn tại sự khác nhau này là do có sự khác nhau về những khuynh hướng tương tác với những người khác và yêu cầu đặc tính riêng biệt ở mỗi ngành nghề là khác nhau, những yếu tố này phần nào sẽ quyết định sự thành công trong những ngành nghề mà họ theo đuổi. Lợi ích của những điểm số này là phục vụ cho việc phân tích tính tương hợp giữa các cá nhân với nhau - Sự tương xứng giữa điểm của một cá nhân nào đó với những điểm số của những người khác. Và có thể có những cá nhân thuộc dạng xung khắc với những ngưòi khác, người ta có thể chia sự xung khắc đó ra làm ba dạng khác nhau cơ bản. Để giải thích 3 dạng xung khắc khác nhau, hai giả thuyết được sử dụng trong bảng 5. Sau đây, chúng tôi sẽ nói rõ hơn về 3 dạng xung khắc mà chúng ta thường hay gặp nhất. Bảng 5: Ví dụ 2 trường hợp điểm số FIRO-B Quản trị viên Kết hợp Kiểm soát Ảnh hưởng Tổng điểm số Thể hiện với 9 9 1 19 người khác (E) Mong muốn từ 8 4 5 15 người khác (W) Tổng điểm số 17 13 4 34 39
  41. Nhân viên Thể hiện với 3 8 6 17 người khác (E) Mong muốn từ 2 2 8 12 người khác (W) Tổng điểm số 5 10 14 29 Dạng thứ nhất được gọi là “Có qua có lại” (reciprocal). Nó nhằm nói đến một sự kết hợp giữa một người có hành vi nghiêng về thể hiện với một ngứòi khác có hành vi nghiêng về sự đòi hỏi. Ví dụ, nếu một người đang có nhu cầu cao để thể hiện sự kiểm soát của mình đối với người khác nhưng lại gặp phải những người không muốn chịu một sự kiểm soát từ người khác, như thế được gọi là sự xung khắc “Có qua có lại”. Công thức để đo lường và lượng hoá mức độ xung khắc này có dạng như sau: | ME - SW | + |SE - MW | Với: + ME (Manager Expressed) và MW (Manager Wanted) lần lượt là số điểm về sự thể hiện và số điểm về sự đòi hỏi của nhà quản trị. + SE (Subordinate Expressed) và SW (Subordinate Wanted) lần lượt là số điểm về sự thể hiện và số điểm về sự đòi hỏi của nhân viên cấp dưới. Như vậy, nhờ có dấu trị tuyệt đối nên khi thế số vào công thức trên thì nó sẽ cho ra một giá trị tuyệt đối (không có số âm). Dữ liệu cho mỗi vùng được trình bày rõ ràng ở Table 6, ở từng vùng của sự xung khắc có qua có lại, tồn tại giữa những nhà quản trị và những nhân viên cấp dưới được thể hiện cụ thể trong Biểu 6. Tra Biểu 6 và thế vào công thức trên ta có được: | 9 - 2 | + |3 - 8| = 12 Nếu mức điểm đạt được là cao hơn 6 có nghĩa rằng nơi đó đang có sự hiện diện một sự xung khắc càng mạnh. Trong trường hợp này, các nhà quản trị đang có một nhu cầu mạnh mẽ về mong muốn kết hợp với những người khác và kể cả mong muốn được người khác kết hợp với mình, nhưng nhân viên cấp dưới lại là 40
  42. những người có nhu cầu thấp ở cả hai thuộc tính của sự kết nạp. nhu vậy ở đây đang tiềm ẩn một sự mâu thuẫn giữa các cá nhân đang dâng trào trong khu vực này, đặc biệt hơn nếu những hành vi kết hợp (ví dụ như: làm việc nhóm), được đòi hỏi trong mối quan hệ giữa các thành viên Loại xung khắc thứ hai đó là sự đứng đầu (originator). Nó nhằm ám chỉ đến một sự kết hợp giữa những cá nhân có số điểm cao về sự thể hiện. Sự xung khắc về người đứng đầu xuất hiện khi cả hai người đều muốn để là những người khởi xướng trong một khu vực nào đó và kể cả trường hợp cả hai ngưòi đều không muốn là người khởi xướng ban đầu. Công thức để đo lường mức độ xung khắc về sự đứng đầu được thể hiện như sau: ( ME - MW ) + ( SE - SW ) Trong công thức trên, do sử dụng dấu ngoặc đơn nên kết quả của công thức thức này có thể là một số âm. Dữ liệu được lấy từ Biểu 6 sẽ làm cho sự xung khắc về người đứng đầu được minh hoạ rõ hơn. Cả nhà quản trị và nhân viên cấp dưới đều muốn sự kiểm soát thuộc về phía mình, nhưng lại không có ai có nhu cầu cao về việc được kiểm soát. Mức điểm về sự xung khắc này được tính như sau: ( 9 - 4 ) + ( 8 - 2) = +11 Những trường hợp đạt mức điểm cao hơn +6 thì đó là những trường hợp mà có sự xung khắc về sự cạnh tranh ngưòi đứng đầu. Nếu kết quả cho ra là một mức điểm thấp hơn -6 thì nơi đó đang tồn tại một sự hờ hững đối với sự xung khắc về người đứng đầu. Sự xung khắc có tính mờ nhạt xuất hiện khi không có cá nhân nào là muốn để đứng đầu khu vực đó hoặc cũng không có cá nhân nào là muốn kiểm soát hay đứng ra gánh vác nhiệm vụ, cả hai bên đều mong muốn bên kia sẽ đứng ra lãnh đạo cho mình. Loại thứ ba đó là đó là sự xung khắc hoán đổi (interchange). Loại xung khắc này nhằm chỉ ra trường hợp mà cả hai bên đều nhấn mạnh đến những nhu cầu ảnh hưởng cùng giống nhau hoặc cùng khác nhau về một mức độ nào đó. Sự xung khắc về sự đổi chỗ tồn tại nếu một người nào đó nhấn mạnh đến nhu cầu kiểm soát cao trong khi những người khác lại nhấn mạnh đến những nhu cầu ảnh hưởng cao. Khi vấn đề giữa các cá nhân diễn ra thì một bên sẽ rất thích xác định vấn đề như là một sự kiểm tra, một sự điều khiển, hoặc một sự ảnh hưởng, trong khi bên kia thì 41
  43. lại rất thích để xác định vấn đề như là một sự thân thiết, sự san sẻ hoặc một sự yêu mến. Sự khó khăn trong cách nhận dạng và giải quyết vấn đề xuất hiện khi mà hai bên có sự nhìn nhận và đánh giá khác nhau đối với cùng một vấn đề hoặc tình huống giống nhau. Công thức để đo lường sự xung khắc về sự dẫn đầu được thể hiện như sau: |(ME + MW) - (SE + SW )| Và như chúng ta thấy, công thức trên có sử dụng dấu trị tuyệt đối nên kết quả cuối cùng sẽ cho ra một giá trị tuyệt đối (không âm). Dữ liệu về sự ảnh hưởng được thể hiện ở bảng 5, một sụ xung khắc có thể tồn tại trong khu vực đó. Sự ảnh hưởng là một nhu cầu thường xuất hiện đối với những nhân viên cấp dưới nhưng ngược lại đối với những nhà quản lý thì sự ảnh hưởng chỉ là một nhu cầu thấp (Những trường hợp ngược lại thì thường tồn tại ở sự bao quát). Thay giá trị vào công thức ta có được kết quả như sau: |(1 + 3) - (6 + 8)| = 10 Nếu điểm số đạt được là lớn hơn 6, điều này có nghĩa rằng có một sự xung khắc rất lớn trong khu vực này. Nhu cầu của các nhân viên cấp dưới về sự ảnh hưởng bị lờ đi và thậm chí còn bị loại bỏ trong mối quan hệ giữa họ với các nhà quản trị. Sử dụng 3 công thức đo lường mức độ xung khắc này cho phép chúng ta luợng hoá được mức độ của những sự xung đột. Vì thế chúng ta có thể có được một điểm số chung về sự xung đột bằng cách chúng ta tính tổng điểm số ở 3 loại nhu cầu. Kết quả sau khi lấy tổng 3 loại nhu cầu sẽ được thể hiện trong biểu 7 (Biểu 6 chỉ mang tính minh họa cho một trường hợp cụ thể, mỗi trường hợp sẽ có những kết quả khác nhau). Biểu 6: Điểm số xung khắc giữa 2 cá nhân quản trị viên và nhân viên Dạng xung khắc Kết hợp Kiểm soát Ảnh hưởng Có qua có lại 12 11 10 Đứng đầu 2 11 -4 Hoán đổi 12 3 10 42
