Giáo trình Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm

docx 122 trang hapham 3871
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxgiao_trinh_tam_ly_hoc_lua_tuoi_va_tam_ly_hoc_su_pham.docx

Nội dung text: Giáo trình Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm

  1. ThS. Lý Minh Tiên - TS. Nguyễn Thị Tứ (Chủ biên) ThS. Bùi Hồng Hà - ThS. Huỳnh Lâm Anh Chương GIÁO TRÌNH: Tâm lý học lứa tuổi & Tâm lý học sư phạm NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ Hồ CHÍ MINH Giáo trình: Tâm lý học lứa tuổi & Tâm lý học Sư phạm ThS. Lý Minh Tiên - TS. Nguyễn Thị Tứ (Chủ biên) - ThS. Bùi Hồng Hà - ThS. Huỳnh Lâm Anh Chương Chỉ đạo tổ chức biên soạn giáo trình: TS. Bạch Văn Hợp, Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh Quyết định thành lập Hội đồng thẩm định giáo trình: số 1676/QĐ- ĐHSP do Phó Hiệu Trưởng - PGS. TS. Nguyễn Kim Hồng ký Ngày 12/9/20 ỉ 2 Quyết định phê duyệt sử dụng giáo trình: số 1821/QĐ-ĐHSP do Hiệu Trưởng - TS. Bạch Văn Hợp ký ngày 25/9/2012 Mã số sách chuẩn quốc tế ISBN: 978-604-918-025-5MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU Học phần Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm được đưa vào giảng dạy cho sinh viên các trường Sư phạm và học viên các lớp nghiệp vụ sư phạm giáo viên phổ thông trong nhiều năm qua. Đây là học phần nối tiếp học phần Tâm lý học đại cương, nhằm cung cấp những tri thức chung nhất về tâm lý lứa tuổi, chủ yếu là lứa tuổi học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông, những cơ sở tâm lý của việc dạy học và giáo dục đạo đức cho học sinh, các phẩm chất và năng lực của giáo viên. Bằng sự tích hợp hệ thống lý luận của khoa học tâm lý và những kết quả nghiên cứu của các nhà tâm lý học trong và ngoài nước, học phần giúp người học có những hiểu biết khá sâu sắc về tâm lý lứa tuổi cũng như những cơ sở tâm lý của dạy học và giáo dục, từ đó có thể rút ra các kết luận sư phạm cần thiết cho công tác tương lai. Những năm gần đây xuất hiện một số tài liệu dịch và biên soạn nội dung của học phần này, tuy nhiên các tài liệu hiện có chưa đáp ứng được nhu cầu học tập và giảng dạy bộ môn này theo hệ thống tín chỉ ở các cơ sở đào tạo trong ngành Sư phạm. Vì vậy, nhằm đáp ứng yêu cầu về giảng dạy, học tập và nghiên cứu cho sinh viên các trường Sư phạm và cho học viên các lớp nghiệp vụ sư phạm giáo viên phổ thông, bộ môn Tâm lý học Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức biên soạn giáo trình này. Giáo trình được biên soạn theo hướng tinh lọc những kiến thức cơ bản và thiết thực phù hợp với đào tạo theo hệ thống tín chỉ. cấu trúc của giáo trình gồm 6 chương với sự đầu tư biên soạn của các cán bộ giảng dạy thuộc bộ môn Tâm lý học như sau: Chương 1: Nhập môn Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm (TS. Nguyễn Thị Tứ) Chương 2: Tâm lý học tuổi thiếu niên (TS. Nguyễn Thị Tứ) Chương 3: Tâm lý học tuổi thanh niên học sinh (ThS. Huỳnh Lâm Anh Chương) Chương 4: Tâm lý học dạy học (ThS. Lý Minh Tiên) Chương 5: Tâm lý học giáo dục đạo đức (ThS. Lý Minh Tiên)
  2. Chương 6: Tâm lý học nhân cách giáo viên (ThS. Bùi Hồng Hà) Trong quá trình biên soạn giáo trình, nhóm tác giả có tham khảo nhiều tài liệu, và do bảo đảm tính kế thừa các thành tựu tâm lý học đã có, nhóm đã sử dụng một số nội dung trong các giáo trình Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm đã xuất bản trước đây. Chúng tôi rất trân trọng các thông tin đó và xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các tác giả, những nhà khoa học đi trước. Nhóm tác giả đã cố gắng đến mức tối đa để giáo trình có những ưu điểm mới nhưng vẫn không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Bộ môn Tâm lý học và nhóm tác giả rất mong nhận được sự đóng góp và chia sẻ của các nhà khoa học, các cán bộ giảng dạy, sinh viên, học viên và những độc giả khác để giáo trình được tiếp tục hoàn thiện hơn. Bộ môn Tâm lý học và nhóm tác giả Chương 1: NHẬP MÔN TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM MỤC TIÊU Sau khi học xong chương này, người học : Về kiến thức - Biết, hiểu rõ đối/ tượng, nhiệm vụ, ý nghĩa của tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm. - Biết, hiểu rõ bản chất của các học thuyết tâm lý về sự phát triển tâm lý trẻ em, cùng với sự phân chia các giai đoạn lứa tuổi. Về kỹ năng - Vận dụng các học thuyết về sự phát triển tâm lý trẻ em để giải thích một số hiện tượng tâm lý thường gặp ở trẻ em trong các giai đoạn lứa tuổi khác nhau. Về thái độ - Quan tâm nhiều hơn đối với các vấn đề trẻ em và cách thức giáo dục trẻ em. - Thể hiện thái độ tích cực khi xem xét các vấn đề của trẻ em. 1.1 Đối tượng, nhiệm vụ, ý nghĩa của Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm Từ khi Tâm lý học ra đời và phát triển mạnh mẽ với tư cách là một khoa học độc lập năm (1879) thì cũng nảy sinh nhiều vấn đề đòi hỏi việc nghiên cứu tâm lý phải được tiến hành một cách chuyên sâu, khiến cho rất nhiều ngành tâm lý học ứng dụng phát sinh. Ba năm sau sự ra đời của tâm lý học, vào năm 1882, nhà tâm lý học người Đức Preier lần đầu tiên cho xuất bản cuốn sách “Tâm hồn trẻ thơ” đánh dấu sự ra đời của ngành Tâm lý học lứa tuổi, nhưng Tâm lý học lứa tuổi chỉ trở thành một ngành khoa học độc lập vào cuối thế kỉ thứ XIX, đầu thế kỉ XX khi nó có xu hướng làm sáng tỏ những đặc điểm tâm lý lứa tuổi và tiến trình phát triển nhân cách cá nhân qua các giai đoạn lứa tuổi, với sự xuất hiện của bốn học thuyết lớn về sự phát triển tâm lý của trẻ em: Thuyết phân tâm, Thuyết hành vi, Thuyết phát sinh nhận thức và Thuyết hoạt động tâm lý. Tâm lý học lứa tuổi không thể nghiên cứu con người một cách độc lập, tách rời khỏi những điều kiện tự nhiên và xã hội của đời sống, mà nó phải được nghiên cứu trong những điều kiện cụ thể của việc dạy học và giáo dục vì tách khỏi những điều kiện đó thì con người không thể phát triển bình thường được. Nhưng đồng thời việc dạy học và giáo dục cũng không thể xem xét tách rời khỏi đối tượng được giáo dục,
  3. vì thế Tâm lý học sư phạm cũng ra đời ngay sau đó. Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm có thể nói là những chuyên ngành tâm lý học ứng dụng được phát triển sớm nhất của khoa học tâm lý. 1.1.1 Đối tượng của Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm 1. 1.1.1. Đối tượng của Tâm lý học lứa tuổi Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học lứa tuổi là các hiện tượng tâm lý con người trong từng giai đoạn lứa tuổi từ bào thai đến tuổi già. Tâm lý học lứa tuổi nghiên cứu : Động lực của sự phát triển tâm lý theo lứa tuổi, làm rõ nguyên nhân, điều kiện, các yếu tố gây ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đến sự hình thành và phát triển tâm lý con người trong mỗi giai đoạn lứa tuổi, chỉ ra nhân tố nào đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển tâm lý. Cụ thể, đó chính là những điều kiện về thể chất, điều kiện sống và các dạng hoạt động (học tập, giao tiếp ), những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình sống và hoạt động của cá nhân trong từng giai đoạn lứa tuổi. Những đặc điểm các quá trình tâm lý và phẩm chất tâm lý của cá nhân ở các lứa tuổi khác nhau và sự khác biệt của chúng ở mỗi cá nhân trong phạm vi một lứa tuổi, nghiên cứu khả năng lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, những phương thức hành vi và những giá trị tương ứng của các cá nhân trong từng độ tuổi. Đây là cơ sở quan trọng để tổ chức và điều khiển quá trình dạy học và giáo dục sao cho nội dung và phương pháp phù hợp với từng lứa tuổi khác nhau. Ví dụ: Tâm lý học lứa tuổi chỉ ra đặc điểm tư duy ở tuổi thiếu niên là tư duy trừu tượng phát triển mạnh, nhờ đó mà thiếu niên có thể lĩnh hội được các tri thức lí luận mang tính khái quát cao. Do vậy, có thể đưa vào giảng dạy những môn học mang tính trừu tượng cao như Đại số, Hình học, Những quy luật hình thành và phát triển của các quá trình tâm lý và nhân cách con người, xem xét sự phát triển tâm lý của con người được phát triển ra sao, quá trình con người trở thành nhân cách như thế nào. Việc tìm ra các quy luật phát triển tâm lý sẽ giúp ta thấy rõ được quá trình nảy sinh, hình thành và phát triển của các hiện tượng tâm lý người, từ đó dự đoán trước được sự phát triển hoặc lý giải được nhiều hiện tượng tâm lý khác nhau trong từng giai đoạn lứa tuổi. Ngày nay do yêu cầu của thực tiễn và thành tựu khoa học ngày càng mở rộng, Tâm lý học lứa tuổi cũng chia thành nhiều phân ngành: Tâm lý học trẻ em trước tuổi học, Tâm lý học nhi đồng, Tâm lý học thiếu niên, Tâm lý học thanh niên, Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học sư phạm Trẻ em không thể tự lớn lên mà ngay từ khi mới chào đời trẻ em đã nhận được những tác động giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội. vấn đề là những tác động đó nên (được tổ chức ra sao cho phù hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi và những quy luật phát triển chung của con người, đó là những vấn đề mà Tâm lý học sư phạm cần phải giải đáp. Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học sư phạm là các hiện tượng tâm lý, các quy luật tâm lý (của người dạy - người học) trong quá trình dạy học và giáo dục, đảm bảo cho quá trình đó đạt hiệu quả tối ưu. Cụ thể, Tâm lý học sư phạm nghiên cứu những vấn đề tâm lý của việc tổ chức, điều khiển quá trình dạy học và giáo dục, nghiên cứu các quá trình nhận thức, tìm tòi những tiêu chuẩn đáng tin cậy của sự phát triển trí tuệ và xác định những điều kiện đảm bảo cho sự phát triển trí tuệ được hiệu quả trong quá trình dạy học, xem xét những vấn đề và mối quan hệ qua lại giữa giáo viên với học sinh cũng như giữa học sinh với học sinh. Tâm lý học sư phạm được chia thành nhiều phân ngành, chủ yếu là các phân ngành chính như Tâm lý học dạy học, Tâm lý học giáo dục và Tâm lý học nhân cách giáo viên.
  4. Tâm lý học dạy học đi sâu vào nghiên cứu cơ chế của việc lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, các điều kiện tâm lý bên trong ảnh hưởng đến quá trình đó (nhu cầu, động cơ, hứng thú, vốn kinh nghiệm, trình độ phát triển trí tuệ, kỹ năng học tập ); ngoài ra còn nghiên cứu quá trình học tập với những hình thức khác nhau, theo dõi sự phù hợp của chúng với các đặc điểm cá nhân khác nhau trong từng giai đoạn lứa tuổi. Từ đó góp phần tổ chức, điều khiển quá trình dạy học sao cho hiệu quả nhất. Tâm lý học giáo dục (theo nghĩa hẹp là giáo dục đạo đức) đi sâu vào nghiên cứu quy luật hình thành và phát triển những phẩm chất nhân cách của học sinh dưới tác động của giáo dục đạo đức, phân tích về mặt tâm lý cấu trúc của hành vi đạo đức và làm rõ cơ sở tâm lý học của công tác giáo dục đạo đức cho học sinh. Tâm lý học nhân cách giáo viên đi sâu vào nghiên cứu những phẩm chất và năng lực cần thiết đối với người làm công tác dạy học và giáo dục. Nhiệm vụ của Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm Nhiệm vụ của Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm là nghiên cứu những đối tượng trên, từ đó rút ra những quy luật chung của sự phát triển nhân cách theo lứa tuổi, những nhân tố chỉ đạo sự phát triển nhân cách theo lứa tuổi; rút ra những quy luật lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo trong quá trình dạy học và giáo dục, những biến đổi tâm lý của học sinh dưới ảnh hưởng của dạy học và giáo dục Từ đó cung cấp những kết quả nghiên cứu về mặt lý luận và ứng dụng cần thiết, nhằm tổ chức hợp lý quá trình sư phạm, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động dạy học và giáo dục. Ý nghĩa của Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm Việc nghiên cứu của Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm có ý nghĩa hết sức quan trọng trong dạy học, giáo dục và trong đời sống. Việc hiểu biết những đặc điểm tâm lý con người ở từng độ tuổi khác nhau giúp chúng ta biết cách cư xử, có thái độ thích hợp khi giao tiếp với họ. Nắm bắt được những quy luật phát triển tâm lý sẽ giúp chúng ta theo dõi được sự phát triển, dự tính trước sự phát triển, đồng thời phát hiện kịp thời những dấu hiệu bất bình thường ở trẻ em và người lớn, lý giải được nguyên nhân, từ đó có sự hỗ trợ cần thiết để giúp đỡ cho họ. Nắm bắt được những đặc điểm tâm lý và các quy luật tâm lý của người i dạy và người học trong các quá trình dạy học và giáo dục sẽ giúp chúng ta tổ chức quá trình sư phạm một cách hợp lý, đạt hiệu quả tối ưu. Những kiến thức về Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm cũng sẽ giúp chúng ta lý giải được những nguyên nhân thành công hay thất bại trong giao tiếp, ứng xử với người lớn và trẻ em, đặc biệt trong các quá trình dạy học và giáo dục trẻ em, từ đó đề ra các biện pháp khắc phục kịp thời, giúp ta xây dựng được những phương pháp giáo dục hiệu quả, thích ứng với trẻ em trong từng giai đoạn lứa tuổi khác nhau. Mối liên hệ giữa Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và chúng quan hệ mật thiết với nhiều ngành khoa học khác, đặc biệt là Tâm lý học đại cương, Giáo dục học, Giải phẫu sinh lý, Bệnh nhi học, Phương pháp giảng dạy bộ môn vv Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm có sự gắn bó thống nhất với nhau vì cả hai ngành đều là những chuyên ngành ứng dụng của khoa học tâm lý, đều sử dụng những khái niệm cơ bản của Tâm lý học đại cương khi đi sâu vào nghiên cứu đối tượng của mình, đều có chung một khách thể nghiên cứu là những con người bình thường trong các giai đoạn phát triển, đặc biệt là trẻ em. Hai ngành đều đi sâu nghiên cứu về trẻ em và cùng phục vụ đắc lực cho sự phát triển của chính đứa trẻ đó.
