Giáo trình Tâm lý học sáng tạo - Phạm Thành Nghị
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Tâm lý học sáng tạo - Phạm Thành Nghị", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_tam_ly_hoc_sang_tao_pham_thanh_nghi.docx
Nội dung text: Giáo trình Tâm lý học sáng tạo - Phạm Thành Nghị
- GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC SÁNG TẠO GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC SÁNG TẠO Tác giả: PHẠM THÀNH NGHỊ LỜI GIỚI THIỆU Tâm lý học sáng tạo là lĩnh vực tri thức về con đường con người tạo dựng cái mới, có tính độc đáo và có giá trị trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau. Khó khăn lớn nhất của nghiên cứu trong tâm lý học sáng tạo là ở chỗ các phát minh, sáng chế liên quan đến thời khắc thấu hiểu, “loé sáng" được nhiều nhà sáng tạo nhắc đến nhưng việc nghiên cứu hiện tượng vô thức, tiềm thức bằng các phương pháp khách quan gặp nhiều khó khăn. Thời điểm thấu hiểu, "loé sáng" mới đủ được các nhà sáng tạo kể lại thông qua tự quan sát và trải nghiệm. Trong khi đó nhiệm vụ cải thiện khả năng tư duy sáng tạo đã được nhiều nhà nghiên cứu nhắc tới. Giải quyết vấn đề theo "lôgíc sáng tạo" cũng có thể giúp tạo ra sản phẩm mới độc đáo (Phan Dũng, 2007). Trong thực tế, quá trình sáng tạo vẫn hàm chứa nhiều điều bí ẩn, bao gồm cả quy trình có tính lôgíc và quá trình mang tính trực giác. Làm thế nào để tăng cường năng lực sáng tạo của con người vẫn còn là câu hỏi mở chưa có câu trả lời thoả đáng. Nhiều kết quả nghiên cứu trong tâm lý học sáng tạo phát hiện ra rằng các yếu tố bối cảnh bên ngoài và các yếu tố chủ quan bên trong tác động tới việc tạo ra sản phẩm mới, độc đáo. Những tác động này là phức tạp, phi tuyến tính. Việc tạo ra môi trường cởi mở, khuyến khích mạo hiểm, thay đổi cách nhìn và đặc biệt sự say sưa theo đuổi công việc là những yếu tố quan trọng tác động tích cực đến việc ra đời sản phẩm sáng tạo.
- Trong cuộc sống hàng ngày, con người thường xuyên phải suy nghĩ và hành động đề giải quyết vấn đề mới nảy sinh trong công việc và cuộc sống một cách sáng tạo do điều kiện giải quyết vấn đề thay đổi cùng với sự thay đổi thường xuyên của môi trường xung quanh. Do đó, có thể nói hoạt động của con người ở những mức độ khác nhau đều có liên quan đến sáng tạo. Kiến thức về bản chất của sáng tạo, cơ sở sinh học, xã hội của sáng tạo, mối quan hệ giữa sáng tạo với các hiện tượng tâm lý khác như trí thông minh, tư duy, tưởng tượng, động cơ cũng như kiến thức về phương pháp nghiên cứu sáng tạo rất cần thiết đối với những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy và các nhà chuyên môn làm việc trong lĩnh vực tâm lý học. Cuốn giáo trình "Tâm lý học sáng tạo” này có mục tiêu cung cấp những kiến thức như vậy cho học viên. Giáo trình được trình bày trong 7 chương. Chương I nêu những vấn đề chung về sáng tạo và tâm lý học sáng tạo như quan niệm về sáng tạo, các thuộc tính, cấp độ sáng tạo, các trường phái và xu hướng nghiên cứu sáng tạo. Chương II trình bày phương pháp nghiên cứu trong tâm lý học sáng tạo. Trong chương này 4 nhóm phương pháp chính, trắc đạc tâm lý, thực nghiệm sáng tạo, nghiên cứu trường hợp và trắc đạc lịch sử được trình bày cùng với những kết quả nghiên cứu đã có của các học giả. Chương III phân tích bản chất của sáng tạo như một quá trình gồm nhiều giai đoạn mà mắt xích trung tâm của quá trình là sự chuyển hóa từ ấp ủ sang thấu hiểu, xuất hiện ý tưởng sáng tạo. Khái niệm dòng sáng tạo của Csikszentmithalyi (1996) được bàn đến như một sự đắm chìm vào diễn biến sự kiện mà chủ thể không còn ý thức rõ ràng sự tồn tại của chính mình. Việc giải quyết vấn đề sáng tạo
- được phân tích theo một số cách tiếp cận như tiếp cận lý thuyết trí tuệ tư duy theo chiều ngang, tiếp cận theo thành tố v.v Chương IV phân tích cơ sở sinh học và xã hội của sáng tạo. Các cơ sở sáng tạo ở cấp độ tế bào thần kinh, bán cầu đại não, tác động của môi trường gia đình, giáo dục, môi trường làm việc, môi trường xã hội đối với sáng tạo được phân tích, trong đó văn hoá được coi là có nhiều tác động đến sáng tạo của con người. Chương V phân tích các quan niệm về mối quan hệ giữa sáng tạo và trí thông minh, tư duy sáng tạo, tưởng tượng. Có nhiều quan điểm nghiên cứu mối quan hệ trí thông minh và sáng tạo, mỗi tác giả có cách tiếp cận riêng và có quan niệm riêng, điều đó không hề mâu thuẫn với bản chất của sáng tạo là quá trình đi đến cái mới. Tư duy sáng tạo có vai trò quan trọng trong phát hiện ra cái mới; tư duy sáng tạo không chỉ bao gồm thành phần lôgíc, các yếu tố phi lôgíc, tiền lôgíc, yếu tố trực giác có vai trò quan trọng trong tư duy sáng tạo. Tưởng tượng là thành phần không thể thiếu của sáng tạo, mặc dù có nguồn gốc từ thực tiễn nhưng tưởng tượng đóng vai trò quan trọng trong tạo dựng cơ chế phi lôgíc của sáng tạo. Chương VI trình bày các đặc điểm nhân cách của người sáng tạo và động cơ sáng tạo. Không đi sâu vào cấu trúc kinh điển của nhân cách, chương này điểm qua một số đặc điểm nhân cách, có thể là những đặc điểm của xu hướng, năng lực hay tính cách, có mặt ở những người sáng tạo. Cũng tại chương này vấn đề động cơ sáng tạo được phân tích khá chi tiết. Động cơ trong có vai trò quyết định tới sáng tạo; động cơ ngoài hỗ trợ cung cấp thông tin có ý nghĩa xóa bỏ sự kiểm soát hay duy trì tính liên tục của hoạt động học tập và lao động góp phần thúc đẩy sáng tạo.
- Chương VII trình bày vấn đề sáng tạo trong tổ chức và việc giáo dục, phát triển tính sáng tạo. Mặc dù sáng tạo là một hiện tượng tâm lý còn nhiều điều chưa được làm rõ, các nhà nghiên cứu vẫn khẳng định triển vọng phát triển năng lực sáng tạo ở người học và phát huy tính sáng tạo ở người lao động. Đây là tài liệu dùng cho học viên sau đại học nên vấn đề được trình bày khá cởi mở, đưa ra nhiều quan điểm, ý kiến về một vấn đề. Học viên có cơ hội trải nghiệm các góc nhìn khác nhau và có thể lựa chọn cho mình quan điểm thích hợp. Giáo trình được viết với thời lượng 3 tín chỉ, là tài liệu học tập của học viên cao học tâm lý học thuộc Khoa Tâm lý học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Cuốn sách còn là tài liệu tham khảo cho nghiên cứu sinh, các nhà nghiên cứu tâm lý học và những ai quan tâm tới vấn đề sáng tạo và phát triển sáng tạo ở con người. Cuốn sách không tránh khỏi những thiếu sót, những ý kiến đóng góp của độc giả và đồng nghiệp xin gửi về địa chỉ email: ptnghi2008@gmail.com. Hà Nội, ngày 12 tháng 2 năm 2012 Tác giả: GS.TS. Phạm Thành Nghị Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG I. SÁNG TẠO VÀ CÁC THUỘC TÍNH 1. Quan niệm về sáng tạo trong lịch sử phát triển nhận thức Mục đích của phần này là điểm qua những quan niệm về sáng tạo và làm rõ sự thay đổi quan niệm về sáng tạo trong lịch sử nhận thức. Quan niệm về sáng tạo cũng có lịch sử của nó. Ở giai đoạn đầu
- của sự phát triển nhận thức, nghiên cứu khoa học và sáng tạo không được coi là có liên hệ với nhau. Khi con người phát hiện ra những quy luật trong thế giới vật lý, bắt đầu xuất hiện niềm tin rằng con người có thể hiểu được bản chất của tự nhiên mà không có sự can thiệp của lực lượng siêu nhân. Sáng tạo cũng như vậy, lúc đầu, sự sáng tạo của con người chưa được thừa nhận, con người có phát minh, sáng chế là do họ mang theo tính sáng tạo được lực lượng thần thánh gửi vào. Ngày nay đã có niềm tin rằng con người có thể sáng tạo và khoa học có thể giúp chúng ta hiểu được cách nào để sáng tạo. Tuy nhiên, rất gần đây thôi, nghiên cứu sáng tạo trong tâm lý học mới được các nhà khoa học quan tâm. a. Quan điểm ban đầu về sáng tạo Các học giả đều nhất trí rằng quan niệm ban đầu, nguyên thủy về sáng tạo của phương Tây là câu chuyện được kể trong kinh thánh, theo đó đức Chúa Trời đưa sự sáng tạo xuống trần thế. Boorstin (1992:42) viết “Về sự nhận thức khả năng của mình, giao kết là điểm quan trọng. Sự giao kết cho rằng con người kết nối lại thành cộng đồng bởi lòng tin của họ vào Đấng sáng tạo - Đức Chúa Trời. Họ khẳng định quyền lực sáng tạo của mình qua sự liên hệ, kết nối với các phẩm chất của Chúa, qua quan hệ máu thịt và tự nguyện của họ với Chúa". Quan điểm này tồn tại cho đến thế kỷ thứ II sau công nguyên sau đó suy yếu dần và được thay thế bằng thuyết mới của Thánh Augustine (354 - 430). Lúc này Cơ đốc giáo đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên bố quyền năng sáng tạo. Thuyết mới này phản ánh sự khác biệt rất lớn giữa cách nhìn nhận của phương Đông và phương Tây về mục đích và vai trò của con người trong quá trình sáng tạo. Theo Hinđu giáo (1500-900 trước công nguyên) và Nho giáo (551- 479 trước công nguyên), Lão giáo và Phật giáo thì sáng tạo là sự phát hiện và sự bắt chước. Phật giáo và Nho giáo nhấn mạnh vòng đời sự
- hài hòa và cân bằng, do đó tư tưởng sáng tạo không thể có trong thế giới âm dương từ số không (Boorstin, 1992:17). Theo Plato, không có gì mới có thể tạo ra được, nghệ thuật là sự cố gắng thích nghi hay bắt chước hình thức lý tưởng. Tính độc đáo, điểm nhấn trong sáng tạo, không phải là thuộc tính của sáng tạo trong lịch sử cổ đại. Trong suốt gần 1200 năm, tư tưởng này không có đối trọng, không có lực lượng phản đối. Trong thời trung cổ, tài năng, khả năng khác thường của cá nhân con người (thường chỉ là đàn ông) là biểu hiện của lực lượng tinh thần bên ngoài mà cá nhân chỉ là người được gửi gắm để mang theo mà thôi. Thời kỳ Phục hưng có những thay đổi đáng kể trong cách nhìn nhận sáng tạo. Ở thời kỳ này đã bắt đầu xuất hiện quan điểm cho rằng tài năng sáng tạo nghệ thuật của cá nhân con người không phải là thuộc tính của lực lượng thần bí mà là của chính cá nhân con người đó. Hơn nữa, sự thay đổi trong cách nhìn nhận này không còn bị cô lập mà là sự chuyển biến của toàn bộ xã hội, bao gồm cả "sự từ chối thân phận nông nô, sự chiến thắng của tiếng Anh, sự đi lên của các ngành nghề như luật học và y học và sự phát triển của xu hướng phi tôn giáo. Sự thay đổi đó rất mạnh mẽ và tinh tế cho đến khoảng những năm 1500-1700. Mặc dù có sự chuyển biến này, sáng tạo vẫn còn là lĩnh vực rất mờ nhạt và thậm chí một số triết gia còn không có ý định xem xét vấn đề này. b. Cuộc cách mạng trong nghiên cứu sáng tạo Trong hầu hết những năm Phục hưng, nhiều tranh luận của các nhà triết học và những phát minh khoa học đã phá vỡ những quan điểm văn hóa và tôn giáo cũ. Phát minh của ba nhà bác học lỗi lạc - Copemirưs (1473-1543), Galileo (1564-1642) và Newton (1642- 1727) - đã cung cấp chứng cứ cho sự thay đổi này. Nhưng phát hiện của họ đòi hỏi sự thay đổi trong nhìn nhận quy luật của thế giới tự
- nhiên và công nhận mối liên hệ của tự nhiên với sự tồn tại của con người. Trong thế kỷ thứ 18, hai cách tiếp cận liên quan đến quyết định luận và chủ nghĩa cá nhân đã định hình tư duy phương Tây: sự khai sáng được gắn kết với triết học trí tuệ mà biểu hiện rõ nhất của nó là sự tấn công vào những thế lực được nhà nước phong kiến bảo vệ dựa trên những căn cứ phản khoa học. Trong khi đó, khoa học tự nhiên được củng cố, thể chế hóa và sử dụng những phương pháp khoa học trong nghiên cứu. Cùng với cuộc cách mạng trong khoa học là những thay đổi đáng kể trong văn hóa phương Tây; vị thế của kinh thánh đã thay đổi. Trong hàng trăm năm, kinh thánh là nguồn tài liệu thần thánh về trí tuệ và đạo đức nhưng đến cuối thế kỷ 18 kinh thánh đã trở thành tài liệu thế tục. Prickett (1996) cho hay trong suốt thời gian cuối thế kỷ 18, Kinh thánh đã trải qua sự thay đổi đáng kể theo hướng giải thích rất tiến bộ và trở thành cuốn sách rất khác so với 100 năm trước đó, thậm chí những người phê bình gay gắt nhất cũng phải công nhận rằng kinh thánh đã khác xa với việc thần thánh hóa. Kinh thánh đã khẳng định vững chắc sự thay đổi trên thế giới; nội dung kinh thánh mềm dẻo và phổ cập. Kinh thánh được xem như là một sản phẩm văn hóa có sự thể hiện khá giống với các tài liệu thế tục khác. Khi phong trào Khai sáng chống lại quyền lực thần bí và "trí tuệ tôn giáo", tự do đã trở thành một phần không thế thiếu được của quá trình này. Đó là quyền cá nhân được khám phá chính thế giới của mình mà không cần bất cứ sự cho phép, sự hướng dẫn hay can thiệp nào của lực lượng siêu nhân. Mặc dù ý tưởng về sáng tạo chưa có gì thay đổi trong suốt những năm từ 1500 đến 1700, đã có sự thay đổi đáng kể diễn ra và tạo nền tảng tho ý tưởng nghiên cứu. Sự phức tạp có thể thấy ở việc hợp nhất giữa mô hình khoa học và kỹ thuật mà nhiều người tin rằng đây là sự bắt đầu của nền văn minh phương Tây,
- "từ thế giới nơi đồ vật được xếp đặt theo bản chất ý tưởng tuyệt đối sang thế giới của sự kiện diễn ra theo quy luật của tự nhiên. Như vậy, đã có sự thay đổi trong quan niệm và thực tiễn về nguồn gốc của sáng tạo và ý nghĩa của các nghiên cứu thực chứng. Những quan niệm này ngày càng được củng cố nhờ sự ra đời của những phát minh trong khoa học tự nhiên và thiên văn học. c. Những tiền đề thể chế và triết lý cho nghiên cứu sáng tạo Giai đoạn Khai sáng ở Anh quốc đã tạo tiền đề cho những nghiên cứu thực nghiệm. Khai sáng đã tạo ra cơ sở triết học và xã hội cho sự đối lập với chính quyền (tôn giáo, chế độ quân chủ và các thế lực chính trị khác), cùng với đó là sự lớn mạnh của khoa học chống lại tư tưởng của chính quyền. Những cơ sở này tạo điều kiện cho sự đáp ứng nhu cầu cấp thiết của tự do ngôn luận, báo chí và tự do cá nhân. Tự do trong tranh luận, chẳng hạn, là điều kiện cốt lõi của tư duy duy lý thể hiện hàng ngày và được củng cố bởi các chứng cứ khoa học. Tất cả những ý tưởng đó được đưa ra tranh luận và được định hình trong thế kỷ 18 và 19. Khoa học được luật pháp công nhận. Hiệp hội Hoàng gia được Charles II công nhận từ năm 1662 đã trở thành địa chỉ cho các cuộc gặp gỡ của các nhà khoa học và Hiệp hội này đã đứng ra công nhận kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học. Hiệp hội còn phát hành ấn phẩm của các thành viên, các bài viết cá nhân không được truyền bá riêng. Báo khoa học in ấn trong Hiệp hội ngày càng có uy tín. Đặc biệt Hiệp hội trở nên có uy tín hơn khi hòa giải được sự tranh luận dai dẳng giữa Robert Hooke và Isaac Newton. Hiệp hội đưa ra phản ứng của mình với tư cách là một tổ chức của những người làm khoa học và là nơi ấn hành các kết quả nghiên cứu khoa học: Việc tập trung hoạt động này tạo thêm quyền lực và tính thực tiễn của khoa học. Hai hậu quả của việc thể chế hóa này là: cá nhân
- bị hạn chế xuất hiện trên ấn phẩm, trong khi đó Hiệp hội Hoàng gia khuyến khích sự xuất hiện của các nhà khoa học thiên tài trong trao đổi và chuyển hướng quan tâm của Hiệp hội từ những vấn đề cá nhân sang sự quan tâm đến tính quy luật của tự nhiên và việc phát hiện ý nghĩa thực tiễn của khoa học. Những lợi ích đó đánh dấu giá trị của quy luật tự nhiên và tầm quan trọng của thực nghiệm khoa học trong thế giới vật lý. Những cuộc tranh luận về ý tưởng, của suy đoán không được coi trọng. Các kết quả nghiên cứu sử dụng các phương pháp thực chẳng có khả năng tạo ra những lợi ích thực tiễn được chú ý. Mặc dù thế giới vật lý được xem là nguồn gốc trước tiên được chấp nhận và con người được coi là một bộ phận của tự nhiên, những nghiên cứu về bản chất con người vẫn chưa được chú ý một cách nghiêm túc trong giai đoạn này. d. Những tranh luận dường như không bao giờ kết thúc Sự phát triển của khoa học đã diễn ra trước khi quan niệm sáng tạo được tạo dựng. Trong nửa cuối thế kỷ 18, niềm tin khoa học về quy luật của tự nhiên đã được chấp nhận. Sự chứng minh của khoa học trong cuộc sống thực tiễn nhờ áp dụng những sáng chế trong khoa học tự nhiên, máy quay sợi, máy hơi nước đã làm tăng tốc cuộc cách mạng công nghiệp và đưa đến sự dẫn đầu của Anh quốc trong chế tạo và kinh doanh so với các quốc gia cạnh tranh khác. Hai vấn đề được tranh luận suốt thế kỷ thứ 18 giữa các nghệ sỹ, nhà văn, nhà thơ và nhà triết học Anh quốc và châu Âu vẫn là: Sự giới hạn tự do của tư duy là ở chỗ nào? ý nghĩa xã hội và chính trị của tự do là ở chỗ nào? Những vấn đề đó cho thấy thói quen tuân thủ trong suốt hàng thế kỷ và khi quyền tự do được công nhận xã hội lại thiếu hiểu biết thấu đáo về sáng tạo và đóng góp của sáng tạo trong cuộc sống.
- Trọng tâm của cuộc tranh luận giữa thẽ kỷ thứ 17 là những cố gắng làm rõ khía cạnh pháp lý của tự do cá nhân, phân biệt với thách thức xã hội và chính trị. Luật pháp và giới hạn mà chính quyền đưa ra đã đi ngược lại với quy luật xuất hiện thiên tài, tài năng và sự cản trở tự do của con người. Trong lịch sử của sáng tạo, có nhiều cố gắng tìm hiểu những khác biệt giữa tài năng và thiên tài bẩm sinh. Đến cuối thế kỷ 18, người ta đi đến kết luận rằng có nhiều người có thể có tài năng trong những lĩnh vực nhất định và có thể đó là do kết quả của giáo dục; thiên tài bẩm sinh là rất ngoại lệ và theo quan niệm này được miễn trừ các quy tắc, luật tục và trách nhiệm áp dụng đối với người tài năng. Kaufman (1926) đã chỉ rõ, các cuộc tranh luận dài này về quan hệ và khác biệt giữa thiên tài, tính bẩm sinh, sự dị biệt, năng lực bẩm sinh và tự do. Cuối cùng đã làm xuất hiện học thuyết về chủ nghĩa cá nhân. Nhưng không có khái niệm sáng tạo tồn tại tại thời điểm đó. Hobbes (1588-1679) là người đầu tiên công nhận tầm quan trọng của tưởng tượng trong tư duy. Đây là tư tưởng được nhắc đến như là điểm khởi đầu cho cuộc tranh luận trong thời kỳ Khai sáng. Những tranh luận suốt thế kỷ 18 cuối cùng đã đi đến công nhận 4 đặc trưng khác biệt cơ bản: (1) Thiên tài không phải sinh ra từ thế lực siêu nhân; (2) Thiên tài, mặc dù là rất xuất chúng, nhưng cũng là tiềm năng trong mỗi cá nhân, (3) Thiên tài và tài năng có thể phân biệt với nhau; (4) Tiềm năng và sự vận hành chúng phụ thuộc vào không khí chính trị của thời đại. Đến cuối thế kỷ 18, kết luận này được chấp nhận rộng rãi, cả tài năng và thiên tài đều không thể tồn tại được trong xã hội hà khắc; tài năng cần đến giáo dục, thiên tài biểu hiện ở một số ít người và ít cần đến giáo dục hơn, đây là điều khác biệt giữa tài năng và thiên tài. e. Ảnh hưởng của việc áp dụng những phát minh khoa học
- Cho đến lúc này tồn tại hai mô hình kết hợp nhiều luận cứ và quan sát thực tiễn liên quan đến nghiên cứu và sáng tạo. Mô hình khoa học duy lý mang theo quyền lực khoa học và khả năng áp dụng vào thực tiễn đưa đến những kết quả nhất định. Mô hình khác, có thể gọi là hệ tư tưởng sáng tạo, liên quan đến ý nghĩa xã hội và tiềm năng của tính độc đáo và chủ nghĩa cá nhân trong bối cảnh phải phục tùng quyền lực và duy trì trật tự xã hội. Mô hình khoa học duy lý luôn là mô hình được dùng chính thống với các luận cứ và các bước nghiên cứu theo trật tự. Mặt khác, có cuộc tranh luận khá dài về ý nghĩa tôn giáo và thế lực của sáng tạo; sáng tạo đòi hỏi phải có hệ tư tưởng, bởi vì sáng tạo được xác định là phù hợp với bản chất của con người và các điều kiện chính trị xã hội. Trong khi khoa học tự nhiên và những người sáng chế thực tiễn như Arkwright và Watt bận rộn với việc đưa ra những gì mà lý trí của con người và sự sáng chế có thể làm được, hàng loạt sáng chế và ảnh hưởng mạnh mẽ của chúng dẫn đến những hậu quả không dự đoán trước được. Người nông dân và người lao động di chuyển khỏi đồng quê để đến các khu đô thị với các điều kiện sinh sống tồi tệ và họ phải làm việc trong những nhà máy thiếu những điều kiện nhân bản tối thiểu. Điều thú vị là khi các nhà khoa học rất bận rộn với việc nghiên cứu xem trí tuệ của con người có thể làm được những gì, thì đồng thời cũng có một sự quan tâm khác liên quan đến hậu quả của việc áp dụng những kết quả nghiên cứu đó, đặc biệt tới những vấn đề có liên quan đến trật tự, ổn định chính trị xã hội. Sự truyền bá rộng rãi không cưỡng lại được của tự do cá nhân và việc áp dụng rộng rãi những thành tựu của khoa học đã tạo ra một xã hội khác xa với xã hội thời kỳ đầu cách mạng công nghiệp. Nhiều hậu quả không lường trước được của việc áp dụng khoa học đã tạo ra nhu cầu phát triển khoa học xã hội, mặc dù có niềm tin rằng khoa
- học tự nhiên được quản lý theo quy luật duy lý và khôn ngoan. Hậu quả không mong muốn và không dự báo được của việc áp dụng kết quả khoa học vào cuộc sống xã hội đã khơi dậy phong trào đấu tranh chính trị và xã hội. Adam Smith là một trong những người đầu tiên nhận ra nhu cầu của nghiên cứu khoa học về hành vi con người. Cuốn sách "Tài sản của dân tộc” (Wealth of Nation, 1776) là cố gắng tập hợp nhiều lý giải cho khoa học xã hội; đó là cuốn bách khoa về hậu quả không mong muốn của khoa học. Ông nhấn mạnh rằng hậu quả có thể tốt hoặc xấu, nhưng chúng thường không chú ý và không dự báo được. Ông chỉ ra hậu quả không dự báo được là sự phát triển đột ngột của dân số và sự phát triển công nghiệp. Do hậu quả của nó, Smith và những người khác tranh luận rằng cần thiết phải phát triển khoa học tự nhiên, dựa trên kiến thức xã hội, chính trị một cách hệ thống. Khoa học xã hội sẽ giúp dự báo những thay đổi xã hội trước khi nó vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Tám năm sau khi Smith mất, xuất hiện ấn phẩm của Malthus, Bài viết về Dân số (1798). Tác phẩm đã chỉ ra các dẫn chứng của sự phát triển không kiểm soát được và sự thiếu tổ chức trong dân số Anh quốc. Malthus dự báo hậu quả không lường trước được nếu hành động xã hội và chính trị không tiến hành ngay để đối phó. Nghiên cứu của Malthus mang tính thực chứng nhưng không thuộc khoa học vật lý cho đến thời của Galton. 40 năm sau khi bài viết về dân số mà Malthus dùng cơ chế "đấu tranh sinh tồn" để giải thích sự hỗn loạn xã hội, cơ chế "đấu tranh sinh tồn” đã cung cấp cho Darwin sự giải thích về cơ chế lựa chọn tự nhiên mà ông cố gắng truyền bá. Ý tưởng đó đã giúp cố gắng của Darwin và “nguồn gốc của vạn vật" bổ sung chứng cứ mới về sự xuất hiện của con người, đối tượng của sự chuyển đổi không chủ ý và không dự báo trước được và là kết quả của chọn lọc tự nhiên.
- Chọn lọc tự nhiên không chuyển động theo bất kỳ ý muốn chủ quan của ai, không theo đạo đức và ý chí nào. Chọn lọc tự nhiên là mù quáng. Tất nhiên khi sử dụng cơ chế chọn lọc tự nhiên để giải thích các hiện tượng xã hội, Malthus đã bỏ qua vai trò của ý thức con người trong điều khiển các hành vi xã hội. Sự đột phá của trí tuệ vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 về hiểu biết sáng tạo được cho là có đóng góp của Darwin. g. Sự thích nghi, tính đa dạng và chọn lọc tự nhiên: Công thức thực chứng cho sáng tạo của Darwin Từ cuộc tranh luận đầu tiên, sáng tạo luôn đi kèm với những câu hỏi trừu tượng liên quan đến những vấn đề lớn hơn: Chủ nghĩa cá nhân là gì? và tại sao chúng ta cần tự do cá nhân? Chỉ sau khi Darwin làm rõ các quá trình nhấn mạnh sự lựa chọn tự nhiên mà rất nhiều đặc trưng cơ bản của sáng tạo được chú ý, đặc biệt ý nghĩa thích nghi của nó. Một trong những vai trò quan trọng mà sáng tạo có được từ Darwin liên quan đến giải quyết vấn đề và đưa tới việc thích nghi "có kết quả" mang tính chất cá nhân. Chúng ta có thể hiểu điều này khi nhận ra những nguyên tắc cơ bản của lý thuyết tiến hóa, sự tiến hóa là đa dạng và trên cơ sở thích nghi, sự tiến hóa diễn ra dưới tác động của chọn lọc tự nhiên: Darwin tho rằng tạo ra sự thích nghi và tạo ra sự đa dạng là những khiến cạnh khác nhau của một hiện tượng phức tạp, không phải là ý tưởng của sự tiến hóa mà là "nguyên tắc của chọn lọc tự nhiên. Hơn thế nữa, Darwin cho rằng chọn lọc tự nhiên tạo ra sự thích nghi. Bởi vì sự tiến hóa xuất hiện không được định trước, sự thích nghi đạt được từ sự bắt đầu một hậu quả ngẫu nhiên do tác động của sự thay đổi môi trường bên ngoài (Dennett, 1995). h. Sự chuyển tiếp từ Darwin đến Galton
- Cầu nối trí tuệ từ Darwin đến Galton đã được xây dựng từ rất sớm bởi sự nghiệp của Galton thông qua sự trao đổi và thăm viếng thường xuyên giữa hai người cho tới khi Darwin qua đời. Nội dung trao đổi nhiều nhất là xung quanh sự tiến hóa. Giai đoạn đầu trong quan hệ của họ, Galton đề xuất phương án về di truyền và tiến hóa, nhưng ngay sau đó ông lại bị thuyết phục bởi độ tin cậy và quyền lực giải thích to lớn của mô hình tiến hóa dựa trên nguyên tắc chọn lọc tự nhiên và sự cần thiết của tính đa dạng và vai trò của thích nghi trong chọn lọc tự nhiên. Mặc dù vậy, điều rất tự nhiên là sự đa dạng mà Galton mang đến có lẽ là vấn đề đo lường. Để giải quyết vấn đề này, sự đa dạng được thao tác hoá như là những khác biệt cá thể trong môi trường có nhiều chiều cạnh. Môi trường này bao gồm những gì có thể đo được bằng công cụ mà hầu hết do Galton thiết kế. Vì vậy, một trong những đóng góp của Galton trực tiếp cho nghiên cứu tâm lý học và gián tiếp cho sáng tạo là định nghĩa thao tác của tính đa dạng tiến hóa rộng lớn thể hiện trong những khác biệt cá thể, những cái có thể đo lường được. Galton có hai mối quan tâm lớn liên quan với nhau trong suốt sự nghiệp của ông: một là nghiên cứu sự khác biệt cá thể và hai là nghiên cứu chương trình ưu sinh (Eugenics), cái mà ông tin rằng cần thiết để tăng cường tài năng của người Anh một cách khoa học. Cho dù Galton có nhận ra hay không. Ông đã đi theo bước chân Smith và Malthus với mong muốn bảo vệ xã hội khỏi hậu quả không lường trước được. Thuyết ưu sinh là chương trình của Galton giảm thiểu sự không xác định trong chọn lọc tự nhiên có thể tác động đến nước Anh. Hai mối quan tâm nghiên cứu đó đã dẫn đến đóng góp trực tiếp nhất cho nghiên cứu về sáng tạo - lựa chọn các gia đình nổi tiếng như là những ví dụ về khả năng di truyền của họ. Vấn đề là lựa chọn những cá nhân nổi trội như những chủ thể sáng tạo rõ rệt và sử dụng các số liệu
- thống kê, mà một phần trong số đó do Galton xây dựng. Ở đây lại thấy một đóng góp nữa của Galton. Dù chủ ý hay không, Galton cũng đã cung cấp cho chúng ta chứng cứ rằng thiên tài không phải do lực lượng siêu nhiên, mặc dù rất hiếm thấy, nhưng thiên tài có tiềm năng ở trong mỗi con người và năng lực được phân bổ trong toàn bộ dân cư. i. Từ Galton đến ngày nay Câu hỏi đặt ra là liệu Galton có phải là người duy nhất quan tâm đến sáng tạo thời gian đó hay không. Câu trả lời là không. Nhưng ông là người áp dụng nhiều nhất các phương pháp thực chứng trong lựa chọn thủ thể và đo lường những khác biệt của cá nhân. Sternberg và Lubart (1996) cho rằng trở ngại tho nghiên cứu sáng tạo suốt thời gian đó là sự gắn chặt giữa sáng tạo và lực lượng thần bí, theo nghĩa rằng sáng tạo có nguồn gốc thần thánh. Thành công của Galton là rất lớn vì rằng trong thời đại của ông có rất nhiều người cũng quan tâm đến những vấn đề này, nhưng không ai tìm được cách giải quyết thoả đáng. Sau khi tổng kết những nghiên cứu trong thế kỷ 19, Becker (1995) kết luận rằng mặc dù có sự khác biệt giữa các tác giả và các bài viết, chủ đề của thế kỷ 19 không khác là mấy so với chủ đề của thế kỷ 20. Becker tuyên bố rằng các tác giả trong thế kỷ 19 tập trung vào 5 vấn đề nghiên cứu sáng tạo: (1) Sáng tạo là gì? (2) Ai có khả năng sáng tạo? (3) Những người sáng tạo có những đặc điểm gì? (4) Ai được hưởng lợi từ sự sáng tạo? (5) Cá nhân tăng cường sáng tạo qua những cố gắng có ý thức hay không? Không nghi ngờ gì đây là những câu hỏi quan trọng để tìm hiểu sáng tạo, nhưng cũng trong thời gian ấy chỉ có Galton đã có tiến bộ thực sự trong tìm kiếm câu trả lời cho các câu hỏi trên.