  44. Tổng xung khắc 75 (điểm tuyệt đối) Dựa vào điểm số về sự xung đột sẽ chỉ ra nguy cơ sẽ gặp những khó khăn để tương tác với nhau trong mối quan hệ giữa nhà quản trị với các nhân viên cấp dưới của mình. Nguy cơ tiềm tàng đối với mỗi tổ chức đó là sự không gặp gỡ giữa nhu cầu của một số người nào đó với những người còn lại trong cùng một tổ chức (Sự xung khắc “có qua có lại”) hoặc ai cũng muốn có sự kiểm soát người khác nhưng lại không có ai muốn bị người khác kiểm soát nguời khác cả (Sự xung khắc “người đứng đầu”) hoặc tồn tại sự khác nhau một cách rõ nét về cách tư duy ở mỗi người (Xung khắc “hoán đổi” có thể diễn ra ở hai loại nhu cầu là: sự ảnh hưởng và sự kiểm soát), và vì sự không không tướng thích này có thể dẫn đến một cuộc xung đột trong mối quan hệ giữa họ. Một cuộc nghiên cứu cũng đã khẳng định tính đúng đắn của những lời dự đoán này. Điểm số về sự xung khắc trong tổ chức là thấp là khi quan điểm và thái độ của các nhân viên cấp dưới và các nhà quản trị là giống nhau. Quan điểm và thái độ của ngứòi giáo viên sẽ tác động một cách hiệu quả đối với những sinh viên khi mà giữa họ đạt được điểm số về sự tương thích cao. Sinh viên sẽ đạt được những thành tích cao trong lớp khi có một sự tứong thích cao với giáo viên dạy họ, và kể cả trong việc kết bạn cung vậy, chúng ta thường có khuynh hướng chọn những người bạn mà có sự tương thích về quan điểm và thái độ với chúng ta. Thậm chí nguời ta cũng đã chứng minh được rằng sự thành công của các bác sĩ trong việc điều trị bệnh chịu ảnh hưởng bởi mức độ xung khắc. Và ở đây người ta cũng đã chứng minh được rằng những nhóm làm việc bao gồm những thành viên có sự tương thích với nhau thì họ sẽ làm việc hiệu quả và đạt được nhiều thành công hơn những nhóm làm việc mà chỉ gồm toàn là những thành viên không tương thích với nhau. Theo đó ngứòi ta cũng đã tìm thấy được những đặc điểm điển hình của một nhóm làm việc tương thích với nhau, đó là: + Giữa các thành viên tồn tại một sự lôi cuốn, hấp dẫn để cùng làm việc với nhau + Một xu hướng chung được thiết lập một cách rõ ràng giữa các thành viên + Tồn tại một sự cộng tác giữa các thành viên để hoàn thành nhiệm vụ chung 43
  45. + Đưa ra cách giải quyết vấn đề nhanh chóng + Ít khi gặp phải sai lầm trong cách giải quyết vấn đề + Giữa các thành viên luôn có sự thống nhất với nhau Biết được khuynh hướng giao tiếp giữa các cá nhân có thể là một yếu tố quan trọng để tạo nên sự thành công trong hoạt động quản trị. Nó không chỉ có tác dụng cải thiện mối quan hệ giữa những nhà quản trị chúng ta với những ngưòi khác mà nó còn có thể giúp bạn phán đoán và nhận ra những nhu cầu không tương thích với những thành viên cấp dưới để từ đó có được những sự điều chỉnh phù hợp. Ngoài ra nó cũng sẽ giúp bạn đánh giá lựa chọn những hành vi thích hợp khi bạn cố gắng giải quyết những sự xung đột diễn ra giữa các cá nhân trong tổ chức. Có một số vấn đề có thể được giải quyết một cách đơn giản nhờ vào những hành động kết hợp (inclusion activities), bởi vì nó cho phép những người khác thể hiện một phần nhỏ sự kiểm soát của mình trong đó, hoặc cũng có thể là nhờ vào việc xác định lại cách nhìn nhận vấn đề, xem đó như là sự thể hiện một sự ảnh hưởng (affection) hơn là xem nó là biểu hiện của một sự kiểm soát (control). TÓM TẮT Ngày nay, các tập đoàn lớn của Mỹ đã khám phá ra sức mạnh to lớn trong việc phát triển kỹ năng tự nhận thức của các nhà quản trị trong tổ chức. Mỗi năm, hàng triệu nhà điều hành hoàn tất việc thiết kế những công cụ để nâng cao những Kỹ năng tự nhận thức trong tổ chức của mình, những tập đoàn tiêu tiêu biểu áp dụng những công cụ này như Apple, AT&T, CitiCorp, Exxon, General Electric, HoneyWell, 3M và kể cả quân đội Mỹ. Sự khác nhau về nhận thức ở mỗi người được thấy rõ ở những gía trị ưu tiên của mỗi người và ở những biểu hiện về sự Thành thục giá trị, về Phong cách học, về những Định hướng có thể thay đổi và về Khuynh hướng giao tiếp của họ với những người khác, nắm rõ được những sự khác nhau này sẽ giúp cho nhiều công ty có thể giải quyết một cách tốt hơn những vấn đề trong tổ chức mình như: xung đột giữa các cá nhân với nhau, sự không hiệu quả trong việc truyền đạt thông tin, sự đánh mất lòng tin lẫn nhau và thậm chí là những sự hiểu lầm lẫn nhau. Sau khi yêu cầu 100 nhà quản trị hàng đầu trên thế giới trải qua một cuộc kiểm tra và khoá đào tạo về Kỹ năng nhận thức, thì giám 44
  46. đốc chủ tịch của công ty Bảo Mật Mạng Máy Tính thuộc Tập đoàn Hiltton Hotels & Budget Rent-a-Car đã phát biểu rằng: “Thực sự là chúng tôi đã gặp phải một số vấn đề liên quan đến sự nhận thức. Tôi nhận ra rằng tôi đã gặp một sự quá tải trong việc nhận được những thông tin từ những người khác và nhờ khoá đào tạo này đã giúp chúng tôi rất nhiều trong việc thấu hiểu những người khác và từ đó nó cũng đã tạo cho chúng tôi một sự thuận lợi trong việc làm ra những quyết định hiệu quả. Và từ đó, chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi sẽ không thể vượt qua những cuộc khủng hoảng của tổ chức nếu như chúng tôi không trải qua khoá học về sự nhận thức này” Những khóa học về nhận thức như thế này không chỉ giúp các nhà quản trị có thể “đánh thức” những khả năng về sự nhìn nhận và thấu hiểu của họ đối với mọi người xung quanh, mà nó còn giúp họ rất nhiều trong việc hiểu rõ được nguồn gốc của những sự khác nhau ở những người khác nhau. Trong những hoạt động đời sống cũng như công việc, hầu hết tất cả mọi người đều phải đối mặt với những cá nhân có sự khác nhau với chúng ta về tính cách, sự nhìn nhận về giá trị và có những định hướng Lực lượng lao động ngày càng đông hơn về số lượng và gồm nhiều thành phần khác nhau, thay đổi một cách khôn lường. Tham gia các khoá đào tạo về sự nhận thức là một hướng đi đúng, và bài thảo luận được thực hiện trong chương này được xem như là một công cụ giá trị trong việc giúp mọi người nâng cao hơn nữa sự thông cảm, thấu hiểu và thích nghi với tính đa dạng mà họ là những người phải đối mặt với nó trong công việc cũng như trong trường học. Tự nhận thức được xem là một chìa khoá để hình thành những kiến thức về cảm xúc (Emotional intellience), và sở hữu một chỉ số EQ cao được xem là điều kiện tiên quyết để đưa đến những sự thành công trong hoạt động quản trị. Mối quan hệ giữa 4 lĩnh vực cốt yếu (critical) của việc tự nhận thức và những đầu ra của hoạt động quản trị được tóm tắt trong Hình 6. 45
