Giáo trình Xã hội học đại cương - Hoàng Quốc Tuấn (Phần 2)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Xã hội học đại cương - Hoàng Quốc Tuấn (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_xa_hoi_hoc_dai_cuong_hoang_quoc_tuan_phan_2.pdf
Nội dung text: Giáo trình Xã hội học đại cương - Hoàng Quốc Tuấn (Phần 2)
- Chương 5 TỔ CHỨC XÃ HỘI VÀ THIẾT CHẾ XÃ HỘI 1. TỔ CHỨC XÃ HỘI 1.1. Khái niệm tổ chức xã hội Tổ chức xã hội có thể được hiểu, hoặc là một thành tố của cơ cấu xã hội, hoặc là một dạng hoạt động, hay mức độ trật tự, hài hoà giữa các thành phần của một chỉnh thể xã hội. Theo nghĩa rộng, tổ chức xã hội chỉ bất kỳ tổ chức nào trong xã hội, còn theo nghĩa hẹp, tổ chức xã hội chỉ là một tiểu hệ thống xã hội trong một tổ chức xã hội nào đó. Trong xã hội học, khái niệm tổ chức xã hội được dùng chủ yếu với nghĩa là một thành tố của cơ cấu xã hội. Với ý nghĩa này tổ chức xã hội chính là một hệ thống các quan hệ, tập hợp liên kết các cá nhân để đạt được một mục đích nhất định. Như vậy, một tập hợp các cá nhân nhưng không kèm theo quan hệ xã hội thì chưa phải là một tổ chức xã hội. Tổ chức xã hội là một dạng nhóm thứ cấp, tồn tại khá phổ biến, nhưng không phải mọi nhóm thứ cấp đều là tổ chức xã hội. Một tổ chức xã hội thường có các dấu hiệu sau: - Là một nhóm xã hội được lập ra một cách có chủ định, các thành viên trong nhóm xã hội ấy đều ý thức được rằng sự tồn tại của nó là để đạt một mục đích nhất định. - Đã là một tổ chức xã hội bao giờ cũng phải có sự thể hiện của các quan hệ quyền lực xã hội (quan hệ lãnh đạo - phục tùng, theo thứ bậc trên - dưới, cao - thấp). Trong tổ chức xã hội, các nhân thuộc nấc thang quyền lực cao thường có khả năng điều chỉnh hành vi, thái độ của người khác thuộc nấc thang quyền lực thấp hơn. - Tổ chức xã hội là một tập hợp các vị thế và vai trò, mỗi thành viên của tổ chức xã hội đều có vị thế xác định, nên bao giờ họ cũng được trao những trách nhiệm và quyền hạn nhất định. Đồng thời tổ chức xã hội cũng đặt ra cho các thành viên một tập hợp những hành vi được phép làm và những hàng vi không được phép làm. - Các thành viên trong tổ chức xã hội khi thực hiện vai trò của mình đều cố gắng đáp ứng sự mong đợi của tổ chức, nếu không như vậy thì sẽ dẫn đến sự rối loạn trong hoạt động. Mọi tổ chức xã hội đều có những quy tắc để điều chỉnh quan hệ giữa các vai trò. - Trong một tổ chức xã hội, phần lớn các mục đích và các mối quan hệ của tổ chức đều được chính thức hoá và công khai hoá. 1.2. Phân loại tổ chức xã hội 1.2.1. Nhóm quyền uy - Nội dung khái niệm nhóm quyền uy
- Nhóm quyền uy là một dạng nhóm xã hội đặc biệt, vừa có những đặc điểm của một tổ chức xã hội, vừa có những đặc điểm cơ cấu của một nhóm sơ cấp. Nhóm này do một thủ lĩnh lãnh đạo, dẫn dắt. Thủ lĩnh là người đầy uy quyền và có khả năng thu hút, lôi cuốn quần chúng một cách đặc biệt. Thủ lĩnh được coi là người có những năng lực siêu nhân và khác thường, được các thành viên trong nhóm tôn sùng, dâng hiến toàn bộ sức lực của mình. (ví dụ như, Thích Ca Mâu Ni, Jêsu Christ, Ahla và các tín đồ của họ). - Đặc điểm của nhóm quyền uy - Trong nhóm quyền uy các mối quan hệ thường có những biểu hiện gần giống với hiện tượng chính trị sùng bái cá nhân. - Nhóm quyền uy thường dễ bị biến đổi và phụ thuộc nhiều vào thủ lĩnh, toàn bộ quyền lực của tổ chức đều tập trung trong tay thủ lĩnh. Thủ lĩnh hoặc những người được thủ lĩnh uỷ quyền tự quyết định giải quyết mọi vấn đề mà không cần tham khảo ý kiến của các thành viên. - Vị thế và vai trò của các thành viên trong nhóm quyền uy không được xác lập theo những nguyên tắc khách quan, mà tuỳ theo mối quan hệ với thủ lĩnh. - Sự ràng buộc giữa thủ lĩnh với các thành viên trong nhóm quyền uy là sự ràng buộc cá nhân, do vậy rất kém bền vững, sự thăng tiến hay cách chức của các thành viên là do thủ lĩnh quyết định không theo một quy định nào cả. Luật lệ của nhóm quyền uy là do thủ lĩnh đề ra. - Nhóm quyền uy hoạt động được là nhờ vào sự đóng góp của các thành viên dưới danh nghĩa bổn phận. - Về bản chất, nhóm quyền uy là một dạng tổ chức sơ khai, phải qua một quá trình phát triển mới có thể trở thành các dạng như tổ chức xã hội. 1.2.2. Hiệp hội tự nguyện - Định nghĩa Hiệp hội tự nguyện là những tổ chức không thể thiếu được trong đời sống xã hội, nó tồn tại phổ biến trên toàn thế giới và trong mỗi quốc gia. Các hình thức biểu hiện của Hiệp hội tự nguyện rất phong phú và đa dạng, chẳng hạn như: Tổ chức tôn giáo, hiệp hội nghề nghiệp, hội từ thiện, hội sinh vật cảnh Sự tồn tại và hoạt động của các hiệp hội tự nguyện đã một phần đáp ứng được nhu cầu tổ chức hoạt động sống của các thành viên trong xã hội. Đồng thời vẫn đảm bảo sự tôn trọng tự do cá nhân của họ. - Đặc điểm của Hiệp hội tự nguyện + Mỗi hiệp hội tự nguyện đều có mục đích chung là nhằm đáp ứng nhu cầu và lợi ích của các thành viên.
- + Việc tham gia vào hội là hoàn toàn tự nguyện, tất cả mọi người đều có thể gia nhập hoặc ra khỏi tổ chức hiệp hội. Vai trò của thủ lĩnh ít ảnh hưởng đến các thành viên. + Các hiệp hội, tổ chức tự nguyện không có liên hệ trực thuộc vào các cơ quan chính quyền từ địa phương đến trung ương. 1.2.3. Tổ chức khu biệt - Khái niệm và đặc trưng Tổ chức khu biệt hay còn gọi là tổ chức biệt lập, là một dạng tổ chức xã hội khác biệt với tổ chức hiệp hội, tổ chức tự nguyện. E. Goffman là người đầu tiên sử dụng khái niệm này vào năm 1961. Tổ chức khu biệt được lập ra để đáp ứng nhu cầu phục vụ cho những lợi ích của nhà nước, của tôn giáo và của xã hội nói chung. Đặc trưng cơ bản nhất của tổ chức khu biệt là các thành viên của nó bị cô lập, tách biệt ra khỏi xã hội, phần lớn không phải do tự nguyện mà chủ yếu là do cưỡng chế, cưỡng bức (điển hình nhất là nhà tù, hay nơi tập trung giam giữ cải tạo). Xã hội và các tổ chức khu biệt đặt ra rất nhiều luật lệ, quy tắc để duy trì trật tự, khiến cho các thành viên phải phụ thuộc lẫn nhau. Trong các tổ chức khu biệt thường có cơ cấu quan hệ phân hoá trên - dưới rất chặt chẽ. - Các loại tổ chức khu biệt + Loại tổ chức mang tính nhân đạo xã hội, dành cho những người không có hoặc mất khả năng tự chăm sóc bản thân như: người già cả, bệnh tật, mù loà, v.v (bệnh viện, nhà dưỡng lão, cô nhi viện ) + Loại tổ chức mang tính an ninh và luật pháp, lập ra để giam giữ, cách ly những phần tử được coi là nguy hiểm đối với xã hội, theo những quy định của luật pháp nhà nước và xã hội (nhà tù, trại cải tạo, trại tập trung). + Loại tổ chức mang tính bảo vệ và phát triển, dành cho những người tham gia thực hiện các nhiệm vụ đặc biệt vì lợi ích của cộng đồng và xã hội như: bảo vệ tổ quốc, huấn luyện, dạy học (doanh trại quân đội, tàu chiến, pháo đài quân sự ) + Loại tổ chức mang tính tôn giáo, dành cho những người muốn xa lánh hay rút lui khỏi đời sống xã hội (như đi tu trong các chùa Phật, các trường dòng hay các tu viện của Kitô giáo ). Sự gia nhập này là tự nguyện, nhưng các thành viên của nó cũng bị chi phối bởi áp lực các quy tắc, luật lệ nghiêm khắc của tổ chức. - Tính chất, đặc điểm của tổ chức khu biệt + Các thành viên khi mới gia nhập các tổ chức khu biệt đều phải chịu đựng sự tách biệt khỏi thế giới bên ngoài, thế giới xung quanh. Nhờ có những biện pháp, thủ tục nghiêm khắc và tinh vi mà các cá nhân mới gia nhập vào tổ chức biệt lập phải
- nhanh chóng thích nghi với lối sống trong tổ chức, quên dần đi những thói quen, lối sống mà họ đã có từ trước. + Các thành viên trong tổ chức khu biệt cùng có chung môi trường và điều kiện sống như nhau nên có thể tạo ra những mối liên kết chặt chẽ, một tiểu văn hoá (có thể là một tiểu văn hoá chống đối/phản văn hoá). + Xu hướng chung hiện nay ở trên toàn thế giới là tính chất của các tổ chức khu biệt đang có sự thay đổi, mức độ biệt lập ngày càng giảm đi. Các cá nhân sống trong các tổ chức biệt lập được phép tiếp xúc với thế giới bên ngoài qua những tương tác trực tiếp và gián tiếp. 1.2.4. Bộ máy quan liêu và tổ chức xã hội hiện đại - Vai trò và ý nghĩa của bộ máy quan liêu Bộ máy quan liêu là một dạng tổ chức xã hội mà hoạt động của nó được phân chia thành các vai trò, các vai trò này được xác định bởi những quy tắc, thủ tục và được sắp xếp vào một thang bậc quyền lực. Các tổ chức xã hội theo mô hình bộ máy quan liêu có ý nghĩa tích cực trong quá trình tổ chức và vận hành xã hội, cấu trúc của nó muốn hợp lý hoá cách tổ chức hoạt động theo xu hướng của xã hội hiện đại. Tức là, chuyển từ cách thực hiện công việc tự phát, thiếu kế hoạch, định hướng theo giá trị truyền thống sang cách làm việc có hệ thống, được tổ chức theo quy tắc, luật lệ, định hướng theo mục đích và duy lý. Theo Weber, bộ máy quan liêu có các đặc trưng cơ bản như sau: + Sự phân công lao động được thực hiện theo quy định của luật pháp hoặc những điều khoản văn bản có tính pháp lý. + Việc điều hành bộ máy được thực hiện theo mệnh lệnh từ trên xuống dưới với nhiều cấp độ khác nhau. + Có một hệ thống văn phòng, hành chính công khai. Có hồ sơ tài tiệu mô tả và lưu giữ nội dung công việc của tổ chức. + Có những quy trình đào tạo, bồi dưỡng chính thức về nghiệp vụ chuyên môn của công việc trong tổ chức cho nhân viên. + Những thành viên lao động trong bộ máy cống hiến toàn bộ nhiệt tình và sức lực của mình cho tổ chức và coi đó như là một sự nghiệp, một nghề nghiệp. + Có quy định một cách cụ thể, rõ ràng giờ giấc làm việc và nghỉ ngơi để định hướng công việc cho các thành viên + Tạo ra được sự trung thành, tận tuỵ của nhân viên đối với tổ chức. Những đặc điểm nói trên của bộ máy quan liêu giúp cho tổ chức có thể kiểm soát và điều phối hành động của các thành viên. Đây là yếu tố then chốt để tạo ra hiệu quả và năng suất vượt trội của tổ chức quan liêu so với bất kỳ một loại tổ chức nào khác.
- Tuy nhiên, bộ máy quan liêu cũng tạo ra một sản phẩm đặc trưng, mà Marx gọi là “sự tha hoá”. - Sự ra đời, tồn tại và phát triển của bộ máy quan liêu Bộ máy quan liêu không phải là sản phẩm của xã hội hiện đại, mà nó đã từng tồn tại trong các xã hội cổ đại ở Ai Cập, Trung Quốc, La Mã Tuy nhiên, phải đến khi cách mạng công nghiệp bùng nổ và phát triển, thì các bộ máy quan liêu mới mọc lên mạnh mẽ ở các nước phương Tây. Xã hội công nghiệp với một nền sản xuất hiện đại, đã đặt ra yêu cầu, mỗi nghề nghiệp cần được chuyên môn hoá, các tiêu chuẩn nghề nghiệp đòi hỏi phải chặt chẽ và nghiêm khắc hơn. Vì vậy, để đạt được những đòi hỏi, tiêu chuẩn của nghề nghiệp, người lao động phải được học qua các trường lớp nhất định, tức là phải được đào tạo trong các bộ máy quan liêu. Nhịp độ phát triển xã hội làm nảy sinh nhu cầu quản lý và điều hành xã hội phải được tăng cường, do đó cần đến sự mở rộng của bộ máy quan liêu. Các tổ chức lúc mới thành lập thường có quy mô nhỏ, về sau phát triển thành tổ chức độc quyền. Thí dụ, trong lĩnh vực kinh tế, các hãng hay công ty nhỏ không thể cạnh tranh được với các tập đoàn có quy mô và tiềm lực lớn. Để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, chính phủ phải lập ra cơ quan điều phối - một bộ máy quan liêu mới xuất hiện. Như vậy, quan liêu là hiện tượng của nhiều tổ chức trong nhiều chế độ xã hội khác nhau. Nó gắn bó chặt chẽ với xu hướng hợp lý hoá hoạt động của con người. Tổ chức quan liêu tồn tại và phát triển được trước hết vì chúng đem lai một cách thức làm việc có năng suất và hiệu quả rất cao, mà nguyên nhân chính là do nhân viên của chúng hiểu rõ những công việc và nhiệm vụ của mình. Nếu như trong xã hội luôn có những cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa các giai cấp, các nhóm xã hội, thì trong tổ chức xã hội cũng luôn diễn ra quá trình phân bố, tranh giành và củng cố quyền lực. Nếu không kiểm soát được những cuộc đấu tranh này, chúng sẽ làm tê liệt các nhóm xã hội. Cách thức tổ chức của bộ máy quan liêu có thể tạo ra khả năng kiểm soát sự phân bố quyền lực, ví dụ, đề ra quy định về nhiệm kỳ nắm giữ quyền lực. Vì vậy một số cá nhân có thể lạm dụng bộ máy quan liêu để củng cố quyền lực, bằng cách sử dụng các thủ thuật tạo thuận lợi cho mình, cô lập và vô hiệu hoá đối phương. Điểm quan trọng trong kiểm soát của bộ máy quan liêu là nắm giữ thông tin. Mỗi vị trí trong tổ chức chỉ được biết đến những thông tin nhất định, những thông tin không thuộc nhiêm vụ của ai thì người đó không cần, thậm chí không được phép biết đến. Trong tổ chức xã hội hiện đại, thành viên thực sự có quyền lực là người có nhiều thông tin nhất, mà thông tin là tri thức. Nhà xã hội học Mỹ, Smelser nhận định “Tri thức là quyền lực trong tổ chức quan liêu”. - Chức năng của những quy định trong bộ máy quan liêu Chức năng quản lý và giám sát, các quy định, luật lệ trong tổ chức chính là những cái mà bộ máy quản lý muốn trông chờ ở các thành viên. Đồng thời nó cũng là
- cơ sở để các nhà quản lý đánh giá các nhân viên đã làm hết trách nhiệm của mình hay chưa. Các chức năng khác + Giao tiếp + Điều khiển từ xa + Cơ sở của sự trừng phạt + Tạo độ co giãn trong hành trang quản lý Tất cả các chức năng nói trên của những quy định chỉ nhằm làm giảm bớt chứ không làm mất hẳn sự căng thẳng vốn có trong mỗi bộ máy quan liêu. 1.2.5. Nhược điểm và bệnh lý của tổ chức xã hội - Nhược điểm của tổ chức Bất ổn định, không chắc chắn, M. Weber cho rằng, các cá nhân khi tham gia vào bộ máy quan liêu thì đều đã xác định mục đích rõ ràng và tìm kiếm những phương tiện chắc chắn, hợp lý để thực hiện mục đích đó. Nhưng những kết quả nghiên cứu của Thompson, lại chứng minh thực tế không đơn giản như vậy, nhiều khi mục đích của tổ chức cũng như phương tiện để thực hiện mục đích ấy đều thiếu ổn định, không rõ ràng và chắc chắn. Nhược điểm cơ bản này của tổ chức bắt nguồn từ sự vi phạm các nguyên tắc kết hợp đúng đắn giữa phương tiện với mục đích. Có thể biểu hiện trong các dạng: + Mục đích rõ ràng, phương tiện chắc chắn + Mục đích rõ ràng, nhưng phương tiện không chắc chắn, + Mục đích không rõ ràng, phương tiện chắc chắn + Mục đích không rõ ràng và phương tiện cũng không chắc chắn. Quy mô và tính phức tạp, không hiệu quả của tổ chức, kết quả của nhiều nghiên cứu xã hội học cho thấy, quy mô của tổ chức càng lớn thì bộ máy tổ chức càng cồng kềnh và phức tạp. Sự phân công và thực hiện công việc có thể bị chồng chéo, trùng lặp dẫn đến sự suy giảm hiệu quả hoạt động của tổ chức. - Bệnh lý của tổ chức Sự phục tùng mù quáng và lạm dụng quyền lực, biểu hiện nổi bật nhất của bệnh lý tổ chức là sự phục tùng mù quáng, lạm dụng quyền lực và lộng quyền, làm hạn chế tính năng động của các thành viên trong tổ chức và kìm hãm sự phát triển lành mạnh của cả tổ chức. Cơ cấu quyền lực và những quy định mang tính tập thể của tổ chức quan liêu đã tạo ra một sức ép buộc các thành viên phải tuân thủ các mệnh lệnh một cách bất khả kháng. Trong xã hội hiện đại, bệnh phục tùng mù quáng đang có chiều hướng giảm đi, nhưng bệnh lộng quyền và lạm dụng chức vụ gây tổn thất cho tổ chức lại có xu hướng
- gia tăng. Một số người lãnh đạo, quản lý cố tình tạo ra hố ngăn cách với nhân viên bằng hệ thống các văn bản, giấy tờ, quyết định hình thức, rắc rối hay các tiểu tiết quản lý máy móc để che đẩy yếu kém về chuyên môn của mình và xiết chặt chế độ hành chính. Thậm chí, họ còn lợi dụng yếu tố “phi cá nhân” (nghĩa là tách các thành viên ra xa khỏi hậu quả các hành động của họ bằng hệ thống quy định) để nắm giữ quyền lực và khống chế tổ chức. Số lượng thành viên của bộ máy quan liêu có xu hướng tăng dần, điều này xảy ra vì muốn tăng số người ủng hộ, khống chế bớt đối thủ. Cách phổ biến nhất, là tuyển thêm người, dẫn đến tổ chức ngày càng lớn và phức tạp. Cách thứ hai, là giao những nhiệm vụ phi chuyên môn cho những người có trình độ chuyên môn và đánh giá năng lực của họ căn cứ vào những tiêu chí hình thức. Vì chỉ phục vụ cho lợi ích của một số thành viên, nên trong tổ chức ngày càng xuất hiện nhiều công việc vô ích và năng suất lao động ngày càng thấp. Việc cán bộ quản lý không có chuyên môn, học vấn hay tri thức, nhưng lại nắm các chức vụ điều hành tổ chức, nhân sự và phân bổ các nguồn lực trong một cơ quan chuyên môn là nguyên nhân của nhiều căn bệnh tổ chức Hậu quả của nó là sự trì trệ và yếu kém hiệu quả của cả tổ chức và của đa số các thành viên trong tổ chức đó. Xung đột trong tổ chức, xung đột là một hiện tượng phổ biến trong các tổ chức xã hội, nguyên nhân chính của nó nằm trong nhân cách cá nhân và cơ cấu của tổ chức. Một số nhà xã hội học đã chia xung đột trong tổ chức thành hai loại, đó là: xung đột phi lý và xung đột hợp lý. + Xung đột phi lý, có nguồn gốc từ các tính cách của cá nhân như: nóng nảy, hấp tấp, ích kỷ, tham lam, gia trưởng Những cá nhân như vậy thường hoà trộn các đặc điểm này với các vai trò của họ trong tổ chức. Theo Saford, những người đàn ông độc đoán có thể rất khó mà chịu phục tùng quyền lực của người khác. Nếu gặp phải người lãnh đạo mạnh mẽ thì họ cam chịu một cách thụ động, nhưng trong lòng vẫn nung nấu sự tức giận và thù địch được nén lại, chỉ chờ những điều kiện thuận lợi sẽ trở thành xung đột thực tế. + Xung đột hợp lý, có nguồn gốc từ bản thân các vấn đề của tổ chức, nhưng không bị những đặc điểm của cá nhân chi phối. Chẳng hạn, xung đột giữa một người có kinh nghiệm tổ chức, quản lý nhưng lại không có hoặc yếu kém về chuyên môn, với các thành viên có trình độ trong một cơ quan khoa học đang trên đà phát triển Theo Katz, xung đột hợp lý có thể chia thành ba loại: Xung đột giữa các bộ phận cạnh tranh không trực tiếp (giữa lao động trực tiếp và lao động gián tiếp). Xung đột giữa các bộ phận cạnh tranh trực tiếp với nhau (cùng ngành nghề), thường có cường độ mạnh hơn loại thứ nhất.
- Xung đột trong thứ bậc quyền lực vì lợi ích của tổ chức (xung đột gữa hai nhóm nắm nấc thang quyền lực khác nhau trong tổ chức xã hội như: giữa thủ trưởng hay những người quản lý với nhóm nhân viên cấp dưới → xung đột quản lý). Biện pháp giải quyết có hiệu quả nhất đối với loại xung đột này là thay đổi cơ cấu tổ chức. 1.2.6. Quyền lực xã hội và trật tự xã hội - Quyền lực xã hội, quyền lực là một dạng quan hệ xã hội theo chiều dọc, biểu hiện ở khả năng một cá nhân hoặc một nhóm điều khiển hành vi, thái độ, quan điểm của cá nhân khác hoặc nhóm khác. Thực chất của quyền lực chính là việc giới hạn hay mở rộng mức độ tự do của các chủ thể và khách thể khi thực hiện quyền lực. Nghĩa là khi chúng ta tham gia vào quan hệ quyền lực, một mặt chúng ta sẽ lập tức bị hạn chế mức độ tự do hành động so với mức tự do hành động trước đó, mặt khác, chúng ta sẽ được mở rộng thêm mức độ tự do mới mà trước đó chúng ta chưa hề có. Cái được mở rộng và cái bị hạn chế chính là “cái được” và “cái mất”. Đối với chủ thể quyền lực “cái được” là quyền lãnh đạo, còn đối với khách thể quyền lực “cái mất” là sự phục tùng. Chính vì vậy, việc trở thành chủ thể quyền lực là một ham muốn trong xã hội, quyền lực trở thành một giá trị xã hội. Như vậy, quyền lực là khả năng áp đặt ý chí của mình với người khác và tác động đến khả năng động viên các nguồn lực để đạt được mục đích của mình. Quan điểm macxít cho rằng, chế độ sở hữu tư nhân là nguồn gốc tạo ra sự phân chia quyền lực trong xã hội. Người chiếm hữu tư liệu sản xuất là người có quyền lực điều chỉnh hành vi và cơ hội của người không sở hữu tư liệu sản xuất. Do vậy, chỉ khi nào xoá bỏ được chế độ tư hữu thì mới xoá bỏ được nguồn gốc tạo ra sự bất bình đẳng, xoá bỏ những tầng lớp có quyền thống trị và bóc lột người khác. Theo Weber, ngoài yếu tố kinh tế, nguồn gốc quyền lực còn liên quan đến nhiều yếu tố phi kinh tế như, gia đình, học vấn, tôn giáo, uy tín Và ông cho rằng, trong các dạng quyền lực xã hội, thì quan trọng nhất là quyền lực chính trị. Còn theo Parsons, nguồn gốc của quyền lực nằm ở vị thế của một cấu trúc xã hội. Cấu trúc xã hội quy định cho mỗi vị thế xã hội một quyền hạn tương ứng Quyền lực xã hội thường được biểu hiện dưới các dạng thức sau: Cưỡng bức, là một dạng quyền lực có sử dụng sự ép buộc về thể xác để áp đặt ý chí của người này cho người khác, hình thức này khá phổ biến trong xã hội. Uy quyền, là một dạng quyền lực có sự đồng tình của công chúng. Khái niệm này thường gắn với khái niệm thiết chế hoá, hợp pháp hoá theo thứ bậc. Nó cho phép người ra mệnh lệnh quyền kiểm soát hành vi của người khác theo yêu cầu của tổ chức. Uy quyền thường được thể hiện: + Uy quyền lôi cuốn của thủ lĩnh, + Uy quyền truyền thống (chồng với vợ, cha mẹ với con cái )
- + Uy quyền hợp pháp, hợp lý (dựa trên niềm tin về tính đúng đắn và cần thiết của các luật lệ, quy định chính thức của tổ chức). Quyền lực tuyệt đối, là dạng quyền lực không chấp nhận bất cứ một sự khác biệt và chống đối nào. Quyền lực quân chủ, là dạng quyền lực độc tài, chuyên chế, không chấp nhận bất kỳ một sự đối lập nào. Quyền lực thiểu số, là quyền lực do một nhóm thiểu số trong xã hội thực hiện đối với nhóm đa số (như quyền lực của nhóm người giàu với nhóm người nghèo). Quyền lực dân chủ, là quyền lực của nhân dân hoặc đa số nhân dân tham gia thực hiện (như quyền trực tiếp bầu cử phổ thông đầu phiếu của cử tri, hay gián tiếp của đại cử tri). - Trật tự xã hội Trật tự xã hội là khái niệm chỉ sự tồn tại, hoạt động ổn định, hài hoà của các thành viên trong cơ cấu xã hội. Cơ chế đảm bảo cho sự tồn tại của trật tự xã hội là các thiết chế xã hội. Khi bàn về trật tự xã hội đã xuất hiện các lý thuyết: + Thuyết xung đột, trật tự xã hội chỉ được thiết lập khi sức mạnh của nhóm xã hội có quyền lực còn đủ duy trì vị trí thống trị của mình và nhóm bị thống trị phải chấp nhận địa vị phụ thuộc. Trật tự này chỉ mang tính chất tạm thời, bởi trong lòng xã hội đó đang ngầm chứa đựng những mâu thuẫn cơ bản. Trật tự này sẽ bị phá vỡ khi nhóm bị trị không còn chấp nhận cách tổ chức, quản lý và điều hành của nhóm thống trị. Vì vậy, nhóm xã hội thống trị luôn luôn tìm cách duy trì, củng cố trật tự xã hội hiện có. + Thuyết chức năng, khi tất cả những thành phần trong xã hội thực hiện tốt chức năng của mình, thì sẽ có trật tự xã hội. Nghĩa là các cá nhân, các nhóm xã hội phải thực hiện vai trò của mình sao cho đáp ứng được sự mong đợi của những người xung quanh và của xã hội. Sự kiểm soát xã hội là khuôn mẫu hành vi của các cá nhân, các nhóm , căn cứ vào các chuẩn mực, giá trị đã được xã hội thừa nhận. Kiểm soát xã hội có thể được thực hiện bởi các thiết chế xã hội như gia đình, tôn giáo, chính trị, kinh tế, giáo dục. Kiểm soát xã hội có mặt ở khắp mọi nơi trong đời sống văn hoá xã hội và luôn tác động đến sự lựa chọn hành vi của các cá nhân và các nhóm. Kiểm soát xã hội thường sử dụng những công cụ khác nhau để uốn nắn những sai lệch xã hội. Parsons đã từng đưa ra ba loại công cụ chính của kiểm soát xã hội, đó là: Cô lập hoàn toàn; hạn chế giao tiếp; quản chế, cải tạo và phục hồi. Sự kiểm soát xã hội chính thức được thực hiện bởi các tổ chức như công an, toà án, viện kiểm soát, nhà tù và các quy định, luật lệ
- 2. KHUÔN MẪU, CHUẨN MỰC VÀ THIẾT CHẾ XÃ HỘI 2.1. Khuôn mẫu, chuẩn mực và giá trị xã hội 2.1.1. Khuôn mẫu, chuẩn mực xã hội - Khái niệm Khuôn, mẫu là những thuật ngữ của lĩnh vực kỹ thuật hay nghệ thuật với ý nghĩa là những tiêu chuẩn, vật chuẩn được tạo ra từ trước để dựa vào đó và theo đó mà làm ra những vật phẩm khác giống như nhau theo cái vật chuẩn ban đầu ấy. Chẳng hạn: khuôn đúc đồng, khuôn đóng (đúc) gạch, ngói, khuôn làm bánh hay mẫu hoa để vẽ, để thêu, mẫu nhà cửa, mẫu bàn ghế để làm theo. Như vậy có thể coi khuôn mẫu là vật chuẩn do con người tạo ra và được con người lựa chọn, chấp nhận làm mẫu cho những cái cùng loại khác. Trong lĩnh vực xã hội, khuôn mẫu được hiểu như là những tiêu chí đã được xã hội thừa nhận, hợp thành những chuẩn mực giá trị dùng làm mẫu để đo đạc những cái khác. Đồng thời, con người khi thực hiện một hành vi xã hội hay thiết lập, tạo dựng một việc gì đó đều dựa vào những cái mẫu có trước, dùng nó để làm cái quy chiếu cho những cái khác. Ví dụ như mẫu hình trong hôn nhân, mẫu hình về người đàn ông, người phụ nữ (theo quan niệm xưa, nay) hay mẫu hình về một gia đình, một dòng họ thuận hoà, thành đạt Để kiểm tra một người nào đó có thực hiện đúng vai trò xã hội của mình hay không, người ta thường xem xét hành vi xã hội của người đó có phù hợp với chuẩn mực, giá trị của khuôn mẫu xã hội hay không. Chuẩn mực là sự thống nhất của xã hội về những khuôn mẫu hành vi cụ thể, tương ứng với các loại vị thế, vai trò xã hội khác nhau. Mỗi loại nghề nghiệp, vị thế, vai trò xã hội đều có những chuẩn mực riêng của mình. Chuẩn mực xã hội cũng được hiểu là sự mong đợi của xã hội về một kiểu hành vi lý tưởng, ứng với một loại địa vị xã hội nào đó. Như vậy, chuẩn mực xã hội vừa là khuôn mẫu vừa là áp lực xã hội đối với hành vi cá nhân. Khuôn mẫu xã hội có ảnh hưởng sâu sắc đến nếp nghĩ, nếp cảm và cách hành động của con người. Do đó, ảnh hưởng đến toàn bộ nền văn hoá, sự định hướng giá trị, tín ngưỡng của con người trong một xã hội nhất định. - Đặc điểm của khuôn mẫu, chuẩn mực Những hành vi xã hội, những chuẩn mực, giá trị mà chúng ta hay gặp nhất trong xã hội và có ảnh hưởng nhiều nhất đến sự phát triển xã hội là những hành vi, chuẩn mực thuộc khuôn mẫu văn hoá (theo nghĩa rộng) với nội hàm: Một tác phong xã hội được lặp đi, lặp lại trong cuộc sống đời thường; được nhiều người thực hiện theo cùng một phong cách giống nhau; được xem là có tác dụng định hướng, có ý nghĩa mẫu mực cho nhiều người noi theo; đồng thời nó chứa đựng một ý nghĩa xã hội nhất định.
- Trong đời sống xã hội, mỗi người thường làm theo những gì mà mọi người vẫn quen làm, những gì mà xã hội cho là quan trọng. Khuôn mẫu xã hội thường được thể chế hoá thành các quy định xã hội, được mọi thành viên trong xã hội thừa nhận và tuân thủ theo. Những quy định như vậy có thể được ghi thành văn bản dưới dạng các nội quy, quy chế, điều luật Nhưng cũng có khi chỉ là những quy ước bất thành văn như phong tục, tập quán nhưng rất được xã hội coi trọng và tuân thủ thực hiện. Trong các khuôn mẫu xã hội thì khuôn mẫu hành vi yêu nước bao giờ cũng được đề cao, những ai đi ngược lại khuôn mẫu hành vi này đều bị xã hội lên án và căm phẫn. - Tính biến đổi của khuôn mẫu, chuẩn mực xã hội Khuôn mẫu xã hội là những chuẩn mực giá trị, nhưng không phải là những chuẩn mực tồn tại bất biến, vĩnh hằng, mà nó cũng có sự biến đổi cùng với sự biến đổi của không gian, thời gian, của tính chất và trình độ xã hội. Nghĩa là sự biến đổi của xã hội đã làm cho một số khuôn mẫu, chuẩn mực trở nên lỗi thời, lạc hậu, không còn phù hợp với xã hội. Đồng thời có một số khuôn mẫu, chuẩn mực mới, tiến bộ được hình thành và được xã hội thừa nhận, ví dụ: khuôn mẫu mới về gia đình, con cái, về các nghi lễ, tập tục trong cưới hỏi, tang ma Thực tế cuộc sống cho thấy, khi một tác phong xã hội nào đó được khuôn mẫu hoá thì đều trở thành “con đường tắt” rất tiện lợi và cần thiết cho sự học hỏi làm người của mỗi cá nhân. Có thể nói, mọi hành vi xã hội của con người đều là do sáng tạo của thói quen mà ra. Và xét cho cùng thì những chuẩn mực văn hoá chính là những đáp án có sẵn trong cuộc sống, mỗi con người học hỏi những điều đó là nhờ bắt chước, nhờ gợi ý của người khác. Mọi người đều có thái độ tôn trọng các khuôn mẫu, chuẩn mực vì đó là kết quả được đúc kết nên bởi nhiều thế hệ đời người. Đằng sau các khuôn mẫu, chuẩn mực là cả một bề dày truyền thống vững vàng, sâu nặng, lại có được sự hỗ trợ của các quyền uy xã hội. Do vậy mỗi cá nhân khi tiếp nhận các chuẩn mực văn hoá đều cảm thấy tự giác, thoải mái và tự nhiên, coi nó gần như là bản tính thứ hai của con người. Khi xã hội phát triển con người có điều kiện tiếp xúc, hội nhập nhiều với các nền văn hoá khác, thì một số khuôn mẫu, chuẩn mực văn hoá truyền thống (như phong tục, tập quán) có thể bị coi là những yếu tố lạc hậu, trì trệ, bảo thủ và rất dễ bị mọi người có định kiến xấu. Trong điều kiện này, đòi hỏi con người phải sáng suốt, khi tiếp thu cái mới phải biết chọn lọc cái hay, cái phù hợp, tránh sự lố lăng, lai căng, mất gốc. Phải biết trân trọng và bảo tồn, phát huy những khuôn mẫu, chuẩn mực mang vẻ đẹp của thuần phong, mỹ tục. Nghĩa là có tiếp thu, có phê phán, kế thừa cái hay, cái tiến bộ, loại bỏ cái dở, cái lạc hậu, làm cho lối sống văn hoá của xã hội tiến kịp với nền văn minh chung của nhân loại. 2.1.2. Giá trị xã hội - Khái niệm
- Mỗi thời đại lịch sử, mỗi loại hình tổ chức xã hội, mỗi tầng lớp, giai cấp, đều có những cách quan niệm, cách đánh giá riêng của mình về khái niệm giá trị. Đó là cách cảm nhận, cách thẩm định một sự việc, hiện tượng và ý nghĩa, vai trò của nó đối với con người, đối với xã hội. Điểm chung nhất giữa mọi quan niệm về giá trị thể hiện ở chỗ: mỗi sự việc, hiện tượng khi được coi là có giá trị thì điều đó có nghĩa là nó rất có lợi cho cuộc sống của con người và cho sự phát triển của xã hội, vì thế nó sẽ được mọi người tôn trọng và noi theo. Như vậy, giá trị là một phạm trù được nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực khoa học. Trong Xã hội học nó cũng được hiểu theo nhiều cách khác nhau: + Giá trị là những tiêu chuẩn mang lại ý nghĩa, dựa vào đó các đoàn thể hoặc xã hội đánh giá, phê phán tầm quan trọng của những con người, những khuôn mẫu, những mục đích và những đối tượng văn hoá khác8. + Tất cả những gì có lợi ích, đáng ham chuộng, đáng kính phục đối với cá nhân hoặc đối với xã hội đều có một giá trị9. + E. Durkheim quan niệm: giá trị xã hội được xem là những lý tưởng tập thể, có tác dụng chi phối, điều chỉnh tư tưởng và hành động của con người theo khuông mẫu của xã hội. Như vậy, giá trị là những tiêu chuẩn trong đó hàm chứa ý nghĩa văn hoá hay những sự kiện xã hội quan trọng, có thể nghiên cứu, phân tích và sắp xếp thành một hệ thống thang bậc giá trị chung cho toàn xã hội. - Đặc điểm của giá trị Dù được hiểu như thế nào thì bản thân khái niệm giá trị cũng chứa đựng những đặc điểm chung nhất, đó là: + Bản thân đối tượng tự nó là một giá trị, ví dụ: một đồ vật cụ thể nào đó đều chứa đựng, thứ nhất, giá trị đích thực của nó trong hệ thống vật chất, thứ hai, giá trị về khả năng trao đổi; thứ ba, giá trị về khả năng phục vụ con người. + Khả năng của đối tượng về việc làm thoả mãn các nhu cầu của xã hội. Một cái gì đó có giá trị hay không có giá trị, giá trị cao hay thấp, nhiều hay ít, không phải do bản thân nó quy định mà do khả năng đáp ứng của nó đối với các nhu cầu các mong muốn của con người và xã hội. Như vậy mỗi giá trị xã hội đều hiện hữu vừa là giá trị xã hội vừa là tiêu chuẩn về giá trị xã hội. Giá trị xã hội luôn luôn tồn tại trong mối quan hệ với nhu cầu xã hội. Nó là sự thừa nhận, sự mong đợi và sự đánh giá của xã hội đối với các hành vi của cá nhân khi thực hiện vai trò của mình vì lợi ích xã hội. Đồng thời, giá trị xã hội cũng gắn liền 8 Phạm Tất Dong: Xã hội học đại cương. Viện Đại học mở Hà Nội, 1995, tr. 9 J. Fichter: Xã hội học. Hiện đại thư xã, Sài Gòn, 1974, tr. (Bản dịch của Trần Văn Dĩnh).
- với địa vị và vai trò cá nhân, nhưng không phải là những vai trò cá nhân riêng lẻ, mà là những vai trò có ý nghĩa xã hội rộng lớn. Mặt khác trong mỗi giá trị đều chứa đựng những yếu tố nhận thức và thái độ của chủ thể trong mối quan hệ với hiện tượng mang giá trị. Khi ở tư cách là đối tượng của quá trình xã hội hoá cá nhân nhận thức và tự nguyện tiếp nhận, tổ chức các hành vi của mình hướng tới giá trị đã chọn. Còn khi ở tư cách là chủ thể hành động, cá nhân nhận thức, lựa chọn, đánh giá, xây dựng và tổ chức các hành vi thành giá trị đó. - Định hướng giá trị xã hội Trong từng giai đoạn lịch sử và xã hội nhất định, các giá trị thường liên kết với nhau thành một hệ thống tạo nên thang giá trị của xã hội. Một hệ thống giá trị như vậy bao giờ cũng phù hợp với thế giới quan và nhân sinh quan của xã hội, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội của thời đại. Xã hội nào cũng có sự định hướng giá trị cụ thể, có tính chất và nội dung khác nhau, trong đó có những giá trị được coi trọng và giữ vị trí ưu tiên nổi bật. Ở phương Tây, người ta quan niệm rằng, nền kinh tế thị trường phải thực hiện được những nhiệm vụ mà họ cho là tứ giác thần kỳ, đó là: - Đảm bảo sự phát triển kinh tế thường xuyên và hợp lý, - Đảm bảo công ăn việc làm ở mức độ cao, - Ổn định giá cả, - Tạo sự cân bằng trong kinh tế đối ngoại Đồng thời họ cũng vạch rõ: nền kinh tế thị trường trong quá khứ đã tạo ra cho nhân loại một khoảng trống vắng và nỗi thống khổ chung, đó là: - Sự khủng hoảng về định hướng giá trị nói chung, - Sự lấn át của nhu cầu, động cơ vật chất so với những động cơ văn hoá, đạo đức xã hội, - Sự xuất hiện của những chiều hướng tư tưởng như chủ nghĩa hậu hiện đại, bệnh vị kỉ, xu hướng quay về tôn giáo, mê tín dị đoan và ma tuý. Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đã chuyển từ một nền kinh tế quan liêu bao cấp, kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Xã hội ta từ đầu thế kỷ XX đến nay đã có những chuyển biến mạnh mẽ, từ nền văn minh nông nghiệp sang nền văn minh công nghiệp dựa trên cơ sở khoa học và công nghệ, những hệ thống giá trị cũ đang thay đổi, nhiều giá trị truyền thống tích cực đang được kế thừa và phát triển bên cạnh các giá trị mới đang hình thành, cho nên việc định hướng giá trị chính xác sẽ có một ý nghĩa cách mạng và thực tiễn sâu sắc. Con người Việt Nam hiện đại, đã và đang tiếp cận với xu hướng chung của nhân loại, định hướng vào các giá trị có tính phổ quát, các giá trị cơ bản, phổ biến, mang tính thời đại mà vẫn giữ được bản sắc và truyền thống dân tộc, như: coi trọng các giá trị hoà bình, tự do, việc làm, gia
- đình, sức khoẻ, nghề nghiệp, học vấn Như vậy, có một số giá trị truyền thống vẫn được tiếp tục đề cao như coi trọng gia đình, sống có tình nghĩa, ham chuộng học vấn. Những giá trị gắn liền với sự duy trì, bảo vệ lợi ích chung của xã hội, góp phần làm thoả mãn các nhu cầu căn bản của xã hội đều được đánh giá là những giá trị quan trọng. Và do vậy những con người đang sống trong xã hội thường sẵn sàng hy sinh tính mạng của mình để đấu tranh bảo vệ những giá trị đó. Một xã hội muốn tồn tại ổn định và phát triển thì phải có sự nhất trí cao của toàn xã hội về những giá trị, mà thực chất là những tiêu chuẩn dùng để lượng giá con người. Đặt con người vào những vị thế, tầng lớp, thứ hạng thích hợp và phù hợp với thực tế, đó chính là những tiêu chuẩn tạo nên vị thế xã hội, giai cấp xã hội của mỗi con người. Chính vì vậy khi nói đến vị thế xã hội của một người nào đó chính là nói về giá trị xã hội của người đó. Dư luận xã hội (khen, chê, tôn trọng, khinh bỉ ) cũng là cách đánh giá con người. Sự lượng giá như vậy thường bao hàm cả sự đánh giá, so sánh, đối chiếu giữa cái tốt và cái xấu, cái cao cả và cái tầm thường. Trong sự lượng giá này cần chú ý đến tính chủ quan cá nhân, một giá trị cao cả là một giá trị được đông đảo cá nhân trong xã hội thừa nhận. Có thể nói giá trị hầu như là cái bên ngoài mà xã hội chuyển đến cho mỗi cá nhân. Trong cuộc sống con người luôn hướng tới những mục đích mà họ mong đợi, trong đó có những mục đích trước mắt, những mục đích lâu dài, những mục đích quan trọng Song con người bao giờ cũng tập trung hướng vào việc thực hiện những mục đích được coi là có giá trị nhất. Mỗi cá nhân, mỗi tầng lớp xã hội, trong từng thời kỳ lịch sử, từng hoàn cảnh xã hội cụ thể bao giờ cũng có những quan niệm rất cụ thể trong việc lượng giá và phấn đấu cho những giá trị cụ thể khác nhau. Đối với con người xã hội, các giá trị bao giờ cũng là những yếu tố chế tài (có ý nghĩa kiểm soát và định hướng) của các tác phong xã hội. Những hệ thống giá trị được xã hội nhất trí cao, luôn tạo nên áp lực xã hội, giúp cho xã hội xác định được các khuôn mẫu, chuẩn mực mà mọi người phải tuân thủ (kể cả trong phong tục, tập quán). Những yếu tố chế tài của xã hội có thể biểu hiện ở sự khen thưởng (đề cao) hay trừng phạt của xã hội đối với một cá nhân hay một nhóm xã hội. Hệ thống khen thưởng và trừng phạt của xã hội luôn căn cứ và xuất phát từ giá trị, nếu một xã hội mà thiếu hoặc không có những hệ thống giá trị, hay không có sự phân biệt mức độ quan trọng của các giá trị, thì sẽ không thể có được những phương tiện cần thiết để điều tiết và kiểm soát xã hội một cách có hiệu quả. Hệ thống giá trị là sự kết tinh của những kinh nghiệm sống và sự hiểu biết của con người nên có ý nghĩa văn hoá chuẩn mực ảnh hưởng trực tiếp đến kinh nghiệm sống của từng người. Dù ở thời đại nào, con người muốn sống và phát triển được cũng đều phải hiểu rõ: những gì cần thiết, nên làm; những gì bị cấm đoán, không nên làm, những gì cần phải tôn trọng, những gì sẽ bị xã hội kiểm soát, điều chỉnh hoặc trừng phạt Đó là sự định hướng giá trị trong xã hội của từng cá nhân, giúp cá nhân làm tốt vai trò xã hội của mình.
- - Giá trị và vai trò xã hội Trong mỗi cơ cấu xã hội hay tổ chức xã hội đều bao gồm những vai trò xã hội nhất định. Khi nói đến một vai trò xã hội nào đó, tức là nói đến mối tương quan giữa nó với các vai trò xã hội khác. Mối tương quan ấy được quy định và kiểm soát bởi các giá trị xã hội. Các hệ thống tương quan được sắp đặt, phối hợp và lệ thuộc vào nhau, và do đó nó sẽ bị vô hiệu hoá khi ở một khâu nào đó có những con người không thừa nhận hệ thống giá trị. Ví dụ: hệ thống tương quan trong một gia đình là các mối quan hệ cơ bản như: vợ - chồng; cha mẹ - con cái; anh chị - em mà cốt lõi của nó được xuất phát từ logic tình yêu - hôn nhân - gia đình hạnh phúc. Nếu sự phát triển tất yếu này không được thừa nhận thì không thể có một cơ cấu gia đình đúng với ý nghĩa đích thực của nó. Mỗi vai trò xã hội nếu được thực hiện đúng giá trị của nó thì các mối tương quan trong xã hội sẽ phát triển bình thường (gia đình hạnh phúc, cơ quan ổn định). Những mối tương quan làm cho xã hội trở nên bền vững, ổn định, thường được đánh giá cao và nó được coi là những tương quan của diễn tiến liên kết như sự hợp tác, sự hoà giải Ngược lại, những tương quan có ảnh hưởng tiêu cực đến sự gắn kết của các quan hệ xã hội, thì thường bị đánh giá rất thấp và nó được coi là những tương quan của diễn tiến li tán. Các giá trị còn có một ý nghĩa quan trọng khác là làm cơ sở cho sự hình thành các động cơ hoạt động, giao tiếp, ứng xử của con người. Mỗi cá nhân sẽ khó thiết lập được quan hệ tốt đẹp với người khác nếu không tuân thủ theo một hệ thống tương quan xã hội mà trong đó hàm chứa các giá trị xã hội. Cuộc sống của con người có được là do nhiều vai trò xã hội khác nhau quy định, cho nên khi nắm giữ một vai trò nào đó, con người phải tuân thủ theo một số khuôn mẫu có sẵn. Quan hệ xã hội, nói cho cùng, thực chất là quan hệ giữa các vai trò xã hội, con người sống và giao tiếp được là nhờ thông qua các vai trò mà mình đảm nhận (ví dụ: bác sĩ với bệnh nhân, chỉ huy với chiến sĩ, thủ trưởng với nhân viên, giáo viên với học sinh, đều là quan hệ giữa vai trò này với vai trò khác). Để không bị xã hội lên án, mọi cá nhân phải luôn luôn thừa nhận và noi theo những khuôn mẫu tác phong đã được xã hội chuẩn mực hoá. - Giá trị, khuôn mẫu và sự điều tiết xã hội Trong cuộc sống của mình, mỗi cá nhân, mỗi nhóm xã hội luôn chịu sự điều tiết của xã hội. Việc điều tiết được tiến hành thông qua hệ thống giá trị bao gồm các chuẩn mực, các quy tắc, các tập quán xã hội; đặc biệt thông qua hệ thống các thiết chế xã hội, nhất là thiết chế giáo dục. Xã hội từng bước uốn nắn, bồi dưỡng, rèn luyện con người, giúp họ tự điều chỉnh, tiếp thu và tuân theo những giá trị mà xã hội quy định, làm cho các thành viên trong xã hội gắn bó, cảm thông và cùng nhau củng cố, duy trì cuộc sống chung. Mỗi người cố gắng tạo cho mình nhưng khuôn mẫu tác phong, những ứng xử phù hợp, đó là một quá trình học hỏi liên tục trong suốt đời người. Ví như, trong giao tiếp xã giao con người đều phải biết tỏ ra có văn hoá tức là nắm vững và biểu hiện đầy đủ các yêu cầu: xin phép, xin lỗi, cảm ơn, chào hỏi, tiễn biệt Người xưa thường dạy
- con cái phải học ăn, học nói, học gói, học mở là cũng hàm nghĩa như vậy. Quá trình học hỏi đã làm cho mỗi người được tự động hoá trong ứng xử, tự nhận ra được cái đúng, cái chưa đúng trong các hành vi của mình hay của người khác. Sự điều tiết của xã hội có rất nhiều cấp độ khác nhau, khi con người đảm nhận những vai trò khác nhau thì việc lựa chọn các chuẩn mực cũng khác nhau (ví dụ, một viên chức khi thực thi trách nhiệm, nghề nghiệp thì căng thẳng hơn khi đóng vai người chồng, người cha trong gia đình ). Nói đến sự điều tiết của xã hội cũng chính là nói đến ý nghĩa và tác dụng của các giá trị trong đời sống hàng ngày. Sự xuất hiện của giá trị trong đời sống xã hội sẽ dẫn đến những hậu quả nhất định về mặt xã hội. Nó được dùng như là phương tiện sẵn có để nhận thức, phê phán về thang giá trị xã hội (của cá nhân, của cộng đồng ) và từ đó mà diễn ra sự phân tầng, phân lớp của xã hội. Đồng thời nó làm cho mỗi cá nhân hiểu rõ vị trí của mình trong mối quan hệ với mọi người hay trong dư luận xã hội. Trong hiện thực của đời sống xã hội, hệ thống giá trị, một mặt được coi là những tiêu điểm để con người dựa vào đó mà lựa chọn và thực hiện các vai trò xã hội có tính khuyến thiện, được xã hội kính trọng. Mặt khác, nó cũng là yếu tố kiềm chế, có tác dụng kìm hãm những hành vi, hành động lệch chuẩn, những tác phong phản xã hội, bị xã hội cấm đoán, làm cho nội tâm con người có cảm giác xấu hổ, cắn rứt lương tâm khi vi phạm các giá trị xã hội. 2. 2. THIẾT CHẾ XÃ HỘI 2.2.1. Khái niệm thiết chế xã hội Thiết chế xã hội là một khái niệm quan trọng, được sử dụng rộng rãi trong nhiều tài liệu xã hội học. Tuy vậy, trong thực tế nghiên cứu của xã hội học, đã xuất hiện nhiều cách định nghĩa khác nhau về khái niệm này, sở dĩ như vậy là vì nội hàm của khái niệm thiết chế chưa được xác định một cách rõ ràng, khái niệm thiết chế thì trừu tưởng, nhưng bản thân thiết chế lại rất hiện thực. Theo J. Fichter, thiết chế xã hội chính là một tập hợp các khuôn mẫu tác phong được đa số chấp nhận nhằm thoả mãn một nhu cầu cơ bản của nhóm xã hội. Còn theo N. Smelser, thiết chế là một tập hợp các vị thế và vai trò có chủ định nhằm thoả mãn nhu cầu xã hội quan trọng. Như vậy, thiết chế xã hội là một tập hợp bền vững của các giá trị chuẩn mực, vị thế, vai trò và nhóm, vận động xung quanh một nhu cầu cơ bản của xã hội. Cũng có thể hiểu thiết chế xã hội như là một tổ chức nhất định của hoạt động xã hội và các quan hệ xã hội được thực hiện bằng sự phối hợp hài hoà giữa hệ thống các hành vi của con người với các chuẩn mực, quy phạm của xã hội. Thiết chế là một cơ cấu tổ chức có tính chất tương đối bền vững của khuôn mẫu xã hội, tổ chức ấy có cơ cấu bên trong (nội dung hoạt động của thiết chế) và cơ cấu bên ngoài (hình thức vật chất của thiết chế). Cơ cấu bên trong là một tập hợp nhất định, những tiêu chuẩn được định hướng theo mục tiêu về hành vi của những người nhất định, trong những
- hoàn cảnh nhất định. Cơ cấu bên ngoài là một tổng thể những con người, những cơ quan được trang bị những phương tiện vật chất nhất định và thực hiện những chức năng xã hội nào đó. Nhìn chung các nhà xã hội học đều cho rằng, thiết chế xã hội nảy sinh, tồn tại và phát triển là do nó đáp ứng nhu cầu xã hội. Nhu cầu xã hội là lý do hình thành, đồng thời cũng là mục đích tồn tại của thiết chế. Trong mọi xã hội bao giờ cũng có những nhu cầu cơ bản, việc thoả mãn chúng có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại của bản thân xã hội. Những nhu cầu cơ bản đó gồm: - Giao tiếp giữa các thành viên - Sản xuất và sản phẩm dịch vụ - Phân phối các sản phẩm và dịch vụ hàng hoá - Bảo vệ các thành viên khỏi sự tác động của thiên nhiên (thiên tai), bệnh tật và các nguy hiểm khác. - Thay thế các thành viên (kể cả tái sinh sản sinh học) và thay thế văn hoá thông qua quá trình xã hội hoá - Kiểm soát hành vi của các thành viên. 2.2.2. Đặc trưng của thiết chế - Thiết chế có tính bền vững tương đối và thường chậm biến đổi Thiết chế xã hội hình thành trên cơ sở của một hệ thống những giá trị, chuẩn mực xã hội lâu đời và bền vững. Bởi vậy, nó có đặc trưng là phản ứng lại những biến đổi của xã hội rất chậm. Khi xã hội tiến bộ và phát triển thì các thiết chế cũng biến đổi theo, nhưng thường rất chậm chạp so với các yếu tố xã hội khác như kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật - Các thiết chế có xu hướng phụ thuộc vào nhau Các thiết chế xã hội chủ yếu thường duy trì những giá trị chuẩn mực, phản ánh những mục tiêu, những ưu tiên chung của xã hội, bởi vậy các thiết chế có xu hướng phụ thuộc vào nhau. Tất cả các thiết chế đều cùng củng cố những mục tiêu chung, giữa chúng luôn có sự tương đồng hoặc gần gũi nhau, vì thế bất kỳ một thiết chế nào cũng được thể hiện một phần trong thiết chế khác và là một mặt, một bộ phận của toàn bộ xã hội. Khi một thiết chế xã hội cơ bản thay đổi thì thường kéo theo sự thay đổi của một loạt các thiết chế khác. - Các thiết chế có xu hướng trở thành tiêu điểm của những vấn đề xã hội Do các thiết chế được thiết lập trên cơ sở của những nhu cầu xã hội cơ bản, cho nên bất kỳ sự đổ vỡ của một thết chế nào cũng đều trở thành những vấn đề xã hội nghiêm trọng. Ví dụ: Nạn thất nghiệp là một vấn đề của nền kinh tế, sự suy sụp hay tan
- vỡ của hôn nhân là vấn đề của thiết chế gia đình, tỷ lệ tội phạm gia tăng là dấu hiệu của thiết chế pháp luật, sự rối loạn xã hội là vấn đề của thiết chế chính trị v.v Thiết chế là một dạng biểu hiện của giá trị, là trạng thái lặp đi, lặp lại một cách đồng đều của giá trị, trở thành quy phạm cho các tác phong xã hội và tạo nên áp lực xã hội đối với con người. Mỗi loại thiết chế đều có mục đích cụ thể, có định hướng rõ ràng, trong những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, con người dựa theo đó mà hành động. 2.2.3. Chức năng của thiết chế Sự hiện diện một cách phổ biến của các thiết chế trong các xã hội chứng tỏ rằng chúng có những vai trò và chức năng quan trọng trong đời sống xã hội. Các nhà xã hội học thường cho rằng thiết chế xã hội có hai chức năng cơ bản: - Khuyến khích, điều chỉnh, điều hoà hành vi của con người cho phù hợp với quy phạm, chuẩn mực giá trị xã hội. - Ngăn chặn, kiểm soát, giám sát những hành vi lệch lạc so với các quy định xã hội. Sự tồn tại của mọi xã hội cũng như tính ổn định và phát triển của nó, không thể có được nếu không có sự quan lý xã hội và kiểm soát xã hội. Thiết chế xã hội thực hiện cả hai chức năng đó, nó được giao quyền sử dụng những biện pháp thưởng phạt các thành viên trong xã hội. Các hình phạt có thể chia làm hai loại: Hình phạt chính thức là các hình phạt của thiết chế pháp luật và hình phạt phi chính thức là các hình phạt của thiết chế đạo đức và của dư luận xã hội. Các chức năng của thiết chế được thực hiện thông qua hàng loạt các nhiệm vụ: - Thiết chế xã hội vốn là những mô hình hành vi được đa số thừa nhận là chuẩn mực và thực hiện theo, do đó các cá nhân sẽ không mất thời gian để suy tính, đắn đo xem cách thức hành động đó đúng hay sai để quyết định thực hiện hay không thực hiện. Như vậy, thiết chế đã đơn giản hoá tác phong hành động, lề lối tư duy của cá nhân, con người hành động theo thiết chế một cách tự động hoá. - Thiết chế cũng là một tập hợp các vai trò đã được chuẩn hoá, đó chính là các vai trò mà mọi cá nhân cần phải học để thực hiện thông qua quá trình xã hội hoá, nghĩa là thiết chế cung cấp cho cá nhân những vai trò có sẵn (thiết chế gia đình cung cấp cho cá nhân những vai trò là bố, mẹ, con, anh, em , thiết chế giáo dục cho cá nhân vai trò là thầy, trò chứ không phải do cá nhân sáng tạo ra các vai trò này). Nhìn chung cá nhân ít khi hành động ngược lại các thiết chế, bởi vì cung cách tư duy và phong cách hành động đã được thiết chế hoá có ý nghĩa quan trọng đối với con người. Thiết chế mang lại cảm giác yên tâm và an toàn cho những cá nhân tuân thủ nó, vì nó là cái mà xã hội cho là đúng là chuẩn, thực hiện theo nó tức là thực hiện theo số đông. Thí dụ, tuyệt đại đa số các cá nhân đều cho rằng, một trong những chức năng quan trọng của hôn nhân gia đình là sinh sản nối dõi, và “trai lớn lấy vợ, gái lớn gả
- chồng” là việc bình thường, được xã hội chấp nhận, đó là một thiết chế. Chỉ có những người không thực hiện theo thiết chế này mới cảm thấy bất an, vì bị xã hội phê phán, đàm tiếu. Thiết chế luôn bao gồm những mong đợi của xã hội và nhờ vậy mà mỗi cá nhân đều ý thức được, mình sẽ phải hành động và suy nghĩ như thế nào trước những người khác. Chẳng hạn, tất cả mọi người đang điều khiển các phương tiện cơ giới tham gia giao thông đều phải xuất trình những loại giấy tờ cần thiết khi thanh tra giao thông yêu cầu mà không phải băn khoăn vì sao. Trong trường hợp thiết chế xã hội thực hiện các chức năng điều hoà và kiểm soát xã hội không đúng cách thức thì có thể dẫn đến các tác động tiêu cực đối với xã hội. Sự điều hoà và đặc biệt là sự kiểm soát của thiết chế quá mạnh sẽ triệt tiêu sự sáng tạo của cá nhân, trong trường hợp đó thiết chế sẽ mang tính bảo thủ. Tính bảo thủ của thiết chế thể hiện ở chỗ nó tìm cách duy trì những khuôn mẫu tác phong đã lạc hậu, đã lỗi thời và do vậy nó sẽ cản trợ sự tiến bộ của xã hội. Vào những lúc như thế, cá nhân đôi khi cảm thấy mất đi bản tính của mình và nếu họ chống lại sự kiểm soát của thiết chế thì sẽ bị coi là những “người lệch lạc”. Nhưng đến một lúc nào đó, khi thiết chế đã được biến đổi thì họ sẽ không còn bị coi là lệch lạc nữa. Chẳng hạn, trong xã hội phong kiến trước đây, việc con cái tự do tìm hiểu, yêu đương và tự quyết định vấn đề hôn nhân của mình ngoài sự sắp đặt của cha mẹ bị coi là trái đạo lý, thậm chí là bất hiếu, thì ngày nay quan niệm đó đã hoàn toàn thay đổi. Ngược lại, nếu sự kiểm soát và điều chỉnh các quan hệ xã hội của thiết chế quá yếu thì có thể dẫn đến tình trạng các cá nhân hay nhóm xã hội sẽ không thực hiện tốt vai trò xã hội của mình, thậm chí còn tìm cách trốn tránh trách nhiệm của bản thân và do đó sẽ dẫn đến kết cục là hoạt động của từng phần hoặc của toàn bộ xã hội sẽ bị trì trệ. Cũng có những trường hợp giữa các thiết chế xảy ra sự di chuyển chức năng cho nhau. Đó là lúc hai hay nhiều thiết chế cùng tham gia thực hiện một chức năng, nếu thiết chế nào tỏ ra có khả năng đáp ứng nổi trội hơn, thì sẽ được đảm nhận vai trò chủ yếu. Ví dụ, trong xã hội nông nghiệp việc xã hội hoá cá nhân chủ yếu do thiết chế gia đình đảm nhận, nhưng trong xã hội công nghiệp nó phải di chuyển một phần hay toàn bộ chức năng xã hội hoá cho thiết chế giáo dục trong nhà trường. 2.2.4. Các loại thiết chế xã hội cơ bản Trong mỗi xã hội bao giờ cũng đồng thời tồn tại nhiều loại thiết chế khác nhau. Có những thiết chế được áp dụng rộng rãi trong phạm vi toàn xã hội, nhưng lại có những thiết chế chỉ có tính chất địa phương, mức độ áp lực chế tài xã hội của từng thiết chế cũng rất khác nhau. Điều đó tuỳ thuộc vào tầm quan trọng, sự cần thiết và tính phổ quát của từng loại thiết chế cụ thể. Các nhà xã hội học thường phân chia các thiết chế thành hai loại, là thiết chế chủ yếu (hay thiết chế cơ bản) và thiết chế phụ thuộc. Thiết chế chủ yếu được coi là thiết chế cần thiết nhất, quan trọng nhất cho lợi ích của cá nhân và xã hội, nó tồn tại một cách phổ biến trong mọi thời đại và trong mọi loại hình xã hội. Bởi vậy các thiết chế chủ yếu luôn đóng vai trò trụ cột của xã hội, để cho các thiết chế khác (thiết chế phụ thuộc) tồn tại quanh nó. Các thiết chế chủ yếu gồm có:
- - Thiết chế gia đình Đây là thiết chế đảm bảo sự tồn tại ổn định và bền vững của gia đình, đồng thời tiêu chuẩn hoá các quan hệ tính giao và sự truyền chủng của con người. Hình thức phổ biến nhất của nó là chế độ một chồng - một vợ sống chung với con cái trong gia đình. Nằm trong thiết chế này còn có các thiế chế phụ thuộc như đính hôn, cưới hỏi và các quan hệ thân tộc khác. Chức năng của thiết chế gia đình gồm có: + Điều chỉnh hành vi tình dục và giới. + Duy trì sự tái sinh sản nối dõi từ thế hệ này sang thế hệ khác. + Chăm sóc, bảo vệ người già và trẻ thơ. + Xã hội hoá trẻ em, nhất là trẻ em vị thành niên. + Gắn vai trò và thiết lập vị thế cho các thành viên được thừa kế từ gia đình. + Đảm bảo cung cấp các điều kiện vật chất cho các thành viên để gia đình không chỉ là một đơn vị xã hội mà còn là một đơn vị kinh tế sản xuất và tiêu dùng. - Thiết chế giáo dục Thiết chế giáo dục là quá trình xã hội hoá phát triển không chính thức ngay trong gia đình và môi trường văn hoá chung và chính thức trong tổ chức giáo dục phức tạp của xã hội. Nó có các thiết chế phụ thuộc như chế độ thi cử, bằng cấp, học hàm, học vị Thiết chế giáo dục có các chức năng cơ bản như: + Chuẩn bị và cung cấp cho cá nhân những học vấn tri, thức cơ bản và nghề nghiệp xã hội. + Truyền bá và chuyển giao di sản văn hoá qua các thế hệ. + Giúp cho mỗi cá nhân làm quen, tiếp nhận các vai trò và đảm nhiệm các vai trò đó cho phù hợp với sự mong đợi của xã hội. + Tham gia kiểm soát và điều chỉnh hành vi cá nhân cũng như các quan hệ xã hội. Ở nước ta hiện nay, khi nói nâng cao dân trí, tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phổ cập giáo dục, xã hội hoá giáo dục chính là đang thực hiện thiết chế này. - Thiết chế kinh tế Là những khuôn mẫu, chuẩn mực được tiêu chuẩn hoá và nhờ đó mà xã hội được cung cấp đầy đủ về vật chất và các loại hình dịch vụ. Nó bao gồm sự sản xuất, kinh doanh, trao đổi và tiêu thụ sản phẩm, nhằm đảm bảo cho cuộc sống vật chất, tinh thần của xã hội được duy trì và phát triển. Trong thiết chế kinh tế có rất nhiều thiết chế phụ thuộc như tín dụng, ngân hàng, quảng cáo sản phẩm. Chức năng chủ yếu của thiết chế kinh tế là: + Đảm bảo cho quá trình sản xuất, trao đổi hàng hoá và dịch vụ. + Đảm bảo cho việc phân phối sản phẩm hàng hoá và dịch vụ.