  5. Tuy nhiên. Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm cũng có sự tách rời nhau để đi vào nghiên cứu những vấn đề chuyên sâu. Tâm lý học lứa tuổi chủ yếu nghiên cứu các đặc điểm tâm lý, động lực phát triển tâm lý, các quy luật của sự phát triển tâm lý con người trong từng giai đoạn lứa tuổi, còn Tâm lý học sư phạm đi sâu vào nghiên cứu những con đường, những quy luật hình thành nhận thức, những vấn đề thuộc về dạy học và giáo dục con người, đặc biệt là trẻ em. Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư- phạm có mối quan hệ tương hỗ với nhau. Những thành tựu của Tâm lý học lứa tuổi sẽ là những cơ sở quan trọng để Tâm lý học sư phạm vận dụng nhằm vạch ra những cơ sở tâm lý cho việc tổ chức và điều khiển quá trình sư phạm đạt hiệu quả tối ưu. Ngược lại, Tâm lý học sư phạm sẽ làm cho những kiến thức của Tâm lý học lứa tuổi sẽ cụ thể hơn khi xem xét nó trong quá trình dạy học và giáo dục con người qua từng giai đoạn lứa tuổi khác nhau. 1.2 Lý luận về trẻ em và sự phát triển tâm lý trẻ em Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm nghiên cứu tâm lý con người qua các giai đoạn lứa tuổi khác nhau, tuy nhiên những công trình nghiên cứu về tâm lý trẻ em và cách thức giáo dục trẻ em luôn áp đảo so với các giai đoạn lứa tuổi khác, bởi trẻ em là những con người đang trưởng thành và là đối tượng cần được giáo dục hơn cả. 1.2.1 Quan niệm về trẻ em 1.2.1.1 Các tư tưởng cổ xưa và phong kiến về trẻ em Từ xa xưa, cả ở phương Đông và phương Tây, vấn đề bản tính trẻ em và giáo dục trẻ em đã được xã hội đặt ra và tìm cách giải quyết. Tuy đã có nhiều quan niệm khác nhau nhưng đại đa số đều cho rằng, bản tính (tốt hay xấu) của trẻ em từ khi mới sinh ra đã có sẵn, trẻ em và người lớn chỉ khác nhau về lượng chứ không khác nhau về chất. Do quan niệm như vậy nên trong suốt thời kỳ phong kiến, trẻ em được đối xừ như một “người lớn thu nhỏ”, mọi sinh hoạt và phương tiện sinh hoạt đều rập theo khuôn mẫu người lớn (nhưng có kích cỡ nhỏ hơn). Trẻ em cùng được lao động, sản xuất, ăn uống, vui chơi, hội hè bên cạnh người lớn mà không được quan tâm chăm sóc và giáo dục riêng. 1.2.1.2. Các quan niệm và nghiên cứu về trẻ em từ thế kỷ XVII Bước sang thế kỷ XVII, ở phương Tây xuất hiện hai khuynh hướng giải quyết vấn đề về bản tính trẻ em và giáo dục trẻ em: Khuynh hướng thứ nhất là quan điểm của các nhà triết học duy cảm Anh thế kỷ XVII - XVIII, họ cho rằng trẻ em thụ động trước tác động của môi trường vì thế họ đề cao quá mức vai trò của môi trường xã hội đối với sự phát triển tâm lý của trẻ em. Khuynh hướng thứ hai quan niệm ngược lại rằng, trẻ em tích cực trước tác động của môi trường. Đại biểu của khuynh hướng này là nhà văn, nhà triết học lớn người Pháp J.J. Rousseau (1712 -1778). ông quan niệm rằng trẻ em và người lớn khác nhau không chỉ về lượng mà còn về chất, “trẻ em có những cách nhìn, cách suy nghĩ và cảm nhận riêng của nó. Ông cho rằng trẻ em từ khi mới sinh ra đã có những khuynh hướng tự nhiên và tích cực, chúng tham gia tích cực vào việc hình thành trí tuệ và nhân cách của mình như một nhà thám hiểm bận rộn, biết phân tích và có chủ định. Mọi sự can thiệp của người lớn vào sự phát triển tự nhiên của trẻ đều có hại. Vì vậy ông đề nghị nên có một nền giáo dục xã hội theo nguyên tắc tự nhiên và tự do cho trẻ. Tuy nhiên, ông chưa đi sâu vào nghiên cứu về trẻ em, chưa cho chúng ta hiểu biết nhiều về trẻ em. 1.2.1.3 Quan niệm duy vật biện chứng về trẻ em
  6. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Tâm lý học lứa tuổi ra đời và phát triển mạnh mẽ, đặc biệt dòng Tâm lý học hoạt động ra đời đã giúp ta nhìn nhận rõ hơn về bản tính trẻ em và cách thức giáo dục trẻ em. Những nhà Tâm lý học hoạt động khẳng định rằng: Trẻ em và người lớn khác nhau cả về lượng và chất (khác nhau cả về mặt hình thức lẫn nội dung). Trẻ em có đặc điểm tâm lý riêng của trẻ em, những đặc điểm tâm lý này vận động và phát triển theo quy luật riêng củà trẻ em, cũng như người lớn vận động và phát triển riêng theo quy luật của người lớn. Vì thế người lớn không phải lúc nào cũng có thể hiểu được suy nghĩ, tâm tư, nguyện vọng, tình cảm, của trẻ mặc dù người lớn cũng đã trải qua thời thơ ấu và thời niên thiếu như trẻ em. Người lớn muốn dạy học và giáo dục trẻ em thì cần phải có ngôn ngữ và cách thức riêng để giao tiếp với trẻ. Trẻ em là con đẻ của thời đại. Thời đại nào thì sẽ sản sinh ra trẻ em của thời đại đó. Những thành tựu trong tâm lý học đại cương đã khẳng định, tâm lý người có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. Con người sống trong thời đại nào thì tâm lý sẽ chịu sự chế ước của các điều kiện xã hội (kinh tế, chính trị, pháp quyền ) của thời đại đó, vì vậy trẻ em thế hệ ngày hôm ngy sẽ khác với trẻ em thế hệ trước. Vì vậy, muốn nghiên cứu trẻ em không được nghiên cứu trẻ em một cách chung chung trừu tượng, mà phải nghiên cứu trẻ em trong những điều kiện xã hội cụ thể. Trẻ em là một thực thể đang phát triển. Trẻ em là những con người đang trường thành, tâm sinh lý đang phát triển mạnh mẽ. Tốc độ và cường độ phát triển về tâm sinh lý ở trẻ em mạnh hơn tất cả các giai đoạn lứa tuổi khác. Do các em chưa trưởng thành về tinh thần và thể lực nên cần phải có người bảo hộ và chăm sóc đặc biệt, các em cần phải được dạy học và giáo dục để trưởng thành. Trẻ em là một thực thể tích cực trước tác động của môi trường. Trẻ em không thụ động trước tác động của người lớn mà trẻ em luôn tích cực, chủ động trong mọi hành vi và hoạt động, vì vậy người lớn phải có những phương pháp giáo dục phù hợp nhằm phát huy tính tích cực của trẻ em. 1.2.2 Lý luận về sự phát triển tâm lý trẻ em Các nhà Tâm lý học chuyên nghiên cứu về trẻ em đều mong muốn tìm hiểu bản chất, cơ chế, nguồn gốc, động lực của sự phát triển tâm lý trẻ em. Xuất phát điểm từ những quan điểm triết học, tâm lý học khác nhau về trẻ em, và nguồn gốc, động lực của sự phát triển tâm lý trẻ em mà hình thành nên những quan điểm khác nhau về sự phát triển tâm lý trẻ em. Dưới đây là một số học thuyết khá phổ biến. 1.2.2.1 Những quan niệm sai lầm về sự phát triển tâm lý trẻ em a) Thuyết tiền định lí Đại diện tiêu biểu cho Thuyết tiền định là những nhà di truyền học, những người có quan niệm rằng sự phát triển trẻ em có nguồn gốc sinh vật (S. Auerbac, E. Thơndike, ). Những người theo quan điểm của thuyết này cho rằng di truyền (những đặc điểm bẩm sinh hoặc gen) là yếu tố đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển tâm lý trẻ em, còn môi trường chỉ là “yếu tố điều chỉnh ”, "yếu tố thể hiện ” một nhân tố bất biến nào đó của tính di truyền mà thôi. Nghĩa là, động lực của sự phát triển tâm lý là do các tiềm năng sinh vật bám sinh gây ra (ngày ngy sinh học phát triển, người ta cho rằng tiềm năng sinh vật đó là sự mã hóa, chương trình hóa được trang bị trong gen), còn cơ chế của sự phát triển là quá trình trưởng thành, chín muồi của những thuộc tính bẩm sinh đó. Phát triển chẳng qua là sự bộc lộ dần dần những tiềm năng bẩm sinh sẵn có. Bản chất của sự phát triển chính là sự gia tăng về lượng của các hiện tượng tâm lý được bộc lộ đó. Tất cả là do di truyền quyết định. Tính tích cực cá nhân, giáo dục, giáo dưỡng chỉ làm tăng lên hoặc giảm đi những yếu tố đã được tiền định từ trước đó mà thôi. Thuyết tiền định là chỗ dựa cho chủ nghĩa phân biệt chủng tộc với sự lý giải phản khoa học rằng “dân tộc thượng đẳng” ưu việt hơn “dân tộc hạ đẳng”, và điều đó do gen di truyền quyết định.
  7. Các nhà khoa học theo Thuyết tiền định thường dẫn ra những người nổi tiếng để minh chứng cho học thuyết của mình, rằng di truyền quyết định tất cả. Chẳng hạn, Đalămbe (Jean le Rond d’Alembert, 1717 - 1783, nhà Toán học, Vật lý học nổi tiếng người Pháp) là con hoang của nữ văn sĩ nổi tiếng, cháu ngoại của Hồng y giáo chủ được hưởng sự thông minh do ông ngoại và bà mẹ di truyền lại. Thế nhưng, lại có những dẫn chứng khác: Pharađây (M. Faraday, 1791 - 1867, nhà vật lý học Anh) là con của người thợ rèn, nhạc sĩ Sôpanh (F. Chopin, 1810-1849) là con người kế toán, vv Vì thế coi di truyền bẩm sinh quyết định sự phát triển tâm lý là không chính xác vì nó không bao quát được hết các trường hợp. Ngày nay, Thuyết tiền định đã có những thay đổi mềm mỏng hơn để mọi người dễ chấp nhận, chẳng hạn, nhà di truyền học S. Auerbac cho rằng sự phát triển của con người được quyết định bởi gen, tuy nhiên có lúc gen có sự phân bố xấu đến mức thậm chí khó chờ đợi một kết quả vừa phải, càng hiếm có sự phân bố ưu việt đến mức khó có thể đạt được kết quả cao mà không đòi hỏi sự cố gắng nào. Nhà Tâm lý học Mỹ E. Thơndike cho rằng, tự nhiên ban cho mỗi người một vốn nhất định, giáo dục cần phải làm bộc lộ vốn đó là vốn gì và phải sử dụng nó bằng phương tiện tốt nhất. Cũng theo ông thì vốn đó đặt ra giới hạn cho sự phát triển, cho nên một bộ phận học sinh tỏ ra không đạt được kết quả nào đó “dù giảng dạy tốt” số khác lại tỏ ra lại có thành tích cao “dù giảng dạy tồi”. Tâm lý học hiện đại đã khẳng định không một tư chất nào mang sẵn những năng lực và những nét nhân cách nhất định. Các yếu tố bẩm sinh, di truyền là tiền đề quan trọng cho sự phát triển tâm lý, nó quy định chiều hướng của sự phát triển tâm lý nhưng không quyết định trình tự cũng như mức phát triển trí tuệ và nhân cách của trẻ em. Như vậy, một mặt Thuyết tiền định có những đóng góp nhất định cho khoa học tâm lý, giúp chúng ta thấy được những ảnh hưởng của di truyền đối với sự phát triển tâm lý. Mặt khác, Thuyết tiền định còn rất nhiều hạn chế. Những người theo học thuyết này đã hạ thấp vai trò của giáo dục và phủ nhận tính tích cực hoạt động của cá nhân. Họ cho rằng trẻ tốt hay xấu, học giỏi hay kém không phải do giáo dục mà do gen tốt hay xấu. Vì thế, mọi sự can thiệp vào quá trình phát triển tự nhiên của trẻ đều không cần thiết. Đề cao quá mức vai trò của di truyền khiến họ cổ súy cho giáo dục tự phát, giáo dục tự do. b) Thuyết duy cảm Thuyết duy cảm được khởi xướng bởi các nhà triết học duy cảm người Anh ở thế kỷ XVII - XVIII như Thơngs Hobbes (1586 - 1679) và John Lock (1632 - 1704), Họ quan niệm rằng sự phát triển tâm lý con người có nguồn gốc là môi trường sống. Những người theo Thuyết duy cảm quan niệm rằng môi trường là nhân tố quyết định sự phát triển tâm lý của trẻ em. Chẳng hạn, John Lock đưa ra nguyên lý “tấm bảng sạch” (tabula rasa) cho rằng trẻ em khi mới sinh ra, giống như một tờ giấy trắng, rồi dưới ảnh hưởng của môi trường sống mà người lớn muốn vẽ trên đó cái gì thì sẽ nên cái đó. Ông cho rằng mọi tri thức của con người không phải là bẩm sinh mà là kết quả của nhận thức. Quan điểm của ông về trẻ em và nguyên lý “tấm bảng sạch” là cơ sở triết học của các xu hướng quá đề cao vai trò của môi trường xã hội đối với sự phát triển tâm lý trẻ em. Nghĩa là, theo họ, động lực của sự phát triển tâm lý chính là những tác động của môi trường. Cơ chế của sự phát triển tâm lý chính là sự ‘‘sao chụp” lại môi trường sống. Môi trường xung quanh như thế nào thì hành vi, nhân cách của con người sẽ như thế ấy. Bởi thế, muốn nghiên cứu trẻ em chỉ cần phân tích môi trường xã hội xung quanh là có thể hiểu được nó. Nhưng họ lại hiểu môi trường xã hội một cách bất biến, quyết định số phận con người. So với Thuyết tiền định, Thuyết duy cảm dường như đối lập với Thuyết tiền định, về hình thức, quan điểm của hai học thuyết này không giống nhau, nhưng thực chất cả hai đều xem trẻ em như là một thực thể thụ động trước tác động của di truyền hay môi trường. Nếu Thuyết tiền định bảo vệ sự tồn tại của giai cấp
  8. và chủng tộc thống trị trong xã hội bằng tính di truyền thi Thuyết duy cảm bảo vệ họ bằng những điều kiện đặc biệt của môi trường. Vì lẽ đó, khi phân tích nguyên nhân trẻ em phạm pháp thì những người theo Thuyết tiền định cho rằng mầm mống phạm tội đã có sẵn trong di truyền, còn những người theo Thuyết duy cảm lại cho rằng trẻ em phạm tội vì nó sống trong môi trường tội lỗi. Như vậy, Thuyết duy cảm có ưu điểm là nhìn thấy được sự ảnh hưởng của môi trường đối với sự phát triển tâm lý trẻ em, nhưng lại quá đề cao vai trò của giáo dục mà hạ thấp sự ảnh hưởng của di truyền, đồng thời phủ nhận tính tích cực của chủ thể, vì thế không thể giải thích được vì sao trong một môi trường sống như nhau lại có những nhân cách khác nhau. c) Thuyết hội tụ hai yếu tố Nhằm khắc phục sự phiến diện và sai lầm của hai học thuyết trên, V. Stecnơ (nhà Tâm lý học người Đức) đã xây dựng Thuyết hội tụ hai yếu tố. Theo thuyết này thì sự tác động qua lại giữa môi trường và di truyền quyết định sự phát triển tâm lý trẻ em. Trong hai yếu tố trên, di truyền giữ vai trò quyết định còn môi trường là điều kiện để biến những yếu tố có sẵn của di truyền trở thành hiện thực. Nghĩa là, theo họ, động lực của sự phát triển tâm lý trẻ emlà sự tác động qua lại giữa di truyền và môi trường. Cơ chế của sự phát triển là sự trưởng thành, chín muồi của những tiềm năng sinh vật bẩm sinh có sẵn, trong đó nhịp độ và giới hạn của sự phát triển là tiền định. Như vậy, lắp ghép hai quan niệm sai lầm thành một học thuyết mới, về thực chất không có gì hơn thuyết sai lầm đứng riêng lẻ. Những người theo thuyết này có đề cập đến vai trò của môi trường đối với tốc độ chín muồi của năng lực và nét tính cách được truyền lại cho trẻ em. Nhưng theo họ, “môi trường” không phải là toàn bộ những điều kiện và hoàn cảnh trẻ em đang sống mà chỉ là gia đình của trẻ Môi trường này mang tính riêng biệt và gần như tách rời với đời sống xã hội. “Môi trường xung quanh” này thường xuyên ổn định và ảnh hưởng một cách định mệnh đến sự phát triển tâm lý của trẻ, mà không phụ thuộc vào hoạt động sư phạm của nhà giáo dục và tính tích cực của trẻ. Quan niệm như trên là không hợp lý, bởi trên thực tế có nhiều trẻ em sinh đôi cùng trứng, cùng sống trong một môi trường gia đình như nhau nhưng tâm lý lại phát triển khác nhau. Chính vì vậy mà học thuyết này cũng không được thừa nhận rộng rãi, cho dù ưu điểm của học thuyết là có đề cập đến sự ảnh hưởng của di truyền và môi trường sống nhưng còn mang tính máy móc và chưa cụ thể, do đó cũng chưa thấy hết được vai trò của giáo dục và dạy học đối với sự phát triển tâm lý trẻ em. Hơn nữa, học thuyết phủ nhận tính tích cực của trẻ em, vì vậy không thể giải thích được nhiều trường hợp trong thực tiễn. 1.2.2.2 Quan niệm duy vật biện chứng về sự phát triển tâm lý trẻ em Đây là quan điểm của các nhà Tâm lý học thuộc trường phái Tâm lý học hoạt động với các đại diện tiêu biểu: L. X. Vưgốtxki, A. N. Leônchiev, D. B. Encônhin, Khi xem xét các vấn đề về sự phát triển tâm lý trẻ em các nhà Tâm lý học hoạt động chủ yếu dựa trên nguyên lý phát triển của triết học Mác - Lê nin. Nguyên lý phát triển trong triết học Mác - Lê nin thừa nhận sự phát triển là quá trình biến đổi của sự vật hiện tượng từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp. Đó là quá trình tích lũy dần về lượng dẫn đến sự nhảy vọt về chất, là quá trình nảy sinh cái mới trên cơ sở cái cũ do sự đấu tranh giữa các mặt đối lập nằm ngay trong bản thân sự vật, hiện tượng. Khi nói đến khái niệm phát triển người ta hay đề cập đến những khái niệm có liên quan như lượng và chất, tăng trưởng, chín muồi và phát triển, cần phân biệt rõ những khái niệm này.
