Khóa luận Nghiên cứu nguồn lực, thực trạng, giải pháp khai thác tuyến điểm du lịch sinh thái nhân văn ở Hải Dương. Xây dựng tuyến Hà Nội - Cẩm Giàng - Thanh Miện - Ninh Giang - Chí Linh - Thành Phố Hải Dương

pdf 113 trang hapham 2890
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Nghiên cứu nguồn lực, thực trạng, giải pháp khai thác tuyến điểm du lịch sinh thái nhân văn ở Hải Dương. Xây dựng tuyến Hà Nội - Cẩm Giàng - Thanh Miện - Ninh Giang - Chí Linh - Thành Phố Hải Dương", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_nghien_cuu_nguon_luc_thuc_trang_giai_phap_khai_tha.pdf

Nội dung text: Khóa luận Nghiên cứu nguồn lực, thực trạng, giải pháp khai thác tuyến điểm du lịch sinh thái nhân văn ở Hải Dương. Xây dựng tuyến Hà Nội - Cẩm Giàng - Thanh Miện - Ninh Giang - Chí Linh - Thành Phố Hải Dương

  1. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng LỜI CẢM ƠN Trong quá trình học tập cũng nhƣ thực hiện khóa luận em gặp không ít những khó khăn nhƣng em đã đƣợc các thày cô giáo trong khoa văn hóa du lịch và các phòng ban của trƣờng Đại Học Dân Lập Hải Phòng, giảng dạy, giúp đỡ tận tình. Em xin đƣợc bày tỏ lòng cảm ơn tới các thày cô trong khoa văn hóa du lịch và các phòng ban của trƣờng Đại Học Dân Lập hải Phòng. Em xin cảm ơn các cô chú trong Sở thƣơng mại du lịch tỉnh Hải Dƣơng đã nhiệt tình cung cấp tài liệu cho em trong quá trình nghiên cứu. Và đặc biệt em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới Thạc Sĩ Bùi Thị Hải Yến – ngƣời đã tận tình chỉ bảo, hƣớng dẫn em làm khóa luận này. Do thời gian tìm hiểu ít và kiến thức lý luận, thực tế còn nhiều hạn chế nên nội dung bài khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận đƣợc sự đóng góp ý kiến của các thày cô và các bạn để bài khóa luận đƣợc hoàn chỉnh hơn. Hải Phòng ngày 1 tháng 7 năm 2010 Sinh viên thực hiện Đỗ Thị Lƣơng SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran1
  2. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng PHẦN MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài Cùng với nhịp độ tăng trƣởng của du lịch Việt nam, ngành du lịch Hải Dƣơng cũng đang hoà nhập với sự phát triển sôi động của cả nƣớc và đạt đƣợc kết quả ban đầu quan trọng, đóng góp đáng kể vào công cuộc xây dựng kinh tế, xã hội của địa phƣơng. Đây là kết quả tất yếu của sự đổi mới, vƣơn lên, tự khẳng địng mình của du lịch Hải Dƣơng. Điều đó có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc hoạch định chiến lƣợc phát triển du lịch tỉnh nhà trong những thập kỉ đầu của thế kỉ 21 và cả trong tƣơng lai. Hải Dƣơng là một tỉnh nằm ở trung đồng bằng bắc bộ, cái nôi của nền văn minh sông hồng, lại cận kề kinh thành Thăng Long trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của cả nƣớc. Văn minh sông hồng, văn hóa Thăng Long trực tiếp tác động và kết tinh nhiều thành tựu rực rỡ trên đất này. Hải Dƣơng chứa đựng chiều sâu văn hóa lịch sử của một vùng đất xứ Đông. Hải Dƣơng còn là một tỉnh có nguồn tài nguyên du lịch đa dạng và giàu bản sắc có thể phát triển đƣợc nhiều loại hình du lịch nhƣ du lịch văn hóa, du lịch văn hóa sinh thái nghỉ dƣỡng, du lịch tham quan Tuy vậy hoạt động du lịch của Hải Dƣơng lại chƣa thực sự phát triển tƣơng xứng với tiềm năng. Nhắc đến du lịch Hải Dƣơng du khách chỉ biết đến 2 di tích đƣợc xếp hạng đặc biệt quan trọng đó là Côn Sơn - Kiếp Bạc, gần đây nhất là sân Golf (Chí Linh). Còn rất nhiều di tích khác của tỉnh chƣa đƣợc du khách biết và để ý đến. Hình ảnh Hải Dƣơng chƣa thực sự tạo đƣợc dấu ấn và sự quan tâm trong lòng du khách. Nhìn chung điều đó cũng rất dễ hiểu bởi bản thân họ chƣa biết gì, thậm chí là chƣa từng nghe qua tên di tích thì họ không thể quyết định mua sản phẩm du lịch của tỉnh. Vậy, vấn đề đặt ra là làm sao để giúp cho du khách có thêm đƣợc sự hiểu biết rõ ràng hơn về các điểm du lịch ở Hải Dƣơng để từ đó có đƣợc những quyết định đúng đắn khi mua sản phẩm du lịch của Hải Dƣơng. Với những lý do đó tôi xin mạnh dạn SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran2
  3. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng lựa chọn đề tài “ Nghiên cứu nguồn lực, thực trạng, giải pháp khai thác tuyến điểm du lịch sinh thái nhân văn ở Hải Dương. Xây dựng tuyến Hà Nội - Cẩm Giàng – Thanh Miện - Ninh Giang - Chí Linh – Thành Phố Hải Dương” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp. 2.Mục đích và nhiệm vụ của đề tài: 2.1.Mục đích, ý nghĩa nghiên cứu: Nhằm nâng cao nhận thức của mình về nghiên cứu, vận dụng những lý luận đã học vào nghiên cứu ở địa phƣơng. Qua quá trình nghiên cứu có thể học hỏi, thu nhận thêm những kiến thức thực tiễn, cọ sát thực tế mở rộng thêm tri thức, bổ xung kiến thức đã hổng ở thực tế. Cung cấp kiến thức nghiên cứu cho các bạn sinh viên và những ngƣời có quan tâm về vấn đề nghiên cứu. Khai thác phát triển các tuyến điểm du lịch sinh thái nhân văn trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng. 2. Lịch sử nghiên cứu Tài nguyên du lịch của Hải Dƣơng đã có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu, tìm hiểu ở các góc độ khác nhau nhƣ: 1- Tăng Bá Hoành – Hải Dƣơng di tích và danh thắng. 2- Bùi Thị Hải Yến – Tuyến điểm du lịch, nhà xuất bản giáo dục. Và rất nhiều những đề tài nghiên cứu tài nguyên du lịch Hải Dƣơng. Song các tác giả chủ yếu đi sâu giới thiệu các tài nguyên mà chƣa đánh giá đƣợc đầy đủ khả năng phát triển du lịch của Hải Dƣơng. 3. Đối tƣợng và pham vi nghiên cứu. Đối tƣợng nhiên cứu của đề tài tập trung vào các nguồn lực, hoạt động du lịch sinh thái, nhân văn của Hải Dƣơng. Đề tài khóa luận nghiên cứu đƣợc giới hạn trong phạm vi lãnh thổ, không gian tỉnh Hải Dƣơng. 4. Thời gian nghiên cứu. Thời gian nghiên cứu đề tài đƣợc kéo dài từ ngày 15 tháng 4 đến ngày 30 tháng 6 năm 2010. SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran3
  4. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng Số liệu thống kê sử dụng trong bài khóa luận đƣợc cập nhật từ năm 2001- 2009. 5. Khó khăn và thuận lợi khi chọn đề tài. Để hoàn thành khóa luận này tác giả cũng gặp phải những khó khăn trong quá trình thực hiện: nguồn tài liệu mang tính cập nhật chƣa phong phú và còn tản mạn. Bên cạnh đó tác giả cũng có thuận lợi: đƣợc sự giúp đỡ, chỉ bảo nhiệt tình của cô giáo hƣớng dẫn, sự giúp đỡ tƣ liệu của các bác ở Sở Văn Hóa thông tin tỉnh Hải Dƣơng. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu 6.1. Phƣơng pháp thực địa và thu thập tài liệu : Đến những địa điểm có các di tích, danh lam để tìm thông tin thực tế, chụp ảnh. Khảo sát địa hình. Các nguồn tài liệu sƣu tầm từ SGK, nguồn từ Internet, các sách chuyên đề về du lịch, du lịch Hải Dƣơng, các bài báo đăng tải vấn đề có liên quan, tài liệu xin từ sở Văn Hoá - Thể Thao - Du Lịch Hải Dƣơng, báo cáo tổng kết về hoạt động ngành du lịch, báo cáo định hƣớng phát triển du lịch. Và các bài nghiên cứu của những ngƣời nghiên cứu trƣớc. 6.2. Phƣơng pháp so sánh tổng hợp thống kê: Dựa trên các tài liệu sƣu tầm đƣợc các nguồn nhƣ đã nêu trên, phân tích tổng hợp lại thành các mục đích cụ thể cho việc thống kế và trình bày nội dung của đề tài. 6.3. Phƣơng pháp biểu đồ và bản đồ: Biểu diễn các số liệu trên biểu đồ. Sử dụng bản đồ hành chính, bản đồ du lịch Hải Dƣơng. 6.4. Phƣơng pháp toán học: Khoá luận có sử dụng các phƣơng pháp tính toán cơ bản trong việc tính toán cân đối các bảng biểu và tính toán giá Tour. SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran4
  5. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng 7. Kết cấu của khóa luận. Khoá luận ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, phần nội dung chia làm 3 chƣơng: Chương 1: Các nguồn lực để xây dựng tuyến điểm du lịch sinh thái nhân văn ở tỉnh Hải Dương. Chương 2: Thực trạng kinh doanh du lịch của Hải Dương. Chương 3: Một số giải pháp cho phát triển du lịch Hải Dương. Xây dựng tuyến du lịch Hà Nội – Cẩm Giàng – Thanh Miện – Ninh Giang – Chí Linh – Thành Phố Hải Dương. SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran5
  6. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1 CÁC NGUỒN LỰC ĐỂ XÂY DỰNG TUYẾN ĐIỂM DU LỊCH SINH THÁI NHÂN VĂN Ở TỈNH HẢI DƢƠNG. 1.1. Khái quát chung về tỉnh Hải Dƣơng 1.1.1. Vị trí địa lý và lịch sử hình thành – phát triển Hải Dƣơng là một tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Sông Hồng với diện tích tự nhiên là 1.647,52 km², Năm 2008 Hải Dƣơng có 1.723.319 ngƣời với mật độ dân số 1.044,26 ngƣời/km². Nông thôn: 86%, Thành thị: 14%. Hải Dƣơng bao gồm 01 thành phố trực thuộc 01 thị xã và 10 huyện. Hải Dƣơng có 262 xã, phƣờng và thị trấn. Tỉnh Hải Dƣơng nằm trong toạ độ địa lý từ 20°36 bắc Phía bắc giáp tỉnh Bắc Ninh, Đông bắc giáp tỉnh Quảng Ninh. Phía đông giáp thành phố Hải Phòng. Phía nam giáp tỉnh Thái Bình. Phía tây giáp tỉnh Hƣng Yên. Hải Dƣơng nằm trung tâm vùng du lịch Bắc Bộ, trong tam giác động lực tăng trƣởng du lịch Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Tuyến du lịch Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh dù đi theo đƣờng ô tô, đƣờng sắt đƣờng sông đều đi qua địa phận tỉnh Hải Dƣơng. Từ đó có thể thấy vị trí trung chuyển của Hải Dƣơng đối với trung tâm du lịch Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Đƣờng quốc lộ số 5 và tuyến đƣờng xe lửa nối Hà Nội với cảng Hải Phòng chạy suốt tỉnh. Trong đó thành phố Hải Dƣơng – Trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật của tỉnh nằm trên trục đƣờng quốc lộ 5 cách thành phố Hạ Long 80km. Vì vậy đây là điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hoá cũng nhƣ vận chuyển khách du lịch. Đƣờng quốc lộ số 18 nối Hà Nội - Bắc Ninh - Hạ Long cũng đi qua địa phận Hải Dƣơng với chiều dài là 20km đặc biệt là qua các khu di tích danh thắng của tỉnh Bắc Ninh và Côn Sơn - Kiếp Bạc. Do đó thuận lợi cho việc xây dựng các tuyến điểm du lịch giữa 2 tỉnh. SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran6
  7. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng Hải Dƣơng cũng nằm trong hệ thống giao thông đƣờng thuỷ chính của vùng châu thổ đặc biệt là hệ thống sông Thái Bình có điểm gặp sông Đuống ở Phả Lại, tạo điều kiện thuận lợi cho du khách muốn tham quan bằng đƣòng sông. Du khách có thể từ Hà Nội đi cano theo sông Đuống đến Phả Lại ghé thăm Côn Sơn - Kiếp Bạc, rồi theo sông Thái Bình, sông Kinh Môn đến với Kính Chủ (Nam thiên đệ lục động) - Đền Cao hay xuôi theo dòng sông Kinh Thầy đến khu Nhị Chiểu thăm hệ thống hang động, chùa chiền. Từ Nhị Chiểu bằng đƣờng thuỷ du khách có thể tiếp tục đến với Hạ Long- Một di sản thiên nhiên nổi tiếng thế giới. *Đánh giá: do nằm gần Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh là những trung tâm du lịch, kinh tế lớn của cả nƣớc. Nhƣ vậy Hải Dƣơng có vị trí rất thuận lợi cho hoạt động du lịch. 1.1.2. Lịch sử hình thành Hải Dƣơng là một vùng đất có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời. Theo kết quả điều tra nghiên cứu những di chỉ khảo cổ khai quật đƣợc trên Hải Dƣơng từ thời đồ đá, trên vùng đất Hải Dƣơng đã có con ngƣời sinh sống. Qua các cuộc khai quật ở sông Kinh Thầy (Kinh Môn) ngƣời ta đã tìm thấy những di vật cách đây 3000 - 4000 năm ở Tứ Thông, Ngọc Uyên, Đồng Niên (Thành phố Hải Dƣơng) cũng tìm thấy mộ táng trong đó có những di vật tuỳ táng bằng gốm từ thời Hùng Vƣơng. Năm 1965 tìm thấy đƣợc trống đồng ở làng Hữu Chung (Tứ Kỳ) có niên đại cách nay khoảng 2.500 năm. Ngành khảo cổ học còn tìm thấy ở Ngọc Lặc (Tứ Kỳ) và ở nam Sách nhiều mộ táng các quan lại ngƣời Việt và ngƣời Hán thời đầu công nguyên có chôn theo vật tuỳ táng nhƣ vò, nậm rƣợu, cối giã trầu, dùi, cung, nỏ, dao, kiêm, khuôn đúc đồng . Bằng sành sứ, bằng đồng hoặc bằng sắt Những kết quả khai quật trên đã phần nào phản ánh đời sống vật chất, tinh thần phong phú đa dạng của cƣ dân Việt cổ sống trên vùng đất Hải Dƣơng xƣa. SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran7
  8. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng Hải Dƣơng là vùng đất tiếp giáp từ Kinh Đô Thăng Long (xƣa) kéo dài tới bờ biển Đông (xƣa kia vừa có biển, núi, sông ), Trong suốt chiều dài lịch sử từ khi dựng nƣớc tới nay Hải Dƣơng đã có những tên gọi khác nhau: Thời Hùng Vƣơng thuộc Bộ Dƣơng Tuyền, thời kỳ chống phong kiến Phƣơng Bắc lần I là huyện An Định, Hồng Châu thời Khúc Thừa Dụ (906). Thời Lý - Trần có tên là Nam Sách lộ, Hồng Lộ. Thời Lê có tên là Thừa Tuyên Nam Sách, năm Quang Thuận thứ 10 (1469) thời vua Lê Thánh Tông đổi thành Thừa Tuyên Hải Dƣơng, cuối đời Lê lại đổi thành sứ Hải Dƣơng. Thời Nguyễn đời vua Minh Mạng, năm 1831 tỉnh Hải Dƣơng đƣợc thành lập (còn gọi là tỉnh Đông) gồm 3 phủ với 17 huyện. Lúc mới thành lập, Hải Dƣơng là một tỉnh rộng lớn bao gồm từ Bình Giang đến Thuỷ Nguyên. Đến thời vu Đồng Khánh (1888) thì tách dần một số xã của huyện Thuỷ Nguyên, Tiên Lãng tách khỏi tỉnh Hải Dƣơng để lập tỉnh Hải Phòng. Thời Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam), năm 1952 huyện Vĩnh Bảo nhập về Kiến An, 1960 huyện Đông Triều nhập về Hồng Quảng. Do đó từ 1960 trở đi, Hải Dƣơng có 11 huyện và 1 thị xã. Tháng 3/1968 tỉnh Hải Dƣơng hợp nhất với tỉnh Hƣng Yên thành tỉnh Hải Hƣng gồm 20 huyện và 2 thị xã, thủ phủ đóng tại thị xã Hải Dƣơng. Năm 1997, Hải Hƣng lại chia thành 2 tỉnh Hải Dƣơng và Hƣng Yên. Tỉnh Hải Dƣơng hiện nay có 1 thành phố (Thành phố Hải Dƣơng) và 11 huyện: Chí Linh, Nam Sách, Thanh Hà, Kinh môn, Kim Thành, Gia Lộc, Tứ Kỳ, Cẩm Giàng, Bình Giang, Thanh Miện, Ninh Giang. 1.1.3. Dân số và nguồn nhân lực. Hải Dƣơng là một tỉnh đông dân cƣ ở đồng bằng Sông Hồng. Hải Dƣơng có một lực lƣợng lao động dồi dào. Tại thời điểm điều tra 1/4/2009 tổng số nhân khẩu toàn tỉnh Hải Dƣơng là 1.703.492 ngƣời, chiếm 2% dân số cả nƣớc (dân số SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran8