  47. Hình 6: Các yếu tố cốt yếu của tự nhận thức & ứng dụng quản trị Ưu tiên và sự trưởng thành giá trị Tự thấu hiểu & tự quản trị Thái độ đối Phong cách Thông minh cảm với sự thay đổi học xúc Nhận thức sự khác Xu hướng biệt giữa câc cá quan hệ giữa nhân các cá nhân Mặc dù nó là rất cần thiết để học những kỹ năng giao tiếp và sự tương tác giữa các thành viên trong nhóm. Sự thành công trong việc phát triển những kỹ năng trong những lĩnh vực cốt yếu sẽ chỉ xuất hiện đối với những cá nhân làm việc trong những tổ chức lấy sự nhận thức làm nền tảng cho những hoạt động của tổ chức đó. Sau đây là sự minh hoạ khá thú vị về những hành vi có tính trái ngược nhau: Chúng ta có thể biết những người khác thông qua sự hiểu biết về chính chúng ta rồi áp đặt lên họ, nhưng chúng lại chỉ có thể biết về chính chúng ta thông qua việc hiểu biết những người khác. Nhờ có được những thông tin về những ngưòi khác, thông qua những sự biểu hiện bên ngoài mà chúng ta thấy ở họ, chúng ta tích lũy chúng và hình thành nên những kinh nghiệm trong khi tương tác với họ, và như thế chúng ta có thể có được khả năng quản lý và khả năng giao tiếp một cách thành công, hiệu quả với họ. Nếu chúng ta không có sự nhận thức, thì chắc chắn chúng ta sẽ không thể có được những nền tảng cơ bản để thấu hiểu về những người khác. Việc tự thừa nhận sẽ dẫn đến việc thừa nhận và thấu hiểu những người khác. Như Hairris (1981) đã nói rằng: “Tất cả mọi thứ đều có một điểm bắt đầu, kế cả đó là những hành động tạo sự khó chịu trong những buổi tiếp xúc ban đầu, vì ở trong tiềm thức mỗi chúng ta đều có tồn tại một sự ngăn cách nào đó. Và những điều chúng ta biết về chính chúng ta bao giờ nó cũng đến từ bên ngoài và nó được kiểm nghiệm lại thông qua những 46
  48. loại kinh nghiệm mà chúng ta có được, và những đièu mà chúng ta biết về những người khác bao giờ nó cũng chỉ đến từ việc suy luận kết hợp với sự cảm nhận chủ quan của chính chúng ta”. HƯỚNG DẪN HÀNH VI 1. Xác định những điểm nhạy của mình. 2. Sử dụng 7 thước đo giá trị văn hoá để bàn luận về sự khác biệt giữa các nền văn hoá, lứa tuổi hay sắc tộc. 3. Xác định những nguyên tắc chủ yếu làm căn cứ hành vi của bạn. Xác định các giá trị mục đích và phương tiện chủ yếu của mình. 4. Phát triển phong cách học, khả năng chịu đựng sự mơ hồ, nơi kiểm soát bằng cách phát triển khả năng tiếp cận thong tin và quản lý nó trong các hoạt động khác nhau của bạn. Tìm cách thức phát triển bản than. 5. Tính điểm số xung khắc của bạn với những người bạn thường tương tác và xác định lĩnh vực có nhiều khả năng xung khắc. 6. Hãy trở nên trung thực và cởi mở hơn với những người than quen, gần gũi với bạn. Hãy kiểm chứng lại những vấn đề của bạn mà bản thân còn thấy mơ hồ. 47
  49. CHƯƠNG 2 QUẢN LÝ SỰ CĂNG THẲNG TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ CÁ NHÂN THÔNG QUA QUẢN LÝ STRESS Stress có thể gây ra các tác động phá hoại. Hậu quả của chúng có thể là mất khả năng tập trung, lo lắng, suy nhược đến rối loạn tiêu hoá, kháng thể kém đối với bệnh tật, và bệnh tim. Đối với các tổ chức, hậu quả của chúng là sự vắng mặt, tinh thần công nhân thấp đến tai nạn và tỷ lệ thuyên chuyển cao (Sailer, Schlacter, và Edwards 1982; Selye, 1976) Đáng tiếc, các diễn đàn khoa học chỉ tập trung vào hậu quả của stress. Rất ít đề cập đến làm thế nào để đối phó hiệu quả với stress thậm chí chỉ ra cách phòng ngừa. Chúng ta thảo luận bằng mô hình để hiểu stress và học cách đối phó với chúng. Mô hình này xác định các loại stress gặp phải chủ yếu bởi người quản lý, các hành động cơ bản đối với stress, và một số nguyên nhân mà ai đó trải qua nhiều hành động tiêu cực (tiết lộ công việc) hơn những người khác. Phần sau cùng sẽ trình bày một số quy tắc chung để quản lý và thích nghi với stress, cùng với một số ví dụ cụ thể và các hướng dẫn thuộc về hành vi. Mô hình stress đưa ra trong hình 2.1 bao gồm 3 thành phần cơ bản. Thứ nhất, cảm nhận stress đến từ loại stress nào đó. Chúng có thể được xem là tác nhân gây ra các phản ứng cá nhân về sinh lý và tâm lý cá nhân. Mặc dù ở mức độ stress vừa phải hướng đến việc tăng kết quả thực hiện và sự thoả mãn. Mức stress cao trong thời kỳ dài có thể đến bệnh lý (lo âu, bệnh tim, suy nhược thần kinh). Bốn loại chính của stress - thời gian, lường trước, tình trạng, đối phó. Mỗi loại tạo ra kết quả tiêu cực. Tuy nhiên các cá nhân sẽ khác nhau về mức độ các loại stress này, và có thể dẫn đến kết quả bệnh lý hay tâm thần. Những gì mà Eliot và Breo (1984) gọi là “hot reactors” có nghĩa là họ chịu đựng những phản ứng tiêu cực rất cao từ stress, một số người khác thì có khả năng phục hồi tốt hơn. Điều kiện thể lực, các đặc tính nhân cách, các cơ chế hỗ trợ xã hội trong việc giảm nhẹ stress. Khả năng đối phó với stress được xem như khả năng phục hồi. Về tác động, phục hồi hoạt động như là tiêm chủng để chống lại các ảnh hưởng stress. Điều này giúp giải thích tại sao các vận động viên thực hiện tốt hơn trong các trận “thi đấu lớn” trong khi những người khác thì thực hiện tồi tệ. Một số nhà quản lý trông có vẻ như những nhà chiến lược tài ba khi trong tình thế lâm nguy, trong khi những người khác ẩn mình dưới các áp lực. 1
  50. NGƯỒN STRESS PHẢN ỨNG LẠI Đối đầu Sinh lý học Thời gian Tâm lý học Tình huống Lường trước PHỤC HỒI Cơ thể Tâm lý học Xã hội học PHÁT TRIỂN HỌC CƠ CHẾ HẠN CHẾ CHIẾN LƯỢC ĐỐI PHÓ TẠM STRESS PHỤC HỒI THỜI ẢNH HƯỞNG Thường xuyên Lâu dài Ngắn hạn TIẾP CẬN Chủ động Tiên phong Phản ứng lại THỜI GIAN YÊU CẦU Dài hạn Thời gian vừa phải Trực tiếp Hình 2.1 – Mô hình stress Các cá nhân cũng muốn sử dụng các phương pháp khác nhau để đối phó với stress. Một số phương pháp, như là rút lui, tham chiến, chán nản có khuynh hướng phản tác dụng. Các phương pháp khác cải thiện điều kiện sức khoẻ và cảm xúc, thiết lập một hệ thống hỗ trợ xã hội, và thư giãn, cho phép các nhà quản lý khai thác lợi ích tích cực từ stress, như là kiểm tra các kỹ năng giải quyết vấn đề, giao tiếp. Trong việc quản lý stress, sử dụng cách tiếp cận phân tầng cụ thể được xem là hiệu nghiệm nhất. Thứ nhất, cách hiệu quả nhất để quản lý stress là hạn chế và tối thiểu hoá về stress với các chiến lược chủ động. Những điều này tạo ra một môi trường mới cho các cá nhân không có stress (Weick, 1979). Một cách tiếp cận thứ hai cho các cá nhân tăng cường khả năng của họ để khống chế stress, đó là tăng khả năng hồi phục. Cách này được gọi là cách tiếp cận tiên phong và được thiết kế với hành động chủ động nhằm chống lại các tác động tiêu cực của stress. Thứ ba, việc phát triển các kỹ thuật ngắn hạn để đối phó với stress là cần thiết khi yêu cầu các phản hồi trực tiếp. Chúng là cách tiếp cận bị động mà mọi người có thể áp dụng ngay tại chổ như là một phương thuốc để giảm tạm thời tác động của stress. 2