  9. Thay đổi về lượng là thay đổi về mặt hình thức các thuộc tính của sự vật hiện tượng (số lượng bao nhiêu, mức độ nhiều hay ít, khối lượng, kích thước, tốc độ, ). Thay đổi về chất là thay đổi về mặt nội dung, thay đổi những thuộc tính bản chất của sự vật hiện tượng. Tăng trưởng là sự biến đổi dần dần và tăng thêm về số lượng hoặc mức độ của một cấu trúc đã có. Chín muồi là để chỉ sự tăng trưởng đạt đến “độ” (mức độ đỉnh). Tại thời điểm đó sẽ xảy ra sự biến đổi về chất. Phát triển là sự biến đổi về bản chất của cái được phản ánh và phương thức phản ánh của cấu trúc đã có đó, nghĩa là có sự cấu tạo lại, điều chỉnh lại cấu trúc đó và kết quả là tạo ra cái mới cả về phương diện hình thức lẫn nội dung. Quan hệ giữa tăng trưởng, chín muồi với phát triển là quan hệ về mặt số lượng và chất lượng. Tăng trưởng, chín muồi dẫn đến sự biến đổi nhảy vọt về chất (phát triển). Vận dụng quan điểm Mác xít này để xem xét sự phát triển tâm lý trẻ em. Như vậy, sự phát triển tâm lý trẻ em cũng là quá trình biến đổi tâm lý của trẻ em từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp, cũng là quá trình tích lũy dần về lượng, dẫn đến sự nhảy vọt về chất, là quá trình nảy sinh những nét tâm lý mới trên nền những nét tăm lý cũ do sự đấu tranh giữa các mặt đối lập nằm ngay trong chính bản thân đứa trẻ. Quan điểm của các nhà tâm lý học Mác xít về sự phát triển tâm lý trẻ em có một số điểm đáng chú ý sau: Bản chất của sự phát triển tâm lý chính là quá trình tích lũy dần về lượng dẫn đến sự biến đổi về chất trong các hoạt động tâm lý và nhân cách của trẻ. Sự phát triển tâm lý trẻ em được thể hiện ở hai mặt số lượng và chất lượng. Sự thay đổi về lượng của các chức năng tâm lý đạt đến độ “chín muồi” sẽ dẫn đến sự biến đổi nhảy vọt về chất và đưa đến cấu tạo tâm lý mới được hình thành. Ví dụ: tư duy con người đi từ tư duy trực quan hành động đến tư duy trực quan hình tượng rồi đến tư duy trừu tượng. Mỗi một loại tư duy sau đó có sự thay đổi về chất so với loại tư duy trước đó. Sự phát triển tâm lý tuân theo quy luật phủ định của phủ định, gắn liền với sự xuất hiện những cấu tạo tâm lý mới ở những giai đoạn lứa tuổi khác nhau. Sự phát triển tâm lý diễn ra theo chiều hướng đi lên, trong đó sẽ có những nét tâm lý mới được hình thành, những nét tâm lý cũ mất đi, nhưng không phải là mất đi hẳn mà là sự cấu tạo lại, cải tổ lại cấu trúc tâm lý cũ đó, kế thừa những yếu tố tích cực của cấu trúc cũ, gạt bỏ những yếu tố không phù hợp và cải tạo lại chúng cho phù hợp với sự phát triển của cấu trúc tâm lý mới, kết quả là những cấu tạo tâm lý mới được hình thành trên cơ sở cấu trúc tâm lý cũ ở một giai đoạn lứa tuổi nhất định, cấu tạo tâm lý mới ấy, sau khi xuất hiện lại tiếp tục phát triển và đến một lúc nào đó sẽ bị phủ định bởi cấu tạo tâm lý mới xuất hiện từ trong lòng nó và quá trình đó cứ thế tiếp tục mãi. Sự phát triển như vậy luôn diễn ra liên tục, theo chiều hướng đi lên, nhưng không theo đường thẳng mà theo hình xoáy trôn ốc. Vì thế, sự phát triển tâm lý còn tuân theo quy luật kế thừa. Ví dụ: tự ý thức về bản thân được hình thành từ tuổi mẫu giáo và phát triển qua các giai đoạn lứa tuổi khác nhau. Sự tự ý thức của thiếu niên khác với sự tự ý thức của tuổi nhi đồng, tuổi mẫu giáo về chất. Như vậy, trong mỗi giai đoạn lứa tuổi sẽ có sự cải tổ về chất của các quá trình tâm lý và toàn bộ nhân cách của trẻ. Sự xuất hiện những nét cấu tạo tâm lý mới đã làm cho mỗi giai đoạn lứa tuổi tâm lý con người sẽ mang những nét đặc trưng riêng.
  10. Ví dụ: các em học sinh THPT có những nét tâm lý đặc trưng riêng khác với các giai đoạn lứa tuổi khác như là sự hình thành thế giới quan khoa học và xu hướng nghề nghiệp. Dù muốn hay không muốn thì trước cánh cổng vào đời, các em cũng phải suy nghĩ để lựa chọn cho mình một hướng đi, điều đó khiến các em đặc biệt quan tâm đến các loại hình nghề nghiệp và lựa chọn cho mình một nghề nghiệp, một hướng đi trong tương lai. Sự phát triển tâm lý diễn ra không phẳng lặng mà có khủng hoảng và đột biến. Sự phát triển tâm lý có những giai đoạn phát triển cân bằng ổn định tạm thời xen kẽ với những thời kỳ “khủng hoảng” và đột biến với những đổi thay sâu sắc. Ví dụ: khủng hoảng tuổi lên 3, khủng hoảng tuổi dậy thì. Sự phát triển tâm lý có tính liên tục, kéo dài suốt cả cuộc đời và tuân theo một quy luật tuần tự với những giai đoạn nối tiếp nhau theo một trật tự cố định. Cụ thể là các giai đoạn: Bắt đầu từ bào thai - sơ sinh - hài nhi - nhi đồng - thiếu niên - thanh niên - người trưởng thành - già lão. Sự phát triển tuân theo trình tự của các giai đoạn đó, không có sự đốt cháy giai đoạn, hoặc nhảy cóc qua các giai đoạn. Nếu con người chết đi ở giai đoạn nào thì đời người dừng lại ở giai đoạn đó. Sự phát triển tâm lý trẻ em là một quá trình trẻ em tích cực hoạt động để-lĩnh hội nền văn hóa xã hội loài người. L.x. Vưgốtxki đã đi sâu nghiên cứu về vai trò của việc sử dụng các công cụ lao động ở người và nêu ra tư tưởng: việc sử dụng các công cụ lao động dẫn đến sự biến đổi hành vi con người, khiến con người khác với động vật. Sự khác biệt này thể hiện rõ nhất ở tính gián tiếp của hoạt động. Trong hoạt động, con người biết sử dụng công cụ lao động và các kí hiệu (từ ngữ, chữ số ). Công cụ hướng ra bên ngoài, tác động vào đối tượng nhằm biến đổi nó phục vụ cho những nhu cầu của con người, còn kí hiệu hướng vào bên trong, tác động đến hành vi con người, có vai trò điều khiển, điều chỉnh hành vi và hoạt động của con người. Sự phát triển diễn ra trong chính quá trình con người nắm vững các loại công cụ và các loại kí hiệu đó. Trải qua các giai đoạn phát triển, con người sử dụng các loại ký hiệu để ghi lại những kinh nghiệm về các loại công cụ và cách thức sử dụng chúng. Đó là kho tàng kinh nghiệm mang tính xã hội lịch sử của loài người. Để phát triển, đứa trẻ phải tích cực lĩnh hội được những kinh nghiệm đó thông qua hoạt động và giao tiếp. Nhưng đứa trẻ không tự lớn lên giữa môi trường mà thông qua vai trò trung gian của người lớn. Người lớn truyền thụ những kinh nghiệm đó bằng con đường đặc trưng là giáo dục (theo nghĩa rộng). Chính vì vậy, L. X. Vưgôtxki coi giáo dục chiếm vị tri trung tâm hàng đầu trong toàn bộ hệ thống tổ chức cuộc sống của trẻ em [26, tr. 21 ] Quan điểm trên của L.x. Vưgốtxki đã được hàng loạt các nhà Tâm lý học Liên Xô nổi tiếng như: X.L. Rubinstêin, B.G. Angnhev, A.R. Luria, A.N. Leônchiev, P.J. Galpêrin, I.v. Zankôv, D.B. Elcônhin, B.B. Đavưđốp thừa nhận, triển khai nghiên cứu trên thực tiễn và chứng minh tính đúng đắn của nó. Không những thế, quan điểm hoạt động tích cực của chủ thể để lĩnh hội kinh nghiệm xã hội lịch sử là động lực của sự phát triển tâm lý trẻ Cĩậ còn được nhiều nhà tâm lý học châu Âu, Mỹ thừa nhận (A.I. Walon, J. Piaget, p. Jangt, B.F. Skingr, J.B. Watson ) [26, tr. 22]. Quan điểm của L.x. Vưgốtxki đã làm sáng tỏ nguồn gốc của sự phát triển tâm lý là môi trường văn hóa xã hội, cụ thể là những kinh nghiệm lịch sử xã hội. Cơ chế của sự phát triển tâm lý là quá trình con người tiếp thu và lĩnh hội kinh nghiệm xã hội lịch sử đó. Theo L.x. Vưgốtxki, động lực của sự phát triển tâm lý chính là hoạt động tích cực của cá nhân để giải quyết các mâu thuẫn. Nói một cách cụ thể hơn, chính những mâu thuẫn xuất hiện bên trong bản thân đứa trẻ trong quá trình sống và hoạt động có tác dụng thúc đẩy đứa trẻ tích cực hoạt động để giải quyết những
  11. mâu thuẫn đó và kết quả là dẫn đến sự phát triển tâm lý. “Nội dung thực sự của sự phát triển tâm lý chính là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập nằm ngay trong bản thân đứa trẻ, đó chính là cuộc đấu tranh giữa các mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn giữa những cái cũ (nội dung và hình thức của các hoạt động tâm lý) đã lỗi thời và những cái mới được sản sinh trong quá trình sống và hoạt động của trẻ (L.x. Vưgốtxki, A.N. Leônchiev, X.L. Rubinstêin)” [47, tr.19]. Ví dụ: theo Liubinxkaia có 4 nhóm mâu thuẫn ở trẻ mẫu giáo: Thứ nhất, mâu thuẫn giữa nhu cầu mới với khả năng cũ chưa thể đáp ứng nhu cầu đó. Đơn cử như: trẻ mẫu giáo bắt đầu đi học, chúng muốn giao thiệp rộng rãi hơn, chúng muốn mọi người hiểu được chúng, nhưng ngôn ngữ còn nghèo nàn, vốn từ quá ít ỏi dẫn đến trẻ phải tích cực hoạt động để có thể lĩnh hội ngôn ngữ được nhiều hơn, kết quả là cuối tuổi mẫu giáo hầu hết các trẻ đều biết sử dụng tiếng mẹ đẻ một cách thành thạo trong sinh hoạt hàng ngày. Thứ hai, mâu thuẫn giữa khả năng mới với hình thức cũ của hoạt động đang cản trở sự phát triển khả năng đó. Chẳng hạn, trẻ ba tuổi có thể tự mặc quần áo, tự ăn cơm, nhưng người lớn không cho dẫn đến khủng hoảng tuổi lên ba, đòi “con tự” làm. Thứ ba, mâu thuẫn giữa hình thức cũ và hình thức mới của những mâu thuẫn: muốn vẽ nhưng chưa biết vẽ, biết vẽ nhưng vẽ không đẹp, vẽ không đẹp nên muốn vẽ đẹp hơn, vẽ đẹp rồi lại muốn vẽ gì đó mới hơn, lạ hơn, Những mâu thuẫn nảy sinh không ngừng đó thôi thúc trẻ tích cực lĩnh hội những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mới, từ đó dẫn đến sự sáng tạo của trẻ trong hoạt động. Thứ tư, mâu thuẫn giữa khả năng cũ với hình thức mới của hoàn cảnh (khả năng hiện có chưa đáp ứng được với những đòi hỏi mới của hoàn cảnh): khi trẻ bắt đầu đi mẫu giáo, giáo viên đòi hỏi trẻ phải tuân theo những yêu cầu của trường mầm non, nhưng trẻ chưa quen, chưa có khả năng thực hiện điều đó nên trẻ phải tích cực hoạt động để đáp ứng yêu cầu của giáo viên. Tóm lại, có rất nhiều loại mâu thuẫn, chúng khác nhau trong từng thời điểm và từng giai đoạn lứa tuổi, nhưng mâu thuẫn chủ yếu nhất vẫn là mâu thuẫn giữa một bên là cái “tôi muốn" (nhu cầu) và một bên là cái “tôi có thể” (khả năng). Một mặt, trẻ có nhu cầu được hòa nhập vào đời sống của người lớn, được giống như người lớn, muốn có một vị trí xã hội nhất định trong đời sống, mong muốn thể hiện sự độc lập nhưng mặt khác, trẻ lại thiếu đi những khả năng hiện thực để đáp ứng nhu cầu đó. Trong nhận thức của trẻ nó xuất hiện như một sự không tương thích giữa nhu cầu và khả năng hiện có. Để giải quyết mâu thuẫn, trẻ phải tích cực hoạt động để lĩnh hội những kiến thức mới, hình thành kỹ năng, kỹ xảo mới , nhằm mở rộng quyền tự lập và nâng cao khả năng, dẫn tới sự khai phá những điều mới mẻ trong xã hội người lớn, cái xã hội mà hiện giờ chúng chưa đủ trình độ để hiểu nhưng là cái xã hội mà chúng muốn được bước vào. Sự phát triển tâm lý chịu tác động của nhiều yếu tố: bẩm sinh, di truyền, môi trường sống và hoạt động, dạy học - giáo dục và hoạt động cá nhân. Trong đó yếu tố bẩm sinh, di truyền đóng vai trò là tiền đề của sự phát triển tâm lý, môi trường xã hội và hoạt động là điều kiện, dạy học - giáo dục đóng vai trò chủ đạo, còn hoạt động tích cực của cá nhân đóng vai trò quyết định sự phát triển tâm lý. 1.2.3 Những quy luật chung về sự phát triển tâm lý trẻ em 1.2.3.1 Tính không đồng đều của sự phát triển tâm lý Đây là quy luật chung của sự phát triển tâm lý. Quy luật này được thể hiện ở chỗ những biểu hiện tâm lý, những chức năng tâm lý ở trẻ em không thể phát triển ở mức độ như nhau dù trong điều kiện giống nhau. Tính không đồng đều của sự phát triển tâm lý được xem xét kỹ hơn ở hai khía cạnh sau: Xét trong tiến trình phát triển tâm lý cá nhân:
  12. Sự phát triển tâm lý cá nhân diễn ra không đồng đều qua các giai đoạn lứa tuổi, mà có những giai đoạn hội tụ những điều kiện tối ưu cho sự phát triển một hiện tượng tâm lý nào đó vượt trội hơn hẳn so với các hiện tượng tâm lý khác. Giai đoạn thuận lợi đó gọi là giai đoạn phát cảm. Ví dụ: 1-5 tuổi: giai đoạn phát cảm ngôn ngữ, 6-11 tuổi giai đoạn phát cảm kỹ xảo vận động, 15- 20 tuổi: giai đoạn phát cảm tư duy logic. Tốc độ, nhịp độ phát triển tâm lý của một cá nhân (trí tuệ, tình cảm. đạo đức, ) qua các giai đoạn lứa tuổi cũng diễn ra không đồng đều. Có những giai đoạn phát triển nhanh, mạnh, có giai đoạn phát triển êm ả, chậm hơn. Chẳng hạn, giai đoạn dậy thì trẻ phát triển rất nhanh, rất mạnh. Các cấu trúc tâm lý của cá nhân cũng phát triển không đều về thời điểm hình thành, tốc độ và mức độ phát triển. Chẳng hạn, trẻ phát triển nhận thức trước phát triển ngôn ngữ, phát triển ý thức về các sự vật bên ngoài trước khi phát triển ý thức về bản thân. Xét trong quan hệ giữa cá nhân này với cá nhân khác. Trong cùng một lứa tuổi, tốc độ và mức độ phát triển tâm lý của các cá nhân (nhận thức, tình cảm, sở thích, tính cách, ) cũng không đều nhau. Có những trẻ phát triển sớm hơn hoặc muộn hơn các trẻ khác. Nguyên nhân là do di truyền, điều kiện sống và hoạt động khác nhau, tính tích cực hoạt động cũng khác nhau giữa các trẻ. Điều này đặt ra vấn đề giáo dục trẻ em không chỉ tôn trọng sự khác biệt cá nhân mà còn phải tạo điều kiện thuận lợi để các em có thể phát huy đến mức tối đa mọi tiềm năng của mình. 1.2.3.2 Tính toàn vẹn của sự phát triển tâm lý Con người càng phát triển thì tâm lý con người ngày càng trở nên trọn vẹn, thống nhất và bền vững hơn. Tâm lý trẻ nhỏ phần lớn là một tổ hợp các quá trình tâm lý và phẩm chất tâm lý thiếu hệ thống và rời rạc nhau. Càng phát triển, tâm lý trẻ ngày càng trở nên trọn vẹn hơn, nghĩa là các thành tố trong cấu trúc của nhận thức và nhân cách ngày một nhiều hơn, đầy đủ và sâu sắc hơn. Chúng cũng thống nhất với nhau hơn, đồng nghĩa với việc chúng liên kết và phối hợp với nhau chặt chẽ thành một kết cấu tổng thể, có hệ thống và hoàn chỉnh hơn. Như vậy giữa nhận thức, tình cảm và hành động có sự nhất quán nhiều hơn và hành vi con người cũng trở nên có ý thức hơn. Hơn nữa, cùng với sự lớn lên, các quá trình tâm lý cũng dần biến đổi trở thành những thuộc tính tâm lý ổn định và bền vững trong nhân cách cá nhân. Việc nhận thức ngày càng đầy đủ và sâu sắc, tình cảm phong phú, đa dạng và mãnh liệt sẽ khiến cho hành động, ý chí càng kiên cường hơn, nghĩa là nhân cách con người cũng trở nên rõ nét hơn. Ví dụ: khi nhỏ, nhận thức ở trẻ còn non nớt, thơ ngây, xúc cảm, tình cảm bồng bột, hành vi bốc đồng thiếu ý thức (chẳng hạn, trẻ thấy đồ chơi, trẻ đòi lấy ngay, nếu không cho trẻ sẽ khóc, ). Trẻ chưa hiểu và cũng không hiểu nhiều điều. Nhưng càng lớn, trẻ càng nhận thức đầy đủ hơn, tình cảm sâu sắc hơn, hành động có ý thức và ổn định hơn, đồng thời các mặt nhận thức, thái độ, hành vi cũng liên kết với nhau trong một cấu trúc nhân cách chặt chẽ, có hệ thống hơn. Tính trọn vẹn của tâm lý phụ thuộc khá nhiều vào động cơ chỉ đạo hành vi của trẻ. Càng lớn động cơ của trẻ càng trở nên tự giác, có ý nghĩa xã hội và bộc lộ rõ trong nhân cách của trẻ. Ví dụ: trò ấu nhi thường hành động vì muốn thỏa mãn một điều gì đó, và động cơ đó thay đổi hàng ngày, hàng giờ. Trong khi đó, thanh thiếu niên thường hành động do động cơ cá nhân hoặc động cơ xã hội thúc đẩy và những động cơ đó cũng ổn định hơn. 1.2.3.3 Tính mềm dẻo và khả năng bù trừ trong sự phát triển tâm lý Tính mềm dẻo của sự phát triển tâm lý trẻ em được thể hiện ở chỗ trẻ em có thể thay đổi, có khả năng lĩnh hội kiến thức, kĩ năng để phát triển bản thân, nhờ vậy tâm lý con người không ngừng phát triển
  13. và khác hẳn về chất so với động vật. Chính tính mềm dẻo của hệ thần kinh tạo điều kiện cho người lớn có những tác động giáo dục phù hợp làm thay đổi tâm lý trẻ em. Tính mềm dẻo tạo ra khả năng bù trừ, nghĩa là các chức năng tâm lý và sinh lý có khả năng bù đắp cho nhau. Trong tiến trình phát triển cá nhân, khả năng bù trừ được thể hiện khi một chức năng tâm lý hoặc sinh lý nào đó yếu hoặc thiếu thì các chức năng tâm lý và sinh lý khác sẽ được tăng cường hoặc phát triển mạnh hơn để bù đắp cho sự thiếu hụt đó. Điều này thể hiện rất rõ đối với sự phát triển tâm lý của trẻ em bình thường và càng thể hiện rõ hơn nữa với trẻ em khuyết tật. Ví dụ: trẻ khiếm thị thì sẽ được bù đắp bởi sự phát triển mạnh mẽ của thính giác. Trên đây là một số quy luật cơ bản trong sự phát triển tâm lý trẻ em. Những quy luật đó biểu hiện với mức độ cao hay thấp, mờ nhạt hay rõ rệt còn phụ thuộc rất nhiều vào nhũng điều kiện khác của sự phát triển tâm lý như điều kiện sinh lý, điều kiện xã hội. 1.2.4 Dạy học, giáo dục và sự phát triển tâm lý L.x. Vưgốtxki nhấn mạnh về mối quan hệ tương hỗ giữa dạy học và phát triển, ông khẳng định vị trí trung tâm của dạy học và giáo dục đối với sự phát triển tâm lý, nhưng cũng thừa nhận không phải tất cả mọi cái đã học (hoặc được dạy) đều giúp ích cho sự phát triển. L.x. Vưgôtxki cho rằng dạy học phải đi trước sự phát triển và lôi cuốn sự phát triển, hướng sự phát triển của trẻ vào vùng phát triển tương lai (vùng phát triển gần nhất). Ông cho rằng có hai mức độ của sự phát triển. + Mức 1: Vùng phát triển hiện tại. Ở mức độ này, học sinh hiện đang có một số tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, và có thể tự giải quyết được vấn đề mà không cần sự hỗ trợ của người lớn. + Mức 2: Vùng phát triển gần nhất. Ở mức độ này, học sinh cần có sự giúp đỡ của người lớn thì mới giải quyết được vấn đề.Ở “vùng phát triển gần nhất” học sinh dưới sự tổ chức, điêu khiển của người thầy có thể tiếp thu được những tri thức mới gần gũi với tri thức cũ để đạt tới một trình độ phát triển cao hơn. Khi học sinh đạt được trình độ ở “vùng phát triển gần nhất” thì cũng có nghĩa là vùng phát triển gần nhất đó đã biến thành “vùng phát triển hiện tại” của vùng phát triển tương lai kế tiếp. Tâm lý học hiện đại này hôm ngy đã khẳng định tính ưu việt của việc dạy học đi trước sự phát triển, hướng sự phát triển vào tương lai. Với cách thức dạy học này càng thấy rõ hơn vai trò chủ đạo của dạy học, và giáo dục đối với sự phát triển tâm lý. Vai trò chủ đạo của dạy học và giáo dục còn được minh chứng bởi những lí do sau: Trẻ em chỉ có thể lĩnh hội được kinh nghiệm xã hội thông qua hoạt (tộng và giao tiếp với người lớn tức qua cơ chế dạy học và giáo dục. Người lớn đóng vai trò trung gian giữa trẻ em và thế giới đồ vật. Ngay từ khi mới ra đời, trẻ đã được người lớn chăm sóc về mặt thể chất, được dạy dỗ về mặt tinh thần để phát triển trí tuệ, năng lực, thông qua nhiều hình thức khác nhau: dạy ăn, dạy nói, dạy theo phương thức nhà trường, Dạy học và giáo dục tác động có mục đích, có kế hoạch, có nội dung đối với sự phát triển tâm lý của trẻ. Dạy học và giáo dục sẽ định hướng cho trẻ phát triển theo một hướng nhất định đáp ứng yêu cầu của xã hội. Nhờ cơ chế dạy học và giáo dục đứa trẻ sẽ tiếp thu tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, một cách nhanh nhất, ngắn nhất và có chọn lọc nhất. Dạy học và giáo dục tổ chức các dạng hoạt động cho trẻ góp phần thúc đẩy nhanh hơn quá trình hình thành và phát triển tâm lý của trẻ.
  14. Khi khẳng định vai trò chủ đạo của dạy học và giáo dục đối với sự phát triển tâm lý của trẻ chúng ta cần lưu ý, trẻ em là một thực thể tích cực trước tác động của môi trường, vì vậy sức ảnh hưởng của dạy học và giáo dục tuy mạnh mẽ, rộng lớn, nhưng không quyết định hoàn toàn được sự phát triển của trẻ. Muốn tâm lý trẻ phát triển đúng đắn rất cần có sự tự giáo dục của bản thân trẻ trong suốt các giai đoạn phát triển. 1.3 Sự phân chia các giai đoạn phát triển tâm lý lứa tuổi 1.3.1 Quan niệm về giai đoạn phát triển tâm lý lứa tuổi 1.3.1.1 Lứa tuổi là gì? Tâm lý học Mác xít, đại diện là L.x. Vưgốtxki quan niệm lứa tuổi là một thời kỳ phát triển tâm lý nhất định của đời người “đóng kín một cách tương đối”, và ở đó những quy luật phát triển chung bao giờ cũng được thể hiện một cách độc đáo về chất. Khi chuyển từ lứa tuổi này sang lứa tuổi khác bao giờ cũng xuất hiện những cấu tạo tâm lý mới chưa từng có trong các thời kỳ trước. Những cấu tạo tâm lý mới này cải tổ lại và làm biến đổi chính tiến trình phát triển. Sự phân chia ranh giới về độ tuổi của một giai đoạn phát triển được “đóng kín một cách tương đối”, như vậy nó có thể xê dịch, có thể sớm hơn hoặc muộn hơn tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Chẳng hạn, tuổi dậy thì của trẻ thời trước thường bắt đầu vào khoảng 13, 14 tuổi, nhưng thời ngy thì sớm hơn nhiều. Ý nghĩa của một giai đoạn lứa tuổi sẽ được quyết định bởi vị trí của thời kỳ đó trong cả quá trình phát triển chung. Chẳng hạn, vị trí tuổi thiếu niên là thời kỳ quá độ từ trẻ em sang người lớn, vậy ý nghĩa của nó trong tiến trình phát triển chung cũng sẽ quan trọng hơn những giai đoạn lứa tuổi khác. Các yếu tố đặc trưng cho lứa tuổi Mỗi một giai đoạn lứa tuổi được đặc trưng bởi nhiều yếu tố, đó là những đặc điểm về sinh lý (sự phát triển thể chất, sinh lý), đặc điểm xã hội (điều kiện sống và các dạng hoạt động, các mối quan hệ cùng những yêu cầu đặt ra cho trẻ trong giai đoạn đó) cùng những nét tâm lý đặc trưng về nhận thức, tình cảm, nhân cách, Mỗi giai đoạn lứa tuổi thể hiện một mức độ phát triển tâm lý độc đáo về chất, được đặc trưng bởi một loạt những thay đổi trong toàn bộ hệ thống cấu trúc nhân cách của con người trong giai đoạn phát triển đó. Ví dụ: thanh niên sinh viên có những nét tâm lý đặc trưng sau: sự hoàn thiện cái tôi (sự tự ý thức), sự hoàn thiện thế giới quan khoa học, khả năng thiết lập các kế hoạch cuộc đời - chuẩn bị nghề nghiệp cho tương lai, khả năng thiết lập cuộc sống độc lập hoàn toàn, khả năng dần dần xâm nhập sâu vào các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống. Những nét tâm lý này khác về chất so với tâm lý của học sinh phổ thông trung học. 1.3.1.3. Đặc điểm của việc chuyển tiếp các giai đoạn lứa tuổi Việc chuyển tiếp từ giai đoạn lứa tuổi này sang giai đoạn lứa tuổi khác bao giờ cũng gắn liền với các yếu tố sau: Sự thay đổi tình huống xã hội của sự phát triển (L.x. Vưgốtxki, A.N. Leonchiev, ). Tình huống xã hội của sự phát triển theo L.x. Vưgốtxki là sự phối hợp đặc biệt giũa các điều kiện phát triển bên trong (sự phát triển về thể chất, vốn tri thức, kỹ năng, ) và các điều kiện phát triển bên ngoài (điều kiện sống và hoạt động, các mối quan hệ, ). Những điều kiện này đặc trưng cho từng giai đoạn lứa tuổi và chúng thúc đẩy sự phát triển tâm lý trong suốt giai đoạn lứa tuổi đó, dẫn tới sự xuất hiện những nét cấu tạo tâm lý vào cuối giai đoạn lứa tuổi.
  15. Tình huống xã hội của sự phát triển đạt đến độ “chín muồi” (thường đánh dấu bằng sự thay đổi vị trí của đứa trẻ trong hệ thống các mối quan hệ xã hội của trẻ) thì sẽ tạo điều kiện để thúc đẩy trẻ bước sang một giai đoạn phát triển mới. Sự xuất hiện những nét cấu tạo tâm lý mới Cấu tạo tâm lý mới đặc trưng cho lứa tuổi là những nét tâm lý lần đầu tiên xuất hiện ở giai đoạn lứa tuổi đó. Chúng làm thay đổi bộ mặt nhân cách của con người trong giai đoạn ấy và cho ta thấy rõ một sự khác biệt tâm lý về chất so với giai đoạn lứa tuổi trước. Tình huống xã hội của sự phát triển xuất hiện vào thời kỳ đầu của mỗi giai đoạn lứa tuổi. Cuối giai đoạn lứa tuổi sẽ xuất hiện những nét cấu tạo tâm lý mới, trong số đó sẽ có một nét cấu tạo tâm lý mới trung tâm, có ý nghĩa quan trọng hơn cả đối với sự phát triển tâm lý ở giai đoạn lứa tuổi kế tiếp. Ví dụ: “Cảm giác mình là người lớn” ở cuối tuổi thiếu niên sẽ rất có ý nghĩa đối với sự phát triển tâm lý của tuổi đầu thanh niên. Xu hướng nghề nghiệp ở tuổi đầu thanh niên sẽ có ý nghĩa lớn với tuổi giữa thanh niên. Xoay quanh cấu tạo tâm lý mới trung tâm sẽ có những cấu tạo tâm lý mới bộ phận khác, gắn liền với các thành tố bộ phận khác trong cấu trúc nhân cách của trẻ. Quá trình hình thành những cấu tạo tâm lý mới ở giai đoạn lứa tuổi này sẽ gắn liền với sự phát triển những cấu tạo tâm lý mới của giai đoạn lứa tuổi trước (L.x. Vưgổtxki). Gác quá trình tâm lý đang phát triển gắn liền với những nét cấu tạo tâm lý mới đặc trưng được gọi là tuyến trung tâm (hạt nhân) của sự phát triển, tất cả những quá trình khác được hoàn tất trong giai đoạn lứa tuổi này sẽ là những tuyến phụ (vệ tinh) của sự phát triển. Tuyến phát triển trung tâm của lứa tuổi này có thể trở thành tuyến phụ của giai đoạn lứa tuổi khác và ngược lại. Như vậy, vị trí và ý nghĩa của chúng luôn thay đổi trong tiến trình phát triển tâm lý cá nhân.Sự thay đổi của hoạt động chủ đạo Theo Leônchiev, hoạt động chủ đạo là “hoạt động quy định những biến đổi trong các quá trình tâm lý và trong các đặc điểm tâm lý của nhân cách đứa trẻ ở trong giai đoạn phát triển của nó”. Còn theo một số nhà Tâm lý học hoạt động khác, “hoạt động chủ đạo là hoạt động luôn gắn liền với những biến đổi chủ yếu nhất trong tâm lý, làm xuất hiện những cấu tạo tâm lý mới trong giai đoạn phát triển của nó” [47, tr. 15]. Như vậy, hoạt động chủ đạo là hoạt động quy định những biến đổi chủ yếu nhất trong tâm lý con người trong giai đoạn phát triển của nó. Ví dụ hoạt động chủ đạo của trẻ sơ sinh - hài nhi là hoạt động giao lưu cảm xúc trực tiếp với người lớn, của trẻ ấu nhi là hoạt động với đồ vật, của trẻ mẫu giáo là hoạt động vui chơi, của nhi đồng là hoạt động học tập, và của nhà trường thành là hoạt động nghề nghiệp. Nhũng hoạt động này sẽ làm nảy sinh những nét cấu tạo tâm lý mới trong từng giai đoạn lứa tuổi, khiến cho các giai đoạn lứa tuổi khác biệt với nhau về chất. Hoạt động chủ đạo có một số đặc điểm cơ bản như sau: + Là hoạt động chủ yếu nhất, cơ bản nhất, có ý nghĩa nhất. Hoạt động chủ đạo có thể không phải là hoạt động chiếm nhiều thời gian nhất nhưng là hoạt động chi phối mạnh mẽ toàn bộ cuộc sống của con người và gây ra những biến đổi chủ yếu nhất trong các quá trình tâm lý và nhân cách của con người ở giai đoạn phát triển của nó. + Làm xuất hiện những cấu tạo tâm lý mới đặc trưng cho lứa tuổi đó. Dưới sự tác động của hoạt động chủ đạo các quá trình tâm lý, các đặc điểm tâm lý chủ yếu nhất sẽ được hình thành hay được cải tổ lại, dẫn đến sự xuất hiện những cấu tạo tâm lý mới đặc trưng cho lứa tuổi.
