Giáo trình tóm tắt Văn học Việt Nam 1900-1930 - Phan Thị Hồng (Phần 2)

pdf 25 trang hapham 2300
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình tóm tắt Văn học Việt Nam 1900-1930 - Phan Thị Hồng (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_tom_tat_van_hoc_viet_nam_1900_1930_phan_thi_hong.pdf

Nội dung text: Giáo trình tóm tắt Văn học Việt Nam 1900-1930 - Phan Thị Hồng (Phần 2)

  1. Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 15 – CHƯƠNG III: PHAN BỘI CHÂU (1867 – 1940) VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC THƠ VĂN YÊU NƯỚC Phan Bội Châu sinh ngày 26-12-1867 tại thôn Đan Nhiệm xã Đông Liệt – huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An trong một gia đình nhà Nho nghèo. Thuở nhỏ, Phan Bội Châu đã nổi tiếng thông minh học giỏi. Đặc biệt, ông có tư tưởng yêu nước từ rất sớm, 17 tuổi viết Hịch Bình Tây thu Bắc dán gốc đa đầu làng, 18 tuổi lập đội thí sinh quân hưởng ứng phong trào Văn thân Nghệ Tĩnh chống Pháp rầm rộ lúc ấy. Sau khi bị cấm thi, năm 1897 Phan Bội Châu vào Huế dạy học và bắt đầu liên lạc với các nhà yêu nước trẻ tuổi ở Kinh đô. Thời gian ở Huế, ông nổi tiếng với bài phú Bái thạch vi huynh (Tôn đá làm anh). Do bài phú, ông có dịp quen biết nhiều nhà khoa bảng, đồng thời cũng là những nhà yêu nước theo xu hướng mới như Nguyễn Thượng Hiền, Phan Châu Trinh, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Đặng Nguyên Cẩn v.v Nguyễn Thượng Hiền là người giúp Phan Bội Châu tiếp xúc tân thư, nhờ tân thư, nhà chí sĩ càng quyết tâm đi theo con đường cứu nước mới. Và trong quá trình chủ xướng phái bạo động, nhà yêu nước thực sự vẫn sử dụng phương thức duy tân trong hành động và tuyên truyền cứu nước. Đó là điều khiến nhà yêu nước trở thành “linh hồn” của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ. Năm 1900, Phan Bội Châu được ra thi lại, đậu giải nguyên trường Nghệ. Sau khi thi đậu và sau những cố gắng vào Nam ra Bắc liên kết và thành lập các tổ chức chống Pháp không thành, vào năm 1904, Phan Bội Châu cùng Nguyễn Hàm chọn Cường Để – một người trong hoàng tộc – làm minh chủ lập Tân đảng, sau đổi là Duy tân hội. Tổ chức này giao cho Phan Bội Châu nhiệm vụ sang Nhật cầu viện, chuẩn bị lực lượng, khí giới đánh Pháp. Năm 1905, Phan Bội Châu trốn sang Nhật, từ Nhật nhà yêu nước kêu gọi thanh niên Việt Nam trốn ra nước ngoài học tập, lập thành một trung tâm người Việt Nam hoạt động cứu nước ở Nhật. Thời gian ở Nhật, Phan Bội Châu viết nhiều, đó là các tác phẩm: Việt Nam vong quốc sử, Việt Nam quốc sử khảo, Hải ngoại huyết thư, Kính cáo toàn quốc phụ lão văn, Thư gửi Phan Châu Trinh v.v Năm 1908, chính phủ Nhật theo yêu cầu của Pháp trục xuất các nhà yêu nước Việt Nam . Từ năm 1908 đến năm 1925 Phan Bội Châu phải sống lưu vong ở Trung Quốc, Thái Lan. Cách mạng Tân Hợi Trung Quốc bùng nổ và thành công (cuối năm 1911 đến 1912) khiến các nhà yêu nước Việt Nam tin tưởng vào vận hội mới của công cuộc đánh Pháp, giành lại độc lập cho nước nhà. Đó cũng là sự kiện lịch sử khiến Phan Bội Châu và các đồng chí của ông quyết định sáng lập Quang phục hội, tập hợp nhiều lực lượng yêu nước Việt Nam trong và ngoài nước. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn hoạt động, tổ chức cứu nước này lại bị thực dân đánh phá, phong trào bị vỡ lở, thất bại, Phan Bội Châu bị bắt. Ra tù, nhà chí sĩ vẫn phải tiếp tục sống lưu vong, để kiếm sống, ông viết bài cho một số tạp chí Trung Quốc. Năm 1925, ông bị Pháp bắt ở Thượng Hải, sau đó đem về nước. Không dám bí mật giết ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn
  2. Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 16 – nhà yêu nước cũng như không thể dùng toà án để buộc tội ông, thực dân cuối cùng phải tha bổng Phan Bội Châu nhưng bắt ông quản thúc ở Huế. Đồng bào trong nuớc gửi tiền giúp đỡ nhà chí sĩ lão thành làm một ngôi nhà ở Bến ngự. Sau hơn hai chục năm bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước, nhà chí sĩ hăng say trở thành “ông già Bến Ngự”. Từ năm 1926 –1940 nhà chí sĩ sống trong điều kiện bị theo dõi, quản thúc. Tuy thế nhiệt tình yêu nước của ông vẫn không hề bị dập tắt, các tác phẩm văn thơ nhằm giáo dục lòng yêu nước vẫn tiếp tục được sáng tác như: Nam quốc dân tu tri, Nữ quốc dân tu tri, các bài thơ, phú, truyện ngắn v.v Các bộ sách như Khổnng học đăng, Phật học đăng, Nhân sinh triết học cũng được ông biên soạn trong thời gian này. Phan Bội Châu được đánh giá cao về nhiều phương diện, là “linh hồn của các phong trào đấu tranh cách mạng đầu thế kỷ” là người “đã có những cống hiến lớn lao cho dân tộc về mặt chính trị và cả về mặt văn học Văn thơ của ông đã góp phần rất lớn trong việc nâng cao lòng yêu nước cho mọi tầng lớp nhân dân ta đầu thế kỷ XX. Văn thơ đó xứng đáng là phần quí giá nhất, phong phú nhất của dòng văn thơ cách mạng hồi đầu thế kỷ”(1). [ [ [ Xuất thân là một nhà Nho, nhưng tiếp nhận tư tưởng mới của thời đại dân chủ (tư tưởng dân chủ) qua tân thư, tham gia công cuộc cứu nước bằng phương thức tổ chức chính đảng với qui mô toàn quốc, Phan Bội Châu đã trở thành nhà chính trị mới. Để tuyên truyền vận động cứu nước, với Phan Bội Châu, văn chương là phương tiện số 1, “ông là nhà chính trị mới nhưng viết văn như một nhà Nho, chứ không phải vừa là nhà chính trị vừa là nghệ sĩ”(2). Tuy nhiên, cũng có thời gian, nhà chí sĩ đã phải kiếm sống bằng việc “buôn văn, bán chữ” với những bài thời bình, xã luận, tiểu thuyết. Đó là thời gian nhà yêu nước sống lưu vong, làm biên tập viên cho Binh sự tạp chí ở Hàng Châu, Trung Quốc, trước khi bị thực dân Pháp bắt (1925). Đây là giai đoạn “ông phải tách người văn nghệ sĩ ra khỏi người chính khách, chú ý đến những điều mà nhà văn, nhà báo – chứ không phải nhà chính trị trong ông – phải chú ý”(1). Về cuối đời, dù bị ngăn cách khỏi các phong trào yêu nước, cứu nước nhưng văn, thơ, phú mà “ông già Bến Ngự” gửi đăng báo vẫn nhằm thức tỉnh, giáo dục lòng yêu nước của quốc dân. Như vậy, văn chương là một “đóng góp” của nhà chí sĩ cho sự nghiệp cứu quốc khi ông không còn điều kiện hoạt động cứu nước. Để thấy rõ đặc điểm quá trình hơn nửa thế kỷ sáng tác văn học của nhà chí sĩ, có thể nhìn nhận qua ba giai đoạn như sau: (1) Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX (1900-1930), NXB Văn học 1976, tr. 43-44. (2) Trần Đình Hượu – Lê Chí Dũng, Sđd, tr. 112 (1) Trần Đình Hượu – Lê Chí Dũng, Sđd, tr. 112. ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn
  3. Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 17 – 1. Trước khi xuất dương cứu nước cho đến 1908 Đây là giai đoạn sôi nổi, hào hùng nhất trong sự nghiệp chính trị cũng như sáng tác văn thơ yêu nước của nhà chí sĩ. Các tác phẩm chính gồm: Lưu cầu huyết lệ tân thư (thất bản), Chơi xuân, Xuất dương lưu biệt, Việt Nam vong quốc sử, Hải ngoại huyết thư, Sùng bái giai nhân. a. Nhà chí sĩ thời cận đại với hoài bão, lý tưởng lớn đã hiện diện ngay trong những bài thơ nhỏ: Chơi xuân, Xuất dương lưu biệt. Chơi xuân là bài thơ kí ngụ hào khí nam nhi, thơ của một bậc hào kiệt, nuôi nhiều khát vọng lớn cứu nước, cứu dân. Giải San xứ Nghệ diễn tả một cuộc chơi xuân hào hoa, hết mình và rất lạ: Quân bất kiến, Nam – Xuân tự cổ đa danh sĩ, Đã chơi xuân đừng quản nghĩ chi chi, Khi ngâm nga xáo lộn cổ, kim đi, Tùa tám cõi ném về trong một túi. Thơ rằng: Nước non Hồng, Lạc còn đây mãi, Mặt mũi anh hùng há chịu ri? Giang sơn còn tô vẽ mặt nam nhi, Sinh thời thế phải xoay nên thời thế. Phùng xuân hội may ra ừ cũng dễ, Nắm địa cầu vừa một tí con con. Đạp tung hai cánh càn khôn, Đem xuân vẽ lại trong non nước nhà. Hai vai gánh vác sơn hà, Đã chơi chơi nốt, ố chà chà xuân. Một nhà Nho với tính cách năng nổ, với khát khao làm nên nghiệp lớn hiện lên trong bài thơ câu chữ gồ ghề, không theo thể cách nào nhất định. Trong cuộc “chơi xuân” người danh sĩ; khi mê say “ngâm nga xáo lộn cổ kim đi” khi háo hức muốn “Tùa tám cõi ném về trong một túi”. Đó là niềm say của một trang nam nhi mà tâm hồn đang ngập tràn những hoài bão lớn. Trong trạng thái chuếnh choáng của một “khách chơi”, danh sĩ chỉ một niềm nghĩ đến “nước non Hồng, Lạc” đến “mặt mũi anh hùng”, đến thời thế. Con người ấy đang khát khao hành động, khát khao “đạp tung” trời đất, muốn ghé vai gánh vác sơn hà xã tắc. Bài thơ mang tính chất “ngôn chí”, ngôn chí một cách say sưa, khác thường của giải San xứ Nghệ. Cùng một cảm hứng như bài Chơi xuân, là bài Xuất dương lưu biệt Làm trai phải lạ ở trên đời, Há để càn khôn tự chuyển dời. Trong khoảng trăm năm cần có tớ, Sau này muôn thuở há không ai. Non sông đã chết sống thêm nhục, Hiền thánh còn đâu học cũng hoài. Muốn vượt bể đông theo cánh gió, ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn
  4. Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 18 – Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi. Con người chí sĩ hiện diện trong một không gian và thời gian rộng lớn. Thơ “ngôn chí” của Phan Bội Châu là thơ của một bậc hào kiệt trong thiên hạ, thơ của người chí sĩ với ý chí, khát vọng và lý tưởng lớn. Thơ ông cấp cho ta sức mạnh, tăng chí khí. Phan Bội Châu không than vãn, xót xa, bất lực như Tú Xương, không có cái lẩn quẩn, dằn vặt như Nguyễn Khuyến. b. Trong thời gian 10 năm đầu thế kỷ, Phan Bội Châu là một trong những chí sĩ nổi tiếng nhất với sự nghiệp dùng văn chương làm vũ khí tuyên truyền cứu nước. Việt Nam vong quốc sử là một trong những tác phẩm đầu tiên trong quá trình sáng tác văn học yêu nước của ông. Tác phẩm được coi là tài liệu tuyên truyền quốc tế đầu tiên của cách mạng Việt Nam, được viết ra trong thời gian nhà chí sĩ đang tràn trề niềm tin và nhiệt tình cứu quốc, nhằm tố cáo chính sách cai trị thâm độc của thực dân Pháp, kêu gọi người Việt Nam đoàn kết chống Pháp. Tác phẩm được trình bày theo lối đối thoại giữa Sào nam và Ẩm Băng (Lương Khải Siêu), với bốn chương chính: 1. Nguyên nhân và lịch sử mất nước của nước Việt Nam. 2. Tiểu truyện các chí sĩ hồi mới mất nước. 3. Chính sách ngu dân của thực dân Pháp. 4. Tương lai của nước Việt Nam. Với niềm tin tưởng lớn ở tinh thần dân tộc và lòng yêu nước của người Việt Nam, nhà chí sĩ liên tiếp đưa ra những suy nghĩ, lập luận để bênh vực đồng bào mình. Lời văn tác phẩm tha thiết, như thúc giục, như lôi kéo khuyến khích, thể hiện tình cảm yêu nước vừa sâu sa, trìu mến vừa mãnh liệt. Ở chương Tương lai của nước Việt Nam, để kêu gọi mười hạng người đoàn kết cứu nước và theo tinh thần “gạn đục khơi trong”, nhà chí sĩ có viết một đoạn rất gây ấn tượng với lối suy luận rất riêng của ông như sau: “Tôi nghĩ rằng, từ này nước Việt Nam bị bọn Pháp chiếm lĩnh thì người Việt Nam hoàn toàn là nô lệ người Pháp. Tôi nghĩ rằng bọn Hoàng Cao Khải, Nguyễn Thân đã rán hết sức đi hầu hạ bọn Pháp, để giết chóc người Nam, giúp đỡ kẻ thù ăn thịt đồng bào. Nước tôi đâu có thế – Bác bảo là người Việt Nam còn có nhân tâm ư? Tôi vẫn không tin. - Ô hô! i hi! Cái nhân tâm của người Việt Nam, tôi thì tôi lại tin là nó có ngay trong lòng bọn đó! Bằng nay có cô thiếu nữ và có hai nhà, nhà A và nhà B tranh nhau đi hỏi cho được cô ả. Anh chàng nhà A thì đẹp mà nghèo, anh chàng nhà B thì giàu mà xấu. Hỏi cô ta rằng định lấy ai, cô sẽ trả lời: “Ăn cơm nhà B, ngủ nhà A” Bọn Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải thì âu cũng thế thôi. Bọn họ thích gì làm dân nhà xấu. Bọn họ chỉ kiếm miếng cơm đó thôi Bọn chúng đi hầu hạ quân ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn
  5. Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 19 – Tây, là vì thời buổi bắt buộc, đi nhầm mất đường, chưa biết đâu; hay là vì len lỏi, cúi lòn, để chờ cơ hội cũng chưa biết đâu!” Lấy “lí trí của giống người” nhà chí sĩ khơi gợi lòng yêu nước ở tất cả các hạng người trong xã hội, đặt niềm tin ở tinh thần dân tộc của họ, khẳng định tương lai sáng lạn của đất nước. Dưới ngòi bút của nhà chí sĩ, các hạng người từ “con nhà gia thế, dòng dõi thi thư” đến tầng lớp bình dân, người theo đạo Gia Tô, người nghèo kiết cùng quẫn, cho đến bọn tay sai thực dân lúc bấy giờ sâu xa cũng đều có lòng tự hào dân tộc, có thể “hăng hái trở giáo đánh lại quân thù để đền nợ nước” (Việt Nam vong quốc sử). Việt Nam vong quốc sử là thiên chính luận về lịch sử mất nước của nước Việt Nam, một tác phẩm văn xuôi nhưng lời lẽ nồng nàn, tha thiết đầy tính trữ tình. Sự uyển chuyển trong suy nghĩ, lập luận thể hiện một văn bút độc đáo hiếm có. Đây là một trong những tác phẩm khẳng định tài năng trong nghệ thuật tuyên truyền yêu nước, cứu nước của nhà chí sĩ. [ [ [ Trong toàn bộ thơ văn tuyên truyền yêu nước cứu nước của Phan Bội Châu Hải ngoại huyết thư là tác phẩm lôi cuốn, sôi nổi và đạt đến đỉnh cao nhất về phương diện nội dung tư tưởng cũng như nghệ thuật tuyên truyền, cổ động. Bản huyết thư nguyên văn chữ Hán với hơn 700 câu thơ (theo thể thơ 7 chữ) được nhà yêu nước Lê Đại dịch ra quốc ngữ theo thể song thất lục bát là một khúc ngâm lớn, một bản trường ca yêu nước số 1 đầu thế kỷ. Tác phẩm lần lượt đề cập đến các vấn đề: thực trạng mất nước đau thương, nguyên nhân mất nước, phương hướng cứu nước. Ta biết, các vấn đề trên đã từng được đề cập đến trong Việt Nam vong quốc sử. Với tác phẩm này nhà chí sĩ không “lặp lại” mà đặt lại vấn đề ở một mức độ cao hơn, sâu hơn với những lời lẽ cấp thiết, nóng bỏng hơn. Tác phẩm được viết với tất cả tâm hồn và nhiệt huyết. Bức thư được khởi đầu bằng những lời lẽ có tính chất “thức tỉnh” cả một đất nước đang chìm đắm, mê muội trong nô lệ, lầm than. Thực trạng đau thương: Pháp đô hộ Việt Nam, ra sức khai thác tài nguyên thiên nhiên đất nước ta, bòn vét của cải và bạc đãi dân ta. Người Việt Nam nô lệ, yếu hèn, nhục nhã và họa diệt chủng bày ra trước mắt. Nguyên nhân mất nước là do vua vô trách nhiệm, quan vô tâm, dân thờ ơ, dốt nát. Nhà chí sĩ thẳng thắn vạch rõ: Nước ta mất bởi vì đâu? Tôi xin kể hết mấy điều tệ nhân. Một là vua sự dân chẳng biết, Hai là quan chẳng thiết gì dân. Ba là dân chỉ biết dân, Mặc quân với quốc mặc thần với ai. Tiếp thu tư tưởng các nhà duy tân Trung Quốc, Nhật Bản, tác giả Hải ngoại huyết thư đã thể hiện những nhận thức mới mẻ về chế độ, về quyền dân, về vấn đề ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn
  6. Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 20 – tự cường dân tộc. Khi nhận xét, khẳng định, khi lại như chìm vào ưu tư, lúc lại thúc giục, những khám phá mới của thời đại xung quanh vấn đề mất nước, đường lối cứu nước lần lượt được tác giả bản huyết thư đề cập đến. Sự sa sút về dân trí theo nhà yêu nước là do sự áp chế quá lâu của chế độ quân chủ: Quyền dân chủ trên đầu ức chế, Bốn nghìn năm dân trí còn gì. Để tăng cường trách nhiệm của dân với nước, bản thư tuyên bố: “Dân là dân nước, nước là nước dân”. Cũng như Bài ca Á tế á, Hải ngoại huyết thư ca ngợi công cuộc đổi mới của Nhật Bản, coi đất nước này là tấm gương để người Việt Nam noi theo. Ở đất nước này “Chữ bình đẳng đặt đầu chính phủ. Bấy lâu nay dân chủ cộng hòa” v.v Để đất nước giàu mạnh, văn minh người Việt Nam cần có “trăm thứ nghề hay”, phải được học “binh, cơ, điện, hóa” như các nước đó cũng là những “phát hiện” mới của nhà chí sĩ. Mọi việc cần phải được tiến hành khẩn trương thì mới có thể cứu được nước nhà: Nay còn lúc giống người chưa hết, Chữ tự cường nên biết khuyên nhau. Từ tất cả những phân tích, giảng giải về thực trạng đất nước, nguyên nhân mất nước, đề xuất những cách thức khôi phục đất nước, bản thư kêu gọi đoàn kết, đấu tranh. Năm mươi triệu người Việt Nam từ phú hào, quan tước, sĩ phu, lính tập cho đến bếp bồi, thông kí, côn đồ nghịch tử, nhi nữ anh sĩ đều có thể đoàn kết thành một khối, tạo nên sức mạnh giành lại nền độc lập cho nước nhà. Với sự phong phú về nội dung tuyên truyền và với những đề xuất mới mẻ về đường lối cứu nước Hải ngoại huyết thư là một trong những tác phẩm lớn nhất của văn học yêu nước đầu thế kỷ. Hải ngoại huyết thư – với mục đích tuyên truyền yêu nước cứu nước – sở dĩ nồng nàn, kích động lòng người bởi đó là lời giãi bày, tâm sự của một người dân yêu nước, thiết tha với sự nghiệp cứu quốc. Sắc thái xúc cảm của tác giả biểu hiện qua dòng ngôn ngữ đa dạng của tác phẩm. Người dân yêu nước này khi thì lo âu, sốt ruột, khi căm giận uất ức, khi ưu tư, khi sôi nổi, hào hứng Gửi tâm tình về nước, lời tác phẩm có đoạn thật lắng đọng, trữ tình: Lời huyết lệ gửi về trong nước, Kể tháng ngày chưa được bao lâu. Nhác trông phong cảnh thần châu, Gió mây phẳng lặng dạ sầu ngẩn ngơ. Hồn cố quốc vẩn vơ, vơ vẩn, Khôn tìm đường dò nhắn, hỏi han. Bâng khuâng đỉnh núi mây ngàn, Khói tuôn khí mất, sóng cồn trận đau Để thuyết phục, tuyên truyền, lời thơ khi thủ thỉ tâm tình, khi trách móc phê phán, khi bàn bạc, thảo luận, khi lại thúc giục, khẳng định Thức tỉnh, khơi động, ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn
  7. Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 21 – tiếp thêm sức mạnh và niềm tin cho quốc dân, đó là hiệu quả mà tác phẩm đã đạt được. Nghệ thuật tuyên truyền của Hải ngoại huyết thư thật sự đạt đến trình độ cao, xuất sắc. Một trong những yếu tố đưa đến sự thành công về mặt nghệ thuật của Hải ngoại huyết thư là việc vận dụng sáng tạo thể thơ. Từ nguyên bản Hán văn, theo thể thơ 7 chữ, tác phẩm được dịch ra quốc ngữ theo thể song thất lục bát. Song thất lục bát là thể thơ được các nhà thơ các giai đoạn trước sử dụng thành công trong việc sáng tác khúc ngâm: Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm Khúc ngâm với thể thơ song thất lục bát thường mang âm điệu trữ tình da diết, lâm li rất thích hợp với việc diễn tả chiều sâu suy nghĩ, tâm trạng, tình cảm. Các dịch giả và tác giả Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm đã dùng thể song thất lục bát để diễn tả những dằn vặt, lo âu, những nỗi xa xót triền miên của nhân vật người chinh phụ và người cung nữ. Hải ngoại huyết thư – có thể coi bản thư này là một khúc ngâm, một bản trường ca yêu nước – đã kế thừa việc sử dụng thể thơ song thất lục bát để thể hiện một chuỗi dài những nhìn nhận, suy nghĩ, xúc cảm, lập luận v.v của một chí sĩ trước thảm cảnh của đất nước. Âm điệu Hải ngoại huyết thư lâm li, da diết nhưng đồng thời cũng rắn rỏi, hùng hồn, kích động chứ không bi lụy như các khúc ngâm trước đó. Khai thác lợi thế của thể thơ song thất lục bát và “cải tạo” âm điệu của nó, đó là một trong những thành công về mặt nghệ thuật của Hải ngoại huyết thư. 2. Giai đoạn 1908 – 1925 Cùng với sự tan rã của phong trào Đông du, ngòi bút đầy hào khí của nhà chí sĩ chuyển sang một giai đoạn khác, trầm lắng hơn dù vẫn mang ít nhiều dư âm hùng tráng của giai đoạn trước. Từ năm 1908 cho đến khi bị thực dân Pháp bắt (1925) cùng với những nỗ lực gây dựng phong trào, thành lập tổ chức cứu nước mới, dù cuộc sống gặp nhiều gian nan, nhưng nhà chí sĩ vẫn sáng tác văn thơ. Tác phẩm của ông giai đoạn này bao gồm nhiều thể loại khác nhau: Thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, tuồng. Dù là phương tiện để củng cố phong trào, duy trì hoạt động, hay là “vì sinh kế” mà viết bài in báo, nội dung tư tưởng xuyên suốt các tác phẩm vẫn là yêu nước, cứu nước. Xét về phương diện một nhà yêu nước dù Phan Bội Châu vẫn kiên định, nỗ lực, tìm cách tiếp cận tình hình, kịp thời thành lập tổ chức cứu nước mới nhưng đây là giai đoạn các phong trào cách mạng, yêu nước gặp nhiều khó khăn, bế tắc vì sự ngăn chặn, đàn áp của thực dân. Xét về phương diện văn chương, nhà Nho Phan Bội Châu sống và viết trong một giai đoạn văn học dân tộc đang tìm đường đổi mới cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật Nhưng rõ ràng là “nhà văn”, “nhà thơ” Phan Bội Châu có rất ít cơ hội để hội nhập vào sự đổi mới của đời sống văn học. Tuy nhiên, để phản ánh thực tế mới, tư tưởng mới, thơ, văn chính luận, truyện ngắn, tiểu thuyết của Phan Bội Châu lại có giá trị như là những “thí nghiệm” những cách “thử bút” của ông trong bước quá độ từ văn học truyền thống, trung đại sang văn học mới, hiện đại. Nhà yêu nước đã “sử dụng một cách rộng rãi kinh nghiệm viết văn cũ để viết truyện ngắn và tiểu thuyết. Do đó truyện ngắn và tiểu thuyết của Phan Bội Châu rất khác truyện ngắn và tiểu thuyết hiện đại, mang ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn
  8. Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 22 – dấu vết rõ rệt của quá trình cách tân nghệ thuật truyền thống để nói nội dung mới”(1) a) Thơ tuyên truyền yêu nước, cứu nước Trong hoàn cảnh các phong trào yêu nước gặp nhiều khó khăn, thực dân tay sai ráo riết đàn áp, chia rẽ nhân dân ta, bản thân phải sống lưu vong nhưng Phan Bội Châu vẫn không thôi đeo đuổi sự nghiệp khôi phục chủ quyền đất nước. Ông vẫn tiếp tục làm thơ tuyên truyền, cổ động yêu nước, cứu nước. Với chùm thơ Ái quốc, Ái quần, Ái chủng nhà chí sĩ tha thiết khơi gợi lòng yêu nước, ý thức về truyền thống cha ông, kêu gọi đoàn kết đấu tranh giành lại giang sơn, đất nước. Giai đoạn trước, viết Việt Nam vong quốc sử, Hải ngoại huyết thư, Sùng bái giai nhân Phan Bội Châu đã là nhà “ái quốc” số 1 có công khơi dậy tinh thần yêu nước của toàn thể quốc dân. Bằng văn chương, bút mực nhà chí sĩ đã ra sức “cồng khua”, “mõ gióng” thức tỉnh đồng bào đang trong cơn mê ngủ. Ái quốc ca được viết vào năm 1910, đó là thời gian không phải là thuận lợi đối với sự nghiệp nhà chí sĩ. Nhưng hoàn cảnh khó khăn đó không ngăn cản được nhà yêu nước tiếp tục cất lên tiếng hát “ái quốc”, cổ động cho dàn hợp xướng quốc dân: Nay ta hát một thiên ái quốc, Yêu gì hơn yêu nước nhà ta. “Thiên ái quốc” nhắc nhở quốc dân nhớ lại lịch sử dựng nước giữ nước gian nan của cha ông, vẽ nên dáng vóc xinh đẹp, nên thơ của giang sơn, khơi gợi tình cảm và ý thức trách nhiệm: Trải mấy lớp tiền vương dựng mở, Bốn ngàn năm dãi gió dầm mưa. Biết bao công của người xưa, Gang sông, tấc núi, dạ dưa, ruột tằm. Hào Đại hải âm thầm trước mặt, Giải Cửu Long quanh quất miền Tây. Một tòa san sát xinh thay, Bên kia Vân Quảng, bên này Côn Lôn Để có được từng “gang sông, tấc núi” cha ông ta đã phải bao phen “dãi gió, dầm mưa”, “nằm gai”, “nếm mật”, phải thao thức bao đêm “dạ dưa, ruột tằm” Bài thơ mở ra và kéo lại khoảng cách giữa dân với nước, gợi lên sự gần gũi, thân thương của con cháu với cha ông. Tạo được tình cảm trong sáng, cao cả đối với giang sơn, đất nước, sự xúc động trong lòng người đọc, đó là hiệu quả thẩm mỹ của bài thơ. Từ nền tảng tình cảm thiêng liêng này, nhà chí sĩ lại hướng “công chúng” sang một bình diện khác: ý thức về thực tại đau buồn. Đó là cảnh mất nước, nô lệ “dân cùng, của hết”, “Bốn mươi năm nước mất quyền không”, là tang tóc “Nước tanh máu đỏ, non chồng thịt cao” Lời thơ như thủ thỉ, tâm tình, lại như thôi thúc, thức tỉnh: (1) Trần Đình Hượu – Lê Chí Dũng, Sđd, tr. 137. ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn
  9. Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 23 – Non nước ấy biết bao máu mủ, Nỡ nào đem nuôi lũ sài lang? Cờ ba sắc xứ Đông Dương, Trông càng thêm nhục nói càng thêm đau! Nhục vì nước mà đau người trước, Nông nỗi này, non nước cũng oan. Điều mà nhà chí sĩ hướng tới, hình dung ra, tin tưởng sẽ diễn ra đó là ngày toàn thể quốc dân: “Hợp muôn sức ra tay quang phục. Quyết có phen rửa nhục báo thù” cho lịch sử, cho nước nhà Nhằm thiết lập lại tình cảm nội bộ người trong một nước, ý thức về sự tồn vong của chủng tộc da vàng, hướng tới mục đích cứu nước, Phan Bội Châu kêu gọi người Việt Nam còn phải biết “Ái quần” “Ái chủng”. Với việc kêu gọi mười hạng người đồng tâm (Hải ngoại huyết thư) Phan Bội Châu đã được coi là ngôi sao dẫn đường đoàn kết dân tộc. “Ái quần”, “Ái chủng” là hai lời kêu gọi phát ra nhằm nhắc lại, nhấn mạnh lại ở những phương diện khác, giá trị của khối đại đoàn kết dân tộc – một tư tưởng lớn của nhà chí sĩ cấp tiến. Nhà chí sĩ khẳng định, người Việt Nam vốn “Non sông riêng một nước nhà”, lịch sử đã trải “hơn bốn nghìn năm”, quan hệ vốn gần gủi, ruột rà “Ông cha một họ, anh em một nhà” v.v Nhưng hiện tai : Chỉ vì tan tác từng người, Phen này đến nỗi lạc loài xót xa. “Ái quần” là để “Nam, Bắc hiệp hòa”, để “Họ hàng đông đủ cánh vây. Chen vai ưu thắng ra tay cạnh tồn”, để “Làm cho nổi tiếng Lạc, Hồng, vẻ vang dòng dõi con rồng cháu tiên”. Khẳng định sức mạnh của sự gắn bó đoàn thể, sự cần thiết phải bảo vệ khối liên kết muôn người nhà chí sĩ sử dụng những biện pháp ví von, so sánh dễ hiểu: Thể đoàn như đá chẳng mòn, Như thành chẳng chuyển như non chẳng dời. Đừng như đàn quạ giữa trời, Gặp cơn mưa gió vội rời nhau ra. Thậm chí, để nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của khối đại đoàn kết, sự cần thiết phải hy sinh cái riêng tư cho sự nghiệp chung trong cuộc đấu tranh lúc bấy giờ nhà yêu nước còn viết : Có đàn thì mới có ta, Đàn là rất trọng, ta là rất khinh. Bởi có đoàn kết, gắn bó với nhau mới có thể giành lại “cơ nghiệp vẹn tuyền”, đó là cái đích mà lời kêu gọi “Ái quần” hướng tới. ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn
  10. Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 24 – Nhìn nhận vấn đề mất nước ở phương diện chủng tộc, Phan Bội Châu quay về lịch sử, ôn lại quá khứ vẻ vang của giống người “da vàng máu đỏ”. Với những câu thơ đầy tự hào, kiêu hãnh ông ca ngợi lịch sử hào hùng của “chủng” da vàng: Tài anh kiệt, nối đời sinh, Phá Nguyên mấy lớp, đánh Minh mấy lần. Mở mang Chân Lạp, Chiêm Thành, Trời Nam lừng lẫy, dòng thần ở Nam. Thế nhưng, hiện tại thì sao? Ngán thay giống tốt nòi sang, Bởi đâu sa sút mà mang tiếng hèn? Nhà chí sĩ thở than, băn khoăn: Xưa nay đứng chủ cầm quyền, Rày sao nhẫn nhục, chịu hèn làm tôi? Kết thúc bài Ái chủng là lời kêu gọi tha thiết: Giống ta nay chẳng dại rồi, Chân tay cột dạ muôn người cùng nhau. Muốn cho nòi giống thịnh giàu, Về đi hợp bụng mà mưu chấn hoàng. Mưu sao kéo lại giống vàng, Uống say máu giặc, ăn tương thịt thù. Mấy câu ái chủng reo hò, Chữ đồng tâm ấy phải cho một lòng “Đồng tâm”, “hợp chủng” để khôi phục sự “thịnh giản” của “nòi giống” đó chính là điều mà nhà chí sĩ mơ ước. b) Truyện, tiểu thuyết Viết truyện, Phan Bội Châu chỉ nhằm vào một đối tượng chính: Những gương phấn đấu, hi sinh vì nước trong phong trào chống Pháp đầu thế kỷ. Đó là những thanh niên yêu nước trong phong trào Đông Du, những người đồng chí thân thiết, những nhà vận động cách mạng nổi tiếng lúc bấy giờ như Nguyễn Hàm, Trần Quí Cáp, Đặng Thái Thân v.v Liệt sĩ Phạm Hồng Thái với tiếng bom la diện vang dội, Hoàng Hoa Thám con hùm của núi rừng Yên Thế chống Pháp đều trở thành đối tượng viết truyện, thành nguồn cảm hứng dạt dào trên các trang văn của nhà chí sĩ họ Phan. Nhân vật người anh hùng cứu quốc trở thành hình ảnh duy nhất trong truyện của nhà chí sĩ. Để thấy được sự tiến triển trong quá trình viết truyện của Phan Bội Châu, có thể chia những tác phẩm thuộc thể loại này thành hai nhóm như sau: Nhóm 1: Những truyện có tính chất ghi chép chân thực theo kiểu liệt truyện gồm các tiểu truyện như: Nguyễn Hàm, Đặng Thái Thân, Nữ liệt sĩ Đinh phu nhân, Trần Quí Cáp, Hoàng Phan Thái, Trần Đông Phong Vì ghi chép theo kiểu liệt ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn
  11. Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 25 – truyện, những tiểu truyện này được viết một cách hết sức ngắn gọn, cô đúc, hầu như không có bất cứ sự thêm thắt, tô điểm nào. Không có sự rườm rà của các chi tiết, cảm xúc người viết cũng hạn chế đến tối đa, đây là những ghi chép trang nghiêm, thành kính về những nhân vật của một thời lịch sử, những sự việc có thực. Có thể coi đây là những thiên sử ký hơn là những áng truyện, áng văn. Nhóm 2: Gồm những truyện đã chứa sự hư cấu, sáng tạo khi viết về thân thế, sự nghiệp những người yêu nước nổi tiếng đương thời. Tiêu biểu là các truyện và truyện ký: Chân tướng quân, Tái sinh sinh, Nhà sư ăn rau, Truyện Phạm Hồng Thái. Đây là những truyện ngắn, truyện ký được viết trong thời gian Phan Bội Châu ở Trung Quốc, giữ mục tiểu thuyết trên tạp chí Binh sự Hàng Châu. Với một lối viết đã có sự uyển chuyển nhất định trong việc xây dựng cốt truyện, tô điểm chi tiết, trong việc gia công các đoạn tả tính cách nhân vật, cảnh vật các truyện này đã tạo được sự hấp dẫn, lôi cuốn cho người đọc. Đặc biệt, nếu ở các truyện thuộc nhóm 1, người viết phải che giấu, đè nén cảm xúc thì ở các truyện này dù: “Người viết vẫn tự kiềm chế, nhưng tình cảm và tư tưởng vẫn trào ra đầu ngọn bút”(1). Đọc truyện, người ta theo dõi tình tiết, chiến công, số phận nhân vật đồng thời cũng như được hòa nhập vào mạch suy nghĩ, xúc cảm trào dâng, thiết tha của tác giả. Viết về vị “chân tướng quân” Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu không ghi chép theo lối liệt kê cứng nhắc, thứ tự về cuộc đời, sự nghiệp của nhân vật mà ông trình bày tác phẩm dưới dạng truyện ký. Vừa hồi tưởng, vừa mô tả trực tiếp những điều mắt thấy tai nghe, ghi chép lại những lời kể của người khác, đồng thời đưa ra những lời bình luận, diễn tả tâm trạng, cảm xúc v.v Truyện ký “Chân tướng quân” với bấy nhiêu cách thể hiện đã có diện mạo uyển chuyển, sinh động của một áng văn nghệ thuật. Người đọc theo dõi câu chuyện được dẫn dắt linh hoạt với sự hồi hộp, thích thú từ đầu đến dòng kết thúc. Đó là một trong những thành công khẳng định nỗ lực sáng tạo, đổi mới trong quá trình “thử nghiệm” ngòi bút văn của nhà chí sĩ trong thời đại mới. Dù sống và viết trong điều kiện rất khó khăn của một nhà cách mạng lưu vong nhưng việc có một thời gian nhà chí sĩ lấy tạp chí Binh sự Hàng Châu làm cửa hiệu “buôn văn, bán chữ” lại là một trong những cơ hội khiến ông ít nhiều được tiếp xúc với sự đổi mới của văn hóa, văn học thời đại, ít nhiều có điều kiện “tiểu thuyết hóa” những câu chuyện viết về người anh hùng cứu quốc lúc ấy. Báo chí là một trong những cánh diều đón những ngọn gió đổi mới đầu tiên này. [ [ [ Tiểu thuyết lịch sử Trùng Quang Tâm sử được Phan Bội Châu viết trong thời gian lưu vong ở Trung Quốc, đăng tải trên tạp chí Binh sự Hàng Châu từ năm 1921. Lấy đề tài lịch sử, nội dung tác phẩm kể chuyện một nhóm hào kiệt yêu nước vùng Nghệ An lập trại Trùng Quang, tôn Trần Quí Khoáng – tôn thất nhà Trần – làm trại chủ, tổ chức khởi nghĩa chống quân Minh, khôi phục nền độc lập dân tộc. Tuy (1) Trần Đình Hượu – Lê Chí Dũng, Sđd, tr. 145 ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn
  12. Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 26 – nhiên, cuộc nổi dậy đánh đuổi quân Minh, khôi phục nhà Trần đã được ngòi bút của Phan Bội Châu biến thái, di chuyển, tái tạo lại về không gian và thời gian, khiến người đọc hình dung đến khung cảnh lịch sử các phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta đầu thế kỷ hơn là cuộc nổi dậy chống xâm lược ở thế kỷ XV. Xu hướng “ đương đại hóa lịch sử” này trong sáng tác của Phan Bội Châu còn được thể hiện trong bản Tuồng Trưng nữ vương của ông. Nội dung tuyên truyền yêu nước, chống Pháp là điều khiến Phan Bội Châu luôn hướng tới, quan tâm, sự thực lịch sử chỉ có giá trị là xuất phát điểm, là chỗ tựa cho mọi sự hư cấu, sáng tạo. Thiên “tâm sử” 20 hồi về “trại Trùng Quang” một tổ chức kháng chiến với các nhân vật có vai trò khác nhau một lần nữa thể hiện sự nhất quán của Phan Bội Châu trong việc sử dụng văn chương làm vũ khí tuyên truyền yêu nước, cứu nước. Với nhiệm vụ phục quốc, phấn đấu vì nước vì dân, trại Trùng Quang chủ trương sản xuất, kinh doanh buôn bán để có tiền hoạt động, không “cướp bóc” “phiền nhiễu” nhân dân, chiến đấu vì “nhân nghĩa” Các anh em trong trại quan hệ với nhau bình đẳng, trại chủ, mưu chủ, chiến chủ do hội nghị bầu ra theo tinh thần dân chủ, đồng chí. Qua sự mô tả, thể hiện của Phan Bội Châu, có thể thấy trại Trùng Quang là hình bóng của một tổ chức yêu nước cứu nước đầu thế kỷ – như Duy Tân hội – với tư tưởng dân chủ, bình đẳng chứ không phải là một tổ hcức kháng chiến đời Trần. Đặc biệt, nếu như tính cách, vai trò của các nhân vật trại chủ, mưu chủ, chiến chủ không có gì mới, sắc nét, vẫn mang những nét tính cách “giống như minh chủ, quân sư và hổ tướng trong tiểu