  9. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng cả nƣớc: 85.798.573 ngƣời). Trong đó nam chiếm 48,9%, nữ chiếm 51,1%, nhân khẩu thành thị chiếm 19,1%, nhân khẩu nông thôn chiếm 80,9%. Trình độ dân trí và trình độ lao động ngày càng đƣợc nâng cao. Hải Dƣơng đã phổ cập giáo dục tiểu học và đang từng bƣớc tiến tới phổ cập giáo dục phổ thông trung học cơ sở, số ngƣời đƣợc đào tạo ngày càng cao trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm gần 23%, lao động phổ thông có trình độ văn hóa cấp 3 chiếm gần 65% đây có thể coi là một nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong đó có ngành du lịch. Với lực lƣợng lao động đông đảo có nhiều kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp qua nhiều đời nhất là lại có kinh nghiệm sản xuất ra nhiều loại sản xuất ra nhiều loại sản phẩm hàng hóa đáp ứng nhu cầu của du khách nhƣ: Thâm canh cây vải thiều và nhiều nông sản nhiệt đời khác. Chế biến các món đặc sản (Bánh đậu xanh, bánh gai) và nhiều sản phẩm thủ công truyền thống. Đây là một nguồn lực để phát triển du lịch của Hải Dƣơng. 1.2. Kiểm kê đánh giá điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch tự nhiên. 1.2.1. Địa hình - Địa hình của Hải Dƣơng đƣợc chia thành 2 phần rõ rệt: + Vùng đồng bằng: có diện tích 1.466,3 km² chiếm 89% diện tích tự nhiên của tỉnh do phù sa sông Thái Bình bồi đắp gồm các huyện: Cẩm Giàng, Nam Sách, Thanh Hà, Kim Thành, Thành phố Hải Dƣơng, Gia Lộc, Tứ Kỳ, Ninh Giang, Thanh Miện và một phần diện tích của huyện Kim Môn, Chí Linh. Nhìn chung địa hình đồng bằng tƣơng đối bằng phẳng, đơn điệu, đất đai khá màu mỡ, tuy không có giá trị cho phát triển du lịch, nhƣng cũng tạo nên những bức tranh thuỷ mặc, trữ tình. Đây lại là nơi định cƣ rất sớm nên đã tạo ra nhiều công trình kiến trúc: Đình, đền, chùa, miếu và cũng là nơi cung cấp nguồn lƣơng thực, thực phẩm, những món ăn đặc sản phục vụ cho nhu cầu ăn uống của du khách. + Vùng đồi núi thấp: Có diện tích 181,22km² chiếm 11% diện tích tự nhiên của tỉnh thuộc 2 huyện Chí Linh và Kim Môn. Đây là khu vực địa hình SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran9
  10. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng đựơc hình thành trên miền núi tái sinh có nền địa chất trầm tích Trung Sinh. Trong vận động tân kiến tạo đƣợc nâng lên với cƣờng độ trung bình đến yếu. Hƣớng núi chính chạy theo hƣớng Tây Bắc - Đông Nam. Địa hình bị chia cắt khá mạnh, những đỉnh núi cao > 500m còn phủ đầy rừng. Các dạng đại hình có phong cảnh đẹp, có giá trị đối với hoạt động du lịch của Hải Dƣơng. + Dạng địa hình đồi núi: Vùng đồi núi Chí Linh cao ở phía Bắc, thấp dần xuống phía nam. Phía bắc của huyện là dãy núi Huyền Đính chạy theo hƣớng Tây Bắc – Đông Nam, có độ cao trung bình 300m, có một số đỉnh cao trên 500m, cao nhất là đỉnh Dây Diều 618m, Đèo Chê 533m, Núi Đai 508m. Địa hình phân cắt phức tạp, có nhiều dòng suối chảy xuống sông Lục Đầu và Hồ Bến Tắm. Dãy núi này có nhiều rừng bao phủ với nhiều loại sinh vật quý. Vùng đồi núi Côn Sơn- Kiếp Bạc tuy địa hình không cao nhƣng nhiều đỉnh núi có thể nhìn toàn cảnh nhƣ đỉnh Côn Sơn cao gần 200m (tục gọi là Bàn Cờ Tiên), từ đây có thể nhìn đuợc toàn cảnh Côn Sơn và vùng núi kế cận. Các núi Ngũ Nhạc (238m), ngọn Nam Tào, Bắc Đẩu đều là những địa danh có giá trị đối với du lịch. Dãy núi Yên Phụ (Kim Môn) có hƣớng Tây Bắc - Đông Nam với chiều dài 14km, chạy gần song song với quốc lộ 5. Dãy núi có nhiều đỉnh nhỏ với các đèo có tên tuổi: Đèo Mông, Khe Gạo, Khe Tài, Khe Đá, đỉnh cao nhất là Yên Phụ tuy không cao nhƣng nằm sát với đồng bằng thấp và bằng phẳng nên nó vẫn mang dáng vẻ sừng sững uy nghi. Về mặt kết cấu, dãy Yên Phụ là dãy núi đất pha sa thạch và sỏi kết, thoai thoải dễ leo, có thể lên từ bất cứ hƣớng nào. Đứng trên đỉnh Yên Phụ nhìn về phía Đông Bắc xa xa đỉnh Yên Tử cao ngất tầng mây, nóc nhà miền Đông Bắc, nơi bảo lƣu nhiều di tích lịch sử đời Trần, chốn Phật tổ của thiền phái Trúc Lâm Việt Nam, gần hơn là dãy núi đá vôi Dƣơng Nham (Kính Chủ) nhƣ hòn non bộ khổng lồ giữa bể cạn mênh mông sóng lúa. Tây Bắc Dƣơng SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran10
  11. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng Nham, dòng Kinh Thầy lƣợn sát chân núi tạo nên cảnh sơn thuỷ hữu tình. Từ An Phụ nhìn về phía Tây Nam miền châu thổ bát ngát tận chân trời. Sông ngòi uốn lƣợn nhƣ những dải lụa nối tiếp nhau vô tận. Làng xóm, đồng ruộng trù phú, xanh tƣơi tạo nên bức tranh màu rực rỡ. Địa hình vùng đồi núi Chí Linh thích hợp với việc tổ chức một số loại hình du lịch nhƣ du lịch tham quan, nghỉ dƣỡng, cắm trại thu hút đƣợc nhiều thanh niên, sinh viên học sinh. Một sự kết hợp độc đáo là vùng đồi núi ở Chí Linh, Kim Môn thƣờng gắn liền với các di tích lịch sử, các danh nhân thời Trần – Lê: Côn Sơn đã từng chứng kiến thủa thiếu thời và những năm tháng về ở ẩn của vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi, Kiếp Bạc gắn với tên tuổi Trần Hƣng Đạo Mặt khác Côn Sơn còn là chốn Phật tổ của thiền phái Trúc Lâm. Hàng năm, ở các di tích này còn tổ chức các lễ hội lớn. Chính sự kết hợp độc đáo này càng làm tăng thêm sức hấp dẫn đối với du khách, có thể tổ chức đƣợc một số loại hình du lịch lễ hội, du lịch tôn giáo. + Dạng địa hình Karst: Dạng đại hình Karst của Hải Dƣơng nằm trong địa phận 5 xã Hoành Sơn, Duy Tân, Tân Dân, Phú Thứ, Minh Tân thuộc khu Nhị Chiểu (32 hang động) và ở dãy núi Dƣơng Nham thuộc xã Phạm Mệnh huyện Kim Môn. Vùng này không có những mạch, những dải núi đá vôi tinh thể cẩm thạch, có vách dựng đứng. Quá trình Karst độc đáo: Những khối sót lởm chởm đá tai mèo và hệ thống hang động. Có những hang động đẹp là một trong những thắng cảnh nổi tiếng của đất nƣớc: Động Kính Chủ (Nam thiên đệ lục động), hang chùa Hàm Long, hang Tâm Long Hệ thống hang động Karst ở Kim Môn còn gắn liền với những dấu tích lịch sử hào hùng của đội quân Trần Hƣng Đạo 3 lần chiến thắng quân Nguyên- Mông. Đây là nơi diễn ra nhiều trận đánh trong chiến dịch Bôlêrô (1952) “Thung xanh còn tanh máu giặc” chính là đây. Có những hang động còn lƣu giữ các văn bia của nhiều thế kỉ nhƣ động Kính Chủ (40 văn bia), hang chùa Hàm Long (còn 7 văn bia). SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran11
  12. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng Thắng cảnh thiên nhiên kết hợp với cảnh quan văn hoá trong các hang động Karst ở Kim Môn càng làm tăng thêm sức hấp dẫn cho vùng địa hình này và nó đã trở thành điểm du lịch hấp dẫn của Hải Dƣơng. *Đánh giá: Địa hình Hải Dƣơng có ý nghĩa lớn đối với du lịch là vùng đồi núi và Karst ở Chí Linh, Kim Môn. Địa hình này đã tạo nên cảnh quan thiên nhiên đẹp, quanh năm mát mẻ với những tán thông già rợp bóng. Bên cạnh đó nó còn kết hợp với các di tich lịch sử văn hóa nên càng làm tăng thêm sức hấp dẫn đối với du khách. Địa hình đồi núi, hang động ở Hải Dƣơng thích hợp cho việc tổ chức các loại hình du lịch leo núi, tham quan, nghỉ dƣỡng, cắm trại. 1.2.2. Khí hậu Địa hình Hải Dƣơng mang đặc điểm chung của khí hậu miền Bắc Việt Nam đó là khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, có một mùa đông lạnh rất điển hình. Khí hậu Hải Dƣơng có tiềm năng nhiệt ẩm lớn. Hằng năm lãnh thổ Hải Dƣơng nhận đƣợc một lƣợng nhiệt lớn từ mặt trời, năng lƣợng bức xạ tổng cộng vƣợt quá 100kcal/cm²/năm, cán cân bức xạ vƣợt 70Kcal/cm²/năm. Số giờ nắng đạt từ 1600 -1800h/năm, nhiệt độ trung bình là 23,3°C, có 8 tháng nhiệt độ trung bình trên 20°C, tổng nhiệt độ hoạt động cả năm là 8500°C. Khí hậu Hải Dƣơng khá ẩm ƣớt: Độ ẩm tƣơng đối trung bình giao động từ 80 - 90%, lƣợng mƣa trung bình năm từ 1400 - 1700mm, có 6 tháng lƣợng mƣa >100mm và chỉ có 2 tháng mƣa xấp xỉ 20mm. Sự phối hợp của địa hình và hoàn lƣu gió mùa Đông Bắc Tây Nam đã phân hoá khí hậu Hải Dƣơng thành 2 vùng khí hậu: vùng bán sơn địa và vùng đồng bằng. Tuy nhiên sự khác biệt về khí hậu giữa 2 vùng này cũng không thật rõ rệt. Điều này đƣợc thể hiện đặc điểm của chế độ mƣa và chế độ nhiệt. Đặc điểm chế độ nhiệt Trên 2 vùng lãnh thổ sự phân bố nhiệt đƣợc thể hiện nhƣ sau: SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran12
  13. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng Bảng 1: Phân bố nhiệt theo vùng của Hải Dương Nhiệt độ TB Nhiệt độ TB Nhiệt độ TB Vùng khí hậu năm (°C) tháng 1(°C) tháng 7 (°C) Bán sơn địa 23,3 15 - 16 28 - 29 Đồng bằng 23,3 16 - 17 28 – 29 Chế độ nhiệt ở cả 2 vùng khí hậu của Hải Dƣơng có sự phân hoá theo 2 mùa rõ rệt là mùa đông và mùa hè. Mùa đông nhiệt độ trung bình ở vùng bán sơn địa xuống thấp hơn vùng đồng bằng khoảng 1°C, biên độ năm của nhiệt độ trung bình ở vùng đồng bằng là 12°C, vùng bán sơn địa là 13°C. Bảng 2: Đánh giá khí hậu theo chỉ tiêu của các nhà học giả Ấn Độ Nhiệt độ TB Biên độ Nhiệt độTB tháng Lƣợng mƣa Hạng Ý nghĩa năm năm(°C) nóng nhất năm (mm) của t°(°C) (°C) 1 Thích nghi 18 – 24 24 – 27 2250 4 Rất nóng 29 – 32 32 – 35 14 – 19 32 > 35 > 19 < 650 nghi Nhƣ vậy chế độ nhiệt của cả 2 vùng khí hậu của Hải Dƣơng nếu đánh giá theo chỉ tiêu của các nhà khoa học Ấn Độ là khá thích nghi đối với hoạt động du lịch. Tuy nhiên trong tháng 1 và tháng 7 không thích hợp cho khai thác hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh bởi vào các tháng này là các tháng nóng nhất và lạnh nhất trong năm. Đặc điểm chế độ mưa. Mƣa là yếu tố khí hậu có ảnh hƣởng lớn đối với hoạt động du lịch, nó gây ra một số trở ngại cho các chuyến du lịch của du khách. Vì vậy phải xem xét những biến động của chế độ mƣa kết hợp với công tác dự báo thời tiết của tỉnh và của cả nƣớc để có thể tổ chức các chuyến đi đƣợc thuận lợi. SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran13
  14. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng Chế độ mƣa ở Hải Dƣơng khá phong phú nhƣng biến động rất thất thƣờng theo không gian và thời gian, do những diến biến phức tạp của hoàn lƣu gió mùa với các nhiễu động thời tiết kèm theo kết hợp với điều kiện địa hình. Lƣợng mƣa ở Hải Dƣơng ít hơn một chút so với các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, lƣợng mƣa trung bình năm từ 1400 – 1700mm và phân bố không đều trên hai vùng lãnh thổ. Khu vực mƣa ít là vùng bán sơn địa ở phía đông bắc của tỉnh, lƣợng mƣa trung bình hằng năm đạt 1400 - 1500mm. Đây là vùng khuất gió mùa đông bắc tƣơng đối bởi cánh cung Đông Triều. Khu vực mƣa nhiều là vùng đồng bằng, lƣợng mƣa trung bình năm vƣợt 1600mm; Ninh Giang 1630mm; Thanh Hà 1670mm; thành phố Hải Dƣơng 1630mm Lƣợng mƣa trong năm có sự phân hóa thành 2 mùa rõ rệt: Mùa mƣa nhiều (lƣợng mƣa tháng từ 100mm trở lên) bắt đầu từ cuối tháng 4 và kéo dài đến giữa tháng 10. Lƣợng mƣa chiếm 80 – 85% lƣợng mƣa cả năm. Mùa mƣa ít nhất bắt đầu từ giữa tháng 10, kết thúc vào cuối tháng 4. Lƣợng mƣa này chỉ chiếm 15 – 20% lƣợng mƣa cả năm. Những tháng mƣa nhiều lại rơi vào những tháng nóng nhất nhƣ tháng 7, tháng 8. Do đó trong các tháng này khai thác du lịch không thuận lợi. Những hiện tượng thời tiết bất lợi cho hoạt động du lịch. Bão: Hải Dƣơng nằm gần trung tâm đồng bằng bắc bộ, không giáp biển nên không bị bão đổ bộ trực tiếp vào mà khi đến Hải Dƣơng bão đã đi qua một số tỉnh khác: Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, sức gió đã giảm đi. Sự diễn biến của bão rất phức tạp qua các năm khác nhau và về số lƣợng cơn bão trong năm, cƣờng độ và đƣờng đi của bão cũng hết sức phức tạp. Có những năm mùa bão đến sớm từ tháng 4, tháng 5, có những năm mùa bão kết thúc muộn đến tận cuối tháng 9 vẫn còn. Vào tháng 7 và tháng 9 là thời gian có nhiều bão nhất trong năm sau đó đến tháng 8. SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran14
  15. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng Lƣợng mƣa do bão chiếm tỷ trọng lớn tới 20 - 30% tổng lƣợng mƣa của cả năm, trong tháng 8 lƣợng mƣa do bão chiếm tới 50 - 69% tổng lƣợng mƣa trong tháng. Khi bão đổ vào đất liền, ở Hải Dƣơng có mƣa to và gió giật mạnh (Tốc độ gió tới 38m/s) gây thiệt hại cho sản xuất và đời sống của nhân dân địa phƣơng và ảnh hƣởng lớn đến hoạt động du lịch, phá huỷ những công trình kiến trúc, cảnh quan môi trƣờng du lịch. Gió mùa đông bắc: Hằng năm trung bình có khoảng 20 - 25 đợt gió mùa đông bắc ảnh hƣởng tới Hải Dƣơng. Thông thƣờng từ cuối tháng 9 đã bắt đầu có gió mùa kéo dài tới tháng 4, tháng 5 năm sau. Các tháng 12 và tháng 1, tháng 2 gió mùa đông bắc hoạt động nhiều nhất và mạnh nhất làm nhiệt độ trong tháng này giảm mạnh mẽ. Có những đợt rét kéo dài tới hàng chục ngày liền, nhiệt độ dƣới 15°C. Khi gió mùa đông bắc về nhiệt độ giảm rất nhanh, sau một vài giờ nhiệt độ có thể hạ thấp từ 5 - 6°C sau 24 giờ có thể giảm tới 10°C. Sự giảm mạnh của nhiệt độ cùng với các đợt rét đậm, rét hại gây tác động xấu tới sức khỏe con ngƣời và cũng là một yếu tố gây cản trở cho hoạt động du lịch. *Đánh giá: Tài nguyên khí hậu của Hải Dƣơng đƣợc đánh giá theo các học giả Ấn Độ (bảng 2) là khá thích nghi đối với hoạt động du lịch. Tài nguyên khí hậu của Hải Dƣơng và nhất là khí hậu ở Chí Linh quanh năm mát mẻ rất thuận lợi cho một số loại hình du lịch: Du lịch tham quan, thể thao, giải trí đặc biệt là chơi Gofl (Sân Golf ngôi sao Chí Linh). Đối với việc triển khai các hoạt động du lịch: nhìn chung khí hậu thuận lợi cho việc triển khai các hoạt động du lịch ở hầu hết các tháng trong năm. Tuy nhiên có một số tháng (Tháng 7, 8, 9) thƣờng hay có bão nên gây cản trở cho du lịch. SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran15
  16. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng 1.2.3. Nguồn nƣớc Tài nguyên nƣớc đƣợc chia làm 2 loại: Nƣớc trên mặt và nƣớc ngầm. Nƣớc trên mặt gồm: sông, suối và nƣớc hồ Sông ngòi: Mạng lƣới sông ngòi của Hải dƣơng khá dày đặc với 700km đƣờng sông và đƣợc giải đều trên phạm vi toàn tỉnh. Các dòng chính thuộc hệ thống sông Thái Bình (vùng hạ lƣu), chảy theo hƣớng Tây Bắc - Đông Nam. Dòng sông chính Thái Bình chảy trong địa phận thuộc tỉnh Hải Dƣơng dài 63km và phân làm 3 nhánh: Sông Kinh Thầy, Sông Gùa và Sông Mía. Nhánh chính Kinh Thầy lại đƣợc phân làm 3 nhánh khác là Kinh Thầy, Kinh Môn và sông Rạng. Sông Thái Bình thông với Sông Hồng qua sông Đuống và Sông Luộc. Các sông này có đặc điểm: lòng rộng, độ dốc lòng sông nhỏ có giá trị lớn về giao thông. Đối với du lịch thì hệ thống sông Thái Bình kết hợp với hệ thống sông Hồng có ý nghĩa to lớn bởi vì đây là hệ thống đƣờng thủy chính của vùng Châu thổ Bắc Bộ Suối: Chủ yếu ở vùng Chí Linh với những con suối nhỏ, chảy rì rào: Suối Đá Bạc, Suối Côn Sơn tạo nên phong cảnh trữ tình nên thơ và từ lâu đã đi vào thơ ca nhƣ bài “Côn Sơn ca” của Nguyễn Trãi: “Côn Sơn suối chảy rì rầm Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai”. Các suối này là nguồn tiếp nƣớc quan trọng cho các hồ: Bến Tắm, hồ Côn Sơn, cung cấp nƣớc ngọt cho hoạt động du lịch đồng thời làm tăng thêm sức hấp dẫn cảnh quan thiên nhiên cho vùng núi Chí Linh đẹp và nên thơ. Hồ: Hải Dƣơng có nhiều hồ đẹp và khá rộng nhƣ hồ Bến Tắm 35ha, hồ Côn Sơn, hồ Tiên Sơn 50ha, hồ Mật Sơn 30ha, hồ Bình Giang 45ha (Chí Linh) hồ Bạch Đằng 17ha (Thành Phố Hải Dƣơng), hồ An Dƣơng 10ha (Thanh Miện). Những hồ này rộng, có cảnh quan đẹp, nguồn thủy sản phong phú. Hiện nay hồ Bạch Đằng cùng với công viên Bạch Đằng đã trở thành nơi vui chơi giải trí (Bơi thuyền, câu cá) cho du khách khi đến thăm thành phố SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran16
  17. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng Hải Dƣơng. Hồ An Dƣơng (Thanh Miện) có khu Đảo Cò ở giữa hồ đã đƣợc mở rộng và trở thành một trong những khu du lịch sinh thái mang tầm cỡ quốc gia trên địa bàn của tỉnh. Hồ Bến Tắm, Hồ Côn Sơn trong tƣơng lai sẽ có nhiều camping đƣợc xây dựng quanh hồ nhằm khai thác du lịch cuối tuần. Nước ngầm: Nguồn nƣớc ngầm ở Hải Dƣơng rất phong phú, đủ đáp ứng nhu cầu khai thác du lịch tại các điểm. Nƣớc ngầm ở vùng đồng bằng hết sức rộng lớn, khai thác rất thuận tiện. Ở vùng bán sơn địa nƣớc ngầm nằm sâu hơn một chút nhƣng nƣớc trong sạch và mát rất phù hợp với nhu cầu, sở thích của khách du lịch. Đặc biệt ở Hải Dƣơng có nguồn nƣớc khoáng ở Thạch Khôi (Gia Lộc) cách thành phố Hải Dƣơng 5km. Mạch nƣớc khoan ở độ sâu 76m, nhiệt độ nƣớc là 40°C. Đây là nhóm nƣớc khoáng Brôm - Iôt có tác dụng chữa bệnh ngoài da, thần kinh, phụ khoa. Nguồn nƣớc khoáng là tài nguyên hấp dẫn có thể khai thác để phục vụ cho du lịch. Do đó nhu cầu nghỉ ngơi, chữa bệnh ở các suối nƣớc khoáng này càng tăng. Mặt khác nguồn nƣớc khoáng này ở vị trí khá thuận lợi chỉ cách thành phố Hải Dƣơng 5km nên có khả năng khai thác du lịch, thu hút khách du lịch vào cuối tuần. Tuy nhiên tốc độ phun của nguồn suối khoáng này không ổn định. Vì vậy nghành du lịch ở Hải Dƣơng cần nghiên cứu kỹ và cần có sự đầu tƣ cơ sở, vật chất kỹ thuật, xây dựng các công trình để đƣa nguồn nƣớc khoáng này vào khai thác du lịch. *Đánh giá: Tài nguyên nƣớc (Trên mặt) của Hải Dƣơng có ý nghĩa đối với du lịch Hệ thống sông của Hải Dƣơng đủ để cung cấp nƣớc cho nhu cầu sinh hoạt của nhân dân địa phƣơng và của du khách. Các con sông này bao bọc xung quanh tỉnh và nối liền với các tỉnh lân cận nên có thể lập các tuyến du lịch bằng đƣờng sông theo 2 hƣớng: Hà Nội – Hƣng Yên – Bắc Ninh – Côn Sơn – Kiếp Bạc và Quảng Ninh – Hải Phòng – Hải Dƣơng. Các con sông này cũng uốn lƣợn hữu tình tạo cảnh quan đẹp và thơ mộng cho các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử ở 2 bên triền sông. SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran17
  18. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng Mặt khác một số con sông còn là nơi diễn ra những sự kiện lịch sử, những trận chiến đấu nhƣ sông Lục Đầu Giang nơi tập kết huấn luyện quân của Trần Hƣng Đạo hay bến Bình Than (năm 1282) khi nhà Nguyên Mông sắp cử đại binh sang xâm lƣợc nƣớc ta vua Trần Nhân Tông đã đến bến Bình Than họp các chƣ hầu và trăm quan bàn cách giữ nƣớc Do đó ngành du lịch Hải Dƣơng cần nghiên cứu để đƣa tiềm năng về du lịch đƣờng sông vào khai thác, trƣớc mắt cần phải cắm bảng chỉ dẫn tại khúc sông lịch sử, để giới thiệu cho du khách. Hệ thống các hồ của Hải Dƣơng nhƣ hồ Bến Tắm, hồ An Dƣơng, hồ Bạch Đằng cũng có giá trị du lịch, hấp dẫn du khách bởi cảnh quan thiên nhiên đẹp, có thể phát triển một số loại hình du lịch: Bơi thuyền, câu cá, lƣớt ván, xây dựng các nhà hàng bên hồ. Theo chỉ tiêu đánh giá sức chứa đảm bảo sự phát triển bền vững đối với du lịch bơi thuyền ở Hà Lan là 8 du thuyền/ha mặt nƣớc và chỉ có ´ số du thuyền đƣợc hoạt động. Qua đó xác định số du thuyền đƣợc hoạt động ở các hồ ở Hải Dƣơng nhƣ sau: Số du thuyền đƣợc Tên hồ Diện tích (ha) hoạt động Hồ Bến Tắm 35 140 Hồ Tiên Sơn 50 200 Hồ Mật Sơn 30 120 Hồ Bình Giang 45 180 Hồ Bạch Đằng 17 68 Hồ An Dƣơng 10 40 Bên cạnh đó nguồn nƣớc khoáng ở Thạch Khôi (Gia Lộc) còn có thể khai thác để phát triển du lịch chữa bệnh. 1.2.4.Tài nguyên sinh vật 1.2.4.1. Thực vật Ở Hải Dƣơng, thảm thực vật tự nhiên quan trọng nhất là rừng Chí Linh với diện tích 1300 ha tập trung chủ yếu ở xã Hoàng Hoa Thám. Đây là kiểu SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran18
  19. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng rừng ẩm thƣờng xanh trên núi thấp có thành phần, loại khá phong phú và đa dạng. Hiện nay qua điều tra đã xác định đƣợc 117 họ, 304 chi và 400 loài: Cây cho gỗ có 103 loài trong đó có các loài quý nhƣ lát hoa, lim xanh, táu, mật, gụ. Cây dƣợc liệu gồm 128 loài chiếm 32% tổng số loài thực vật hiện có, cao hơn tỷ lệ của cả nƣớc là 28%. Dƣới thời Trần Hƣng Đạo đã cho xây dựng Dƣợc Sơn ở Kiếp Bạc. Hiện nay vẫn còn dấu tích và luôn thu hút các nhà Đông Nam Á dƣợc đến tìm hiểu và nghên cứu. Thực vật quý hiếm có 9 loại gồm sung, lim xanh, lát hoa, rau sắng, đẹn 5 lá, chân chim, gụ lau, đại hải, san hô. Cây làm cảnh có 13 loại phục vụ cho du lịch. Ở Hải Dƣơng đã thành lập đƣợc hội sinh vật cảnh và thƣờng xuyên tổ chức các cuộc triển lãm cây cảnh đã thu hút đƣợc nhiều du khách đến thăm quan. Ở Côn Sơn có rừng thông mã vĩ, có cây tuổi vài thế kỉ. Ngoài thông còn có trúc, lứa sim, mẫu đơn Hiện nay ở Hải Dƣơng đã xây dựng đƣợc vƣờn thực vật Côn Sơn với diện tích 21ha với 136 loại cây bản địa. Ngoài rừng tự nhiên đang đƣợc phục hồi bảo vệ và phát triển thì rừng trồng mới đang đƣợc quan tâm với dự án 327 đã phủ xanh đƣợc nhiều khu đất trống đồi núi trọc. Thảm thực vật ở Chí Linh khá phong phú với những loài quý hiếm, cùng với vƣờn thực vật Côn Sơn có tác dụng thu hút khách du lịch tới tham quan, nghiên cứu. Đồng thời nó tạo ra cảnh quan thiên nhiên hài hòa tƣơi đẹp cho các di tích lịch sử văn hóa nơi đây: Đền Kiếp Bạc, Chùa Côn Sơn, Chùa Thanh Mai Thực vật trồng của tỉnh phải kể đến vƣờn vải ở Chí Linh, Thanh Hà với hàng nghìn cây vải đƣợc trồng trong các khu vƣờn đồi, dọc 2 bên bờ sông, kênh, mƣơng. Đến mùa vải chin vào độ tháng 5, màu xanh xen lẫn với màu vàng mơ, màu đỏ thẫm của của quả đƣơng độ chin chạy thẳng tới chân trời, tạo nên một bức tranh đồng quê tuyệt vời. Do đó rất hấp dẫn du khách đến thƣởng thức đặc sản vải thiều. SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran19
  20. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng 1.2.4.2. Động vật Động vật hoang dã ở rừng Chí Linh ít về loài nhƣng cũng có những loài quý hiếm: Về chim: có gà lôi trắng, gà tiền mặt vàng, sáo mỏ gà và 2 loại dù dì, gà lƣng nâu đã đƣợc ghi vào sách đỏ Việt Nam. Về chim nƣớc: có làng cò vạc ở xã Chi Lăng Nam huyện Thanh Miện với hơn 5.000 con vạc, 15.000 con cò của 3 loại vạc: vạc lƣng xanh, vạc xám, vạc sao, và 9 loại cò: cò trăng, cò lửa, cò bộ, cò ruồi, cò đen, cò hƣơng, cò nghênh, cò ngang, cò diệc. Về côn trùng: có 218 loài trong đó có 32 loài có ích, 36 loài có ý nghĩa trong du lịch: các loài bƣớm ngày, ve sầu, càng cạc, dế mèn, bọ dừa bọ mây, cà cuống Thú quý hiếm (đã ghi vào sách đỏ): Cu li lớn, gấu ngựa, beo lửa, sóc bay lớn, tê tê vàng Lƣỡng cƣ quý hiếm có ếch xanh. Bò sát quý hiếm có Tắc kè, Kỳ đà hoa, Trăn mốc. Về cá nƣớc ngọt có rất nhiều loài trong đó có một số loại nhƣ cá chép, cá quả * Đánh giá: Tài nguyên sinh vật có ý nghĩa đối với loại hình du lịch tham quan nghiên cứu khoa học, du lịch sinh thái nhƣ các cây dƣợc liệu ở Dƣợc Sơn và một số nơi trong tỉnh thu hút các nhà nghiên cứu về đông nam dƣợc. Ngoài còn có thể tổ chức các chƣơng trình du lịch tham quan, thƣởng thức đặc sản vải thiều ở vùng đất Thanh Hà. Về động vật phải kể đến đó là khu vực Đảo Cò (Thanh Miện) nơi đây đã trở thành điểm du lịch sinh thái, tạo những ƣu thế nổi bật hấp dẫn hơn so với các tỉnh lân cận nhƣ Thái Bình, Hƣng Yên, Bắc Ninh Tài nguyên sinh vật của Hải Dƣơng đặc biệt là tài nguyên rừng có giá trị rất lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội và môi trƣờng. Tuy nhiên hiện SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran20
  21. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng nay ở cả nƣớc nói chung và ở Hải Dƣơng nói riêng thì rừng tự nhiên đang bị con ngƣời tàn phá một cách quá mức đã làm nghèo kiệt và mất đi một số động thực vật quý hiếm: Lát hoa, lim xanh, táu, mật Việc đƣa vào khai thác Đảo Cò cho mục đích du lịch đã gây ra một số nhiễu động ảnh hƣởng xấu tới sinh hoạt của đàn cò. Hải Dƣơng đã có kế hoạch bảo vệ môi trƣờng. Nghị quyết 28 NQ/TW của ban thƣờng vụ tỉnh ủy đã chỉ rõ “Bảo vệ và phát triển sự đa dạng sinh học các loài cây, con quý hiếm đang có nguy cơ bị tiêu diệt. Bảo vệ cảnh quan thiên nhiên”. Nhiều kế hoạch bảo vệ và phát triển đàn cò do Sở khoa học công nghệ và môi trƣờng tỉnh triển phát triển một cách bền vững những tài nguyên sinh học vốn có nhằm nâng cao kinh tế địa phƣơng đặc biệt là áp dụng trong lĩnh vực du lịch. 1.2.5.Một số điểm du lịch tự nhiên. Đảo Cò Chi Lăng Nam xã Chi Lăng Nam (huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dƣơng) nổi giữa lòng hồ An Dƣơng, đƣợc biết đến bởi hệ sinh thái, động, thực vật phong phú, với khoảng 20.000 con cò, vạc và nhiều loài chim. Đảo Cò Chi Lăng Nam đã trở thành điểm du lịch sinh thái "độc nhất vô nhị" của miền Bắc. Đến Đảo Cò ấn tƣợng đầu tiên là cảm giác choáng ngợp trƣớc một cảnh tƣợng thiên nhiên hy hữu. Hàng vạn chú cò, vạc đậu san sát trên các ngọn tre, cành cây, trông xa nhƣ những cành hoa điểm đầy bông trắng. Ngƣời dân Chi Lăng Nam vẫn truyền cho nhau nghe về truyền thuyết vùng đất này. Truyện kể rằng vào đầu thế kỷ 15, những trận đại hồng thuỷ đã làm dải đê lớn ven sông Hồng trải qua 3 lần vỡ đê liên tiếp. Đến lần vỡ đê thứ hai thì tạo thành hòn đảo nổi giữa hồ. Rồi "đất lành chim đậu", từng đàn cò, vạc, chim nƣớc đủ loại từ khắp nơi đổ về đây cƣ trú. Theo nhịp thời gian, cò, vạc sống trên đảo ngày càng đông về số lƣợng cá thể và đa dạng về thành phần loài. Hiện nay, với diện tích hơn 3.000m², đảo Cò đã tập trung tới 15.000 con cò và hơn 5.000 con vạc. SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran21
  22. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng Khách du lịch lại đến với đảo Cò để đƣợc thoả mắt ngắm nhìn những chú cò. Cả một đảo với những chú cò trắng muốt mang đến cho ngƣời xem một sự vui thích thực sự. Cò bay về làm tổ từ tháng 9 cho đến tận tháng 4 rồi đi, và những ngày này, khách du lịch càng thích thú hơn khi đƣợc ngắm những chú cò con vừa mới sinh ra đời, đôi chân vẫn còn chƣa vững khi đứng trên những cành tre mềm mại. Sáng sớm và chiều tối là khoảng thời gian nhộn nhịp nhất của Đảo Cò. Đó là lúc cò bay đi kiếm ăn và kéo về tổ để nghỉ ngơi sau một ngày làm việc vất vả. Những chú cò bay kín cả mặt hồ, bay kín cả đảo, những chiếc cánh trắng muốt trao lƣợn tạo nên một khung cảnh thật tuyệt vời nhƣng cũng thật hoang dã. Tiếng kêu của chúng vang xa, lúc trầm lúc bổng tạo thành một bản hoà tấu tuyệt vời nhƣ để khởi động một ngày mới hoặc kết thúc một ngày làm việc mệt mỏi. Một chiếc xuồng cỡ nhỏ để không làm náo động không gian sống của cò sẽ chầm chậm đƣa du khách đi vòng quanh hồ và ngắm cuộc sống của những chú cò. Nhƣng nếu du khách muốn quan sát cuộc sống của cò một cách tỉ mỉ thì hãy ở một đêm bên Đảo Cò. Đêm lúc 9 - 10h tối là lúc cò về nhiều nhất, sự đoàn tụ gia đình cũng bắt đầu từ lúc này cho đến sáng hôm sau. Lúc ấy du khách sẽ có nhiều thời gian hơn để nghiên cứu cuộc sống của những chú cò trên đảo và sẽ phải ngỡ ngàng vì phát hiện: cùng với cò, vạc, trên đảo còn có vô số loài chim nƣớc khác nhƣ: chim chả, bói cá, cuốc, cú mèo. Hiện nay trên đảo cò tập trung 9 loại cò: cò trắng, cò lửa, cò bộ, cò ruồi, cò đen, cò hƣơng, cò nghênh, cò ngang, diệc, 3 loại vạc: vạc lƣng xanh, vạc xám, vạc sao và rất nhiều loài chim quý hếm: bồ nông, mòng két, lele cùng trú ngụ. Hồ An Dƣơng còn là nơi sinh sống của nhiều loài cá và các loại thủy sinh khác, trong đó một số loài đã có tên trong Sách Đỏ Việt Nam. Đƣợc thả mình vào khung cảnh vẫn còn mang đậm vẻ đẹp hoang sơ của thiên nhiên thì thật là tuyệt. Đảo Cò thực sự sẽ mang đến cho du khách những khoảng khắc sống cùng thiên nhiên. SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran22
  23. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng 1.2.6.Đánh giá chung về tài nguyên du lịch tự nhiên. Tài nguyên du lịch tự nhiên của Hải Dƣơng tuy không có gì nổi bật nhƣng cũng đã có sức thu hút nhất định đối với du khách nhƣ các vùng đồi núi ở Chí Linh, khu Đảo Cò ngoài ra còn có những tài nguyên du lịch tự nhiên có giá trị đối với việc phát triển du lịch nhƣ hệ thống hang động khu vực Nhị Chiểu, các miệt vƣờn ven bờ sông Hƣơng (Thanh Hà), các hồ trên địa bàn tỉnh nhƣ Hồ Côn Sơn (Chí Linh), Hồ An Dƣơng (Thành Phố Hải Dƣơng) với những điều kiện trên có thể tổ chức đƣợc các hoạt động du lịch nhƣ: Du lịch tham quan, nghỉ dƣỡng, cắm trại ở các vùng núi Chí Linh, Kim Môn. Và một nét độc đáo nữa là cảnh quan thiên nhiên của Hải Dƣơng còn kết hợp hài hòa với các di tích lịch sử văn hóa ở nơi đây càng làm tăng thêm sức hấp dẫn cho du khách. Bên cạnh đó nguồn tài nguyên khí hậu của Hải Dƣơng đƣợc đánh giá là khá thích nghi đối với các hoạt động du lịch thể thao giải trí và các hoạt động du lịch nghỉ dƣỡng trên núi. Nguồn tài nguyên nƣớc cũng đủ phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của du khách, tạo cảnh quan thiên nhiên đẹp và thơ mộng đồng thời cũng có những tiềm năng để phát triển các loại hình du lịch bằng đƣờng sông. Tài nguyên du lịch của Hải Dƣơng còn góp phần nuôi dƣỡng các tài nguyên du lịch nhân văn của tỉnh. Trong số các loại tài nguyên du lịch tự nhiên thì trừ hệ thống các hồ, các hang động, khu du lịch sinh thái Đảo Cò còn lại các giá trị tài nguyên khác chỉ có giá trị phong cảnh. 1.3.Tài nguyên du lich nhân văn và tài nguyên kinh tế kỹ thuật phục vụ du lịch ở Hải Dƣơng. Hải Dƣơng là tỉnh nằm ở phía đông kinh thành Thăng Long nên việc giao lƣu kinh tế văn hóa hết sức thuận lợi. Trải qua hằng nghìn năm lịch sử, mảnh đất này đã lƣu giữ trong mình nguồn tài sản nhân văn vô cùng quý giá. Đó là các công trình kiến trúc độc đáo (đình, chùa, nghè, đền, miếu) gắn với tên tuổi của Trần Hƣng Đạo, Nguyễn Trãi, Chu Văn An, danh y Tuệ Tĩnh SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran23
  24. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng những làng nghề truyền thống với những sản phẩm tinh xảo thể hiện tâm hồn và tài năng của các nghệ nhân ở các làng nghề hay các sinh hoạt văn hóa cộng đồng, đặc biệt là các lễ hội, các loại hình nghệ thuật đặc sắc hấp dẫn. Tất cả đã tạo nên cho Hải Dƣơng một tiềm năng nhân văn phong phú đa dạng Tài nguyên du lịch nhân văn của Hải Dƣơng đƣợc chia làm 2 loại: Tài nguyên du lịch nhân văn vật thể: các di tích lịch sử văn hóa. Tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể: làng nghề lễ hội, văn hóa nghệ thuật và các đặc sản. 1.3.1. Tài nguyên du lịch nhân văn vật thể. 1.3.1.1. Các di tích lịch sử văn hóa. Hải Dƣơng là một trong những vùng đất "Địa linh nhân kiệt", vùng văn hoá và văn hiến tâm linh chính của cả nƣớc. Theo dòng lịch sử đã để lại cho Hải Dƣơng 1.098 di tích lịch sử, trong đó có 133 di tích đƣợc xếp hạng cấp quốc gia và nhiều di tích đƣợc xếp hạng đặc biệt nhƣ Côn Sơn, Kiếp Bạc. Hải Dƣơng cũng là miền đất sinh ra và gắn liền với tên tuổi của nhiều anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới nhƣ: thế giới Trần Hƣng Đạo, một trong mƣời tƣớng tài trên thế giới, vị anh hùng dân tộc Việt Nam với chiến công hiển hách - ba lần chiến thắng quân Nguyên; Danh sƣ Chu Văn An, nhà giáo tài đức vẹn toàn, lịch sử tôn ông là nhà nho có đức nghiệp lớn nhất; Danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi, ngƣời có tầm tƣ tƣởng vƣợt lên nhiều thế kỷ; Lƣỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi với học vấn đứng đầu cả nƣớc, ông đã góp phần làm dạng danh đất nƣớc; Đại danh y Tuệ Tĩnh, vị thánh thuốc nam đƣợc cả nƣớc ngƣỡng mộ. Trí tuệ, tài năng của ngƣời Hải Dƣơng cũng đóng góp cho sử sách Việt Nam 486 tiến sỹ (tính theo đơn vị hành chính mới, 637 vị tính theo đơn vị hành chính cũ) trong tổng số 2.989 vị đỗ đại khoa qua các triều đại, chiếm 16% ( 22%) đứng đầu cả nƣớc, tiêu biểu là làng Mộ Trạch (Bình Giang – Hải Dƣơng) đƣợc gọi là “lò tiến sỹ xứ Đông” có 36 vị đỗ đại khoa, đứng đầu số ngƣời đỗ tiến sỹ tính theo đơn vị làng xã trong cả nƣớc. Vào thời Lê sơ, ở Hải SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran24
  25. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng Dƣơng đã có trƣờng thi và miếu thờ các vị đại nho, tiêu biểu là Văn miếu Mao Điền. Hiện nay, trong địa bàn tỉnh Hải Dƣơng còn nhiều di tích lịch sử - văn hóa nhƣ: Đền Kiếp Bạc thờ Đức thánh Trần, đền Đoan và đền Tranh thờ Quan lớn Tuần Tranh, chùa Côn Sơn gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi, đền Cao, Văn miếu Mao Điền, di tích gốm sứ Chu Đậu - Mỹ Xá, di tích lịch sử chùa Bạch Hào. Khu di tích Kính Chủ - An Phụ, đảo cò Chi Lăng Nam Với những thuận lợi trên, Hải Dƣơng có vị trí khá quan trọng trong vùng du lịch Bắc bộ và cả nƣớc. Một số di tích lịch sử tiêu biểu: Văn miếu Mao Điền Văn miếu Mao Điền, di tích lịch sử quốc gia, thuộc xã Cẩm Điền, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dƣơng Văn miếu Mao Điền, đƣợc xếp hạng di tích lích sử quốc gia năm 1992. Nơi đây thờ Khổng Tử và tôn vinh các bậc nho học tiêu biểu cho truyền thống văn hiến của tỉnh Hải Dƣơng. Địa danh Mao Điền theo văn bia ghi lại mang ý nghĩa: Mao là cỏ lau, Điền là ruộng cấy. Nhƣ vậy, từ xa xƣa Mao Điền là một vùng đất bằng phẳng có nhiều cỏ lau. Văn miếu Mao Điền nguyên là Văn miếu trấn Hải Dƣơng xƣa. Di tích đƣợc khởi dựng vào thời Lê Sơ (TK XV) tại xã Vĩnh Lại, huyện Đƣờng An, Phủ Thƣợng Hồng (nay thuộc xã Vĩnh Tuy, huyện Bình Giang). Công trình gồm 5 gian Bái đƣờng và 3 gian Chính Tẩm đặt trên một gò đất cao. Đồng thời với Văn miếu là trƣờng thi Hƣơng của trấn Hải Dƣơng, đƣợc xây dựng tại xã Mao Điền, huyện Cẩm Giàng. Hai công trình này nằm cách nhau khoảng 1 km theo đƣờng chim bay. Đầu thế kỷ XVI, do Thăng Long bất ổn về chính trị nên nhà Mạc đã tổ chức 4 khoa thi Hội tại trƣờng thi Mao Điền. Trong đó có khoa thi Ất Mùi năm Đại Chinh thứ 6 (1535), trấn Hải Dƣơng có Nguyễn Bỉnh Khiêm, ngƣời nổi tiếng Thủ khoa cả ba kỳ thi: Hƣơng - Hội - Đình, đƣợc triều đình phong tặng Trạng nguyên. Đến thời Tây Sơn (1788 - 1802), để thuận tiện cho việc SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran25
  26. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng quản lý của bản trấn, Văn miếu đƣợc di chuyển từ xã Vĩnh Lại, huyện Đƣờng An về xã Mao Điền huyện Cẩm Giàng, hợp nhất với trƣờng thi Hƣơng (nay là Văn miếu Mao Điền và cánh đồng Tràng). Quy mô công trình rộng tới 10 mẫu (3,6ha). Văn miếu xây dựng theo hƣớng Nam gồm các hạng mục: Bái đƣờng, Hậu cung mỗi toà 7 gian, xây theo kiểu chữ Nhị, Đông vu, Tây vu, gác khuê văn, gác Chuông, gác Khánh, đài Nghiên, tháp Bút, Nghi môn, Thiên Quang tinh và Khải thánh thờ thân Phụ và thân Mẫu của Khổng Tử. Các hạng mục đƣợc quy hoạch cân đối và đẹp mắt. Việc tế lễ và học tập diễn ra rất đông vui. Hàng năm vào ngày "Đinh" (T) đầu tháng "trọng xuân" (tháng Hai) và "Trọng thu" (tháng tám), trấn Hải Dƣơng tổ chức lễ tế Khổng Tử, các quan đầu trấn, đầu phủ cùng cử nhân, tiến sỹ về làm lễ trọng thể, nêu cao truyền thống "Hiếu học và tôn sƣ, trọng đạo" của ngƣời tỉnh Đông. Văn miếu và trƣờng thi trấn Hải Dƣơng có một lịch sử vẻ vang. Tại đây đã đào tạo hàng ngàn cử nhân, tiến sỹ nho học đứng vào hàng đầu cả nƣớc. Nếu chỉ tính số ngƣời đỗ Đại khoa trong 185 kỳ thi (từ 1075 - 1919), cả nƣớc có 2898 tiến sỹ thì trấn Hải Dƣơng có 637 vị, trong số 46 Trạng Nguyên, Hải Dƣơng có l2 ngƣời. Văn miếu Mao Điền tồn tại khá nguyên vẹn tới năm 1947, đến năm 1948, giặc Pháp chiếm đóng và lập quận Mao Điền. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Văn miếu đƣợc sử dụng làm nơi chứa lƣơng thực và vật tƣ của Nhà nƣớc. Do năm tháng và chiến tranh, vào những năm 1980 - 1990, Văn miếu Mao Điền bị xuống cấp rất nghiêm trọng, hầu hết đồ thờ tự bị phá huỷ hoặc thất lạc. Năm 1991, cán bộ và nhân dân xã Cẩm Điền đã đóng góp công sức tu bổ cấp thiết di tích. Năm 1992, Bộ VHTT đã ra Quyết định số 97/QĐ-VH xếp hạng Văn miếu Mao Điền là di tích lịch sử quốc gia ngày 22/3/1995, đoàn cán bộ khổng miếu Trung Quốc, do ông Khổng Tƣờng Lâm, cháu 75 đời của Khổng Tử, giám đốc Bảo tàng Khổng Miếu dẫn đầu tới thăm Văn miếu Mao Điền. Ông thực sự xúc động khi nghe giới thiệu về lịch sử Văn miếu và truyền thống hiếu học của các thế hệ ngƣời Hải Dƣơng. Văn miếu Mao Điền đã thu hút hàng vạn lƣợt khách tham quan hoc tập. Trong đó SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran26
  27. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng có nhiều đoàn cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nƣớc và Bộ, ngành Trung ƣơng, nhiều đoàn khách nƣớc ngoài và chục vạn lƣợt khách trong nƣớc về dự lễ hội và tìm hiểu thân thế sự nghiệp của các danh nhân, các anh hùng. Trong thời gian tới, Văn miếu Mao Điền tiếp tục đƣợc đầu tƣ tu bổ tôn tạo và quy hoạch mở rộng. Các hạng mục kiến trúc tiếp tục đƣợc xây dựng và cải tạo, tu bổ cùng với hệ thống cây xanh bao bọc sẽ tạo nên vẻ đẹp mới, xứng với một di tích lịch sử quốc gia tôn thờ các danh nhân và các anh hùng đã làm vẻ vang đất nƣớc. Tại nơi đây diễn ra các hoạt động: Lễ hội truyền thống, tuyên dƣơng học sinh giỏi, gặp mặt các tiến sỹ Hải Dƣơng thời hiện đại, hội thảo khoa học, diễn xƣớng văn nghệ dân gian, hội trại học sinh sinh viên Với những hoạt động có ý nghĩa trên, Văn miếu Mao Điền xứng dáng là nơi tôn vinh văn hiến tỉnh Đông và là địa chỉ du lịch hấp dẫn cho du khách trong và ngoài nƣớc về thăm tỉnh Hải Dƣơng. Chùa Giám Ngôi chùa có tên chữ là Nghiêm Quang tự ở xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dƣơng. Tƣơng truyền chùa đƣợc xây dựng vào đời Lý, trùng tu vào cuối thời Lê. Lúc đầu, xã Cẩm Sơn nằm ở ngoài bãi bồi sông Thái Bình. Năm 1970, 1971 liền 2 năm nƣớc sông Thái Bình lên to, gây vỡ đê ngập lụt, ngƣời dân phải di dời toàn bộ đến vị trí hiện nay, ngôi chùa cũng đƣợc dời theo. Chùa Giám là ngôi chùa có quy mô kiến trúc to đẹp, mang đậm dấu tích nghệ thuật thế kỷ XVII. Chùa tọa lạc trên một khoảng đất rộng 2ha. Toàn bộ công trình kiến trúc bao gồm Tam quan, Tiền đƣờng, Tam bảo, Nhà tổ, Hành lang, Nhà tháp cửu phẩm, Nhà khách, Nhà tăng, Vƣờn cây, Pháp sƣ, Nghè giám. Nhà tiền đƣờng 7 gian, 2 chái, đao tàu, néo góc. Nhà thấp mái, cột to hơn một ngƣời ôm, cột quân chỉ cao 2,1m. Các vì chạm hoa lá giản dị, các bức cốn và cửa võng với bức chạm quần long, bênh bong tinh xảo. Bờ nóc giữa mái và các bờ góc mái kết hoa thị, gắn con giống đắp vôi vữa sinh động. SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran27
  28. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng Nhà tháp cửu phẩm hình vuông mỗi chiều 8m, 3 tầng mái, 12 chái, cao 8m bày toà cửu phẩm liên hoa 9 tầng hoa sen, cao trên 6m, hình lục giác đều, mỗi cạnh 1,24m. Giữa các tầng hoa sen là tƣợng Phật, mỗi mặt 3 pho, mỗi tầng 18 pho, tầng cao nhất chỉ có 1 pho tƣợng ngồi cao 1m, đầu đội trần nhà cửu phẩm. Nhƣ vậy toà cửu phẩm có tất cả 145 pho tƣợng. Toàn bộ kết cấu đặt trên một trụ gỗ lim lớn, có ngỗng đá và ổ bi. Vào ngày lễ Phật, với 2 ngƣời đẩy, toà tháp có thể quay nhẹ nhàng. Đây là toà tháp đặc sắc nhất của chùa Giám, mang nghệ thuật kiến trúc cuối thế kỷ XVII. Ngoài ra chùa có hơn 100 pho tƣợng cổ, 2 chuông lớn đúc năm Cảnh Hƣng 13 (1765) và Thiệu Trị 8 (1848), 15 bia đá có niên đại thế kỷ XVII – XIX. Trong số tƣợng cổ có pho tƣợng đại danh y Tuệ Tĩnh. Ông vốn ngƣời cùng huyện và là ngƣời có công xây dựng ngôi chùa, đƣợc nhân dân tôn là thánh sƣ Nam dƣợc. Hằng năm, chùa mở hội lớn từ 13 - 15 tháng Hai. Ngày 13, rƣớc tƣợng Tuệ Tĩnh từ chùa về nghè, đặt tại gian giữa. Lễ rƣớc trịnh trọng theo nghi thức cổ truyền. Ngày 14 là ngày lễ chính. Dân các nơi đến dự hội suốt 3 ngày có tới hàng vạn lƣợt ngƣời. Hàng quán chật kín hai bên đƣờng trục của xã. Trên sân hội trƣờng và sân chùa, các trò vui dân gian diễn ra suốt 3 ngày đêm. Chùa Giám đã đƣợc công nhận là di tích lịch sử văn hoá quốc gia năm 1974. Chùa Giám, Đền Bia, đã kết hợp với Văn Miếu Mao Điền tạo nên những giá trị đặc săc về lịch sử, văn hóa cho huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dƣơng nói riêng và cho Việt Nam nói chung. Đền Bia Ngôi đền ở thôn Văn Thai, xã Cẩm Văn, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dƣơng, thờ đại danh y Tuệ Tĩnh. Trong đền có tấm bi ghi tiểu sử ông. Đền đƣợc xây dựng theo kiểu tiền 一 (Nhất), hậu 丁 (Đinh), kiến trúc thời Nguyễn, đƣợc trùng tu năm 1993. Chùa và đền đã đƣợc xếp hạng di tích lịch sử quốc gia năm 1994. Tuệ Tĩnh sinh năm 1330, tên thật là Nguyễn Bá Tĩnh, quê ở bản thôn. Ông mồ côi cha mẹ từ lúc 6 tuổi, phải sống ở trong chùa. Năm 22 tuổi, ông đỗ SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran28
  29. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng Thái học sinh thời Trần Dụ Tông. Nhƣng ông không làm quan mà quyết định đi tu, lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh. Ông đƣợc xem là ông tổ của ngành dƣợc ở Việt Nam. Ông đã tổng hợp y dƣợc dân tộc cổ truyền trong bộ sách giá trị là bộ Nam dƣợc thần hiệu chia làm 10 khoa. Đặc biệt, ông có bộ Hồng Nghĩa tƣ giác y thƣ (2 quyển) biên soạn bằng quốc âm, trong đó có bản thảo 500 vị thuốc nam, viết bằng thơ Đƣờng luật (nôm), và bài Phú thuốc Nam 630 vị cũng dùng quốc ngữ. Năm 55 tuổi, ông bị đƣa đi cống Trung Quốc, ở Giang Nam làm thuốc rồi mất ở đấy. Tƣơng truyền, mặt sau trên bia mộ Tuệ Tĩnh có dòng chữ “Về sau có ai bên nƣớc sang, nhớ cho hài cốt tôi về với”. Tiến sĩ Nguyễn Danh Nho trong một lần đi sứ Trung Quốc, đọc đƣợc dòng chữ này, vô cùng xúc động, nên cho dập mẫu bia mang về nƣớc, thuê thợ làm lại và chở về quê ông lập miếu thờ. Sau xây dựng thành đền, gọi là đền Bia. *Đánh Giá các di tích lịch sử: Văn Miếu Mao Điền, Chùa Giám, Đền Bia Văn Miếu Mao Điền, Chùa Giám, Đền Bia là những di tích lịch sử tiêu biểu của huyện Cẩm Giàng. Huyện Cẩm Giàng là một huyện đƣợc đánh giá là một huyện có rất nhiều di tích đƣợc xếp hạng quốc gia (161 di tích trong đó có 16 di tích xếp hạng quốc gia). Với một vị trí rất thuận lợi cách thành phố Hải Dƣơng khoảng 16km cách thành phố Hải Phòng khoảng 30km và nằm trên tuyến quốc lộ 5A đây là điều kiện thuận lợi cho du lịch Cẩm Giàng nói riêng và du lịch Hải Dƣơng nói chung. Khu Văn Miếu Mao Điền có lịch sử hình thành và phát triển gần 300 năm, có giá trị hấp dẫn, độc đáo (kến trúc kiểu chồng diềm, tám mái, tảng cổ bồng kẻ bẩy chạm hoa lá, nét chạm nông thoáng nhƣng sắc sảo, chuẩn mực). Chùa Giám là ngôi chùa có quy mô kiến trúc to đẹp, mang đậm dấu tích nghệ thuật thế kỷ XVII. Các vì chạm hoa lá giản dị, các bức cốn và cửa võng với bức chạm quần long, bênh bong tinh xảo. Đền Bia mang đậm kiến trúc thời Nguyễn. Việc tổ chức tôn tạo, bảo vệ khai thác ở các điểm này đƣợc tiến hành tốt, đúng nguyên tắc. Môi trƣờng tự nhiên nhân văn có chất lƣợng tốt không bị xâm hại. Tuy nhiên ở các điểm này SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran29
  30. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng có phong cảnh đơn điệu, kém hấp dẫn, nội thất các hạng mục công trình đƣợc giữ gìn, tôn tạo, bảo vệ kém nhiều hạng mục công trình đã bị xuống cấp tuy nhiên tu bổ lại không giữ nguyên đƣợc giá trị công trình. Việc nghiên cứu tuyên truyền quảng bá đƣợc tiến hành còn chƣa có hiệu quả. Công tác quản lý và giới thiệu tại điểm còn kém. Chỉ ở Văn Miếu Mao Điền có hƣớng dẫn viên điểm. Ngoài những ngày hội lớn thì những ngày thƣờng không thu hút đƣợc khách đến thăm di tích còn bị lãng quên. Hy vọng trong thời gian tới phòng văn hóa huyện Cẩm Giàng và Sở Văn Hóa Thể Thao Du Lịch Hải Dƣơng có sự phối, kết hợp quản lý tu bổ và khai thác các di tích trên địa bàn một cách có hiệu quả. Nhằm gìn giữ, phát huy các giá trị đặc sắc của di tích phục vụ tốt nhu cầu thăm quan nghiên cứu, tìm hiểu của du khách. Để du lịch Cẩm Giàng, Hải Dƣơng có đƣợc ấn tƣợng đối với du khách. Cụm đình đền thờ Khúc Thừa Dụ Thôn Cúc Bồ, xã Kiến Quốc, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dƣơng. Họ Khúc là một họ lớn lâu đời ở Hồng Châu. Khúc Thừa Dụ tính khoan hòa, hay thƣơng ngƣời, đƣợc dân chúng suy tôn. Gặp thời buổi loạn lạc, nhân danh là hào trƣởng một xứ, Thừa Dụ tự xƣng là Tiết độ sứ Sau khi đã nắm đƣợc quyền lực thực tế trên đất Tĩnh Hải quân, ông đã cho xây dựng chính quyền dựa trên danh xƣng của chính quyền đô hộ nhà Đƣờng, nhƣng thực chất là một chính quyền độc lập và do ngƣời Việt quản lý. Ông khéo léo dùng danh nghĩa "xin mệnh nhà Đƣờng" buộc triều đình nhà Đƣờng phải công nhận chính quyền của ông. Ngày 7 tháng 2 năm 906, vua Đƣờng phong thêm cho Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ Khúc Thừa Dụ tƣớc "Đồng bình chƣơng sự". Sau đó, Khúc Thừa Dụ tự lấy quyền mình, phong cho con là Khúc Hạo chức vụ "Tĩnh Hải hành quân tƣ mã quyền tri lƣu hậu", tức là chức vụ chỉ huy quân đội và sẽ kế vị quyền Tiết độ sứ. Ngày 23 tháng 7 năm 907, Khúc Thừa Dụ mất. Con ông là Khúc Hạo lên kế vị. Dù ông không xƣng vƣơng xƣng đế, nhƣng đời sau nhớ ơn và gọi ông là Khúc Tiên chủ. Sau đó ông mất thì con trai là Khúc Thừa Mỹ lên kế ngôi vị. SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran30
  31. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng Công lao sự nghiệp Khúc Thừa Dụ đƣợc xem là ngƣời mở đầu cho chính sách ngoại giao khôn khéo của ngƣời Việt đối với triều đình phƣơng Bắc: "độc lập thật sự, thần thuộc trên danh nghĩa". Tuy còn chính quyền vẫn còn mang danh hiệu của nhà Đƣờng, nhƣng về thực chất, Khúc Thừa Dụ đã xây dựng một chính quyền tự chủ, về cơ bản kết thúc ách thống trị hơn 1.000 của phong kiến phƣơng Bắc. Lịch sử ghi nhận công lao của ông nhƣ là ngƣời đầu tiên đặt cơ sở cho nền độc lập dân tộc. Đền thờ Khúc Thừa Dụ khánh thành ngày 11 - 9 - 2009 Đền thờ thờ 3 pho tƣợng : Khúc Thừa Dụ - Khúc Thừa Hạo - Khúc Thừa Mỹ. Công trình có tổng diện tích hơn 57.000m2, gồm 5 hạng mục chính, đƣợc khởi công xây dựng năm 2005, với tổng vốn đầu tƣ 38 tỷ đồng. 3 loại vật liệu quý để làm đền thờ là đá xanh, gỗ lim và đồng. Đền thờ Anh hùng Dân tộc Khúc Thừa Dụ nằm giáp đê sông Luộc, mặt đền quay theo hƣớng Nam. Từ ngoài vào trong đền qua chiếc cầu đá, đến sân hội, với hai bức phù điêu ghép bằng các tảng đá lớn. Các họa tiết đƣợc chạm khắc công phu, mô tả quang cảnh nhân dân tụ nghĩa theo Tiên Chúa Khúc Thừa Dụ giành quyền tự chủ và cuộc sống thái bình, an cƣ lạc nghiệp. Đây là một công trình có ý nghĩa lịch sử, văn hóa và du lịch to lớn, nhằm tôn vinh ngƣời Anh hùng dân tộc có công đặt nền móng cho nền độc lập, tự chủ của Việt Nam sau 1.000 năm chịu ách thống trị của phong kiến phƣơng Bắc, là một biểu tƣợng đẹp về truyền thống “Uống nƣớc nhớ nguồn” của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Hải Dƣơng. Cùng với những di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng trong tỉnh nhƣ Côn Sơn-Kiếp Bạc, Văn miếu Mao Điền, Đền thờ Nhà giáo Chu Văn An, Đền thờ Khúc Thừa Dụ sẽ là một địa chỉ thu hút khách tham quan, góp phần giáo dục truyền thống yêu nƣớc, lòng tự hào dân tộc cho các thế hệ, nhất là thế hệ trẻ. Đền Tranh Đền Tranh hay còn gọi là đền Quan Lớn Tuần Tranh nằm ở gần bến đò Tranh, thuộc xã Đồng Tâm, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dƣơng, thờ vị thần sông nƣớc coi khúc sông. Công trình hiện nay khá hoành SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran31
  32. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng tráng với kinh phí xây dựng do nhân dân công đức. Đền Tranh là nơi tập trung và phong phú nhất về tín ngƣỡng dân gian mà điển hình là nhân vật huyền thoại Quan Lớn Tuần Tranh. Một công trình làm nổi bật diện mạo thị trấn Ninh Giang. Truyền thuyết về đền Tranh. Có tích kể rằng: “Tƣơng truyền, Quan lớn Tuần Tranh là viên quan phủ Ninh Giang. Ngày xƣa, tại bến sông Tranh, có hai con rắn dữ thƣờng nổi lên quấy phá. Một hôm, chúng bắt đi nàng hầu xinh đẹp của quan. Vị quan này khởi kiện Diêm Vƣơng. Rắn bị xử thua phải mang cả dòng họ dời đi nơi khác. Từ đó bến sông sóng yên nƣớc lặng, nhân dân nhớ ơn vị quan phủ mà lập đền thờ, tôn là vị thần bảo vệ khúc sông”. hay nhân dân trong vùng còn lƣu truyền nhau câu chuyện cổ tích “Ông Dài, Ông Cụt”. Ngày xƣa, có hai vợ chồng già làm ruộng một hôm đi ra ngoài đồng, thấy hai quả trứng lạ, nhặt đem về nhà. Đƣợc ít lâu, hai quả trứng nở ra hai con rắn rất khôn, hai vợ chồng đi đâu chúng nó thƣờng bò theo. Hai ngƣời không con nên cứ nuôi chúng nó, xem nhƣ là con, thƣờng ngày cho ăn uống tử tế. Một hôm, ngƣời chồng cuốc vƣờn, vô ý cuốc đứt một khúc đuổi của một con. Sau đó, vợ chồng mới gọi hai con rắn đặt tên cho là con Dài, con Cụt. Hai con rắn lớn lên, ăn rất tợn, nhà nghèo không đủ nuôi, chúng nó thƣờng đi bắt gà, chó của hàng xóm mà ăn. Hai vợ chồng không nuôi nổi, mới đem thả xuống sông Tranh, bây giờ thuộc Hải Dƣơng. Hai anh em rắn Dài và Cụt đƣợc Thủy Vƣơng nhận làm bộ hạ và cho cai quản cả một vùng sông rộng. Rắn Cụt tính khí dữ tợn hơn rắn Dài, hoành hành khắp vùng, làm cho dân chúng phải kiêng sợ gọi tên là ông Dài và ông Cụt. Có khi chúng bắt cả ngƣời, còn cƣớp súc vật là chuyện thƣờng xảy ra. Ghe thuyền qua lại trên khúc sông, thƣờng bị ông Cụt nổi sóng dữ tợn làm cho đắm. Cha mẹ nuôi ông Dài, ông Cụt thỉnh thoảng lại phải ra bờ sông van lơn xin con nuôi đừng làm hại ngƣời ta. Chúng cũng nghe theo đƣợc ít lâu, rồi lại đâu vẫn hoàn đấy. Vì gây quá nhiều tội ác nên 2 con rắn đã bị đày đến ở sông Kỳ Cùng, thuộc về Lạng Sơn ngày nay. Ngày ông Cụt bị giáng chức đi đày, các loài thủy tộc đi SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran32
  33. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng theo tiễn chân đầy cả một khúc sông. Đƣợc biết hiện nay gần cầu Kỳ Lừa trên bờ sông Kỳ Cùng có ngôi đền thờ “ Thần sông nƣớc” bị đuổi từ huyện Vĩnh Lại đất Hồng Châu lên, đƣợc nhiều ngƣời đến bái và cầu tài cầu lộc. Đền hiện nay có 11 ban thờ: 1- Ban thờ Phật 2- Ban thờ Thánh mẫu 3- Ban thờ Ngọc hoàng Thƣợng đế 4- Ban thờ Ngũ vị tôn ông 5- Ban thờ Tứ phủ chầu bà (Thiên phủ, Địa phủ, Thuỷ phủ, Nhạc phủ) 6- Ban thờ Quan lớn Tuần Tranh 7- Ban thờ Sơn trang. 8- Ban thờ Động chúa sơn lâm 9- Ban thờ Thành hoàng: Quý Minh và Vũ Đô Mạnh 10- Ban thờ Mẫu địa 11- Ban thờ Đức thánh Trần *Đánh giá Cụm đình đền Khúc Thừa Dụ, Đền Tranh. Cách thành phố Hải Dƣơng 30 km về phía nam thị trấn Ninh Giang đƣợc gọi là “Thị Trấn ngã ba sông” bởi nơi đó là nơi tiếp giáp của 3 tỉnh Hải Dƣơng – Hải Phòng – Thái Bình (một con gà gáy 3 tỉnh cùng nghe). Theo một số tài liệu đáng tin cậy thì Ninh Giang tƣớc kia gọi là Phủ có thành đất bao quanh, đó là thành Đô Dƣơng , thành có hình tứ diện, phía nam giáp sông Luộc, còn 3 mặt kia co hào sâu bao bọc xung quanh, thời Pháp thuộc Ninh Giang là một thị xã sầm uất. Có sự xâm nhập của phƣơng tây khá sớm. Ninh Giang sớm hình thành các phố, phƣờng, hội, buôn bán và các dịch vụ ăn chơi xã xỉ khác. Các phố chính nhƣ phố Bờ Sông, có tên tây là Mazchlfoch, phố Giữa, phố Ninh Lãng, phố Cô Đầu chính vì thế mà Ninh Giang trở thành đầu mối buôn bán sản phẩm nông nghiệp chính trong vùng nhƣ: lúa gạo, rau quả và thực phẩm. Ninh Giang đồng thời cũng là một trung tâm văn hóa đại diện cho cả vùng thuộc đôi bờ sông Luộc sớm hình thành các rạp hát các hý SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran33
  34. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng viện đặc biệt nơi đây còn có phong trào “Cần Vƣơng” đánh pháp. Trải qua nhiều biến cố lịch sử, nơi đây còn lƣu giữ đƣợc nhiều di tích lịch sử nhƣ: Đền Tranh với lễ hội đặc sắc vào tháng 2 thu hút nhiều du khách thập phƣơng, nhà thờ thiên chú giáo, nhà thờ đạo tin lành, chùa chiền đền miếu, lăng tẩm, mộ cổ cho đến nay nhiều di tích còn lƣu giữ và đƣợc trùng tu hoặc xây mới đã và đang là điểm đến của du khách. Hiện nay Ninh Giang hệ thống đƣờng giao thông đã đƣợc trải nhựa và đƣợc nâng cấp, giao thông thuận tiện. Tốc độ giao lƣu tăng lên, khu phố, dân cƣ đƣợc mở rộng, có hè phố dành cho ngƣời đi bộ, nhiều công trình cao tầng đã đƣợc mọc lên, dịch vụ tăng nhanh. Các mặt nổi trội của Ninh Giang đó là giao thông và bƣu điện phát triển cơ bản đã hào nhập với sự phát triển của các vùng miên lân cận. Với vị thế ngã ba sông của mình thì Ninh Giang sẽ đạt đƣợc những điều đang dự cảm cho một tƣơng lai. Không nổi tiếng về du lịch nhƣng Ninh Giang cũng có một vài đền chùa mang đậm dấu ấn lịch sử nhƣ: Đền Quan Lớn Tuần Tranh (Đền Tranh) là một trong những ngôi đền lớn và nổi tiếng ở Ninh Giang, cụm Đình Đền thờ Khúc Thừa Dụ, Đình Lãng Xuyên Hử, Đền La Khê tạo một tổng thể các di tích lịch sử khá quan trọng của nhân dân huyện Ninh Giang nói riêng và nhân dân tỉnh Hải Dƣơng nói chung và hiện nay bƣớc đầu đã dần dần đƣợc đƣa vào khai thác cho phát du lịch kết hợp với một số điểm du lịch khác trong tỉnh. Đền Tranh: Đây là một ngôi đền lớn mang tín ngƣỡng của đạo mẫu, là nơi tập trung và phong phú nhất về tín ngƣỡng dân gian, thờ nhân vật mang tính huyền thoại theo tín ngƣỡng dân gian, thờ vị thần coi khúc sông. Đền Tranh một năm có 3 mùa lễ hội, mang quy mô rộng lớn, thu hút khách nhiều tỉnh phía Bắc, là một trong những hội lớn của Hải Dƣơng, có sức hấp dẫn lạ thƣờng, đặc biệt đối với các bà các cô ở các thành phố bởi thế khách rất đông và lộng lẫy. Ngày hội thƣờng kéo dài tới 7 ngày đây là điều kiện quan trọng để phát triển và khai thác du lịch vào đây. Chúng ta biết rằng một ngôi đền mới đƣợc khôi phục và chƣa đƣợc xếp hạng mà thu ngót một tỷ đồng công đức thì quả là một vấn đề cần quan tâm. SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran34