  16. + Là hoạt động có khả năng chi phối các hoạt động khác diễn ra đồng thời với nó và tạo tiền đề cho sự hình thành một dạng hoạt động chủ đạo mới của lứa tuổi kế tiếp, phát sinh ngay từ trong lòng của hoạt động này. Ví dụ: việc học được xuất hiện lần đầu tiên trong trò chơi của trẻ mẫu giáo (khi chơi trẻ đã phải học), sang tuổi nhi đồng hoạt động học tập sẽ trở thành hoạt động chủ đạo. Khủng hoảng lứa tuổi Sự xuất hiện những nét cấu tạo tâm lý mới khiến cho toàn bộ cấu trúc nhân cách được cải tổ lại, dẫn đến sự phát triển tâm lý có tính nhảy vọt, đột biến về chất. Điều đó có thể dẫn đến những sự “khủng hoảng” lứa tuổi. Trong Tâm lý học lứa tuổi vẫn chưa có sự thống nhất ý kiến về vấn đề khủng hoảng lứa tuổi, vị trí và vai trò của nó trong sự phát triển tâm lý của đứa trẻ. Có nhóm nghiên cứu cho rằng, khủng hoảng lứa tuổi là hiện tượng không bình thường, có dấu hiệu bệnh lý. Số khác lại cho rằng, khủng hoảng trong sự phát triển của trẻ em là quy luật. Trẻ em, không thực sự trải nghiệm khủng hoảng, không thể phát triển toàn diện tiếp theo. Khủng hoảng lứa tuổi là thuật ngữ dùng để chỉ các giai đoạn lứa tuổi phát triển đầy biển động xen giữa các giai đoạn ổn định. Đó là giai đoạn lứa tuổi có sự phát triển rất nhanh, mạnh và trong thời gian ngắn lượng đã biến thành chất. Theo L.x. Vưgôtxki, sự phát triển tâm lý trong giai đoạn chuyển tiếp từ lứa tuổi này sang lứa tuổi khác có thể diễn ra từ từ, chậm chạp hoặc rất nhanh chóng, đầy biển động, ông chia các giai đoạn phát triển thành hai loại: giai đoạn bình ổn và giai đoạn khủng hoảng. Giai đoạn bình ổn: là giai đoạn tương đối dài, sự phát triển tâm lý diễn ra từ từ, không có thành tựu nổi bật, không gây được sự chú ý đối với người xung quanh. Giai đoạn khủng hoảng (biến động): là giai đoạn diễn ra những biến đổi bản chất trong quá trình phát triển tâm lý. Đây là giai đoạn chuyển tiếp từ lứa tuổi này sang lứa tuổi khác. Giai đoạn này thường diễn ra ngắn, vài tháng, nhưng nếu dưới tác động không tốt của ngoại cảnh có thể kéo dài từ một đến hai năm hoặc lâu hơn nữa và kết quả là trong sự phát triển của trẻ có được những thành tựu nổi bật và có ý nghĩa. Khủng hoảng bắt đầu và kết thúc không rõ ràng, nó thường gắn liền với sự thay đổi hành vi ở trẻ. Đặc biệt đó là sự xuất hiện thái độ ương bướng, khó bảo “khó giáo dục” Các trẻ em trải qua giai đoạn khủng hoảng khác nhau. Có trẻ rất khó khăn, có trẻ rất nhẹ nhàng. Những thay đổi quan trọng nhất diễn ra trong giai đoạn khủng hoảng là những thay đổi bên trong. Đứa trẻ xuất hiện những biểu hiện tiêu cực như mất hứng thú, khó chịu, từ chối những giá trị và các mối quan hệ trước đây Nhưng cùng với sự triệt tiêu cái cũ sẽ sản sinh ra những cái mới. Những cấu tạo tâm lý mới xuất hiện trong thời kỳ khủng hoảng thường không bền vững, nó sẽ được thay đổi trong giai đoạn bình ổn, và tạo ra những cấu tạo tâm lý mới bền vững hơn. Trong giai đoạn khủng hoảng, trẻ em hay gặp hai mâu thuẫn chủ yếu: mâu thuẫn giữa những nhu cầu đang lớn dần lên với những hạn chế trong khả năng, mâu thuẫn giữa những nhu cầu mới của trẻ với những môi quan hệ đã hình thành trước đây với người lớn. Những mâu thuẫn này thường được xem như là động lực của sự phát triển. Những khủng hoảng tiêu biểu ở trẻ em: khủng hoảng chào đời, 1 tuổi, 3 tuổi, 7 tuổi, 13 tuổi (dậy thì), 17 tuổi (đầu thanh niên) (L.x. Vưgốtxki).
  17. Khủng hoảng 3 tuổi và khủng hoảng ở tuổi dậy thì gọi là khủng hoảng quan hệ. Khủng hoảng 1 tuổi và khủng hoảng 7 tuổi gọi là khủng hoảng thế giới quan (D.B. Encônhin). 1.3.2 Sự phân chia các giai đoạn lứa tuổi Khi phân chia các giai đoạn lứa tuổi các nhà Tâm lý học dựa trên các tiêu chí khác nhau, chẳng hạn như Jean Piaget căn cứ vào sự hình thành và phát triển của các cấu trúc nhận thức và trí tuệ của cá nhân để phân chia thành 4 giai đoạn lứa tuổi ở trẻ em, E. Erikson lại căn cứ vào đặc điểm tâm lý - xã hội của cá nhân để chia làm 8 giai đoạn trong một đời người, S. Freud dựa vào bản năng tình dục để phân chia thành 5 giai đoạn. Các nhà Tâm lý học hoạt động cũng có rất nhiều cách phân chia các giai đoạn lứa tuổi khác nhau, nhưng tựu trung lại thì thường căn cứ vào các tiêu chí chủ yếu như tình huống xã hội của sự phát triển, cấu tạo tâm lý mới của lứa tuổi, hoạt động chủ đạo và cả khủng hoảng lứa tuổi để xác định các giai đoạn lứa tuổi. Như vậy, có nhiều cách phân chia các giai đoạn lứa tuổi khác nhau. Mọi sự phân chia lứa tuổi cũng chỉ mang tính chất tương đối mà thôi. Ở nước ta các nhà Tâm lý học thường phân chia các giai đoạn lứa tuổi dựa theo tiêu chí của các nhà Tâm lý học hoạt động. Dưới đây là các giai đoạn lứa tuổi được thừa nhận rộng rãi ở Việt Ngm. Các giai đoạn phát triển tâm lý theo lứa tuổi: 1.Giai đoạn thai nhi 2.Giai đoạn sơ sinh - hài nhi (0 - 1 tuổi) 3.Giai đoạn vườn trẻ (1 - 3 tuổi) 4. Giai đoạn mẫu giáo (3-6 tuổi) 5. Giai đoạn nhi đồng (6-11 tuổi) 6. Giai đoạn thiếu niên (11-15 tuổi) 7.Giai đoạn thanh niên (15 - 25, 28 tuổi). Gồm 3 giai đoạn cụ thể: - Giai đoạn đầu thanh niên (15-18 tuổi) - Giai đoạn giữa thanh niên (18 - 22, 23 tuổi) - Giai đoạn cuối thanh niên (22, 23 - 25, 28 tuổi) 8. Giai đoạn trưởng thành (25, 28 tuổi - 60 tuổi) 9. Giai đoạn tuổi già (sau 60 tuổi). Mỗi giai đoạn lứa tuổi có một vai trò và vị trí nhất định trong tiến trình phát triển tâm lý cá nhân. Mỗi giai đoạn lứa tuổi cũng có những nét đặc trưng riêng về điều kiện phát triển tâm lý, hoạt động chủ đạo và những nét tâm lý điển hình. Khi xem xét sâu hơn một giai đoạn lứa tuổi nào đó chúng ta phải chú ý đến những điểm cơ bản này. Hai chương tiếp theo chúng ta sẽ xem xét cụ thể những đặc điểm đó ở giai đoạn lứa tuổi thiếu niên và thanh niên học sinh. TÓM TẮT
  18. Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học lứa tuổi là các hiện tượng tâm lý con người trong từng giai đoạn lứa tuổi từ bào thai đến tuổi già. Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học sư phạm là các hiện tượng tâm lý, các quy luật tâm lý (của người dạy - người học) trong quá trình dạy học và giáo dục, đảm bảo cho quá trình đó đạt hiệu quả tối ưu. Nhiệm vụ của Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm là nghiên cứu những đối tượng trên, từ đó rút ra những quy luật chung, cung cấp những kết quả nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn, nhằm tổ chức hợp lý quá trình sư phạm, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động dạy học và giáo dục. Thuyết tiền định, Thuyết duy cảm, Thuyết hội tụ hai yếu tố có những, quan niệm sai lầm giống nhau về sự phát triển tâm lýtrẻ em : họ đều thừa nhận đặc điểm tâm lý của con người là bất biến hoặc do tiền định hay do ảnh hưởng của môi trường. Họ đánh giá không đúng vai trò của giáo dục hoặc phủ nhận hoặc quá đề cao, họ đều phủ nhận tính tích cực hoạt động của cá nhân nên không giải thích được nhiều trường hợp trong thực tiễn, vì vậy dẫn đến những phương pháp giáo dục sai lầm. Ngày ngy, Tâm lý học Mác xít thừa nhận nguồn gốc của sự phát triển tâm lý là môi trường văn hóa xã hội, cụ thể là những kinh nghiệm lịch sử xã hội. Cơ chế của sự phát triển tâm lý là quá trình con người tiếp thu và lĩnh hội kinh nghiệm xã hội lịch sử đó. Những mâu thuẫn xuất hiện bên trong bản thân đứa trẻ trong quá trình sống và hoạt động chính là động lực thúc đẩy sự phát triển tâm lý. Dạy học và giáo dục đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển tâm lý. Dạy học phải đi trước sự phát triển, lôi cuốn sự phát triển, hướng sự phát triển vào vùng phát triển gần nhất. Mỗi một giai đoạn lứa tuổi được đặc trưng bởi nhiều yếu tố, đó là những đặc điểm về sinh lý, về xã hội, về tâm lý. Mỗi giai đoạn lứa tuổi có sự phát triển tâm lý độc đáo về chất. Sự chuyển tiếp từ giai đoạn lứa tuổi này sang giai đoạn lứa tuổi khác gắn liền với sự thay đổi tình huống xã hội của sự phát triển, sự xuất hiện những cấu tạo tâm lý mới và sự thay đổi dạng hoạt động chủ đạo. Trong tiến trình phát triển tâm lý nói chung sẽ có những giai đoạn phát triển bình ổn đan xen với những giai đoạn phát triển khủng hoảng. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Trình bày tóm tắt luận điểm của Thuyết tiền định,Thuyết duy cảm và Thuyết hội tụ hai yếu tố về sự phát triển tâm lý trẻ em và chỉ ra những mặt ưu điểm và hạn chế của những học thuyết đó. 2. Trình bày quan điểm của dòng Tâm lý học hoạt động về sự phát triển tâm lý trẻ em. 3. Trình bày quan hệ giữa dạy học, giáo dục và sự phát triển tâm lý trẻ em. 4. Trình bày quan niệm về các giai đoạn phát triển tâm lý và sự phân chia các giai đoạn lứa tuổi. Chương 2: TÂM LÝ HỌC TUỔI THIẾU NIÊN MỤC TIÊU Sau khi học xong chương này, người học có thể : Về kiến thức - Biết, hiểu những điều kiện phát triển tâm lý của thiếu niên, đặc biệt cần nắm vững những đặc điểm trong hoạt động giao tiếp của thiếu niên. - Nắm vững những nét tâm lý cấu tạo tâm lý mới đặc trưng về nhận thức, tình cảm, nhân cách của thiếu niên. Về kỹ năng
  19. - Vận dụng kiến thức đã học để phân tích các hiện tượng tâm lý, các tình huống tâm lý thường gặp ở thiếu niên, biết đề ra được các biện pháp phù hợp để giải quyết các tình huống ấy. - Vận dụng kiến thức trong giao tiếp, ứng xử với thiếu niên. Về thái độ - Tích cực quan tâm tìm hiểu, nghiên cứu các vấn đề của thiếu niên. - Thể hiện thái độ đúng đắn trong giao tiếp ứng xử với thiếu niên. 2.1 Những điều kiện phát triển tâm lý của thiếu niên 2.1.1 Khái niệm tuổi thiếu niên Tuổi thiếu niên là một giai đoạn phát triển tâm lý đầy biến động của một đời người. Ngay từ cuối thế kỷ XIX khi ngành Tâm lý học phát triển mới sơ khai, nhiều nhà Tâm lý học đã nhấn mạnh đến vị trí và ý nghĩa đặc biệt của nó. Tuy nhiên tên gọi và giới hạn độ tuổi vẫn chưa được xác lập một cách rõ ràng, chuẩn xác. Trong đời sống xã hội, ta có thể gặp rất nhiều cụm từ khác nhau để gọi tên lứa tuổi này. Có những tên gọi phản ánh những biểu hiện tiêu cực của lứa tuổi này như: tuổi khủng hoảng, tuổi khó bảo, tuổi bất trị, tuổi lì lợm, nhưng cũng có rất nhiều tên gọi thể hiện sự thơ ngây, hồn nhiên, trong sáng và đẹp đẽ của lứa tuổi này như: tuổi dậy thì, tuổi mới lớn, tuổi mực tím, tuổi ô mai, tuổi hồng, tuổi ngọc, tuổi hoa niên, Tâm lý học phát triển phương Tây thường quan niệm đây là giai đoạn đầu của tuổi vị thành niên. Tâm lý học phát triển Liên Xô thường quan niệm đây là tuổi thiếu niên hoặc tuổi học sinh trung học cơ sở. Ở Việt Ngm, tên gọi và giới hạn độ tuổi cũng mang tính chuẩn tương đối mà thôi. Về thể chất, dấu hiệu cơ bản để nhận biết một trẻ em đã bước sang tuổi thiếu niên là hiện tượng dậy thì. Về độ tuổi, đa số thiếu niên ở trong độ tuổi 11,12 tuổi đến 14,15 tuổi, ở Việt Ngm, lứa tuổi này gần trùng với thời điểm trẻ học ở bậc trung học cơ sở, vì vậy tuổi thiếu niên còn được gọi là tuổi học sinh trung học: cơ sở. Có nhiều trẻ bắt đầu dậy thì vào đầu cấp học, bên cạnh đó cũng có nhiều trẻ dậy thì sớm hơn hoặc muộn hơn. Về thời điểm kết thúc tuổi thiếu niên, các chỉ số thường gắn liền với sự trường thành về mặt cơ thể và sinh dục, còn về phương diện xã hội thì không rõ ràng, ở các nước phát triển, trẻ em dậy thì và có tính tự lập sớm nên thời điểm chấm dứt tuổi thiếu niên thường sớm hơn so với trẻ em ở nước ta. 2.1.2 Điều kiện về sinh lý Sự phát triển về mặt sinh lý ở thiếu niên có đặc điểm là tốc độ phát triển cơ thể rất nhanh, mạnh, nhưng không đồng đều về mọi mặt, đồng thời xuất hiện hiện tượng dậy thì đánh dấu sự trưởng thành về hệ sinh dục. Ở lứa tuổi thiếu niên diễn ra sự cải tổ rất mạnh mẽ và sâu sắc về cơ thể, về sinh lý, đây là giai đoạn bứt phá lần thứ hai trong cuộc đời, sau giai đoạn sơ sinh. 2.1.2.1 Sự phát triển về chiều cao và cân nặng Chiều cao của thiếu niên tăng lên một cách đột ngột, xuất hiện hiện tượng “trổ giò”. Tầm vóc của các em lớn lên trông thấy, bộ đồ mẹ mới mua cho hôm Tết rất vừa vặn, mùa hạ đã trở nên ngắn cũn cỡn. Chiếc xe đạp mới mua, cha phải hạ thấp yên cho chân chạm đất, thế mà chẳng mấy chốc khi đạp xe thì đầu gối đã chạm phải ghi đông Tốc độ phát triển về thể chất biểu hiện rất rõ trong lứa tuổi thiếu niên. Vào thời điểm bùng phát dậy thì, trung bình một năm, các em gái cao thêm 5 - 6cm, các em trai cao thêm 6 - 7cm. Cân nặng hàng năm tăng từ 2,4 - 6kg. Những năm gần đây, cân nặng và chiều cao của thiếu niên phát triển với nhịp độ nhanh