thuyết chương hồi cũ” thì trái lại nhóm nhân vật quần chúng yêu nước, căm thù giặc như : Chí, Triệu, Lực, Liên, Trinh lại sinh động, mang tính “đương đại” rõ nét hơn. Cô Chí, một trong những nhân vật nữ nổi bật, gây ấn tượng nhất được kể là một cô gái trẻ trung, xinh đẹp, thông minh con một chủ tiệm rượu. Viên Thừa tuyên sứ vì mê sắc đẹp của cô nhưng không được đáp ứng đã vu oan bắt cha cô tống ngục nhằm ép cô làm tì thiếp. Không muốn con gái rơi vào tay giặc, cha cô phải tự tử. Mối thù đó đã đẩy cô đến với trại Trùng Quang. Cũng như Chí, hoàn cảnh đau xót của các nhân vật Lực, Hạnh phầnnào nói lên cuộc sống khốn đốn, cơ cực của những người dân bé nhỏ dưới chế độ thực dân đương thời. Đến với trại Trùng Quang, tức đến với tổ chức yêu nước, cách mạng họ trở thành những người có” khí phách bất khuất”, quyết tâm phục thù, thành những người anh hùng vô danh. Dù tác giả đã có nhiều cố gắng trong việc mô tả, khắc họa nét riêng, nhưng tính cách nhân vật của tiểu thuyết Trùng Quang Tâm sử vẫn còn mang tính chất “ước lệ” “công thức”, chưa thật sự sinh động. Ta thấy, một mặt Phan Bội Châu bình thường hóa người anh hùng nhưng mặt khác ông lại thể hiện quan niệm đã là người anh hùng thì phải có những điều khác người và khác thường. Cô Chí xinh đẹp, cứng cỏi, chí cao được mô tả là “mắt sáng, mày sắc, nét mặt bừng bừng”. Người con gái trẻ này không ngần ngại “đập đầu vào đá” đến độ máu chảy đầm đìa để chứng tỏ cho mọi người thấy rõ quyết tâm của mình. Tính cách nhân vật Xí cũng được tô điểm theo phương pháp “khác thường hóa” như vậy. Từ nhỏ Xí đã thích đánh nhau, không thích đi học. Nghe kể về tội ác của giặc Ngô mặt cậu bé ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn
  13. Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 27 – “đỏ bừng, tóc dựng đứng” thét to “thề giết hết quân giặc”. Những chi tiết này ít nhiều cũng tạo được ấn tượng cho người đọc nhưng cũng khiến cho nhân vật có một vẻ gì đó xa lạ, cứng nhắc. Nhận xét về những cố gắng đổi mới trong quá trình viết truyện ngắn và tiểu thuyết của Phan Bội Châu, các tác giả văn học Việt Nam 1900- 1930 viết: “Thể hiện người anh hùng vào tác phẩm nghệ thuật, Phan gặp trở ngại lớn: quan niệm văn học cũ, không quen thuộc nghệ thuật viết truyện hiện đại. Ông sử dụng một cách rộng rãi kinh nghiệm viết văn cũ để viết truyện ngắn và tiểu thuyết. Do đó truyện ngắn và tiểu thuyết của Phan Bội Châu rất khác với truyện ngắn và tiểu thuyết hiện đại, mang dấu vết rõ rệt của quá trình cách tân nghệ thuật truyền thống để nói nội dung mới. Tất cả tinh thần táo bạo và sức sáng tạo của Phan Bội Châu là ở công việc cách tân nội dung và nghệ thuật đó”(1). 3. Giai đoạn “Ông già Bến Ngự” Từ cuối năm 1925 cho đến khi mất (1940), sống trong điều kiện bị quản thúc, theo dõi nhưng Phan Bội Châu vẫn làm thơ, phú, viết truyện, khảo cứu triết học cổ v.v Bị tách rời với các phong trào yêu nước, cách mạng, với quần chúng, càng ngày nhà chí sĩ càng bị thời thế bỏ qua. “Ông già Bến Ngự” không hiểu và không hình dung được tương lai, triển vọng của các phong trào đấu tranh cách mạng lúc bấy giờ, cũng không tán đồng các phương thức đấu tranh mới như biểu tình, rải truyền đơn, treo cờ Bởi thế, dù vẫn sáng tác thơ ca cổ động yêu nước cứu nước nhưng sức tác động và hiệu quả các sáng tác này của ông không còn như trước. Văn tế Phan Chu Trinh, Bài ca chúc tết thanh niên, Nam quốc dân tu tri, Nữ Quốc dân tu tri, chứa chan nhiệt tình yêu nước, thôi thúc cứu nước chứ không phải là những áng văn thơ nhằm tuyên truyền, cổ động cho các chủ trương, đường lối cứu nước như trước. Mặt khác, bị gạt ra khỏi những biến đổi mau chóng về văn hóa, tư tưởng thời đại, sự phát triển theo hướng hiện đại hóa của văn học, nhà văn nhà thơ Phan Bội Châu “viết rất nhiều thơ thất ngôn, và viết để gửi gắm tâm sự; đó là nét tiêu biểu cho con đường quay trở lại văn chương nhà Nho”(1) ở ông. Chúng ta có thể nghiên cứu sáng tác thơ văn của nhà chí sĩ giai đoạn cuối cùng theo các nội dung, mục đích chính như sau: a) Tiếp tục làm thơ văn cổ động yêu nước cứu nước Những tác phẩm văn thơ này đều được viết trong năm 1926, năm tinh thần nhà chí sĩ còn mạnh mẽ, nhiệt huyết yêu nước còn dâng cao. Thời gian và sự phong tỏa, bưng bít chưa làm nhà yêu nước trở nên lạc lõng giữa thời cuộc. Xét về mặt nội dung tư tưởng, với việc ca ngợi nồng nhiệt thân thế, sự nghiệp cùng các chủ trương, đường lối đấu tranh cách mạng của nhà yêu nước cấp tiến Phan Châu Trinh, Văn tế Phan Châu Trinh là một tác phẩm văn chương yêu (1) Trần Đình Hượu – Lê Chí Dũng, Sđd, tr. 162. (1) Trần Đình Hượu – Lê Chí Dũng, Sđd, tr. 162. ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn
  14. Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 28 – nước xuất sắc giai đoạn 1900-1930. Vốn có sở trường về phú, bài văn là sự gặp gỡ, thăng hoa đặc biệt giữa tầm cao tình cảm, tư tưởng người viết với tài năng nghệ thuật ngôn từ. Dù không thống nhất về đường lối đấu tranh phục quốc nhưng tình cảm yêu nước của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh là một. Nhưng sự khác nhau về chủ trương, đường lối đã không khiến cho Phan Bội Châu không hết lời ca ngợi Phan Châu Trinh. Đồng cảm sâu sắc với tâm hồn, tư tưởng nhà chí sĩ, Phan Bội Châu đã viết những dòng văn tế hào hùng, thiết tha hồi tưởng lại bước đường hoạt động hăng say, phương thức đấu tranh mới mẻ của nhà yêu nước nổi tiếng: Đội tiên phong đâu tá, gió duy tân từ Đông Hải thổi vào, Gương ngoại quốc kia là, sóng cách mạng bởi Châu Âu dồn tới. Dọc ngang trời đất, rực vẻ văn minh, Tức tối nước nhà, con đường hủ bại. Cá chậu chim lồng vơ vẩn thế, áng công danh thôi vứt lối tầm thường, Rồng mây cạp gió lạ lùng chi, miền thanh khí thử hô người trung ngoại. Cây tân học dặn dò đường tự chủ, Lư Thoa, Mạnh Đức so sánh người xưa, Mượn Đông du thăm hỏi bạn đồng tâm, Hương Cảng, Hoành tân lỏi len đường mới. Ba tấc lưỡi mà gươm mà súng, nhà cường quyền trông gió cũng gai ghê, Một ngòi lông vừa trống vừa chiêng, cửa dân chủ khêu đèn thêm rạng chói Sự “hủ bại” của nước nhà được khắc phục, trí, khí, lực lượng của dân ta ngày càng mạnh, đó là con đường giành lại độc lập, chủ quyền cho đất nước. Đó là tư tưởng cứu nước của Phan Châu Trinh, bài văn tế viết: Phỏng khiến: Trình độ dân ta cao, Trí thức dân ta giỏi. Khí dân ta ngày một dồi dào, Sức dân ta ngày càng cứng cỏi. Một tiếng xướng có muôn tiếng họa, thần tự do nên đủng đỉnh về đây, Bọn người Việt với thầy người Tây, ma chuyên chế dám dùng dằng ở mãi Khi bổng khi trầm, khi hùng hồn lúc lại lâm li, bi thiết, bài văn tế với dòng từ ngữ, hình ảnh lôi cuốn sống động, đã lần lượt đề cập đến những chặng đường đời khác nhau của nhà yêu nước lớn. Dường như Phan Bội Châu đã tìm thấy mình, thể hiện mình và cả thế hệ các nhà yêu nước đầu thế kỷ thông qua cuộc đời, sự nghiệp của Phan Châu Trinh. Có lẽ đó là một trong những nguyên nhân khiến bài văn tế của ông cảm động, thiết tha và hào hùng đến thế. Cũng trong năm 1926, với bầu nhiệt huyết còn dâng trào, nhà yêu nước đã “chúc tết” thanh niên bằng một bài thơ sôi nổi, trẻ trung. Ông giục giã, thôi thúc, cổ vũ thanh niên lên đường đấu tranh, tham gia đổi mới, tu dưỡng tinh thần, phấn đấu vì tương lai đất nước. Bài ca chúc tết thanh niên là sự gửi gắm, trao quyền, là niềm ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn
  15. Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 29 – tin tưởng của nhà chí sĩ đối với thế hệ trẻ. Bài thơ mở đầu bằng những từ ngữ thôi thúc, một ngày mới đang mở ra: Dậy! dậy! dậy! Bên án một tiếng gà vừa gáy, Chim trên cây liền ngỏ ý chào mừng Nhà chí sĩ dặn dò, nhắc nhở và khuyến khích thế hệ trẻ: Thưa các cô, các chị, lại các anh, Đời đã mới, người càng nên đổi mới. Mở mắt thấy rõ ràng tân vận hội, Xúm vai vào xốc vác cựu giang sơn. Đi cho êm, đứng cho vững, trụ cho gan, Đừng ham chơi, đừng ham mặc, ham ăn. Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa, Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ. Mới thế này là mới hỡi chư quân, Chữ rằng: nhật nhật tân, hựu nhật tân. Nam quốc dân tu tri là lời kêu gọi riêng cho các bậc nam nhi đứng lên tôi luyện khí phách để chiến thắng hoàn cảnh, cống hiến cho nước: Anh hùng tạo thế, Nhân định thắng thiên. Sắt chẳng chối rèn, Vàng không sợ xát. Người phụ nữ trong thời đại mới cũng phải tham gia vào sự nghiệp cứu nước, có tầm mắt và suy nghĩ lớn lao: Đức giống tiên Rồng, Con cả nhà đông, Là chồng thiếp đo,ù Nước Việt là họ, Thầy Nam là tên Văn thơ tuyên truyền, cổ động yêu nước là những sáng tác gắn liền máu thịt với các phong trào đấu tranh của quần chúng. Đứng ở vị trí tiên phong lại hòa mình với các tầng lớp nhân dân, thực sự đã có sự giao lưu ngấm ngầm nhưng chặt chẽ giữa tầm hồn, tư tưởng, tinh thần nhà chí sĩ Phan Bội Châu với đông đảo quần chúng yêu nước khi ông viết Việt Nam vong quốc sử, Hải ngoại huyết thư, Tuồng Trưng nữ vương, Trùng Quang Tâm Sử, Bài ca chúc tết thanh niên Bởi thế, ta có thể lý giải vì sao khi bị cô lập với quần chúng, với phong trào, ông già Bến Ngự khó còn có thể viết được những bài thơ, văn bốc lửa. ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn
  16. Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 30 – b) Thơ tâm sự Từ khi trở thành “ông già Bến Ngự”, cuộc sống mất tự do, cô đơn khiến nhà yêu nước làm nhiều thơ tâm sự. Con người với bao nhiều hùng tâm tráng chí giờ phải sống trong một không gian chật hẹp, lại luôn bị rình rập, theo dõi; đó là điều khiến tâm hồn nhà thơ yêu nước trở nên bế tắc, u ám Có những lúc dường như ông mất hết cả niềm tin đối với quốc dân, thấy ai cũng trở nên bàng quan với thế sự, ông than: Hồn Thục kêu hoài khan giọng cuốc, Cung cầm đàn mãi lảng tai trâu. (Sau lúc đau ngồi hát chơi) Buồn vì sự mê ngủ của quốc dân, mất hết hi vọng với thế hệ trẻ, nhà chí sĩ quay sang đả kích, chì chiết những kẻ tàn dân hại nước với một thái độ căm ghét, khinh bỉ không giấu giếm. Đó là sự thay đổi, tiến triển của nhãn quan ông, nhưng cũng có thể coi đó như là một sự sa sút về tinh thần, niềm tin của ông so với giai đoạn trước. Năm 1925, khi bị bắt, trước cái chết dường như đã cầm chắc, nhưng viết câu đối tuyệt mệnh, ông vẫn thể hiện hùng tâm tráng chí, vẫn dạt dào tin tưởng ở tương lai, triển vọng của các phong trào: Sống không trừ được mối lo thiên hạ, chết không rửa được thù ý trung; mối giận dằng dai, sông Cả, núi Hồng muôn thuở đó. Hý cuộc trước đã sắp đến tàn, vũ đài sau chính đang sắp dựng, thúc người sôi sục, gió Âu mưa Á tám phương dồn. Thời gian cùng sự bủa vây của bọn mật thám khiến tinh thần nhà chí sĩ mòn mỏi, nhuệ khí nhạt phai. Mười lăm năm sau, viết câu đối tự viếng mình trước khi mất, thật đau xót khi ta thấy dường như ông đã hoàn toàn rơi vào trạng thái bi quan đến hoảng loạn. Ông hỏi tất cả và ông than: Trời sao vầy? Chúa sao vầy? Chết âu cũng là không, chạnh tiếc trong lòng vùi Khổng – Mạnh. Nước như thế! Dân như thế! Đời còn gì đáng tiếc, thôi ra ngoài cuộc học Hy, Hoàng. Thơ “ông già Bến Ngự” thường nói đến cảnh đêm, với tiếng ếch kêu, dế hót, tiếng chó sủa Những đêm khó ngủ, nhà chí sĩ chỉ còn biết trò chuyện với đèn, tâm sự với bóng, thậm chí “Mình nói mình nghe khóc lại cười”. Không dễ gì từ bỏ lý tưởng, quên đi sự nghiệp, nhưng cũng bất lực trước hoàn cảnh, con người phơi phới “Muốn vượt bể đông theo cánh gió” hai mươi năm trước đây giờ trở nên ưu tư, trầm uất: Mướn chén rượu người xối cục uất, Bao nhiêu thi nhân là bọn cùng (Cổ phong) ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn
  17. Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 31 – Không được tự do hoạt động, đi đây đi đó, ông muốn thực hiện những chuyến du lịch về quá khứ: Toan mượn cánh trời qua bến Sở Thăm hồn ông Khuất tỉnh hay chưa? (Mồng 4 tháng 5) Trở lại với cuộc sống “thực tại quẩn quanh, tẻ nhạt ông nhiều lúc cũng muốn làm ông say, quên hết, thây kệ tất cả. Hình ảnh cây thông – người quân tử đạo Nho từng được Nguyễn Công Trứ tâm đắc, tán dương một lần nữa trở lại trong thơ Ông già bến Ngự: Giữa trời ta đứng ta reo nhỉ, Muôn cụm xanh xanh một cụ tùng. (Vô đề) Dường như với Phan Bội Châu, việc làm một cây thông hiên ngang, bất khuất trước nắng mưa, giá rét là điều hiển nhiên. Trong quãng thời gian hơn 20 năm bôn ba hải ngoại, hoạt động yêu nước cứu nước của ông, chỉ một lần duy nhất xảy ra sự lệch lạc nhất thời. Quốc dân đã thể tất cho nhà yêu nước điều đó. Đó cũng là một điều hợp lý – Suốt 15 năm dằng dặc làm “cột đá vững” giữa muôn trùng sóng vỗ, làm con người gang thép trơ trơ bất chấp lò thế lợi nung chì chảy thiếc” là một sự minh chứng cho tất cả những điều trên. Để bày tỏ tâm sự, Phan Bội Châu làm thơ cảm hoài, tức sự, đề vịnh với các thể thất ngôn, ngũ ngôn, tứ tuyệt, bát cú, cổ phong Đó là cách thức làm thơ quen thuộc của các nhà Nho. Với hoàn cảnh riêng và với cả những hạn chế khó vượt qua về quan niệm văn học, Phan Bội Châu đã phải đứng ngoài luồng phát triển mau chóng của văn học mới giai đoạn 1932-1945. Thế nhưng, về phương diện là một tác gia văn học, ông đã đi trọn chặng đường dành sẵn cho mình, cho cả thế hệ của ông với tất cả nỗ lực vươn lên, sáng tạo có thể có. W X VẤN ĐỀ ÔN TẬP 1. Hải ngoại huyết thư với nội dung và nghệ thuật tuyên truyền yêu nước, cứu nước của Phan Bội Châu. ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn
  18. Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 32 – CHƯƠNG IV: TẢN ĐÀ – NGUYỄN KHẮC HIẾU (1889 – 1939) Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu người làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây. Nơi đây là một vùng quê đẹp với ngọn Tản Viên hùng vĩ, sông Trà Giang nên thơ mà dữ dội. Thân sinh Tản Đà là ông Nguyễn Danh Kế, đậu cử nhân, từng làm tri phủ, án sát, ngự sử Thi sĩ Tản Đà là kết quả cuộc hôn nhân giữa quan tri phủ Nguyễn Danh Kế với cô đào nổi tiếng thanh sắc Nhữ Thị Nghiêm. Năm 1892, vừa mới lên ba, Tản Đà đã mồ côi cha, năm sau người mẹ cũng bỏ nhà trở lại cuộc đời của một kỹ nữ. Từ nhỏ nhà thơ sống trong sự chăm sóc, nuôi dạy của người cha cùng anh khác mẹ là Nguyễn Tái Tích. Ông Nguyễn Tái Tích đậu phó bảng, từng làm tri huyện Vụ Bản (Nam Định), đốc học Hà Nội. Việc học của Tản Đà cơ bản vẫn theo lối cũ (Hán học), lớn lên được học thêm chữ quốc ngữ, chữ Pháp cùng một số tri thức văn hóa mới. Tuy nhiên, ông cũng không phải là người may mắn trong khoa cử, hỏng kỳ thi Hương ở Nam Định năm 1912, cuộc đời ông rẽ ngoặt sang một hướng mới. Nguyễn Khắc Hiếu bắt đầu viết văn, làm thơ. Năm 1915, tác phẩm của ông lần đầu tiên được công bố trên Đông Dương tạp chí. Các tác phẩm chính gồm có: Khối tình con (thơ)(1916), Giấc mộng con (Truyện)(1916), Khối tình bản chính (Luận thuyết)(1918), Khối tình con II (thơ)(1918),Còn chơi (Thơ, văn xuôi)(1921), Tản Đà tùng văn (Thơ,văn xuôi)(1922), Nhàn tưởng (1928), Giấc mộng lớn (Truyện)(1929), Giấc mộng con II (Truyện)(1932), Thề non nước (Truyện)(1932) v.v Năm 1921, Tản Đà làm chủ bút báo Hữu Thanh, nhưng sau một thời gian ông lại xin từ chức. Năm 1922 lập Tản Đà thư điếm, sau phát triển thành Tản Đà thư cục. Từ năm 1926 đến 1933, ông loay hoay với việc xuất bản An Nam tạp chí. Sau nhiều lần đình bản rồi tái bản, năm 1933 tạp chí đình bản hẳn. Mộng ước thành lập riêng cho mình một bản báo nhằm góp phần vào công cuộc khai hóa văn minh nước nhà của ông đã không thành. Từ sau năm 1932 cho đến khi mất, Tản Đà gần như không còn sáng tác được nữa. Công chúng dần quên lãng một thi sĩ lừng danh một thời. Vì sinh kế và cũng nặng lòng với nghiệp văn, những năm cuối đời Tản Đà quảng cáo chữa văn, dịch Liêu trai, chú giải Truyện Kiều và xem số! Thi sĩ qua đời trong cô đơn, nghèo nàn tại ngôi nhà ở phố Ngã Tư Sở, Hà Nội vào ngày 7/6/1939. Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu là một văn thi sĩ hàng đầu của văn học buổi giao thời. Ta biết, cuộc chuyển giao hai thời đại văn học diễn ra gấp rút trong vòng ba mươi năm đầu thế kỷ. Nền văn học trung đại sau một thời gian dài (9 thế kỷ) nảy nở, phát triển đã đến hồi kết thúc, thời đại mới với sự giao lưu văn hóa Đông – Tây bắt đầu khai sinh cho nền văn học mới. Với tất cả vốn liếng văn cũ và mới, với ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn
  19. Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 33 – một “thiên bẩm” thơ ca, Tản Đà đã sống và viết trọn trong buổi giao thời của văn học, là thi sĩ hàng đầu của cuộc chuyển giao lịch sử này. Cuộc đời một văn thi sĩ của ông thật lắm vinh quang nhưng cũng nhiều chua xót, được công chúng tôn sùng rồi lại xa cách. Nhưng khi thi sĩ trút hơi thở cuối cùng, đóng góp và vị trí của ông lại nhanh chóng được nhìn nhận và khẳng định. [ [ [ 1. Tản Đà – Nhà văn Những năm đầu thế kỷ XX, Tản Đà là một trong những cây bút đầu tiên của văn xuôi quốc ngữ, tác phẩm của ông được xem là “hoa trái đầu mùa” của văn mới quốc ngữ. Các bài tản văn của ông, một dạng tùy bút, đơn giản là ghi chép lại những suy nghĩ vẩn vơ, những nỗi sầu khó truy nguyên cớ. Trong bài Giải sầu, ông viết: “Từ độ sầu đến nay, ngày cũng có lúc sầu, đêm cũng có lúc sầu, mưa dầm lá rụng mà sầu, trăng trong gió mát mà sầu, đông người cười nói mà sầu, nằm vắt tay lên trán mà sầu, đem thơ văn ngâm vịnh mà càng sầu. Sầu không có mối chém sao cho đứt, sầu không có khối đập sao cho tan”. Có khi đề tài tản văn của Tản Đà là một cảnh huống rất thực, đó là sự túng bấn, nợ nần của chính văn sĩ Khác với các bài tản văn, truyện Thề non nước đã bắt đầu mang hình hài của một truyện ngắn mới. Trong thiên truyện này, Vân Anh là một kỹ nữ nhan sắc, biết chữ Nho, biết làm thơ, tính tình thùy mị, dịu dàng, chỉ vì “cửa nhà sa sút mà trụy lạc vào xóm Bình Khang”. Nhân vật người khách thương vô danh trước tình cảnh đáng thương của nàng đã cư xử một cách lịch sự, hơn nữa có phần trân trọng, cảm mến. Hai người cùng ngắm trăng, chấp bút đề thơ, và dường như một thứ tình cảm mơ hồ, chưa rõ rệt nhưng thật đặc biệt, khác lạ đã nảy nở giữa họ. Truyện kết thúc bất ngờ với sự ra đi đột ngột của nhân vật người khách thương (được xem là phân thân của tác giả). Giấc mộng con – là cuốn tiểu thuyết viễn tưởng nhưng nửa lại mang tính tự truyện. Văn sĩ Tản Đà trong cuốn truyện này đã tường thuật lại những cuộc du ngoạn tưởng tượng kỳ thú của mình khắp các nước Á, Âu, Phi, Mỹ và cuối cùng là cuộc hành trình lên xứ trời. Nơi đây, Nguyễn Khắc Hiếu, nhân vật của tác phẩm đích thân gặp gỡ, trò chuyện với các người đẹp thiên cổ Dương Quí Phi, Tây Thi, với cả chú Cuội, Khổng Tử, Nguyễn Trãi, Lư Thoa, với Chu Kiều Oanh bạn gái cũ ở hạ giới Hơn thế, ông còn đi chợ trời, dự tiệc rượu ở Bồng Lai v.v Theo các nhà nghiên cứu, với đặc điểm là cuốn tiểu thuyết viễn tưởng, Giấc mộng con đã đáp ứng kịp thời lòng ham học, ham hiểu biết những xứ lạ phương xa của thế hệ trẻ lúc bấy giờ. Trong tác phẩm này một điều cần lưu ý là mối quan hệ giữa nhân vật Nguyễn Khắc Hiếu với các nữ nhân vật. Torng chuyến lên thiên đình, Nguyễn Khắc Hiếu có ngồi uống rượu với các người đẹp thiên cổ Quí Phi, Tây Thi. Hơn nữa, còn đi chơi riêng với từng người. Văn sĩ kể: “Mình riêng nghĩ trong bụng như ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn
  20. Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 34 – cuộc chơi hôm nay có lẽ thanh thú hơn những lúc chơi vui của vua Minh Hoàng ở Trường An và vua Phù Sai ở Ngô Cung, mà lại thú không có ai bình luận. Sau đấy rồi thành ra mình cứ liên miên ở chỗ Bồng Lai, có khi cùng các người ngồi thuyền quanh non câu cá chơi, có khi đi riêng với Tây Thi tới trên sông Ngân Hà cùng trông xuống sơn hà cố quốc ”. Ở hạ giới, Nguyễn Khắc Hiếu có một người bạn gái tên là Chu Kiều Oanh. Nàng là một người con gái đẹp, có học thức, là người bạn gái mà Nguyễn Khắc Hiếu có thể chuyện trò, tâm sự. Hai người thường gặp nhau, nói chuyện, có lúc đưa nhau đi chơi vườn hoa. Có những cuộc gặp gỡ của họ “kéo dài liên miên từ chập tối đến bốn giờ sáng”. Nhận xét về những “giấc mơ yêu đương” của Tản Đà, các tác giả cuốn Văn học Việt Nam 1900-1930 viết: “Trước sự đổi thay của thời đại, nhà Nho Tản Đà hay nói về tình yêu, đem bản thân ra làm nhân vật si tình, bộc lộ những khát khao, say mê của tình yêu. Tuy tình yêu ở ông có phá lễ giáo, có mang màu sắc cá nhân tư sản, vẫn không ra khỏi khuôn khổ tài tử – giai nhân. Nó không đưa đến chống đối lễ giáo phong kiến và cũng không đòi hỏi giải phóng phụ nữ”(1). Trong các bài tản văn cũng như truyện ngắn,tiểu thuyết của Tản Đà, tuy câu văn chưa gọn, sắc, còn thoát thai từ ngôn ngữ thơ, phú cũ nhưng đó lại là những câu văn quốc ngữ điển hình của giai đoạn giao thời. Tản văn, truyện ngắn và tiểu thuyết của Tản Đà thể hiện rõ sự nỗ lực tiếp cận thời đại mới, văn học mới của ông, của cả một thế hệ cầm bút lúc bấy giờ. Từ đề tài, nội dung các tác phẩm cho đến ngôn ngữ, sự mày mò đổi mới, sáng tạo này đã để lại dấu ấn rõ nét. 2. Tản Đà – Nhà thơ Sống trong giai đoạn “Gió Âu mưa Á” lẫn lộn của nước nhà, Tản Đà với “Thân thế xem thua chú hát chèo” (Lo văn ế) lấy thơ ca làm phương tiện gắn bó với cuộc đời. Ông sống bằng nghiệp “bán văn buôn chữ” nhưng hơn thế với ông thơ là lẽ sống: “Trời đất sinh ra rượu với thơ, Không thơ không rượu sống như thừa ” (Ngày xuân thơ rượu). Với thơ và bằng thơ, Tản Đà bộc lộ con người ông, con người đa sầu đa cảm trước cuộc đời, con người sống với tất cả sự nhạy cảm tâm hồn trước thời đại. + Cảm thân thế Con đường công danh – gắn với việc học hành, thi cử của Tản Đà giống như Tú Xương trước đó đã không diễn ra suôn sẻ. Dường như cuộc đời đã phân nhiệm cho ông vai trò một thi sĩ, và thi sĩ Tản Đà “Con tằm rút ruột lá dâu xanh” đã sống, đã cảm, đã “rút giả” cho đời những “sợi tơ vàng” của tâm hồn ông. Thơ Tản Đà trước hết là những lời “tự sự” về chính cuộc đời ông, thân thế ông. Tản Đà bước vào đời với một sự thất bại, nhưng sự thất bại bất ngờ này khiến ông càng ngông, càng tự thị: (1) Trần Đình Hượu – Lê Chí Dũng , Văn học Việt Nam 1900-1930, NXB Giáo dục 1996., tr. 227. ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn
  21. Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 35 – Bởi ông hay quá ông không đỗ, Không đỗ ông càng tốt bộ ngông (Tự trào) Thực ra thì “ngông”, “tự thị” là những đặc điểm tính cách chưa phản ánh được bao nhiêu con người và thân thế Tản Đà. Đó chỉ là một sự “phản ứng” của ông trước cuộc đời bất như ý. Ta sẽ thấy văn sĩ Tản Đà chân thành hơn khi ông thuật bút: Mười mấy năm xưa ngọn bút lông, Xác xơ chẳng bợn chút hơi đồng. Bây giờ anh đổi lông ra sắt, Cách kiếm ăn đời có nhỏ không? (Thuật bút) Để có cách “kiếm ăn đời”, tồn tại được với đời, thi sĩ phải suy tính, xoay sở, phải “đổi lông ra sắt” phải bén “ chút hơi đồng”! Gắn mình với “văn chương bán phố phường”, thân thế văn sĩ là “thân thế con tằm” Dâu xanh rút giả sợi tơ vàng, Thân thế con tằm những vấn vương. Tớ nghĩ thân tằm như tớ nhỉ! Tơ tằm như tớ mới văn chương (Lo văn ế) Không bóng bẩy, thi sĩ tự họa chân dung mình với nghiệp “bán văn buôn chữ kiếm tiền tiêu”: Nằm meo cho tớ nghĩ ra văn, In bán ra đời cách kiếm ăn. Tiền kiếm ăn xong, nằm lại nghĩ, Con tằm rút ruột lá dâu xanh (Lo văn ế) Lo văn ế là một lời than, một thiên “tự sự” về cuộc sống quẩn quanh, bế tắc, nghèo túng và có phần vô vị của chính văn thi sĩ. Kiếp sống của ông như ông nói là “kiếp con quay”: Đời sinh ra tớ kiếp con quay, Quay tít mù xanh nghĩ cũng hay. (Kiếp con quay) Nhưng cốt cách Tản Đà là của một thi sĩ, chuyện cơm áo gạo tiền không “ghì sát đất” tâm hồn ông. Ông thường hay mơ và suy tưởng, tâm hồn ông thường ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn
  22. Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 36 – phiêu diêu Có lúc ông say sưa nói chuyện và thề thốt với ngay chính cái bóng của mình như với một người tri kỉ: Cõi đời tự cất tiếng oe, Đã bên ngọn lửa lập lòe có nhau. Tương tri thuở ấy về sau, Đời ta một bước cùng nhau chẳng rời. Trăm năm cho đến cõi già, Còn ta còn bóng còn là có nhau. Trần ai mặc những ai đâu, Ai thương tử biệt ai sầu sinh li (Nói chuyện với bóng) Tản Đà còn là thi sĩ duy nhất đã trò chuyện lâm li với ngay chính cái “ảnh” của mình: Người đâu? Cũng giống đa tình, Ngỡ là ai, lại là mình với ta (Nói chuyện với ảnh) Giữa cuộc đời, Tản Đà luôn cảm thấy cô đơn, mất phương hướng, không tri âm, tri kỷ. Ông không tự trách mình, dằn vặt mình như Nguyễn Khuyến, không quằn quại như Tú Xương mà buồn cho mình, sầu cho thân thế mình. + Cảm thời thế Nỗi cô đơn, cảm giác không tri âm, tri kỷ của Tản Đà sẽ được soi rọi khi độc giả thơ ông tiếp cận với sự nhạy cảm của tâm hồn ông trước thời thế. Vốn là một nhà Nho, một con người đa cảm, đáy lòng thi sĩ tiềm ẩn nỗi xót xa trước hiện trạng của đất nước. Và hơn thế, cảm nhận về thân thế thi sĩ giữa cuộc đời rõ ràng là chịu sự tác động của nhận thức về tình trạng vong quốc nặng nề lúc bấy giờ. Một cách không trực diện, và với một giọng thơ lạ, vừa xót xa vừa bỡn cợt, bài Vịnh bức địa đồ rách hé lộ một góc lòng sâu kín của ông đối với giang sơn đất nước: Nọ bức dư đồ thử đứng coi, Sông sông núi núi khéo bia cười. Biết bao lúc mới công vờn vẽ, Sao đến bây giờ rách tả tơi. Ấy trước ông cha mua để lại, Mà sau con cháu lấy làm chơi Khuynh hướng thời thế của thi sĩ dù rất kín đáo vẫn thấp thoáng ẩn hiện trong bài Hát xẩm: Ngoảnh trông lên anh đếch thấy có ra gì, ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn
  23. Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 37 – Ai rằng trăng sáng anh vẫn thấy tối sì cái bóng đen đen Tản Đà dễ dàng bộc lộ thái độ đối với dân với nước hơn trước những tệ nạn và thảm cảnh xã hội. Đó là cảnh quan lại đè nén, bóc lột dân, cảnh người dân lâm vào tình trạng cùng quẫn vì hạn hán, lụt lội, mất mùa. Ông làm thơ trào phúng đả kích tên tri huyện này ăn tiền dân, lên án thói đục khoét, đểu giả của một viên tuần phủ nọ v.v Tuy nhiên, các bài thơ Thư đưa người tình nhân có quen biết, Thư lại trách người tình nhân không quen biết, Thề non nước mới là những bài thơ đặc sắc bộc lộ “khuynh hướng thời thế”, tấm lòng của thi sĩ đối với non sông đất nước. Với giọng thơ tha thiết, như trai gái đang giận hờn, trách móc, đang thề hẹn sắt son, nhớ nhung quyến luyến nhau trong chia li xa cách thi sĩ đã thổ lộ can tràng với giang sơn đất nước. Xót xa trước cảnh “Non nước thề nguyền xưa đã lỗi, Ân tình nay có bốn xu thôi”, thi sĩ khi thẫn thờ:"Gấp tờ giấy niêm phong hạt lệ, Nhờ cánh tem bay đệ cung mây. Ái ân thôi có ngần này, Thề nguyền non nước đợi ngày tái sinh”(Thư đưa người tình nhân có quen biết), khi “Giật mình chợt tưởng như ai gọi mình” trước cảnh “nước mây man mác”, “non nước mịt mờ” (Thư lại trách người tình nhân không quen biết). Không như Nguyễn Khuyến chua chát trước cảnh dân chúng hồ hởi trong ngày hội Tây, Tú Xương thẫn thờ trước sự băng hoại của “sĩ khí” nước nhà, thi sĩ núi Tản như chìm trong sầu thương bát ngát trước vận mệnh non sông: Trông mây nước bốn bề lạnh ngắt, Ngắm non sông tám mặt sầu treo. Đường xa gánh nặng bóng chiều, Cơn giông biển lớn mái chèo thuyền nan. Nghĩ thân thế mềm gan lắm lúc, Nhìn giang sơn bạc tóc như chơi (Thư lại trách người tình nhân không quen biết) Như một sự láy lại lời “thề nguyền non nước” trong những bức thư tình gửi người “tình nhân không quen biết” – Thề non nước là áng thơ “niêm phong” tấm lòng đằm thắm, thiết tha với non sông đất nước. Vẫn là những day dứt, những lời than thở về sự chia li cách trở, vẫn là niềm trông đợi, mong chờ đến héo hon bài thơ về hình thức là một lời nhắn gửi, thề nguyền chung thủy của một tình yêu đằm thắm, thiết tha giữa “non” với “nước”: Nước non nặng một lời thề, Nước đi đi mãi không về cùng non. Nhớ lời nguyện nước thề non, Nước đi chưa lại non còn đứng trông. Non cao những ngóng cùng trông, Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày (Thề non nước) ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn
  24. Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 38 – Vượt lên tất cả là lời khẳng định về một tình yêu sắt son bất chấp tất cả mọi trở ngại: Dù cho sông cạn đá mòn, Còn non còn nước hãy còn thề xưa! (Thề non nước) Trong tình hình chính trị, xã hội đất nước rối ren, bế tắc ở những năm 20 của thế kỷ XX, “phương thức bóng gió xa xôi”, “không phải riêng của Tản Đà mà chung cho cả một trào lưu” (Lê Trí Viễn). Là một thi sĩ nổi tiếng phiêu lãng, suốt đời “Túi thơ đeo khắp ba kỳ” nhưng Tản Đà cũng là con người sống với tất cả niềm yêu ghét trước cuộc đời. Sự gắn bó với thời thế của thi nhân, của công dân nước Việt Tản Đà đã chưng cất nên ở thi sĩ những áng thơ bất hủ. + Cảm nhân thế Thân thế, thời thế với Tản Đà đều bất như ý, ông lại là con người đa sầu, đa cảm. Có lẽ bởi thế mà ông thường hay suy tư triết lý về nhân thế, những suy tư, triết lý đượm màu bi quan. Với ông “Đời người như giấc chiêm bao, Nghìn xưa đã mấy ai nào trăm năm” (Thơ rượu), thậm chí con người có sống được trăm năm đi nữa thì cũng là ngắn ngủi, thoáng qua: Trăm năm nghĩ đời người có mấy v.v Đời là “đáng chán” và với thi sĩ “Ngẫm nghìn xưa: Ai tài hoa, ai tiết liệt, ai đài trang, Cùng một giấc mơ màng trong vũ trụ” (Đời đáng chán). Sống với những triết lý bi quan, yếm thế Tản Đà dường như coi nhẹ tất cả, công danh, sự nghiệp với ông đều vô nghĩa: Công danh hai chữ mùi men nhạt, Sự nghiệp trăm năm nét mực mờ (Ngày xuân thơ rượu) Vì “Đời đáng chán” đời người như “giấc chiêm bao” nên thi sĩ thường “tiếc mộng”, “nhớ mộng”, hơn thế với ông: Nghĩ đời lắm lúc không bằng mộng, Nhớ mộng bao nhiêu lại ngán đời. (Nhớ mộng) Ta biết, Tản Đà đã sống trong thời kỳ ngột ngạt, bế tắc của lịch sử đất nước. Kiếp sống của ông, một văn thi sĩ trong thời đại mới như ông nói cũng như là “kiếp con quay”, có lẽ đó là điều khiến tâm hồn thi sĩ luôn chứa chất nỗi sầu, sự bi quan, yếm thế. Thi sĩ luôn nhìn và cảm nhận cuộc sống con người trong trạng huống dở dang, trắc trở. Chỉ một nấm mồ hoang lẻ loi bên đường thôi cũng đủ dấy lên trong ông bao niềm thương cảm đối với con người dưới mộ với kiếp người ngắn ngủi: Ngoài xe trơ một đống đất đỏ, Hang hốc đùn lên đám cỏ gà. ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn
  25. Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 39 – Người nằm dưới mả ai ai đó, Biết có quê đây hay vùng xa (Thăm mả cũ bên đường) Với tấm lòng trắc ẩn sâu sa, Tản Đà tưởng tượng, đưa ra giả thuyết về những cái chết bất hạnh, tấn bi kịch cuộc đời của những “người nằm dưới mộ”. Đó có thể là “kẻ cung đao” “kẻ văn chương”, càng rất có thể là “khách hồng nhan” “khách phong lưu”, “bậc tài danh” v.v Tản Đà thương cho “người nằm dưới mộ”, cho kiếp người đầy những rủi ro, bất trắc Thực ra, Tản Đà không chỉ thương cảm cho “kẻ cung đao” “khách hồng nhan” hay “bậc tài danh” vô danh mà ông thương cho số phận con người. Với ông, cuộc đời là phù du, ngắn ngủi, vô nghĩa, rút lại “Trăm năm ai lại biết ai mà”. Cái nhìn cuộc đời của Tản Đà một lần nữa tái xuất hiện trong bài “Cảm thu tiễn thu”. Trong mắt thi sĩ, mùa thu là sương rơi, lá rụng, là tàn tạ, biệt li v.v Sự úa tàn của thiên nhiên khiến con người đa sầu đa cảm này liên tưởng đến sự rủi ro, ngang trái của cuộc đời, số phận con người. Cảm thân thế hay triết lý nhân sinh của Tản Đà thực ra không phải là mới. “Ông đi con đường của các nhà Nho tài tử xưa: hướng về triết lý Trang Chu, coi đời là mộng, là ảo hóa, là bụi bặm, ca tụng lối sống “nhân sinh thiết chí” “tìm cách thây kệ cuộc đời”. Nhưng đồng thời, điều mà các nhà nghiên cứu ông nhận thấy là: “Triết lý của ông dẫn đến thái độ ham sống, thích chơi, say sưa hưởng thụ thú vui: thú ăn ngon, thú chơi xa, thú thanh sắc và nhiều nhất là thú thơ, rượu”(1). Đó là cái mới của Tản Đà hay nói đúng hơn là cái riêng của ông. W X VẤN ĐỀ ÔN TẬP 1. Những suy tư, xúc cảm về thân thế, thời thế và nhân thế của Tản Đà trong thơ? * Đọc thêm về truyện ngắn và tiểu thuyết mới trong sách Văn học Việt Nam 1900- 1930, Trần Đình Hượu – Lê Chí Dũng, NXB Giáo dục 1996. ° (1) Trần Đình Hượu – Lê Chí Dũng, Sđd, tr. 250-251. ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn