Khóa luận Đánh giá tài nguyên du lịch nhân văn của Thành phố Hưng Yên

pdf 95 trang hapham 4921
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Đánh giá tài nguyên du lịch nhân văn của Thành phố Hưng Yên", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_danh_gia_tai_nguyen_du_lich_nhan_van_cua_thanh_pho.pdf

Nội dung text: Khóa luận Đánh giá tài nguyên du lịch nhân văn của Thành phố Hưng Yên

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG ISO 9001-2008 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH: VĂN HÓA DU LỊCH Sinh viên : Đỗ Thị Thu Hằng Người hướng dẫn : ThS. Vũ Thị Thanh Hương HẢI PHÒNG - 2012
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG ĐÁNH GIÁ TÀI NGUYÊN DU LỊCH NHÂN VĂN CỦA THÀNH PHỐ HƢNG YÊN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC HỆ CHÍNH QUY NGÀNH: VĂN HÓA DU LỊCH Sinh viên : Đỗ Thị Thu Hằng Người hướng dẫn : ThS. Vũ Thị Thanh Hương HẢI PHÒNG - 2012
  3. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP Sinh viên: Đỗ Thị Thu Hằng Mã số: Lớp: VHL 401 Ngành: Văn Hóa Du Lịch Tên đề tài: Đánh giá tài nguyên du lịch nhân văn của thành phố Hưng Yên
  4. NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI 1. Nội dung và các yêu cầu cần giải quyết trong nhiệm vụ đề tài tốt nghiệp (về lý luận, thực tiễn, các số liệu ). Tổng hợp và phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về tài nguyên du lịch nhân văn, du lịch, về mối quan hệ giữa tài nguyên du lịch nhân văn và du lịch, lý luận về đánh giá tài nguyên du lịch. Đánh giá giá trị các tài nguyên du lịch nhân văn, thực trạng khai thác các tài nguyên đó và thực trạng hoạt động du lịch của thành phố Hưng Yên. Đề xuất các giải pháp bảo vệ và khai thác hiệu quả tài nguyên du lịch nhân văn của thành phố Hưng Yên. 2. Các tài liệu, số liệu cần thiết: Để hoàn thành khóa luận em đã tham khảo một số tài liệu như: Phố Hiến lịch sử văn hóa, Địa lý du lịch – Nguyễn Minh Tuệ, Luật du lịch Việt Nam, Nhập môn khoa học du lịch – Trần Đức Thanh Ngoài ra em đã xin số liệu thống kê về : số lượng di tích lịch sử, số lượng lễ hội, số lượng làng nghề, thống kê số lượng khách sạn, lương khách du lịch hàng năm, thống kê cơ cấu lao động ngành du lịch của thành phố và một số số liệu khác. 3. Địa điểm thực tập tốt nghiệp. . .
  5. CÁN BỘ HƢỚNG DẪN ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP Ngƣời hƣớng dẫn thứ nhất: Họ và tên: Vũ Thị Thanh Hương Học hàm, học vị:.Thạc Sĩ Cơ quan công tác:.Trường Đại học Dân lập Hải Phòng Nội dung hướng dẫn: . . . . Ngƣời hƣớng dẫn thứ hai: Họ và tên: Học hàm, học vị: Cơ quan công tác: Nội dung hướng dẫn: . . . . Đề tài tốt nghiệp được giao ngày 02 tháng 4 năm 2012 Yêu cầu phải hoàn thành xong trước ngày 07 tháng 7 năm 2012 Đã nhận nhiệm vụ ĐTTN Đã giao nhiệm vụ ĐTTN Sinh viên Người hướng dẫn Hằng Hải Phòng, ngày tháng năm 2012 HIỆU TRƢỞNG GS.TS.NGƢT Trần Hữu Nghị
  6. PHẦN NHẬN XÉT TÓM TẮT CỦA CÁN BỘ HƢỚNG DẪN 1. Tinh thần thái độ của sinh viên trong quá trình làm đề tài tốt nghiệp: 2. Đánh giá chất lƣợng của đề tài (so với nội dung yêu cầu đã đề ra trong nhiệm vụ Đ.T. T.N trên các mặt lý luận, thực tiễn, tính toán số liệu ): 3. Cho điểm của cán bộ hƣớng dẫn (ghi cả số và chữ): Hải Phòng, ngày tháng năm 2012 Cán bộ hƣớng dẫn (Ký và ghi rõ họ tên)
  7. Lời cảm ơn Để hoàn thành khóa luận này, em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến THS. Nguyễn Thị Thanh Hương, cô đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình viết khóa luận tốt nghiệp. Em chân thành cảm ơn thầy, cô trong khoa Văn Hóa Du Lịch, trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng đã tận tình truyền đạt kiến thức cho chúng em trong suốt những năm học tập tại trường. Với vốn kiến thức được tiếp thu trong quá trình học không chỉ là nền tảng cho quá trình nghiên cứu khóa luận mà còn là hành trang quí báu để em ra trường đi làm một cách vững chắc và tự hào là sinh viên trường Học Dân Lập Hải Phòng. Em chân thành cảm ơn Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hưng Yên, Phòng Văn hóa – Thông tin thành phố Hưng Yên đã cho phép và tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ em trong quá trình thu thập số liệu. Trong quá trình thực hiện và trình bày khóa luận không thể tránh khỏi những sai sót và hạn chế, do vậy em rất mong nhận được sự góp ý, nhận xét phê bình của thầy cô và các bạn. Cuối cùng em kính chúc quý Thầy, Cô dồi dào sức khỏe và thành công trong sự nghiệp. Đồng kính chúc các cô, chú, anh, chị trong Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hưng Yên, Phòng Văn hóa – Thông tin thành phố Hưng Yên luôn dồi dào sức khỏe, đạt được nhiều thành công tốt đẹp trong công việc. Em xin chân thành cảm ơn ! Sinh viên Đỗ Thị Thu Hằng
  8. MỤC LỤC Phần mở đầu 1 Phần nội dung 4 CHƢƠNG 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 4 1.1.Du lịch 4 1.2.Tài nguyên du lịch 5 1.2.1.Khái niệm tài nguyên 5 1.2.2. Khái niệm tài nguyên du lịch 6 1.2.2.1.Đặc điểm của tài nguyên du lịch. 7 1.2.2.2.Phân loại tài nguyên du lịch 7 1.2.2.3. Tài nguyên du lịch tự nhiên 9 1.2.2.4. Tài nguyên du lịch nhân văn 9 1.2.3. Vai trò của tài nguyên du lịch nhân văn đối với việc phát triển du lịch. 10 1.3. Đánh giá tài nguyên du lịch nhân văn 11 1.3.1. Lý luận chung 11 1.3.2.Đánh giá tài nguyên 12 1.4. Tiểu kết 15 CHƢƠNG 2: ĐÁNH GIÁ TÀI NGUYÊN DU LỊCH NHÂN VĂN CỦA THÀNH PHỐ HƢNG YÊN 16 2.1. Khái quát về thành phố Hưng Yên 16 2.2. Đánh giá tài nguyên du lịch nhân văn 19 2.2.1. Di tích lịch sử văn hóa 19 2.2.2.Lễ hội truyền thống. 34 2.2.3. Nghệ thuật dân gian 40 2.2.4. Nghệ thuật ẩm thực 45 2.2.5. Làng nghề truyền thống 50 2.2.6 Đánh giá bằng phương pháp điều tra xã hội học. 56 2.3.Tiểu kết 59
  9. CHƢƠNG 3: HIỆN TRẠNG, MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO VỆ VÀ KHAI THÁC HIỆU QUẢ TÀI NGUYÊN DU LỊCH NHÂN VĂN CỦA THÀNH PHỐ HƢNG YÊN 61 3.1. Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch nhân văn của thành phố Hưng Yên .61 3.1.1. Việc giới thiệu, quảng bá hình ảnh về tài nguyên du lịch nhân văn của thành phố Hưng Yên 61 3.1.2.Thị trường khách du lịch 62 3.1.3. Tình trạng các di tích lịch sử văn hóa của thành phố Hưng Yên 63 3.2. Thực trạng hoạt động du lịch của thành phố Hưng Yên 66 3.2.1. Cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ hoạt động du lịch của thành phố Hưng Yên. 66 3.2.2. Đội ngũ lao động trong ngành du lịch 68 3.2.3. Các tuyến, tour du lịch đang được khai thác 69 3.3. Vị thế của tài nguyên du lịch nhân văn thành phố Hưng Yên trong việc khai thác phục vụ du lịch 71 3.4. Đề xuất những giải pháp nhằm bảo vệ và khai thác hiệu quả tài nguyên du lịch nhân văn của thành phố Hưng Yên. 73 3.4.1. Tuyên truyền, giáo dục nhân dân địa phương hiểu và ý thức được giá trị văn hóa lịch sử của di tích để cùng chính quyền địa phương bảo tồn di tích 73 3.4.2. Trong chính sách phát triển đô thị hiện đại phải vạch ra phương hướng ưu tiên cho việc bảo vệ các di tích lịch sử văn hóa 74 3.4.3. Đầu tư nghiên cứu để xây dựng những tour du lịch độc đáo, riêng biệt phù hợp với tài nguyên du lịch nhân văn của thành phố 74 3.4.4. Khuyến khích đầu tư vào du lịch, ưu tiên những dự án có tính hiệu quả cao 76 3.4.5. Phát triển du lịch cộng đồng để hướng tới tương lai lâu dài 76 3.5.Tiểu kết 77 KẾT LUẬN 77 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  10. Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Mỗi khi nhắc đến Hưng Yên, là nhắc đến một vùng đất giàu truyền thống văn hoá và nói đến Hưng Yên là người ta nhớ ngay đến một vùng đất “Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến”. Toàn tỉnh có 1210 di tích lịch sử văn hóa, trong đó có 159 di tích được xếp hạng cấp Quốc gia, 89 di tích được công nhận cấp tỉnh, cùng hàng ngàn hiện vật, cổ vật có giá trị và là nơi có nhiều di tích lịch sử xếp hạng cấp Quốc gia đứng thứ 2 cả nước. Hưng Yên là vùng đất rất nhiều tiềm năng để khai thác và phát triển du lịch. Nhưng những năm đầu sau khi tái lập tỉnh, du lịch hưng Yên gặp không ít khó khăn, thách thức, các hoạt động du lịch phát triển chậm, không được đầu tư cơ sở vật chất mới, các cơ sở vật chất cũ đã xuống cấp. Với việc, nghiên cứu đề tài: "Đánh giá tài nguyên du lịch nhân văn của thành phố Hưng Yên" em sẽ có điều kiện đánh giá giá trị tài nguyên du lịch nhân văn của thành phố Hưng Yên, nhận diện rõ hơn về mối quan hệ giữa tài nguyên du lịch nhân văn và việc khai thác các tài nguyên đó để phục vụ phát triển du lịch của thành phố Hưng Yên, về thực tiễn vấn đề phát triển du lịch dựa trên nền tảng kế thừa và phát huy di sản văn hoá Hưng Yên - một vùng đất địa linh nhân kiệt. Đề tài sẽ góp phần đánh giá thực trạng mối quan hệ giữa hoạt động khai thác các tài nguyên du lịch nhân văn phục vụ du lịch và ngược lại ở thành phố Hưng Yên và đề xuất những biện pháp nhằm giải quyết tốt mối quan hệ này. Đây là vấn đề vừa có ý nghĩa lý luận cơ bản, vừa có ý nghĩa thực tiễn cấp bách góp phần vào việc xây dựng và phát triển thành phố nhằm thu hút khách du lịch đến Hưng Yên ngày một nhiều hơn. Thêm vào đó, là một người con của Hưng Yên, từ lâu em đã mong muốn có cơ hội góp một phần nào đó công sức của mình để làm cho Hưng Yên ngày một phát triển hơn. Và đề tài này là một dịp tốt để em thực hiện mong muốn đó. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của đề tài là đánh giá đúng giá trị tài nguyên du lịch nhân văn nhằm phát huy vai trò của nó đối với sự phát triển du lịch trong thời kỳ đổi mới ở thành phố Hưng Yên . 1
  11. Để thực hiện mục đích trên, đề tài có các nhiệm vụ sau: Tổng hợp và phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về tài nguyên du lịch nhân văn, du lịch, về mối quan hệ giữa tài nguyên du lịch nhân văn và du lịch, lý luận về đánh giá tài nguyên du lịch. Đánh giá giá trị các tài nguyên du lịch nhân văn, thực trạng khai thác các tài nguyên đó và thực trạng hoạt động du lịch của thành phố Hưng Yên. Đề xuất các giải pháp bảo vệ và khai thác hiệu quả tài nguyên du lịch nhân văn của thành phố Hưng Yên. 3.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu tài nguyên du lịch nhân văn của thành phố Hưng Yên, cụ thể như : các di tích lịch sử văn hóa, các lễ hội truyền thống, các loại hình nghệ thuật dân gian, nghệ thuật ẩm thực, các làng nghề thủ công thuộc thành phố Hưng Yên. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để nghiên cứu đề tài, em đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp nghiên cứu thực địa - Phương pháp xử lý tài liệu - Phương pháp điều tra xã hội học - Phương pháp đánh giá - Phương pháp tổng hợp 5. Những đóng góp chủ yếu của khóa luận - Đề tài tổng hợp, phân tích về mối quan hệ giữa tài nguyên du lịch nhân văn và du lịch trên phương diện lý luận. - Phân tích, đánh giá những giá trị của tài nguyên du lịch nhân văn - nguồn lực cho phát triển du lịch ở thành phố Hưng Yên. - Đánh giá thực trạng và đề xuất những giải pháp khả thi nhằm giải bảo vệ và khai thác hiệu quả tài nguyên du lịch nhân văn của thành phố Hưng Yên. 6. Bố cục trình bày của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục tài liệu tham khảo và phụ lục, khóa luận gồm 3 chương. 2
  12. Chương I. Cơ sở lý luận của đề tài Chương 2 : Đánh giá tài nguyên du lịch của thành phố Hưng Yên Chương 3 : Một số giải pháp bảo vệ và khai thác hiệu quả tài nguyên du lịch nhân văn của thành phố Hưng Yên. 3
  13. Phần nội dung CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Du lịch Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ ở các nươc phát triển mà còn ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Do hoàn cảnh (thời gian, khu vực) khác nhau, dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau, mỗi người có một cách hiểu về du lịch khác nhau. Có thể thấy rằng, có bao nhiêu tác giả nghiên cứu về du lịch thì có bấy nhiêu định nghĩa. Trong số những học giả đưa ra định nghĩa ngắn gọn nhất (tuy không phải là đơn giản nhất) phải kể đến Ausher và Nguyễn Khắc Viện. Theo Ausher thì du lịch là nghệ thuật đi chơi của các cá nhân, còn viện sĩ Nguyễn Khắc Việt trong cuốn Tập bài giảng lớp bồi dưỡng giám đốc khách sạn lại quan niệm rằng du lịch là sự mở rộng không gian văn hóa của con người. Còn dưới con mắt các nhà kinh tế, du lịch không chỉ là một hiện tượng xã hội đơn thuần mà nó phải gắn chặt với hoạt động kinh tế. Theo nhà kinh tế học Kalfiotis: ”Du lịch là sự di chuyển tạm thời của cá nhân hay tập thể từ nơi ở đến một nơi khác nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần, đạo đức, do đó tạo nên các hoạt động kinh tế”. Không có cùng quan niệm này với Ausher, viện sĩ Nguyễn Khắc Viện và các nhà kinh tế là PGS Trần Nhạn, trong cuốn Du lịch và kinh doanh du lịch ông cho rằng :” Du lịch là quá trình hoạt động của con người rời khỏi quê hương đến một nơi khác với mục đích chủ yếu là được thẩm nhận những giá trị vật chất và tinh thần đặc sắc, độc đáo, khác lạ với quê hương, không nhằm mục đích sinh lời được tính bằng đồng tiền”. Và theo Luật Du lịch Việt Nam: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan , tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”. Nhưng quan điểm cá nhân của em, em cho rằng khái niệm về du lịch mà 4
  14. Luật Du lịch Việt Nam đưa ra là cơ bản, và dễ hiểu hơn cả. Trong nhận định của Ausher thì du lịch chỉ là hoạt động của cá nhân, trong khi ngày nay vẫn có hoạt động du lịch của tập thể. Còn trong nhận định của viện sĩ Nguyễn Khắc Viện thì du lịch lại chỉ là hoạt động mở rộng không gian văn hóa, mà không nhắc đến những mục đích khác trong chuyến đi. Và với các nhà kinh tế học thì du lịch tạo nên các hoạt động kinh tế, nhưng theo em du lịch và kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ để cùng phát triển. 1.2. Tài nguyên du lịch 1.2.1.Khái niệm tài nguyên Theo Phạm Trung Lương và nnk. đã định nghĩa trong cuốn Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam: “Tài nguyên hiểu theo nghĩa rộng gồm tất cả các nguồn nguyên liệu, năng lượng và thông tin có trên Trái Đất và trong không gian vũ trụ liên quan, mà con người có thể sử dụng phục vụ cho cuộc sống và sự phát triển của mình”(NXB Giáo dục, 2000). Và trong cuốn Nhập môn Khoa học Du lịch, PGS.TS Trần Đức Thanh định nghĩa: “Tài nguyên là tất cả những nguồn thông tin, vật chất, năng lượng được khai thác phục vụ cuộc sống và sự phát triển của xã hội loài người. Đó là những thành tạo hay tính chất của thiên nhiên, những công trình, những sản phẩm do bàn tay khối óc của con người làm nên, những khả năng của loài người, Được sử dụng phục vụ cho sự phát triển kinh tế và xã hội của cộng đồng”( NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006). Mỗi khái niệm đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Khái niệm của Phạm Trung Lương đúng nhưng quá rộng, ông chỉ ra những yếu tố được gọi là tài nguyên, còn theo PGS.TS Trần Đức Thanh, ông cũng chỉ ra tài nguyên là gì và nêu rõ hơn, cụ thể hơn những yếu tố được gọi là tài nguyên ấy là gì. Tóm lại, theo em tài nguyên có thể được quan niệm một cách dễ hiểu và đơn giản là: “Tất cả những gì thuộc về tự nhiên và tất cả những sản phẩm do con người tạo ra, có thể được con người sử dụng vào phát triển kinh tế và xã hội để tạo ra hiệu quả kinh tế - xã hội và môi trường trong quá trình lịch sử phát triển của loài người”. Nhiều tác giả, tổ chức trong nước và ngoài nước đã tiến hành phân loại tài 5
  15. nguyên theo một số cách khác nhau: Theo nguồn gốc hình thành : tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn. Xét theo mức độ tiềm năng : tài nguyên hữu hạn và tài nguyên vô hạn. Dựa vào khả năng tái tạo : tài nguyên tái tạo được và tài nguyên không tái tạo được. Phân loại theo tài nguyên đã được khai thác và chưa được khai thác : tài nguyên đã khai thác và tài nguyên tiềm ẩn (chưa được khai thác). 1.2.2. Khái niệm tài nguyên du lịch Trong cuốn Địa lý du lịch, Nguyễn Minh Tuệ và nnk. cho rằng: “Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên và văn hóa lịch sử cùng các thành phần của chúng góp phần khôi phục, phát triển thể lực, trí tuệ của con người, khả năng lao động và sức khỏe của họ. Những tài nguyên này được sử dụng cho nhu cầu trực tiếp và gián tiếp, cho việc sản xuất dịch vụ du lịch”( NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1997). Khoản 4 (Điều 4, chương 1) Luật Du Lịch Việt Nam năm 2005 quy định: “Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử văn hóa, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch”. Nguyễn Minh Tuệ cho rằng tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên, kinh tế - xã hội văn hóa được sử dụng để phục hồi sức khỏe, phát triển thể lực và tinh thần con người. Trên cơ sở này bà cho rằng địa hình, thủy văn, khí hậu, động – thực vật, di tích lịch sử văn hóa, văn hóa nghệ thuật, lễ hội, là những tài nguyên du lịch. Song thực tế không phải bất cứ mọi dạng, mọi kiểu địa hình, tất cả các kiểu khí hậu các yếu tố khí hậu hay các giá trị văn hóa, đều có khả năng hấp dẫn khách cũng như có khả năng kinh doanh du lịch. Và THS.Bùi Thị Hải Yến đưa ra khái niệm tài nguyên du lịch trong cuốn Tài nguyên du lịch, tài nguyên du lịch: “là tất cả những gì thuộc về tự nhiên và các giá trị văn hóa do con người sáng tạo ra có sức hấp dẫn du khách, có thể được bảo vệ, tôn tạo và sử dụng cho ngành Du lịch mang lại hiệu quả về kinh tế - xã hội và môi trường”(NXB Giáo dục, 2009). 6
  16. Em cho rằng khái niệm của Nguyễn Minh Tuệ và khái niệm theo Luật Du lịch Việt Nam đưa ra có nhiều điểm giống nhau, cùng do yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử văn hóa, do quá trình lao động sáng tạo của con người, và phục vụ cho hoạt động du lịch. Khái niệm của THS. Bùi Thị Hải Yến về tài nguyên du lịch là khá đầy đủ và cụ thể, dễ hiểu, bà không chỉ nêu ra tài nguyên du lịch là gì mà còn nói đến việc bảo vệ, tôn tạo, sử dụng tài nguyên đó cho ngành du lịch không chỉ đem lại hiệu quả về kinh tế - xã hội mà còn về môi trường. 1.2.2.1.Đặc điểm của tài nguyên du lịch. Đặc điểm chung của tài nguyên du lịch: Một số loại tài nguyên du lịch là đối tượng khai thác của nhiều ngành kinh tế - xã hội. Tài nguyên du lịch có phạm trù lịch sử nên ngày càng có nhiều loại tài nguyên du lịch được nghiên cứu, phát hiện, tạo mới và được đưa vào khai thác, sử dụng. Tài nguyên du lịch mang tính biến đổi. Hiệu quả và mức độ khai thác tài nguyên du lịch phụ thuộc vào các yếu tố: khả năng nghiên cứu, trình độ phát triển khoa học công nghệ, nguồn tài sản quốc gia. Tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng; có các giá trị thẩm mỹ, văn hóa lịch sử, tâm linh, giải trí; có sức hấp dẫn với du khách. Tài nguyên du lịch bao gồm các loại tài nguyên vật thể và tài nguyên phi vật thể. Tài nguyên du lịch là những loại tài nguyên có thể tái tạo được. Tài nguyên du lịch có tính sở hữu chung. Việc khai thác tài nguyên du lịch gắn chặt với vị trí địa lý. Tài nguyên du lịch thường có tính mùa vụ và việc khai thác tài nguyên mang tính mùa vụ. Tài nguyên du lịch mang tính diễn giải và cảm nhận. 1.2.2.2.Phân loại tài nguyên du lịch Để tiến hành nghiên cứu, quản lý, bảo tồn, tôn tạo, phát triển và khai thác tài nguyên du lịch có hiệu quả theo hướng bền vững, cần phải tiến hành phân loại tài nguyên du lịch khoa học và phù hợp. Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO, 1997) đã xây dựng hệ thống phân loại tài nguyên du lịch thành 3 loại, 9 nhóm gồm: Loại cung cấp tiềm tàng (3 nhóm: văn hóa kinh điển, tự nhiên kinh điển, vạn động); loại cung cấp hiện tại (gồm 3 7
  17. nhóm: đường sá, thiết bị, hình tượng tổng thể) và loại tài nguyên kỹ thuật gồm 3 nhóm tính năng: hoạt động du lịch, cách thức và tiềm lực khu vực. Theo quan niệm các nhà khoa học về quy hoạch du lịch của Pháp Geogvgers Cazes – Robert Lanquar Yve Raynoum trong cuốn Quy hoạch du lịch đã quan niệm: Không tồn tại các tài nguyên tự thân du lịch mà chỉ có thể khai thác và sử dụng được trong các điều kiện kinh tế, công nghệ xác định. Theo các ông trong lĩnh vực du lịch tài nguyên có thể phân làm 3 loại chính: Các tài nguyên thiên nhiên như khí hậu thuận lợi cho các loại hình du lịch, địa hình, phong cảnh núi sông, thực – động vật, biển hồ, Các nguồn tài nguyên văn hóa – xã hội như những cuộc trình diễn nghệ thuật, các liên hoan âm nhạc, các cuộc hòa nhạc, các cuộc triển lãm hội thảo quốc tế, khoa học kỹ thuật, các vật làm chứng, các đập nước hoặc máy móc hiện đại, các di sản văn hóa lịch sử, các điểm thắng cảnh. Các nguồn tài nguyên thuộc nhóm kinh tế như: nhà máy, trung tâm kỹ thuật, các điều kiện kinh tế thuận lợi cho việc mua tài sản, dịch vụ giá rẻ, có sự ưu đãi về hải quan. Tuy phân chia tài nguyên du lịch thành 3 loại chính, nhưng khi thống kê tài nguyên du lịch Geogvgers Cazes – Robert Lanquar Yve Raynoum lại thống kê tài nguyên theo các yếu tố đã được Tổ chức Du lịch Thế giới xác định gồm: Di sản thiên nhiên, di sản nhân văn, di sản văn hóa, những công trình hạ tầng và thiết bị cho giải trí và du lịch, các nguồn tài chính và kinh tế. Và căn cứ vào nguồn gốc hình thành của tài nguyên, nhà khoa học Ngô Tất Hổ đã tiến hành phân loại tài nguyên du lịch gồm 3 hệ thống, 10 loại, 95 hình và 3 đẳng cấp là khu, đoạn, nguyên. Ông cho rằng 3 đẳng cấp này phản ánh độ lớn nhỏ của tài nguyên theo mấy loại hình dựa trên tính quan trọng và quy mô của tài nguyên. Những cách phân loại tài nguyên du lịch trên đều dựa vào những đặc tính nhất định của tài nguyên du lịch, nhưng theo em, phân loại theo nguồn gốc hình thành: tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn là dễ hiểu hơn cả và trong khóa luận này em cũng sẽ áp dụng cách phân loại này để nghiên cứu. 8
  18. 1.2.2.3. Tài nguyên du lịch tự nhiên Theo Khoản 1 (Điều 13, Chương II) Luật Du Lịch Việt Nam năm 2005 quy định: “Tài nguyên du lịch tự nhiên gồm các yếu tố địa chất, địa hình, địa mạo, khí hậu, thủy văn, hệ sinh thái, cảnh quan tự nhiên đang được khai thác hoặc có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch”. * Đặc điểm của tài nguyên du lịch tự nhiên. Nếu được quy hoạch, bảo vệ, khai thác hợp lý theo hướng bền vững thì phần lớn các loại tài nguyên du lịch tự nhiên được xếp vào loại tài nguyên vô tận, tài nguyên có khả năng tái tạo hoặc có quá trình suy thoái chậm. Hầu hết việc khai thác tài nguyên du lịch tự nhiên chịu ảnh hưởng nhiều vào điều kiện thời tiết. Một số điểm phong cảnh và du lịch dựa vào tài nguyên tự nhiên thường nằm xa các khu đông dân cư. 1.2.2.4. Tài nguyên du lịch nhân văn Theo Khoản 2 (Điều 13, Chương II) Luật Du Lịch Việt Nam năm 2005 quy định: “Tài nguyên du lịch nhân văn gồm truyền thống văn hóa, các yếu tố văn hoá, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử, cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, các công trình lao động sáng tạo của con người và các di sản văn hoá vật thể, phi vật thể khác có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch”. Nếu hiểu theo nguồn gốc hình thành có thể hiểu tài nguyên du lịch nhân văn là tài nguyên có nguồn gốc nhân tạo do con người sáng tạo ra. Tuy nhiên chỉ có những tài nguyên nhân văn có sức hấp dẫn với du khách và có thể khai thác phát triển du lịch để tạo ra hiệu quả xã hội, kinh tế, môi trường mới được gọi là tài nguyên du lịch nhân văn. Tài nguyên du lịch nhân văn gồm các loại tài nguyên nhân văn vật thể như: các di tích lịch sử, các di tích lịch sử văn hóa, các công trình đương đại, vật kỷ niệm, bảo vật quốc gia. Tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể gồm các lễ hội, nghề và làng nghề truyền thống, văn hóa nghệ thuật, văn hóa ẩm thực, phong tục, tập quán, ngôn ngữ, chữ viết, tôn giáo, các nguồn thông tin và nguồn tri thức khoa học, kinh nghiệm sản xuất. 9
  19. *Đặc điểm của tài nguyên du lịch nhân văn. Tài nguyên du lịch nhân văn do con người tạo ra nên chịu tác động của thời gian, thiên nhiên và do chính con người.Vì vậy dễ bị suy thoái, hủy hoại và không có khả năng tự phục hồi ngay cả khi không có sự tác động của con người. Vì vậy di tích lịch sử - văn hóa khi bị bỏ hoang cũng bị xuống cấp nhanh chóng; những giá trị văn hóa phi vật thể như những làn điệu dân ca, các vũ khúc, các lễ hội, các làng nghề truyền thống, phong tục tập quán, khi không được bảo tồn và phát huy có hiệu quả sẽ bị mai một hoặc biến mất. Do vậy, khi khai thác tài nguyên du lịch nhân văn cho mục đích phát triển du lịch cần quan tâm đầu tư cho bảo tồn, tôn tạo thường xuyên, khoa học và có hiệu quả. Tài nguyên du lịch nhân văn là do con người sáng tạo ra nên có tính phổ biến. Ở đâu có con người, ở đó có tài nguyên nhân văn. Vì vậy, các địa phương, các quốc gia đều có tài nguyên nhân văn, trong đó có nhiều loại có sức hấp dẫn với du khách, đã hoặc sẽ có thể sử dụng cho phát triển du lịch. Tài nguyên du lịch nhân văn ở mỗi vùng, mỗi quốc gia thường mang những đặc sắc riêng. Do điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội là những yếu tố nuôi dưỡng tạo thành tài nguyên du lịch nhân văn ở mỗi địa phương, mỗi quốc gia không giống nhau nên tài nguyên du lịch nhân văn ở mỗi khu vực, mỗi quốc gia có giá trị đặc sắc riêng, góp phần tạo nên những sản phẩm du lịch độc đáo có sức cạnh tranh và hấp dẫn du khách riêng. Do vậy, trong quá trình khai thác, bảo tồn tài nguyên du lịch nhân văn cần coi trọng việc bảo vệ, phát huy giá trị độc đáo của tài nguyên. Tài nguyên du lịch nhân văn thường được phân bố gần các khu dân cư, đặc biệt tập trung nhiều ở những khu vực đông dân cư. Bởi nó được sinh ra trong quá trình phát triển xã hội và là sản phẩm do con người sáng tạo ra. Khác với tài nguyên du lịch tự nhiên, việc khai thác phần lớn tài nguyên du lịch nhân văn thường ít chịu ảnh hưởng của các hiện tượng thời tiết gây nên như mưa hay rét nên tính mùa vụ cũng ít hơn so với tài nguyên du lịch tự nhiên. 1.2.3. Vai trò của tài nguyên du lịch nhân văn đối với việc phát triển du lịch. Tài nguyên du lịch nhân văn có các vai trò đối với hoạt động du lịch như sau: 10
  20. Du lịch là ngành công nghiệp không khói, là một trong những ngành có đóng góp to lớn vào tổng thu nhập quốc dân và là ngành mũi nhọn của nhiều nước phát triển bằng con đùng du lịch. Phát triển du lịch đêm lại những lợi ích như dóng góp vào sự phát triển của đất nước, tăng nguồn thu ngoại tệ, giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát huy lợi thế, thúc đẩy các ngành kinh tế khác cùng phát triển. Ngành du lịch cũng được coi là ngành thúc đẩy sự hiểu biết văn hóa và hòa bình. Nếu như tài nguyên du lịch tự nhiên thu hút khách bởi sự hoang sơ, hùng vĩ, độc đáo và hiếm hoi của nó thì tài nguyên du lịch nhân văn thu hút khách bởi tính phong phú, đa dạng và tính truyền thống, cũng như tính địa phương của nó. Các đối tượng văn hóa, tài nguyên du lịch nhân văn là cơ sở để tạo nên các loại hình du lịch văn hóa phong phú, nó đánh giấu sự khác biệt giữa nơi này và nơi khác, quốc gia này với quốc gai khác, dân tộc này với dân tộc khác và là yếu tố thúc đẩy động cơ đi du lịch của du khách, kích thích quá trình lữ hành. Ngày nay du lịch văn hóa là một xu hướng mang tính toàn cầu, trong đó văn hóa trở thành nội hàm, động lực để phát triển du lịch bền vững, giá trị văn hóa khiến sản phẩm du lịch mang đậm nét độc đáo nhân văn, được coi là nguồn tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động du lịch. Trong những chuyến đi tham quan tài nguyên du lịch nhân văn khách không chỉ được tham quan mà còn có thể tìm hiểu và nghiên cứu khoa học. Tài nguyên du lịch nhân văn đa số không có tính mùa vụ, không phụ thuộc vào tự nhiên và các điều kiện tự nhiên khác, do vậy tài nguyên du lịch nhân văn góp phần giảm nhẹ tính mùa, tính thời vụ của các loại hình du lịch khác. Các loại tài nguyên du lịch nhân văn hầu như đều có thể khai thác phục vụ du lịch quanh năm. 1.3. Đánh giá tài nguyên du lịch nhân văn 1.3.1. Lý luận chung Điều tra và đánh giá tài nguyên du lịch là cơ sở quan trọng để mỗi địa phương, mỗi quốc gia tiến hành phát triển, quản lý, bảo tồn, tôn tạo và khai thác tài nguyên cũng như lập quy hoạch phát triển du lịch. Để tiến hành điều tra, kiểm kê, đánh giá tài nguyên cần phải dựa vào hệ 11
  21. thống phân loại nhất định, hệ thống phân loại này cần có ích cho việc định lựa đánh giá tài nguyên sau khi điều tra. Căn cứ vào hệ thống phân loại tài nguyên nhất định mà tiến hành điều tra, kiểm kê tài nguyên du lịch, sau đó đánh giá vị trí, đẳng cấp và sự đặc sắc của tài nguyên từ đó tiến hành quy hoạch phát triển du lịch. Việc điều tra thường được tiến hành với từng loại tài nguyên, còn việc đánh giá phải được tiến hành với từng loại tài nguyên và tổng hợp các loại tài nguyên trong lãnh thổ quy hoạch phát triển du lịch. 1.3.2.Đánh giá tài nguyên Đánh giá các loại tài nguyên du lịch là một việc làm khó và phức tạp vì có liên quan tới yêu cầu, sở thích, đặc điểm tâm lý, sinh lý của con người rất khác nhau, đặc điểm của tài nguyên và các điều kiện kỹ thuật.Vì vậy các nội dung và phương pháp đánh giá phải không ngừng hoàn thiện. Các nhà nghiên cứu chỉ ra bốn kiểu đánh giá tài nguyên du lịch : Kiểu tâm lý – thẩm mỹ: Kiểu đánh giá này thường dựa vào cảm nhận, sở thích của du khách, dân cư đối với các loại tài nguyên môi trường du lịch thông qua việc điều tra thống kê và điều tra xã hội. Kiểu sinh khí hậu: Nhằm đánh giá các dạng tài nguyên khí hậu, thời gian thích hợp nhất của sức khỏe con người, hoặc một kiểu hoạt động nào đó khi đi du lịch.Kiểu đánh giá này chủ yếu dựa trên các chỉ số khí hậu, định giá trị của các loại tài nguyên du lịch đối với một số loại hình du lịch nào đó, hoặc làm cơ sở để xác định các điểm du lịch, các khu du lịch, các trung tâm du lịch. Kiểu đánh giá kỹ thuật: Là kiểu sử dụng các tiêu chí và các phương tiện kỹ thuật vào việc đánh giá số lượng và chất lượng của tài nguyên du lịch nhằm xác định giá trị của tài nguyên du lịch đối với các loại hình phát triển du lịch hoặc trong quá trình lập và thực hiện các dự án quy hoạch phát triển du lịch tại các hệ thống lãnh thổ du lịch nhất định. Kiểu đánh giá kinh tế: Là vận dụng các phương pháp và các tiêu chí nhằm xác định hiệu quả về kinh tế - xã hội hiện tại và trong tương lai của các khu vực có nguồn tài nguyên có thể khai thác bảo vệ cho phát triển du lịch. 12
  22. Về phương pháp đánh giá tài nguyên được tiến hành với từng loại và tổng thể các loại tài nguyên bao gồm cả số lượng, chất lượng, thực trạng khai thác và bảo vệ, phát triển, khả năng phát triển các loại hình du lịch hiện tại và trong tương lai. Việc đánh giá tổng thể các loại tài nguyên thường bao gồm các nội dung như: độ hấp dẫn, sức chứa du khách, thời gian khai thác, độ bền vững, vị trí khả năng tiếp cận, cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, sự phù hợp giữa tài nguyên du lịch với các phân hệ khác của hệ thống lãnh thổ du lịch cần quy hoạch, hiệu quả khai thác tài nguyên về kinh tế - xã hội và môi trường, khả năng phát triển các loại hình du lịch và tổ chức không gian lãnh thổ du lịch.Trong việc đánh giá tài nguyên du lịch của mỗi vùng, mỗi địa phương cần xem xét, tính toán việc kết hợp bảo vệ khai thác tổng hợp các loại tài nguyên trong từng hệ thống lãnh thổ và với các hệ thống lãnh thổ khác trong mối quan hệ biện chứng. Cụ thể khi đánh giá tài nguyên du lịch nhân văn: Khi kiểm kê đánh giá tài nguyên du lịch nhân văn cần kiểm kê đánh giá các giá trị của từng di tích, từng loại tài nguyên sau đó mới đánh giá chung. * Các bước kiểm kê một di tích kiến trúc nghệ thuật hoặc một công trình đương đại (di tích lịch sử văn hóa). Vị trí, tên gọi, diện tích, cảnh quan: Xác định vị trí, diện tích lãnh thổ, tên gọi, di tích; Khoảng cách giữa vị trí của di tích với thị trường cung cấp khách cũng như chủng loại và chất lượng đường giao thông các loại giao thông có thể hoạt động; Khoảng cách tới các di tích văn hóa và tự nhiên du lịch khác. Lịch sử hình thành và phát triển gồm: thời gian đặc điểm của thời kỳ khởi dựng và những lần trùng tu lớn. Quy mô, kiểu cách, các giá trị kiến trúc, mỹ thuật, niên đại kiến trúc, mỹ thuật. Giá trị cổ vật (cả về số lượng và chất lượng ), vật kỷ niệm và bảo vật quốc gia. Nhân vật được tôn thờ và những người có công xây dựng trùng tu. Thực trạng tổ chức quản lý, bảo vệ, tôn tạo và khai thác di tích. Thực trạng chất lượng môi trường ở khu vực di tích. Giá trị được xếp hạng: quốc tế, quốc gia, địa phương, thời gian được xếp hạng 13
  23. * Các lễ hội. Tiến hành điều tra về số lượng lễ hội, thời gian diễn ra lễ hội, giá trị và quy mô, sức hấp dẫn du khách của các lễ hội, cách thức bảo tồn và khôi phục, tổ chức quản lý các lễ hội, môi trường nơi diễn ra lễ hội ở từng điểm du lịch và các địa phương. Kiểm kê đánh giá cụ thể những lễ hội tiêu biểu: Lịch sử phát triển của lễ hội các nhân vật được tôn thờ, các sự kiện văn hóa, lịch sử gắn với lễ hội; thời gian diễn ra lễ hội; quy mô của lễ hội mang tính quốc gia hoặc địa phương; những giá trị văn hóa và phong tục, tập quán diễn ra ở phần lễ và phần hội, các trò chơi dân gian, các hoạt động văn hóa nghệ thuật được tổ chức. Giá trị với hoạt động du lịch. Thực trạng của việc tổ chức và khai thác lễ hội phục vụ nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, bảo tồn, phát huy truyền thống văn hóa, phát triển du lịch (bao gồm đánh giá cả về nội dung, hình thức, môi trường diễn ra lễ hội). * Nghề và làng nghề thủ công truyền thống. Điều tra, đánh giá về số lượng và thực trạng của nghề và làng nghề thủ công, phân bố và đặc điểm chung của nghề và làng nghề truyền thống có giá trị cho hoạt động du lịch trong cả nước và ở các địa phương nơi tiến hành quy hoạch. Điều tra và đánh giá mỗi làng nghề gồm các bước và nội dung sau: Vị trí địa lý, lịch sử phát triển, quy mô của làng nghề, các yếu tố tự nhiên và kinh tế - xã hội nuôi dưỡng nghề và làng nghề truyền thống (diện tích của làng, số người, số hộ tham gia tổ chức sản xuất); nghệ thuật sản xuất; lựa chọn nguyên liệu, cơ cấu chủng loại số lượng và chất lượng; giá trị thẩm mỹ và sử dụng của các sản phẩm, môi trường làng nghề; việc tiêu thụ sản phẩm; giá cả sản phẩm, mức thu nhập và đời sống của dân cư từ việc sản xuất, tỷ trọng thu nhập từ các nghề thủ công so với giá trị thu nhập của các hoạt động kinh tế khác của làng nghề; những giá trị văn hóa gắn với nghề và làng nghề thủ công truyền thống. Các cơ chế, chính sách cho đầu tư phát triển nghề, làng nghề, du lịch làng nghề và chính sách ưu đãi với các nghệ nhân. Thực trạng đầu tư bảo vệ, khôi phục làng nghề, khai thác, phát huy giá trị văn hóa của làng nghề và đời sống kinh tế - xã hội và hoạt động du lịch. Khả năng 14
  24. đầu tư phát triển du lịch làng nghề. * Văn hóa nghệ thuật. Các giá trị văn hóa nghệ thuật là loại tài nguyên du lịch hấp dẫn du khách, thuận lợi cho loại hình phát triển du lịch tham quan giải trí, nghiên cứu.Việc bảo tồn, khôi phục phát huy các giá trị văn hóa nghệ thuật góp phần làm phong phú hấp dẫn thêm cho các loại tài nguyên du lịch khác và nhiều loại hình du lịch khác như: du lịch sông nước; du lịch văn hóa các dân tộc; du lịch tham quan; du lịch lễ hội. Việc điều tra, đánh giá các giá trị văn hóa nghệ thuật phục vụ du lịch gồm các nội dung như: lịch sử hình thành và phát triển, không gian phân bổ, các bài hát, các nghệ nhân, các giá trị về lời ca, âm vực, nghệ thuật biểu diễn, không gian biểu diễn, các loại nhạc cụ được dùng để cùng biểu diễn; các loại hình nghệ thuật dân gian và nhã nhạc, thực trạng và khả năng khai thác bảo tồn du lịch. 1.4. Tiểu kết Du lịch và tài nguyên du lịch có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tài nguyên du lịch tự nhiên thường để thỏa mãn các nhu cầu nghỉ dưỡng, thư giãn hòa mình vào thiên nhiên. Tài nguyên du lịch nhân văn có giá trị nhận thức nhiều hơn, nó bồi dưỡng tâm hồn, tự giáo dục nhân cách. Bên cạnh đó nó còn làm phong phú thế giới tinh thần, tình cảm, thẩm mỹ của con người, giữa du lịch và văn hóa có mối liên hệ bền vững, tương tác lẫn nhau. Khai thác thế mạnh của tài nguyên du lịch nhân văn để phát triển du lịch và du lịch phát triển quay lại củng cố thêm văn hóa. Giá trị văn hóa khiến sản phẩm du lịch mang đậm nét độc đáo, nhân văn, được coi là nguồn tài nguyên đặc biệt hấp dẫn. Tài nguyên du lịch nhân văn là cơ sở để tạo nên các loại hình du lịch văn hóa phong phú và là yếu tố thúc đẩy động cơ đi du lịch của du khách. Tuy vậy, giá trị của tài nguyên du lịch nhân văn không thể đánh giá một cách cảm tính mà cần những phương pháp khoa học khách quan. Việc tìm hiểu những lý luận về công tác đánh giá tài nguyên sẽ là cơ sở để em vận dụng đánh giá ở thực tế. 15
  25. CHƢƠNG 2 ĐÁNH GIÁ TÀI NGUYÊN DU LỊCH NHÂN VĂN CỦA THÀNH PHỐ HƢNG YÊN 2.1. Khái quát về thành phố Hƣng Yên * Vị trí địa lý Tỉnh Hưng Yên thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ nằm trong vùng trọng điểm kinh tế phía Bắc. Có diện tích 923,5 km2, số dân là 1.128.700 người (năm 2009). Tỉnh lỵ là thành phố Hưng Yên. Tỉnh nằm ở cửa ngõ phía đông của Thủ đô Hà Nội và giáp với các tỉnh, thành là Hà Nội, Hải Dương, Thái Bình. Thành phố Hưng Yên là tỉnh lỵ của tỉnh Hưng Yên. Thành phố nằm ở phía Nam của tỉnh, bên bờ trái (bờ Bắc) sông Hồng. Thành phố Hưng Yên giáp với huyện Kim Động ở phía Bắc, Tiên Lữ ở phía Đông. Sông Hồng làm ranh giới tự nhiên giữa thành phố Hưng Yên với các huyện Lý Nhân và Duy Tiên của tỉnh Hà Nam ở bờ Nam sông Hồng. Quốc lộ 38 với cầu Yên Lệnh nối thành phố Hưng Yên với quốc lộ 1. Thành phố Hưng Yên cách Hà Nội hơn 60km. Thành phố Hưng Yên có diện tích: 46,80 km² (4.685,51 ha) và dân số: 121.486 người (2009). * Lịch sử Thành phố Hưng Yên ngày nay bao gồm Phố Hiến xưa, vào thế kỷ XVI, XVII là lỵ sở của trấn Sơn Nam thời nhà Hậu Lê. Sơn Nam lúc bấy giờ bao gồm phần lớn các tỉnh: Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Hà Tây (cũ). Tháng 10 năm 1831 niên hiệu Minh Mạng, triều đình Huế thực hiện một cuộc cải cách hành chính lớn trên toàn lãnh thổ Việt Nam, trong đó có việc xóa bỏ các đơn vị tổng, trấn và chia cả nước lại thành 30 tỉnh. Tỉnh Hưng Yên theo đó được thành lập, lỵ sở của tỉnh được đóng ở khu vực Xích Đằng (phường Lam Sơn - thành phố Hưng Yên ngày nay). Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thị xã Hưng Yên tiếp tục được chính quyền cách mạng chọn làm lỵ sở của tỉnh Hưng Yên. Năm 1968, hai tỉnh Hưng Yên và Hải Dương hợp nhất thành một tỉnh Hải Hưng, lỵ sở của tỉnh mới được đặt tại thị xã Hải Dương (nay là thành phố Hải 16
  26. Dương), còn thị xã Hưng Yên tạm thời mất đi vị thế trung tâm của cả tỉnh. Cùng với hoàn cảnh kinh tế khó khăn của cả nước trong thời gian đó và điều kiện giao thông không thuận lợi, thị xã Hưng Yên mất đi khá nhiều cơ hội để phát triển. Tình trạng này chỉ được giải quyết từ ngày 6 tháng 11 năm 1996, khi Quốc hội Việt Nam ra nghị quyết chia tách tỉnh Hải Hưng lại thành hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên như trước. Cùng với sự "lột xác" của tỉnh Hưng Yên, thị xã Hưng Yên cũng ngày càng lớn mạnh. Ngày 19 tháng 1 năm 2009, Thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ra Nghị định 04/NĐ - CP thành lập thành phố Hưng Yên trực thuộc tỉnh Hưng Yên trên cơ sở diện tích, dân số của thị xã Hưng Yên cũ, mở ra một thời kỳ phát triển mới cho thành phố Hưng Yên. Đồng thời thành phố Hưng Yên cũng được phong tặng danh hiệu "Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân". * Đơn vị hành chính Thành phố Hưng Yên có 12 đơn vị hành chính gồm 7 phường (Quang Trung, Lê Lợi, Minh Khai, Hồng Châu, Hiến Nam, An Tảo, Lam Sơn) và 5 xã (Bảo Khê, Trung Nghĩa, Liên Phương, Hồng Nam, Quảng Châu) * Khí hậu Thành phố Hưng Yên nằm trong vùng trung châu thổ Bắc Bộ thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa lượng nhiệt ẩm dồi dào. Hàng năm có hai mùa nóng và lạnh rõ rệt: Mùa lạnh khô và ấm từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau; mùa nóng mưa nhiều từ tháng 5 đến tháng 10. Nhiệt độ tháng nóng nhất vào mùa hè là 39-40oC. Nhiệt độ thấp nhất vào mùa đông 5,5oC. Nhiệt độ trung bình cả năm từ 22 – 23oC. Đặc biệt, trong tháng 8 và tháng 9 thường có mưa to gió lớn, đây cũng là tháng thường hay có bão tuy nhiên bão không đổ bộ trực tiếp vào thành phố do vậy ảnh hưởng của bão không lớn bằng các vùng ven biển. Lượng mưa trung bình năm ở đây từ 1500 - 1600mm. Số ngày mưa trung bình trong năm khoảng 147 ngày. Lượng mưa nhỏ nhất vào tháng 1 và tăng dần đến tháng 4. Tháng 8 có nhiều ngày mưa và lượng mưa nhiều nhất, hàng năm còn có mưa phùn từ tháng 11 đến tháng 4. Tháng 2 và tháng 3 là tháng mưa phùn nhiều nhất. Vì vậy khí hậu ở Thành phố Hưng Yên nói chung là 17
  27. khá ẩm ướt. Độ ẩm trung bình hàng năm là 86%. Độ ẩm trung bình trong các tháng đều trên 80%. Độ ẩm không khí và độ ẩm khô hạn ở đây cao hơn các vùng cùng trong khu vực châu thổ Bắc Bộ. *Sông ngòi và chế độ nước Nằm trong khu vực trung châu thổ Bắc Bộ, toàn bộ tỉnh Hưng Yên được bao bọc xung quanh bởi một mạng lưới sông ngòi gồm: Hệ thống sông lớn sông Hồng, sông Luộc và hệ thống sông con là những nhánh sông của các con sông lớn: sông Cửu An, sông Hoan Ái, sông Kim Ngưu, sông Nghĩa Trụ, sông Kẻ Sặt, sông Điện Biên. Thành phố Hưng Yên ngày nay - Phố Hiến xưa được hình thành và phát triển là phần lớn chịu sự ảnh hưởng của hai con sông lớn: sông Hồng và sông Luộc; Ngoài ra còn có còn có sông Hồng và sông Điện Biên. Sông Hồng chảy qua Hưng Yên khoảng 67km, tạo thành giới hạn tự nhiên về phía tây của tỉnh. Sông Hồng chảy đến phía bắc của tỉnh gọi là sông Thiên Mạc, đến Kim Động và thành phố Hưng Yên gọi là Đằng Giang. Từ khi Pháp xâm lược nước ta thì gọi chung là sông Hồng Hà, sông Hồng. Sông Hồng chảy xuống vùng trung châu Bắc Bộ có đặc điểm là uốn khúc quanh co, cộng thêm là dòng chảy mạnh nên đã tạo ra sự sụt lở cũng như bồi tụ hai bên bờ ở những chỗ khúc uốn của dòng sông. Thành phố Hưng Yên ngày nay chúng ta còn thấy sự bồi lấp của sông Hồng đã đẩy dòng chảy của sông cách xa bờ đê bao của thành phố khoảng 2km về phía tây và phía nam. Sông Điện Biên là dòng sông đào, chảy từ sông Hoan Ái (từ Lực Điền – Yên Mỹ) theo chiều dọc của tỉnh qua Đồng Tiến, Hồng Tiến (Khoái Châu) sang địa phận huyện Kim Động, nối vào sông Cửu An, sau đó chảy xuống cửa Càn (thành phố Hưng Yên). Toàn bộ sông dài trên 20 km. * Đặc điểm dân cư Những cư dân đầu tiên đến vùng đất thành phố Hưng Yên ngày nay (Phố Hiến xưa) chủ yếu là người Việt di cư từ vùng cao châu thổ Bắc Bộ, họ tiến dần về phía nam hướng tới ven biển châu thổ. Đến thế kỷ thứ XIII vùng đất này có thêm người Hoa sang lánh nạn bởi sự 18
  28. xâm lược của quân Mông Cổ đối với Trung Quốc (bấy giờ là nhà Tống) và lập nên làng Hoa Dương (Mậu Dương sau này). Vào thế kỷ XVII tình hình chính trị ở Trung Quốc không ổn định, nhà Thanh đã thay thế nhà Minh. Những người không thuần phục nhà Thanh đã phiêu bạt xuống phương nam để lánh nạn, thời kỳ này người Hoa đến Phố Hiến rất đông để lập nghiệp, sinh sống. Trong thời kỳ phồn thịnh của Phố Hiến (thế kỷ XVII - XVIII) nơi đây còn có thêm người Nhật Bản, Hà Lan, Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha đến với mục đích buôn bán, trao đổi hàng hoá và truyền đạo. Họ đã được triều đình cho phép lập thương điếm và ở tại Phố Hiến để thực hiện công việc của mình. Sang nửa đầu thế kỷ XVIII những người ngoại quốc đã lần lượt dời khỏi Phố Hiến bởi nhiều nguyên do khác nhau, nhưng những người Trung Quốc thì còn ở lại. Những người Trung Quốc ở đây được đồng hoá với người Việt, nhiều người sợ sự truy lùng, trả thù của nhà Thanh nên thậm chí đã đổi sang họ của người Việt để dễ dàng sinh sống. Về sau này, do điều kiện làm ăn ở đây không còn mấy thuận lợi người Trung Quốc đã di chuyển đi các vùng khác trong cả nước để sinh sống như: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Sài Gòn tuy nhiên hiện nay ở Phố Hiến – thành phố Hưng Yên vẫn còn có dòng họ người Trung Quốc đang sinh sống, họ đã hoàn toàn đồng hoá với người Việt và cùng với những người dân bản xứ sống chung hàng bao đời nay không hề có sự phân biệt. 2.2. Đánh giá tài nguyên du lịch nhân văn 2.2.1. Đánh giá các di tích lịch sử văn hóa Từ thế kỉ XIII, thành phố Hưng Yên xưa đã là một thương cảng Phố Hiến sầm uất. Thế kỉ XV trở đi, những tàu buôn của Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Ma-lai-xi-a, In-đô-nê-xi-a, Anh, Pháp đã từng cập bến Phố Hiến. Nhưng vì sông Hồng ngày càng tiến ra biển, Phố Hiến nhường dần vị trí thương cảng cho Hải Phòng và lưu lại cho mình những giá trị văn hóa lâu đời. Thành phố Hưng Yên ngày nay còn gìn giữ được một quần thể kiến trúc cổ gồm 128 di tích lịch sử, 100 bia ký và nhiều đền chùa. Đặc biệt phải kể đến quần thể di tích Phố Hiến với mật độ di tích dày đặc, theo thống kê của bảo tàng tỉnh Hưng Yên, trong phạm vi chiều dài 5km, chiều rộng 1km được xác định từ Đằng Châu (phường Lam Sơn) đến Lễ 19
  29. Châu (phường Hồng Châu) thì Phố Hiến cổ còn lưu giữ khoảng 60 di tích lịch sử văn hóa các loại. Trong số hơn 60 di tích đó có nhiều di tích có giá trị cao về lịch sử, kiến trúc mỹ thuật, tín ngưỡng, có khả năng hấp dẫn du khách như chùa Chuông, đền Mẫu, đền Trần, đền Thiên Hậu, chùa Hiến, Văn Miếu, đình Hiến, Đông Đô Quảng Hội, (có tới 17 di tích được xếp hạng cấp Quốc gia). Trong khóa luận này em sẽ đi sâu nghiên cứu giá trị nổi bật của một số di tích đã được xếp hạng cấp Quốc gia đó. * Chùa Chuông "Hưng Yên tỉnh nhất thống chí" của Trịnh Như Tấu có ghi: "Chùa Chuông - Phố Hiến đẹp nhất danh lam" có nghĩa: chỉ Chùa Chuông ở Phố Hiến là đẹp nhất. Chùa đẹp không phải bởi cảnh quan và tên gọi mà còn đẹp hơn bởi Chùa Chuông nằm trong quần thể di tích đô thị cổ Phố Hiến một thời nổi danh "thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến". Kim Chung Phật tích thiên niên ký Thạch bích linh truyền vạn cổ lưu ( Chuông vàng dấu Phật còn ghi mãi Đá xanh linh nghiệm tỏa muôn hương ) Vị trí, tên gọi, diện tích, cảnh quan: Chùa Chuông tọa lạc ở phía nam thôn Nhân Dục, phường Hiến Nam, thành phố Hưng Yên. Ngôi chùa nằm ở của ngõ khu dân cư thành phố, khi đến thăm quan thành phố, điểm dừng chân đầu tiên của du khách sẽ là chùa Chuông. Chùa Chuông có tên tự là Kim Chung tự, tên Nôm là Chùa Chuông và tên thường gọi là chùa Chuông Vàng. Chùa nằm ở vị trí vô cùng thuận lợi, dù du khách đến thăm quan thành phố bằng đường bộ hay đường thủy cũng có thể dễ dàng đến thăm ngôi chùa này. Chùa cách bến cảng sông Hồng gần 1km, và cách bến xe Hưng Yên 500m. Lịch sử hình thành và phát triển: lịch sử của chùa gắn với truyền thuyết xưa, có một năm “đại hồng thủy”, nước lụt mênh mông, có một quả chuông trên bè gỗ trôi dạt về đây, chỉ có dân làng địa phương mới vớt được chuông và đã đem về chùa. Tiếng chuông mỗi lần đánh lên ngân vang xa hàng vạn dặm, tương truyền là quả chuông vàng trời phật ban tặng nên đã đặt tên chùa là “chùa Chuông Vàng”. 20
  30. Theo tài liệu nghiên cứu và theo văn bia tại chùa, chùa được xây dựng vào thế kỉ XV, đến năm 1702 chùa đã trùng tu thượng điện và đắp tượng. Như vậy, kiến trúc hiện nay của chùa là từ thời Hậu Lê đầu thế kỉ XVIII. Quy mô, kiểu cách, các giá trị kiến trúc, mỹ thuật: Chùa Chuông có kết cấu kiểu "Nội công ngoại quốc", bao gồm các hạng mục: Tiền đường, Thượng điện, Nhà tổ, Nhà mẫu và 2 dãy hành lang. Mặt tiền chùa quay hướng Nam, đó là hướng của "Bát Nhã" và "Trí Tuệ". Chùa được bố trí cân xứng trên một trục trải dài từ cổng Tam quan đến Nhà tổ. Qua cổng Tam quan là tới ba nhịp cầu đá xanh, và một ao nhỏ (mắt rồng) trồng rất nhiều súng, mùa hè là mùa những bông súng tím biếc nở và cũng là thời điểm 2 cây nhãn bên ao nở rộ những chùm hoa như những mâm xôi trắng mang mùi hương dịu ngọt. Bắc ngang qua ao là một cây cầu được xây dựng năm 1702. Tiếp đến là con đường độc đạo được lát đá xanh dẫn thẳng đến nhà tiền đường, theo quan niệm nhà Phật, đường này gọi là "Nhất chính đạo", con đường chân chính duy nhất dẫn dắt con người thoát khỏi bể khổ. Giá trị cổ vật: Chùa hiện nay còn một số hiện vật quý như 2 đôi nghê đá thời Lê được chạm khắc công phu; 1 khánh đá dài 1,5 m chạm lưỡng long chầu nguyệt; 1 bia dựng năm Vĩnh Thịnh thứ 7 (1711); 2 chuông (1 chuông cao 1,15 m, đường kính 0,6 m và 1 chuông cao 1,05 m với đường kính là 0,45 m); và đặc biệt là 18 pho tượng cổ “Thập bát La Hán” được tạo tác theo một tư thế ngồi cao 1,2 m với những vẻ mặt khác nhau, nét độc đáo của Thập bát La Hán không phải chỉ ở sự khéo léo trong cách tạo và tô tượng mà còn ở cảm xúc nội tâm được biểu hiện qua khuôn mặt “mỗi người một vẻ mặt con người”; 1 bia đá ghi chép lại quá trình đô thị hóa của Phố Hiến xưa, bia đá cao 1,65 m, rộng 1,10 m được tạo tác vào năm Tân Mão niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 7 (1711) triều Lê, trên bia trang trí hình rồng chầu mặt trời, có vòng xoáy kiểu âm dương, diềm bia chạm nhánh lá, dây hoa, hoa sen, mây dải mảnh, bia đặt trên bệ gạch xây và hơn thế nữa chính chùa Chuông là một di tích có giá trị cả hai mặt lịch sử và kiến trúc nghệ thuật. Những tinh hoa của di tích cần tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ hơn để bổ sung cho lịch sử của địa phương và lịch sử dân tộc, đặc biệt là thời kì cách mạng, nhiều cán bộ của xứ ủy hiện còn sống, các đồng chí từng hoạt động tại di tích đều khẳng định vai trò quan 21
  31. trọng đó. Những pho tượng nghệ thuật như : Hệ thống tượng ở tòa Tam Bảo, Thập bát La Hán sẽ giúp ta rất nhiều trong việc nghiên cứu kế thừa tinh hoa nghệ thuật tạc tượng của dân tộc. Hiện vật trong chùa như : Tấm bia đá (1711), cây hương đá là nguồn tư liệu vô cùng phong phú quý giá giúp chúng ta hình dung về sự phát triển thịnh vượng của đô thị cổ Phố Hiến trong suốt 2 thế kỉ XVI - XVII đóng góp quan trọng trong các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học. Đối tượng thờ: Chùa Chuông thờ Phật Adi Đà, Quan Âm Nam Hải, Văn Phù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát. Thực trạng tổ chức quản lý, bảo vệ, tôn tạo và khai thác di tích: Nhìn chung, ngôi chùa qua hai lần trùng tu lớn nên hệ thống khu nhà và tượng đã được phục hồi như trạng thái ban đầu. Toàn bộ khu kiến trúc di tích hiện nay khá chắc chắn và hoàn chỉnh, bên cạnh gác chuông, gác khánh, nhà tăng đường mới được khánh thành (8/2003). Ngôi chùa đã được một vị đại đức cùng các Phật tử xung quanh vùng tự nguyện đến quét dọn, lau chùi cho di tích. Vào những ngày rằm, mồng một, ngày Phật Đản, đều tổ chức hương hoa, thu hút rất đông thập phương đến cúng lễ. Giá trị được xếp hạng: Năm 1992, Chùa Chuông đã được Bộ Văn hóa thông tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia. * Đền Mẫu Vị trí, tên gọi, diện tích, cảnh quan: Đền Mẫu nằm trên đường Bãi Sậy, phường Quang Trung, thành phố Hưng Yên. Đền có tên tự là Hoa Giang Linh Từ, tên Nôm là đền Mẫu, đền Mậu Dương, đền Bà Hoa Giang, và tên thường gọi là đền Mẫu. Đền nằm gần với đền Trần trên một trục đường, rất thuận lợi cho du khách đi bộ trong thành phố để thăm quan quần thể di tích thuộc Phố Hiến cổ. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, đền Mẫu được xây dựng vào năm Tường Hưng thứ nhất thời Thiệu Bảo (1279) trên một diện tích rộng 2875 m2. Lịch sử hình thành và phát triển: Qua sử sách, thần tích, sắc phong của đên Mẫu thì vào thế kỉ 13 đế quốc Nguyên Mông tiến hành xâm lược nhiều nước Châu Âu, Châu Á.Trước sức mạnh của quân giặc, triều đình nhà Tống không tránh khỏi 22
  32. thất bại. Trong lúc lâm nguy Hoàng tộc nhà Tống phải bỏ chạy ra bãi biển Nhai Sơn để tránh nạn, trên đường chạy ra bãi biển thì bị hoành phạm nhà Nguyên đuổi sát. Dương Quý Phi cùng các cung tần mỹ nữ đã nhảy xuống biển tự vẫn để giữ trọn khí tiết của mình.Theo truyền ngôn xác của Dương Quý Phi trôi dạt vào vùng Xích Đằng, nhân dân địa cư vớt chôn cất chu đáo – cầu đảo “linh ứng” và lập đền thờ. Từ đó người đến tụ tập mỗi ngày một đông thành một xóm và lấy tên là Hoa Dương. Đền được sửa sang rộng rãi và ngày một khang trang. Quy mô, kiểu cách, các giá trị kiến trúc, mỹ thuật: Nghi môn của Đền được xây dựng khá đẹp, kiến trúc kiểu chồng diêm hai tầng tám mái, cửa xây vòm cuốn, có một cửa chính và hai cửa phụ. Trên vòm cuốn có bức đại tự ghi kiểu chữ Triện: “Dương Thiên Hậu - Tống Triều” và bức chữ Hán: “Thiên Hạ mẫu nghi” (Người mẹ sáng suốt trong thiên hạ). Qua nghi môn là sân đền, giữa sân có cây cổ thụ. Theo truyền thuyết, cây có tuổi gần bảy trăm năm được kết hợp bởi ba cây sanh, đa, si quấn quýt lấy nhau tạo thế chân kiềng vững chắc bao trùm toàn bộ ngôi đền. Khu nội tự của đền được xây kiểu chữ Quốc gồm: Đại bái, trung từ, hậu cung và hai dãy giải vũ. Toà đại bái với 3 gian, kiến trúc kiểu chồng diêm hai tầng tám mái; các đao mái uốn cong mềm mại kiểu rồng chầu, phượng mớm, lợp ngói vẩy rồng, chính diện đắp lưỡng long chầu nguyệt. Kiến trúc đại bái thượng giá chiêng chồng rường con nhị, hạ kẻ bảy; các con chồng, đấu sen, trụ chốn chạm bong kênh hình cá hoá rồng, các bẩy chạm hình đầu rồng. Hai bên đại bái là điện Lưu Ly và cung Quảng Hàn. Trung từ gồm 3 gian, kiến trúc kiểu chồng rường đấu sen, lộng lẫy với hệ thống câu đối, hoành phi, đồ tế tự, kiệu long đình, kiệu bát cống sơn son thếp vàng rực rỡ. Nối với trung từ là 5 gian hậu cung, kiến trúc kiểu chồng rường con nhị, các bức cốn chạm bong kênh hoa lá mềm mại. Dưới ánh sáng mờ ảo của đèn nến, khói hương nhè nhẹ lan toả không gian tĩnh lặng nơi cung cấm như thấy được sự linh thiêng huyền bí chốn thâm cung. Kiến trúc các tòa đại bái, tiền tế, trung từ, thượng điện thượng giá chiêng chồng rường con nhị, hạ kẻ bảy, các con chồng, đấu, đầu dư, kẻ, bẩy đều được chạm bong, chạm lộng với các đề tài long, ly, quy, phượng, hoa lá cách điệu, điêu khắc rất đa dạng với từng họa tiết kết hợp với sự hài hòa cảnh quan thiên nhiên, tạo 23
  33. nên sự uy nghiêm trang nhã mà lại gần gũi với cuộc sống con người. Giá trị cổ vật: Hiện tại ở đền Mẫu còn một số cổ vật quý như nhang án thờ cao 1,2m dài 1,5m rộng 0,9m, phía ngoài có bát hương đá cao 40cm, đường kính 25cm. Nhang án chạm kênh bảy lưỡng long chầu nguyệt, đá hoa ở giữa, hai đầu chạm con long mã trên cùng 4 góc là 4 con rồng chầu. Trên có bày trí hai cây đàn gỗ, một tượng Phật bà Quan Âm trong lồng kính. Hai bên nhang án đặt hai hạc gỗ ngậm ngọc giảng thuyết pháp cho con người hiểu về đạo Phật, đưa con người về với thế giới thần linh. Một bát hương sứ cao 40cm, đường kính 22cm, hai mâm bồng, một mũ cánh chuồn, sau là cỗ bài vị, hai bên đặt hai lọ lục bình cao 1,4m. Hai bộ bát bửu 2 tàn 2 tán cao 3m, hai cỗ long đình rộng 0,95m cao 2,5m, hai mặt kiệu chạm đầu hổ phù dữ tợn quay bốn hướng, trên là hệ thống hoa lá cuốn thư, toàn thân chạm con rồng cuốn xung quanh có hệ thống lèo lưỡng long chầu nguyệt trên có mái vòm, 4 góc là 4 đầu rồng, tầng trên cùng đặt một lá bùa. Một tượng mẫu ngự đầu đội mũ kim khôi, mặc áo choàng có từ thế kỉ XVIII. Một cỗ kiệu bát cống đòn ngang dài 2,15m, đòn dọc dài 2,45m chạm hình rồng quay đầu đi trước. Kiệu gồm 4 then đòn cong, tám đầu khiêng, hai thanh đòn ngang, hai thanh đòn dọc, các đòn được gắn với nhau các khóa đồng, bệ rộng 1,22m, toàn kiệu cao 1,5m, phần trên rộng 0,95m trên là mái vòm cuốn. Kiệu được chạm bong, chạm nổi các hình hổ phù lưỡng long chầu nguyệt, đề tài hoa lá cách điệu, phía ngoài kiệu đặt môt bát hương sứ một đỉnh đồng, hai con hạc đồng nhỏ, hai cây nến đồng nhỏ. Một cỗ kiệu võng (phụng kiệu), có 8 đòn khiêng, hai đòn ngang và hai đòn dọc dài 3,7m, đòn ngang dài 1,8m. Kiệu cao 1,85m, các đòn này chạm rồng đầu mỏ phượng, bên trên có mái vòm che ở trong có một võng đào trải một bức gấm, trên đặt một cái gối ở chính trung từ giữa là bức y môn, hai bên là hai tàn hai tán cao 2m đường kính 1m. Đối tượng thờ: Đền Mẫu thờ bà Dương Quý Phi (vợ vua Tống), Phật Bà Quan Âm, Tứ Phủ (Thiên phủ (miền trời),Nhạc phủ (miền rừng núi),Thuỷ phủ (miền sông nước), Địa phủ (miền đất)). Thực trạng tổ chức quản lý, bảo vệ, tôn tạo và khai thác di tích: Qua thời 24
  34. gian ngôi đền được tu sửa nhiều lần và xây dựng thêm hoàn chỉnh như ngày nay gồm 30 gian là vào năm Thành Thái thứ 8 (1896). Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 chính quyền địa phương không quan tâm đến di tích nên di tích đã bị dột nát, các hạng mục công trình bị xuống cấp. Từ năm 1997 tái lập tỉnh Hưng Yên, di tích được đầu tư, nằm trong dự án di tích Phố Hiến nên các tòa từ hậu cung đến đại bái đều được phục hồi, sửa chữa hoàn mỹ, phục vụ quý khách tham quan thăm viếng. Giá trị được xếp hạng: Từ năm 1990 di tích được xếp hạng cấp Quốc gia. * Đền Trần Vị trí, tên gọi, diện tích, cảnh quan: Đền nằm ở trung tâm thành phố Hưng Yên, cạnh Hồ Bán Nguyệt, giữa phố Bãi Sậy, phường Quang trung. Đền Trần nằm ở trung tâm nên đường đi đến rất thuận tiện, dễ dàng bằng mọi phương tiện ô tô, xe máy, đi bộ. Đền được xây dựng trên khu đất có diện tích là 469,2 m2, mặt tiền quay hướng tây nam, nhìn ra đường phố Bãi Sậy và bên kia là hồ Bán nguyệt. Lịch sử hình thành và phát triển: Theo bia ký viết ngày 12 tháng 7 mùa thu năm Kỷ Tỵ (1869) do cử nhân khoa Tân Dậu (1861) và Hà Tránh Nghiêm, chuyên ngục trại Bái Soan thì đền Trần được xây dựng năm Tự Đức thứ 16 (1863) đến mùa Hạ năm Tự Đức thứ 22 (1869) thì hoàn thành, do hội Yên Hòa, gồm các quan văn, quan võ trong tỉnh, các quan lại hòa lý địa phương và nhiều nhà buôn giàu có đứng ra hưng công xây dựng. Đến năm Thành Thái thứ 5 (1903) thì tu sửa lớn. Năm 1998 tu sửa lớn cả 3 cung: tiền tế, trung từ và hậu cung, lát nền, thay cánh cửa và bổ sung thêm nhiều đồ tế tự. Quy mô, kiểu cách, các giá trị kiến trúc, mỹ thuật: Đền có kiến trúc kiểu chữ Tam gồm: Tiền tế, trung từ và hậu cung. Từ ngoài vào là cổng nghi môn xây kiểu chồng diêm hai tầng tám mái, cửa vòm cuốn, trên cổ diêm ghi 4 chữ: “Kiếm Khí Đẩu Quang” (tinh thần yêu nước toả sáng); phía dưới cửa cuốn đề: “Trần Đại Vương từ” (Đền Trần Đại Vương). Toà đại bái gồm 5 gian, kết cấu kiến trúc kiểu vì chồng rường giá chiêng, các con rường được chạm hình đầu rồng cách điệu, gian giữa treo bức đại tự "Thân hiền tại vọng” (Ngưỡng vọng người hiền tài). Nối tiếp đại bái là 5 gian trung từ, kiến trúc vì kèo quá giang đơn giản, bào trơn đóng bén, không có hoa văn. Phía 25
  35. tiếp giáp với hậu cung treo bức đại tự: “Công đức như Thiên” (Công đức của thánh rộng lớn như trời). Giáp với trung từ là ba gian hậu cung, thờ Trần Hưng Đạo và toàn bộ gia thất của ông. Đền Trần - thành phố Hưng Yên đã tu sửa vào thời Nguyễn, nhưng cũng cho ta thấy nhiều nét độc đáo: Ngôi đền cao, cột nhỏ thanh thoát, các phần mái hiên, đại bái, trung từ, hậu cung được nối liền với nhau có các hệ thống thoát nước, mái tôn đổ nước sang hai bên. Đặc biệt phần hiên cũng được xây dựng thành 2 mái, vừa là hiên đồng thời còn thay vị trí giải vũ, rất thích hợp với vị trí chật hẹp ở thành phố. Đây là nét độc đáo trong nghệ thuật kiến trúc độc đáo của ông cha cần được nghiên cứu và kế thừa. Giá trị cổ vật: Hiện tại, đền còn khá nhiều cổ vật quý, một cỗ long đình cao 2,5m, rộng 0,85m sơn son thếp vàng, chạm hổ phù, bắt chỉ soi hoa văn chữ chiện, hai đầu hai con long mã chầu vào, 4 góc 4 con rồng chầu, trên cùng chạy 4 mặt chấn song con tiện, 4 góc đao guột cong hình rồng. Một nhang án cao 1,1m dài 1,4m rộng 0,8m chạm long mã chầu hổ phù, trên có hai con phượng chầu vào, 4 góc là 4 con thao thiết, là con vật thần linh từ con hổ phù mà ra. Trên hương án đặt một bát hương đồng cao 50cm đường kính 35cm chạm lưỡng long chầu nguyệt, vân mây, hai bên là hai lọ lục bình cao 50cm. Hai ben nhang án đặt hai hạc đồng cao 1,5m mỏ cò, đuôi cò, thân chim, chân cao ngự trên lưng rùa, hạc ngậm ngọc giảng thuyết pháp, cạnh đôi hạc còn có hai con cá chép vàng bằng gốm sứ trên mình có ghi 4 chữ Hán nổi “Tài nguyên cuồn cuộn”. Trong điện thờ tượng Trần Hưng Đạo là một nhang án dài 1,8m cao 1,1m rộng 0,9m sơn son thếp vàng, chạm lưỡng long chầu nguyệt, long mã chầu phượng hóa long, xung quanh trang trí hoa lá. Trên có đặt một bát hương đồng cao 60cm, đường kính 38cm, hai cây nến gỗ, một bát hương sứ (thời Nguyễn), một bát hương sứ miệng loe (thời Nguyễn), một đỉnh đồng và hai pho tượng quan văn, quan võ cao 0,75cm, tượng đứng chân phải bước lên chếch 30o mắt nhìn phía trước, tay cầm thanh long đao với tư thế tiên phong nơi trận mạc. hai bên nhang án đặt hai lọ lục bình cao 1,4m với hoa văn đề tài sông núi. Tiếp giáp giữa hậu cung và trung từ được đặt một sập chân quỳ dạ cá sơn 26
  36. son thếp vàng (thời Nguyễn) dài 1,8m rộng 1,05m cao 0,85m, 4 mặt sập thờ đầu chạm bong lưỡng long chầu hổ phù, 4 chân quỳ chạm hình đầu rồng, mỏ diều hâu xung quanh chạm hoa lá cách điệu, 4 góc là 4 con thao thiết. Trên sập thờ đặt một bát hương miệng loe (thời Nguyễn) cao 15cm đường kính 25cm, hai lọ lục bình lục lăng, một mâm bồng gỗ và hai lọ hoa sứ. Bên cạnh sập là hai lọ lục bình to gốm sứ Trung Quốc cao 1,55m.Mỗi bàn thờ đều có bài trí một bát hương vại, một đỉnh đồng, hai cây nến gỗ, hai lọ lục bình, một mâm bồng gỗ (riêng ban thờ vương phụ, mẫu phụ còn có ba nậm rượu gốm sứ thời Nguyễn cao 25cm, đường kính 10cm). Đối tượng thờ: Đền thờ Trần Hưng Đạo và toàn bộ gia thất của ông. Thực trạng tổ chức quản lý, bảo vệ, tôn tạo và khai thác di tích: Theo nhân dân địa phương cho biết, thì diện tích ngôi đền rộng lớn hơn diện tích hiện tại rất nhiều, nhưng do trước đây không có ban quản lý di tích, chính quyền địa phương không đứng ra quản lý, nên đã để cho một số hộ dân tự động lấn chiếm hai bên phải đền và đã xây dựng công trình nhà ở, bếp thậm chí còn làm nhà hàng ăn sáng, không có lối ra phía sau. Phần mái không có lối thoát nước, ảnh hưởng đến việc bảo tồn di tích cũng như hoạt động tín ngưỡng của nhân dân và khách thập phương. Năm 1993 đã xây một bức tường rào chạy thẳng từ đại bái ra đến nghi môn để tách rời hộ dân ra khỏi di tích. Song di tích vẫn không có lối thoát nước và đi lại về phía sau, nên càng ảnh hưởng đến việc bảo vệ di tích cũng như sinh hoạt lễ bái của nhân dân và khách thập phương. Phần nội thất của ngôi đền khá tốt, cột kèo còn khá chắc chắn, đồ tế tự nhiều. Giá trị được xếp hạng: Từ năm 1992 di tích được xếp hạng cấp Quốc gia. * Đền Thiên Hậu Vị trí, tên gọi, diện tích, cảnh quan: Đền nằm ở phố Trưng Trắc, phường Quang Trung, trung tâm thành phố Hưng Yên. Đền Thiên Hậu - tên đặt nhằm ca ngợi Thánh Mẫu. Đền nằm ở vị trí rất thuận lợi về giao thông, cách bến xe thành phố 1km, có thể đi đến bằng mọi phương tiện giao thông. Đền Thiên Hậu được xây dựng trên khu đất có diện tích 1250m2, do người Phúc Kiến xây dựng theo kiến trúc Phúc Kiến. Lịch sử hình thành và phát triển: Người dân Phúc Kiến đi đến đâu lập đền 27
  37. thờ Thiên Hậu ở đó vì bà người có lòng nhân từ cứu giúp nhân dân tai qua nạn khỏi, diệt trừ quỷ ác gian tà, bảo vệ cuộc sống yên vui cho dân lành. Khi người Phúc Kiến di dân đến Phố Hiến thế kỉ XVI – XVII đã lập đền thờ ở Đông Đô Quảng Hội, và Thiên Hậu phố Bắc Hòa (nay là phố Trưng Trắc, phường Lê Lợi, thành phố Hưng Yên). Cho đến nay không chỉ những người dân Hoa kiều ở thành phố Hưng Yên mà ngay cả những người dân bản địa đã coi đền Thiên Hậu là chốn linh thiêng thường lưu tới dâng hương, vãn cảnh. Quy mô, kiểu cách, các giá trị kiến trúc, mỹ thuật: Khu nội tự xây kiểu chữ đinh gồm nhà thiêu hương và hậu cung. Nhà thiêu hương dựng chồng diêm 2 tầng 8 mái, mái lợp ngói ống, đường bờ nóc trang trí đức Phật ngồi trên toà sen, xung quanh người qua lại. Ngoài ra, ở đây còn trang trí các loại hoa dây, bát mã quần phi, cảnh bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Hậu cung gồm 3 gian, kiến trúc kiểu “chồng rường cánh”, trên các đầu dư chạm hình cá chép. Gian hậu cung ngoài thờ Lâm Tức Mặc còn thờ cha mẹ, anh em ruột của Bà và các dòng họ người Hoa đã có công dựng đền. Giá trị cổ vật: Đền Thiên Hậu hiện còn lưu giữ được nhiều cổ vật có giá trị: cỗ kiệu “thượng thiên thánh mẫu” có phù điêu chạm trổ, các vị tiên nữ trên trời xuống đón Bà về trời, phương đình, long kỷ, giá nhạc, các đồ thờ tự, các pho tượng, khám thờ, nhang án được chạm trổ công phu rất đẹp. Đền có hai tấm phù điêu đá dài 0,95m, rộng 0,5m; một lư hương đá cao 1,6m, đường kính 1,3m; một phương đình bằng gỗ có kích thước 4,5m x 3m Ngoài ra còn có các bức đại tự lớn sơn son thếp vàng, nhiều bia đá, cuốn thư, các câu đối gỗ đều được gia công cầu kỳ. Đối tượng thờ: Đền Thiên Hậu thờ Thánh Mẫu (tức Lâm tức Mặc), và Tứ Phủ (Thiên phủ (miền trời),Nhạc phủ (miền rừng núi),Thuỷ phủ (miền sông nước), Địa phủ (miền đất)). Thực trạng tổ chức quản lý, bảo vệ, tôn tạo và khai thác di tích: Thời gian và mưa nắng đã làm cho di tích xuống cấp phần nào, nhà tiền sảnh và tòa thiêu hương, một số gỗ bị mối mọt, ngói bị nứt dột. Hiện chính quyền địa phương đã phối hợp với ban quản lý di tích để trùng tu, sửa chữa những chỗ hư hỏng của di tích. 28
  38. Giá trị được xếp hạng: Ngày 2 tháng 12 năm 1992, Bộ Văn hóa thông tin đã xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia. Đền Thiên Hậu là nguồn tư liệu quan trọng giúp cho các nhà nghiên cứu và khách tham quan tìm hiểu thêm về Phố Hiến xưa. * Đông Đô Quảng Hội Vị trí, tên gọi, diện tích, cảnh quan: Đông Đô Quảng Hội nằm trên đường Phố Hiến, phường Hồng Châu, thành phố Hưng Yên. Toàn bộ Đông Đô Quảng Hội được xây dựng với tổng diện tích là 517,6 m2. Từ ngã ba chùa Chuông đi dọc đường Bãi Sậy khoảng 1,5 km đến Dốc Đá sau đó rẽ trái khoảng 250m là đến Đông Đô Quảng Hội. Di tích nằm trong quần thể di tích Phố Hiến của thành phố Hưng Yên. Về phía đông bắc cách 200m là đình chùa Hiến, đi tiếp theo đường Bãi Sậy 1km là đền Mẫu, tiếp đến là đền Trần. Lịch sử hình thành và phát triển: Đông Đô Quảng Hội được xây dựng năm 1590, có kiến trúc kiểu chữ Tam. Toàn bộ nguyên vật liệu để xây dựng và đồ tế khí được vận chuyển từ 3 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Phúc Kiến (Trung Quốc) sang bằng đường biển, được 14 dòng họ ở Trung Hoa cùng người dân Phố Hiến dựng lên. Năm 1975, tòa nhà này đã được các dòng họ Hoàng, Tiết, Ôn và nhân dân địa phương đã tiến hành phục dựng lại (do trước đó đã bị đổ nát) theo phong cách kiến trúc cổ Trung Quốc. Quy mô, kiểu cách, các giá trị kiến trúc, mỹ thuật: Đông Đô Quảng Hội kiến trúc kiểu chứ Tam, gồm các hạng mục như: Tiền tế, trung từ và hậu cung. Toàn bộ nguyên vật liệu để xây dựng và đồ tế khí được vận chuyển từ 3 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Phúc Kiến (Trung Quốc) sang bằng đường biển, được 14 dòng họ ở Trung Hoa cùng người dân Phố Hiến dựng lên. Công trình đầu tiên là Nghi môn, được lợp bằng ngói vẩy cá, kiến trúc vì kèo kiểu giá chiêng, kê trên các đấu kê hình đài lá và hình vành khuyên. Cánh cửa nghi môn chắc chắn, phía trên có bức đại tự ghi "Đông Đô Quảng Hội". Khu chính tiền tế, trung từ mới được phục dựng lại trên nền móng của công trình cũ, kết câu kiến trúc các bộ vì của 2 tòa này làm kiểu chồng rường giá chiêng, hoa văn chạm trổ theo phong cách Trung Hoa cổ. Hậu cung gồm 3 gian, kết cấu các bộ vì kèo kiểu chồng rường, giá chiêng, con nhị, 29
  39. nâng đỡ vì kèo là hệ thống cột cái được kê trên các chân tảng đá thắt cổ bồng. Hệ thống cửa hậu cung làm kiểu bức bàn con quay, ván bưng được chạm trổ tùng, điểu, hươu, nai đố cửa chạm nổi phượng vũ, mã phi, bên trên chạm lộng phúc, lộc, chim, thú thể hiện ước vọng cầu lộc, cầu phúc của nhân dân. Khu chính nội tự có kiến trúc kiểu chữ Nhị (=), gồm đại bái và hậu cung. Tòa đại bái với 3 gian, được sử dụnglàm nơi hội họp, buôn bán trong thời kỳ phồn thịnh của Phố Hiến. Hậu cung gồm 3 gian, vì kèo kết cấu kiểu chồng rường, giá chiêng, con nhị, hệ thống cột được kê trên các chân tảng bằng đá lớn, 2 bộ vì hồi được đặt trên lưng 4 con lân gỗ trong tư thế nhìn ra ngoài. Giá trị cổ vật: Hội quán có 2 hương án, một bằng đá cao 1,45m, rộng 1,62m và một bằng gỗ cao 1,41m, rộng 1,76m. Một khám thờ được sơn son thếp vàng đặt 3 pho tượng Tam Thánh ngoài lồng kính, xung quanh khám được trang trí hoa lá hướng dương, cửa khám thể hiện đề tài long mã. Gian trung tâm có một khám thờ cao 2m, rộng 2,4m, được sơn son thếp vàng, bên trong đặt 3 pho tượng (1 tượng Thánh Mẫu, và 2 tượng người hầu), Mẫu ngự trên ngai, tay vịn đầu rồng, vẻ mặt phúc hậu, đoan trang. Ngoài ra còn có: 7 bức đại tự sơn sơn thếp vàng; 1 giá võng sơn son thếp vàng; 3 hương án; 2 bát hương loe sứ Trung Quốc rộng 25cm, cao 30 cm; 1 bát hương sứ quả lựu 3 chân thời Càn Long; 1 nậm rượu thời Lê; 4 bát hương sứ thời Nguyễn; 1 đỉnh thiếc; 1 lư hương thiếc cao 60 cm; 4 bia đá; Đối tượng thờ: Đông Đô Quảng Hội là nơi hội họp của các thương nhân nước ngoài, chủ yếu là người Hoa, đồng thời đó cũng là nơi thờ tam thánh: Thần Thái Y (thần làm nghề thuốc); Thần Hoa Quang (dạy dân làm các nghề thủ công); Thần Nông (dạy dân làm ruộng, trồng trọt, chăn nuôi). Thực trạng tổ chức quản lý, bảo vệ, tôn tạo và khai thác di tích: Hiện nay trải qua bao thời gian dài nên di tích không tránh khỏi hư hại, 6 gian hội quán dùng làm nơi tụ họp nay không còn nữa. Sân vườn đang được quy hoạch và trùng tu trong thời gian tới. Giá trị được xếp hạng: Từ năm 2001 di tích được xếp hạng cấp Quốc gia. Sự phát triển của Đông Đô Quảng Hội liên quan đến sự hình thành và phát triển của Phố Hiến. Khảo sát tại di tích em thấy được những giá trị lịch sử về một 30
  40. vùng đất đã một thời phát triển rực rỡ và hiểu được đời sống kinh tế văn hóa và tín ngưỡng của nhân dân thời kỳ đó. Ngoài ra ta còn thấy được sự giao lưu kinh tế, văn hóa của Phố Hiến với nhiều Quốc gia như: Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Hà Lan * Văn Miếu Vị trí, tên gọi, diện tích, cảnh quan: Văn Miếu ở thôn Xích Đằng, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên. Văn Miếu xưa được gọi là “Văn Miếu Trấn Đằng Châu” nay gọi là “Văn Miếu Xích Đằng”. Các công trình Văn Miếu trải rộng trên một diện tích hơn 6000m2. Từ bến xe Hưng Yên đi xuôi xuống đường chùa Chuông khoảng 400m là đến đường Phạm Bạch Hổ, đi tiếp khoảng 300m rẽ trái là đến Văn Miếu Xích Đằng. Một khung tường xây bằng những viên gạch cỡ lớn dưới cành lá xum xuê của những cây cổ thụ cùng với những chậu cây cảnh tạo nên một cảnh sắc uy nghi, cổ kính cho khu di tích. Đặc biệt ở tầng hai Nghi môn có xây sân và hành lang để làm nơi hóng mát và vịnh thơ. Lịch sử hình thành và phát triển: Thế kỷ 17, để chấn hưng lại nền Nho học, triều đình đã cho thành lập nhiều trường học bên ngoài trường Quốc Tử Giám. Ở trấn Sơn Nam (gồm các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình và một phần đất của Hà Nội và Hưng Yên) văn miếu Sơn Nam (văn miếu Xích Đằng khi đó) được xây dựng vừa làm nơi để thờ tự các bậc hiền nho, vừa là nơi tổ chức các kỳ thi của trấn. Sử sách còn ghi: Văn miếu Xích Đằng đã có lần là trường thi của khoa thi Hương, hoặc là nơi sát hạch học trò để đi thi Hương. Nhà bác học Lê Quý Đôn, đã dự kỳ thi hương ở Hưng Yên hồi ấy”. Sau nhiều biến chuyển trong việc chia tách lại địa lý và đơn vị hành chính các trấn dưới các triều: Hậu Lê, Tây Sơn, nhà Nguyễn, văn miếu Xích Đằng trở thành văn miếu của trấn Sơn Nam và sau này là của tỉnh Hưng Yên. Đến nay, được sự quan tâm của tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân, Hội đồng nhân dân và các ngành trong tỉnh kể từ khi tái lập tỉnh (1997), di tích Văn Miếu đã qua hai lần trùng tu lớn. Lần trùng tu gần đây nhất (2002) toàn bộ khu di tích đã cơ bản hoàn chỉnh, các hàng cột kèo được sơn son thếp vàng hoành tráng, lộng lẫy, tượng Khổng Tử và Chu Văn An bằng đồng mới được dâng tiến (2003) với kích cỡ khá 31
  41. lớn (tượng Khổng Tử cao: 1,1m nặng 1,1 tấn; tượng Chu Văn An cao 1,8m nặng 2,5 tấn). Cùng với đó là hệ thống tường rào được xây bao kín xung quanh và hàng cây cảnh được bố trí khắp khuôn viên đã nâng giá trị đặc biệt của di tích trong quần thể di tích Phố Hiến. Nét nổi bật của Văn Miếu là nơi dạy học và là địa điểm thi cử để chọn người tài ra làm quan phục vụ cho chế độ nhà nước phong kiến đương thời. Qua bao tháng năm lịch sử dưới thời phong kiến tại Văn Miếu đã mở bao khoa thi, vì địa điểm này các bậc sỹ tử ở các phủ, huyện trong tỉnh có dịp hội tụ về để học và thi tuyển. Qua các đợt thi cử đó Văn Miếu đã ghi nhận biết bao các vị danh nhân đỗ đại khoa Tiến sỹ. Tên tuổi của các danh nhân đó đã được khắc ghi trên bia đá còn lưu lại tới ngày nay. Văn Miếu được xây dựng đánh dấu một bước phát triển cao của nền giáo dục phong kiến ở Hưng Yên. Sau này cũng tại nơi đây đã diễn ra các sự kiện lịch sử đáng ghi nhớ. Quy mô, kiểu cách, các giá trị kiến trúc, mỹ thuật: Văn miếu có kết cấu kiến trúc kiểu chữ Tam, bao gồm: Tiền tế, Trung từ và Hậu cung. Hệ thống mái của các tòa được làm liên hoàn kiểu "trùng thiềm điệp ốc". Mặt tiền Văn miếu quay hướng Nam, cổng Nghi môn được xây dựng đồ sộ, bề thế, mang dáng dấp cổng Văn miếu Hà Nội. Phía trong cổng có sân rộng, ở giữa sân là đường thập đạo, hai bên sân có lầu chuông và lầu khánh cùng 2 dãy tả vu, hữu vu. Khu nội tự gồm: Tiền tế, Trung từ và Hậu cung, kiến trúc giống nhau, được làm theo kiểu vì kèo trụ trốn. Toàn bộ khu nội tự Văn miếu tỏa sáng bởi hệ thống đại tự, câu đối, cửa võng và hệ thống kèo cột đều được sơn thếp phủ hoàn kim rất đẹp. Giá trị cổ vật: “Văn Miếu kim chung” (chuông vàng Văn Miếu) được đúc năm Gia Long thứ 3 (1804) thân cao 1,5 m, đường kính 90 cm; “Ngọc khánh Văn Miếu” (khánh đá Văn Miếu) dài 1,9 m , cao 0,95 m, dày 0,15 m; ở cổng Tam quan còn có hai con sấu đá. Và cổ vật quý bậc nhất ở đây là 9 tấm bia đá có kích cỡ khác nhau, đây là tư liệu văn tự gốc quý giá. Toàn bộ trán và diềm bia được chạm khắc hoa văn phong phú với các chủ đề rồng, kỳ lân, lưỡng long chầu nguyệt tinh xảo, uyển chuyển, tỉ mỉ đến từng chi tiết. 8 tấm bia được dựng vào năm 1888 và tấm bia cuối cùng được dựng năm 1943, ghi danh tên tuổi, quê quán, chức vụ 161 vị đỗ đại 32
  42. khoa trong tổng số 228 vị đỗ đại khoa của tỉnh nhà. Bia lớn có kích thước 1,35m x 0,86m, bia nhỏ có kích thước 1,15m x 0,78m. Ngoài ra còn phải kể đến hai pho tượng đồng cỡ lớn. Tượng thầy Chu Văn An ngồi trên ghế thờ được đặt ở tòa trung từ, có mắt nhìn xa xa, phục trang bình dị, áo ít nếp, ảnh hưởng của phong cách thời Trần. Tượng đức Khổng Tử ở gian hậu cung, với tư thế ngồi và cách để tay biểu hiện của lưỡng nghi, tứ tượng theo tính chất dịch học của Nho giáo. Bàn tay phải úp xuống nắm lấy bàn tay trái ngửa ra hiện thân như một vị thần cầu no đủ, hạnh phúc. Đối tượng thờ: Văn Miếu được xây lên để thờ Khổng Tử và các bậc hiền triết nho giáo. Cùng thờ với Khổng Tử là Chu Văn An. Thực trạng tổ chức quản lý, bảo vệ, tôn tạo và khai thác di tích: Văn Miếu cũng là nơi đặt trụ sở của Ban quản lý di tích tỉnh Hưng Yên nên rất được chú trọng bảo vệ. Các hiện vật trong di tích được giữ gìn và bảo quản tốt, hàng ngày đều có người kiểm tra, lau dọn. Giá trị được xếp hạng: Năm 1992, Văn miếu Hưng Yên được Bộ Văn hoá - Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Từ điển Địa danh văn hóa và thắng cảnh Việt Nam của Nguyễn Như Ý và Nguyễn Thành Chương ghi rõ: văn miếu Xích Đằng là một trong 6 văn miếu còn tồn tại cho đến ngày nay của đất nước, là một trong ba văn miếu lâu đời nhất (đứng sau văn miếu Quốc Tử Giám, Hà Nội và văn miếu Mao Điền, Hải Dương) còn tồn tại. Tự nhiên và kinh tế - xã hội là những yếu tố để phát triển và nuôi dưỡng những giá trị văn hóa. Do vậy, phần lớn các di tích lịch sử văn hóa có giá trị ở thành phố Hưng Yên đều được tạo dựng và trùng tu lớn vào thời kỳ Phố Hiến thịnh vượng (thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII). Các di tích này lại phân bố tập trung thuận lợi cho việc tổ chức các loại hình du lịch văn hóa. Các di tích lịch sử văn hóa trên đều nằm trong quần thể di tích Phố Hiến xưa, đã, đang và sẽ được trùng tu, bảo quản, khai thác tốt để phục vụ phát triển du lịch của thành phố trong hiện tại và tương lai góp phần vào xây dựng kinh tế – xã hội của thành phố Hưng Yên, xứng đáng với địa danh Phố Hiến một thời hưng thịnh. 33
  43. 2.2.2.Lễ hội truyền thống. Thành phố Hưng Yên có nhiều lễ hội phản ảnh khá rõ nét con người, truyền thống, phong tục mà thông qua đó để tạ ơn trời đất, thần nước và cầu mong có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc, tạ ơn những người có công đức, tưởng nhớ tới các vị anh hùng. Hiện nay, thành phố Hưng Yên có 65 lễ hội truyền thống, các lễ hội này được tổ chức trong khoảng thời gian từ rằm tháng giêng đến hết tháng năm âm lịch. Mỗi lễ hội đều có bản sắc riêng gắn với tôn giáo, tín ngưỡng của cư dân bản địa. Có một số lễ hội được tổ chức hai hoặc lần trong năm, lần một là đầu năm, lần hai, lần ba trong khoảng tháng bảy đến tháng chín âm lịch. Tuy quy mô các lễ hội của thành phố Hưng Yên không lớn nhưng đã thu hút được lượng du khách đáng kể hàng năm về dâng hương, đặc biệt ngoài người dân địa phương thì có rất nhiều du khách thập phương (chiếm khoảng 47% - theo thống kê của phòng Văn hóa thông tin thành phố Hưng Yên). * Lễ hội Đền Tân La Lịch sử phát triển của lễ hội và của các nhân vật được tôn thờ: Bát Nàn tướng quân tên thật là Vũ Thị Thục, con ông Vũ Công Chất, hào trưởng trang Phượng Lâu. Nghe tiếng Thục nương xinh đẹp, giỏi võ nghệ, Thái thú Giao Chỉ lúc đó là Tô Định đã ép ông Vũ Công Chất gả Thục Nương cho hắn. Ông Chất và Thục Nương không đồng ý vì đã nhận trầu cau của người khác, Tô Định liền tìm cách hại gia đình và tìm cách bắt Thục Nương. Bà đã bỏ trốn sang vùng Tân La chiêu mộ binh mã chống lại. Khi cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng nổ ra, Thục Nương đã xin gia nhập nghĩa quân của Hai Bà và được phong là Bát Nàn tướng quân. Khi Hai Bà Trưng tự vẫn, Thục Nương rút về vùng Tân La. Tại đây bà đã chiến đấu ngoan cường và hi sinh anh dũng vào năm 43. Để tưởng nhớ công ơn của Bát Nàn tướng quân, nhân dân vùng Tân La đã lập đền thờ bà tại đây. Thời gian diễn ra lễ hội: Xưa kia, lễ hội đền Tân La thường kéo dài từ đầu tháng đến cuối tháng 3 âm lịch. Ngày nay, lễ hội được tổ chức đơn giản hơn, thời gian hội diễn ra ngắn hơn, lễ hội được tổ chức vào các ngày 15, 16, 17 tháng 3 âm lịch, nhưng vẫn bảo đảm nội dung và quy trình của lễ hội cổ truyền. 34
  44. Quy mô của lễ hội: lễ hội mang tính chất địa phương, thu hút rất đông khách dâng hương nhưng chủ yếu vẫn là người dân thành phố Hưng Yên, người dân các vùng lân cận và một số người dân địa phương xa quê. Những giá trị văn hóa và phong tục, tập quán: Nằm trong quần thể di tích Phố Hiến, đền Tân La có một vị trí địa lý quan trọng, là di tích cửa ngõ dẫn vào các điểm di tích trong lòng Phố Hiến. Lễ hội không chỉ có giá trị về mặt văn hóa và phong tục tập quán với người dân địa phương, mà còn là nơi lưu giữ những giá trị lịch sử to lớn về thời đại Hai Bà Trưng, tuy thời đại đó ngắn ngủi nhưng có ý nghĩa vô cùng to lớn với đất nước ta, nó đã chấm dứt thời kỳ ngàn năm Bắc thuộc của nước ta, cổ vũ phong trào yêu nước của dân tộc ta cho đến muôn đời sau. Trong lễ hội có tổ chức rước nước từ sông Hồng về đền, ngoài ra còn có các trò chơi dân gian như: Cờ tướng, kéo co, chọi gà, biểu diễn văn nghệ thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Cụ thể: Ngày 1: Tổ chức hát sân đình, hát quan họ, đón du khách thập phương về dâng hương. Đọc tiểu sử của nữ tướng Vũ Thị Thục và dâng hương. Sau lễ là tổ chức các trò chơi dân gian. Ngày 2: Tiếp đón du khách đến lễ, tổ chức múa sanh tiền, cờ kiếm, chơi cờ tướng và một số trò chơi dân gian khác. Ngày 3: Kết thúc lễ hội. Giá trị với hoạt động du lịch: Hàng năm, lễ hội thu hút hơn 4.200 lượt khách thập phương, đem lại nguồn thu trên 500 triệu cho ngành du lịch của thành phố. Lễ hội cũng góp phần giới thiệu, quảng bá hình ảnh Hưng Yên với du khách thập phương, là một kênh quảng cáo rất hiệu quả của du lịch thành phố Hưng Yên. Thực trạng của việc tổ chức và khai thác lễ hội: Lễ hội là một hoạt động văn hóa thu hút được một lượng người lớn tham gia tập trung trong thời gian ngắn tại khoảng không gian hẹp nên việc quản lý để không xảy ra những hiện tượng tiêu cực là hết sức khó khăn. Và để quản lý tốt an ninh trong mùa lễ hội, ban quản lý đền Tân La đã đưa ra một số quy định như: Nghiêm cấm lợi dụng lễ hội để hành nghề mê tín dị đoan; Tăng cường thanh tra, kiểm tra giám sát các hoạt động tổ chức lễ hội; Tại nơi thờ tự, phải có hướng dẫn cụ thể việc đặt hòm công đức, không 35
  45. để xảy ra tình trạng đặt tiền giọt dầu, dắt tiền vào tay tượng phật gây phản cảm, thiếu mỹ quan. * Lễ hội Đền Mây Lịch sử phát triển của lễ hội và của các nhân vật được tôn thờ: Đền Mây thờ tướng quân Phạm Bạch Hổ - một vị tướng tài ba ở thế kỉ X duới thời Ngô Quyền. Ông đã cùng Ngô Quyền đánh quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Theo “Đại Nam nhất thống chí”, Phạm Bạch Hổ sinh ngày 10 tháng Giêng năm Canh Ngọ (910), thân phụ là Phạm Lệnh Công người lộ Nam Sách Giang (nay là Kim Thành- Hải Dương). Lệnh Công có tiệm buôn lớn ở Đằng Châu - Kim Động - Hưng Yên (nay là Xích Đằng - Lam Sơn - Hưng Yên). Tương truyền mẹ ông nằm mộng thấy Sơn Tinh và Hổ trắng mà có mang nên đã đặt tên ông là Bạch Hổ. Lớn lên Bạch Hổ có thân hình vạm vỡ, mạnh mẽ như hổ, thông minh hơn người, văn võ song toàn. Phạm Bạch Hổ từng làm hào trưởng đất Đằng Châu, là tướng tài của Dương Đình Nghệ. Năm Tân Mão 931, ông giúp chủ tướng đánh đuổi Lý Tiến, thứ sử Giao Châu; đánh bại Trần Báo do Đường Minh Tông cử sang cứu viện, rồi xưng tiết độ sứ. Khi Kiều Công Tiễn, một nha tướng của Dương Đình Nghệ giết chết chủ tướng, đoạt chức rồi cầu cứu quân Nam Hán xâm lược nước ta. Phạm Bạch Hổ đã phối hợp với Ngô Quyền đem quân tiêu diệt Kiều Công Tiễn và đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm Mậu Tuất (938). Khi Ngô Quyền mất, Dương Tam Kha cướp ngôi Vua, Phạm Bạch Hổ cùng Đỗ Cảnh Thạc lật đổ Dương Tam Kha đưa Ngô Xương Văn, con của Ngô Quyền lên ngôi, thời kỳ này được gọi là Hậu Ngô Vương. Năm 965, Hậu Ngô Vương mất, các hào kiệt trong nước nổi lên cát cứ từng vùng. Phạm Bạch Hổ chiếm giữ Đằng Châu và là một trong mười hai sứ quân thời đó. Năm 968 Vạn Thắng vương - Đinh Bộ Lĩnh được sứ quân Trần Lãm giao toàn bộ binh quyền, đã dẹp "Loạn 12 sứ quân". Phạm Bạch Hổ đem quân quy thuận được phong là thân vệ Đại tướng quân. Ngày 16 tháng 11 năm Nhâm Thân (972), Phạm Bạch Hổ mất tại quê nhà, thọ 62 tuổi. Vua Lê Hoàn đã sắc cho nhân dân lập đền thờ, các triều đại phong kiến đều phong tặng ông là: “Khai thiên hộ quốc tối linh thần”. Thời gian diễn ra lễ hội: Hàng năm, lễ hội đền Mây được tổ chức hai lần, 36
  46. ngày 10/1 là kỷ niệm ngày sinh và 16/11 là ngày mất của Phạm Bạch Hổ. Quy mô của lễ hội: Lễ hội mang tính chất địa phương, phục vụ cho nhu cầu tín ngưỡng của người dân địa phương. Ngoài việc phục vụ tín ngưỡng của người dân địa phương, hàng năm lễ hội còn đón rất niều du khách thập phương tới tham quan và dâng hương. Những giá trị văn hóa và phong tục, tập quán: Lễ hội thường được diễn ra trong ngày với hai phần rõ rệt, sáng là phần lễ, chiều tổ chức hội. Sáng: Tổ chức rước nước, đón du khách thập phương về dâng hương. Đọc tiểu sử của tướng quân Phạm Bạch Hổ và dâng hương. Diễn lại các tích liên quan đến tướng quân Phạm Bạch Hổ. Chiều: Sau lễ là tổ chức các trò chơi dân gian: đấu vật, múa lân, hát trống quân, múa rối nước, đánh cờ Kết thúc lễ hội. Ngày nay, lễ hội được tổ chức đơn giản hơn, mục đích là tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, bài trừ những hủ tục lạc hậu xây dựng đời sống văn hoá mới. Giá trị với hoạt động du lịch: Năm 1992, Bộ Văn hóa thể thao đã công nhận Đền Mây là di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật. Để hoà nhập với sự phát triển của Phố Hiến - Hưng Yên, Đền Mây đang được quy hoạch, trùng tu, tôn tạo để bảo đảm phục vụ khách thập phương và nhân dân trong vùng trong các ngày lễ hội. Đền Mây nằm trong quần thể di tích Phố Hiến, là một trong những điểm đã và đang được chính quyền thành phố Hưng Yên đưa vào khai thác du lịch. Thực trạng của việc tổ chức và khai thác lễ hội: Để quản lý tốt an ninh trong mùa lễ hội, ban quản lý đền Mây đã đưa ra một số giải pháp như: Rà soát kế hoạch tổ chức lễ hội, điều chỉnh nội dung, chương trình lễ hội phù hợp, phần lễ tổ chức tôn nghiêm, phần hội vui tươi lành mạnh. Dự báo lượng khách đến để chỉ đạo thực hiện phương án thích hợp, đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn cho nhân dân, bảo vệ cảnh quan môi trường. Công tác thanh tra, kiểm tra tại nơi tổ chức lễ hội được tăng cường; lực lượng kiểm tra hoạt động lễ hội đã có biện pháp chấn chỉnh, nhắc nhở, xử lý vi phạm tại chỗ đối với các biểu hiện có mục đích trục lợi, ngăn chặn và loại bỏ những biểu hiện thu phí không đúng quy định, lừa gạt khách tham quan, hoạt động mê tín dị đoan, đánh bạc. 37
  47. * Lễ hội Đền Mẫu Lịch sử phát triển của lễ hội và của các nhân vật được tôn thờ: Đền Mẫu thờ bà Quý Phi họ Dương (vợ vua Tống), người đã tuẫn tiết để giữ lòng chung thuỷ với vua và trung thành với Tổ Quốc. Theo “Đại Nam nhất thống chí” và “Thần tích” thì bà là vợ vua Tống Đế Bính (Trung Quốc). Năm 1279, quân Nguyên Mông xâm lược nước Tống, trước sức mạnh của giặc, vua Tống cùng hoàng tộc xuống thuyền chạy về phương Nam tránh nạn. Tướng nhà Nguyên Mông là Trương Hoằng Phạm cho quân đuổi theo đến Nhai Sơn thì bắt được, vua Tống và một số phi tần không chịu khuất phục đã nhảy xuống biển tự tận. Dân chài cửa Càn Hải vùng Châu Hoan (Nghệ An) thấy bốn xác người phụ nữ, y phục như hậu phi, cung phi trôi trên mặt biển. Họ vớt được 3 xác đem chôn cất, còn xác thứ 4 trôi ngược dòng lên phía Bắc. Truyền rằng xác phụ nữ trôi ngược dòng đó ít ngày sau dạt vào cửa sông vùng Phố Hiến, được dân cư ở đây vớt lên, mai táng chu đáo và lập miếu thờ. Đời Vua Trần Anh Tông, niên hiệu Hưng Long thứ 2 (1294), thân chinh đi đánh Chiêm Thành, khi qua đây nằm mộng thấy thần nữ (chỉ Dương Quý Phi) đến xin âm phù giết giặc. Sau khi thắng trận trở về, nhớ tới công lao đó của Quý Phi, một mặt nhà vua cho tôn tạo lại đền, miếu, một mặt cho các bến bãi thu thuế thuyền buôn trích ra một phần cung cấp cho việc phụng thờ. Người dân đi biển đến đây lễ bái cầu xin thuận buồm xuôi gió đều được như ý. Năm 1990, Đền Mẫu đã được Bộ Văn hóa thông tin công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia. Thời gian diễn ra lễ hội: Lễ hội hàng năm được tổ chức từ ngày 10 đến 15 tháng 3 âm lịch. Quy mô của lễ hội: Lễ hội được tổ chức với quy mô lớn không chỉ thu hút người dân địa phương và các vùng lân cận, mà còn thu hút được một lượng lớn du khách từ các địa phương khác đến dâng hương (Theo thống kê của phòng Văn hóa thông tin thành phố, lượng du khách ngoại tỉnh đến dâng hương ở đền Mẫu hàng năm chiếm 45% lượng khách đến dâng hương khoảng 13.157 lượt khách). Những giá trị văn hóa và phong tục, tập quán: Lễ hội xưa được tổ chức rất linh đình, từ ngày 6/3 (ÂL) đã làm lễ chồng kiệu, ngày mồng 10 tổ chức rước kiệu quan thái giám họ Du từ Đình Hiến lên Đền Mẫu, ngày 11 lễ thỉnh kinh sau đó tổ 38
  48. chức rước nước, ngày 12 rước liềm (đi đầu là cờ, trống chiêng, long đình, bát bửu, lộ bộ, có đội múa lân, múa rồng. Đám rước đi một đoạn thì dừng lại để biểu diễn múa cờ. Bốn thanh niên cầm 4 cờ, múa theo nhịp trống, lúc nhanh, lúc chậm. Sau mỗi tiếng trống, người múa cờ “hứ” một tiếng to và dài (nên được gọi là trò “tùng hứ”)), ngày 13 là rước du (đám rước đi quanh phố, đi trong đám rước cũng như hôm rước liềm. Trong đám rước, rồng vàng uốn lượn từ đầu đến cuối đám rước, có múa “Con đi đánh bồng”. Đám rước đi đến đâu hai bên đường người dân reo hò, cổ vũ rất vui nhộn), ngày 15 lễ rước kiệu thánh trả về Đình Hiến và làm lễ rỡ kiệu kết thúc lễ hội. Ngoài các lễ rước, hội đền Mẫu còn tổ chức các trò chơi dân gian như: thi đánh cờ, thi đấu tổ tôm điếm, chọi gà, hát chầu văn Ngày nay, lễ hội được tổ chức đơn giản hơn. Ngày 10 tháng 3 âm lịch ruớc nước, rước kiệu thánh từ Đình Hiến lên Đền Mẫu, ngày 12 tổ chức rước du vòng quanh thị xã và ngày 15 rước kiệu thánh trở về Đình Hiến. Ngoài ra còn tổ chức hát múa đón du khách thập phương. Giá trị với hoạt động du lịch: Hàng năm, lễ hội đã thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước đến dâng hương , cầu phúc cầu lộc và lượng khách của năm sau thường tăng cao hơn năm trước (mỗi năm đón khoảng 13.571 lượt khách), đem lại nguồn thu khoảng gần 3 tỷ đồng mỗi năm cho thành phố. Theo thống kê của phòng Văn hóa thông tin thành phố hàng năm lượng du khách đến dâng hương ở đền Mẫu chiếm 75% lượng khách đến dâng hương ở các di tích thuộc thành phố. Thực trạng của việc tổ chức và khai thác lễ hội: Ban quản lý di tích đền Mẫu nhận thấy đền là nơi linh thiêng với người dân địa phương, hàng năm thu hút một lượng lớn khách đến dâng hương, vãn cảnh nên rất chú trọng việc tổ chức lễ hội bài bản, an toàn cho du khách. Việc phân công các đội phụ trách tế lễ, rước nước, chọn phu kiệu, đội múa lân, đội cầm cờ, đội trống chiêng, long đình, bát bửu rất được coi trọng vì phải đảm bảo là những người có tư cách đạo đức, khỏe mạnh, có trách nhiệm, và phải ăn chay, giữ mình thanh sạch trước khi diễn ra lễ hội nửa tháng. Địa phương cũng cắt cử người lo phần trang phục, bảo đảm trang phục phải sạch, đẹp, không rách, và đúng với từng vị trí trong khi tổ chức lễ hội. Ngoài ra còn có đội phụ trách sắm lễ dâng lên Thánh Mẫu, lễ phải đúng, đủ và đảm bảo 39
  49. những quy định nhất định. Chính quyền địa phương, Ban tổ chức lễ hội cũng phối hợp với các lực lượng chức năng có phương án bảo đảm an ninh trật tự cho du khách, giải tỏa các lều quán bán hàng lấn chiếm đường đi, tăng cường các phương tiện, phương án phòng cháy, chữa cháy, đầu tư cơ sở vật chất, phân tuyến, nâng cấp đường giao thông, quy hoạch bến bãi giữ xe, các kiốt bán hàng để phục vụ nhân dân tham gia lễ hội và có nhiều biện pháp để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường và bảo vệ cảnh quan thiên nhiên. 2.2.3. Nghệ thuật dân gian Cũng như nhiều miền quê Bắc Bộ khác, ở nhiều vùng thuộc tỉnh Hưng Yên còn lưu giữ được một số loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống độc đáo như: múa lân, múa rồng, múa tứ linh và những làn điệu dân ca có giá trị như: ca trù, trống quân, hát xẩm, hát chèo, * Nghệ thuật hát ca trù Hát ca trù hay hát ả đào là một bộ môn nghệ thuật truyền thống ở phía Bắc Việt Nam kết hợp hát cùng một số nhạc cụ dân tộc. Ca trù thịnh hành từ thế kỷ 15, từng là một loại ca trong cung đình và được giới quý tộc và học giả yêu thích. Ngày 1 tháng 10 năm 2009, tại kỳ họp lần thứ 4 của Ủy ban liên chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (từ ngày 28 tháng 9 tới ngày 2 tháng 10 năm 2009), ca trù đã được công nhận là di sản phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp. Lịch sử hình thành và phát triển: Qua nghiên cứu một số di tích lịch sử và danh nhân văn hóa của tỉnh, nhận thấy ca trù ở Hưng Yên xuất hiện từ khá lâu và cũng có thời vàng son, điển hình là ở di tích đền Mẫu thôn Đào Đặng, xã Trung Nghĩa, thành phố Hưng Yên thờ danh nhân Đào Thị Huệ. Nghệ nhân: Đào Nương tên thật là Đào Thị Huệ, quê làng Đào Đặng, huyện Tiên Lữ, phủ Khoái Châu ( nay là thôn Đào Đặng, xã Trung Nghĩa, thị xã Hưng Yên). Thủa ấy, con gái làng Đào Đặng xinh đẹp có tiếng, bà học thông biết rộng, hát hay múa giỏi, tiếng đồn hoa nhãn sắc nổi tiếng cả một vùng. Năm bà 18 tuổi, nhà Minh mượn cớ phù Trần diệt Hồ kéo quân sang xâm lược nước ta, chúng đóng 40
  50. quân ở khắp mọi nơi, vơ vét của cải, giết hại lương dân. Căm thù quân giặc sách nhiễu, tàn sát ức hiếp dân lành, bà bàn với dân làng tìm cách giết giặc. Nhờ có tài nghệ xuất sắc, lại khéo léo, nên quân giặc rất tin và nể bà, chúng thường qua lại quán của bà ăn uống, chè chén no say rồi lăn ra ngủ. Hồi bấy giờ, Hưng Yên còn là vùng sình lầy, lau sậy um tùm, ruồi muỗi nhiều vô kể. Quân giặc không quen phong thổ thường sinh bệnh tật và chết vì muỗi độc. Vừa sợ lạnh, vừa sợ muỗi đốt chúng nảy ra sáng kiến làm những túi gai đêm đến chui vào ngủ, nhờ bà buộc lại, sáng hôm sau lại mở túi ra. Nhiều lần như vậy, Đào Nương nghĩ ra kế giết giặc. Đợi đến đêm khuya khi chúng đã ngủ say, bà cùng với dân làng khiêng từng bao tải ném xuống sông, nước cuốn trôi ra biển. Đêm nào cũng vậy, thấy quân số ngày càng hao hụt mà không biết vì cớ gì, chúng cho rằng đất này nghịch không thể ở được, bèn kéo nhau đi nơi khác. Từ đó nhân dân trong vùng yên ổn làm ăn. Nhớ công ơn bà, dân làng lập đền thờ và đặt tên thôn ấy là thôn Ả Đào. Bà được suy tôn là một trong những vị tổ nghệ thuật ca trù của nước ta. Dân làng tôn thờ bà, gọi bà là Thiên sinh Thánh Mẫu họ Đào hoặc ả Đào. Nghệ thuật ca hát của bà được dân làng truyền từ đời này sang đời khác với tên gọi hát Ả Đào. Đất nước thanh bình, Lê Thái Tổ lên ngôi biết chuyện bèn phong bà làm chức phúc thần, cho sửa lại đền thờ và cấp ruộng cúng tế. Giá trị về lời ca, âm vực: Hát nói là biến thể của song thất lục bát. Các nhà viết sách thời xưa cho rằng Hát nói là một hình thức biến đổi cu/a thể ngâm Song thất lục bát: Trong hát nói có Mưỡu là những câu thơ lục bát, nhiều câu 7 chữ có vần bằng, vần trắc, có cước vận, yêu vận . Nhưng khi đã phát triển, Hát nói là một thể tài hỗn hợp gồm: thơ, phú, lục bát, song thất, tứ tự, nói lối Trong lối hát ả đào có nhiều loại như: Dâng hương, Giáo trống, Gửi thư, Thét nhạc thì hát nói là lối thông dụng và có tính văn chương lý thú nhất. Nghệ thuật biểu diễn, không gian biểu diễn: Một chầu hát cần có ba thành phần chính: Một nữ ca sĩ (gọi là "đào" hay "ca nương") sử dụng bộ phách gõ lấy nhịp; Một nhạc công nam giới (gọi là "kép") chơi đàn đáy phụ họa theo tiếng hát; Người thưởng ngoạn (gọi là "quan viên", thường là tác giả bài hát) đánh trống chầu 41
  51. chấm câu và biểu lộ chỗ đắc ý bằng tiếng trống. Vì là nghệ thuật âm nhạc thính phòng, không gian trình diễn ca trù có phạm vi tương đối nhỏ. Đào hát ngồi trên chiếu ở giữa. Kép và quan viên ngồi chếch sang hai bên. Khi bài hát được sáng tác và trình diễn ngay tại chỗ thì gọi là "tức tịch," nghĩa là "ngay ở chiếu." Bài bản ca trù có nhiều loại. Phổ thông nhất là hát nói, một thể văn vần có tính cách văn học cao. Những bài hát nói nổi tiếng phải kể đến: Cao Bá Quát với "Tự tình", "Hơn nhau một chữ thì", "Phận hồng nhan có mong manh", "Nhân sinh thấm thoắt" ;Nguyễn Công Trứ với "Ngày tháng thanh nhàn", "Kiếp nhân sinh", "Chơi xuân kẻo hết xuân đi", "Trần ai ai dễ biết ai" ; Dương Khuê với "Hồng hồng, tuyết tuyết" tức "Gặp đào Hồng đào Tuyết". Ngoài ra còn có những làn điệu cổ điển khác như "Tỳ bà hành" (bản diễn Nôm của Phan Huy Vịnh theo cổ bản của Bạch Cư Dị). Những điệu huê tình, gửi thư, bắc phản, hát giai cũng thuộc thể ca trù. Thực trạng và khả năng khai thác bảo tồn du lịch: Hiện nay, nghệ thuật hát ả đào ở Hưng Yên đã không còn như xưa, do những thăng trầm và thay đổi của cuộc sống, con người cũng đã thay đổi nhiều. Nhưng chính quyền thành phố và Sở Văn hóa thể thao và Du lịch tỉnh đã lên kế hoạch phục hồi lại loại hình nghệ thuật này nhằm phục vụ du lịch. Trước hết là hát ở lễ hội, hiện này làng Đào Đặng còn có đền thờ và tượng Đào Nương. Hội đền tổ chức từ ngày mồng 1 đến ngày mồng 6 tháng 2 (âm lịch) hàng năm. Sau đó có thể sẽ lập các đoàn nghệ thuật, không những là duy trì, gìn giữ nét đẹp văn hóa truyền thống, phục vụ du lịch mà còn là để truyền dạy lại cho con cháu đời sau biết yêu nghệ thuật hát ả đào. * Nghệ thuật hát chèo Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian Việt Nam. Chèo phát triển mạnh ở đồng bằng Bắc Bộ. Loại hình sân khấu này phát triển cao, giàu tính dân tộc. Chèo mang tính quần chúng và được coi là một loại hình sân khấu của hội hè với đặc điểm sử dụng ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa kết hợp với cách nói ví von giàu tính tự sự, trữ tình. Nếu sân khấu truyền thống Trung Quốc có đại diện tiêu biểu là Kinh kịch của Bắc Kinh và sân khấu Nhật Bản là kịch nô thì đại diện tiêu biểu nhất của 42
  52. sân khấu truyền thống Việt Nam là chèo. Nội dung của các vở chèo lấy từ những truyện cổ tích, truyện Nôm; được nâng lên một mức cao bằng nghệ thuật sân khấu mang giá trị hiện thực và tư tưởng sâu sắc. Trong chèo, cái thiện luôn thắng cái ác, các sỹ tử tốt bụng, hiền lành, luôn đỗ đạt, làm quan còn người vợ thì tiết nghĩa, cuối cùng sẽ được đoàn tụ với chồng. Chèo luôn gắn với chất "trữ tình", thể hiện những xúc cảm và tình cảm cá nhân của con người, phản ánh mối quan tâm chung của nhân loại: tình yêu, tình bạn, tình thương. Nhân vật trong chèo thường mang tính ước lệ, chuẩn hóa và rập khuôn. Tính cách của các nhân vật trong chèo thường không thay đổi với chính vai diễn đó. Những nhân vật phụ của chèo có thể đổi đi và lắp lại ở bất cứ vở nào, nên hầu như không có tên riêng. Có thể gọi họ là thầy đồ, phú ông, thừa tướng, thư sinh, hề v.v Tuy nhiên, qua thời gian, một số nhân vật như Thiệt Thê, Thị Kính, Thị Mầu, Súy Vân đã thoát khỏi tính ước lệ đó và trở thành một nhân vật có cá tính riêng. “Hề" là một vai diễn thường có trong các vở diễn chèo. Các cảnh diễn có vai hề là nơi để cho người dân đả kích những thói hư tật xấu của xã hội phong kiến hay kể cả vua quan, những người có quyền, có của trong làng xã. Có hai loại hề chính bao gồm : hề áo dài và hề áo ngắn. Lịch sử hình thành và phát triển: Chèo bắt nguồn từ âm nhạc và múa dân gian, nhất là trò nhại từ thế kỷ 10. Qua thời gian, người Việt đã phát triển các tích truyện ngắn của chèo dựa trên các trò nhại này thành các vở diễn trọn vẹn dài hơn. Thế kỷ 18, hình thức chèo đã được phát triển mạnh ở vùng nông thôn Việt Nam và tiếp tục phát triển, đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ 19. Nằm giữa đồng bằng Bắc Bộ, trên nền phù sa màu mỡ của châu thổ sông Hồng, Hưng Yên mang đậm những giá trị truyền thống của một vùng văn minh lúa nước, đồng thời còn là "cái nôi" của nghệ thuật chèo (theo báo Nhân Dân trong bài viết “Phát huy truyền thống chiếng chèo Ðông” ra ngày 17/1/2012), một loại hình nghệ thuật diễn xướng độc đáo, lâu đời của dân tộc. Cùng với chèo Hải Dương, Hải Phòng, chèo Hưng Yên đã góp phần định hình và tạo nên chiếng chèo Ðông, một vùng chèo nổi tiếng trong bốn chiếng chèo chung quanh kinh thành Thăng Long xưa: chiếng chèo Ðoài, chiếng chèo Bắc, chiếng chèo Nam. Nhà nghiên cứu 43
  53. chèo Hà Văn Cầu cho rằng nền nghệ thuật sân khấu, ca múa nhạc nước ta, trong đó có Hưng Yên, được hình thành từ rất sớm, đến đời Lý – Trần đã xuất hiện độ ngũ nghệ sĩ chuyên nghiệp có tài năng, trở thành chim đầu đàn của từng loại hình nghệ thuật biểu diễn. Từ những chiếu chèo sân đình, nâng cao hơn là các phường chèo, rồi lớn nhất là đến các chiếng chèo (hay còn gọi một cách khác là vùng chèo) mang các đặc điểm đặc trưng của các làn điệu, hình thức diễn xướng dân ca vùng, miền. Chiếng chèo Ðông xưa và chèo Hưng Yên là đất chèo gốc, “cái nôi” của các làn điệu chèo cổ, cho đến hôm nay vẫn còn đó nhiều chiếu chèo, phường chèo làng, xã truyền thống, đại diện cho một vùng phong cách. Một số vở chèo tiêu biểu của chèo Hưng Yên như vở chèo Danh y vào Phủ chúa, vở chèo Hương Cúc, vở Tống Trân - Cúc Hoa, vở Lưu Bình Dương Lễ, Tấm Cám, Nghệ nhân: Xưa có các nghệ sĩ được dân gian suy tôn thành các “tổ chèo”, “trùm chèo” như: Phạm Thị Trân, Ðào Văn Só, Sái Ất . Đào Văn Só ở Đằng Châu (nay thuộc thành phố Hưng Yên). Ông có nhiều học trò theo nghề ca hát, được các gánh Chèo đời sau tôn là một trong “Nhị vị Ông Làng” (hai vị Tổ nghề Chèo: Đào Văn Só (Hưng Yên) và Đặng Hồng Lân (Thái Bình). Các loại nhạc cụ dùng để cùng biểu diễn: Chèo sử dụng tối thiểu hai loại nhạc cụ dây là đàn nguyệt và đàn nhị. Ngoài ra, các nhạc công còn dùng sáo, trống, chũm chọe. Bộ gõ nếu đầy đủ thì có trống cái, trống con, trống cơm, thanh la và mõ. Trống con dùng để giữ nhịp cho hát, cho múa và đệm cho câu hát. Có câu nói “phi trống bất thành chèo” chỉ vị trí quan trọng của chiếc trống trong đêm diễn chèo. Trong chèo hiện đại có sử dụng thêm các loại nhạc cụ khác để làm phong phú thêm phần đệm như đàn thập lục, đàn tam thập lục, đàn nguyệt và tiêu Nghệ thuật biểu diễn, không gian biểu diễn: Đây là loại hình nghệ thuật tổng hợp các yếu tố dân ca, dân vũ và các loại hình nghệ thuật dân gian khác ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nó là hình thức kể chuyện bằng sân khấu, lấy sân khấu và diễn viên làm phương tiện giao lưu với công chúng, và có thể được biểu diễn ngẫu 44
  54. hứng. Sân khấu chèo dân gian đơn giản, những danh từ chèo sân đình, chiếu chèo cũng phát khởi từ đó. Chèo không có cấu trúc cố định năm hồi một kịch như trong sân khấu Châu Âu mà các nghệ sỹ tham gia diễn chèo thường ứng diễn. Do vậy, vở kịch kéo dài hay cắt ngắn tuỳ thuộc vào cảm hứng của người nghệ sỹ hay đòi hỏi của khán giả. Số làn điệu chèo theo ước tính có khoảng trên 200. Thực trạng và khả năng khai thác bảo tồn du lịch: Nhận thấy được giá trị của các loại hình nghệ thuật, thành phố Hưng Yên đã chú trọng đầu tư phát triển các loại hình nghệ thuật truyền thống của thành phố như: chèo, hát ả đào và nhất là nghệ thuật chèo. Với việc xây dựng nhà hát chèo, thành phố cũng lập ra ba đoàn chèo cùng hoạt động. Đoàn chèo thường xuyên xây dựng các vở chèo mới đi phục vụ nhân dân các huyện, đồng thời tuyên truyền các chính sách mới của Đảng và Nhà nước, quảng cáo hình ảnh của thành phố Hưng Yên. Ngoài ra, còn có mục đích phục vụ du khách trên tàu thuyền du lịch trên sông Hồng, các tour tham quan thành phố nếu có yêu cầu. Các giá trị văn hóa nghệ thuật là loại tài nguyên du lịch hấp dẫn du khách, thuận lợi cho phát triển loại hình du lịch tham quan giải trí, nghiên cứu. Việc bảo tồn, khôi phục phát huy các giá trị văn hóa nghệ thuật góp phần làm phong phú hấp dẫn thêm cho cac loại tài nguyên du lịch khác và nhiều loại hình khác như: du lịch sông nước; du lịch văn hóa các dân tộc; du lịch tham quan; du lịch lễ hội. 2.2.4. Nghệ thuật ẩm thực Hưng Yên có những đặc sản nổi tiếng như: Nhãn lồng Phố Hiến, gà Đông Tảo (Đông Tảo - Khoái Châu), sen Nễ Châu, tương Bần (thị trấn Bần Yên Nhân), bún thang Thế Kỷ (thành phố Hưng Yên), Bánh cuốn nóng làng Sài Thị (Thuần Hưng- Khoái Châu), ếch om Phượng Tường (Tiên Lữ), bánh dày làng Gàu (Cửu Cao - Văn Giang), chả gà Tiểu Quan (Phùng Hưng - Khoái Châu), rượu Trương Xá (Kim Động), rượu Lạc Đạo (Văn Lâm), chuột đồng (Nghĩa Trụ - Văn Giang), Bánh cuốn (Mễ Sở - Văn Giang), cam Yên Mỹ (Yên Mỹ). Ngoài ra còn phải kể đến các sản vật nông nghiệp truyền thông như : nếp cái hoa vàng, lúa gạo, bầu, bí, mướp và nhất là khoai lang Nhật Quang (xã Nhật 45
  55. Quang - Phù Cừ) nổi tiếng thơm ngon và có nguy cơ thất truyền do thoái hoá giống, mắm tép - Lệ Xá, giò bì phố Xuôi, cá Mòi là một món ăn không thể thiếu vào những ngày đông giá rét giáp Tết nguyên đán. Xin nói cụ thể hơn về một số đặc sản riêng chỉ có ở thành phố Hung Yên. * Nhãn Lồng Trên lãnh thổ Việt Nam nhiều vùng có nhãn, song chỉ có ở Phố Hiến mới có thứ nhãn quả to và ngon nổi tiếng nhất, người ta quen gọi là nhãn lồng. Nguồn gốc, xuất sứ: Về xứ nhãn tìm hiểu nghĩa gốc của tên gọi nhãn lồng, mỗi người giải thích một cách. Nhãn có nhiều loại được đặt tên theo tính chất và và hương vị của quả. Nào là Nhãn cùi, Nhãn nước, Nhãn đường phèn, Nhãn gỗ (ăn khô), Nhãn thóc (quả nhỏ), Nhãn hôi hành (có mùi hành) Nhưng chỉ có những quả nhãn to và ngon, thường là nhãn cùi, nhãn đường phèn, mới được gọi là nhãn lồng. Nhãn, chữ Hán, nghĩa là mắt, như long nhãn nghĩa là mắt rồng. Như vậy là bắt đầu từ màu đen và kích cỡ của hạt nhãn mà dân gian đặt cho cái giống cây ấy (ban đầu không có tên hoặc mang tên khác) là cây nhãn. Thế còn chữ lồng? Một cách lý giải được nhiều người công nhận là căn cứ vào cái lồng bảo vệ chùm nhãn. Những cây nhãn ngon, đẹp mã, phải chờ được nước mới thu hoạch nên loài dơi và chim chóc thường ăn trước, có khi sau vài đêm dơi “bốc” vãn cả cây nhãn. Cho nên chủ nhà phải đan những cái lồng (rọ) rồi đưa chùm nhãn vào bên trong để bảo vệ. Cây nhãn Tiến (dùng để tiến vua) ở cửa chùa Hiến bây giờ nghe nói xưa kia người ta vẫn đan lồng để bảo vệ quả và canh giữ rất chu đáo. Cây nhãn trước cửa chùa Hiến, được đặt bia mang tên là cây Nhãn Tổ, chính xác ra nên gọi là cây Nhãn Tiến. Đó là cây nhãn đường phèn có dáng chùm đẹp, mã lụa, quả có cùi dày, hương vị thơm ngon đặc sắc nhất, vào mỗi mùa quả thường được chọn hái để dâng cúng Thành Hoàng và tiến vua. Thân cây chính đã già cỗi bị ruỗng, đổ, chỉ còn một cành nhánh được đắp vun gốc, chăm sóc phát triển thành một cây “hậu duệ”, hiện diện như một biểu tượng của giống nhãn đặc sản Phố Hiến – Hưng Yên. Nghệ thuật sản xuất, giá trị sử dụng của sản phẩm: Trước đây nhãn Hưng 46