- + Đảm bảo cho việc tiêu dùng sản phẩm và sử dụng các dịch vụ. - Thiết chế chính trị Là thiết chế biểu hiện tập trung các lợi ích về quan hệ chính trị tồn tại trong xã hội. Tổng thể các thiết chế chính trị quyết định bản chất giai cấp của hệ thống chính trị xã hội, quyết định mức độ dân chủ hoá đời sống xã hội. Nó bao gồm các thiết chế phụ thuộc như hệ thống toà án, pháp luật, quân đội, cảnh sát. Các chức năng của thiết chế chính trị liên quan chủ yếu tới việc phân chia, củng cố và thi hành quyền lực chính trị. Đồng thời đáp ứng một cách kịp thời, có hiệu quả các nhu cầu của con người và toàn xã hội về việc tổ chức, quản lý, điều hành mọi hoạt động sống một cách trật tự và an ninh. - Thiết chế tôn giáo Là thiết chế được biểu lộ thông qua các tín ngưỡng và hình thức thờ phụng mà con người thực hiện với nhau. Thiết chế này luôn luôn bao gồm những hệ thống luân lý và đạo đức, chỉ rõ điều phải - trái trong những khuôn mẫu tác phong. Đi liền với nó là các thiết chế phụ thuộc khác như những thể thức cầu nguyện, giáo luật, cách tổ chức các nghi thức, nghi lễ Có khi và có nơi sự thực hành ma thuật và những mê tín dị đoan được các tổ chức tôn giáo biến thành thiết chế. Thiết chế tôn giáo có các chức năng: + Chức năng đền bù hư ảo Đây là chức năng xã hội chủ yếu của tôn giáo với tư cách là một hình thái ý thức xã hội. Trong bất cứ xã hội nào, giai đoạn lịch sử nào, dù tôn giáo nguyên thuỷ hay tôn giáo hiện đại, tôn giáo dân tộc hay tôn giáo thế giới, chức năng đền bù hư ảo cho sự bất lực, yếu ớt của con người, an ủi, khuyến khích con người hướng vào những lực lượng siêu nhiên do mình tưởng tượng ra để giải quyết sự yếu kém, bất lực của mình trước tự nhiên và xã hội luôn luôn đóng vai trò hàng đầu. + Chức năng thế giới quan Hướng con người vào những vấn đề ảo tưởng, tin ở thế giới ngày mai, chờ đợi sự cứu rỗi, ban phước của Đấng tối cao hơn là đấu tranh thực tiễn, hoạt động thực tiễn để giành giật và xây dựng một cuộc sống hạnh phúc thật sự trong đời sống hiện thực. + Chức năng điều chỉnh Tôn giáo đã tạo ra một hệ thống các chuẩn mực và giá trị, trong đó giá trị cao nhất là vai trò của các “Đấng tối cao”, của lực lượng siêu nhiên. Các chuẩn mực tôn giáo không đơn thuần thể hiện ở giáo lễ mà còn ăn sâu vào luân lý, đạo đức xã hội và điều chỉnh hành vi đạo đức của con người. Tóm lại, thiết chế gia đình nhằm điều hoà hành vi tình cảm, tình dục và nuôi dạy con cái. Thiết chế giáo dục nhằm truyền thụ lại những tri thức văn hoá cho thế hệ trẻ và kế thừa, phát triển các tri thức khoa học nói chung cho nhân loại. Thiết chế kinh tế
- đảm bảo quá trình sản xuất, phân phối lợi ích và các dịch vụ. Thiết chế chính trị bảo đảm việc thiết lập và giữ vững quyền hạn chính trị, cùng với thiết chế pháp luật đảm bảo trật tự, công bằng và kiểm soát xã hội Ngoài ra còn có hàng loạt các thiết chế xã hội cơ bản khác như thiết chế khoa học, quân đội, thể thao, y tế, đạo đức, dư luận xã hội, giải trí công cộng v.v Hệ thống thiết chế trong một xã hội luôn luôn phối hợp, liên kết và bổ sung cho nhau để đảm bảo tốt cho sự phát triển văn hoá, xã hội. Con người là chủ thể sáng tạo, xây dựng nên các thiết chế và thiết chế tồn tại được là nhờ vào cuộc sống hiện thực của con người, nhưng đồng thời con người không thể sống mà không có một hệ thống thiết chế rõ ràng. CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ HƯỚNG DẪN TỰ HỌC CHƯƠNG 5 1. Câu hỏi ôn tập: 1. Tổ chức xã hội là gì? Các dấu hiệu của tổ chức xã hội. 2. Thế nào là: Nhóm quyền uy, Hiệp hội tự nguyện? 3. Vai trò, ý nghĩa và nhược điểm bệnh lý của bộ máy quan liêu. 4. Thế nào là quyền lực xã hội? Các hình thức biểu hiện của quyền lực xã hội. 5. Trình bày các lý thuyết cơ bản của trật tự xã hội. 6. Thế nào là khuôn mẫu, chuẩn mực xã hội? Đặc điểm của khuôn mẫu chuẩn mực xã hội. 7. Giá trị là gì? Đặc điểm và vai trò định hương xã hội của giá trị. 8. Thiết chế là gì? Trình bày đặc điểm, chức năng của thiết chế. 9. Phân tích nội dung của các loại thiết chế cơ bản trong xã hội. 2. Hướng dẫn tự học: Trọng tâm của chương sách này tập trung ở 3 nội dung lớn: - Tổ chức xã hội là một thành tố của cơ cấu xã hội, trong mỗi xã hội luôn tồn tại nhiều loại tổ chức xã hội khác nhau, mỗi tổ chức xã hội được lập ra đều nhằm vào một mục đích nhất định, có chức năng điều tiết trật xã hội, đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của các cá nhân, tầng lớp xã hội. Tổ chức xã hội luôn đi liền với quyền lực xã hội, được biểu hiện ở những cấp độ khác nhau - Bất kỳ một xã hội nào cũng đều xây dựng cho mình một hệ thống các khuôn mẫu, chuẩn mực, trước hết nó là cái thước đo việc thực hiện vai trò xã hội của mỗi cá nhân, thứ hai, nó là một thứ chế tài bắt buộc con người sống tuân thủ theo những quy định mà xã hội đã tạo ra, giúp cho con người phân biệt cái được phép và không được phép, cái nên và không nên; từ đó hướng tới những giá trị đích thực của xã hội – tức cái mang lại lợi ích cho con người và xã hội. Khuôn mẫu, chuổn mực, giá trị là những thành tố quan trọng của một nền văn hoá - Mỗi xã hội muốn tồn tại ổn định và phát triển tất yếu phải có một hệ thống các thiết chế, mỗi loại thiết chế đề có cơ cấu, đặc điểm và chức năng riêng của nó. Mỗi khi xã hội thay đổi thì các thiết chế cũng thường thay đổi theo. Trong hệ thống thiết chế của mỗi xã hội luôn tồn tại những thiết chế cơ bản, coa vai trò và chức năng rất quan trọng trong điều tiết các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội
- Chương 6 VĂN HOÁ, XÃ HỘI HOÁ, BIẾN ĐỔI XÃ HỘI VÀ MỘT SỐ LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU KHÁC CỦA XÃ HỘI HỌC 1. VĂN HOÁ 1.1. Khái niệm văn hoá 1.1.1. Nguồn gốc, nội dung thuật ngữ văn hoá Trong khoa học xã hội thuật ngữ văn hoá là một danh từ có ý nghĩa chuyên môn, nhưng trong thực tiễn của đời sống xã hội nó được dùng với nhiều ý nghĩa khác nhau. Có lúc nó được dùng để chỉ phong cách ứng xử giữa các cá nhân có phù hợp với các khuôn mẫu, chuẩn mực, giá trị của xã hội hay không. Nhưng cũng có lúc nó được dùng để chỉ những người có trình độ học vấn với ý nghĩa trình độ văn hoá cao - thấp. Hoặc văn hoá còn được sử dụng để chỉ các loại hình nghệ thuật như hội họa, điêu khắc, phim ảnh và các hoạt động vui chơi giải trí. Văn hoá là một trong những vấn đề cơ bản trong nghiên cứu xã hội học. Bởi vì, cái làm cho loài người khác với loài vật chính là văn hoá. - Nguồn gốc thuật ngữ văn hoá Về mặt ngữ nghĩa khoa học, thuật ngữ văn hoá được sử dụng từ rất sớm ở phương Đông, trong quẻ Bi của Chu Dịch đã có từ “văn hoá”, ở Trung Quốc, người sử dụng thuật ngữ sớm nhất có lẽ là Lưu Hướng (77 - 6 tr.CN). Bấy giờ thuật ngữ văn hoá được dùng với nghĩa là một phương thức giáo hoá con người - “Văn trị giáo hoá” (dùng võ mà không phục tùng, dùng văn mà không sửa đổi thì mới dùng đến hình phạt chém giết). Còn ở phương Tây, thuật ngữ văn hoá đã có trong ngôn ngữ của nhiều nước như: Đức (Kultur), Anh (Culture), Nga (Kultura). Tất cả đều bắt nguồn từ ngôn ngữ Latinh, chữ Cultus có nghĩa gốc là gieo trồng, Cultus Agri: gieo trồng (trên) ruộng đất hay Cultus Animi: gieo trồng (về) tinh thần, tức là sự giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn con người. Như vậy chữ “văn hoá” có thể nhằm chỉ sự gieo trồng thích ứng với tự nhiên và sự giáo dục, đào tạo cá thể hay cộng đồng để họ không còn là con vật tự nhiên. - Nội dung thuật ngữ văn hoá Trong quá khứ khái niệm văn hoá thường được đặc trưng bởi hai quan niệm truyền thống khác biệt nhau. Truyền thống Đức coi văn hoá là “môi trường nhân tạo” là “bản chất thứ hai” của con người. Còn truyền thống Pháp cho rằng văn hoá bao gồm những thành quả cao nhất của con người trong lĩnh vực hoạt động chế tạo, kỹ thuật, giáo dục, khoa học và nghệ thuật. Tâm lý học xem xét văn hoá từ góc độ tác động của nó đến cá nhân trong quá trình xã hội hoá và coi văn hoá là toàn thể những môn học cho phép cá nhân trong một xã hội nhất định đạt tới sự phát triển nào đó về ý thức phê phán và các năng lực nhận thức, các khả năng sáng tạo. Theo quan niệm của triết học,
- văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất, tinh thần do con người tạo ra trong quá trình thực tiễn của lịch sử xã hội và đặc trưng cho trình độ đạt được trong sự phát triển của lịch sử xã hội. Đến thế kỷ XIX các nhà nhân loại học phương Tây cho rằng văn hoá thế giới có thể phân loại theo trình độ từ thấp đến cao và trong đó văn hoá phương Tây đạt trình độ cao nhất. E. B. Tylor (nhà Nhân học văn hoá, người Anh) đã đưa ra định nghĩa: văn hoá là toàn bộ phức hợp bao gồm kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và các khả năng khác cùng tập quán do con người thu thập được với tư cách là tập đoàn xã hội. Theo cách định nghĩa này thì: Nơi nào có dân chúng, có các tập đoàn xã hội là có văn hoá. Sang thế kỷ XX, một số nhà nghiên cứu cho rằng: văn hoá là loại hành vi rõ ràng và ám thị đã được đúc kết và truyền lại bằng biểu tượng; hoặc, văn hoá là tấm gương nhiều mặt phản chiếu đời sống và nếp sống của một cộng đồng dân tộc Theo xã hội học, văn hoá là sản phẩm sáng tạo của con người, chẳng hạn như: các quan niệm về cuộc sống, cách thức tổ chức cuộc sống, phương tiện, điều kiện vật chất, tinh thần để thực hành cuộc sống Văn hoá là tất cả những gì có thể đáp ứng các nhu cầu nhất định của con người, là mức độ con người hoá chính bản thân mình và tự nhiên. Con người cùng sống trong một xã hội nhất định thì cùng có chung một nền văn hoá. Văn hoá là cái xã hội tạo ra và sử dụng, là hệ thống di sản chung của xã hội, bao gồm những di sản vật chất như nhà cửa, quần áo, các phương tiện sinh hoạt và những di sản phi vật chất như ngôn ngữ, tư tưởng, giá trị, đạo đức Trong xã hội học, văn hoá có thể được xem xét như hệ thống các giá trị, chân lý, các chuẩn mực và mục tiêu mà con người cùng thống nhất với nhau trong quá trình tương tác qua thời gian. Các nhóm, các cộng đồng xã hội trong mỗi xã hội đều xây dựng các giá trị, các chân lý, các đặc trưng cho mình và do đó họ có một nền văn hoá riêng. 1.1.2. Phân loại khái niệm văn hoá Khi nghiên cứu văn hoá xã hội học chú ý phân biệt các khái niệm: tiểu văn hoá, phản văn hoá và văn hoá nhóm. - Tiểu văn hoá, là văn hoá của các cộng đồng xã hội có sắc thái khác với nền văn hoá chung của toàn xã hội, nhưng không đối lập với nền văn hoá chung đó. Ví dụ, văn hoá của một dân tộc thiểu số trong một quốc gia đa dân tộc, hay văn hoá của một nhóm nghề nghiệp, nhóm tuổi tác - Phản văn hoá, là những hình thức biểu hiện công khai nhằm bác bỏ những chuẩn mực, giá trị của nền văn hoá chung. Phản văn hoá có thể được xem như tập hợp các chuẩn mực, giá trị của một nhóm người trong xã hội đối lập và xung đột với các chuẩn mực, giá trị chung của toàn xã hội. Điều ấy cũng có nghĩa là giữa phản văn hoá và văn hoá chung có sự khác biệt, đây là hiện tượng thường thấy trong xã hội.