  20. hơn, mạnh hơn, các em trở nên cao hơn, to hơn so với trẻ em 20 - 30 năm trước, thậm chí còn có hiện tượng béo phì. Một nghiên cứu từ năm 2004 - 2009 trên 759 học sinh cấp 2 ở các quận nội thành TPHCM cho thấy, trẻ thừa cân béo phì đang gia tăng nhanh chóng. Tỷ lệ thừa cân tăng gấp 1,5 và tỷ lệ béo phì tăng gấp 3. Tỷ lệ trẻ thừa cân năm 2004 là 12,5%, đến năm 2009 tăng lên 18.4%. Trong khi đó, tỷ lệ trẻ béo phì tăng từ 1,7% lên 6,2%. Nghiên cứu này cũng cho thấy, tỷ lệ số trẻ ngm béo phì luôn cao hơn nhiều so với trẻ nữ và tăng đều trong từng năm. 2.1.2.2 Sự phát triển của hệ cơ xương Hệ xương đang diễn ra quá trình cốt hóa về hình thái. Ở các bé gái đang diễn ra quá trình hình thành các mảnh của xương chậu đáp ứng chức năng làm mẹ sau này, vì vậy nên tránh cho các em đi giày quá cao để không ảnh hưởng đến chức năng sinh sản. Thiếu niên dưới 14 tuổi, hệ xương sống vẫn còn nhiều các đốt sụn đang cốt hóa, nên cột sống rất dễ bị cong, vẹo khi ngồi, vận động và mang vác vật nặng không đúng tư thế. Sự hỏng tư thế diễn ra nhiều nhất ở tuổi 12-15, vì vậy cần chú ý nhắc nhở các em. Sự gia tăng khối lượng các bắp thịt và lực của cơ bắp diễn ra mạnh nhất vào cuối thời điểm dậy thì khiến sức mạnh cơ bắp được tăng cường. Cơ thể các em khỏe lên rõ rệt (các em trai rất hiếu động, thích chạy nhảy, thi thố tài năng, đọ tay, chơi bóng đá để thể hiện sức mạnh cơ bắp ). Tuy nhiên, thiếu niên thường chóng mệt và không có sức chịu đựng dẻo dai như người lớn. Nên chú ý điều đó khi tổ chức các dạng hoạt động cho các em. Sự phát triển cơ thể của thiếu niên diễn ra không cân đối. Hệ xương, nhất là xương ống tay, ống chân phát triển mạnh, chiều cao tăng nhanh, nhưng xương lồng ngực và hệ cơ phát triển chậm hơn khiến thân hình thiếu niên đa số nhìn cao, gầy ốm, mất cân đối. Xương bản tay và các đốt ngón tay phát triển không đều làm cho sự phối hợp vận động không nhịp nhàng, khiến các em cảm thấy tay chân lóng ngóng, vụng về, đụng đâu bể đó. Điều đó khiến các em thấy không thoải mái, mất tự tin. Các em ý thức được sự lóng ngóng của mình, sợ mọi người chế giễu nên cố tìm mọi cách che giấu, điệu bộ không tự nhiên. Có em tỏ vẻ rụt rè, nhút nhát ít dám tham gia các hoạt động, có em tỏ ra cầu kì làm việc chậm chạp, có em tỏ ra mạnh bạo, can đảm, hành động hấp tấp, Nếu người lớn không thông cảm mà thường mắng nhiếc thì các em càng mất tự nhiên hơn. Tóm lại, hệ cơ xương phát triển mạnh nên đa số các em có sức lực tương đối khá, rất hiếu động và thích thử sức mình làm những công việc nặng (khuân vác ti vi, dịch chuyển đồ đạc, ) nhưng do bộ xương chưa cốt hóa hoàn toàn nên cơ thể dễ bị biến dạng, vì thế người lớn nên chú ý để các em không lao động quá sức. 2.1.2.3 Sự phát triển của hệ tim mạch Hệ tim - mạch phát triển mạnh, nhưng cũng không cân đối:thể tích tim tăng nhanh, hoạt động của tim mạnh mẽ hơn nhưng đường kính của các mạch máu lại phát triển chậm hơn dẫn đến sự rối loạn tạm thời của hệ tuần hoàn máu. Do đó, thiếu niên thường hay mỏi mệt, chóng mặt, nhức đầu, tim đập nhanh,huyết áp không ổn định khi phải làm việc gì đó quá sức hoặc quá lâu. 2.1.2.4 Sự phát triển của hệ thần kinh Trọng lượng não phát triển gần bằng người lớn, đặc biệt các vùng chức năng phát triển mạnh mẽ. Các vùng thái dương, vùng đỉnh, vùng trán, các tua nhánh nơron phát triển rất nhanh, tạo điều kiện nối liền các vùng này với vỏ não, các nơron thần kinh được liên kết với nhau, hình thành những phản xạ có điều kiện phức tạp giúp hình thành các chức năng trí tuệ bậc cao, là tiền đề cho sự phát triển các loại tư duy trừu tượng, tư duy logic, tư duy sáng tạo.
  21. Hoạt động hệ thần kinh của thiếu niên cũng chưa cân bằng, hưng phấn thường mạnh hơn ức chế nên các em thường hiếu động, ham hoạt động. Trong hành động hay có thêm nhiều động tác phụ dẫn đến sự hậu đậu. Hưng phấn mạnh cũng khiến các em khó làm chủ cảm xúc, dễ bị kích động, hay vi phạm kỉ luật, dễ có hành vi bốc đồng, thiếu tôn trọng người khác. Đó cũng là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực học đường ngày càng gia tăng. Do hưng phấn và ức chế không cân bằng nên các em thường có những hành vi đối lập nhau, chẳng hạn lúc thì ồn ào náo nhiệt, lúc lại tỏ vẻ thờ ơ, mỏi mệt Ở tuổi thiếu niên, có sự mất cân đối giữa hệ thống tín hiệu thứ nhất và hệ thống tín hiệu thứ hai, phản xạ có điều kiện đối với tín hiệu trực tiếp được hình thành nhanh hơn so với phản xạ có điều kiện đối với những tín hiệu từ ngữ. Do vậy, ngôn ngữ của thiếu niên cũng thay đổi. Lúc thì các em nói chậm hơn, lắp bắp, nhát gừng, có lúc lại nói nhanh hơn, nuốt lời, mất chữ, thậm chí có trường hợp đứng trước giáo viên nữ các em biến họ thành “quạ” (“chào cô ạ” nói nhanh thành “chào quạ”) 2.1.2.5 Sự phát triển của hệ nội tiết Các tuyến nội tiết bắt đầu hoạt động mạnh, nhưng chưa ổn định (đặc biệt là hoocmon của tuyến giáp trạng và tuyến sinh dục) làm ảnh hưởng hoạt động của hệ thần kinh, hệ tim mạch. Do đó, các em dễ xúc động, bực tức, nổi khùng. Nếu người lớn không kiên nhẫn, biết cách thuyết phục thì các em rất dễ có phản ứng mạnh khi phật ý. Tuy nhiên, tất cả những hiện tượng rối loạn này chỉ mang tính chất tạm thời, khoảng 15 tuổi trở đi các em sẽ bước vào tuổi đầu thanh niên với sự phát triển hài hòa về mọi mặt. Sự phát triển của tuyến sinh dục (hiện tượng dậy thì) Sự trưởng thành về mặt sinh dục là yếu tố quan trọng nhất trong sự phát triển cơ thể của thiếu niên. Tuyến sinh dục bắt đầu hoạt động mạnh và những biểu hiện của sự dậy thì xuất hiện. Biểu hiện chủ yếu của sự chín muồi sinh dục ở các em trai là sự xuất tinh, ở các em gái là hiện tượng kinh nguyệt. Tuổi trung bình bắt đầu dậy thì của các em nữ thường vào khoảng 11, 12 tuổi và kết thúc sau khoảng 3-5 năm. Các em ngm bắt đầu và kết thúc chậm hơn các em gái khoảng 1 đến 2 năm. Hiện tượng dậy thì phụ thuộc nhiều vào đặc điểm thể chất,dinh dưỡng, môi trường sống và hoạt động, sinh hoạt cá nhân nên thời điểm bắt đầu dậy thì ở một số em có thể sớm hơn hoặc muộn hơn. Đến 15-16 tuổi, giai đoạn dậy thì kết thúc. Các em đã có thể sinh sản được, nhưng sự trưởng thành thực sự về mặt tâm lý và xã hội thì còn phải đợi thêm nhiều năm nữa. Vì vậy, người lớn cần chú ý giúp đỡ thiếu niên một cách tế nhị để các em yên tâm học tập, tránh hiện tượng “yêu sớm” có thể gây ra những hậu quả đáng tiếc. Như vậy, sự phát dục cùng với những chuyển biến trong sự phát triển thể chất của thiếu niên có một ý nghĩa quan trọng đối với sự xuất hiện những cấu tạo tâm lý mới. Những biến đổi rõ rệt về mặt giải phẫu sinh lý làm cho thiếu niên trở thành người lớn theo quy luật tự nhiên và làm nảy sinh trong các em cảm giác về tính người lớn. Sự phát dục làm cho thiếu niên xuất hiện những rung cảm giới tính mới lạ, khiến các em quan tâm nhiều hơn đến người khác giới. 2.1.3 Điều kiện xã hội Bước sang tuổi thiếu niên, điều kiện sống và hoạt động của các em có sự thay đổi cơ bản so với tuổi nhi đồng. Vị trí của các em trong gia đình, nhà trường và xã hội được nâng cao. Từ vị trí là “trẻ con ” chuyên dần sang vị trí mới “vừa trẻ con, vừa người lớn” 2.1.3.1 Trong gia đình
  22. Vị thế của thiếu niên trong gia đình đã được thay đổi. Cha mẹ không xem các em là bé nhỏ nữa. Trong gia đình các em được thừa nhận như một thành viên tích cực. được cha mẹ giao cho những nhiệm vụ cụ thể như: trông nhà, nấu cơm, giặt giũ. chăm em nhỏ Thậm chí nhiều em phải tham gia lao động phụ kiếm tiền cho cha mẹ. Hầu hết các em đã ý thức được các nhiệm vụ đó và thực hiện tích cực. Nhờ đó, thiếu niên hình thành ý thức trách nhiệm cao hơn. Điều quan trọng và có ý nghĩa lớn đối với các em là cha mẹ cho phép các em tham gia bản bạc một số công việc trong gia đình, quan tâm và lắng nghe ý kiến của các em, dành cho các em những quyền sống độc lập hơn, từ đó các em cũng có ý thức xây dựng, bảo vệ hạnh phúc và uy tín của gia đình nhiều hơn. Những sự thay đổi đó đã làm cho trẻ ý thức được vị thế của mình trong gia đình và động viên, kích thích các em hoạt động tích cực. Tuy nhiên, có rất nhiều “dạng” thiếu niên khác nhau. Do điều kiện sinh sống và hoàn cảnh gia đình khác nhau nên vị thế và sự phát triển tâm lý của thiếu niên cũng không đồng đều. Điều kiện kinh tế (giàu, nghèo, vừa đủ ăn ) và thái độ của cha mẹ (quan tâm hay thờ ơ, nuông chiều hay nghiêm khắc ) sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển tâm lý của các em. 2.1.3.2 Trong nhà trường Trên thực tế, đa số thiếu niên đều đi học trung học cơ sở, vì vậy hoạt động học tập vẫn chiếm vị trí quan trọng trong đời sống của hầu hết thiếu niên và ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển tâm lý của các em dù không phải là hoạt động chủ đạo. Hoạt động học tập Trong nhà trường trung học cơ sở, hoạt động học tập được xây dựng một cách cơ bản, hướng vào thỏa mãn nhu cầu nhận thức cho học sinh, phát huy tính tích cực và chủ động trong học tập của các em. Hoạt động học tập của học sinh trung học cơ sở có những điểm nổi bật sau: Thứ nhất, có sự thay đổi về nội dung học tập : ở trường trung học cơ sở, các em được tiếp xúc với nhiều môn học khác nhau, mỗi môn học bao gồm hệ thống tri thức lý luận với những khái niệm trừu tượng, khái quát, nội dung học tập phong phú và sâu sắc hơn, do đó đòi hỏi các em phải có sự thay đđổi về cách học. Sự phong phú về tri thức của từng môn học làm cho khối lượng tri thức mà các em lĩnh hội được tăng lên nhiều tầm hiểu biết của các em được mở rộng. Thứ hai, có sự thay đổi về phương pháp dạy học và hình thức học tập: Các em được học nhiều môn học do nhiều thầy, cô giảng dạy, mỗi thầy cô có một phương pháp dạy học khác nhau nên các em cũng bị ảnh hưởng nhiều hơn. Đa số các thầy cô thường áp dụng các phương pháp dạy học tích cực nên đòi hỏi các em phải tích cực và chủ động nhiều hơn trong học tập. Tính chất và hình thức học tập của thiếu niên cũng thay đổi. Việc học của thiếu niên được diễn ra theo nhiều hình thức sinh động khác nhau như thảo luận, thực hành, thí nghiệm, tham quan, Thứ ba, động cơ học tập của học sinh trung học cơ sở có một cấu trúc phức tạp, đa dạng nhưng chưa bền vững. Việc học của các em được thúc đẩy bởi nhiều loại động cơ, có động cơ xã hội, có động cơ nhận thức và cả động cơ cá nhân muốn được bạn bè thừa nhận, nể phục, Thứ tư, thái độ học tập của học sinh trung học cơ sở cũng được cấu trúc lại. Có sự phân hóa thái độ đối với các môn học, có môn “thích”, môn “không thích”, có môn “cần”, môn “không cần” Từ đó dẫn đến các thái độ khác nhau trong học tập: từ chăm chỉ, tích cực, đầy trách nhiệm, đến uể oải, thờ ơ, lười biếng, Thái độ học tập của các em phụ thuộc vào hứng thú, sở thích của các em, đồng thời phụ thuộc nhiều vào nội dung môn học và phương pháp giảng dạy của giáo viên.