  35. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng Cụm đình Đền thờ Khúc Thừa Dụ: đây là một công trình văn hóa lịch sử lớn bên bờ sông Luộc là hành động tôn vinh ngƣời có công với đất nƣớc hơn nghìn năm trƣớc. Đây là một ngôi đền lớn mang nét cổ xƣa, sân thềm lát đá xanh, hai bức phù điêu hoành tráng. Rồi sân hành lễ, giếng mắt rông với quy mô xây dựng thành quần thể “Đền nƣớc – Đình Làng” đây là một địa chỉ du lịch văn hóa hấp dẫn bên cạnh Đền Tranh trên đất Ninh Giang. Đền Thờ Chu Văn An Trên núi Phƣợng Hoàng (Chí Linh), thờ ngƣời thầy giáo mẫu mực muôn đời - nơi đó một thắng cảnh hùng vĩ, nhƣng tĩnh lặng, đẫm chất thơ, văn và tâm đức sáng ngời của một nhân tài. Nơi đó có rừng thông, bạch đàn bạt ngàn xanh thẫm, suối nƣớc trong rì rào, đá núi lô xô, chùa tháp cổ kính, với 72 ngọn Đúng là một vùng núi non hiểm trở, một quần thể di tích đầy linh thiêng và nhân văn của đạo lý và nghiệp làm thầy. Đó lại là nơi tĩnh dƣỡng tinh thần của danh nhân từ thời Lý - Trần nhƣ Côn Sơn, Kiếp Bạc, Thanh Mai, Trần Xá Loan, Lục Đầu Giang Đây là những di tích gắn liền với cuộc đời các danh nhân: Trần Hƣng Đạo, Trần Nguyên Đán, Trần Khánh Dƣ, Trần Quốc Chẩn, Pháp Loa, Huyền Quang Trần Nguyên Đán là ngƣời nhiều lần đến thăm các di tích của Phƣợng Hoàng và có nhiều bài thơ về danh thắng này nhƣ: Đề Huyền Thiên Tử cực cung, Chí Linh Sơn, Phƣợng Hoàng Phong. Đền thờ Chu Văn An đang đƣợc xây dựng đúng tầm vóc, thân thế sự nghiệp của một nhà giáo mẫu mực của muôn đời, ngƣời đã làm rạng rỡ nền giáo dục nƣớc ta hơn 600 năm qua. Vì vây, việc quảng bá di tích phục vụ cho du lịch và ý nghĩa tâm linh là rất cần thiết, song việc quan trọng và sâu sắc hơn đó là việc khơi dậy truyền thống giáo dục, đạo học, đạo làm thầy của tổ tiên ta, tiếp tục trấn hƣng nền giáo dục của quê hƣơng, đất nƣớc. Chúng ta, đến dâng hƣơng tại đền, là tự tâm đến với thầy vì lòng kính trọng, tôn thờ thầy về tâm đức, đạo làm thầy, ngƣời đã đắp nền móng cho nền giáo dục nƣớc ta bằng tâm đức và chính cuộc đời của mình, thật là vĩ đại. Ngƣời làm sáng ngời về đạo học, đạo làm thầy và đã làm vẻ vang cho nền giáo dục của nƣớc nhà, là tấm gƣơng để chúng ta soi chung. SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran35
  36. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng Ai đó đến đây xin thầy tiền bạc, cầu khẩn giàu sang, đòi hỏi nhiều thứ cùng danh lợi để tiến thân hãy nhìn vào ánh mắt dịu hiền và nghiêm khắc của thầy thì biết mình là ai và mình phải làm gì để sống cho có ý nghĩa. Di tích lịch sử- Danh thắng Côn Sơn miền đất từng là nơi ngƣời anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi quy ẩn. “Côn Sơn suối chảy rì rầm. Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai. Côn Sơn có đá rêu phơi. Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm”, Nằm giữa hai dãy núi Phƣợng Hoàng và Kỳ Lân, Côn Sơn (thuộc xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dƣơng) là một quần thể núi non, rừng thông, khe suối, chùa tháp cổ kính, nên thơ. Điểm dừng chân đầu tiên là chùa Côn Sơn hay còn gọi là chùa Hun, tọa lạc ngay dƣới chân núi. Chùa đƣợc xây dựng từ trƣớc đời Trần nguy nga đồ sộ, trải bao biến thiên của lịch sử, nay chỉ còn là một nếp chùa nhỏ ẩn mình dƣới tán rừng xanh biếc. Dân gian có câu: “Côn Sơn, Yên Tử, Quỳnh Lâm. Ai chưa tới đó, thiền tâm chưa đành”. Ngay từ thời Trần, chùa Côn Sơn là một trong ba trung tâm của thiền phái Trúc Lâm (Côn Sơn - Yên Tử - Quỳnh Lâm). Du khách không khỏi tò mò với truyền thuyết về “Bàn cờ tiên” trên đỉnh Côn Sơn, một di tích gắn với truyền thuyết có từ lâu đời. Tƣơng truyền đây là nơi hội quần tiên xuống chơi cờ, múa hát. Ngày nay, bàn cờ tiên là một khu đất bằng phẳng đẹp đẽ. Từ chùa Côn Sơn leo lên khoảng 600 bậc đá là lên tới nơi. Từ đây phóng tầm mắt ra xa, khung cảnh núi non hùng vĩ “như tranh họa đồ”. Đặc trƣng của núi Côn Sơn là đƣợc bao phủ bằng rừng thông bạt ngàn. Những cây thông lớn, cao vút, lá vi vu reo trong gió. Mùi nhựa thông dìu dịu lan tỏa khắp không gian. Đến thăm Côn Sơn, không mấy ai lại không muốn SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran36
  37. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng đƣợc vào chiêm bái đền thờ Nguyễn Trãi. Đền tọa lạc dƣới chân núi Phƣợng Hoàng, nằm giữa bốn bề núi non hùng vĩ, hoa cỏ hữu tình. Đƣợc nghiêng mình kính cẩn trƣớc ngƣời anh hùng dân tộc, nghe vẳng bên tai triết lý xƣa: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân ”, lòng ta không khỏi bồi hồi xúc động. Theo lối mòn từ đền Nguyễn Trãi đi lên là đền Trần Nguyên Đán và Thạch Bàn - tƣơng truyền khi xƣa Nguyễn Trãi lấy làm "chiếu thảm" nghỉ ngơi, ngắm cảnh, làm thơ và mƣu việc nƣớc. Nơi đây còn lƣu giữ lại những vết tích nền nhà Nguyễn Trãi xƣa kia. Đây không chỉ là một “danh lam nơi đất Bắc, tiêu biểu của trời Nam” mà còn lƣu giữ đƣợc những dấu tích lịch sử vô cùng quý giá. Đến với di tích lịch sử Côn Sơn là hƣớng lòng về sự thanh trong, cao thƣợng, trọng đức, dụng tài; hƣớng về lòng vị tha cội nguồn, ôn lại truyền thống anh hùng của dân tộc và tìm hiểu, học tập về đạo đức, công lao, sự nghiệp, nhân cách của các bậc danh nhân, các anh hùng và thắp hƣơng tƣởng nhớ các vị tiền nhân vĩ đại - nơi ấy, sử tích còn ghi đầy những vinh quang chói sáng mãi mãi muôn đời nhƣ "Sao Khuê" và cũng có đắng cay, đầy oan nghiệt đến tận cùng. Chùa Côn Sơn tên chữ là "Thiên Tƣ Phúc Tự", nghĩa là chùa đƣợc trời ban cho phƣớc lành. Chùa kiến trúc theo kiểu chữ công, gồm Tiền đƣờng, Thiêu lƣơng, Thƣợng điện là nơi thờ Phật, trong đó có những tƣợng Phật từ thời Lê cao tới 3 mét. Tiếp đến nhà Tổ là nơi thờ các vị tổ có công tu nghiệp đối với chùa, đặc biệt có tƣợng của ba vị tổ Thiền phái Trúc Lâm: Điều ngƣ Trúc Lâm Trần Nhân Tông, Thiền sƣ Pháp Loa và Thiền sƣ Huyền Quang. Đƣờng vào Tam quan lát gạch, chạy dài dƣới hàng thông trăm năm phong trần xen lẫn những tán vải thiều xum xuê xanh thẫm. Tam quan đƣợc tôn tạo năm 1995, kiểu cổ, có 2 tầng 8 mái với các hoạ tiết hoa lá, mây tản cách điệu của nền nghệ thuật kiến trúc thời Lê. Sân chùa có 4 nhà bia, đặc biệt là bia "Thanh Hƣ Động" tạo từ thời Long Khánh (1373 - 1377) với nét chữ của vua Trần Duệ Tông và bia hình lục lăng "Côn Sơn Thiên tƣ bi SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran37
  38. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng Phúc tự" đã đƣợc Bác Hồ đọc khi Ngƣời về thăm di tích (15-2-1965) Sau chùa có hồ non bộ, Giếng Ngọc (mắt Kỳ Lân) nƣớc trong vắt không lúc nào vơi. Chùa nằm dƣới chân núi Côn Sơn. Núi có hình giống một con sƣ tử khổng lồ quay đầu trông về Đông bắc nhƣ đang canh giữ cho sự yên lành, u tịch của chốn thiền lâm. Tƣơng truyền nơi đây là nơi hun gỗ làm than và đã từng diễn ra trận hoả công hun giặc, dẹp loạn 12 sứ quân của Đinh Bộ Lĩnh ở thế kỷ X. Côn Sơn vốn đƣợc coi là nơi "Tôn quý của đất trời", có địa linh nhân kiệt nên sớm trở thành nơi hội tụ danh nhân của mọi thời đại và có những ngƣời đã đi vào lịch sử Côn Sơn. Thiền sƣ Huyền Quang (1254 -1334) vị tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm - một thiền phái mang mầu sắc dân tộc Việt Nam đã về tu ở chùa Côn Sơn. Tại Côn Sơn Huyền Quang cho lập đài Cửu phẩm liên hoa, biên tập kinh sách, làm giảng chủ thuyết pháp phát triển đạo phái không ngừng. Ngày 22 tháng giêng năm Giáp Tuất (1334) Thiền sƣ Huyền Quang viên tịch tại Côn Sơn. Vua Trần Minh Tông đã cấp cho ruộng để thờ và cho xây tháp tổ sau chùa, đặc phong Tự Tháp "Huyền Quang tôn giả". Ngày nay Côn Sơn mang nặng tính du lịch và tín ngƣỡng cả hội xuân và hội thu. Với đƣờng xá thuận tiện, núi non hùng vĩ, những rừng thông bạt ngàn, nhiều loại cây ăn trái, khoe muôn sắc mầu với thời gian và không gian cùng với nhiều huyền thoại để các nhà thơ, nhà văn, các nhà khoa học trong và ngoài nƣớc nghiên cứu, viết, khám phá và phỏng đoán những điều khó tin nhƣng vẫn đƣợc dân gian truyền lại. Chùa Côn Sơn xƣa nay là danh lam cổ tích của đất nƣớc, hiện còn nhiều dấu tích và cổ vật có giá trị. Một năm Côn Sơn có hai mùa hội. Hội mùa xuân bắt nguồn từ kỷ niệm ngày mất của Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang (22/1). Hội mùa thu bắt nguồn từ kỷ niệm ngày mất của Nguyễn Trãi (16/8). Hội mùa xuân có từ sau khi Huyền Quang qua đời (1334). Hội mùa thu hình thành từ năm 1962, thực sự trở thành hội lớn từ năm 1980, khi Nguyễn Trãi đƣợc tôn vinh là DANH NHÂN VĂN HOÁ thế giới SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran38
  39. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng Đến nay chƣa phát hiện tài liệu nói về quy mô hội thời Trần. Từ thời Lê đến trƣớc năm 1945, hội xuân không lớn nhƣng giữ vai trò quan trọng của Phật giáo Việt Nam, đƣợc ghi nhận trong Đại Nam nhất thống chí. Hội không chỉ của tín đồ Phật giáo, mà còn là dịp du xuân của thanh thiếu niên. Hội bắt đầu vào rằm tháng Giêng. Hội xuân, hay hội thu Côn Sơn ngày nay, không chỉ thuần tuý mang tinh chất tôn giáo và dân gian mà nó là ngày hội của mọi tầng lớp nhân dân, đủ các lứa tuổi. Hội thu Côn sơn trùng với hội Kiếp Bạc, nên lâu nay ngƣời ta thƣờng gọi bằng tên ghép hội Côn Sơn - Kiếp Bạc. Phần lớn khách đến hội Kiếp Bạc có sang Côn Sơn, ngƣợc lại, khách đến hội thu Côn sơn đều sang hội Kiếp Bạc. Hàng triệu du khách đã đến đền Kiếp Bạc và di tích Côn Sơn. Khu di tích lịch sử - văn hóa Đền Kiếp Bạc. Đền Kiếp Bạc thuộc địa phận xã Hƣng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dƣơng, là nơi thờ phụng Hƣng Đạo Đại Vƣơng Trần Quốc Tuấn, nay là Khu di tích lịch sử - văn hóa Kiếp Bạc. Kiếp Bạc là vùng bán sơn địa ở tả ngọn Sông Thƣơng. Kiếp Bạc là tên ghép của hai vùng Vạn Yên (làng Kiếp) và Dƣợc Sơn (làng Bạc). Nơi đây là một thung lũng trù phú, xung quanh có dãy núi rồng bao bọc tạo cho Kiếp Bạc một vẻ đẹp vừa kín đáo vừa thơ mộng. Từ Kiếp Bạc có sáu đƣờng sông và đƣờng bộ tiến lui đều thuận lợi: về Thăng Long ra biển, lên bắc, xuống miền đồng bằng. Sông Lục Đầu có thể tập kết đƣợc hàng chục vạn quân thủy bộ, hàng nghìn chiến thuyền. Từ đỉnh núi Nam Tào, Bắc Đẩu có thể quan sát một miền rộng lớn, núi sông làng mạc bao la, thuyền bè tấp lập. Vì thế Kiếp Bạc không chỉ là một cảnh quan hùng vĩ mà còn là một vị trí quân sự quan trọng, một vùng đất giàu có của đất nƣớc. Theo truyền thống, ngày lễ hội đền Kiếp Bạc là một ngày rất thiêng liêng vì từ bao đời nay nhân dân tôn thờ Hƣng Đạo Đại Vƣơng Trần Quốc Tuấn nhƣ ngƣời cha, và truyền nhau câu ngạn ngữ "Tháng tám giỗ cha" là để chỉ ngày giỗ của ông. SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran39
  40. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng Vào thế kỷ XIII, đây là nơi Hƣng Đạo Đại Vƣơng Trần Quốc Tuấn lập căn cứ, tích trữ lƣơng thực, huấn luyện quân sĩ trong các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Sau kháng chiến chống quân Nguyên Mông, ông sống những năm tháng thanh bình tại Kiếp Bạc và mất ngày 20 tháng 8 năm 1300. Do có nhiều cống hiến cho đất nƣớc, sau khi mất đền thờ ông đƣợc xây dựng tại Kiếp Bạc. Qua nhiều thế kỷ, các công trình kiến trúc ở Kiếp Bạc từ thời Trần và thời Lê đã bị hủy hoại. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khu đền đƣợc trùng tu, tôn tạo. Hàng năm ở đây thƣờng tổ chức lễ hội để dâng hƣơng tƣởng niệm vị anh hùng dân tộc, một thiên tài quân sự, nhà tƣ tƣởng - văn hóa lớn tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nƣớc Việt Nam thời đại văn minh Đại Việt và đƣợc dân gian tôn sùng là Đức Thánh Trần. Kiến trúc: Đền Kiếp Bạc đƣợc xây dựng từ năm Canh Tý (1300), là năm Hƣng Đạo Đại Vƣơng Trần Quốc Tuấn qua đời. Cổng đền uy nghi bề thế với bức đại tự trên tam quan “Dĩ thiên vô cực” (Sự nghiệp này còn mãi với trời đất), hàng chữ bên dƣới là “Trần Hƣng Đạo Vƣơng từ”. Ở 2 bên là 2 câu đối: "Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí, Lục Đầu vô thủy bất thu thanh" Dịch: "Vạn Kiếp núi lồng hình kiếm dựng, Lục Đầu vang dậy tiếng quân reo" Qua cổng tam quan là vào một sân rộng tục truyền là “Bãi Kiếm”, là nơi xét xử Phạm Nhan, tên tƣớng giặc có nhiều bùa phép gian ngoa. Hai bên sân là 2 dãy nhà dài, để khách thập phƣơng dừng chân sửa soạn mâm lễ vật. Sau đó, đi một cửa sẽ tới một khuôn viên nhỏ có hồ, có hoa và hòn non bộ, ở giữa đặt một bàn thờ nhỏ. Tiếp đến là 2 gian nhà đại bái lớn và hậu cung nằm liền nhau. SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran40
  41. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng Nhà đại bái phía trong ở giữa đặt bàn thờ lớn, 2 bên là 4 ngai thờ 4 ngƣời con trai của Trần Quốc Tuấn là Trần Quốc Hiếu (Hiện), Trần Quốc Nghiễn, Trần Quốc Tảng, Trần Quốc Uy (Uất). Bên trong hậu cung có 3 toà điện: tòa điện ngoài cùng thờ Phạm Ngũ Lão, tòa điện thứ hai thờ Hƣng Đạo Đại Vƣơng Trần Quốc Tuấn, tòa điện trong cùng thờ phu nhân Trần Quốc Tuấn là công chúa Thiên Thành và hai con gái đƣợc gọi là Nhị vị Vƣơng cô. Trong đền hiện còn 7 pho tƣợng bằng đồng: Tƣợng Trần Quốc Tuấn, phu nhân, 2 con gái, con rể là Phạm Ngũ Lão, Nam Tào, Bắc Đẩu và 4 bài vị thờ các con trai của ông cùng 2 gia tƣớng là Yết Kiêu và Dã Tƣợng. Toàn bộ khu đền dựa lƣng vào dãy núi Dƣợc Sơn. * Đánh Giá cụm di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc. Với một vị trí thuận lợi: cách thành phố Hải Dƣơng 30km, cách Hà Nội 70km trên trục đƣờng giao thông 18A (Bắc Ninh – Hạ Long) do vậy rất thuận tiện cho việc đi lại tham quan của du khách. Bên cạnh đó cụm di tích này có lịch sử hình thành và phát triển trên 700 năm với các giá trị còn đƣợc bảo tồn gần nhƣ nguyên vẹn. Nơi đây có phong cảnh đep quy mô lớn kết hợp nhiều tài nguyên có giá trị hấp dẫn, rất phù hợp với việc phát triển du lịch sinh thái nhân văn. Nội thất các hạng mục công trình đƣợc giữ gìn, tôn tạo, bảo vệ khá tốt. Nơi đây có giá trị kiến trúc độc đáo: những mảng kiến trúc theo mô tuýp thời Trần: mái ngói, hình rồng lƣợn việc tổ chức tôn tạo bảo vệ khai thác đƣợc tiến hành tốt đúng nguyên tắc. Gắn liền với các giá trị văn hóa đặc sắc (tôn vinh Trần Hƣng Đạo, Nguyễn Trãi, là chốn phật tổ, nơi diễn ra lễ hội lớn). Nhìn chung việc nghiên cứu, tuyên truyền quảng bá đƣợc tiến hành tốt. Di tích đã đƣợc xếp loại quốc gia. Theo số điểm đƣợc đánh giá nhận xét thì cụm di tích này đạt tổng số điểm là 95 điểm là di tích đƣợc xếp loại tốt. Qua những đặc điểm trên của cụm di tích ta thấy cả 2 di tích Côn Sơn và Kiếp Bạc xét về mặt giá trị là rất hấp dẫn. Bên cạnh đó Côn Sơn - Kiếp Bạc còn là điểm du lịch có quy mô lớn có thể đón tiếp đƣợc số lƣợng khách lớn. Hệ thống cơ SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran41
  42. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng sở vật chất kỹ thuật đƣợc đảm bảo tốt càng làm tăng sức hấp dẫn cho hai di tích này. Chùa Thanh Mai thuộc xã Hoàng Hoa Thám, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dƣơng. Chùa xây dựng trên sƣờn núi Phật Tích, nay gọi là núi Tam Bảo. Trƣớc chùa là núi Bái Vọng, nơi có phần mộ cụ Nguyễn Phi Khanh, thân phụ của anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi. Chùa xây dựng từ thế kỷ 13. Đây là một trong những trung tâm của Phật giáo Việt Nam, nơi trụ trì của Pháp Loa tôn giả - vị tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm. Trải qua năm tháng mƣa nắng, chiến tranh, chùa cổ đã sụp đổ. Các cổ vật bị mất và hƣ hại gần hết, chỉ còn lại Viên Thông Bảo Tháp xây dựng năm 1334 và 7 ngôi tháp mộ nhà sƣ, trong đó có tháp Phổ Quang xây dựng năm Chính Hoà 23 (1702), tháp Linh Quang xây dựng năm Chính Hoà 24 (1703). Hiện nay chùa đang đƣợc khôi phục từng phần trên nền móng của một số công trình lớn gồm: Tiền đƣờng 7 gian, tam bảo 5 gian, 2 dãy hành lang, nhà tổ, nhà tăng. Ngày mất của Pháp Loa trở thành hội chùa Thanh Mai. Hội bắt đầu từ mồng một đến mồng ba tháng ba (âm lịch). Lễ hội hàng năm đƣợc nhân dân tổ chức trọng thể với nhiều nghi lễ nhƣ giảng kinh, chay đàn, mộc dục Chùa Thanh Mai cùng với Côn Sơn, Yên Tử là những trung tâm của Thiền phái Trúc Lâm phát triển rực rỡ của dòng phật giáo thời Trần. Chùa hiện còn giữ đƣợc một hệ thống các công trình kiến trúc độc đáo nhƣ hệ thống tháp, bia ký có giá trị. Đền Sƣợt Đền Sƣợt còn có các tên gọi khác nhau nhƣ: Thanh Cƣơng linh từ, Quang Liệt miếu, ở phƣờng Thanh Bình, thành phố Hải Dƣơng, tỉnh Hải Dƣơng. Đền đã đƣợc xếp hạng di tích lịch sử văn hoá văn hoá cấp quốc gia năm 1992.Đền thờ Vũ Hựu đại vƣơng, một công thần thời vua Lê Thánh Tông (thế kỷ XV), có công giữ gìn, bảo vệ đất nƣớc. Ông mất ngày 16/ 11 năm Tân Tỵ 1521, đƣợc tôn là Thƣợng đẳng phúc thần, Minh quốc linh ứng, Hiển Hựu đại vƣơng và Thành hoàng làng. Tƣơng truyền đền đƣợc xây dựng SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran42
  43. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng ngay khi ông mất thế kỷ XVI, ngôi đền hiện nay là kết quả đợt trùng tu dƣới triều Tự Đức 34 (1881) và Khải Định 9 (1924). Đền Sƣợt có diện tích khoảng 1.000m2, bố cục kiểu chữ 工Công, gồm Bái đƣờng, Ống muống và Hậu cung. Bên ngoài là Nghi môn đắp đôi rồng chầu mặt nguyệt. Phía trƣớc cổng có 3 chữ Quang Liệt miếu, phía trong cổng là 4 chữ Thanh Cƣơng linh từ. Phía sau là một tắc môn nhằm tạo sự kín đáo cho ngôi đền. Sân đền lát gạch, rợp bóng cây xanh, góc sân có giếng tròn, xây gạch bát giác, tƣơng truyền Vũ Hựu sinh bên giếng này.Trong đền còn lƣu giữ nhiều hiện vật có giá trị cổ xƣa nhƣ: ngai thờ, bài vị, 2 câu đối khảm trai, 1 câu đối chữ triện, 1 bộ đòn bát cống cùng bát bửu, thanh đao, ngọc phả. Lễ hội đền Sƣợt mở từ ngày 10-20 tháng Ba âm lịch hàng năm. Trong hội có trò đánh bệt là đặc sắc hơn cả, nhằm diễn tả lại cảnh dân làng Thanh Cƣơng xƣa vây bắt hổ dữ. * Đánh giá tài nguyên du lịch nhân văn vật thể. Theo số liệu thống kê của bảo tàng Hải Dƣơng thì đã có 1098 di tích ở Hải Dƣơng đƣợc kiểm kê, đăng ký bảo vệ theo quy định của pháp lệnh trong đó có: 289 ngôi đình, 448 ngôi chùa, 76 ngôi đền, 72 miếu, 28 nghè, 50 nhà thờ họ, 98 nhà thờ công giáo, hàng trăm di tích lịch sử cách mạng kháng chiến, 14 di tích khảo cổ học và hàng chục di tích là danh lam thắng cảnh. Hải Dƣơng cũng là tỉnh có số di tích đƣợc xếp hạng quốc gia vào hạng nhiều trong cả nƣớc. Tính đến hết năm 2003 Hải Dƣơng có 126 di tích và cụm di tích đƣợc xếp hạng quốc gia. Mật độ di tích nói chung của Hải Dƣơng là 66,6 di tích/100km² mật độ di tích đƣợc xếp hạng quốc gia là 7,6 di tích/100km² (cả nƣớc: 2,2 di tích/100km²) là một trong những tỉnh có mật độ di tích dày đặc đã tạo điều kiện thuận lợi để Hải Dƣơng có thể khai thác phát triển du lịch văn hóa. Các di tích lịch sử văn hóa của Hải Dƣơng phân bố tƣơng đối không đồng đều trên địa bàn toàn tỉnh. SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran43
  44. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng Những huyện có rất nhiều di tích: Nam Sách (130 di tích trong đó có 11 di tích đã xếp hạng quốc gia), Cẩm Giàng (161 di tích, có 16 di tích xếp hạng quốc gia), Thanh Hà (111 di tích trong đó có 12 di tích đã xếp hạng quốc gia), Kim Môn (109 di tích trong đó có 13 di tích đã xếp hạng quốc gia), Bình Giang (125 di tích trong đó có 12 di tích đã xếp hạng quốc gia). Những huyện có nhiều di tích nhƣ Ninh Giang (86 di tích trong đó có 6 di tích đã xếp hạng quốc gia). Những huyện có số lƣợng di tích trung bình là: T.P Hải Dƣơng (63 di tích trong đó có 6 di tích đã xếp hạng quốc gia), Gia Lộc (70 di tích trong đó có 18 di tích đã xếp hạng quốc gia), Thanh Miện (79 di tích trong đó có 12 di tích đã xếp hạng quốc gia). Những huyện có số lƣợng di tích ít là: Chí Linh (59 di tích trong đó có 9 di tích đã xếp hạng quốc gia), Kim Thành (55 di tích trong đó có 7 di tích đã xếp hạng quốc gia), Tứ Kỳ (50 di tích trong đó có 5 di tích đã xếp hạng quốc gia). Ở các huyện của hải Dƣơng không có huyện nào có di sản văn hóa thế giới và huyện có di tích đặc biệt quan trọng chỉ có ở Chí Linh, còn lại các huyện khác chỉ có các di tích đƣợc xếp hạng. Di tích lịch sử văn hóa là tài sản văn hóa quý giá của mỗi địa phƣơng, mỗi một đất nƣớc và của cả nhân loại. Với truyền thống “Uống nƣớc nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam đồng thời phát huy những giá trị văn hóa cha ông để lại ngƣời Hải Dƣơng cũng ý thức trong việc bảo vệ, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa. Trải qua các cuộc chiến tranh và thiên nhiên tàn phá, phần lớn các di tích đều bị xuống cấp nghiêm trọng. Nhận rõ tầm quan trọng của sự nghiệp bảo tồn di tích, ngay từ năm 1957 tổ chuyên trách bảo tồn, bảo tàng đƣợc thành lập. Từ đó đến nay với sự cố gắng của ngành bảo tồn, bảo tàng hàng lọat những di tích đã đƣợc trùng tu, tôn tạo. Kết quả từ năm 1998 đến nay chỉ riêng những di tích đƣợc xếp hạng quốc gia là 126 di tích thì đã có 46 di tích đƣợc bộ văn hóa thông tin và 31 di tích đƣợc tỉnh cấp tiền tu bổ, phục hồi, chiếm 61,6% số di tích đƣợc xếp hạng trên toàn tỉnh. Nhiều di tích đã SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran44
  45. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng xuống cấp nghiêm trọng và đã đƣợc phục hồi nhƣ Chùa Thanh Mai, Đền Phƣợng Hoàng (huyện Chí Linh), Văn Miếu Mao Điền (Cẩm Giàng), Chùa Hào Xá (Thanh Hà) Bên cạnh nguồn kinh phí do nhà nƣớc cấp, hàng năm các tầng lớp nhân dân trong và ngoài tỉnh cũng đóng góp một khoản tiền lớn hàng chục tỷ đồng cho công tác tu bổ, phục hồi di tích. Nhiều di tích đƣợc tu bổ phục hồi phần lớn dựa vào kinh phí của nhân dân nhƣ Đền Chu Văn An (Chí Linh), Đền Tranh (Ninh Giang) Hải dƣơng là tỉnh đã đƣợc bộ văn hóa thông tin đánh giá cao về thành tích xã hội hóa trong công tác giữ gìn và phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa. Có thể nói, công tác bảo tồn, tôn tạo di tích ở Hải Dƣơng tiến hành khá tốt, góp phần vào việc bảo vệ tài nguyên du lịch. Nhiều di tích sau khi đƣợc tu bổ, tôn tạo đã bƣớc đầu phát huy tác dụng, mỗi năm đón hàng vạn lƣợt khách đến tham quan, chiêm bái nhƣ: Côn Sơn, Kiếp Bạc, An Phụ, Văn Miếu Mao Điền 1.3.2.Tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể. 1.3.2.1.Lễ hội. Lễ hội là một dạng tài nguyên có giá trị phục vụ du lịch rất lớn. Hiện nay ở Hải Dƣơng vẫn còn bảo lƣu đƣợc nhiều lễ hội truyền thống (556 lễ hội). Do đó đây là điều kiện thuận lợi để tỉnh phát triển du lịch lễ hội. Tuy nhiên hoạt động du lịch lễ hội ở đây cũng chƣa thực sự thu hút khách du lịch (trừ 2 lễ hội lớn là Côn Sơn - Kiếp Bạc). Trong khi đó ở Hải Dƣơng còn rất nhiều lễ hội đền Quát, lễ hội đền Cao, lễ hội Đình Vạn Niên ngành du lịch Hải Dƣơng cần phải nghiên cứu, giới thiệu tuyên truyền các lễ hội cho du khách, góp phần phát triển loại hình du lịch lễ hội trên địa bàn tỉnh. Một số lễ hội tiêu biểu Lễ hội Côn Sơn Côn Sơn không chỉ là một di tích và danh thắng thu hút nhiều du khách tới tham quan mà hằng năm ở Côn Sơn còn có mùa lễ hội cúng thu hút hàng vạn du khách từ mọi miền đất nƣớc trở về đây dự hội. SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran45
  46. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng Xuân thu nhị kỳ tại xã Côn Sơn, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dƣơng diễn ra hai lần lễ hội. Lần thứ nhất trong năm vào tháng giêng từ ngày 18 đến 22 tại chùa Côn Sơn diễn ra lễ hội tƣởng nhớ một trong ba vị Tổ của thiền phái Trúc Lâm là Thiền sƣ Huyền Quang. Tam vị Tổ của Thiền phái Trúc Lâm gồm: vua Trần Nhân Tông, Huyền Quang và Pháp Loa. Vào thế kỷ 13, sƣ Huyền Quang đến ở chùa Côn Sơn và lập Cửu Phẩm Liên Hoa. Ngày 23 tháng Giêng năm Giáp Tuất (1334). Huyền Quang viên tịch tại Côn Sơn. Từ đó đến nay đều đặn năm nào nhân dân dân trong vùng cũng tổ chức lễ hội tƣởng nhớ vị thiền sƣ này. Lễ hội thứ hai trong năm diễn ra từ ngày 9 đến 13 tháng 8 tƣởng nhớ công ơn của Nguyễn Trãi, một nhà quân sự, chính trị thiên tài, một nhà văn hoá lớn của dân tộc Việt Nam thế kỷ XV đƣợc UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới. Ông đã ở ẩn tại Côn sơn trong những năm cuối đời. Và hai lần trong năm, lễ hội tại Côn Sơn đều diễn ra trọng thể. Sau khi phần lễ kết thúc thì các trò vui của phần hội cũng bắt đầu với chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao: đấu vật, các trò chơi dân gian Hội Côn Sơn ngày nay không chỉ giữ đƣợc bản sắc lễ hội truyền thống mà còn phong phú hơn bởi các hoạt động nghệ thuật, thể thao đƣợc tổ chức với những tiết mục đặc sắc cho mọi lứa tuổi. Bên cạnh hội xuân là những hội chợ với nhiều loại hàng hóa, đặc sắc của cƣ dân địa phƣơng và khắp mọi miền đổ về đây để phục vụ du khách. Lễ hội Kiếp Bạc Đền Kiếp Bạc thuộc địa phận hai thôn Dƣợc Sơn và Vạn Kiếp, xã Hƣng Đạo, huyện Chí Linh tỉnh Hải Dƣơng là nơi thờ phụng Hƣng Đạo Đại Vƣơng Trần Quốc Tuấn - vị tƣớng có công lao to lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lƣợc ở thế kỷ XIII. Các lễ hội thờ Trần Hƣng Đạo còn có ở rất nhiều nơi trên đất nƣớc nhƣ hội đền Bảo Lộc (Nam Định), hội Đền Trần Hƣng Đạo (Thành phố Hồ Chí Minh), hội đền Yên Cƣ (Ninh Bình). SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran46
  47. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng Lễ hội kiếp Bạc diễn ra vào mùa thu, thời gian từ ngày 15 - 20 tháng 8 âm lịch và ngày chính hội là ngày 20/8 âm lịch. Lễ hội đƣợc tổ chức vào ngày giỗ Trần Hƣng Đạo hàng năm. Lễ hội Kiếp Bạc là một lễ hội văn hóa dân gian đƣợc hình thành từ lâu đời. Trong tín ngƣỡng nhân dân coi Trần Hƣng Đạo không chỉ là ngƣời có công chống giặc ngoại xâm, giải phóng dân tộc mà còn là một vị thánh có thể phù hộ cho mọi việc tâm, đức, đặc biệt là phù hộ, che chở cho phụ nữ, trẻ em, có tài trừ ma, chữa đƣợc nhiều loại bệnh nhất là bệnh “Hữu sinh vô dƣỡng”. Xuất phát từ tín ngƣỡng đó, ngƣời đến chảy hội Kiếp Bạc đều lấy việc lễ bái làm trọng nên hoạt động lễ hội xƣa nặng về cúng tế, phù chú, lên đồng, xin thẻ. Ý nghĩa tôn vinh tài năng và nhân cách ngƣời anh hùng nhƣ thế giảm sút và không đúng hƣớng nên ngày nay chỉ tƣởng niệm, dâng hƣơng và tế rƣớc. Trƣớc cách mạng tháng 8, nghi lễ đƣợc tiến hành theo quy chế “Quốc lễ” triều đình cử quan về đây dâng hƣơng và tế lễ. Nay do tỉnh đảm nhiệm. Mở đầu hội Đền Kiếp Bạc là dâng hƣơng và cử hành trịnh trọng. Sau lễ dâng hƣơng và tế lễ: chiêng, trống rền vang, tế xong, kiệu cờ tân lọng và mọi nghi trƣợng đã chờ sẵn ở sân đền. Ba hồi chiêng trống vừa dứt, đám rƣớc chuyển mình lộng lẫy nhƣ một rừng hoa. Chân dung trần Hƣng Đạo trên kiệu là trung tâm, đoàn múa rồng, múa lân lƣợn lên xuống vòng quanh. Qua tam quan, đám rƣớc rồng tới bờ sông. Ngƣời xem vẫn thấy đây nhƣ một cuộc hành quân cờ rong, trống mở, của đạo quân hùng mạnh Đại Việt dƣới sự chỉ huy của 1 trong 7 vị tƣớng thiên tài – Trần Hƣng Đạo. Kiệu Đức Thánh Trần đƣợc rƣớc lên thuyền rồng, cả đoàn lần lƣợt rời bến, tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng loa, tiếng tù và ầm vang trên khúc sông dài. Dân chúng 2 bên bờ hò reo. Cuộc rƣớc thủy binh đến khoảng cuối giờ mùi thì chấm dứt, đoàn thuyền cập bến, đám rƣớc lên bộ đƣa chân dung Ngài trở lại đền và dự lễ tạ, đồng thời kết thúc ngày hội lớn. Trong phần hội đặc sắc nhất là trò thủy chiến thu hút nhiều du khách. Để chuẩn bị cho trò thủy chiến trƣớc ngày hội các chiến thuyền, bè mảng đã SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran47
  48. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng đƣợc chuẩn bị sẵn. Trên thuyền có treo đèn, kết hoa, cắm cờ của 2 phe. Thƣờng mỗi bên có 3 bè thể hiện tiền quân, trung quân, hậu quân. Trên mỗi bè có một đội chèo tay và lính thủy chiến, giữa mỗi bè có một vị tƣớng bằng bù nhìn rơm, trang phục bằng các loại giấy màu lộng lẫy, vũ khí của hai bên thƣờng là dao, kiếm, gƣơm bằng gỗ, đội quân đƣợc ém 2 bên. Khi đã sẵn sàng, nghe pháo lệnh nổ cả 2 bên đều xông ra giáp chiến. Trên bờ tiếng hò reo cổ động, tiếng chiêng trống âm vang. Hai bên xông vào nhau đánh giáp lá cà. Mục tiêu là chém tƣơng, bên nào cũng phải bảo vệ tƣớng của mình, đẩy tƣớng của đối phƣơng xuống sông. Cuộc chiến diễn đến khi cả sáu tƣớng đều tan tác, các bè mảng trôi rời trên sông thì kết thúc. Khi đó cả 2 đội đều đánh trống thu quân. Trận đánh không phân biệt thắng bại thì cả 2 bên đều có thƣởng. Lễ hội Chùa Giám Chùa Giám thuộc xã Cẩm Sơn huyện Cẩm Giàng (Hải Dƣơng). Lễ hội này thƣờng đƣợc tổ chức từ 13 đến 15-2 hàng năm để tƣởng nhớ công đức của vị đại danh y Tuệ Tĩnh. Tƣơng truyền, chùa Giám có từ thời Lý, đến cuối thế kỷ XVII, chùa đƣợc tôn tạo với quy mô lớn theo kiểu nội công ngoại quốc. Các công trình bố cục theo một trục dọc, hƣớng tây, gồm: Tam quan, tiền đƣờng, tam bảo, nhà phẩm, nhà tổ, hai bên là hành lang. Phía bên trái là nghè Giám. Những công trình này đƣợc xây dựng công phu với tƣ duy nghệ thuật cao. Tuy bị chiến tranh tàn phá nhƣng những công trình chính vẫn còn đến nay nhƣ: Tiền đƣờng, tam bảo, nhà phẩm, nghè Giám, do vậy đƣợc nhà nƣớc xếp hạng di tích lịch sử quốc gia từ năm 1974. Chùa Giám, Đền Bia và Đền Xƣa là ba di tích quan hệ mật thiết đến cuộc đời và sự nghiệp của Đại danh y Tuệ Tĩnh. Lễ hội chùa Giám là một hình thức kỷ niệm Đại danh y. Lễ hội chùa Giám trƣớc cách mạng không lớn, chỉ có quy mô làng xã. Chỉ từ khi di tích đƣợc xếp hạng và vai trò của Tuệ Tĩnh đƣợc đề cao, hội mới lớn dần lên. Năm 2001, đƣợc tổ chức với quy mô quốc gia. Hội do Bộ Y tế, Hội Đông y Việt Nam và chính quyền địa phƣơng tổ chức. Tuy hội chỉ diễn ra trong 3 ngày SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran48
  49. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng nhƣng công tác chuẩn bị phải làm trƣớc hàng tháng. Ban tổ chức do UBND xã trực tiếp chỉ đạo. Ngày 13-2, rƣớc tƣợng Tuệ Tĩnh từ chùa về nghè, đặt tại gian giữa. Lễ rƣớc trịnh trọng theo nghi thức cổ truyền. Dân các nơi đến dự hội suốt 3 ngày có tới hàng vạn lƣợt ngƣời. Hàng quán chật kín hai bên đƣờng trục của xã. Trên sân hội trƣờng và sân chùa , các trò vui dân gian diễn ra suốt 3 ngày đêm. Ngày 14-2 là ngày trọng hội. Buổi sáng tiến hành lễ tế danh y tại nghè. Đội tế gồm 17 cụ có khả năng về tế lễ, có uy tín và ngoại hình tốt. Sau khi tế tất, bắt đầu đến hội rƣớc. Đoàn rƣớc thƣờng rất đông, gồm nhiều đội hình. Đi đầu là đội múa kỳ lân, làm nhiệm vụ cổ động và dẹp đƣờng. Thứ hai là đội hình thanh niên đồng phục, cầm vòng hoa, vừa đi vừa múa nhƣ trong hội thể thao. Thứ ba là đội rƣớc hồng kỳ. Thứ tƣ là đội trống. Thứ năm, đội rƣớc ảnh Bác Hồ. Thứ sáu là đội siêu đao, chấp kích, bát bửu. Thứ bẩy là kiệu thuốc nam. Thứ tám là đoàn tế nam. Thứ chín là đoàn tế nữ. Thứ mƣời là kiệu rƣớc tƣợng Tuệ Tĩnh đặt trên đòn bát cống, có lọng che hai bên. Thứ mƣời một là đoàn tăng ny, phật tử, trang phục theo nhà phật. Tiếp đó là đoàn các già làng và thập phƣơng. Cuối cùng là dân chúng. Tại nghè Giám ngày thƣờng cũng nhƣ ngày hội đều có phòng khám bệnh và cắt thuốc nam, thuốc bắc. Lễ hội chùa Giám là sự kết hợp hài hòa giữ yếu tố văn hóa truyền thống và hiện đại một cách hiệu quả. Nó đƣợc xem là một niềm tự hào của ngành Văn hoá và nhân dân địa phƣơng. SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran49
  50. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng *Đánh Giá: Lễ hội là một dạng tài nguyên có giá trị phục vụ du lịch rất lớn. Hiện nay trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng vẫn còn bảo lƣu đƣợc nhiều lễ hội truyền thống (556 lễ hội). Do đó đây là điều kiện thuận lợi để tỉnh phát triển loại hình du lịch lễ hội. Tuy nhiên hoạt động du lịch lễ hội ở đây cũng chƣa thực sự thu hút khách du lịch (trừ hai lễ hội lớn Côn Sơn – Kiếp Bạc). Trong khi đó ở Hải Dƣơng còn rất nhiều lễ hội đặc sắc hấp dẫn nhƣng lại chƣa đƣợc nhiều ngƣời biết đến nhƣ lễ hội đền Quát (Gia Lộc), lễ hội Chùa cao (Kính Chủ - Kim Môn), lễ hội đình Vạn Niên ngành du lịch Hải Dƣơng cần phải nghiên cứu, giới thiệu, tuyên truyền các lễ hội cho du khách, góp phần phát triển loại hình du lịch lễ hội trên địa bàn tỉnh. 1.3.2.2.Nghề và làng nghề thủ công truyền thống. Hải Dƣơng từ xa xƣa đã nổi tiếng với các làng nghề truyền thống gắn với các địa danh nhƣ Kim Môn có nghề chạm khắc đá, Ninh Giang với làng nghề làm bánh gai, Hải Dƣơng với làng nghề làm bánh đậu xanh, Đồng Giao với làng nghề chạm khắc gỗ, Chu Đậu, Cậy, Quao nổi tiếng với làng nghề gốm sứ các sản phẩm từ các làng nghề không chỉ đƣợc làm để phục vụ đời sống hàng ngày của nhân dân mà dƣới bàn tay tài hoa của ngƣời thợ Hải Dƣơng nó đã trở thành những sản phẩm mang tính nghệ thuật cao. Theo thống kê của Sở văn hóa Thông Tin và bảo tàng Hải Dƣơng, tỉnh Hải Dƣơng có 35 nghề và làng nghề cổ truyền đƣợc phân bố rộng khắp ở các huyện trong tỉnh. Các làng nghề truyền thống là những tiềm năng to lớn để khai thác phát triển du lịch, là nơi tạo ra các sản phẩm thủ công độc đáo, mang tính nghệ thuật cao, có sức thu hút lớn đối với khách du lịch đặc biệt là khách quốc tế. Tuy nhiên, ngày nay do có sự thay đổi của cơ chế thị trƣờng, một số nghề thủ công truyền thống đang đứng trƣớc nguy cơ bị mai một dần. Một số nghề hiện nay vẫn đang đƣợc duy trì thì hoạt động cầm chừng, không thƣờng xuyên, SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran50
  51. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng những ngƣời thợ tay nghề giỏi bị mai một đi, các tầng lớp kế cận không có hoặc tay nghề chƣa cao. Thêm vào đó là sự thay thế của các nghề hiện đại thu nhập cao lại thu hút nhiều công nhân hơn, giới trẻ không quan tâm tới các nghề truyền thống. Do đó cần phải có các biện pháp để giữ gìn, bảo tồn và phục hồi các làng nghề truyền thống để các làng nghề trở thành điểm du lịch hấp dẫn và cung cấp những sản phẩm du lịch độc đáo mang đặc trƣng của địa phƣơng. Một số làng nghề và nghề cổ truyền tiêu biểu. Làng nghề vàng bạc Châu Khê Làng vàng bạc Châu Khê thuộc xã Thúc Kháng, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dƣơng. Có thể khẳng định rằng, chính nghề vàng bạc đã đƣa làng quê này trở nên giàu có giữa vùng châu thổ sông Hồng, nơi tƣởng nhƣ trù phú, nhƣng thực tế luôn bị thiên tai, bão lụt, vỡ đê, mất mùa, đói kém đe doạ ngƣời nông dân. Châu Khê có nghề vàng bạc nổi tiếng, lại có nghề vàng mã cũng đƣợc bán rộng rãi ở nhiều nơi trƣớc đây. Dần dần, từ nghề đúc bạc, thợ Châu Khê đã tiến tới nghề làm đồ trang sức vàng bạc. Ngƣời ta sản xuất, buôn bán bạc, kể cả đổi bạc nén lấy bạc vụn làm nguyên liệu. Cho nên vào những năm đầu thế kỷ XX, phố này còn có tên tiếng Pháp: Rue des Changeus (phố đổi bạc). Ngày nay, khi qua phố Hàng Bạc ở Thủ đô Hà Nội, bạn cần biết mấy địa điểm: số nhà 58 - xƣa là Tràng Ðúc bạc nén; số nhà 50 (trƣớc là Ðình Thƣợng) và số 42 (là Ðình Hạ) - xƣa là Ty Quan (cơ quan đại diện của Triều đình) thu nhận bạc nén thành phẩm. Ngƣời Châu Khê làm việc ở đây khá đông, tới mức đóng thuế đinh 300 suất (vào cuối thế kỷ XIX). Ngoài hai ngôi đình họ còn mua thêm đền Nội Miếu của phƣờng thợ giầy Tam Lâm (phƣờng Hài Tƣợng). Ðó là những nơi hội họp và thờ thành hoàng của họ (gọi tên chữ là "Châu Khê vọng sở"). Bánh đậu xanh Hải Dƣơng Bánh đậu xanh Hải Dƣơng ra đời tại thị xã Hải Dƣơng vào khoảng đầu thế kỷ 20. Từ đấy nhãn hiệu rồng vàng đã có mặt ở hầu hết các tỉnh Bắc kỳ. SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran51
  52. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng Ngƣời Hải Dƣơng xa nhà nhìn thấy bánh đậu xanh nhƣ nhìn thấy quê hƣơng, lòng rạo rực nhớ quê. Những ngƣời luống tuổi hôm nay vẫn còn trong ký ức hình ảnh và hƣơng vị bánh đậu xanh Bảo Hiên và Cự Hƣơng ngày xƣa. Nguyên liệu để chế biến nên loại bánh đậu xanh thơm ngon béo bùi không phải khai thác từ đâu xa mà lấy ngay từ hoa mầu của đồng nội, hƣơng vị của vƣờn quê. Thành phần của bánh cũng đơn giản: Đậu xanh, đƣờng kết tinh, mỡ lợn và tinh dầu của hoa bƣởi. Những nguyên liệu này đều phải chọn lọc chế biến tinh khiết. Bốn nguyên liệu trên pha trộn với nhau theo một tỉ lệ hợp lý, vƣợt tỉ lệ đó bánh sẽ kém chất lƣợng. Giấy gói bánh, mầu sắc của nhãn phải nghiên cứu để bánh giữ đƣợc lâu và tôn vẻ đẹp của bánh: Bánh từ lâu đã đƣợc đóng theo quy ổn định: 10 khẩu mỏng xếp 5 hàng (8,5 x 3,2 x1,1cm) nặng 45 gam, gần đây đã có những cải tiến, nhƣng quy cách của khẩu không thay đổi. Ngày xuân ngồi bên tách trà nóng, thƣởng thức một khẩu bánh đậu xanh. Hƣơng vị ngọt ngào của bánh kết hợp cùng vị chát của trà mới thấy cuộc sống này bình dị biết bao. Chiếc bánh đậu xanh nhỏ bé, giản dị nhƣng đã mang tiếng thơm của tỉnh Đông đến muôn nơi và mang về cho quê hƣơng một nguồn thu không nhỏ. Hiện nay đã có một số nhà hàng doanh thu trên 10 tỷ đồng một năm. Bánh Gai Ninh Giang Cách thành phố Hải Dƣơng gần 30 km về hƣớng đông nam, giáp Hải Phòng và Thái Bình, Ninh Giang đƣợc ví là nơi có tiếng gà gáy ba tỉnh đều nghe rõ. Là một thị trấn duyên dáng, đƣợc con sông Luộc bao bọc, Ninh Giang đã ghìm sâu tên mình vào lòng ngƣời bằng đặc sản quê mình: Bánh Gai Ninh Giang. Theo sử sách ghi lại thì bánh gai có nguồn gốc từ Ninh Giang (Hải Dƣơng). Theo dòng sông Luộc bánh gai đã đƣợc lƣu truyền đến các địa phƣơng vùng ven sông theo đƣờng buôn bán trao đổi hàng hóa. Có thể nói cho đến ngày nay bánh gai đƣợc sản xuất ở rất nhiều nơi nhƣ: thái Bình, Nam SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran52
  53. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐH Dân lập Hải Phòng Định, Ninh Bình nhƣng không có một nơi nào có thể có đƣợc hƣơng vị đặc sắc, chính gốc nhƣ ở Ninh Giang Hải Dƣơng. Khó có thể xác định đƣợc nghề làm bánh có từ bao giờ. Cả huyện Ninh Giang có 15 xã thì duy nhất chỉ có thị trấn Ninh Giang là làm Bánh gai. Vòng quanh thị trấn, đâu đâu cũng thấy những chồng Bánh gai, nhƣ mời chào, niú kéo khách qua đƣờng. Đúng nhƣ tên của nó, cái làm lên hƣơng vị của Bánh gai là lá gai. Lá gai trông giống nhƣ lá dâu, có răng cƣa, thƣờng đƣợc trồng ở vùng cao. Làm Bánh gai là cả một nghệ thuật. Từ cách chọn hạt gạo, hạt đỗ cũng phải sành. Gạo phải là gạo nếp cái hoa vàng, xẩy sạch, ngâm nứơc lạnh đến khi hạt gạo mềm, cấu đƣợc thì vớt ra, đãi sạch cho vào cối xay. Đây là loại bột khó tính. Không thể dùng máy nghiền khô mà phải là cối xay bột bằng nứơc. Bột phải sánh, chảy đều khắp cối, có những bong bóng li ti chạy dài theo dòng chảy xuống khăn lót. Sau đó bột phải đƣợc ép khô. Vỏ bọc Bánh gai là tổng hợp của bột gạo, lá gai và đƣờng. Việc pha nhân cũng phải có "ngón". Đỗ xanh giã nhỏ, mịn . Cho đƣờng kính trắng, dừa, lạc rang, mứt bí, mứt sen, dầu chuối trộn đều lên. Nhân cũng không đƣợc nhão sẽ khó nắn và khi ăn bánh sẽ sậm màu không đẹp. Giữa miếng nhân là miếng mỡ lợn ƣớp đƣờng trong suốt, thảng màu xanh, cầm cứng và khi cắn thì giòn giòn. Vê tròn lại, phủ lớp vỏ gạo và lăn chút vừng bên ngoài. Lá gói bánh phải là lá chuối khô, loại lá khô tự nhiên. Bánh gai không luộc mà hấp nhƣ thổi xôi. Tết mà có chục bánh gai đặt cạnh mâm ngũ quả, cạnh chiếc bánh Chƣng trông thật sung túc và ấm áp. Về Ninh Giang, mấy ai quên đƣợc hƣơng vị của bánh. Những cái tên mộc mạc: Bánh gai bà Tới, Lan Trạm. Liên Hƣơng chỉ cần nghe nhắc tới đã thấy đâu đây mùi bánh gai thoang thoảng. Bánh gai Ninh Giang vẫn chƣa có thƣơng hiệu riêng vì ngƣời làm bánh không bon chen theo cơ chể thị trƣờng, làm bánh chỉ cốt một điều: Giữ đƣợc hƣơng vị truyền thống quê mình. SV : Đỗ Thị Lương – VH1001 Ttran53