- - Văn hoá nhóm, là hệ thống các giá trị, các quan niệm, tập tục được hình thành trong một nhóm. Tất cả các nhóm xã hội đều có văn hoá của mình, nhưng đồng thời đó cũng là một phần của nền văn hoá chung toàn xã hội. Văn hoá nhóm phản ánh những nét riêng biệt của các tập đoàn, các tổ chức xã hội trong một nền văn hoá chung. - Văn minh Trong danh từ Hán - Việt, văn là vẻ đẹp, minh là sự trong sáng, văn minh là vẻ đẹp trong sáng. Chữ Anh là Civilisation có căn gốc Latinh từ chữ Civitas có nghĩa là đô thị, thành phố. Khái niệm văn minh thường bao hàm bốn yếu tố: đô thị, nhà nước, chữ viết và các biện pháp kỹ thuật. Văn minh được hiểu là trình độ phát triển nhất định của văn hoá về phương diện vật chất, đặc trưng cho một khu vực rộng lớn, một thời đại hoặc của cả nhân loại. Giữa văn hoá và văn minh có ba điểm khác nhau cơ bản: TT Văn hoá Văn minh 1 Có bề dày quá khứ (lịch đại) Chỉ là một lát cắt đồng đại Bao gồm cả các yếu tố vật chất và tinh Chỉ thiên về khía cạnh vật chất và tiến bộ 2 thần. khoa học kỹ thuật. 3 Mang tính dân tộc rõ rệt Mang tính siêu dân tộc, tính quốc tế (v.h VN, v.h TQ, v.h Pháp ) (v.m nông nghiêp, v.m công nghiệp) - Văn hiến (hiến = hiền tài) Đây là một khái niệm được sử dụng phổ biến từ xa xưa ở phương Đông, nhằm chỉ một truyền thống văn hoá lâu đời và tốt đẹp. Khái niệm văn hiến thiên về những giá trị tinh thần thể hiện tính dân tộc, tính lịch sử rõ rệt. Ở Việt Nam, từ xưa đã có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm này: “Duy nước Đại Việt ta thực sự là một nước văn hiến” (Nguyễn Trãi), là nhằm chỉ một nền văn hoá cao, chú trọng nhiều đến nếp sống tinh thần, đạo đức; hay văn hiến là “sách vở”, là danh nhân - Văn vật (vật = vật chất) Khái niệm này nhằm chỉ một truyền thống văn hoá tốt đẹp của một vùng đất mà trong lịch sử có nhiều nhân tài, nhiều di tích lịch sử và danh thắng, hay chỉ những công trình kiến trúc, những hiện vật có giá trị lịch sử và nghệ thuật, nó cũng thể hiện sâu sắc tính dân tộc và tính lịch sử. 1.2. Các thành tố văn hoá Văn hoá là một hệ thống chứa đựng trong đó hàng loạt các thành tố như: chân lý, giá trị, mục tiêu và chuẩn mực. Giữa các thành tố này luôn có sự liên kết chặt chẽ với nhau, sự thay đổi của một thành tố văn hoá này bao giờ cũng kéo theo sự thay đổi của các thành tố văn hoá khác khác. 1.2.1. Chân lý
- Chân lý là tri thức phù hợp với hiện thực khách quan và được thực tế kiểm nghiệm. Trong lịch sử tư tưởng đã từng tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về chân lý, ví như, chân lý là tính chính xác, rõ ràng của tư duy; hay chân lý là những nguyên lý được nhiều người tán thành, thừa nhận. Theo nhận thức của xã hội học, chân lý là sự phản ánh đúng đắn thế giới khách quan trong ý thức con người, là những quan niệm về cái thật và cái đúng. Chính vì vậy mà trong xã hội, mỗi nền văn hoá đều có những cái thật và cái đúng khác nhau; cái mà nền văn hoá này coi là chân lý thì có thể lại bị phủ nhận ở một nền văn hoá khác. Một cá nhân không thể xây dựng được chân lý, mà chân lý chỉ có thể được hình thành thông qua nhóm hay cộng đồng người. Các cá nhân nhờ trải qua quá trình tiếp xúc, tương tác với các nhóm nhỏ, nhóm lớn mà hình thành nên những ý kiến cho là đúng, là thật và ngày càng có tính khách quan hơn, gần với hiện thực hơn. Chân lý luôn luôn là cụ thể vì cái khách quan hiện thực là nguồn gốc của nó. Con người tồn tại không tách rời những điều kiện khách quan lịch sử cụ thể, khi mà những điều kiện khách quan thay đổi thì chân lý khách quan cũng thay đổi. Mỗi dân tộc đều có những hoàn cảnh lịch sử khác nhau và vì vậy trong nền văn hoá của họ có các bộ phận chân lý khác nhau. Thậm chí trong nền văn hoá của một dân tộc ở những thời điểm lịch sử khác nhau cũng có các chân lý khác nhau. 1.2.2. Giá trị Giá trị là cái mà ta cho là đáng có, ta thích và ta cho là quan trọng để hướng dẫn cho hành động của ta. Phần lớn các giá trị căn bản của xã hội đều được con người tiếp nhận ngay từ khi còn nhỏ thông qua gia đình, nhà trường, bạn bè, thông tin đại chúng và qua các nguồn khác nhau của xã hội (xã hội hoá). Những giá trị này trở thành một phần của nhân cách con người. Giá trị có vai trò chỉ ra cái gì là phù hợp, cái gì không phù hợp với cá nhân, với cộng đồng, với xã hội, cho nên chúng đồng thời chấp nhận hoặc phủ nhận những kiểu hành vi nào đó. Giá trị ảnh hưởng đến động cơ hành động và hướng dẫn cho hành động của con người, vì thế có thể quan sát hành động của một người nào đó mà đoán được giá trị của anh ta. Tuy nhiên cũng có những trường hợp ngoại lệ là giá trị và hành động không nhất quán với nhau. Giá trị là cái có thực và tồn tại trong hiện thực, cho nên nó phụ thuộc trực tiếp vào điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của từng xã hội. Mỗi xã hội, mỗi nền văn hoá có những hệ giá trị khác nhau; hệ giá trị của một xã hội là phương hướng phấn đấu cho toàn xã hội. 1.2.3. Mục tiêu Mục tiêu được coi như là sự dự đoán trước kết quả của hành động, là cái đích thực tế cần phải hoàn thành, con người bao giờ cũng tổ chức các hành động của mình xoay quanh những cái đích thực tế đó. Mục tiêu có khả năng tập hợp các hành động khác nhau của con người vào trong một hệ thống. Trong đời sống của hiện thực xã hội bao giờ cũng tồn tại những mục tiêu cá nhân và mục tiêu chung của cộng đồng xã hội. Mục tiêu chung có thể được hình thành nhờ có sự đồng ý lẫn nhau của các mục tiêu cá nhân, hoặc sự trùng hợp của một vài mục tiêu cá nhân của các thành viên trong nhóm.
- Mục tiêu là một bộ phận của văn hoá và phản ánh văn hoá của một dân tộc. Mục tiêu chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của giá trị, giá trị như thế nào thì dễ sinh ra mục tiêu như thế, không có giá trị thì không có mục tiêu, giá trị gắn bó với mục tiêu. Các tổ chức xã hội tồn tại được là do sự tương tác của các thành viên khi cùng nhau chia sẻ những mục tiêu và giá trị chung. Mục tiêu và giá trị tạo ra con người hành động, tạo ra sự tồn tại của tổ chức xã hội. Khi giá trị và mục tiêu không thống nhất thì tổ chức xã hội sẽ suy yếu, do vậy, muốn củng cố tổ chức xã hội thì phải củng cố giá trị và mục tiêu. 1.2.4. Chuẩn mực Chuẩn mực là tập hợp tất cả những mong đợi, những yêu cầu, những nguyên tắc của xã hội được ghi nhận bằng lời nói, bằng ký hiệu hay bằng các biểu trưng có tác dụng định hướng cho các hành vi của cá nhân trong xã hội. Chuẩn mực thực hiện chức năng liên kết, điều chỉnh, duy trì quá trình hoạt động của xã hội cũng như của các mối quan hệ tác động lẫn nhau của các cá nhân và các nhóm xã hội. Phạm vi của chuẩn mực rất rộng, bao hàm từ những đạo luật, những quy tắc chặt chẽ nhất cho đến những quy định lỏng lẻo giữa một số cá nhân với nhau. Mỗi địa vị xã hội đều có những chuẩn mực riêng, mỗi thành viên của một tổ chức xã hội nào đó đều phải tiếp nhận và tự giác tuân theo chuẩn mực của tổ chức đó. Trong quá trình sống, các chuẩn mực thấm vào con người một cách tự nhiên. Dựa vào những căn cứ khác nhau mà người ta chia chuẩn mực ra thành nhiều loại: + Căn cứ vào mức độ cộng đồng để chia thành: chuẩn mực toàn xã hội và chuẩn mực của các hệ thống xã hội nhỏ (chuẩn mực nhóm). + Căn cứ vào mức độ thiết chế để chia thành: Chuẩn mực được thiết chế hoá, tức là những quy tắc được thực hiện bởi các thiết chế chính thức quy định bằng văn bản và chuẩn mực không được thiết chế hoá, tức là những quy tắc được quy định không chính thức bằng truyền miệng. Ngoài ra chuẩn mực còn biểu lộ dưới hình thức lề thói và phép tắc: + Lề thói là những tục lệ, những quy ước đã đưa ra các quy tắc đối với hành vi của con người trong một nhóm hay trong một xã hội. Sự vi phạm lề thói thường chỉ bị chỉ trích nhẹ nhàng, cùng lắm là loại ra khỏi cộng đồng. Lề thói được con người tiếp thu qua giao tiếp và được truyền đi từ thế hệ này sang thế hệ khác. Con người thường tiếp nhận lề thói một cách dễ dàng theo kiểu nhập gia tuỳ tục hay đất lề quê thói, chấp nhận như là một sự đương nhiên. + Phép tắc là những chuẩn mực quan trọng hơn lề thói, do vậy trong mỗi cộng đồng thường cử ra một nhóm người làm nhiệm vụ thực thi các phép tắc. Những cá nhân vi phạm phép tắc sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc, có thể bị khai trừ ra khỏi cộng đồng bằng cách đi tù , thậm chí bị xử tử hình. Chuẩn mực quan trọng nhất đối với mọi xã hội là pháp luật, pháp luật là những chuẩn mực có tính pháp chế. Nó không chỉ đơn thuần quy định những hành vi nào là
- không được phép mà còn đưa ra những hình phạt đối với những cá nhân vi phạm luật. Pháp luật, lề thói, phép tắc là những thành tố của văn hoá cho nên chúng có thể rất khác nhau trong những trong những xã hội hay những nhóm văn hoá khác nhau. 1.3. Tính đặc thù của văn hoá Mọi quốc gia, dân tộc hay cộng đồng xã hội đều có nền văn hoá riêng của mình. Tính chất, trình độ của các nền văn hoá đó có thể không giống nhau, nhưng tất cả đều liên quan đến môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và các khuôn mẫu xã hội, các hệ thống giá trị, các thiết chế. Mọi nền văn hoá đều bắt rễ trên một mảnh đất sinh tử, phát triển và phụ thuộc vào một môi trường sinh thái. Môi trường này góp phần vào việc hình thành những quan niệm, giá trị, chuẩn mực Những con người cùng chung một nền văn hoá, một hệ thống văn hoá không nhất thiết phải có biểu hiện trình độ văn hoá giống nhau, như nhau, mà tuỳ thuộc vào vai trò, vị thế của từng người. Văn hoá là sự tích luỹ sáng tạo của nhiều đời người, cho nên nó là cái có trước mọi cá nhân và trường tồn hơn mọi đời sống của cá nhân. Một nền văn hoá toàn diện là một nền văn hoá bao hàm những thiết chế cơ bản của xã hội. Mặt khác văn hoá được xem là ý thức hệ của xã hội, mà ý thức hệ là yếu tố mang lại cho xã hội đặc tính riêng biệt và nổi bật của nó. Vì vậy có thể phân biệt các nền văn hoá khác nhau bằng cách dựa vào các thết chế cơ bản. Khi xã hội vận động và phát triển thì bao giờ cũng kéo theo sự vận động và phát triển của văn hoá. Ở đâu có sự tiếp xúc giữa các nền văn hoá thì ở đó dễ nảy sinh những yếu tố văn hoá mới và kinh tế, xã hội ở đó cũng phát triển nhanh hơn. Ngôn ngữ là biểu tượng, là mối liên hệ mật thiết của văn hoá. Đối với một cá nhân, biết một thứ tiếng không chỉ đơn thuần là có thêm một công cụ để giao tiếp mà đó còn là một phương tiện quan trọng để hiểu biết một nền văn hoá. Việc phân chia tiến trình phát triển của lịch sử loài người thành các thời kỳ văn hoá như: văn hoá đồ đá, văn hoá đồ đồng, văn hoá đồ sắt hay văn hoá nguyên thuỷ, văn hoá cổ đại, văn hoá nông nghiệp, công nghiệp chứng tỏ văn hoá là một dấu hiệu quan trọng của xã hội loài người. Nguồn gốc của văn hoá bắt nguồn từ xã hội, ở đâu có sự tồn tại của xã hội loài người thì ở đó nhất định tồn tại một nền văn hoá ở một trình độ nhất định. Ngày nay, việc phân loại văn hoá không còn tuân theo xu hướng tư duy logic hình thức, phân tích chẻ nhỏ các sự kiện tổng thể của văn hoá như kiểu phân chia thành: văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần, văn hoá xã hội Bởi vì cách phân chia như vậy sẽ bế tắc khi phải lý giải sự gắn bó hữu cơ giữa cái hữu thể và cái vô hình của văn hoá. Người ta có thể dựa vào các thiết chế cơ bản của xã hội để phân chia văn hoá thành: văn hoá gia đình, văn hoá giáo dục, văn hoá lễ hội, văn hoá ẩm thực mà trong đó các yếu tố văn hoá vật thể và phi vật thể, hữu hình và tâm linh luôn tồn tại, ẩn chứa trong nhau. Điều này được thể hiện phong phú trong văn hoá gia đình, văn hoá ẩm thực. Trong ăn
- uống, cơm, canh, cá, thịt, rượu, bia, nước uống là những cái hữu thể, nhưng cùng với nó là những cái phi hữu thể rất đa dạng và phức tạp như cách thức chế biến món ăn, cách thức thưởng ngoạn chúng hay các nghi thức giao tiếp trong ăn – uống, cách quan niệm về bữa ăn (ăn bữa cơm thường, ăn cơm khách, ăn giỗ, ăn cỗ, tiệc mừng, đám khao ). Tóm lại, trong các yếu tố văn hoá vật thể luôn chứa đựng các yếu tố văn hoá phi vật thể. Sở dĩ các sản phẩm vật chất được coi là sản phẩm văn hoá vì chúng là biểu tượng của tác phong và các hoạt động của con người; là phương tiện truyền thông mà trong đó con người ký thác những tâm tư, nguyện vọng và sự sáng tạo của mình. 1.4. Chức năng của văn hoá Trong những công trình nghiên cứu về văn hoá, có rất nhiều cách xác định khác nhau về chức năng của văn hoá, ở đây chỉ đề cập đến cách quan niệm của xã hội học về chức năng văn hoá. Văn hoá ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động sống của mỗi cá nhân. Con người sinh ra, lớn lên và nhân cách được hình thành trong môi trường văn hoá nào sẽ mang đậm dấu ấn của nền văn hoá đó. Văn hoá có thể được coi như cái khuôn để đúc nên nhân cách con người. Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc vào sự thích nghi của từng người. Mỗi người tiếp thu văn hoá theo một lối riêng của mình, ở đây văn hoá mang lại cho cá nhân một hình thù, một bộ mặt nhất định, cho phép họ tồn tại và hoạt động được trong một xã hội nào đó. Các hệ thống xã hội được hình thành là do có sự liên hệ lẫn nhau giữa các cá nhân hay các nhóm xã hội. Văn hoá không chỉ phản ánh mối liên kết giữa họ trong hệ thống xã hội mà còn góp phần quan trọng vào việc duy trì sự tồn tại của hệ thống xã hội. Văn hoá tạo nên bản sắc khác nhau của các xã hội, cũng như tạo nên sự khác biệt giữa con người với con người. Văn hoá được dùng như là cái nhãn mác để phân biệt con người của xã hội này với con người của xã hội khác. Ví dụ như người Việt Nam, người Trung Quốc, văn hoá Việt Nam, văn hoá Trung Quốc Văn hoá là sản phẩm của loài người, nó được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội, được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hoá là trình độ phát triển của xã hội và con người được biểu hiện trong các hình thức tổ chức đời sống, cũng như trong các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. 1.5. Hội nhập văn hoá, hội nhập xã hội Trong xã hội học, danh từ hội nhập được hiểu là những diễn tiến xã hội như sự đồng hoá, sự xã hội hoá, sự thích nghi văn hoá Chẳng hạn, trong điều kiện kinh tế - xã hội phát triển, quá trình đô thị hoá diễn ra nhanh chóng, nhiều nông dân bỏ làng quê ra thành thị làm ăn, sinh sống. Đó chính là quá trình hội nhập của người nông dân vào
- cuộc sống đô thị, họ từ bỏ các mối quan hệ gia tộc, láng giềng thân thuộc ở nông thôn, tiếp nhận và thiết lập những quan hệ xã hội mới của lối sống đô thị. Do đó hội nhập vừa có ý nghĩa như một diễn tiến, vừa như là một kết quả diễn ra không bao giờ ngừng trong cuộc sống của con người. Sự hội nhập văn hoá xã hội có tính chất tương đối, sự biến đổi của hệ thống xã hội văn hoá được xem như là điều kiện cần thiết cho sự điều hành về xã hội và văn hoá. Điều kiện thứ nhất là phải duy trì sự hợp tác, và điều kiện thứ hai là nhằm thoả mãn các nhu cầu xã hội văn hoá. 1.5.1. Hội nhập văn hoá Con người trong xã hội không thể sống cô lập mà luôn luôn có mối quan hệ với người khác, với khuôn mẫu tác phong được mọi người thừa nhận. Chính vì vậy, có thể tìm hiểu quá trình hội nhập văn hoá qua khuôn mẫu tác phong và lĩnh vực văn hoá nói chung. Trong hội nhập văn hoá, các thiết chế chủ yếu luôn có sự phối hợp vững chắc với nhau. Tuy nhiên, văn hoá luôn có sự chuyển biến không đồng đều, tốc độ phát triển của các thành phần văn hoá cũng rất khác nhau, do đó một thiết chế nào đó có thể phát triển chậm hơn. Một truyền thống, một phong tục, cho dù là hủ tục cũng không dễ gì một sớm, một chiều có thể xoá bỏ được ngay. Một nhân tố văn hoá mới, tiến bộ cũng vậy, từ khi xuất hiện cho đến khi được củng cố và khẳng định, phải qua một quá trình trải nghiệm lâu dài của đời sống xã hội. Sự hội nhập văn hoá thường gắn liền với quá trình tiếp xúc, giao lưu và tiếp biến văn hoá. Trong thời đại ngày nay, không có một dân tộc nào có thể tách rời, sống biệt lập với thế giới. Riêng với văn hoá, tiến bộ của khoa học công nghệ thông tin lại càng đặt ra việc phát triển văn hoá dân tộc không thể tách rời với văn hoá thế giới. Hằng số của văn hoá Việt Nam là mở cửa đón nhận truyền thống văn hoá bốn phương, tiếp nhận cái tốt, cái thích hợp, loại bỏ cái xấu, cái không thích hợp. Nếu mất bản sắc dân tộc thì cũng mất văn hóa, và khi đã mất văn hoá thì cũng mất dân tộc. 1.5.2. Hội nhập xã hội Thông thường, khi xem xét sự hội nhập xã hội người ta chú ý đến các khía cạnh: - Hội nhập về nhân cách xã hội - Hội nhập vào các đoàn thể - Hội nhập với toàn xã hội. Hội nhập không xoá bỏ sự khác biệt, nó chỉ tạo ra sự phối hợp và định hướng cho những khác biệt. Hội nhập xã hội và đồng hoá xã hội là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. Trong hiện thực của đời sống xã hội ít khi có sự gắn bó giữa văn hoá và xã hội, thường thì cái này là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của cái kia.
- 2. XÃ HỘI HOÁ 2.1. Quan niệm và định nghĩa về xã hội hoá 2.1.1. Quan niệm về xã hội hoá Ngày nay khái niệm xã hội hoá được sử dụng với hai nội dung, hai quan niệm khác nhau. - Quan niệm thứ nhất Nhằm chỉ sự tăng cường chú ý quan tâm của xã hội đến những vấn đề, sự kiện cụ thể nào đó mà trước đây chỉ có một bộ phận của xã hội có trách nhiệm quan tâm. Hay nói cách khác là do tầm quan trọng, ý nghĩa xã hội của vấn đề cụ thể đó mà từ chỗ chỉ có một nhóm, một bộ phận của xã hội quan tâm, thì đến nay ngày càng được đông đảo quần chúng quan tâm. Đó là quá trình xã hội hoá các vấn đề, các sự kiện xã hội, chẳng hạn như xã hội hoá vấn đề giáo dục, xã hội hoá vấn đề y tế. - Quan niệm thứ hai Nhằm chỉ quá trình chuyển biến con người từ một chỉnh thể sinh vật có bản chất xã hội với các tiền đề tự nhiên đến một chỉnh thể sinh vật xã hội đại diện của xã hội loài người. Đây chính là quá trình xã hội hoá cá nhân. Trong các quan niệm trên, căn cứ vào tính chủ động của cá nhân trong quá trình xã hội hoá mà người ta chia thành hai loại ý kiến: + Loại thứ nhất, ít đề cập đến tinh chủ động của cá nhân trong quá trình thu nhận kinh nghiệm xã hội. Các cá nhân dường như bị khuôn vào các chuẩn mực khuôn mẫu mà không chống đối lại được. Tưởng chừng như mỗi cá nhân được xã hội mặc cho một “chiếc áo văn hoá” phù hợp theo cách nhìn của xã hội với từng nơi, từng thời điểm, giai đoạn của cuộc sống mà bản thân cá nhân không có quyền tự lựa chọn cho mình. + Loại thứ hai, khẳng định tính tích cực, sáng tạo của cá nhân trong quá trình xã hội hoá. Cá nhân không chỉ tiếp thu những kinh nghiệm xã hội mà còn tham gia vào quá trình tạo ra các kinh nghiệm xã hội, nghĩa là cá nhân đã tham gia vào quá trình “cá nhân hoá xã hội”. 2.1.2. Định nghĩa Tuy có những khác biệt trong quan niệm như, nhưng các nhà khoa học đều thống nhất với nhau rằng: xã hội hoá là một quá trình, có bắt đầu, có diễn biến và có kết thúc. Neil Smelser định nghĩa: Xã hội hoá là quá trình mà trong đó cá nhân học cách thức hành động tương ứng với vai trò của mình. Theo định nghĩa này, vai trò của cá nhân trong quá trình xã hội hoá chỉ giới hạn trong việc tiếp nhận các kinh nghiệm, giá trị, chuẩn mực, chứ không đề cập đến việc cá nhân có khả năng sáng tạo ra những điều đó cho xã hội học tập hay không. Nếu vậy, cá
- tính của con người dường như bị tan biến vào trong những đặc điểm xã hội mà con người tiếp thu được. Thực tế cho thấy, trong quá trình tương tác xã hội mỗi con người đều có những điểm mà đối tác của họ có thể học tập. Trong lịch sử đã có những nhân cách lớn lao tạo ra những chuẩn mực, giá trị được thừa nhận trong một quốc gia, thậm chí cả thế giới, đó là những chính trị gia, những nhà giáo dục học, những nhà khoa học, nhà văn hoá nổi tiếng thế giới. Xuất phát từ nhận thức đó mà J. Fichter đã định nghĩa: xã hội hoá là một quá trình tương tác giữa người này và người khác, kết quả là một sự chấp nhận những khuôn mẫu hành động, và thích nghi với những khuôn mẫu hành động đó. Định nghĩa này của Fichter đã chú ý hơn tới tính tích cực của cá nhân trong quá trình xã hội hoá. G. Andreeva, cho rằng: xã hội hoá là quá trình hai mặt. Một mặt, cá nhân tiếp nhận kinh nghiệm xã hội bằng cách thâm nhập vào môi trường xã hội, vào hệ thống các quan hệ xã hội. Mặt khác, cá nhân tái sản xuất một cách chủ động hệ thống các mối quan hệ xã hội thông qua chính việc họ tham gia vào các hoạt động và thâm nhập vào các mối quan hệ xã hội. Các khái niệm “Xã hội hoá”, “Phát triển nhân cách”, “Giáo dục” có nội dung và ý nghĩa khác nhau, nhưng trong một số trường hợp cụ thể nội dung và ý nghĩa của chúng có thể đồng nhất với nhau. 2.2. Môi trường xã hội hoá Môi trường xã hội hoá chính là nơi cá nhân có thể thực hiện thuận lợi các tương tác xã hội của mình nhằm mục đích thu nhận và tái tạo kinh nghiệm xã hội. Con người cho dù có bản chất xã hội và tiền đề tự nhiên phù hợp, nhưng nếu không được đặt trong môi trường thích hợp thì vẫn khó có thể trở thành một nhân cách hoàn thiện. Môi trường xã hội hoá chính là vườn ươm nhân cách, là ngả đường mở rộng để các kinh nghiệm xã hội có thể đến với các cá nhân, trong đó chủ yếu là: 2.2.1. Môi trường gia đình Đây là môi trường xã hội hoá quan trọng bậc nhất của cá nhân, bởi hầu hết mọi cá nhân đều sinh ra và lớn lên trong gia đình. Trong mỗi gia đình đều có một tiểu văn hoá được xây dựng trên nền tảng của một nền văn hoá chung kết hợp với những đặc thù riêng của từng gia đình. Những đặc thù đó là nền giáo dục gia đình, truyền thống gia đình, lối sống gia đình mỗi cá nhân sẽ tiếp nhận dường như trọn ven những đặc điểm của các tiểu văn hoá gia đình này. Những kinh nghiệm sống, những quy tắc ứng xử, những khuôn mẫu, giá trị chuẩn mực đầu tiên mà cá nhân có được là nhờ tiếp nhận từ những người thân trong gia đình như bố, mẹ, ông, bà, anh, chị Gia đình không chỉ là môi trường xã hội hoá đối với mỗi cá nhân khi còn trẻ thơ mà cả đến khi đã trưởng thành, lấy vợ, lấy chồng. Trước khi trở thành người vợ, người chồng, các cá nhân từ nhỏ đã được hưởng thụ các phong cách giáo dục gia đình rất khác nhau, thậm chí xung khắc với nhau. Để có cuộc sống hạnh phúc, các cặp vợ chồng cần thích ứng, hoà hợp
- các giá trị của họ lại với nhau. Nghĩa là tiếp nhận các giá trị mới, và các khuôn mẫu hành động mới, cả hai vợ chồng phải tiếp tục quá trình xã hội hoá. 2.2.2. Trường học và các tổ chức trước tuổi đi học Vườn trẻ, nhà mẫu giáo là những nơi đứa trẻ thực hiện các hoạt động vui chơi, học tập bước đầu của mình. Thông qua những hoạt động này trẻ em tiết nhận được những kiến thức ban đầu về tự nhiên và xã hội, đồng thời chúng thực hiện các giao tiếp và hình thành dần các quan hệ xã hội. Các trò chơi ở vườn trẻ, nhà mẫu giáo đã tạo cho đứa trẻ hoà nhập vào đời sống xã hội với những mối quan hệ xã hội khác các quan hệ trong gia đình. Các cô giáo, cô bảo mẫu chính là những người trực tiếp hướng dẫn, khuyến khích những hành vi đúng hoặc điều chỉnh, ngăn chặn những hành vi sai của từng đứa trẻ. Trong các trường học, hoạt động chủ đạo của cá nhân là học tập. Cá nhân không chỉ tiếp thu các tri thức khoa học về tự nhiên và xã hội mà còn cả các tri thức về văn hoá để làm nền tảng cho cuộc sống trong tương lai. Trong giai đoạn này cá nhân thực hiện rất nhiều tương tác khác nhau và do vậy cũng thiết lập nên rất nhiều quan hệ xã hội mới. 2.2.3. Các nhóm thành viên Đó là các dạng tập hợp xã hội mà cá nhân tham gia vào với tư cách là một thành viên, ví dụ: một lớp học, một tập thể lao động, một tổ chức đoàn thể hay một nhóm sở thích (văn nghệ, thể thao, nghiên cứu khoa học ). Những nhóm thành viên như vậy có ý nghĩa rất quan trọng trong việc cá nhân thu nhận các kinh nghiệm xã hội theo cả hai con đường chính thống và không chính thống. Nghĩa là không chỉ qua các bài giảng, các phương tiện thông tin đại chúng mà cả qua kênh giao tiếp cá nhân. Đây là môi trường quan trọng thứ hai sau gia đình, bởi vì khái niệm nhóm thành viên có nội dung rất rộng. Trong hiện thực của đời sống xã hội mỗi cá nhân ở những thời gian và địa điểm khác nhau luôn phải đóng những vai trò khác nhau. Mỗi khi cá nhân thực hiện hành vi của những vai trò đó tức là cá nhân đã trở thành thành viên của một nhóm nhất định (đó có thể là một nhóm thực hay nhóm quy ước). Bản thân gia đình cũng là một dạng nhóm thành viên đặc biệt mà mỗi cá nhân trong gia đình đều phải thực hiện những vai trò khác nhau: cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, anh, chị, em. Nhóm thành viên còn có thể là các tập thể lao động trí óc hoặc chân tay, tại đây các thành viên tiếp tục hoàn thiện những kiến thức khoa học, kỹ năng lao động. Đồng thời tiếp tục thu nhận và sáng tạo ra những quy tắc ứng xử, những kinh nghiệm xã hội nói chung. 2.2.4. Thông tin đại chúng Trong xã hội hiện đại chúng ta không thể bỏ qua những nhân tố có ảnh hưởng đến quá trình xã hội hoá như báo chí, đài phát thanh, truyền hình và các loại phương tiện thông tin khác. Những nhân tố này ngày càng tỏ rõ vai trò của nó trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình xã hội hoá cá nhân. Hiện nay các phương tiện thông tin đại chúng là nguồn cung cấp thông tin chủ yếu cho cá nhân, giúp cho cá nhân có được