  23. Các dạng hoạt động khác Ngoài hoạt động học tập, các em được tham gia vào nhiều dạng hoạt động ở nhà trường như: lao động, sinh hoạt ngoại khóa, văn nghệ, thể thao Các em tham gia những hoạt động này không chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu văn hóa mà còn thỏa mãn nhu cầu giao tiếp với bạn bè. 2.1.3.3 Ngoài xã hội Vị thế xã hội của thiếu niên được nâng cao. Các em có nhiều quyền hạn và nghĩa vụ xã hội hơn. Các em gia nhập đội thiếu niên tiền phong, tích cực tham gia các hoạt động xã hội khác nhau. Đến 14 tuổi, các em có thể gia nhập Đoàn Thanh Niên Đảng Cộng Sản Việt Ngm, được làm chứng minh thư, được xã hội công nhận quyền công dân Xã hội thừa nhận các em như một thành viên tích cực và giao phó cho các em một số công việc nhất định trên nhiều lĩnh vực khác nhau như gìn giữ môi trường ‘sạch và xanh”, giữ trật tự đường phố, giúp đỡ gia đình thương binh, liệt sĩ, hướng dẫn sinh hoạt hè cho các em nhỏ Do tham gia công tác xã hội, mà quan hệ của học sinh trung học cơ sở được mở rộng, kinh nghiệm cuộc sống phong phú lên, nhân cách của thiếu niên được hình thành và phát triển. 2.1.4 Điều kiện về tâm lý Điều kiện tâm lý cho sự hình thành và phát triển tâm lý ở tuổi thiếu niên chính là sự chín muồi về tâm lý trong giai đoạn chuyển tiếp từ tuổi nhi đồng bước sang tuổi thiếu niên. Tâm lý thiếu niên sẽ được hình thành và phát triển dựa trên nền tảng của những cấu trúc tâm lý đã có. Cuối tuổi nhi đồng, các em đã đạt những thành tựu nổi bật: phát triển các thao tác tư duy cụ thể; có khả năng tổ chức và kiểm soát các hành động nhận thức, hành vi theo mục đích xác định; biết phân tích, lập các kế hoạch hành động; ngôn ngữ đã hoàn thiện ngữ pháp và ngữ nghĩa của ngôn ngữ nói, hình thành các kỹ năng đọc và viết tiếng mẹ đẻ; phát triển nhận thức xã hội, cùng với sự phát triển lòng vị tha và tính hiếu chiến (giảm dần) trong đời sống xúc cảm - tình cảm. Sự phát triển các đặc trưng tâm lý này gắn liền với sự nhận thức các chuẩn mực đạo đức, trên cơ sở đó hình thành hành vi đạo đức của các em. L.x. Vưgốtxki cho rằng những thành tựu phát triển tâm lý cuối tuổi nhi đồng đã khiến các em mở rộng và phát triển hứng thú cùng những mối quan tâm mới trên nhiều lĩnh vực khác nhau trong giai đoạn chuyển tiếp, và đó chính là điều kiện tâm lý chín muồi cho sự hình thành và phát triển tâm lý ở lứa tuổi thiếu niên. Tóm lại, sự phát triển nhảy vọt về thể chất, sự thay đổi điều kiện sống và hoạt động (học tập, giao tiếp ), sự chín muồi về tâm lý ở giai đoạn chuyển tiếp là những điều kiện giúp cho tâm lý của lứa tuổi thiếu niên hình thành và phát triển nhảy vọt về chất, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình phát triển tâm lý cá nhân. 2.2 Hoạt động giao tiếp của thiếu niên Hoạt động giao tiếp cũng là một trong những điều kiện của sự phát triển tâm lý của tuổi thiếu niên. Tuy nhiên, hoạt động giao tiếp là hoạt động chủ đạo của thiếu niên nên cần đi sâu nghiên cứu hoạt động này. Hoạt động giao tiếp ở tuổi thiếu niên có những thay đổi về chất so với hoạt động giao tiếp của tuổi nhi đồng, đặc biệt trong giao tiếp với người lớn và bạn bè đồng trang lứa. Giao tiếp mang tính chất tâm tình trở thành hoạt động chủ đạo của tuổi thiếu niên. 2.2.1 Giao tiếp của thiếu niên với người lớn 2.2.1.1 Đặc điểm giao tiếp giữa thiếu niên với người lớn
  24. Nét đặc trưng trong giao tiếp của thiếu niên với người lớn là sự cải tổ lại mối quan hệ không bình đẳng giữa trẻ em và người lớn ở tuổi nhi đồng, hình thành kiểu quan hệ mới dựa trên cơ sở của sự bình đẳng và tôn trọng. Quan hệ giữa thiếu niên với người lớn có những điểm đáng chú ý sau: Một là, sự phát triển mạnh mẽ về thể chất, sự thay đổi của điều kiện sống và các dạng hoạt động học tập, giao tiếp làm xuất hiện ở thiếu niên một cảm giác mới: ‘‘cảm giác mình là người lớn L.x. Vưgốtxki cho đây là cấu tạo tâm lý mới trung tâm trong nhân cách của thiếu niên. Các em cảm thấy mình không còn là trẻ con nữa, những cũng chưa phải là người lớn thực sự. Trong con người các em, những nét tính cách “vừa trẻ con, vừa người lớn’' đan xen nhau, đôi lúc trông thật trẻ con, nhưng đôi lúc ra vẻ người lớn thực sự. Các em học đòi và bắt chước người lớn, nhưng thực chất các em còn hiểu mơ hồ về thế giới người lớn. Các em có xu hướng vươn lên làm người lớn và luôn cố gắng để được mọi người công nhận rằng mình đã lớn, nên trong suy nghĩ và hành động các em thường bộc lộ rõ nhu cầu được độc lập, được tự khẳng định mình. “Cảm giác mình là người lớn” là nét đặc trưng trong nhân cách thiếu niên, vì nó biểu hiện lập trường sống mới của thiếu niên đối với người lớn và thế giới xung quanh. Cảm giác mình là người lớn được thể hiện rất phong phú về nội dung và hình thức: về hình thức, các em bắt đầu quan tâm đến cách ăn mặc, đi đứng,''nói năng, về nội dung, các em quan tâm đến những phẩm chất và năng lực riêng, Trong học tập, các em muốn độc lập lĩnh hội tri thức, muốn có lập trường và quan điểm riêng. Trong gia đình và xã hội, các em muốn được độc lập và không phụ thuộc nhiều vào người lớn. Trong giao tiếp các em có nhu cầu được (độc lập, được tự khẳng định mình. Sự phát triển tính người lớn ở thiếu niên phụ thuộc vào nhiều yêu tố: sự phát triển thể chất và sinh lý, điều kiện sống và hoạt động: tính tích cực hoạt động của cá nhân. Hoàn cảnh sống khác nhau sẽ tác động nhiều đến trẻ. Những trẻ có sự phát triển mạnh mẽ về thể chất, có cơ hội tiếp xúc nhiều đối tượng khác nhau, sớm phải lao động kiếm sống, hoặc sống trong những gia đình có cha mẹ biết quan tâm đúng mức, biết tạo điều kiện cho con sớm thể hiện tính độc lập thì sẽ phát triển tính độc lập, tự chủ nhanh hơn những trẻ khác. Sự phát triển tính người lớn ở lứa tuổi này có thể xảy ra theo nhiều phương hướng khác nhau như hướng “sách vở”, hướng “học đòi”, hướng “độc lập, tự chủ”, Những cách thể hiện tính người lớn khác nhau sẽ hình thành những xu hướng phát triển hệ thống giá trị có nội dung khác nhau, đánh dấu ngã rẽ cuộc đời với những số phận khác nhau. Hai là, nhu cầu được độc lập, được tự khẳng định mình trong quan hệ với người lớn được thể hiện rất cao. Các em đòi hỏi người lớn phải đối xử bình đẳng, tôn trọng, tin tưởng và mở rộng quyền hạn độc lập của các em. Nếu người lớn không thay đổi cách ứng xử, vẫn đối xử với các em theo kiểu các em là trẻ con, ra lệnh cho các em, can thiệp thô bạo vào từng việc làm của các em, kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc học tập và sinh hoạt của các em thì bằng cách này hay cách khác, các em sẽ có những thái độ và phản ứng tiêu cực, chống đối lại người lớn một cách công khai hay ngấm ngầm: cãi lại người lớn, không phục tùng yêu cầu của người lớn, né tránh người lớn, Nếu được đáp ứng các nhu cầu, thiếu niên cảm thấy sung sướng, hài lòng. Nhũng cố gắng của các em được người lớn thừa nhận có tác dụng thúc đẩy các em tích cực hoạt động, chấp nhận những chuẩn mực đạo đức và hành vi ứng xử của người lớn. Ba là, trong quan hệ với người lớn, ở thiếu niên xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Trước hết là những mâu thuẫn nội tại bên trong của trẻ. Một mặt các em có nhu cầu, mong muốn được độc lập, thoát khỏi sự
  25. giám sát của người lớn, mặt khác các em vẫn có nhu cầu mong muốn được người lớn gần gũi, chia sẻ, động viên định hướng cho mình. Tiếp theo, là những mâu thuẫn giữa bản thân thiếu niên với người lớn. Một mặt, thiếu niên cảm thấy mình đã lớn, muốn được người lớn đối xử bình đẳng và tôn trọng. Tuy nhiên, không phải tất cả người lớn đều bắt nhịp được những mong muốn đó của thiếu niên và dễ dàng thay đổi kiểu quan hệ cũ (không bình đẳng) sang kiểu quan hệ mới, mà thông thường người lớn đã quen đối xử với các em như trẻ nhỏ. Hơn nữa sự thay đổi nào cũng cần có thời gian và bản thân người lớn cũng gặp nhiều khó khăn khi phải thay đổi thói quen. Vì lẽ đó nên giao tiếp giữa người lớn với thiếu niên thường nảy sinh những xung đột. Bốn là, trong tương tác với người lớn thiếu niên có xu hướng cường điệu hóa những tác động của người lớn mà bản thân các em cho là không phù hợp. Các em hay suy diễn, thổi phồng, cường điệu hóa những tác động đó. Chỉ cần người lớn hành xử làm tổn thương chút ít đến các em thì các em thường xem đó là sự xúc phạm lớn và phản ứng tiêu cực với cường độ mạnh, trong khi những hành vi có thể gây nguy hại đến tính mạng người khác và bản thân thì các em lại xem nhẹ. Điều đó cũng là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng stress, trầm cảm, tự tử, tự hủy hoại bản thân, ở thiếu niên có xu hướng ngày càng gia tăng. 2.2.1.2 Các kiểu quan hệ ứng xử của người lớn với thiếu niên Trong quan hệ giao tiếp ứng xử của người lớn đối với thiếu niên có ba phong cách khá điển hình. Phong cách dân chủ bình đẳng Trong phong cách giao tiếp ứng xử kiểu này, người lớn thường quan tâm đến sự biến đổi về tâm sinh lý của các em, từ đó có sự thay đổi trong suy nghĩ và hành động cho phù hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi các em. Người lớn thể hiện sự tôn trọng, tin tưởng các em, đặt các em vào vị trí một người bạn - người đồng hành. Giữa người lớn với thiếu niên có được sự đồng cảm, chia sẻ, gắn bó về tình cảm. Đây là kiểu quan hệ dân chủ, hợp tác. Kiểu quan hệ này làm giảm sự xung đột .thế hệ giữa người lớn và trẻ em, có tác dụng tích cực đối với sự phát triển của thiếu niên. Phong cách độc đoán Trong phong cách giao tiếp ứng xử kiểu này, người lớn thường không xem trọng nhu cầu độc lập của các em, thường xuyên áp đặt tư tưởng, thái độ và hành vi của bản thân lên các em, đối xử với các em như đối với trẻ nhỏ, bắt các em phải nhất nhất tuân theo mệnh lệnh của người lớn. Quan hệ ứng xử kiểu này thường chứa đựng nhiều mâu thuẫn và làm nảy sinh nhiều xung đột giữa người lớn với thiếu niên, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển tâm lý của thiếu niên. Phong cách tự do Trong phong cách giao tiếp ứng xử kiểu này, người lớn lại quá xem trọng những yêu cầu của thiếu niên và để cho thiếu niên muốn làm gì thì làm, quan hệ kiểu này thường có tính hai mặt. Với những thiếu niên có tính tự giác cao thì có thể cảm thấy thoải mái, phát huy được tính độc lập tự chủ của mình trong cuộc sống, nhưng nếu gặp những thiếu niên hay đòi hỏi hoặc không tự giác thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển tâm lý của các em. 2.2.1.3 Quan hệ giữa thiếu niên với cha mẹ Quan hệ giữa cha mẹ - con cái tuổi thiếu niên là mối quan hệ thường nảy sinh nhiều xung đột tâm lý nhất. Xung đột tâm lý thường nảy sinh giữa cha mẹ - con cái khi cả hai bên cùng nhau đối diện với một vấn đề nào đó nhưng lại có sự khác nhau về nhận thức, thái độ và hành vi ứng xử Những xung đột thế hệ xoay quanh các mối quan hệ giữa cha mẹ - con cái là điều khó tránh khỏi. Những nghiên cứu chỉ ra rằng trẻ em và người lớn cách nhau 18 năm có những suy nghĩ và cảm nhận rất khác nhau về cuộc sống. Tuy
  26. nhiên, biểu hiện, và mức độ thể hiện, cường độ xung đột phụ thuộc vào nhận thức, thái độ và hành vi ứng xử của hai bên, nhất là cha mẹ. Các kiểu cha mẹ Nhiều nhà nghiên cứu đã dày công nghiên cứu những cách thức làm cha mẹ, trong đó phổ biến nhất là quan điểm của Diang Baumrind. Bà phân tích rõ 4 kiểu làm cha mẹ và những ảnh hưởng của nó đến hành vi xã hội của trẻ vị thành niên. Cha mẹ độc đoán là kiểu cha mẹ rất khắt khe, nhất nhất bắt con cái phải đi theo đường hướng do cha mẹ vạch ra và luôn đòi hỏi con cái phải nỗ lực. Cha mẹ độc đoán thường ít trao đổi bản bạc với con, quản lý gắt gao và khống chế con hoàn toàn : “con phải làm như mẹ đã nói, không được bản luận gì thêm!”. Kiểu làm cha mẹ độc đoán thường làm cho con cái có những khiếm khuyết về mặt hành vi xã hội, các em thường thụ động hoặc Chống đối, thiếu kỹ năng giao tiếp, gặp nhiều khó khăn khi khởi sự hành động như sợ sệt, lo lắng, bất an, Cha mẹ quyền uy là những người khuyến khích con cái độc lập nhưng vẫn đặt ra những giới hạn cần thiết và kiểm soát những hoạt động của con. Họ cho phép con cái được trao đổi thoải mái và luôn bày tỏ tình cảm với con. Cách làm cha mẹ như thế thường là tiền đề cho con học cách ứng xử tốt trong xã hội. Con cái của cha mẹ quyền uy thường tự tin, tin cậy cha mẹ, có kỹ năng giao tiếp xã hội tốt. Cha mẹ quyền uy vẫn có thể điều khiển cuộc sống của con. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy nếu thực hiện tốt kỹ năng làm cha mẹ quyền uy sẽ làm giảm những hành vi có vấn đề và cải thiện được thành tích học tập của con cái. Cha mẹ dễ dãi được chia làm hai loại: cha mẹ thờ ơ và cha mẹ nuông chiều.Cha mẹ thờ ơ là mẫu cha mẹ chẳng quan tâm gì đến cuộc Sống của con cái. Cha mẹ thờ ơ thường không thể trả lời được câu hỏi “Anh chị có biết con anh chị giờ này đang ở đâu, làm gì? Cháu nó đang gặp vấn đề gì không?”. Con cái có cha mẹ thờ ơ đặc biệt có nhu cầu về tình cảm và sự quan tâm của cha mẹ. Các em thường nghĩ là cha mẹ coi trọng những việc khác hơn chúng. Điều này dẫn con cái đến những suy nghĩ và cảm xúc tiêu cực khiến chúng thường kém cói trong ứng xử xã hội, thiếu kỹ năng giao tiếp, tự chủ kém và không xử lý tình huống độc lập được.Cha mẹ nuông chiều là mẫu cha mẹ rất quan tâm đến con cái nhưng lại đặt ra rất ít yêu cầu cho con. Họ cho phép con họ làm những điều chúng muốn. Và kết quả là con cái họ không học được cách làm chủ bản thân mà luôn trông chờ vào sự giúp đỡ của người khác. Cha mẹ nuông chiều con thường dễ làm con đến sự kém cói về kỹ năng xã hội, giao tiếp kém, sống ích kỷ, và thiếu tự tin. Trong một khảo sát, Diang Baumrind (1991) đã phân tích vai trò của cha mẹ và kỹ năng xã hội của con cái tuổi vị thành niên. Những khảo sát thực tế của bà cho thấy sự hưởng ứng (cảm thông hay nâng đỡ, ) của cha mẹ có liên quan nhiều đến kỹ năng xã hội của các con hơn hẳn những yếu tố khác. Khi chính cha mẹ có vấn đề về hành vi xã hội (như nghiện rượu, bạo lực, vợ chồng hay cãi vã, ) thì con cái thường gặp nhiều vấn đề trong cuộc sống và giảm sút kỹ năng xã hội. Những nghiên cứu khác đã đưa ra nhiều bằng chứng cho thấy sự độc đoán hay quá dễ dãi của cha mẹ đều là những cách thức làm cha mẹ kém hiệu quả hơn mẫu cha mẹ uy quyền, nghiêm khắc. 2.2.1.4 Quan hệ giữa thiếu niên với thầy, cô giáo Trong quan hệ giữa thiếu niên với thầy cô giáo cũng thường hay xảy ra các mâu thuẫn, về phía thầy cô, trong một số trường hợp, thầy cô hay hiểu nhầm học sinh. Chẳng hạn như khi học sinh có cử chỉ, lời nói nông nổi, thầy cô thường nghĩ là học sinh thiếu tôn trọng mình, hay như trường hợp một số bạn trẻ đến lớp ăn mặc xộc xệch, đi đứng nghênh ngang, nói năng bốp chát để gây chú ý với bạn bè xung quanh, mà
  27. không có ý khinh thường gì thầy cô, nhưng trong tâm lý thầy cô tự nhiên thấy không thiện cảm với bạn đó, thế là nảy sinh mâu thuẫn, một bên thì tỏ vẻ khiêu khích, một bên thì cảnh giác dè chừng, về phía học sinh, đôi khi học sinh nghi ngờ khả năng sư phạm của thầy cô “giờ cô X buồn ngủ thấy mồ! Sư phụ Y tung hỏa mù thế ai mà hiểu!”, một số bạn cố tình hỏi những câu hỏi lắt léo hóc búa để thử tài thầy cô, đặt biệt danh cho thầy cô Khi bị điểm kém hoặc bị trách phạt học sinh có khi không nhận ra lỗi của mình mà đổ cho giáo viên quá nghiêm khắc, thậm chí nghĩ là do thầy cô quá khắt khe với mình, đối xử không công bằng, thiên vị bạn nào đó trong lớp, chứ “mình làm gì nên tội” Vì vậy, trong giao tiếp với thiếu niên nếu thầy cô hiểu tâm lý các em, gương mẫu, tôn trọng, tin tưởng các em, biết cảm thông, hòa đồng để thuyết phục các em thì tác dụng giáo dục của thầy cô được các em coi trọng, từ đó các em ít mắc sai lầm. Tóm lại, những mâu thuẫn hay xung đột giữa người lớn với thiếu niên thường dẫn đến những hậu quả xấu đối với sự phát triển tâm lý của các em. Sự rối nhiễu tâm lý, sự sai lệch hành vi phần lớn có căn nguyên từ mâu thuẫn và xung đột giữa người lớn và trẻ em lứa tuổi này. Vì vậy, để tránh xảy ra xung đột, người lớn cần có sự hiểu biết về tâm sinh lý lứa tuổi thiếu niên, gương mẫu, khéo léo, tế nhị trong ứng xử. Đồng thời, cũng cần phải giáo dục thiếu niên để các em biết, hiểu và cảm thông với người lớn nhiều hơn. 2.2.2 Giao tiếp của thiếu niên với bạn bè 2.2.2.1 Giao tiếp của thiếu niên với bạn cùng giới Hoạt động giao tiếp mang tính chất cá nhân thân tình là hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi này. Phạm vi giao tiếp của thiếu niên được mở rộng trong nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau. Thông qua giao tiếp, thiếu niên lĩnh hội được các chuẩn mực, giá trị đạo đức của xã hội, xem xét, đánh giá lại các giá trị, đáp ứng nhu cầu độc lập, nhu cầu được người khác thừa nhận, nhu cầu tự khẳng định mình. Nhu cầu kết bạn, khát khao tìm kiếm một vị trí trong long bạn bè sẽ biến thành động cơ chủ đạo trong các hành động của thiếu niên. Nếu không tìm được vị trí thích hợp thiếu niên thường khó thích nghi với đời sống xã hội và dễ có hành vi lệch chuẩn (L.I. Bagiôvich). Nhu cầu kết bạn tâm tình, nguyện vọng hòa mình vào tập thể, tìm một chỗ đứng trong lòng tập thể là một cấu tạo tâm lý mới đặc trưng trong nhân cách thiếu niên. Tình bạn của thiếu niên Nhu cầu kết bạn ở thiếu niên phát triển rất mạnh. Một mặt, giao tiếp là nhu cầu thiết yếu của con người, với thiếu niên nhu cầu kết bạn trở nên thiết yếu vì các em muốn tách khỏi người lớn, muốn được đối xử bình đẳng thân ái, muốn có người bạn tin cậy để chia sẻ, dãi bày mọi vướng mắc, băn khoăn, cùng trao đổi những điều thầm kín riêng tư mà trong quan hệ với người lớn các em ít đạt được. Mặt khác, đây là lứa tuổi đang khao khát tìm kiếm một chỗ đứng trong lòng bạn bè, một vị trí xã hội nhất định trong lòng tập thể, muốn được mọi người thừa nhận và tôn trọng mình. Các em cần giao tiếp với bạn để được thể hiện tính độc lập, để tự khẳng định mình. Thiếu niên thường coi trọng những đánh giá của bạn bè hơn là cha mẹ, đặc biệt trong trường hợp quan hệ của các em với cha mẹ không thuận hòa thì sự giao tiếp với bạn bè sẽ gia tăng và ảnh hưởng của bạn bè đối với các em càng mạnh mẽ. Các em coi quan hệ với bạn là quan hệ riêng của mình, không muốn người lớn dòm ngó, can thiệp. Tình bạn của thiếu niên đã trở nên sâu sắc, gắn bó với nhau hơn, hình thành những nhóm bạn thân. Lúc đầu phạm vi giao tiếp của các em thường là rộng, nhưng không được bền vững, có tính chất tạm thời, là thời kì lựa chọn, tìm kiếm người bạn thân, về sau những em có cùng hứng thú, cùng yêu thích một loại hoạt động nào đó, thì kết thành nhóm bạn thân. Phạm vi giao tiếp của các em hẹp lại, nhưng quan hệ của các em gắn bó với nhau hơn, chịu ảnh hưởng của nhau (có thể trở thành người tốt hoặc ngược lại). Vì vậy
  28. giao tiếp với bạn là nguồn nảy sinh hứng thú mới. Bạn bè mà các em yêu thích có thể trở thành hình mẫu đối với các em, nhất là các bạn có những ưu điểm. Trò chuyện tâm tình, trao đổi tâm tư nguyện vọng giữ một vị trí quan trọng trong giao tiếp của thiếu niên. Các em thường kể cho nhau về mọi mặt sinh hoạt, đời sống và suy nghĩ của mình, kể cả những điều "bí mật" nhiều khi các bạn không kể với bất cứ ai. Vì thế mà các em yêu cầu rất cao đối với bạn, phải cởi mở, hiểu nhau, tế nhị, vị tha, đồng cảm và giữ bí mật cho nhau. Quan hệ với bạn của thiếu niên được xây dựng dựa trên cơ sở của “bộ luật tình bạn "Bộ luật tình bạn” của các em là một hệ thống những chuẩn mực đạo đức của tình bạn như: tôn trọng lẫn nhau, quan hệ bình đẳng với nhau, sẵn sàng giúp đỡ nhau, trung thành, gắn bó Các em thường "lý tưởng hóa" tình bạn, cho rằng bạn bè lí tưởng phải “chia ngọt sẻ bùi”, “sống chết có nhau” So với tuổi học sinh nhỏ và cả những lứa tuổi sau này, quan hệ của thiếu niên được xây dựng trên cơ sở của các chuẩn mực tình bạn với những yêu cầu cao và máy móc. Thiếu niên đòi hỏi cao về phía bạn cũng như bản thân, lên án các hành vi phản bạn, từ chối giúp bạn, nói xấu bạn Tuy nhiên, các em cũng còn ngộ nhận một số chuẩn mực tình bạn sai lầm như: bạn bè phải bao che khuyết điểm cho nhau, không được tố giác tội của bạn với người lớn Điều đáng lưu ý là các yêu cầu trong “bộ luật tình bạn’- về cơ bản khá phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển các giá trị đạo đức xã hội và nhân văn đang dần hình thành ở các em. Người lớn, nhất là cha mẹ và thầy cô giáo cần khuyến khích các em duy trì và phát triển các chuẩn mực này. Đồng thời, cũng cần thường xuyên quan tâm, giúp đỡ các em tránh sự cường điệu hóa, tuyệt đối hóa các chuẩn mực đó trong ứng xử hàng ngày, cũng như tránh những thái độ và hành vi không phù hợp như bao che khuyết điểm cho bạn, a dua theo bạn làm chuyện xấu Trong cuộc sống hàng ngày, thiếu niên không thể thiếu bạn. Việc không có bạn thân, hoặc những mối bất hòa trong tình bạn khiến bạn bè giận nhau hoặc phá vỡ tình bạn đều làm cho các em cảm thấy đau lòng. Tình huống khó chịu nhất đối với các em là sự phê bình của bạn bè, còn hình phạt nặng nhất với các em là bị bạn bè tẩy chay. Sự tẩy chay của bạn bè, của tập thể cũng có thể thúc đẩy thiếu niên sửa chữa nhược điểm của mình để hòa nhập với bạn, nhưng cũng có thể sẽ khiến các em tìm kiếm và gia nhập nhóm bạn khác, hoặc nảy sinh các hành vi tiêu cực như phá phách, gây hấn Người lớn cần lưu ý điểm này, .vì khi thiếu niên xa rời tập thể, kết bạn với các nhóm bạn xấu, tự phát ngoài trường học có thể dẫn đến những hậu quả đáng tiếc, đưa đẩy các em vào con đường phạm tội, bụi đời. Ngày ngy, giao tiếp bạn bè của thiếu niên rất đa dạng và phức tạp, dễ hư hỏng nên nhiệm vụ của gia đình, nhà trường, xã hội giúp các em định hướng giá trị tình bạn cho đúng. 2.2.2.2 Giao tiếp của thiếu niên với bạn khác giới Giao tiếp của thiếu niên với bạn khác giới cũng có chung những đặc điểm như giao tiếp với bạn cùng giới, tuy nhiên trong quan hệ với bạn khác giới cũng có thêm những đặc điểm riêng. Sự dậy thì đã làm xuất hiện ở thiếu niên những rung động, những cảm xúc mới lạ đối với bạn khác giới. Tự ý thức phát triển khi đó các em nhanh chóng nhận thức được những đặc điểm giới tính của mình. Các em đã bắt đầu quan tâm lẫn nhau, ưa thích nhau, từ đó quan tâm đến vẻ bề ngoài của mình'cũng như của người khác một cách có chủ định. Quan hệ với bạn khác giới của các em thường trải qua 3 giai đoạn : Đầu tuổi thiếu niên (học sinh lớp 6 - 7) : Các em thể hiện sự quan tâm đến bạn khác giới một cách trong sáng, hồn nhiên, ở các em gái, thái độ quan tâm đến bạn thường thể hiện khá thụ động và kín (đáo (làm dáng hơn trước, chú ý đến hình thức của mình hơn), các em thường che giấu tình cảm của mình bằng cách tỏ vẻ thờ ơ. lãnh đạm với bạn trai. Các em trai thể hiện thái độ này một cách công khai, vụng về dưới
  29. hình thức gây sự tràn lan (xô đẩy, giật tóc, dấu dép, giấu cặp, trêu chọc, ghép đôi, đụng chạm, ). Các em gái nhiều khi rất bực, không hài lòng về những hành vi như thế của các em trai, nhưng khi các em gái ý thức được vấn đề thì không còn bực tức, giận dỗi nữa. Giữa tuổi thiếu niên (lớp 7-8): Quan hệ thay đổi, xuất hiện tính ngượng ngùng, e thẹn, nhút nhát. Các em quan tâm đến nhau một cách e dè, kín đáo, chứ không thô thiển như trước. Một số em vẫn còn bộc lộ một cách trực tiếp, còn lại đa số các em ra sức che đậy tình cảm của mình bằng thái độ dửng dưng thờ ơ giả tạo, ra vẻ “chê bai” đối với người khác giới. Cuối tuổi thiếu niên (lớp 8-9): Xuất hiện những nhóm bạn hỗn hợp, chơi chung cả trai lẫn gái. Ở một số em đã xuất hiện tình bạn thân thiết giữa ngm và nữ, những rung cảm giới tính đầu đời, nhưng các em cố gắng che giấu để không ai biết. Xuất hiện kiểu quan hệ “yêu đương - bạn bè” ở mức độ thấp. Trong tình bạn khác giới, các em vừa hồn nhiên, trong sáng, vừa có vẻ thận trọng, kín đáo, có ý thức rõ rệt về giới tính của bản thân. Những rung động giới tính này nhiều lúc chỉ thoáng qua rồi tan biến, nhưng cũng có trường hợp nảy sinh những tình cảm khá bền vững, đôi lúc sóng gió rồi lại ổn định ghi lại nhiều dấu ấn khó phai. Nhìn chung, những xúc cảm giới tính của các em là thường trong sáng, là động lực thúc đẩy các em tự hoàn thiện mình. Nhưng không phải tất cả thiếu niên đều có những rung cảm mang màu sắc trong sáng như vậy. Một số em bị cuốn hút vào con đường “yêu đương sớm”. Nhiều khi các em cũng không hiểu rõ tình cảm của mình và để nó chi phối đến kết quả học tập. Người làm công tác giáo dục cần phải thận trọng, tế nhị, khéo léo khi giải quyết vấn đề này. cần hướng dẫn, uốn nắn để tình bạn giữa ngm và nữ ở lứa tuổi này thật lành mạnh, trong sáng và nó động lực để giúp nhau trong học tập, trong tu dưỡng. Không nên can thiệp thô bạo, dùng các biện pháp bạo lực, áp đặt đối với các em Như vậy, hoạt động giao tiếp nói chung và hoạt động giao tiếp mang tính chất thân tình của thiếu niên là hoạt động chủ đạo có ý nghĩa đặc biệt trong sự hình thành và phát triển nhân cách của thiếu niên. Nội dung của nó là cải tạo lại những mối quan hệ cũ và xây dựng nên những mối quan hệ mới. Nhờ hoạt động giao tiếp mà các em nhận thức được người khác và bản thân mình rõ hơn, đồng thời qua đó phát triển một số kỹ năng sống làm phong phú thêm cuộc sống của các em. Vì thế, người lớn nên tạo điều kiện để các em được giao tiếp với nhau, quan tâm, hướng dẫn, định hướng giá trị tình bạn, tình yêu đúng đắn cho các em. 2.2.2.3 Giao tiếp của thiếu niên với các em nhỏ Khi giao tiếp với các em nhỏ tuổi hơn, thiếu niên muốn thể hiện tính người lớn của mình bằng cách chăm sóc, dạy dỗ, bảo ban các em. Các em biết nhường nhịn, chiều chuộng các em nhỏ. Tuy vậy, khi tính trẻ con trỗi dậy các em lại sẵn sàng chọc ghẹo và phá phách các em nhỏ, thậm chí bắt nạt các em. Trong giao tiếp với các em nhỏ, thiếu niên được bộc lộ nhu càu độc lập, nhu cầu tự khẳng định mình. 2.3 Đặc điểm hoạt động nhận thức của thiếu niên Thiếu niên chập chững bước vào thế giới mới, thế giới của người lớn với bao điều các em chưa được biết, vì vậy các em rất thích khám phá, óc tò mò, ham hiểu biết tăng lên nhanh chóng. Đặc trưng nổi bật trong hoạt động nhận thức của thiếu niên là tính mục đích, tính chủ định phát triển mạnh trong tất cả các quá trình nhận thức: tri giác, trí nhớ, chú ý, tư duy, tưởng tượng. 2.3.1 Tri giác Tri giác có chủ định dần thay thế tri giác không chủ định. Các loại tri giác không gian, thời gian, tri giác vận động, tri giác con người phát triển mạnh. Chất lượng khi tri giác đối tượng tăng lên rõ rệt. Thiếu niên tri giác có trình tự, có mục đích, có kế hoạch và hoàn thiện hơn so với nhi đồng. Khả năng phân tích