- Năm 1877, Jevons định nghĩa thiên tài như "sáng tạo bản chất” và được biểu hiện khi nào có "sự tách khỏi đường mòn của tư duy và hành động” (Becker, 1995: 225). William James (1992) đánh giá những nghiên cứu và các dữ liệu thực chứng phù hợp với sự đánh giá thực chứng của Dalton trước kia. Ý tưởng tư duy phân kỳ, hay chí ít cũng là cơ hội của các ý tưởng phức tạp, được William James đưa ra. Ông đã hiểu sự độc đáo, hiếm hoi của ý tưởng mới. “Thay vì tư duy về những thứ cụ thể một cách cần mẫn theo trình tự đường mòn của thói quen, chúng ta có đường cắt chéo bất ngờ và chuyển từ ý tưởng này sang ý tưởng khác phối hợp những thành tố chưa được biết, những liên tưởng tương tự tinh tế nhất, nhưng ngắn gọn. Chúng ta dường như đang giới thiệu nồi vạc sôi sùng sục những ý tưởng nơi mà sự cộng tác có thể tiến hành mềm dẻo ngay lập tức, còn sự lặp lại buồn chán không rõ ràng sẽ không có chỗ đứng và những điều bất ngờ tất yếu sẽ xảy ra (Becker, 1995: 222). Rất khó biết khi nào và ở đâu ảnh hưởng của Galton kết thúc. Hầu hết ảnh hưởng đó hình như được tiếp nhận trong mối quan tâm liên tục và những nghiên cứu ở cuối thế kỷ 19. Năm 1879 Galton xây dựng một phòng thí nghiệm sớm nhất, ở đó ông đã đo những khác biệt cá nhân về chức năng cảm giác và nghiên cứu này có mối liên quan đến giả định rằng sự khác biệt về cảm giác có liên quan tới trí tuệ và đến năm 1883 ông đã kết luận rằng "sản phẩm sáng tạo" được tạo ra từ "năng lực chung", từ "thiên tài bẩm sinh" (1869); ông tuyên bố rằng đây là một trong những khả năng chính yếu đối với thiên tài. Đến năm 1900, đo lường những khác biệt cá nhân về trí tuệ đã trở thành mối quan tâm nghiên cứu của các nhà tâm lý học. Thực ra đến năm 1904 Binet và Spearman mới tiến hành nghiên cứu thực chứng về trắc nghiệm trí tuệ. Terman, là thành viên của nhóm, đã sửa chữa trắc nghiệm Binet-simon. Mặc dù trắc nghiệm IQ là công cụ nghiên
- cứu của Terman nhưng khuôn khổ lý luận lại của Galton (Albert & Runco, 1999). Mặc dù công trình rủa Galton không được tiếp tục, nhưng ảnh hưởng của ông vẫn còn. Terman là nhà tâm lý học Mỹ đầu tiên nghiên cứu về thiên tài. Mối quan tâm sâu sắc của ông đến thiên tài thể hiện qua nhiều công trình nghiên cứu. Nghiên cứu của Terman rất quan trọng không chỉ bởi sự thay đổi phương pháp, mà còn có ý nghĩa giáo dục và xã hội to lớn. Cả Galton và Terman đều lo lắng về tương lai của dân tộc và làm thế nào để bảo vệ nó. Terman đã bị phê phán trong thời gian ấy bởi sự tập trung rất hẹp của ông vào IQ và coi đó là biểu hiện của năng khiếu và chối bỏ thậm chí cả sáng tạo và những thành công phi học thuật khác. Cũng đúng như nhận định này, quá trình nghiên cứu của Terman luôn được định hướng bởi mong muốn làm cho xã hội Mỹ phát triển dựa trên nguyên tắc phát triển những người tinh túy. Theo đó trẻ em có IQ cao được phát hiện và được tạo cơ hội phát triển tối đa tiềm năng. Điều đó còn có ý nghĩa ở chỗ chương trình nghiên cứu của Terman tiến hành chống lại sự thay đổi trí tuệ đang diễn ra ở châu Âu, ở mức độ nào đó là sự hồi phục của triết học Rousseau. Quan niệm và hành động như vậy của Terman đồng nghĩa với việc công nhận sự thành công của con người là do nguồn gốc sinh học quyết định (Albert & Runco, 1999). Phương pháp của Terman là tương đối đơn giản, trong khi sáng tạo lại là quá trình rất phức tạp. Luận án của Catherine Cox do Terman hướng dẫn như là sự kéo dài của chính phương pháp của Terman, ước lượng IQ theo cách Galton đối với mẫu những cá nhân được kết quả xuất sắc trong giai đoạn 1450 - 1850. Thông qua mối quan tâm của Terman về Galton, mà sau này có ảnh hưởng rất lớn đến nghiên cứu của Cox (1926). Trong thực tế, cả ba người - Galton, Terman và Cox - một cách vô điều kiện - đều cho rằng thành công là thước đo tin cậy
- về năng lực tâm lý và điều đó giúp giải thích tại sao Terman và Cox bắt đầu nghiên cứu của mình ở nơi mà Galton kết thúc và tin rằng sáng tạo là cấu thành của trí tuệ. Dữ liệu đều được lấy từ lưu trữ, nhưng Cox đã nâng cấp công trình của Galton theo nhiều nghĩa. Mẫu nghiên cứu của bà lớn hơn và chọn lựa một cách khách quan hơn. Cox dùng sự đánh giá của chuyên gia về sự nổi tiếng. Sự nâng cấp còn ở chỗ sử dụng tiểu sử, tự truyện và thông tin văn hóa xã hội, tất cả đều được mã hóa. Từ đó Cox và các nhà tâm lý học khác đã ước lượng IQ của chủ thể và những thuộc tính thời thơ ấu. Điều đó làm cho các đối tượng được chọn cho nghiên cứu trở nên sống động hơn và câu chuyện của bà đáng tin cậy hơn và những kết luận đưa ra phù hợp và dễ được chấp nhận hơn. Nghiên cứu của Cox trên những người có IQ trung bình khoảng 154 cho thấy hầu hết những người sáng tạo có thành công xuất sắc, không những có trí tuệ cao mà về khía cạnh động cơ và cố gắng, họ có lòng tin vào khả năng của mình và có sự mạnh mẽ về tính cách. Ở đây có sự tương đồng giữa Galton và Cox trong việc công nhận vai trò của động cơ trong, như Galton mô tả trước kia là "một trong những phẩm chất của trí tuệ khuynh hướng và hành động như những kích thích quan trọng" (Runco, 1993: 6). Độ tin cậy trong kết luận của Cox được khẳng định bởi sự tập trung vào các chứng cứ về sự bền bỉ, động cơ trong và tính tự chủ (Albert & Runco, 1999). Thật khó có thể nói gì về nghiên cứu sáng tạo cho đến trước thế chiến thứ hai bằng đóng góp của Cox. Bà đã theo cách tiếp cận lịch sử để nghiên cứu và cho rằng nghiên cứu sáng tạo liên quan đến vấn đề chung cho cả tâm lý học và lịch sử. Đây là việc áp dụng các dữ liệu lịch sử, các tiêu chuẩn đo năng lực tâm lý của trẻ em (Cox, 1926: 21). Đóng góp khác của Cox còn ở chỗ bà đã góp phần khẳng định rằng sáng tạo không được định hướng bởi vô thức. Tất cả các loại hành vi được xác định bởi nhiều tác nhân và điều này gần với quan
- niệm hiện nay của sáng tạo - một hiện tượng tâm lý rất phức tạp (Albert & Runco, 1999). Kết quả nghiên cứu của Cox giúp tìm ra sự phụ thuộc của bản tính cá nhân và các quá trình thích nghi ý thức. Ngay sau thế chiến thứ hai trọng tâm nghiên cứu được hướng vào nhân cách, giá trị, tài năng và IQ của những đàn ông và phụ nữ đặc biệt cũng như so sánh với các trường hợp bình thường như những đối chứng (Barron, 1955). Những nghiên cứu này khẳng định một điều rằng tất cả những khác biệt những yếu tố ảnh hưởng nhất của cá nhân là những khác biệt gia đình và khác biệt về điều kiện phát triển tạo ra. Khác biệt về IQ không phải là khác biệt có ý nghĩa quan trọng nhất. Với IQ trên 115 thì sáng tạo và IQ là hai cấu thành tâm lý ít nhiều độc lập ở giai đoạn cuối của tuổi vị thành niên (Albert & Runco, 1999). 2. Khái niệm sáng tạo trong tâm lý học Từ những trình bày về sự thay đổi quan niệm sáng tạo trong lịch sử trên đây, chúng ta thấy quan niệm về sáng tạo đã thay đổi và phát triển từ chỗ siêu hình đến chỗ có cơ sở khoa học hơn. Tâm lý học nghiên cứu các hiện tượng tâm lý người, ở đó tâm lý được coi là có bản chất tinh thần nhưng cái tâm lý, cái tinh thần ấy không tồn tại ngoài cái vật chất. Tâm lý là sự phản ánh, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là hình thức vận động của vật chất. Những cố gắng của nền tâm lý học duy vật biện chứng thể hiện ở quan điểm nghiên cứu cái tâm lý trong chính hoạt động của con người, tâm lý có bản chất hoạt động và hoạt động của con người là hoạt động tâm lý. Hành động là đơn vị tâm lý. Cần nhấn mạnh vai trò dẫn dắt của hành động, sự phụ thuộc của tâm lý con người vào tác động qua lại với thế giới đồ vật xung quanh và tính tích cực của chính tâm lý con người. Sáng tạo được sinh ra trong hoạt động con người, là sự phát hiện ra những mối liên hệ, những quy luật đang tồn tại trong đồ vật, hiện
- tượng tự nhiên, xã hội và tư duy chưa được biết đến trước đó. Đồng thời, sáng tạo của con người cũng được áp dụng để tạo ra đồ vật mới có ích cho cuộc sống của con người. Sáng chế mang tính ứng dụng thiết thực nhưng cũng phải dựa trên những quy luật được phát hiện ra trước đó. Các nhà tâm lý học xem xét sáng tạo theo những chiều cạnh khác nhau. Sáng tạo có thể được xem như là quá trình tạo ra cái mới; sáng tạo cũng có thể được xem xét theo những đặc điểm của sản phẩm mới được tạo ra và sáng tạo còn được xem xét như năng lực, như đặc điểm nhân cách của người sáng tạo. Trước hết, sáng tạo được xem như một quá trình tạo ra cái mới trong hoạt động của con người. Quan niệm loại này xuất phát từ bản chất của quá trình sáng tạo. Watson (1928) chẳng hạn, phân biệt sáng tạo theo cách mà cái mới được tạo ra. Câu hỏi đặt ra là cái mới được sinh ra như thế nào? Sự sáng tạo trong ngôn ngữ diễn ra như thế nào? Một bài thơ hay, một bài luận xuất sắc được tạo ra như thế nào? Câu trả lời là chúng ta đến đó được là nhờ thao tác từ ngữ, chuyến đổi từ ngữ đến khi loại hình mới xuất hiện. Trường phái Gestal thì lại cho rằng sáng tạo là sự thấu hiểu xuất hiện khi người tư duy nắm bắt được những nét chính yếu của vấn đề và mối quan hệ của chúng với giải pháp cuối cùng. Sáng tạo được coi là hoạt động giải quyết vấn đề đặc trưng bởi tính thới mẻ, tinh phi truyền thõng, sự bền bỉ và khó khăn trong hình thành vấn đề (Newell và đồng nghiệp, 1962). Guilford đưa ra định nghĩa sáng tạo trong mối quan hệ với năng lực cá nhân của người sáng tạo. "Theo nghĩa hẹp, sáng tạo liên quan đến những năng lực đặc trưng cho những người sáng tạo. Hay nói cách khác vấn đề tâm lý học liên quan đến nhân cách sáng tạo Tôi
- thường xác định nhân cách cá nhân như một kiểu thuộc tính độc nhất làm một người khác với những người khác. Nhà tâm lý học đặc biệt quan tâm đến những đặc điểm được biểu hiện trong thực hiện hành động hay trong các đặc điểm hành vi. Các thuộc tính hành vi diễn ra phụ thuộc vào các cấu thành lớn như năng lực, hứng thú, thái độ và các thuộc tính khí chất. Nhân cách sáng tạo là tập hợp các kiểu loại đặc điểm đặc trưng cho những con người sáng tạo" (Guiord, 1950: 444). Mặc dù tiếp cận nhân cách được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm nhưng đa số các định nghĩa sáng tạo có nhắc đến chỉ báo của sản phẩm sáng tạo như là dấu hiệu để phân biệt. Hầu hết các định nghĩa nhấn mạnh vào sản phẩm sáng tạo bao gồm thuộc tính mới và phù hợp. Barron (1955:478-479) cho rằng sản phẩm sáng tạo phải độc đáo, tức là không giống với phần lớn đồ vật khác được tạo ra và sản phẩm phải ở mức độ nào đó thích ứng với thực tiễn. Tóm lại, sáng tạo có thể được coi là quá trình tiến tới cái mới, là năng lực tạo ra cái mới, sáng tạo được đánh giá trên cơ sở sản phẩm mới, độc đáo và có giá trị. Tuy nhiên, cần phải phân biệt hai loại định nghĩa sáng tạo: định nghĩa mang tính thao tác và định nghĩa mang tính quan điểm. Định nghĩa sáng tạo mang tính thao tác dựa chủ yếu vào tiêu chuẩn chủ quan và như vậy chưa đủ cơ sở để sử dụng trong các lý thuyết về sáng tạo. Ở thời điểm hiện tại các nghiên cứu thực chứng về sáng tạo của con người chưa có các chuẩn mực khoa học để xác định các sản phẩm sáng tạo, việc hình thành các lý thuyết sáng tạo dựa chủ yếu vào các thừa nhận chung về tiêu chuẩn và các đặc tính của các tiêu chuẩn đó. Vì vậy, điều quan trọng ở đây là phải xác định các tiêu chuẩn của cái mà các nhà nghiên cứu gọi là “sáng tạo". Khung lý thuyết của sáng tạo có thể bao hàm hai thành tố cơ bản: “Một sản phẩm hay câu trả lời được gọi là sáng tạo (a) chúng
- phải mới và phù hợp, hữu dụng, đúng hay có giá trị cho nhiệm vụ, công việc của con người và (b) nhiệm vụ phải có tính trực giác chứ không mang tính lôgíc" (Amabile, 1996:35). Quan niệm của Amabile nhấn mạnh tính phi lôgíc của sự xuất hiện ý tưởng sáng tạo. Quan niệm này là phù hợp vì rằng nếu đã có lôgíc đi đến sáng tạo thì nhiệm vụ tự nó không còn là sáng tạo nữa. Con đường lôgíc là con đường rõ ràng đã được xác định trước đó; ngược lại con đường sáng tạo là con đường chưa có sẵn, còn lờ mờ, không rõ ràng cho đến khi tìm được lời giải. Khi giải quyết các nhiệm vụ sáng tạo, con đường lôgíc được xây dựng hay được phát hiện ra. Như vậy, nhiệm vụ có được coi là sáng tạo hay không phụ thuộc rất nhiều vào mục tiêu cụ thể và mức độ kiến thức của người thực hiện. Ví dụ, nhiệm vụ làm một loại bánh cụ thể không được coi là nhiệm vụ Sáng tạo, người thực hiện chỉ cần làm theo những chỉ dẫn đã có hay lôgíc đã được xác định. Trong khi nhiệm vụ tìm cách chữa bệnh ung thư được coi là nhiệm vụ sáng tạo khi không ai biết cách chữa trị trước đó. Hầu hết các nhiệm vụ, bài toán trong thực tiễn đều thuộc một trong hai loại này. Tuy nhiên, bài toán được coi là sáng tạo hay lôgíc còn phụ thuộc vào trình độ kiến thức của người thực hiện bài toán. Nếu người thực hiện chưa có kiến thức về lĩnh vực đó, bài toán có thể được coi là bài toán sáng tạo và ngược lại nếu người thực hiện đã biết cách giải thì bài toán chỉ còn là bài toán lôgíc. Trong trường hợp người thực hiện chưa có kiến thức đầy đủ, còn phải tìm tòi, học hỏi, thì bài toán thiên về sáng tạo; ngược lại kiến thức của người thực hiện tuy chưa đủ để giải bài toán như bài toán lôgíc, nhưng việc tìm hiểu lôgíc không còn là trở ngại lớn nữa, bài toán cơ bản được coi là bài toán lôgíc. 3. Các thuộc tính của sáng tạo
- Có nhiều quan điểm về các thuộc tính của sáng tạo. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng tính thuần thục, tính linh hoạt, tính độc đáo, tính nhạy cảm vấn đề, tính phê phán, tính chi tiết và khả năng giải quyết vấn đề theo cách mới là những thuộc tính của sáng tạo. Những thuộc tính như tính độc đáo, tính thuần thục và tính mềm dẻo nhận được sự nhất trí cao của các nhà nghiên cứu. Theo quan điểm của chúng tôi, có thể cụ thể hoá những thuộc tính chung sau đây của sáng tạo: tính độc đáo, tính mềm dẻo, tính thành thục và tính chi tiết như những thuộc tính của sáng tạo đã được các nhà nghiên cứu tâm lý học sáng tạo kinh điển như Guilíord và Torrance lựa chọn và bổ sung thêm tính nhạy cảm vấn đề được Lowenfeld (1962) đề xuất và nhiều nhà nghiên cứu khác chấp nhận. a. Tính độc đáo (originality) của sáng tạo là khả năng phát hiện những nét độc đáo, những mối liên hệ mới hay những giải pháp mới, hiếm, lạ trên cơ sở những mối liên tưởng và những kết hợp mới với những kiến thức, kinh nghiệm đã có hay những giải pháp đã được xác định. Nhận ra vấn đề mới, những bất cập, những cơ hội mới trong điều kiện quen thuộc, phát hiện ra những chức năng mới của đồ vật là nền tảng cho tính độc đáo của tư duy. Chỉ báo quan trọng để đánh giá tính độc đáo trong trắc đạc tâm lý hay quan sát, phát hiện tính độc đáo thể hiện sự hiếm lạ của những câu trả lời, giải pháp, tính chất được phát hiện so với tong số câu trả lời, giải pháp, tính chất được đưa ra. b. Tính thành thục (fuency) của sáng tạo là khả năng sử dụng các thao tác tư duy, các kiến thức, thông tin một cách dễ dàng. Chỉ báo để đánh giá tính thành thục của tư duy là số lượng các ý tưởng, các giải pháp được đưa ra hay các thuộc tính được phát hiện. c. Tính mềm dẻo (flexibility) là năng lực thay đổi dễ dàng, nhanh chóng trật tự của tri thức, thay đổi quan niệm, góc nhìn, định
- nghĩa lại sự vật, hiện tượng, thay đổi phương pháp tư duy, phát hiện, tạo ra những mối liên hệ mới, đa dạng của sự vật hiện tượng. Tính mềm dẻo của tư duy thể hiện sự thay đổi thái độ, nhiều khi đã là cố hữu trong hoạt động trí tuệ của con người, dễ dàng chuyển từ hoạt động trí tuệ này sang hoạt động trí tuệ khác, điều chỉnh suy nghĩ khi gặp lại vấn đề tương tự. Tính mềm dẻo thể hiện ở tính đa dạng trong phương án giải quyết vấn đề theo nhiều cách tiếp cận, xem xét sự vật theo nhiều góc độ, cách nhìn nhận. Chỉ báo để đánh giá tính mềm dẻo của tư duy là số lượng các nhóm câu trả lời, các thuộc tính, giải pháp được phát hiện, tạo dựng. d. Tính chi tiết, tính hoàn thiện (elaboration) Là sự thể hiện thi tiết, hoàn thiện của các ý tưởng, tình huống, giải pháp. Chỉ báo để đánh giá mức độ chi tiết, hoàn thiện là số lượng các ý tưởng chi tiết, cụ thể được ghi nhận. e. Tính nhạy cảm vấn đề (problem sensibility) Lowenfeld (1962) cho rằng người sáng tạo luôn không thỏa mãn với những gì nhìn thấy, nghe thấy, sờ mó thấy. Người sáng tạo có ngưỡng cảm giác thấp, nhạy cảm với những bất ổn, những bất hợp lý, có sự tinh tế của các cơ quan cảm giác, có năng lực trực giác. Tính nhạy cảm vấn đề còn phản ánh ở sự phong phú về xúc cảm, tình cảm của nhân cách, có những rung cảm, đồng cảm với người khác, với đồng loại. Người nhạy cảm hành động nhẹ nhàng, họ cảm nhận được ý nghĩ của người khác. Tính nhạy cảm còn chịu tác động của các yếu tố môi trường xã hội như văn hóa, tôn giáo, dân tộc Chỉ báo về tính nhạy cảm vấn đề có thể là số lượng vấn đề, tình huống, bất ổn được phát hiện hay nghi ngờ. Các thuộc tính của sáng tạo không tách rời nhau mà chúng có liên quan mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau, trong đó tính độc đáo
- được coi là quan trọng nhất trong biểu đạt sáng tạo. Tuy nhiên, tính mềm dẻo, tính thuần thục và nhạy cảm vấn đề là cơ sở để có thể đạt được tính độc đáo và sự hoàn thiện. 4. Các cấp độ sáng tạo Sáng tạo có thể được biểu đạt ở các cấp độ khác nhau. Người bình thường cũng có thể sáng tạo. Những nhà sáng tạo vĩ đại tạo ra những thay đổi lớn trong các lĩnh vực khoa học, nghệ thuật; những người bình thường có thể sáng tạo trong giao tiếp thể hiện ở sự biểu đạt ý tưởng một cách hóm hỉnh, thể hiện tính độc đáo trong sản phẩm lao động hàng ngày. Có thể chia ra 5 cấp độ của sáng tạo: sáng tạo biểu đạt, sáng chế, phát minh, cải biên và sáng tạo ra lĩnh vực, ngành nghề mới. a. Sáng tạo biểu đạt Là sự thể hiện ra bên ngoài những mối quan hệ, liên tưởng trong cuộc sống thường ngày, trong những sản phẩm lao động. Sáng tạo ở mức biểu đạt thể hiện trong giao tiếp, trong cải biến các quan hệ, trong lao động, trong cuộc sống, các chi tiết mới trong sản phẩm v.v b. Sáng chế Là việc tạo ra những vật dụng, dụng cụ mới chưa từng có trong tự nhiên và trong cuộc sống con người dựa trên những kiến thức phát hiện được bằng con đường khoa học cũng như những kinh nghiệm thu nhận được trong cuộc sống. Sáng chế tạo ra sản phẩm phục vụ cho hoạt động của con người. Sáng chế có thể thấy nhiều nhất trong các lĩnh vực công nghệ, kỹ thuật nơi tạo ra các dụng cụ đồ vật có tính năng, tác dụng mới đáp ứng tho cuộc sống và hoạt động của con người. c. Phát minh
- Là sự phát hiện ra quy luật của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Những quy luật này đang tác động, đang tồn tại nhưng con người, loài người chưa phát hiện ra trước đó. Những phát hiện của Darwin về sự tiến hoá của sinh vật, phát minh của Newton về định luật hấp dẫn, phát hiện của Các Mác về quy luật tiến hoá của xã hội loài người theo các hình thái kinh tế - xã hội là những phát minh vĩ đại. d. Sáng tạo ở mức cải biến Là những thay đổi mang lại do tạo ra được những chuyển hoá, những đột phá trong khoa học công nghệ, những thay đổi trong xã hội nhờ những phát minh, sáng chế trong nhiều lĩnh vực hay những thay đổi trong cách nhìn nhận, cách xử lý tình huống một cách tổng thể có sự tham gia của nhiều nhà khoa học, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực công nghệ nhằm cải biến thực tiễn. e. Sáng tạo có thể tạo ra các lĩnh vực ngành nghề mới Thực tiễn cho thấy nhiều phát minh khoa học và sáng chế kỹ thuật, công nghệ đã tạo ra những lĩnh vực ngành nghề mới nhờ kết quả ứng dụng chúng mang lại. II. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ CỦA TÂM LÝ HỌC SÁNG TẠO Nghiên cứu trong tâm lý học sáng tạo là tìm kiếm con đường theo đó cái mới được sinh ra ở cấp độ tâm lý. Do vậy, có thể nói rằng tâm lý học sáng tạo là lĩnh vực tri thức về con đường cá nhân và nhóm người tạo dựng cái mới độc đáo và có giá trị trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau, trước hết là trong khoa học, kỹ thuật và nghệ thuật. 1. Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học sáng tạo Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học sáng tạo có thể là một quá trình đi đến cái mới, một hoạt động giải quyết vấn đề, năng lực hay
- đặc điểm của nhân cách sáng tạo. Cho dù sáng tạo được xem xét như là một hiện tượng, một quá trình hay một cấu thành tâm lý, tâm lý học sáng tạo cũng phải tiến hành nghiên cứu bản chất, cơ chế, quá trình đi đến cái mới có giá trị và các yếu tố tác động đến quá trình tạo ra cái mới đó. Ngoài ra, tâm lý học còn nghiên cứu những biểu hiện của sáng tạo, chẩn đoán các năng lực sáng tạo, đánh giá và giáo dục sáng tạo. Khi xem xét sáng tạo như một quá trình, các nhà tâm lý học nghiên cứu quá trình gồm các bước, bản chất của các bước trong quá trình đi đến sáng tạo. Nghiên cứu sáng tạo với tư cách là một quá trình, các nhà tâm lý học đặc biệt quan tâm đến mắt xích trung tâm của quá trình sáng tạo, vai trò của yếu tố trực giác và yếu tố lôgíc, những biểu hiện bên ngoài và bên trong khi ý tưởng sáng tạo xuất hiện bất ngờ trong điều kiện không xác định trước đó. Khi xem xét sáng tạo như một thuộc tính tâm lý hay năng lực của nhân cách, các nhà tâm lý học nghiên cứu các đặc điểm tâm lý của cá nhân người sáng tạo. Tâm lý học còn nghiên cứu mối quan hệ và tương tác giữa sáng tạo với các hiện tượng tâm lý khác như trí tuệ, nhân cách, động cơ Khi xem xét sáng tạo dưới góc độ sản phẩm, sản phẩm sáng tạo được đánh giá theo mức độ kinh nghiệm được cấu trúc lại. Một sản phẩm càng sáng tạo thì phạm vi ứng dụng của nó càng rộng. Sản phẩm sáng tạo có thể là đồ vật cảm nhận được bằng các giác quan và sản phẩm sáng tạo có thể là ý tưởng không nhất thiết phải cảm nhận được thông qua các giác quan mà chỉ tồn tại dưới dạng sản phẩm của tư duy. Đặc biệt, tâm lý học quan tâm tới các đặc điểm môi trường nơi cá nhân sinh sống, làm việc có tác động đến việc hình thành các phẩm
- chất tâm lý sáng tạo. Môi trường có thể là gia đình, nhà trường và xã hội, nơi cá nhân người sáng tạo học tập, sinh sống, làm việc và trưởng thành. Các đặc điểm văn hoá cũng được xem xét và coi trọng. Những biến cố của thời đại có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của nhân cách sáng tạo cũng nhận được sự chú ý của các nhà nghiên cứu. Để có công cụ nghiên cứu sáng tạo, các nhà tâm lý học xây dựng, thử nghiệm các kỹ thuật nghiên cứu, đặc biệt xây dựng các bộ trắc nghiệm đo lường sáng tạo. Có thể nói sáng tạo là một hiện tượng tâm lý rất phức tạp được quan tâm từ khá lâu, nhưng chỉ sau năm 1950 khi Guilford ra thông điệp kêu gọi các nhà tâm lý học chú ý đến hiện tượng sáng tạo và tiến hành nghiên cứu theo phương pháp thực chứng một cách đầy đủ, tâm lý học sáng tạo mới có sự quan tâm đặc biệt ở Mỹ và nhiều nước phương Tây khác. 2. Nhiệm vụ của tâm lý học sáng tạo Ngày nay có nhu cầu rất cấp thiết của xã hội về nghiên cứu sáng tạo trong tâm lý học. Trước hết, bởi vì việc các nhà khoa học đang phải đương đầu với những nhiệm vụ thực tiễn phức tạp không thể giải quyết được chỉ bằng cách tăng số lượng các nhà khoa học tham gia mà phải tăng cường tiềm năng lao động sáng tạo của họ. Để làm được việc này phải có cách thức tuyển chọn, đào tạo cán bộ khoa học, tạo dựng môi trường làm việc để khuyến khích động cơ làm việc và tăng cường năng lực sáng tạo của họ. Sáng tạo trong các lĩnh vực kỹ thuật và nghệ thuật cũng đặt ra nhiệm vụ tương tự. Trong nội bộ ngành tâm lý học sáng tạo, hàng loạt nhiệm vụ nghiên cứu đang được đặt ra. Đó là vấn đề về bản chất của sáng tạo, các tiêu chuẩn của hoạt động sáng tạo, các quy luật của quá trình sáng tạo, đặc điểm của nhân cách sáng tạo, tổ chức và khuyến khích
- hoạt động sáng tạo, hình thành năng lực sáng tạo và tổ chức hoạt động sáng tạo Tâm lý học phương Tây đã tiến hành nhiều nghiên cứu và thu được rất nhiều tư liệu nghiên cứu thực chứng. Tuy nhiên những cơ sở lý thuyết của tâm lý học sáng tạo đã được xây dựng hãy còn khá khiêm tốn. Mặt khác, việc ứng dụng những thành tựu nghiên cứu tâm lý học sáng tạo vào thực tiễn cũng đang là nhiệm vụ cấp bách đặt ra cho tâm lý học sáng tạo. Ở nước ta, vấn đề phát triển con người được quan tâm đặc biệt. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định quan điểm "lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Câu hỏi đặt ra là để rút ngắn con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuẩn bị cho nền kinh tế tri thức cần phải đầu tư vào phát triển con người với tư cách là nguồn nhân lực như thế nào vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Dưới góc độ tâm lý học, một trong những năng lực quan trọng cho nguồn nhân lực loại này là khả năng làm việc sáng tạo. Như vậy, tăng cường nguồn vốn con người thông qua phát triển năng lực sáng tạo có thể góp phần làm tăng tốc sự phát triển của quốc gia. Nghiên cứu sáng tạo ở nước ta còn là một vấn đề rất mới mẻ; có rất ít công trình nghiên cứu sáng tạo nhìn từ góc độ tâm lý học. Tâm lý học Việt Nam có nhiệm vụ chuyển tải những thành tựu nghiên cứu tâm lý học sáng tạo của thế giới để phổ biến trong nước, thích nghi, sử dụng những công cụ nghiên cứu được soạn thảo ở nước ngoài vào nghiên cứu sáng tạo ở cấp độ cá nhân và cấp độ tổ chức, đặc biệt thích nghi và áp dụng những công cụ phát triển tư duy, phát triển năng lực sáng tạo đã có để tăng cường năng lực sáng tạo của người học, người lao động nước ta. Cùng với nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng này, những nghiên cứu lý luận và thực nghiệm sáng tạo sẽ giúp các
- nhà tâm lý học Việt Nam từng bước xây dựng và phát triển ngành tâm lý học sáng tạo nước nhà trong thời gian tới. III. CÁC HƯỚNG TIẾP CẬN TRONG TÂM LÝ HỌC SÁNG TẠO Có thế xem xét các nghiên cứu sáng tạo theo bảy xu hướng chính (1) Tiếp cận thần bí, (2) Tiếp cận thực dụng, (3) Tiếp cận động lực tâm lý (4) Tiếp cận trắc đạc tâm lý, (5) Tiếp cận nhận thức, (6) Tiếp cận xã hội - nhân cách, và (7) Tiếp cận hội tụ. 1. Tiếp cận thần bí Trước kia, nghiên cứu tâm lý học thường phải đương đầu với sự "can thiệp của thần thánh”. Những người sáng tạp được xem là những thiếc thùng rỗng được thần thánh đổ đầy cảm hứng. Những con người này, sau đó, chỉ việc đưa ra những ý tưởng cảm hứng, tạo nên sản phẩm hữu ích từ trong cái đầu đã được chứa đầy ý tưởng sáng tạo. Chính cách tiếp cận bí ẩn này đã làm cho kết quả nghiên cứu khoa học thật sự khó tiếp cận và khó tin tưởng. Nhiều người cho rằng, sáng tạo không thuộc phạm trù khoa học, bởi vì đó là quá trình tâm linh, thần bí. Ngày nay tiếp cận này không còn phổ biến trong khoa học. 2. Tiếp cận động lực tâm lý Tiếp cận động lực tâm lý xuất hiện ở nửa đầu thế kỷ 20. Dựa trên thực tế tồn tại sự căng thẳng giữa ý thức và khát vọng vô thức, Freud đã giải thích rằng nhà văn, nghệ sỹ tạo ra tác phẩm sáng tạo như là cách để biểu đạt những mong muốn vô thức dưới dạng công chúng chấp nhận được. Những mong muốn vô thức này có thể là quyền lực, sự giàu có, sự nổi tiếng, danh dự hay tình yêu. Sau này, tiếp cận phân tâm học giới thiệu quan niệm thích nghi, là quá trình bậc một ngụ ý là sự xâm lấn của ý nghĩ không được điều chỉnh trong vô thức. Ý nghĩ không được điều chỉnh thường xuất hiện trong giấc ngủ, trong say thuốc, trong tưởng tượng, trong mơ ngày
- hay bệnh tinh thần. Một nhà lý luận khác (Kubie, 1958) lại cho rằng tiềm thức nằm giữa ý thức và vô thức và là nguồn gốc thực sự của sáng tạo bởi nó rất phóng đãng và mơ hồ, nhưng có thể giải thích được. Tiếp cận động lực cho ta gợi mở về bản chất của sáng tạo, nhưng nó không phải là trọng tâm của nghiên cứu tâm lý học về sáng tạo. Tiếp cận này tách rời khỏi các tiếp cận khác, tiến hành nghiên cứu những nhà sáng tạo nổi tiếng. Tiếp cận động lực tâm lý bị phê phán gay gắt vì không thể đo đạc được các cấu thành mà lý thuyết này đưa ra. 3. Tiếp cận thực dụng Những nghiên cứu theo xu hướng thực dụng ít quan tâm đến bản chất của sáng tạo và dành nhiều thời gian cho phát triển sáng tạo. Edward De Bono, người nghiên cứu về tư duy chiều ngang và các khía cạnh khác của sáng tạo đã tập trung vào những sản phẩm mang tính ứng dụng (De Bono, 1985, 1992). De Bono ít quan tâm đến lý luận mà ông quan tâm đến thực tiễn. Ví dụ, De Bono khuyến nghi dùng công cụ tập trung vào các chiều cạnh của ý tưởng: tích cực (pluses - P) và tiêu cực (minuses – M) và tính hấp dẫn (I) (PMI). Ông khuyên dùng từ po, lấy từ thuật ngữ giả thuyết, giả định, có thể và dùng thơ ca để khơi gợi thay vì bình luận ý tưởng. Một công cụ khác mà Bono dùng là 6 chiếc mũ tư duy, ở đó những người khác nhau đội những cái mũ khác nhau, ví dụ, người đội mũ trắng ngụ ý là tư duy dựa trên dữ liệu, mũ đỏ ngụ ý tư duy trực giác, mũ đen - tư duy phê phán và mũ xanh lá cây - tư duy phát kiến để khuyến khích tạo ra những kết quả từ những quan điểm rất khác nhau. Osbom (1953) cũng đi theo, khuynh hướng này dựa trên kinh nghiệm làm quảng cáo của mình, phát triển kỹ thuật công não để
- khuyến khích mọi người giải quyết vấn đề một cách sáng tạo bằng tìm nhiều lời giải có thể trong một không khí xây dựng hơn là phê phán, hay như chúng ta cần thích nghi với vai trò người khám phá, nghệ sỹ, luật sư và chiến binh để nuôi dưỡng sản phẩm sáng tạo. Đây là cách tiếp cận hữu dụng, nhưng với tư cách là người làm nghiên cứu tâm lý học, chúng ta có thể thấy tiếp cận theo cách này thiếu những cơ sở khoa học và những đánh giá thực chẳng đủ tin cậy. 4. Tiếp cận trắc đạc tâm lý Khi nghiên cứu sáng tạo, chúng ta thường nghĩ đến những người nổi tiếng như Newton hay Enstein, nhưng trong thực tế rất khó tìm thấy những người nổi tiếng như vậy làm đối tượng nghiên cứu. Do vậy, Guilford (1950) đã đề xuất có thể nghiên cứu sáng tạo trên những thủ thể chúng ta gặp thường ngày và sử dụng giấy và bút thông thường để nghiên cứu. Một trong những trắc nghiệm này được gọi là Trắc nghiệm công dụng dị thường (Unusual Uses Test), ở đó người tham gia thực nghiệm kể ra càng nhiều càng tốt những công dụng của các đồ vật thông thường. Nhiều nhà nghiên cứu chấp nhận đề xuất này và "tư duy phân kỳ" trở thành công cụ chính để đo tư duy sáng tạo. Trắc nghiệm là con đường tiện lợi để so sánh mọi người trên cơ sở thang "sáng tạo" chuẩn mực. Torance (1974) đã xây dựng trắc nghiệm Tư duy sáng tạo Torrance (TTCT). Trắc nghiệm này bao gồm nhiều bài tập ngôn ngữ và hình vẽ liên quan đến tư duy phân kỳ và kỹ năng giải quyết vấn đề. Trắc nghiệm có thể cho biết số điểm về sự thành thạo (tổng số đáp án phù hợp), tính mềm dẻo (số loại hình khác nhau của các đáp án phù hợp), tính độc đáo (sự khan hiếm của đáp án) và tính chi tiết (số câu trả lời đủ chi tiết).
- Cuộc cách mạng trong sử dụng trắc đạc tâm lý để đo sáng tạo có cả tác động tích cực và tiêu cực. Về mặt tích cực, trắc nghiệm tạo thuận lợi cho nghiên cứu bằng việc cung cấp công cụ dễ làm, có thể cho điểm khách quan. Hơn nữa, nghiên cứu còn có ý nghĩa khi đối tượng là người bình thường và có thể tiến hành trắc nghiệm khi nào cần. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu phê phán các trắc nghiệm chỉ dùng chì và giấy, không phù hợp để đo sáng tạo; các công cụ có ý nghĩa hơn, như vẽ, viết có thễ bổ sung hay có thể thay thế phương pháp đo lường này. Hơn nữa, nhiều nhà phê bình chỉ ra rằng kết quả đo bằng điểm về sự thành thục, mềm dẻo, độc đáo và chi tiết không thể bao quát được nội hàm sáng tạo (Amabile, 1983a). Thực ra, quan niệm và tiêu chuẩn sáng tạo luôn là chủ đề gây tranh luận vì rằng người sáng tạo thì không nhiều, hơn nữa các câu trả lời của chủ thể bình thường cũng chỉ cho phép đo một chiều cạnh nào đó của sáng tạo. Các phương án khác có thể lựa chọn đánh giá sản phẩm hoạt động. Nhiều nhà nghiên cứu bác bỏ việc lấy mẫu người bình thường để thảo luận vấn đề người độc đáo và cho rằng việc làm này là không thể chấp nhận được. Vì vậy, có sự bất đồng trong việc tiếp tục sử dụng trắc nghiệm sáng tạo để đánh giá sáng tạo. 5. Tiếp cận nhận thức Tiếp cận nhận thức sử dụng để nghiên cứu cả chủ thể con người lẫn mô phỏng tư duy sáng tạo trên máy tính. Các nghiên cứu chủ thể con người mà các đại diện là Finke, Ward và Smith (1992); Stemberg & Davidson, (1982). Finke và các đồng nghiệp (1992) đã đề xuất mô hình Geneplore (tạo ra ý tưởng và khai thác ý tưởng), theo đó tư duy sáng tạo có hai giai đoạn: giai đoạn tạo ý tưởng và giai đoạn khai thác ý tưởng. Ở giai đoạn tạo ý tưởng, cá nhân xây dựng dạng thức tâm lý được gọi là cấu trúc tiền sáng tạo, nó có các thuộc tính được sử dụng để xúc tiến phát kiến sáng tạo. Trong giai đoạn xây dựng ý
- tưởng các thuộc tính này được dùng để đi đến ý tưởng sáng tạo. Hàng loạt quá trình tâm lý tham gia vào hai giai đoạn này như sự phục hồi, liên tưởng, tổng hợp, chuyển hóa, dịch chuyển tương tự và phân nhóm. Thực nghiệm được tiến hành dựa trên mô hình, chủ thể được xem một phần đồ vật, ví dụ, vòng tròn, khối lập phương, hình bình hành và hình trụ. Trong một lần thử, ba chi tiết được đặt tên, người tham gia được yêu cầu tưởng tượng phối hợp tất cả các chi tiết để tạo ra một đồ vật hữu dụng. Ví dụ, đồ vật có thể được tưởng tượng là dụng cụ, vũ khí hay một mẫu đồ gỗ. Đồ vật sau đó được đánh giá về tính thực tiễn và tính độc đáo ở giai đoạn khai thác ý tưởng. Weisberg (1993) cho rằng sáng tạo liên quan tới quá trình nhận thức thông thường nhưng tạo ra sản phẩm đặc sắc. Nghiên cứu tình huống các nhà sáng tạo phát hiện ra ý tưởng mới và nghiên cứu thử nghiệm yêu cầu người tham gia đính cây nến lên tường và sử dụng đồ vật có sẵn trong bức tranh (cây nến, hộp đinh mũ và hộp diêm). Weisberg đã chỉ ra rằng thời điểm lóe sáng, thấu hiểu phụ thuộc vào việc chủ thể sử dụng các quá trình nhận thức phù hợp (cũng như sự dịch chuyển tương tự) kích hoạt các kiến thức đang lưu giữ trong trí nhớ. Tiếp cận mô phỏng máy tính có mục đích tạo ra tư duy sáng tạo bởi máy tính theo cách mô phỏng quá trình nhận thức của con người. Langley và đồng nghiệp (1987) đã xây dựng một loạt chương trình phát hiện ra quy luật khoa học. Những mô phỏng máy tính này dựa trên khoa học sáng tạo - gợi ý cách giải quyết vấn đề để tìm dữ liệu hay không gian khái niệm và các mối quan hệ còn ẩn trong các biến đầu vào. Chương trình của Johnson-Laird (1993) đã phát triển nhạc Jazz trên cơ sở những quy tắc cơ bản của nhạc Jazz, những khó khăn trong hòa âm, những lựa chọn ngẫu nhiên theo những hướng cho phép cải tiến những cái đã có.
- 6. Tiếp cận xã hội nhân cách Song song với tiếp cận nhận thức, các nghiên cứu theo tiếp cận xã hội - nhân cách đã tập trung vào các biến nhân cách, động cơ và môi trường văn hóa xã hội như những nguồn gốc của sáng tạo. Các nhà nghiên cứu như Amabil (1983a) và Csikszentmihalyi (1996) đã điểm ra những đặc điểm nhân cách của người sáng tạo. Thông qua những nghiên cứu tương quan và nghiên cứu đối lập ở những người sáng tạo cao và sáng tạo thấp (cả mức độ sáng tạo kiệt xuất và sáng tạo hàng ngày), hàng loạt phẩm chất nhân cách được kể đến. Những phẩm chất đó có thể là phê phán độc lập, tự tin, bị lôi cuốn bởi tính phức tạp, định hướng mỹ học và ưa mạo hiểm Một đề xuất liên quan đến việc hiện thực hóa bản thân và sáng tạo có thể xem xét trong phạm vi của truyền thống nhân cách. Theo Maslow (1968), tính mạnh dạn, dũng cảm, tự nhiên, tự chấp nhận, và những thuộc tính khác có thể đưa cá nhân đến hiện thực hóa tất cả tiềm năng của mình. Roger (1954) mô tả xu thế hướng tới tự hiện thực hóa như là động lực và được khuyến khích trong môi trường tự do và cởi mở. Tập trung vào động cơ sáng tạo, nhiều nhà lý luận đã đưa ra giả thuyết về sự phù hợp của động cơ trong (Amabile. 1983a, Crutchfied, 1962) và các động cơ khác. Amabile và đồng nghiệp (1994) đã tiến hành nghiên cứu về tầm quan trọng của động cơ trong. Nghiên cứu sử dụng tác động tới động cơ và các kỹ thuật khác thao tác hóa động cơ sau đó quan sát tác động của động cơ đến kết quả thực hiện nhiệm vụ, như viết thơ và cắt dán. Sự phù hợp của môi trường xã hội đối với sáng tạo là lĩnh vực có nhiều công trình nghiên cứu. Ở cấp độ môi trường xã hội, Simonton (1984) đã tiến hành một số nghiên cứu bằng cách thu thập và phân
- tích số liệu lấy vào những thời điểm khác nhau ở những nền văn hóa khác nhau, với những người có những vai trò xã hội và nguồn lực khác nhau. Sự so sánh liên văn hóa (Lubart, 1994) và nhân học (Silver, 1981) đã chỉ ra những tác động của văn hóa tới biểu đạt sáng tạo và các nền văn hóa khác nhau đánh giá sự sáng tạo rất khác nhau. Tiếp cận nhận thức và xã hội - nhân cách trong nghiên cứu sáng tạo là rất hữu ích. Tuy nhiên, nếu chú ý vào những nghiên cứu của hai xu hướng này có thể thấy trường phái nhận thức bỏ qua việc xem xét khía cạnh nhân cách và xã hội, trong khi đó trường phái xã hội - nhân cách lại bỏ qua việc nghiên cứu quá trình sáng tạo. Sự tiến hành nghiên cứu tách biệt kiểu này là đơn chiều và đơn tuyến. Cách tốt nhất là sử dụng tiếp cận đa ngành trong nghiên cứu sáng tạo có tính đến đặc điểm nhân cách cá nhân dưới tác động của môi trường xã hội nhất định 7. Tiếp cận hội tụ Nhiều nghiên cứu gần đây cho rằng cần phải có nhiều yếu tố giúp cho sáng tạo xuất hiện (Amabilẹ, 1983a; Gardner, 1993; Stemberg & Lubart, 1991, 1995). Sternberg, chẳng hạn, nghiên cứu quan niệm của người dân bình thường và của các chuyên gia về sáng tạo. Quan niệm của mọi người chứa đựng tổ hợp các yếu tố nhận thức và nhân cách, như "kết nối ý tưởng”, "tìm sự giống nhau và khác nhau”, "tính mềm dẻo”, "có khiếu thẩm mỹ", "có chút dị dạng", “được tạo động lực", “tò mò" và "nghi ngờ những chuẩn mực xã hội". Ở cấp độ lý thuyết Amabile (1983a) mô tả sáng tạo như sự hội tụ của động cơ bên trong, những kiến thức và năng lực phù hợp thuộc lĩnh vực và những kỹ năng sáng tạo tương ứng. Những kỹ năng sáng tạo tương ứng bao gồm (a) kiểu nhận thức có thể đương đầu với sự phức tạp và một tập hợp đặc trưng tâm lý độc đáo trong quá trình
- giải quyết vấn đề; (b) kiến thức về phương pháp sáng tạo (heuristics) cho việc tạo ý tưởng mới, như tiếp cận đối mặt với trực giác (counter- intuitive) và (c) kiểu làm việc đặc trưng bởi cố gắng tập trung, sắp xếp vấn đề và sự tràn đầy năng lượng, nhiệt huyết. Gruber & Davis (1988) đã đề xuất mô hình hệ thống để tìm hiểu sáng tạo. Mục tiêu của cá nhân, kiến thức và xúc cảm lớn lên theo thời gian, mở rộng biên độ mà cá nhân phải đương đầu và điều đó dẫn đến sản phẩm sáng tạo. Những thay đổi có tính phát triển đã được công bố trong hệ thống tri thức như trường hợp tư duy của Charles Darwin về tiến hóa. Mô hình này bao gồm hệ thống các mục đích có quan hệ qua lại, định hướng và phát triển hành vi con người và hệ thống xúc cảm và tâm linh chứa đựng những ảnh hưởng của sự hài lòng hay thất vọng về công việc đang tiến hành. Csikszentmihalyi (1988) dùng nhiều cách tiếp cận và chỉ ra sự tương tác giữa các cá nhân, lĩnh vực và chuyên môn. Một cá nhân lấy thông tin trong lĩnh vực và chuyển tải hoặc phát tán nó qua quá trình nhận thức, phẩm chất cá nhân và động cơ. Lĩnh vực chuyên ngành bao gồm những người có ảnh hưởng trong lĩnh vực (phê bình nghệ thuật, chủ gallery v.v.), đánh giá và lựa chọn ý tưởng mới. Lĩnh vực, một hệ thống biểu tượng đã được xác định về văn hóa, lưu giữ và truyền tải các sản phẩm cho người khác và thế hệ sau. Gardner (1993) đã tiến hành những nghiên cứu trường hợp và khuyến nghị rằng phát triển sáng tạo có thể xuất phát từ một sự không bình thường (sự căng thẳng giữa các nhóm khác nhau trong chuyên ngành) hay sự thiếu đồng bộ giữa cá nhân, lĩnh vực và chuyên ngành (cá nhân tài năng trong lĩnh vực). Lý thuyết đầu tư sáng tạo của Sternberg và Lubart (1991) cũng theo tiếp cận hội tụ này. Theo lý thuyết này, sáng tạo luôn muốn "mua rẻ và bán đắt”. Mua rẻ nghĩa là theo đuổi ý tưởng chưa từng
- biết hay ít biết tới nhưng có tiềm năng lớn. Thường thì khi ý tưởng mới được trình bày vấp phải sự chống đối rất mạnh mẽ. Nhưng người sáng tạo vẫn kiên định theo đuổi mặc cho sự chống đối mạnh và cuối cùng bán được giá cao (khẳng định giá trị) và sau đó chuyển sang ý tưởng mới, nhiều người chưa biết đến. Những nghiên cứu đầu tiên trong phạm vi lý thuyết đầu tư đã nhận được sự ủng hộ đáng kể (Sternberg & Lubart, 1995). Nghiên cứu này sử dụng các bài tập như (a) viết một câu chuyện với tiêu đề đặc biệt, (b) vẽ bức tranh với chủ đề khác lạ (Trái Đất từ góc nhìn của các loài côn trùng), (c) nghĩ ra thông tin quảng cáo cho sản phẩm và giải quyết những vấn đề khoa học không bình thường (chúng ta có thể nói gì nếu ai đó đã có mặt ở mặt trăng tháng trước). Nghiên cứu này chỉ ra rằng kết quả sáng tạo có thể chuyên sâu một cách hài hòa và có thể dự báo được bởi tố hợp các nguồn lực đặc biệt. Theo lý thuyết đầu tư, sáng tạo đòi hỏi phải có sự hội tụ của 6 nguồn lực khác biệt nhưng liên quan với nhau: năng lực trí tuệ, kiến thức, kiểu tư duy, nhân cách, động cơ và môi trường. Theo Sterngber (1985), ba năng lực trí tuệ rất quan trọng là: (a) năng lực tổng hợp để xem xét vấn đề theo cách mới và thoát khỏi cản trở của tư duy truyền thống. (b) năng lực phân tích để nhận ra những ý tưởng nào là có giá trị để theo đuổi và ý tưởng nào không có giá trị và (c) năng lực bối cảnh để biết làm thế nào thuyết phục được người khác để bán được giá trị của ý tưởng. Sự hội tụ hài hòa của ba năng lực này là quan trọng. Sự có mặt thái quá của năng lực phân tích mà thiếu vắng hai năng lực kia là dấu hiệu của tư duy phê phán. Năng lực tổng hợp với sự thiếu vắng của hai năng lực khác sẽ không mang tính chủ thể trong xem xét, đánh giá triển vọng của ý tưởng và đưa ý tưởng vào hoạt động. Có năng lực bối cảnh với sự vắng mặt
- của hai năng lực kia sẽ dẫn đến sự chuyển tải ý tưởng không phải vì ý tưởng là tốt mà bởi vì chúng được trình bày tốt và sắc sảo. Vấn đề đặc biệt quan trọng đối với sáng tạo (Sternberg. 1997) là tư duy theo cách mới mà cá nhân đã lựa chọn cho riêng mình. Sự ưa thích này cần được phân biệt từ năng lực tư duy một cách sáng tạo: ai đó thích tư duy theo lối mới, nhưng lại tư duy không tốt và ngược lại. Để trở thành người tư duy sáng tạo, điều có thể giúp ích là nếu cá nhân có thể tư duy toàn cục cũng như tư duy cục bộ, phân biệt rừng khỏi nhiều cây và do đó, nhận ra vấn đề nào là quan trọng và vấn đề nào không quan trọng: Nhiều nghiên cứu (Lubart, 1994, Sternberg & Lubart, 1991, 1995) đã chỉ ra tầm quan trọng của một số phẩm chất nhân cách đối với sáng tạo. Các phẩm thất này, tuy không hạn chế, có thể là tính hiệu quả tự thân và ý chí để vượt qua cản trở, dám mạo hiểm, chấp nhận sự mơ hồ. Đặc biệt mua thấp và bán cao có nghĩa là không đánh giá cao số đông, tức là cá nhân mong muốn kiên trì tư duy theo kiểu sáng tạo. Động cơ trong hướng vào nhiệm vụ là động cơ chính của hoạt động sáng tạo. Nghiên cứu của Amabile (1983a, 1996) và các học giả khác đã chỉ ra tầm quan trọng của động cơ kiểu này đối với công việc sáng tạo và cho rằng con người khó làm một công việc nào đó một cách sáng tạo trong lĩnh vực của mình trừ khi anh ta yêu thích và tập trung vào công việc một cách say sưa do sự cuốn hút của đối tượng và nội dung công việc hơn là vì được khen thưởng. Cuối cùng một người cần môi trường làm việc phù hợp, cởi mở và thích hợp với ý tưởng sáng tạo. Ai đó có thể có tất cả nguồn lực cần thiết để tư duy sáng tạo, nhưng không có môi trường hỗ trợ (diễn đàn để trình bày ý tưởng) thì sáng tạo cũng khó có thể xảy ra.
- Đối với tiếp cận hội tụ, sáng tạo được giả định liên quan đến nhiều phẩm chất, nhiều thành tố. Có thể cần đến một ngưỡng tối thiểu đối với một số thành tố (kiến thức thẳng hạn), dưới ngưỡng đó, sáng tạo không thể xảy ra, chứ chưa kể đến các thành tố khác. Thứ hai, sự bù đắp có thể xuất hiện mà ở đó điểm mạnh (động cơ) có thể đương đầu với điểm yếu nào đó (môi trường, chẳng hạn). Thứ ba, sự tương tác có thể xuất hiện giữa các thành tố, như trí tuệ và động cơ, ở đó với mức độ phát triển cao của cả hai yếu tố này có thế nhân lên kết quả sáng tạo. Nhìn chung, tiếp cận hội tụ cho phép xem xét sáng tạo với các chiều cạnh khác nhau (Lubart, 1994). Ví dụ, phân tích các thành tựu khoa học và nghệ thuật cho thấy giá trị của đại bộ phận công trình sáng tạo trong lĩnh vực nằm thấp hơn điểm giữa và thường phân bố ở phần đuôi, trong khi đó có phần cao có rất ít công trình xuất sắc phân bố ở đó. Định thức này cho thấy cần tác động đồng thời đối với các thành tố sáng tạo để làm tăng các sáng tạo có giá trị cao. Ví dụ khác, một phần của tính đặc trưng của lĩnh vực sáng tạo thường thấy, có thế giải thích qua sự trộn lẫn các thành tố đặc trưng, như kiến thức và các thành tố chuyên môn khác, cũng như tính kiên trì như một phẩm chất của nhân cách. Tóm lại, trong tâm lý học chưa có nhiều nghiên cứu về sáng tạo so với các chủ đề khác. Mặc dù vậy, những hướng nghiên cứu vừa kể ra trên đây cũng cho thấy sự đa dạng nhất định. Ngoài các nghiên cứu theo hướng thần bí, các hướng nghiên cứu khác có bổ sung và phối hợp với nhau. Nghiên cứu sáng tạo có thể được tiến hành một cách độc lập hay phối hợp trong một lĩnh vực khoa học hay thực tiễn khác như giáo dục, kinh doanh hay nghệ thuật. Những sự phối hợp như vậy giúp tăng cường tính ứng dụng và hữu ích của những nghiên cứu tâm lý học sáng tạo. Điều quan trọng là các nghiên cứu phải được
- thiết kế chi tiết và các công cụ phải được xây dựng và thích nghi có bài bản để đảm báo độ tin cậy của kết quả thu được. Câu hỏi ôn tập 1. Trình bày những thay đổi chính trong quan niệm về sáng tạo trong lịch sử phát triển nhận thức? 2. Khái niệm sáng tạo trong tâm lý học? 3. Nêu các thuộc tính và cấp độ sáng tạo? 4. Đối tượng và nhiệm vụ của tâm lý học sáng tạo? 5. Những hướng tiếp cận nghiên cứu trong tâm lý học sáng tạo? Chương 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Sáng tạo được xem là một trong những hiện tượng tâm lý bí ẩn nhất trong tâm lý học. Nhiều nhà khoa học sau khi có phát minh, sáng chế đã kể lại giai đoạn thấu hiểu, "lóe sáng" có liên quan đến trạng thái làm việc vô thức trước đó. Hiện tượng này có thể ghi nhớ lại ở một mức độ nào đó thông qua tự quan sát của người sáng tạo. Tuy nhiên, không phải mọi chuyện xảy ra trong quá trình phát sinh ý tưởng cũng có thể ghi nhớ được đầy đủ. Những cố gắng sử dụng các phương pháp khách quan cùng với tự quan sát của chủ thể có thể giúp giải quyết vấn đề phức tạp này. Có thế kể đến 4 nhóm phương pháp đã được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu sáng tạo: trắc đạc tâm lý, thực nghiệm sáng tạo, nghiên cứu trường hợp và phân tích tiểu sử. Tự quan sát hay phỏng vấn sâu có thể được thực hiện kết hợp trong nghiên cứu trường hợp. Vì vậy, chương này sẽ trình bày chi tiết 4 nhóm phương pháp. 1. Trắc đạc tâm lý
- Trong khi các hiện tượng tâm lý khác được nghiên cứu bằng nhiều phương pháp phong phú, phần lớn các công trình tâm lý học sáng tạo lại sử dụng chủ yếu trắc đạc tâm lý, đo trực tiếp sáng tạo hoặc mối quan hệ của sáng tạo với các yếu tố tâm lý cá nhân khác. Những nghiên cứu sáng tạo sử dụng trắc đặc tâm lý được tiến hành trong nhiều thập kỷ qua đã tạo ra nền tảng cho hiểu biết về sáng tạo. Tiếp cận trắc đạc tâm lý là khá phức tạp, có thể sử dụng rộng rãi, khả thi nhưng các phương án tiếp cận trắc đạc tâm lý cũng gặp nhiều khó khăn trong quá trình đo đạc trực tiếp. Việc tổng quan lại kỹ thuật trắc đạc tâm lý trong nghiên cứu sáng tạo có lợi cho cả người dùng trắc đạc sáng tạo và cả những người nghiên cứu sáng tạo sử dụng các phương pháp khác. a. Sự phát triển của trắc đạc tâm lý Có thế khẳng định rằng nguyên nhân của ưu thế tiếp cận trắc đạc tâm lý, trước hết được giải thích là do các nhà nghiên cứu đã từng sử dụng trắc đạc tâm lý trong nghiên cứu các hiện tượng nhận thức khác và khi chuyển sang nghiên cứu sáng tạo họ có thói quen tiếp tục dùng phương pháp này. Cho dù nguyên nhân nào đi nữa, trắc đạc tâm lý đã được dùng khá lâu trong nghiên cứu sáng tạo trước khi Chủ tịch Hiệp hội các nhà tâm lý học Mỹ, Guilford, kêu gọi nghiên cứu sáng tạo trong thông điệp của mình. Ấn phẩm của Galton về Nghiên cứu trong Khoa học Con người đã lôi cuốn sự chú ý đến trắc đạc sáng tạo (Taylor & Barron, 1963), dẫn đến một số nghiên cứu về sáng tạo và tưởng tượng trong khoảng vài thập kỷ tiếp theo. Trắc đạc tư duy phân kỳ được Binet và Henri tiến hành trước năm 1900. Một số nghiên cứu mối quan hệ sáng tạo - trí tuệ trong giai đoạn 1898 - 1950 cũng được Guilford (1967a) nhắc đến. Tuy nhiên, một phần do sự ra đời của chủ nghĩa hành vi,
- những công trình này không nhận được nhiều sự quan tâm, không được đánh giá cao và ít có ảnh hưởng trong nghiên cứu tâm lý học. 25 năm sau khi Guilford kêu gọi đoàn kết để nghiên cứu sáng tạo nhiều nghiên cứu sáng tạo ra đời. Gần như tất cả các công trình được tiến hành có sử dụng hay chịu ảnh hưởng của quan điểm trắc đạc tâm lý. Tóm tắt các công trình trong giai đoạn này, Torrance (1979) chỉ ra rằng các nhà tâm lý học sử dụng hai loại trắc nghiệm trong nghiên cứu sáng tạo; loại thứ nhất dùng để đo lường kỹ năng nhận thức - xúc cảm như trắc đạc Torrance về Tư duy sáng tạo và loại thứ hai dùng để đánh giá đặc điểm nhân cách như Trắc nghiệm đánh giá Alpha. Gardner còn cho biết một số nhà giáo dục học và tâm lý học đã thử kiểm tra mối quan hệ giữa sáng tạo với những đặc điểm nhân cách như tính cởi mở với kinh nghiệm, tính mạo hiểm và lòng tin vào khả năng sáng tạo và mối quan hệ giữa các quá trình nhận thức của tư duy và lôgíc trong tư duy sáng tạo với chỉ số IQ cao. b. So sánh trắc đạc tâm lý trong nghiên cứu sáng tạo với những tiếp cận khác Hầu như các nghiên cứu sáng tạo có sử dụng 5 loại trắc đạc sau đây: trắc đạc tâm lý, trắc đạc thực nghiệm, trắc đạc tiểu sử, trắc đạc lịch sử và trắc đạc sinh học. Tiếp cận thực nghiệm khá giống tiếp cận trắc đạc tâm lý, ở đó các nhà nghiên cứu sử dụng chung công cụ để đo sáng tạo. Ví dụ, phương pháp thực nghiệm được dùng để nghiên cứu hiệu quả của chuyển giao chiến lược giải quyết vấn đề, hiệu quả về giải quyết vấn đề và tác động của đánh giá ngoài lên sản phẩm sáng tạo của người học (Amabile, 1979, 1983a). Sự khác biệt chủ yếu giữa 2 cách tiếp cận này là ở thiết kế nghiên cứu. Trong khi trắc đạc tâm lý sử dụng thiết kế tương quan và so sánh nguyên nhân thì thiết kế thực nghiệm
- lại tính đến các điều kiện tiến hành gần giống thực tế (quasi- experimental). Do vậy hạn chế của thiết kế trắc đạc tâm lý là tính giả định, không có thực và hạn chế của tiếp cận thử nghiệm là chi phí cho nghiên cứu khá cao. Một khác biệt nữa giữa hai phương pháp này là người thực nghiệm thử tách rời yếu tố nhận thức, giải quyết vấn đề, và ở mức độ nào đó, khía cạnh sản phẩm của sáng tạo trong điều tiết thí nghiệm, trong khi trắc đạc tâm lý tập trung vào nhân cách và mối quan hệ với môi trường của sáng tạo cùng với quá trình và sản phẩm sáng tạo. Tiếp cận lịch sử mô tả tốt nhất trong công trình của Simonton (1984, 1986), người đã chắt lọc phương pháp được dùng trong nhiều thập kỷ trong nghiên cứu người nổi tiếng. Giống với tiếp cận trắc đạc tâm lý, tiếp cận lịch sử cũng được sử dụng để đo đạc sáng tạo. Không giống với trắc đạc tâm lý, ở đó các khía cạnh của sáng tạo được đo tại thời điểm hiện tại hay ngay trước đó, trắc đạc lịch sử lấy dữ liệu định tính chủ yếu từ tài liệu lịch sử với những thông tin tự truyện. Simonton đã áp dụng phương pháp trắc đạc lịch sử để nghiên cứu sáng tạo và lãnh đạo, sáng thế và phát minh, sáng tạo và tuổi tác, sáng tạo âm nhạc và nghiên cứu những người nổi tiếng trong một số lĩnh vực khác. Một khác biệt nữa giữa trắc đạc tâm lý và trắc đạc lịch sử là vai trò người sáng tạo được xem là đối tượng nghiên cứu. Có lẽ tiếp cận gần gũi nhất với trắc đạc tâm lý là trắc đạc sinh học. Gardner (1993) mô tả giá trị của phân tích tiểu sử cá nhân và nhận định: chúng ta biết rất ít về gien và sinh học thần kinh của cá nhân sáng tạo. Chúng ta cũng không biết liệu cá nhân sáng tạo có cấu tạo gien khác biệt hay không và cũng không biết gì nhiều về ảnh hưởng của cấu trúc hay chức năng của hệ thần kinh đối với sáng tạo.
- Trong khi nêu ra tính hữu dụng và tính thực tế của tiếp cận trắc đạc sinh học trong nghiên cứu sáng tạo, những ấn phẩm nghiên cứu gần đây về mối quan hệ giữa chức năng của não bộ và các chức năng chuyên biệt của nhận thức trong tài liệu khoa học (Haier & Benbow, 1995) và thông tin trên báo chí đã tác động tới hứng thú của các nhà khoa học, các nhà giáo dục và quần chúng rộng rãi. Nói ngắn gọn, các kỹ thuật này liên quan đến sự chuyển hóa lượng glucô trong não khi con người thực hiện một số nhiệm vụ nhận thức (ví dụ giải quyết bài toán nào đó). Chuyển hóa glucô là tiêu chí đo mức độ tích cực của não bộ; nhà nghiên cứu có thể chỉ ra và đo mức độ sáng tạo trong một số khu vực của não bộ khi khu vực đó được linh hoạt trong hoạt động nhận thức. Nghiên cứu tiêu sử hay nghiên cứu trường hợp là cách tiếp cận khác so với trắc đạc tâm lý. Ở đây nhà nghiên cứu xác định trường hợp và nghiên cứu người sáng tạo xuất sắc sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính. Cũng giống như những nghiên cứu định tính khác, nghiên cứu tiểu sử có những lợi thế và hạn chế nhất định. Nghiên cứu tiểu sử của người sáng tạo chỉ lựa chọn những trường hợp thành công đặc biệt giúp cho nghiên cứu tiểu sử tránh được những phức tạp xung quanh xác định nội hàm khái niệm sáng tạo mà nhà nghiên cứu phải đương đầu khi sử dụng các phương pháp khác trên người bình thường. c. Các lĩnh vực sử dụng trắc đạc tâm lý Có 4 lĩnh vực áp dụng trắc đạc tâm lý trong nghiên cứu sáng tạo. Những lĩnh vực đó là nghiên cứu quá trình sáng tạo, nhân cách sáng tạo, đặc trưng sản phẩm sáng tạo và môi trường nuôi dưỡng sáng tạo. - Trắc đạc tâm lý trong nghiên cứu quá trình sáng tạo
- Trắc nghiệm thường được dùng nhiều nhất trong nghiên cứu quá trình sáng tạo là bộ trắc nghiệm tư duy phân kỳ. Trắc nghiệm tư duy phân kỳ đòi hỏi người tham gia đưa ra hàng loạt câu trả lời trong một khoảng thời gian nhất định, trong khi đó trắc nghiệm thành công và trắc nghiệm năng lực đòi hỏi nghiêm ngặt về quy tắc và chỉ cho phép một câu trả lời duy nhất. Trong số những trắc nghiệm sớm nhất về tư duy phân kỳ có thể kể đến trắc nghiệm cấu trúc trí tuệ (Structure of the Intellect - SOI) của Guilford (1967b). Trắc nghiệm Tư duy Sáng tạo - TTCT của Torance (1974), các trắc nghiệm của Wallach và Kogan (1965), Getzel và Jackson (1962). Hầu như tất cả các trắc nghiệm này đang được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu sáng tạo và nghiên cứu giáo dục ở nhiều nước. Công cụ cấu trúc trí tuệ (SOI) bao gồm một số trắc nghiệm ở đó người tham gia phải chứng tỏ khả năng phong phú trong nhiều lĩnh vực. Bộ công cụ này bao gồm những thành tố ý nghĩa (kể ra hậu quả của việc con người không cần ngủ nữa), các hình thù đồ đạc (tìm cách phân loại càng nhiều càng tốt các đồ đạc có hình dạng khác nhau) và các đơn vị hình học (lấy một hình đơn giản như hình tròn chẳng hạn và làm chi tiết ra càng nhiều càng tốt). Một trắc nghiệm phân kỳ của Cấu trúc trí tuệ (SOI) bao gồm hàng chục trắc nghiệm tương ứng với các thành tố của mô hình cấu trúc trí tuệ của Guilord. Các yếu tố đại diện cho các kiểu thành thục, mềm dẻo, độc đáo và chi tiết của ý tưởng đã được thiết lập cho trắc nghiệm SOI. Trắc nghiệm tư duy sáng tạo của Torrance (TTCT) dựa trên nhiều khía cạnh của trắc nghiệm SOI cũng được dùng khá rộng rãi đế xác định tư duy phân kỳ và cũng được các chuyên gia trên thế giới sử dụng. Cũng giống như SOI, người học phải đưa ra nhiều phương án trả lời nhanh bằng lời hay dùng hình vẽ và các phương án này được đánh giá bằng cách cho điểm về sự thành thục (số ý tưởng), tính mềm
- dẻo với sự dao động của các cách nhìn được trình bày trong ý tưởng, tính độc đáo và tính chi tiết của ý tưởng, ngoài ra cần phải đưa ra câu trả lời nhanh. Trong suốt nhiều thập kỷ, Torrance (1974) đã hoàn thiện quy trình thực hiện cho điểm và TTCT được coi là một bộ trắc nghiệm khá phổ biến. Cả Getzel và Jackson (1962), Wallath và Kogan (1965) đã xây dựng công cụ tư duy phân kỳ rất giống với trắc nghiệm SOI. Ví dụ, trắc nghiệm trường hợp (Instance Test) yêu cầu học sinh kể ra càng nhiều càng tốt đồ vật chuyển động trên bánh xe (đồ vật gây tiếng động) (Wallach & Kogan, 1965) hoặc các phương án sử dụng của Trắc nghiệm công dụng (Uses Test) càng nhanh càng tốt, "cho biết những cách khác nhau chúng ta có thể dùng cái ghế, tờ báo, cái dao, chiếc lốp (Wallach & Kogan, 1965) hay viên gạch, cái bút chì và cái tăm xỉa răng (Getzels & Jackson, 1962). Các trắc nghiệm khác trong mỗi bộ công cụ bao gồm liên tưởng từ ngữ, hình vẽ, kết thúc câu truyện và nhiệm vụ xác định vấn đề (Getzels & Jackson, 1962) và sự giống nhau, giải thích kiểu loại, vấn đề (Wallach & Kogan, 1965). Những khác biệt được đánh giá cao nhất giữa các công cụ được sử dụng trong điều kiện mà học sinh tiến hành trắc nghiệm. Wallach & Kogan (1965) ủng hộ việc dùng trò chơi không tính thời gian và người làm thực nghiệm được giải phóng khỏi sức ép của sự giám sát. Việc tiến hành trắc nghiệm với nhiều tự do về thời gian này khác với việc kiểm soát thường dùng để đo tư duy phân kỳ. Trắc nghiệm tư duy phân kỳ thay đổi rất ít từ khi bắt đầu được đưa vào sử dụng là bằng chứng để nói rằng hướng nghiên cứu này vẫn còn nhiều tiềm năng. Trong khi đó chứng cớ về độ tin cậy của các trắc nghiệm SOI, TTCT, Wallach and Kogan, Getzels and Jackson và những trắc nghiệm tương tự là khá thuyết phục, độ tin cậy về dự báo
- và độ phân biệt của trắc nghiệm tư duy phân kỳ đáp ứng yêu cầu nghiên cứu. Cuộc tranh luận chủ yếu giữa các học giả chỉ tập trung xung quanh độ tin cậy của trắc nghiệm và độ nhạy cảm của tư duy phân kỳ đối với hiệu quả tiến hành trắc nghiệm, cho điểm và đào tạo can thiệp. Ví dụ, tính đồng nhất của mẫu trong quan hệ với thành công hay năng lực có thể ảnh hưởng đến kết quả, trong khi đó thuộc tính của trắc đạc tâm lý, nhìn chung, liên quan đến mẫu trẻ năng khiếu và trẻ đạt kết quả cao. Thêm vào đó, điều kiện mà theo đó các trắc nghiệm được quản lý (trò chơi và trắc nghiệm, khống chế thời gian và không khống thế thời gian, cá nhân và nhóm, hướng dẫn chuyên đề sáng tạo và hướng dẫn chuyên sâu) có vẻ có ảnh hưởng đến điểm về tính độc đáo và sự thành thạo. Sự phê phán của các học giả thường tập trung vào việc cho điểm ở trắc nghiệm tư duy phân kỳ và cho rằng đây là vấn đề nhạy cảm so với hiệu quả đào tạo và can thiệp. Các nhà nghiên cứu đã tiến hành các nghiên cứu dài hạn về sáng tạo từ cuối những năm 1950; đại đa số những nghiên cứu này đã thu thập được số liệu thông qua sử dụng trắc nghiệm tư duy phân kỳ. Những nghiên cứu dài hơi cho thấy sự giảm sút hứng thú của học sinh lớp 4 về sáng tạo. Torrance (1962/ 1965) phân tích kết quả nghiên cứu liên ngành và nghiên cứu dài hạn đã phát hiện ra rằng điểm Trắc nghiệm tư duy phân kỳ của Torrance cho thấy tỷ lệ những học sinh lớp 4 có khả năng thực hiện bài tập của lớp 5 giảm sút. Các nhà nghiên cứu còn nhận thấy sự suy giảm kết quả sáng tạo ở học sinh cuối cấp tiểu học. Nguyên nhân có thể là sự thay đổi bầu không khí lớp học khi học sinh vào các lớp cuối cấp. Việc phân tích hệ thống trắc nghiệm tư duy phân kỳ cho thấy các phương án xếp hạng theo trật tự truyền thống của tính thuần thục, tính mềm dẻo, tính độc đáo và tính chi tiết cần phải xem xét lại. Các phương án này bao gồm việc tính điểm tổng
- (tổng điểm về tính thuần thục, tính mềm dẻo và tính độc đáo) tính điểm độc đáo (câu trả lời được ít hơn 5% người tham gia lựa chọn, xác định tỷ trọng điểm thuần thục dựa trên toàn bộ các câu trả lời của cả nhóm tham gia so với câu trả lời của từng cá nhân trong danh sách các ý tưởng. Các trắc nghiệm tư duy phân kỳ chiếm hầu như toàn bộ sự chú ý của nghiên cứu quá trình sáng tạo trong khi năng lực tạo ra ý tưởng chỉ là một khâu của quá trình sáng tạo và việc đánh giá quá cao năng lực tạo ra ý tưởng đã làm mất đi giá trị của các yếu tố khác và tính tổng thể của sáng tạo trong giải quyết vấn đề. Runco (1991) nhận xét rằng thành tố đánh giá của quá trình sáng tạo nhận được rất ít sự chú ý. Điều này rất không công bằng bởi vì đây là cấu thành quan trọng của quá trình sáng tạo và được sử dụng khi cá nhân lựa chọn hay biểu đạt sự thích thú đối với một ý tưởng hay một nhóm ý tưởng nào đó. Runco cho rằng cần thiết phải chuyển hướng các nghiên cứu trắc đạc liên quan đến các khía cạnh khác với phân kỳ như xác định vấn đề và tư duy đánh giá. Một khâu quan trọng trong nghiên cứu sử dụng trắc đạc tâm lý về giải quyết vấn đề liên quan đến trắc nghiệm sự thấu hiểu, "lóe sáng". Về mặt lịch sử, mối quan hệ giữa thấu hiểu và sáng tạo nhận được sự chú ý cả về lý luận và thực tiễn. Mặc dù việc xem xét chi tiết sự thấu hiếu chỉ có ở rất ít công trình đã công bố. Martinsen (1993) đã nghiên cứu kiểu nhận thức trong mối quan hệ với năng lực giải quyết vấn đề qua thấu hiểu. Nghiên cứu này đã củng cố vị thế của thực nghiệm giải quyết vấn đề trên cơ sở thay đổi kiểu nhận thức của cá nhân. - Trắc đạc tâm lý trong nghiên cứu nhân cách sáng tạo
- Lĩnh vực thứ hai sử dụng trắc đạc tâm lý là đo tính sáng tạo của cá nhân. Sự đo lường này tập trung vào các đặc điểm rất phong phú của nhân cách với những câu chuyện tự thuật và sự đánh giá của giáo viên và người khác về hành vi trong quá khứ, nhân cách và thành công. Công cụ dùng trong đo đạc các thuộc tính nhân cách trong mối tương quan với hành vi sáng tạo được thiết kế để nghiên cứu những cá nhân sáng tạo và xác định những đặc điểm nhân cách của họ. Các đặc điểm, sau đó, được so sánh với những đặc điểm của trẻ em và người lớn với giả định rằng các cá nhân có thiên hướng như vậy có thể đạt được thành công cao. Những công cụ đo lường kiểu này đã được xây dựng khá phổ biến, bao gồm công cụ nhóm để phát hiện tài năng (Group Inventory for Finding Talent), Công cụ nhóm phát hiện hứng thú (Group Inventory for Finding Interests) (Davis (1992) và các công trình của Viện Nghiên cứu và Đánh giá Nhân cách Hoa Kỳ (Hall & Mackinnon, 1969). Sau khi tiến hành nghiên cứu việc sử dụng các công cụ khác nhau, Davis (1992: 69-72) kết luận rằng đặc điểm nhân cách của người sáng tạo bao gồm: ý thức về sự sáng tạo của họ, tính độc đáo, độc lập, chấp nhận mạo hiểm, nhiệt tình, ham hiểu biết, hài hước, bị lôi cuốn bởi sự phức tạp và mới mẻ, cảm giác nghệ sỹ, cởi mở, nhu cầu riêng tư, tri giác cao. Mức độ chấp nhận tình huống không xác định thường được xem là đặc điểm của người sáng tạo. Ví dụ, khi tiến hành đánh giá theo thang “Barron-Welsh" (Welsh & Barron, 1963), cá nhân cho biết sự ưa thích của mình đối với các bức tranh phức tạp và bất đối xứng hay đơn giản và đối xứng. Nghiên cứu chỉ ra rằng cá nhân sáng tạo thường ưa thích hình vẽ phức tạp. Nhiều thang đo khác được xây dựng để đo sự nhạy cảm thẩm mỹ hay mức độ chấp nhận tình huống không xác định.
- Ngoài các đặc điểm nhân cách, các hành vi trong quá khứ của cá nhân sáng tạo cũng được nghiên cứu để xác định liệu kinh nghiệm có liên quan tới việc tạo ra sản phẩm sáng tạo hay không. Tự thuật là Phương pháp được dùng khi nhà nghiên cứu muốn thu thập tư liệu về hoạt động và kết quả thực hiện hoạt động của các cá nhân và điều đó có thể phản ánh tiềm năng sáng tạo và thành công. Dựa trên suy đoán rằng hành vi sáng tạo trong quá khứ có thể là yếu tố dự báo cho hành vi tương lai. Một số nhà nghiên cứu đã xây dựng công cụ tự thuật về tiểu sử và hoạt động như Công cụ sinh học Alpha (Alpha Biological Inventory, Taylor & Ellison, 1967), Công cụ hành vi sáng tạo (Creative Bchavior Inventory, Hocevar, 1979). Tự thuật về hoạt động và thành công của bản thân có thể là kỹ thuật phù hợp để đo sáng tạo. Có hai điều cần chú ý trong quan hệ với việc sử dụng rộng rãi công cụ tự thuật. Thứ nhất, tự thuật về thành công và hoạt động cũng có thể được xem như là sản phẩm sáng tạo. Chúng có thể được xem xét dưới ánh sáng của nhân cách sáng tạo vì rằng kiểu loại sản phẩm đặc biệt này thường không thể đo và quan sát trực tiếp được. Kỹ thuật đánh giá sản phẩm sáng tạo thường là sự quan sát quá trình một cách trực tiếp và đánh giá sản phẩm một cách trực tiếp. Thứ hai, việc ứng dụng trắc đạc tâm lý dùng công cụ tiểu sử và nghiên cứu hoạt động của người bình thường có sử dụng trắc đạc lịch sử cũng khó có thể so sánh với việc sử dụng các phương pháp này trong nghiên cứu những người nổi tiếng và mức độ hoàn thành xuất sắc công việc của họ. Việc sử dụng thang tự đánh giá có thể không khả thi lắm về mặt lôgíc, trong trường hợp nghiên cứu trẻ em hay dùng công cụ này trong các chương trình đánh giá học sinh năng khiếu ở trường phổ thông. Để đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, một số công cụ được xây dựng cho phép cha mẹ, giáo viên và những người lớn khác, thậm chí bạn đồng
- niên của trẻ đánh giá nhân cảm và mối quan hệ hành vi quá khứ của cá nhân sáng tạo. Công cụ phố biến bao gồm Mô tả hứng thú của trẻ mầm non (Preschool and Kindergarten Interest Descriptor - Rimm, 1983) và Thang đánh giá đặc điểm hành vi các sinh viên xuất sắc (Scales for Rating the Behavioral Characteristics of Superior Students - SRBCSS, Renzulli, Hartman & Callahan, 1981). Đo thái độ đôi với sáng tạo cũng rất quan trọng. Basadur và Hausdorf (1996:23) mô tả trong nghiên cứu thái độ ở cộng đồng doanh nghiệp: " nó (việc đo) xác định thái độ người quản lý liên quan đến kỹ năng đổi mới Những người quản lý có thái độ tích cực có thể được khuyến khích tham gia vào các hoạt động mà ở đó các quan điểm của họ có thể được hợp lý hóa để sử dụng ở công ty, hay nói cách khác, người quản lý có thái độ thiếu tích cực có thể tham gia vào tập huấn để cải thiện thái độ và kỹ năng. Vì vậy, sự hiểu biết và các quan điểm, thái độ có thể đảm bảo việc nâng cao kết quả hoạt động của các nhà quản lý và các công ty". Quan niệm thông thường về sáng tạo. Ứng dụng hay và khá mới mẻ của phương pháp trắc đạc tâm lý học định hướng cá nhân là đo quan điểm thông thường về sáng tạo. Quan niệm thông thường được xem là quan niệm mà một số nhóm người dùng về một số cấu thành. Sternberg (1993:16) đưa ra lý giải cho nghiên cứu quan niệm thông thường: "Khi nghiên cứu quan niệm thông thường, người ta cố gắng tìm khuôn mẫu nào mà cá nhân thường dùng và người bình thường dùng để xử lý thông tin. Chúng quan trọng một phần vì cần phải biết khi nào thì can thiệp". Các nhà nghiên cứu tin rằng kiến thức về quan niệm thông thường liên quan đến sáng tạo sẽ hỗ trợ cả quá trình lập kế hoạch và đánh giá nhằm nuôi dưỡng sáng tạo. Runco, Johnson và Bear (1993) cho biết quan niệm sáng tạo thông thường của giáo viên và cha mẹ học sinh giống nhau với các
- đặc trưng nhân cách như tính tích cực, mạo hiểm, thẩm mỹ, ham hiểu biết, nhiệt tình và có trí tưởng tượng. Hơn nữa, các tác giả này cho rằng giáo viên sử dụng các đặc trưng xã hội (như vui vẻ, thân thiện, dễ gần), trong khi cha mẹ học sinh dùng các đặc trưng liên nhân cách (tự tin, có tài xoay xở, cần cù). Các nghiên cứu quan niệm của sinh viên đại học về sáng tạo chứa đựng những đặc điểm như sự uyên thâm, trí tuệ. Nhiều nghiên cứu cho thấy sáng tạo được mô tả như sự không bảo thủ, hội nhập và có trí tuệ, cảm giác thẩm mỹ và tưởng tượng, kỹ năng ra quyết định và tính mềm dẻo, minh mẫn, khát vọng thực hiện và được công nhận, ham hiểu biết và trực giác. Những đặc điểm này rất khác với những đặc điểm trí tuệ (năng lực giải quyết vấn đề, định hướng mục tiêu và đạt mục tiêu, tư duy mềm dẻo) và sự uyên thâm (khả năng lập luận, sự khôn ngoan, sắc sảo, óc phán đoán). Kết quả của những nghiên cứu này cho thấy quan niệm thông thường về sáng tạo, nhìn chung, phù hợp với quan niệm chính thống với một số khác biệt giữa các nhóm. - Trắc đạc tâm lý trong nghiên cứu sản phẩm sáng tạo Mackinnon (1978) cho rằng điểm bắt đầu nền tảng của mọi nghiên cứu sáng tạo, là phân tích sản phẩm sáng tạo. Cứ cho là tầm quan trọng của sản phẩm sáng tạo nhìn chung đã được công nhận và sự mơ hồ về lý thuyết liên quan đến sản phẩm sáng tạo đã được ghi nhận hàng thập kỷ qua, đánh giá sản phẩm sáng tạo bằng trắc đạc tâm lý hãy còn rất hạn thế. Phân tích sản phẩm trải ra trên một diện rộng từ những thang đo khá trực diện (Besemer & O’Quin, 1993) đến những kỹ thuật đánh giá thiên về mặt khái niệm khá phức tạp dựa trên sự đồng thuận (Amabile, 1983a; Hennessey & Amabile. 1988). Đây chưa thật sự là phương pháp phổ dụng để đo đạc sản phẩm sáng tạo dùng cho người đánh giá bên ngoài - một tiếp cận có thể dùng để
- phân loại sự đánh giá của các nhóm: giáo viên, phụ huynh học sinh và chuyên gia. Với nhận đinh như vậy, đánh giá của giáo viên nhận được sự chú ý nhiều nhất trong giáo dục. Mỗi công cụ được dùng đòi hỏi giáo viên đánh giá những đặc trưng riêng biệt trong sản phẩm của học sinh. Ví dụ, Thang ý nghĩa của sản phẩm sáng tạo (Creative Product Sematic Scale, Basemer & O’Quin, 1993) cho phép người đánh giá thảo luận về sự mới mẻ, giải pháp cho vấn đề, tính cụ thể và các thuộc tính tổng hợp của sản phẩm. Hình thức đánh giá sản phẩm của học sinh (Student Product Assessment Form, Reis & Renzulli, 1991) được thiết kế để dùng như một công cụ đánh giá trong chương trình năng khiếu, đánh giá 5 phẩm chất (tập trung vào vấn đề, tính phù hợp của nguồn lực tính, độc đáo định hướng hành động, hướng tới cử tọa). Westberg (1991) đã thiết kế công cụ đánh giá sáng tạo của sinh viên theo các chỉ báo về tính độc đáo, tính kỹ thuật, các yếu tố có tính thẩm mỹ. Mỗi một công cụ kiểu đó có liên quan đến độ tin cậy mặc dù vấn đề về tính hiệu lực vẫn cần được đề cập thêm. Năng lực đánh giá của giáo viên và phụ huynh học sinh về ý tưởng của trẻ em là gần như nhau. Đánh giá của chuyên gia được xem là có triển vọng. Có hai xu hướng đánh giá của chuyên gia. Khi dựa vào sự đánh giá chuyên gia, các nhà nghiên cứu thường ít cung cấp tiêu chuẩn phán xét, phân loại cụ thể giống như cách mà Besemer và O’Quin, Reis và Renzulli làm. Ví dụ, Csikszentmtmihalyi và Getzels (1971) đề nghị các nghệ sỹ và các nhà phê bình nghệ thuật đánh giá các bản vẽ của sinh viên trên cơ sở sự lành nghề, tính độc đáo, giá trị thẩm mỹ với kết quả độ tin cậy và hiệu nghiệm chung. Ngược lại, những nhà nghiên cứu khác lại đề nghị các chuyên gia đánh giá sản phẩm sáng tạo với rất ít sự định hướng. Phương pháp này được Amabile (1979, 1983b) chỉnh lý trong
- xây dựng Kỹ thuật Đánh giá đồng thuận (Consensual Assessment Technique - CAT). CAT đề cập những điểm yếu của đánh giá sản phẩm khi áp dụng vào nghiên cứu sáng tạo trong tâm lý học xã hội: dựa vào định nghĩa được đưa ra hay tiêu chuẩn sáng tạo, việc đánh giá sản phẩm một cách truyền thống theo các kỹ năng chuyên môn, những khác biệt cá nhân và sự giảm thiểu năng lực khám phá do tác động của môi trường tới sáng tạo. Việc sử dụng các định nghĩa chưa chuẩn mực về sáng tạo: "sản phẩm hay câu trả lời là sáng tạo khi những người quan sát độc lập đồng ý rằng chúng là sáng tạo" (Amabile, 1982). Tránh được việc đưa ra tiêu chuẩn, không xác định những khác biệt cá nhân như những ảnh hưởng của môi trường tới quá trình sáng tạo vẫn có thể được xem xét. Những người ủng hộ CAT tin rằng cách tiếp cận này sẽ có độ hiệu nghiệm cao hơn so với các phương pháp đánh giá truyền thống. CAT thậm chí được áp dụng để đo quá trình sáng tạo và những khác biệt cá nhân về sáng tạo. Tuy nhiên, việc sử dụng phán xét của chuyên gia không phải không có vấn đề. Chất lượng phán xét phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm kỹ năng của người đánh giá, mục tiêu trong lĩnh vực và mục tiêu đánh giá (Amabile, 1996). Runco và Chand (1995) cho rằng những chuyên gia có thể đánh giá sản phẩm của họ một cách hiệu quả không có nghĩa là họ có khả năng đánh giá sản phẩm sáng tạo của người khác. Và khi tiến bộ được tạo ra trong áp dụng công cụ đồng thuận để đánh giá khác biệt cá nhân trong sáng tạo, thì các quy trình để so sánh các nhóm lại không hoàn hảo. Việc so sánh giữa luật giữa đánh giá đồng thuận và các phương pháp truyền thống giúp tạo ra các kết luận xác định, việc so sánh các phương pháp khác nhau bổ sung vào cơ sở tri thức những nhóm phương pháp mới. Amabile (1996) đã chỉ ra mối quan hệ hài hòa được tạo ra do sự kết hợp giữa tự đánh giá và đánh giá sản phẩm của chuyên gia. Nhìn chung, các
- cá nhân đánh giá sản phẩm của mình cao hơn so với đánh giá ngoài trên cùng một sản phẩm. Tác giả Nguyễn Huy Tú (2006) đã giới thiệu trắc nghiệm sáng tạo TSD-Z của Klaus K. Urban và ứng dụng để xác định tính sáng tạo của trẻ mẫu giáo, học sinh phổ thông và sinh viên Việt Nam trên cơ sở đánh giá sản phẩm tranh vẽ. Người tham gia được yêu cầu vẽ tiếp bức tranh đang vẽ dở, mà không có hướng dẫn gì đặc biệt. Sản phẩm được đánh giá trên cơ sở các chi tiết mở rộng thêm, bổ sung thêm, đưa mới vào, liên kết theo hình vẽ, liên kết theo đề tài, chi tiết vượt khung, phối cảnh, hài cảm, tính bất quy tắc và thời gian cần thiết. Kết quả đánh giá sản phẩm tranh vẽ cho phép kết luận về tính sáng tạo của cá nhân người tham gia và các nhóm khác nhau. - Trắc đạc tâm lý trong nghiên cứu tác động của môi trường tới sáng tạo Nghiên cứu sáng tạo của Amabile (1983a) trong tâm lý học xã hội đã mở đường cho sử dụng tiếp cận hệ thống trong các nghiên cứu sáng tạo như lý thuyết đầu tư của Sternberg và Lubat (1991, 1992), lý thuyết tâm lý học kinh tế (Rubenson và Runco, 1992) và nghiên cứu của chính Amabile (1988) về sáng tạo trong tổ chức. Đặc tính chung của tiếp cận hệ thống là tập trung vào môi trường nơi sáng tạo xuất hiện. Ý nghĩa của giáo dục sáng tạo cũng rất to lớn; các học giả bắt đầu nghiên cứu cách tiếp cận nuôi dưỡng sáng tạo trong giáo dục (Plucker, 1994). Các nghiên cứu mới đây về sáng tạo đã gặp phải khó khăn do thiếu công cụ trắc đạc tâm lý. Họ đang tìm kiếm các biến số liên quan đến sản phẩm sáng tạo với hy vọng rằng những yếu tố bối cảnh sẽ tạo thuận lợi cho thiết kế và áp dụng vào môi trường ở đó có thể đẩy nhanh các thành tựu sáng tạo. Dựa trên kinh nghiệm những năm
- nghiên cứu về sáng tạo trong quản lý và tổ chức, Amabile & Gryskiewicz, (1987) đã xây dựng bản kê khai các điều kiện về môi trường làm việc, công cụ đánh giá liên quan đến việc nhận biết điều kiện, bầu không khí tạo thuận lợi hay cản trở sáng tạo (sự khuyến khích của cấp trên, tự do lựa chọn công việc, nguồn lực đầy đủ, áp lực công việc, các yếu tố cản trở của tổ chức). Nghiên cứu môi trường được so sánh với những định hướng động cơ của người làm việc (động cơ trong và động cơ ngoài), với những đặc điểm nhân cách và sản phẩm. Các nghiên cứu kiểu này không giống với nghiên cứu của Gardner (1993) về nhân cách sáng tạo người nổi tiếng, lý luận về mối quan hệ giữa trí tuệ đa nhân tố và công việc phù hợp. Nghiên cứu của Amabile, Hill, Hennesey và Tighe (1994) trong trắc đạc tâm lý đã tìm thấy mối quan hệ thuận giữa động cơ trong và đặc điểm nhân cách và sản phẩm sáng tạo. Những nghiên cứu này cũng tìm thấy mối tương quan nghịch hay tương quan rất thấp với động cơ ngoài. Khi các công cụ nghiên cứu được cải tiến, hiếu biết của chúng ta về tương tác môi trường sáng tạo cá nhân, sản phẩm và quá trình sáng tạo sẽ được tăng cường. Đánh giá các kỹ thuật khác nhau dùng trong đo lường sáng tạo cho thấy khó tìm thấy sự đồng thuận của các học giả về việc sử dụng trắc đạc tâm lý. Phê phán việc sử dụng trắc đạc tâm lý, Amabile (1982) đề nghị sử dụng phương pháp đánh giá chuyên gia trên cơ sở đồng thuận. Đáp lại, Cramond (1994) cho rằng đánh giá chuyên gia cũng có hạn chế đáng kể và đề nghị phối hợp sử dụng nhiều phương pháp khác nhau. Nhiều nhà trắc đạc tâm lý cho rằng không thể có phương pháp nào là tốt hơn tất cả các phương pháp khác và họ tin rằng sử dụng một tổ hợp các phương pháp sẽ là tốt nhất. Các phương pháp trắc đạc ngày càng đa dạng và phong phú nên không dễ xếp chúng vào chỉ một nhóm.