- những định hướng và quan điểm đối với các sự kiện và những vấn đề xẩy ra trong cuộc sống hàng ngày. Môi trường xã hội hoá có thể được chia thành môi trường chính thức và môi trường không chính thức. Thí dụ, giáo dục trong nhà trường là môi trường chính thức, ở đây các cá nhân thực hiện việc thu nhận, tái tạo các kinh nghiệm xã hội, đồng thời không ngừng học hỏi nhằm thực hiện tốt vai trò của mình. Còn sách báo là môi trường xã hội phi chính thức, ở đây chủ yếu là sự dạy dỗ của xã hội đến với cá nhân. 2.3. Phân đoạn quá trình xã hội hoá 2.3.1. Vấn đề phân đoạn Có rất nhiều quan điểm khác nhau về việc phân chia quá trình xã hội hoá bắt đầu từ khi nào và đến khi nào thì kết thúc. Theo Freud, quá trình xã hội hoá chủ yếu diễn ra trong giai đoạn từ khi từ khi đứa trẻ sinh ra cho đến hết quá trình trưởng thành về tình dục (tức khoảng 13 - 16 tuổi). Nhưng theo một số nhà xã hội học khác như Ericson, Andreeva thì quá trình này kéo dài cho đến hết đời người. Xã hội học hiện đại cho rằng, quá trình xã hội hoá bắt từ giai đoạn thai nhi (khi đứa bé còn nằm trong bụng mẹ, nó đã chịu tác động của những yếu tố bên ngoài như: ánh sáng, âm thanh) và kéo dài trong suốt cuộc đời con người. Trong từng độ tuổi khác nhau, sự xã hội hoá cũng diễn ra khác nhau. - Người lớn thường thay đổi hành vi của mình ở các quá trình xã hội hoá, còn trẻ em thì tạo lập và thu nhận lấy những giá trị căn bản. - Người lớn có thể phán xét, đánh giá về các giá trị chuẩn mực mà họ cần phải tuân theo, còn trẻ em thì thông thường chỉ chủ động tiếp nhận. - Quá trình xã hội hoá người lớn cũng luôn đòi hỏi kinh nghiệm, bởi vì khác với trẻ em (nhất là những trẻ em ngoan luôn tuân theo sự chỉ dẫn của người lớn), người lớn thường xuyên phải suy tính trên cơ sở kinh nghiệm của bản thân, xem cái gì có lợi nhất, cái gì ít thiệt hại nhất thì họ mới làm theo. - Quá trình xã hội hoá ở trẻ em chủ yếu liên quan nhiều đến các động cơ hành động (trẻ em được dạy dỗ cách tuân theo các khuôn mẫu, chuẩn mực do người lớn hướng đạo). Còn quá trình xã hội hoá ở người lớn được thiết kế nhằm giúp cho cá nhân có thể có được những kỹ năng nhất định (vd: học hỏi để trở thành kỹ sư, bác sỹ ) 2.3.2. Các giai đoạn của quá trình xã hội hoá Phân tâm học cho rằng giai đoạn trẻ thơ có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự phát triển nhân cách con người cho nên thực hiện xã hội hoá ở giai đoạn này là rất cần thiết. Nhưng cũng có người chủ trương cần kéo dài quá trình xã hội hoá sang những lứa tuổi khác. Dưới đây là một số quan điểm phân chia các giai đoạn của quá trình xã hội hoá:
- - Phân đoạn của G. Mead G. Mead cho rằng kết quả của quá trình xã hội hoá là một nhân cách gồm cái “Tôi” chủ động và cái “Tôi” bị động. Quá trình này chia thành ba giai đoạn: - Bắt chước: đây là giai đoạn đứa trẻ sao chụp lại các hành vi của những người xung quanh, nhưng chưa hiểu về ý nghĩa của các hành vi đó. - Đóng vai: ở giai đoạn này đứa trẻ bắt đầu nhận biết được những hành vi tương ứng với những vai trò nhất định và với nhận thức đó đứa trẻ đóng vai thực hiện những hành vi đó. Ví dụ: xưng hô như bạn bè hay anh chị với búp bê hoặc đóng vai bố mẹ khi nói chuyện với búp bê Những điều này giúp cho đứa trẻ hình thành khả năng hiểu được suy nghĩ và hành động của người khác trong khi thực hiện các vai trò của mình. Đây là một bước quan trọng trong quá trình hình thành nhân cách. - Trò chơi: ở giai đoạn này đứa trẻ cần phải biết được sự đòi hỏi đặt ra cho nó không phải chỉ của một cá nhân nào đó mà là của cả xã hội. Chẳng hạn, đứa trẻ phải biết để trở thành một người con ngoan, nó phải ngoan không chỉ với bố mẹ nó mà phải ngoan cả với những người khác. Như vậy, ở đứa trẻ đã hình thành dần khái niệm khái quát về người khác. - Phân đoạn của G. Andreeva Phân đoạn của Andreeva dựa trên các hoạt động chủ đạo của cá nhân trong suốt cuộc đời của mình, bao gồm ba giai đoạn: + Giai đoạn trước lao động: bao gồm toàn bộ thời kỳ từ khi con người sinh ra cho đến khi họ bắt đầu các hoạt động chính thức, trong đó chia thành hai tiểu giai đoạn: giai đoạn trẻ thơ và giai đoạn thanh, thiếu niên. Giai đoạn trẻ thơ bắt đầu từ khi đứa trẻ mới sinh cho đến lúc đi học, hoạt động chủ đạo của chúng là vui chơi trong các vườn trẻ, nhà mẫu giáo. Giai đoạn thanh, thiếu niên bắt đầu từ khi đi học cho đến khi kết thúc việc học hành hay học nghề, hoạt động chủ yếu của giai đoạn này là học tập. Các cá nhân bắt đầu tiếp nhận những kiến thức khoa học, thiết lập các tương tác xã hội và các quan hệ xã hội mới. + Giai đoạn lao động: bắt đầu từ khi con người bước vào quá trình lao động chính thức cho đến lúc nghỉ hưu. Hoạt động chủ đạo của cá nhân trong giai đoạn này là lao động trí óc hoặc lao động chân tay. Ở giai đoạn này, các cá nhân không chỉ thu nhận những kinh nghiệm xã hội mà còn tạo ra chúng. Các kinh nghiệm xã hội, các chuẩn mực, giá trị xã hội mà các cá nhân thu nhận được chủ yếu là trong quá trình tham gia vào các hoạt động lao động tập thể. Hoạt động lao động trong giai đoạn này có một vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển nhân cách của cá nhân. + Giai đoạn sau lao động: quan điểm về xã hội hoá ở giai đoạn này tồn tại hai loại ý kiến trái ngược nhau. Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, khái niệm xã hội hoá hoàn toàn không có ở giai đoạn này. Nghĩa là người già không còn tiếp nhận và sáng tạo ra các
- kinh nghiệm xã hội. Loại ý kiến thứ hai chủ trương, cần phải nhìn nhận một cách tích cực đối với quá trình xã hội hoá ở giai đoạn này. Thực tế cuộc sống cho thấy nhiều người già đóng vai trò quan trọng trong việc tái tạo lại các kinh nghiệm xã hội. Xã hội học cần xem xét tuổi già như là lứa tuổi có khả năng đóng góp xứng đáng cho việc truyền đạt những kinh nghiệm, những giá trị xã hội cho thế hệ trẻ. Mặt khác, người già khi chuyển cuộc sống từ hoạt động lao động là chủ đạo sang cuộc sống nghỉ ngơi thư giãn, cho nên họ cũng cần học hỏi để hội nhập và thích ứng với cuộc sống mới - cuộc sống hưu trí. Cùng với sự phát triển của xã hội, mọi cá nhân khi sống trong thời đại của kỷ nguyên thông tin thì đều phải liên tục học hỏi để thích ứng được với nhịp độ của cuộc sống hiện đại. Học hỏi để có thể hiểu biết và sử dụng các trang thiết bị, các tiện nghi hiện đại của cuộc sống. Đây cũng chính là phương thức sống cần thiết để mỗi cá nhân có thể hội nhập cùng xã hội. 3. BIẾN ĐỔI XÃ HỘI 3.1. Một số khái niệm cơ bản 3.1.1. Khái niệm “Biến đổi xã hội” Sự ổn định của xã hội chỉ là sự ổn định của bề ngoài, còn thực tế, không ngừng có sự biến đổi bên trong bản thân nó. Bất kỳ một xã hội, hay một nền văn hoá nào, dù có bảo thủ và cổ truyền đến đâu thì cũng luôn luôn thay đổi. Khi nói tới sự biến đổi của xã hội, có nghĩa là người ta đang ngầm so sánh tình trạng của nó ở thời điểm lịch sử này với một thời điểm lịch sử trước đó. Ngay từ giữa thế kỷ XIX. A. Comte đã đưa ra một dự báo có tính chất khẳng định rằng, biến đổi xã hội chắc chắn sẽ xảy ra theo con đường phát triển và những biến đổi ấy rất yếu sẽ hướng tới một xã hội tốt đẹp hơn. Thông qua sự biến đổi xã hội mà con người từ chỗ mông muội, dốt nát sẽ trở thành con người có giáo dục. Những tri thức mà con người tích luỹ được sẽ làm cho nhân loại không ngừng tiến bộ và văn minh, thoát ra khỏi sự “sắp đặt của thượng đế”. Tuy nhiên, từ xã hội này sang xã hội khác trong những thời đại lịch sử khác nhau, sự biến đổi xã hội diễn ra với những tốc độ nhanh, chậm không giống nhau. Ví dụ, từ xã hội nguyên thuỷ (hái lượm, săn bắt) sang xã hội có giai cấp (với nền kinh tế sản xuất nông nghiệp) đã trải qua hàng vạn, thậm chí hàng triệu năm. Nhưng từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp cơ khí hoá, hiện đại hoá chỉ diễn ra trong hàng trăm, hàng chục năm, thậm chí trong vài năm Biến đổi xã hội thường diễn ra ở nhiều cấp độ khác nhau: - Biến đổi vĩ mô, là những biến đổi xuất hiện và diễn ra trên một phạm vi rộng lớn. Loại biến đổi này rất khó nhận thấy vì nó diễn ra trong một thời gian dài và chậm chạp. - Biến đổi vi mô, là những biến đổi nhỏ, quy mô hẹp, tốc độ nhanh, có thể nhận thấy trong cuộc sống hàng ngày.
- 3.1.2. Những khái niệm liên quan - Biến cố xã hội, sự kiện xã hội Khác với biến đổi xã hội, biến cố xã hội, hay một sự kiện xã hội (một cuộc bầu cử, một cuộc biểu tình hay đình công ) không phải lúc nào cũng mang lại sự thay đổi xã hội. Biến cố xã hội chỉ có thể làm thay đổi sự quân bình của một bộ phận xã hội, còn cơ cấu của tổng thể xã hội vẫn không thay đổi. - Tiến bộ xã hội Về mặt ý nghĩa, khái niệm “Tiến bộ xã hội” đối lập với khái niệm “suy thoái” hay “thụt lùi”. Bởi nó nhằm chỉ một sự vận động có ý thức theo chiều hướng đi lên. Thuật ngữ tiến bộ là một phán quyết giá trị, còn thuật ngữ biến đổi không chỉ hướng giá trị. K. Marx quan niệm, tiến bộ của xã hội loài người trải qua những hình thái xã hội khác nhau, từ thấp lên cao dựa trên phương thức sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết định. - Tiến hoá Thuyết tiến hoá xuất hiện đầu tiên trong lĩnh vực sinh học do sự đề xướng của Darwin. Học thuyết này đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự nghiên cứu của nhiều nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Các nhà xã hội học thường quan tâm đến hai hình thức biến đổi lớn của xã hội loài người là: tiến hoá và cách mạng. Ở bất kỳ lĩnh vực nào, những biến đổi bên trong bao giờ cũng kéo theo một sự tiến hóa và sự tiến hoá này, có khi diễn ra nhanh chóng trên phương diện vật chất, nhưng lại chậm chạp trên phương diện tinh thần. Từ nửa sau thế kỷ XX, khái niệm “Phát triển”, “Kém phát triển” được sử dụng khá phổ biến, nhằm chỉ các trạng thái biến đổi, tiến hoá của xã hội. 3.1.3. Đặc điểm của biến đổi xã hội - Biến đổi là một hiện tượng phổ biến nhưng diễn ra không giống nhau Do những tác động của các điều kiện chủ quan, khách quan không giống nhau, nên sự biến đổi của các xã hội thường diễn ra với những nhịp độ nhanh, chậm khác nhau. Tốc độ biến đổi của xã hội sẽ gia tăng khi nền kỹ thuật của xã hội phát triển. Vì vậy, ở những xã hội có nền khoa học, kỹ thuật phát triển cao, tốc độ biến đổi sẽ diễn ra nhanh hơn so với các xã hội có nền khoa học, kỹ thuật kém phát triển. - Biến đổi xã hội khác biệt về thời gian và ảnh hưởng Có những biến đổi chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn, nhưng có những biến đổi diễn ra trong thời gian dài, có khi hàng nghìn năm, hay vài thế hệ. Do vậy, ảnh hưởng của nó cũng rất khác nhau, điều đó tuỳ thuộc vào tính chất, mức độ và phạm vi của sự biến đổi. Ảnh hưởng của biến đổi bao giờ cũng diễn ra ở cả hai mặt, tích cực và không tích cực. Ví dụ, sự phát triển của công nghệ thông tin đã tạo ra những biến đổi lớn lao trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Nó cho phép con người nâng cao hiệu quả của các hoạt động, nhất là trong lĩnh vực tiếp cận thông tin bên ngoài xã hội và trên thế
- giới. Nhưng đồng thời nó cũng can thiệp vào đời sống riêng tư của cá nhân, cả trong lĩnh vực văn hoá, tinh thần và sức khoẻ. Chính vì thế, trong hiện thực của đời sống xã hội, bao giờ cũng xuất hiện những thái độ khác nhau đối với sự biến đổi, nhiều người ủng hộ nhưng cũng không ít người phản đối - Biến đổi xã hội vừa có tính kế hoạch vừa có tính phi kế hoạch Đây là tính hai mặt của biến đổi xã hội. Tất cả mọi sự biến đổi xã hội đều xuất phát từ tính tự giác và chủ động của con người, nhưng không phải bất kỳ ở đâu, lúc nào con người cũng có thể kiểm soát được nó. Chẳng hạn, trong xã hội công nghiệp, con người có thể chủ động tạo ra sự phong phú, đa dạng các loại sản phẩm mới chất lượng cao, cải tiến kỹ thuật và áp dụng các thành tựu của công nghệ hiện đại để tăng năng suất lao động. Nhưng mặt khác, điều đó cũng đã đưa lại những hậu quả, ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của con người và xã hội như: ô nhiễm môi trường, nạn thất nghiệp, các tệ nạn xã hội Đó là chưa kể đến những biến đổi do tự nhiên gây ra, mà hậu quả của nó con người dường như chưa thể kiểm soát được. 3.2. Cách tiếp cận của xã hội học về sự biến đổi xã hội 3.2.1. Cách tiếp cận theo chu kỳ Trong sự hiểu biết của con người, nhiều sự vật và hiện tượng trong thế giới tự nhiên chuyển động theo những chu kỳ không kết thúc. Ví dụ như, ngày và đêm, mặt trời, mặt trăng mọc và lặn, hay sự thay đổi của thời tiết, mùa màng Sự biến đổi theo chu kỳ của giới tự nhiên, kéo theo sự biến đổi của một số hoạt động xã hội của con người theo cái chu kỳ ấy. Và do vậy, những hiểu biết về chu kỳ của sự biến đổi xã hội đã thống trị ý nghĩ của con người. Nhiều nhà khoa học đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng này khi nghiên cứu các vấn đề xã hội. 3.2.2. Cách tiếp cận theo quan điểm tiến hoá Ngay từ thế kỷ XIX, nhiều nhà Xã hội học nổi tiếng như A. Comte, H. Spencer đã rất coi trọng việc vận dụng lý thuyết tiến hoá của sinh học để nghiên cứu sự tiến hoá của xã hội. A. Comte cho rằng, tất cả các xã hội không thể tránh khỏi được sự tiến hoá qua ba giai đoạn: thần học, siêu hình và thực chứng 3.2.3. Cách tiếp cận theo quan điểm xung đột Giống như hầu hết các nhà lý thuyết xã hội ở thế kỷ XIX, Karl Marx cũng chịu ảnh hưởng lớn của thuyết tiến hoá, ông cho rằng các xã hội phải chuyển đổi để tồn tại. Nhưng điểm khác biệt quan trọng giữa Marx và các nhà khoa học cùng thời khác là ở chỗ, Marx luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của mâu thuẫn xã hội, mà đặc biệt là mâu thuẫn giai cấp, đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội.