Khóa luận Nghiên cứu những điều kiện phát triển du lịch huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định

pdf 112 trang hapham 3180
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Nghiên cứu những điều kiện phát triển du lịch huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_nghien_cuu_nhung_dieu_kien_phat_trien_du_lich_huye.pdf

Nội dung text: Khóa luận Nghiên cứu những điều kiện phát triển du lịch huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG ISO 9001-2008 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH: VĂN HÓA DU LỊCH Sinh viên : Doãn Thị Hương Người hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Thị Hải HẢI PHÒNG – 2011
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG TÊN ĐỀ TÀI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH: VĂN HÓA DU LỊCH Sinh viên : Doãn Thị Hương Người hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Thị Hải HẢI PHÒNG – 2011
  3. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP Sinh viên: Doãn Thị Hương Mã số: 111270 Lớp: VH1102 Ngành: Văn hóa du lịch Tên đề tài: Nghiên cứu những điều kiện phát triển du lịch huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định
  4. NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI 1. Nội dung và các yêu cầu cần giải quyết trong nhiệm vụ đề tài tốt nghiệp (về lý luận, thực tiễn, các số liệu ). - Về lý luận : cần tổng quan cơ sở lý luận về các điều kiện phát triển du lịch của một địa phương, làm cơ sở cho việc nghiên cứu khóa luận. - Về thực tiễn: + Cần khảo sát, nghiên cứu các điều kiện cần thiết cho việc phát triển khả năng cung ứng du lịch của huyện Giao Thủy; + Làm rõ thực trạng phát triển du lịch của địa phương; những mặt mạnh và những tồn tại cần khắc phục; + Đề xuất những định hướng và giải pháp cho việc phát triển du lịch của khu vực nghiên cứu. 2. Các tài liệu, số liệu cần thiết: . - Những tài liệu cần thu thập: các số liệu, báo cáo, hình ảnh về tiềm năng và thực trạng hoạt động du lịch của khu vực nghiên cứu. 3. Địa điểm thực tập tốt nghiệp: Phòng Văn hóa và thông tin huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định.
  5. CÁN BỘ HƢỚNG DẪN ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP Ngƣời hƣớng dẫn thứ nhất: Họ và tên: Nguyễn Thị Hải Học hàm, học vị: PGS.TS Cơ quan công tác : Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội Nội dung hướng dẫn: - Lựa chọn đề tài - Làm đề cương - Tổng quan cơ sở lý luận - Khảo sát thực tế, thu thập tài liệu - Xử lý số liệu - Viết khóa luận Đề tài tốt nghiệp được giao ngày 04 tháng 04 năm 2011 Yêu cầu phải hoàn thành xong trước ngày 30 tháng 06 năm 2011 Đã nhận nhiệm vụ ĐTTN Đã giao nhiệm vụ ĐTTN Sinh viên Người hướng dẫn Doãn Thị Hương PGS.TS Nguyễn Thị Hải Hải Phòng, ngày 26 tháng 06 năm 2011 HIỆU TRƢỞNG GS.TS.NGƢT Trần Hữu Nghị
  6. PHẦN NHẬN XÉT TÓM TẮT CỦA CÁN BỘ HƢỚNG DẪN 1. Tinh thần thái độ của sinh viên trong quá trình làm đề tài tốt nghiệp: - Sinh viên đã làm việc thực sự nghiêm túc, theo đúng lịch trình của Trường đề ra và đã hoàn thành khóa luận đúng thời hạn. - Sinh viên đã rất nỗ lực trong việc tiến hành khảo sát thực địa để thu thập được những tài liệu cần thiết cho việc thực hiện đề tài, mặc dù địa bàn nghiên cứu ở cách xa Trường. - Có ý thức trách nhiệm, tự giác, chủ động, ham học hỏi trong suốt quá trình thực hiện đề tài. 2. Đánh giá chất lƣợng của đề tài (so với nội dung yêu cầu đã đề ra trong nhiệm vụ Đ.T. T.N trên các mặt lý luận, thực tiễn, tính toán số liệu ): Đề tài đã hoàn thành mục tiêu và nhiệm vụ đề ra với những đóng góp cơ bản sau: - Tổng quan có chọn lọc cơ sở lý luận về các điều kiện phát triển du lịch của một địa phương. - Trình bày một cách có hệ thống các diều kiện phát triển cung du lịch của huyện Giao Thủy. - Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động du lịch ở huyện Giao Thủy. - Đề xuất định hướng và các giải pháp phát triển du lịch của huyện. - Số liệu cập nhật và đáng tin cậy. 3. Cho điểm của cán bộ hƣớng dẫn: 9,5/10 (chín điểm rƣỡi) Hải Phòng, ngày 26 tháng 06 năm 2011 Cán bộ hƣớng dẫn PSS.TS Nguyễn Thị Hải
  7. LỜI CẢM ƠN! Qua quá trình học tập và nghiên cứu, tích lũy kiến thức về chuyên ngành du lịch, em đã hoàn thành khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Nghiên cứu những điều kiện phát triển du lịch huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định”. Và để hoàn thành được bài khóa luận này em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Trường Đại học Dân lập Hải Phòng, cùng toàn thể các thầy cô khoa Văn hóa du lịch đã tận tình truyền đạt kiến thức cho em trong suốt quá trình học tập tại trường, đó chính là hành trang giúp em vững bước và tự tin hơn trên con đường lập nghiệp sau này. Trong quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp, ngoài sự nỗ lực của bản thân, em được sự chỉ bảo nhiệt tình của các thầy cô giáo. Đến nay, đề tài khóa luận tốt nghiệp của em đã hoàn thành, với sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Thị Hải đã tận tình giúp đỡ chỉ bảo và hướng dẫn cho em trong suốt quá trình làm đề tài khóa luận. Cảm ơn các bác, các anh chị Phòng văn hóa và thông tin huyện Giao Thủy, Ban quản lý Vườn quốc gia huyện Xuân Thủy, khu du lịch biển Quất Lâm đã tạo điều kiện cung cấp cho em các thông tin, số liệu hữu ích để em hoàn thành bài khóa luận này. Qua đây, em cũng muốn gửi lời cảm ơn tới gia đình, người thân và bạn bè – những người đã luôn sánh bước bên em, giúp đỡ em cả về vật chất và tinh thần, tạo điều kiện tốt nhất cho em hoàn thành bài khóa luận. Mặc dù em đã cố gắng hết sức để hoàn thành tốt khóa luận tốt nghiệp, tuy nhiên bài luận văn vẫn còn nhiều sai sót, em rất mong sẽ nhận được sự góp ý, chỉ bảo quý báu của các thầy cô giáo để đề tài khóa luận của em được hoàn chỉnh xuất sắc. Cuối cùng em xin kính chúc tất cả các thầy cô giáo, cùng toàn thể các bác, các cô, các anh chị đang hoạt động trong lĩnh vực du lịch tại huyện Giao Thủy lời chúc sức khỏe và thành công. Em xin chân thành cảm ơn! Hải Phòng, ngày 26 tháng 6 năm 2011 Sinh viên Doãn Thị Hƣơng
  8. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 12 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH VÀ CÁC ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN DU LỊCH 16 1.1. Du lịch 16 1.1.1. Khái niệm về du lịch 16 1.1.2. Vai trò của ngành du lịch đối với sự phát triển kinh tế - xã hội 18 1.2. Các điều kiện ảnh hƣởng đến phát triển du lịch 20 1.2.1. Các điều kiện chung 21 1.2.1.1. Điều kiện an ninh chính trị và an toàn xã hội 21 1.2.1.2. Điều kiện kinh tế 21 1.2.1.3. Chính sách phát triển du lịch 22 1.2.2. Các điều kiện phát triển cầu du lịch 23 1.2.2.1. Thời gian rỗi 23 1.2.2.2. Khả năng tài chính của du khách tiềm năng 23 1.2.2.3. Dân cư và nhận thức của dân cư 24 1.2.2.4. Quá trình đô thị hóa và sức ép môi trường sống 25 1.2.3. Các điều kiện phát triển cung du lịch 25 1.2.3.1. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch thiên nhiên 25 1.2.3.2. Điều kiện kinh tế xã hội và tài nguyên du lịch nhân văn 28 1.2.3.3. Một số tình hình và sự kiện đặc biệt 33 1.2.4. Một số các điều kiện khác ảnh hưởng đến phát triển du lịch 35 1.2.4.1. Tổ chức quản lý nhà nước về du lịch và nguồn lao động du lịch 35 1.2.4.2. Điều kiện về mở rộng quan hệ quốc tế hòa bình và hữu nghị 35 1.2.4.3. Các hoạt động xúc tiến quảng bá phát triển du lịch 36 1.2.4.4. Sản phẩm du lịch 37 1.2.4.5. Giá cả hàng hóa 38 CHƢƠNG 2: TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở HUYỆN GIAO THỦY TỈNH NAM ĐỊNH 40 2.1. Giới thiệu khái quát huyện Giao Thủy 40 2.2. Các điều kiện phát triển cung du lịch ở huyện Giao Thủy 41
  9. 2.2.1. Các điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch tự nhiên 41 2.2.1.1. Điều kiện tự nhiên 41 2.2.1.2. Tài nguyên du lịch tự nhiên 42 2.2.2. Các điều kiện kinh tế xã hội và tài nguyên du lịch nhân văn 50 2.2.2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội: 50 2.2.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn 52 2.2.3. Chủ trương chính sách phát triển du lịch 56 ợi thế và hạn chế ờng phát triển du lịch huyện Giao Thuỷ: 56 2.3.1. Các lợi thế: 56 2.3.2. Những hạn chế và khó khăn: 57 2.4. Thực trạng phát triển du lịch trên địa bàn huyện Giao Thủy 57 2.4.1. Khái quát thực trạng phát triển du lịch của huyện Giao Thủy 57 2.4.2. Sản phẩm du lịch 58 2.4.2.1. Loại hình du lịch sinh thái: 58 2.4.2.2. Loại hình du lịch biển kết hợp với nghỉ dưỡng: 49 2.4.3. Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch 59 2.4.4. Nguồn nhân lực của du lịch 63 2.4.5. Kết quả kinh doanh du lịch 2006-2010: 64 2.4.5.1. Khách du lịch 64 2.4.5.2. Doanh thu 65 2.5. Những tồn tại, hạn chế của du lịch Giao Thủy: 66 2.6. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế: 67 CHƢƠNG 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT TRIỂN DU LỊCH GIAO THỦY 70 3.1. Xu hƣớng phát triển ngành du lịch ở Việt Nam và thế giới 70 3.1.1. Xu hướng phát triển du lịch của thế giới 70 3.1.2. Xu hướng ở Việt Nam 70 3.1.3. Cơ hội phát triển ngành du lịch Giao Thủy 71 3.1.4. Sự cần thiết phát triển du lịch Giao Thủy 71 3.2. Định hƣớng phát triển du lịch 72
  10. 3.2.1. Định hướng chung 72 3.2.2. Một số định hướng phát triển du lịch Giao Thủy giai đoạn 2011- 2015, tầm nhìn 2020: 73 3.2.2.1. Phát triển huyện Giao Thủy thành vùng kinh tế tổng hợp bao gồm: 73 3.2.2.2. Định hướng về thị trường – sản phẩm 74 3.2.2.3. Quy hoạch và xây dựng 2 cụm du lịch: 78 3.2.2.4. Định hướng xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ: 79 3.2.3. Nhiệm vụ, kế hoạch phát triển du lịch Giao Thủy giai đoạn 2011-2015: 80 3.2.3.1. Tiếp tục đầu tư xây dựng hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng bãi tắm Quất Lâm: 71 3.2.3.2. Mở rộng khu du lịch sang địa phận xã Giao Phong: 72 72 3.2.3.4. Lập quy hoạch Trung tâm du lịch sinh thái biển Quất Lâm, Giao Phong: 73 3.2.3.5. Chỉ tiêu kế hoạch phát triển du lịch Giao Thuỷ giai đoạn 2011-2015: 73 3.3. Một số giải pháp chủ yếu phát triển du lịch huyện Giao Thủy: 84 3.3.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về du lịch:. 84 3.3.2. Giải pháp tăng cường công tác xúc tiến, quảng bá du lịch: 85 3.3.3. Giải pháp về quy hoạch: 86 3.3.4. Giải pháp về tổ chức quản lý: 86 3.3.5. Giải pháp về vốn: 87 3.3.6. Các giải pháp về cơ chế chính sách: 87 3.3.7. Giải pháp phát triền nguồn nhân lực: 88 3.3.8. Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về du lịch tại địa phương: 88 3.3.9. Giải pháp tăng cường liên kết kinh tế mở rộng không gian lưu thông: 89 3.3.10. Giải pháp khoa học công nghệ: 89 3.3.11. Giải pháp bảo vệ môi trường cảnh quan du lịch: 90 3.3.12. Giải pháp về kỹ thuật nghiệp vụ khác: 91 3.4. Kiến nghị, đề xuất: 91 3.4.1. Kiến nghị với Chính phủ, Tổng cục du lịch và các cơ quan TW: 91 3.4.2. Kiến nghị với UBND tỉnh Nam Định: 92 3.4.3. Kiến nghị với huyện Giao Thủy 93 3.4.4. Với các nhà đầu tư kinh doanh du lịch trên địa bàn huyện: 93
  11. KẾT LUẬN 96
  12. Danh mục bảng Bảng 1: Số cơ sở kinh doanh lưu trú trên địa bàn huyện Giao Thủy từ năm 2006 đến năm 2010. Bảng 2: Nguồn nhân lực của du lịch Giao Thủy (2006 – 2010). Bảng 3: Số khách đến du lịch trên địa bàn huyện Giao Thủy năm 2006 – 2010. Bảng 4: Doanh thu du lịch trên địa bàn. Bảng 5: Số lượng khách đến Giao Thủy thời kỳ 2011 – 2015. Bảng 6: Chỉ tiêu doanh thu du lịch 2011 – 2015. Bảng 7: Chỉ tiêu nguồn nhân lực trong ngành du lịch 2011 – 2015. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong tiến trình thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, hơn hai mươi năm qua, huyện Giao Thủy đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Kinh tế liên tục tăng trưởng, trong đó hoạt động của ngành du lịch tăng khá mạnh, hàng năm số lượng khách du lịch đến Giao Thủy khoảng 27.000 lượt người, tập trung chính ở khu du lịch nghỉ mát – tắm biển Quất Lâm. Có thể khẳng định du lịch Giao Thủy đang đứng trước vận hội phát triển hết sức tốt đẹp, đặc biệt thiên nhiên đã ưu ái ban tặng cho huyện một tài sản vô giá là Vườn Quốc gia Xuân Thủy. Tháng 01/1989 khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Thủy được UNESSCO công nhận tham gia công ước Ramsar, đây là điểm Ramsar được công nhận đầu tiên của Đông Nam Á. Giao Thủy có cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn, với chiều dài bờ biển 32km, bãi biển đẹp còn giữ vẻ hoang sơ, nhiều làng quê có nghề truyền thống, trù phú mang đậm những nét đặc trưng của làng quê vùng đng bằng Bắc Bộ, không khí trong lành yên tĩnh, môi trường tự nhiên trong sạch. Những năm gần đây kinh tế du lịch tại Giao Thủy phát triển khá nhanh, du khách trong nước và nước ngoài đến với Giao Thủy ngày càng nhiều, doanh thu du lịch tăng nhanh góp phần làm cho kinh tế - xã hội huyện có những bước khởi sắc, đời sống nhận dân được cải thiện và nâng cao. Tuy nhiên trong quá trình phát triển, Giao Thủy cũng chịu ảnh hưởng và tác động chi phối của nền kinh tế thị trường, của bối cảnh thế giới. Song song với quá trình phát triển các loại hình kinh tế du lịch là những thách thức mới nảy sinh: Sự ô nhiễm môi trường đất, nước, không
  13. khí do rác thải, chất thải không được xử lý đúng quy trình, quy tắc, do hoạt động du lịch mới chỉ dừng ở việc khai thác các nguồn tài nguyên tự nhiên sẵn có làm cho tài nguyên rừng ngập mặn, tài nguyên biển bị suy giảm, các bãi triều lấn biển không theo trật tự, một số loài nhuyễn thể, hải sản, thảm thực vật và động vật quý hiếm có nguy cơ bị hủy hoại. Những thách thức đó ảnh hưởng trực tiếp đến yêu cầu phát triển du lịch bền vững của huyện. Hoạt động du lịch chưa mang tính chuyên nghiệp, quy hoạch tổng thể chưa được đầu tư đúng mức. Có thể thấy các hoạt động du lịch đang bộc lộ những yếu kém gây tác động xấu đến cảnh quan tự nhiên và môi trường xã hội. Trước những vấn đề nêu trên, việc nghiên cứu những tiềm năng để phát triển du lịch tại huyện Giao Thủy là một vấn đề hết sức cần thiết, cũng là cơ sở quan trọng cho việc hoạch định và thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội một cách bên vững. Với tiềm năng sẵn có của huyện Giao Thủy, việc định hướng chiến lược phát triển và chủ đầu tư để phát triển du lịch không chỉ mang lại những hiệu quả thiết thực cho nền kinh tế của huyện mà còn phù hợp với xu thế phát triển của thời đại – xu thế tiến ra biển, khai thác tiềm năng, lợi thế của biển để phát triển kinh tế - xã hội. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Mục tiêu nghiên cứu đề tài là làm rõ tiềm năng và hiện trạng phát triển du lịch của huyện nói chung cũng như từng điểm du lịch trên địa bàn huyện. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp phát triển du lịch của huyện. Nhiệm vụ nghiên cứu: Tổng quan một số cơ sở lý luận về du lịch, các điều kiện phát triển du lịch của một địa phương. Đánh giá tiềm năng và hiện trạng phát triển du lịch tại huyện Giao Thủy, xác định những vấn đề đạt ra đối với phát triên du lịch trên địa bàn huyện và nguyên nhân. Xác định định hướng và đề xuất một số giải pháp phát triển du lịch ở huyện Giao Thủy. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng Đối tượng nghiên cứu đề tài bao gồm tất cả các điều kiện liên quan đến sự
  14. phát triển du lịch: Những điều kiện chung ( điều kiện an ninh chính trị và an toàn xã hội; điều kiện kinh tế; chính sách phát triển du lịch) và các điều kiện tự thân làm nảy sinh nhu cầu du lịch ( thời gian rỗi; khả năng tài chính của du khách tiềm năng; trinh độ dân trí); khả năng cung ứng nhu cầu du lịch( điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch thiên nhiên; điều kiện kinh tế và tài nguyên du lịch nhân văn; tình hình và sự kiện đặc biệt; sự sẵn sàng đón tiếp) và sự hình thành điểm du lịch. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Thời gian nghiên cứu của đề tài trong giai đoạn từ 2005-2010 Phạm vi lãnh thổ nghiên cứu trên toàn địa bàn huyện Giao Thủy 4. Giới hạn nội dung nghiên cứu Bài khóa luận tập trung nghiên cứu và đánh giá các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, các vấn đề về tài nguyên du lịch, môi trường trong hoạt động kinh doanh du lịch và các lĩnh vực hoạt động kinh doanh du lịch diễn ra trên địa bàn huyện Giao Thủy và từ đó đưa ra các khuyến nghị, giải pháp phát triển du lịch, không gian sử dụng hợp lý cho phát triển các loại hình du lịch. 5. Cơ sở dữ liệu đƣợc sử dụng trong nghiên cứu - Các tài liệu về diều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội đã công bố ( số liệu khí hậu thủy văn, số liệu về kinh tế, xã hội, hiện trạng sử dụng đất ). - Bản đồ địa hình khu vực nghên cứu. - Các tài liệu nghiên cứu đã công bố có liên quan đến đề tài. - Các tài liệu, số liệu về hiện trạng phát triển du lịch của huyện do Phòng Văn hóa và thông tin huyện Giao Thủy cung cấp. - Tài liệu nghiên cứu khảo sát thực địa. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Để hoàn thành đề tài khóa luận, em đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: - Phương pháp phân tích tổng hợp: Đây là một phương pháp truyền thống trong nghiên cứu khoa học. Phương pháp này được sử dụng xuyên suốt trong quá trình giải quyết các nội dung nghiên cứu của đề tài. - Phương pháp thu thập số liệu: Là thu thập thông tin có liên quan đến đề tài nghiên cứu rồi xử lý các thông tin đó nhằm chọn lọc các thông tin tốt nhất. Các tư
  15. liệu có thể là các công trình nghiên cứu trước đó, các bài viết, các báo cáo kinh doanh, báo cáo tổng kết - Phương pháp thống kê: Đây là phương pháp không thể thiếu trong quá trình nghiên cứu về định lượng trong mối quan hệ chặt chẽ về mặt định tính của các hiện tượng và quá trình, đối chiếu với quá trình phát triển du lịch. Phương pháp toán thống kê được vận dụng nghiên cứu trong đề tài này để xác định hiện trạng hoạt động du lịch thông qua các chỉ tiêu phát triển ngành cơ bản. - Phương pháp sơ đồ, bản đồ: Đây là phương pháp cần thiết trong quá trình nghiên cứu có liên quan đến tổ chức lãnh thổ. Băn đồ được sử dụng chủ yếu theo hướng chuyên ngành để phân tích đánh giá tiềm năng pahts triển du lịch và điều kiện có liên quan. Ngoài mục đích minh họa về vị trí địa lý, phương pháp này còn giúp cho các nhận định, đánh giá trong quá trình nghiên cứu được thể hiện một cách tổng quát. - Phương pháp điều tra, khảo sát thực địa: Công tác thực địa có mục đích cơ bản là tìm hiểu thực tế thực trạng du lịch tại từng điểm du lịch trên địa bàn huyện để từ đó có thêm nhiều tư liệu để đề tài khóa luận chính xác thêm phong phú và linh động hơn. - Bên cạnh đó, em còn tìm hiểu các điều kiện phát triển du lịch thông qua các tài liệu tham khảo từ Internet, báo chí, và những cuốn sách có liên quan của các tác giả như: PGS TS Trần Đức Thanh, TS Bùi Thị Hải Yến, Phạm Trung Lương, 7. Kết cấu của khóa luận Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung khóa luận được kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về du lịch và các điều kiện phát triển du lịch. Chương 2: Đánh giá tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch ở huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định. Chương 3: Định hướng và những giải pháp cơ bản nhằm phát triển du lịch Giao Thủy.
  16. CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH VÀ CÁC ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN DU LỊCH 1.1. Du lịch 1.1.1. Khái niệm về du lịch Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến ngày nay, không chỉ ở nước ta, nhận thức về nội dung du lịch vẫn chưa thống nhất. Trước thực tế phát triển của ngành du lịch về mặt kinh tế cũng như trong lĩnh vực đào tạo, việc nghiên cứu, thảo luận để đi đến thống nhất một số khái niệm cơ bản trong đó có khái niệm du lịch. Trong ngôn ngữ của nhiều quốc gia, thuật ngữ “ Du lịch” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp với ý nghĩa đi một vòng. Thuật ngữ này được La Tinh hóa thành “ Tornus” và sau đó được mỗi quốc gia chuyển thành những ngữ khác nhau. Chẳng hạn như: tourisme ( tiếng Pháp), tourism ( tiếng Anh), mupuzy ( tiếng Nga), Ngày nay người ta thường bắt gặp tourist ( tiếng Anh). Theo Robert Lanquar từ “ tourist” lần đầu tiên xuất hiện trong tiếng Anh vào khoảng những năm 1800. Ở mỗi quốc gia đều có quan niệm lý thú về du lịch, không quan niệm nào giống quan niệm nào, mỗi quan niệm đều thể hiện một phần nào đó về du lịch. Trong tiếng Việt, thuật ngữ “ tourist” được dịch thông qua tiếng Hán có nghĩa như sau: du là đi chơi, lịch là từng trải. Còn người Trung Quốc gọi “ tourist” là du lãm, tức là để nâng cao nhận thức. Từ góc độ là người đầu tiên kinh doanh du lịch, Thomas Cook cho rằng du lịch giúp cho du khách thụ hưởng những hứng thú tình cảm xã hội cao nhất, là tổ chức mà người ta phải dành cho nó những trách nhiệm lớn nhất. Khái niệm du lịch có ý nghĩa đầu tiên là sự khởi hành và lưu trú tạm thời của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ. Trong số học giả đưa ra định nghĩa ngắn gọn nhất phải kể đến Ausher và Nguyễn Khắc Viện. Theo Ausher thì du lịch là nghệ thuật đi chơi của các cá nhân còn Nguyễn Khắc Viện thì quan niệm
  17. rằng du lịch là sự mở rộng không gian văn hóa của con người. Còn trong Du lịch và kinh doanh du lịch của Phó tiến sỹ Trần Nhạn thì cho rằng: Du lịch là quá trình hoạt động của con người rời khỏi quê hương đi đến một nơi khác với mục đích chủ yếu là được thẩm nhận những giá trị vật chất và tinh thần đặc sắc, độc đáo, khác lạ với quê hương, không nhằm sinh lời bằng đồng tiền. Trong định nghĩa này tác giả đã sáng tạo ra một từ khá mới lạ là “ thẩm nhận” để mong muốn lột tả được bản chất của vấn đề. Theo Luật Du lịch Việt Nam 2005: Du lịch: Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định. Chúng ta biết rằng, trong thực tế cuộc sống, do sự phát triển của xã hội và nhận thức, các từ ngữ thường có khá nhiều nghĩa, nhiều khi trái ngược nhau. Như vậy cố gắng giải thích đơn vị từ đa nghĩa bằng cách gộp các nội dung khác nhau vào một định nghĩa sẽ làm cho khái niệm trở nên khó hiểu và không rõ ràng. Dựa trên cách tiếp cận trên, nên tách thuật ngữ du lịch thành hai phần. Du lịch có thể được hiểu là: + Sự di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú nhằm mục đích phục hồi sức khỏe, nâng cao tại chỗ nhận thức về thới giới xung quanh, có hoặc không kèm theo việc tiêu thụ một số giá trị tự nhiên, kinh tế, văn hóa, dịch vụ do các cơ sở chuyên nghiệp cung ứng. + Một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu nảy sinh trong quá trình di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú với mục đích phục hồi sức khỏe, nâng cao nhận thức tại chỗ về thế giới xung quanh. Du lịch là một hiện tượng xã hội, nó góp phần nâng cao dân trí, phục hồi sức khỏe cộng đồng, giáo dục lòng yêu nước, tình đoàn kết, mở rộng giao lưu văn hóa giữa các vùng miền, giữa các quốc gia Chính vì vậy toàn xã hội phải có trách nhiệm đóng góp, hỗ trợ, đầu tư để cho du lịch phát triển.
  18. 1.1.2. Vai trò của ngành du lịch đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Ngành du lịch có tác động tích cực đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, làm thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, vùng. Ngành du lịch có tác động tích cực đến nền kinh tế của quốc gia và địa phương thông qua việc tiêu dùng của khách du lịch. Đây là ngành thu được nhiều ngoại tệ và phát triển nhanh chóng. Trong quá trình hoạt động du lịch đòi hỏi phải có số lượng vật tư hàng hóa để phục vụ du khách và như vậy lưu thông hàng hóa sẽ diễn ra mạnh mẽ. Thông qua lĩnh vực lưu thông ấy kéo theo sự phát triển của nhiều ngành như giao thông, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp gỗ, công nghiệp dệt, ngành trồn trọt, ngành chăn nuôi Du lịch luôn đòi hỏi hàng hóa có chất lượng cao, phong phú về chủng loại, mỹ thuật và hình thức. Do vậy du lịch góp phần định hướng cho sự phát triển của ngành ấy trên các mặt: số lượng, chất lượng, chủng loại sản phẩm và việc chuyên môn hóa của các xí nghiệp sản xuất. Du lịch phát triển còn thúc đẩy sự phát triển của ngành giao thông vân tải, bưu điện, ngân hàng, xây dựng thông qua việc khách du lịch sử dụng dịch vụ của các ngành này như dịch vụ vận chuyển, dịch vụ bưu điện, dịch vụ đổi tiền Ngoài ra việc du khách chi tiêu ở vùng du lịch làm tăng nguồn thu của vùng du lịch, đất nước du lịch. Sự sẵn sàng đón tiếp khách du lịch ở một vùng không chỉ thể hiện ở chỗ nơi đó có tài nguyên du lịch mà bên cạnh đó cần phải có cả cơ sở vật chất kỹ thuật, hệ thống đường xá, nhà ga, sân bay, bưu điện, ngân hàng, mạng lưới thương nghiệp Qua đó cũng kích thích được sự phát triển tương ứng của các ngành có liên quan. Do vậy việc phát triển du lịch làm thay đổi bộ mặt kinh tế ở từng vùng và vì vậy nó góp phần làm thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, vùng. Hoạt động của ngành du lịch còn góp phần làm tăng thu nhập quốc dân. Thông qua việc sản xuất, chế biến đồ ăn, thức uống và bán các mặt hàng lưu niệm mà du lịch góp phần tạo ra thu nhập quốc dân, làm tăng thu nhập quốc dân. Hoạt động du lịch quốc tế là nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước làm sống động cán cân thanh toán quốc tế. Sự phát triển du lịch quốc tế còn có ý nghĩa quan trọng đến việc mở rộng và củng cố các mối quan hệ kinh tế quốc tế theo
  19. hướng: ký kết hợp đồng trao đổi khách giữa các nước, các tổ chức và các hãng du lịch; tham gia vào các tổ chức quốc tế về du lịch. Du lịch phát triển còn khuyến khích đầu tư. Do du lịch là ngành được tạo nên bởi rất nhiều các doanh nghiệp nhỏ và nhiều loại hình dịch vụ khác nhau nên sự đầu tư của nhà nước vào cơ sở hạ tầng (đường sá, công viên ) và kiến trúc thượng tầng ( nghệ thuật, lễ hội, văn hóa) nhằm tạo điều kiện cho du lịch phát triển và kích thích đầu tư của các tầng lớp nhân dân, các doanh nghiệp và cả đầu tư nước ngoài. Du lịch góp phần tạo việc làm giải quyết các vấn đề xã hội Sự phát triển du lịch sẽ tạo cơ hội, việc làm mới cho người lao động. Du lịch là ngành có hệ số sử dụng lao động cao vì du lịch là một ngành dịch vụ đặc biệt, nó sử dụng rất nhiều dịch vụ của các ngành khác nên phát triển du lịch cũng đồg nghĩa với việc phát triển các ngành dịch vụ khác. Ngoài ra du lịch phát triển còn đánh thức một số ngành sản xuất thủ công cổ truyền, đây là những làng nghề cần nhiều lao động thủ công và do đó có nhiều việc làm hơn cho người dân. Hơn nữa trong quá trình hoạt động, du lịch góp phần huy động nguồn vốn rộng rãi trong nhân dân vào vòng chung chuyển, tạo điều kiện tăng thu nhập cho nhân dân đại phương. Thông thường tài nguyên du lịch thiên nhiên có nhiều ở tài nguyên vùng núi xa xôi, vùng ven biển hay nhiều vùng hẻo lánh khác. Việc khai thác đưa những tài nguyên vào sử dụng đòi hỏi phải đầu tư không chỉ về kết cấu hạ tầng mà cả về lực lượng lao động, văn hóa, xã hội. Do vậy việc phát triển du lịch không những làm thay đổi bộ mặt kinh tế ở từng vùng mà còn góp phần làm giảm sự tập trung dân cư căng thẳng ở những trung tâm. Thông qua du lịch, ngân sách địa phương được nâng lêntừ việthực hiện nghĩa vụ và những đóng góp của các đơn vị, cá nhân kinh doanh du lịch, từ đó có điều kiện để đầu tư phát triển y tế, giáo dục và các lĩnh vực xã hội khác. Du lịch thúc đẩy giao lưu văn hóa: Thông qua du lịch, các dân tộc, các quốc gia trên thế giới giao lưu, hiểu biết lẫn nhau, phá vỡ ngăn cách về địa lý, văn hóa, dân tộc. nền văn hoá càng lâu đời, độc đáo càng thu hút và hấp dẫn du khách. Trong thời gian du lịch, khách thường sử dụng các dịch vụ, hàng hóa và thường xuyên tiếp xúc với nhân dân địa phương.
  20. Thông qua các cuộc giao tiếp đó, văn hóa của cả khách du lịch và của người bản xứ được trau dồi và nâng cao. Du lịch tạo khả năng cho con người hiểu biết lẫn nhau; mở mang hiểu biết về lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán, đạo đức, chế độ xã hội, kinh tế. Du lịch còn làm giàu và phong phú thêm khả năng thẩm mỹ của con người khi họ được tham quan các kho tàng mỹ thuật của một đất nước. Thông qua du lịch, con người được thay đổi môi trường, có ấn tượng và cảm xúc mới, thỏa mãn được trí tò mò đồng thời mở mang kiến thức đáp ứng lòng ham hiểu biết, tăng niềm tự hào của địa phương vào ý thức cộng đồng, có ý thức bảo vệ và tôn tạo các di tích văn hóa, lịch sử nhằm góp phần hình thành phương hướng đúng đắn trong ước mơ sáng tạo,trong kế hoạch cho tương lai của con người. Du lịch góp phần bảo vệ môi trường: Chức năng xã hội của du lịch là mang lại sự hòa đồng, vui chơi giải trí, phục hồi sức khỏe cho con người, bản thân ngành du lịch luôn chú ý tới việc giáo dục du khách, giáo dục cộng đồng dân cư ý thức bảo vệ môi trường, thấy rõ môi trường là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển cho thế hệ tương lai. Trong quá trình hoạt động du lịch, các bên tham gia đều hướng tới mục tiêu lợi ích của mình: du khách hướng tới mục tiêu được hưởng dịch vụ du lịch chất lượng, phù hợp để có một kỳ du lịch tốt nên phải thực hiện đúng nghĩa vụ của mình; người kinh doanh du lịch vì mục tiêu lợi nhuận và thu hút khách nên vừa phải chấp hành tốt các quy định của chính quyền địa phương vừa phải nỗ lực xây dựng uy tín kinh doanh. Chính quyền địa phương phải làm tốt hơn công tác quản lý nhà nước để có môi trường kinh doanh tốt, môi trường xã hội ổn định, an ninh trật tự được giữ vững. Đặc biệt cộng đồng dân cư được hưởng lợi khi tham gia hoạt động du lịch do đó ý thức trách nhiệm hơn trong việc bảo vệ cảnh quan di tích, danh thắng trên địa bàn. Khi cộng đồng dân cư ủng hộ, vào cuộc, kết hợp với các chủ thể khác trong hoạt động du lịch thì các vấn đề xã hội như cờ bạc, ma túy, rác thải, chất thải ô nhiễm môi trường sẽ được giải quyết hiệu quả. 1.2. Các điều kiện ảnh hƣởng đến phát triển du lịch Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch chính là các nhóm tài nguyên du lịch bởi vì tài nguyên du lịch là yếu tố cơ bản để tạo thành các sản phẩm du lịch, là mục đích chuyến đi của du khách và tạo những điều kiện thuận lợi để đáp ứng
  21. các nhu cầu của họ trong chuyến đi, và còn là cơ sở quan trọng để phát triển các loại hình du lịch. 1.2.1. Các điều kiện chung 1.2.1.1. Điều kiện an ninh chính trị và an toàn xã hội Đây là một yếu tố an toàn quan trọng cho hoạt động du lịch. Người kinh doanh du lịch yên tâm hơn khi bỏ vốn ra đầu tư, kinh doanh. Du khách không phải lo sợ vì những bất ổn chính trị, những bất ổn về an ninh trật tự có thể làm ảnh hưởng tới tính mạng và tài sản của mình. Trong môi trường chính trị ổn định, an toàn xã hội được giữ vững, cộng đồng dân cư vùng du lịch không bị gián đoạn hay ảnh hưởng tới sự hưởng lợi của mình từ việc tham gia hoạt động du lịch. Và như vậy du lịch chỉ có thể phát triển trong một môi trường chính trị ổn định, an ninh trật tự được giữ vững. An ninh chính trị phải đảm bảo hòa bình, ổn định để mở rộng cho các mối quan hệ kinh tế, chính trị văn hóa giữa các dân tộc. Du lịch chỉ được phát triển trong một bầu không khí hòa bình, trong tình hữu nghị giữa các dân tộc. Chúng ta có thể nhận thấy là các quốc gia thỏa mãn được yêu cầu trên như: Thụy Sỹ, Áo, đều là nơi hấp dẫn và thu hút được một lượng đông đảo du khách. Khi có tình hình chính trị ổn định và hòa bình thì sẽ cho du khách cảm giác an toàn và tính mạng được coi trọng. Du lịch đòi hỏi phải có an ninh đảm bảo không chỉ giúp du khách có cảm giác an toàn mà còn nhằm chống lại các hành động chống phá của một số người lợi dụng hoạt động du lịch để truyền bá những tư tưởng phản động vào đất nước. Một ví dụ cụ thể: năm 1993, tại Ba Bể, những kẻ chống phá đã lợi dụng việc đi du lịch để truyền bá tư tưởng phản động vào người dân địa phương bằng cách rải truyền đơn, băng đĩa tại những nơi chúng đi qua. 1.2.1.2. Điều kiện kinh tế Một trong những yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến sự phát sinh và phát triển du lịch là điều kiện kinh tế chung. Nền kinh tế chung phát triển là tiền đề cho sự ra đời và phát triển của ngành kinh tế du lịch. Điều này được giải thích bởi sự lệ thuộc của du lịch vào thành quả các ngành kinh tế khác. Theo ý kiến của các chuyên gia kinh tế thuộc Hội đồng kinh tế và Xã hội của Liên Hợp Quốc
  22. (ECOSOC), một đất nước có thể phát triển du lịch một cách vững chắc nếu nước đó tự sản xuất được phần lớn số của cải vật chất cần thiết cho du lịch. Khi phải nhập đại đa số trang thiết bị, hàng hóa để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và để đảm bảo phục vụ khách du lịch thì hầu hết lợi nhuận (ngoại tệ) do du lịch mang lại sẽ rơi vào tay tư bản nước ngoài. Nhưng nước có nền kinh tế phát triển, có điều kiện sản xuất ra nhiều của cải vật chất có chất lượng đạt các tiêu chuẩn quốc tế sẽ có điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch. Nền kinh tế của đất nước có ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành du lịch nước đó hay khả năng phát triển du lịch của một nước phụ thuộc vào nền kinh tế của nước đó. Một nước có du lịch phát triển nếu nước đó có thể tự sản xuất phần lớn của cải vật chất phục vụ du lịch. Chính những ngành công nghiệp, nông nghiệp, thực phẩm là những ngành cung cấp đầu vào cho ngành du lịch. Ví dụ: ngành công nghiệp cung cấp cơ sở vật chất kĩ thuật, trang thiết bị ( gạch, xi măng ). Nền kinh tế phát triển, đời sống dân cư được nâng cao có điều kiện đi du lịch. Khi nói đến nền kinh tế của đất nước không thể không nói đến giao thông vận tải. Đó là sự phát triển về mặt số lượng và về mặt chất lượng. Sự phát triển về số lượng của các phương tiện vận chuyển đã làm cho mạng lưới giao thông vươn tới được mọi nơi trên trái đất. Hiện nay trên thế giới có trên 500 triệu khách du lịch đi qua biên giới các nước bằng các phương tiện vận chuyển hành khách quốc tế. Chiều dài của mạng lưới giao thông vận tải chứng tỏ mức độ dễ dàng trong việc tiếp cận tới điểm du lịch. Số lượng phương tiện giao thông vận tải chứng tỏ khả năng vận chuyển du khách. Số lượng loại hình phương tiện vận chuyển gia tăng sẽ làm cho hoạt động du lịch trở nên tiện lợi và mềm dẻo, có khả năng đáp ứng tốt mọi nhu cầu của du khách. Về mặt chất lượng vận chuyển cần xét đến bốn khía canh là tốc độ, an toàn, tiện nghi và gía cả. Điều đó có ý nghĩa rất lớn trong sự phát triển của du lịch. 1.2.1.3. Chính sách phát triển du lịch Đường lối, chính sách phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia, một địa phương có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của du lịch. Thông qua chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chiến lược thương mại quốc tế hay chính sách đầu tư
  23. phát triển ngành, vùng, lĩnh vực, nhà nước có thể tác động bằng cách thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của ngành du lịch. Bên cạnh đó đường lối ngoại giao, phát triển kinh tế đối ngoại cũng ảnh hưởng tới sự phát triển ngành du lịch của mỗi quốc gia, bởi vậy năm 1967 được thế giới tuyên bố là “ năm du lịch quốc tế” dưới khẩu hiệu “ Du lịch là giấy thông hành của hòa bình”. Những điều kiện chung để phát triển du lịch nêu trên tác động một cách độc lập nên sự phát triển của du lịch. Các điều kiện ảnh hưởng đến du lịch tách rời nhau, do vậy nếu thiếu một trong những điều kiện ấy sự phát triển của du lịch có thể bị trì trệ, giảm sút hoặc hoàn toàn ngừng hẳn. Sự có mặt của tất cả những điều kiện ấy đảm bảo cho sự phát triển mạnh mẽ của ngành du lịch. 1.2.2. Các điều kiện phát triển cầu du lịch 1.2.2.1. Thời gian rỗi Thời gian rỗi: là thời gian của con người bao gồm: thời gian làm việc tại công sở và thời gian làm việc có liên quan, thời gian làm việc gia đình, thời gian thỏa mãn nhu cầu sinh lý tự nhiên. Ngoài ra còn có thể tham gia các hoạt động xã hội, văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao hay nghỉ ngơi một cách tích cực. Thời gian rỗi tác động mạnh đến cầu du lịch. Các yếu tố liên quan đến thời gian rỗi có tác động đến độ dài thời vụ du lịch là: độ dài, thời điểm và số lần có thời gian rỗi trong năm. Thời gian rỗi được xem xét trong phạm vi tuần, là yếu tố quan trọng cho các hoạt động du lịch. Thời gian nghỉ ngơi cuối tuần, thời gian nghỉ trong năm tăng thì sẽ là điều kiện để phát triển du lịch. Ví dụ: thời gian nghỉ hè, nghỉ cuối tuần. Dẫn đến lượng khách du lịch vào mùa hè, vào cuối tuần tương đối lớn. 1.2.2.2. Khả năng tài chính của du khách tiềm năng Điều kiện sống của nhân dân là nhân tố quan trọng để phát triển du lịch. Nó được hình thành nhờ tăng thu nhập thực tế, cải thiện điều kiện sinh hoạt, nâng cao khẩu phần ăn uống, phát triển đầy đủ mạng lưới y tế, văn hóa, giáo dục. Sự phát triển của nền sản xuất xã hội có tầm quan trọng hàng đầu làm xuất hiện nhu cầu du lịch và biến nhu cầu du lịch của con người thành hiện thực. Nền sản xuất xã hội phát triển tạo điều kiện ra đời của nhiều nhân tố khác nhau như: nhu cầu vui chơi giải trí, nghỉ ngơi, mức sống, thu nhập, thời gian rỗi, Nền kinh tế phát triển sẽ làm cho người dân có mức sống cao, do đó họ có
  24. khả năng thanh toán cho nhu cầu về du lịch trong nước cũng như ra nước ngoài. Có nhiều nước rất giàu tài nguyên du lịch nhưng vì nền kinh tế lạc hậu nên không thể phát triển du lịch và càng không thể gửi khách du lịch ra nước ngoài. Khi đi du lịch và lưu trú ngoài nơi ở thường xuyên, khách du lịch luôn là người tiêu dùng nhiều loại dịch vụ, hàng hóa. Để có thể đi du lịch và tiêu dùng du lịch, họ phải có phương tiện vật chất đầy đủ. Đó là điều kiện cần thiết để biến nhu cầu đi du lịch nói chung thành nhu cầu có khả năng thanh toán, vì khi đi du lịch khách phải trả thêm tiền tàu xe, phải trả thêm tiền nhà ở và xu hướng của con người khi đi du lịch là tiêu nhiều tiền. Do vậy, phúc lợi vật chất của nhân dân là điều kiện có ý nghĩa to lớn trong sự phát triển của du lịch. Thu nhập của nhân dân là chỉ tiêu quan trọng và là điều kiện vật chất để họ có thể tham gia đi du lịch. Con người khi muốn đi du lịch, không chỉ cần có thời gian mà còn phải có đủ tiền mới có thể thực hiện được mong muốn đó. Người ta đã xác lập được rằng mỗi khi thu nhập của nhân dân tăng thì sự tiêu dùng du lịch cũng tăng theo, đồng thời có sự thay đổi về cơ cấu của tiêu dùng du lịch. Phúc lợi vật chất của nhân dân luôn phụ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế, vào thu nhập quốc dân của đất nước. 1.2.2.3. Dân cư và nhận thức của dân cư Số dân, thành phần dân tộc, đặc điểm nhân khẩu, cấu trúc, sự phân bố và mật độ dân cư có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển du lịch. Sự phát triển của du lịch còn phụ thuộc vào trình độ văn hóa chung của nhân dân ở một đất nước. Nếu trình độ văn hóa của cộng đồng được nâng cao, nhu cầu đi du lịch của nhân dân ở đó tăng lên rõ rệt. Tại các nước phát triển, du lịch đã trở thành nhu cầu không thể thiếu được của con người. Nó được coi là tiêu chuẩn để đánh giá cuộc sống. Số người đi du lich nhiều, lòng ham hiểu biết và mong muốn làm quen với các nước xa gần cũng tăng, và trong nhân dân thói quen đi du lịch sẽ hình thành càng rõ. Mặt khác nếu trình độ văn hóa của nhân dân ở một đất nước cao, thì đất nước đó khi phát triển du lịch sẽ dễ đảm bảo phục vụ khách du lịch một cách văn minh và làm hài lòng khách đi du lịch đến đó. Trình độ dân trí thể hiện bằng các hành động, cách ứng sử cụ thể với môi trường xung quanh, bằng thái độ đối với du khách của người dân địa phương, bằng cách cư xử của du khách tại nơi du lịch Nếu du khách hoặc dân địa phương có những cách nhìn nhận có
  25. hiểu biết sẽ làm cho hoạt động du lịch tăng thêm giá trị, ngược lại chính những hành vi thiếu văn hóa của họ có thể là nhân tố cản trở sự phát triển của du lịch. 1.2.2.4. Quá trình đô thị hóa và sức ép môi trường sống Đô thị hóa tạo nên một lối sống mới: lối sống thành thị, đồng thời hình thành các thành phố lớn và các cụm thành phố. Điều đó đã cải thiện đời sống của người dân về phương diện vật chất và văn hóa, kéo con người vào cơn lốc của cuộc sống hiện đại, nâng cao trình độ nhận thức của họ và làm cho họ quen với thói quen và nhu cầu văn hóa (Leenin). Đô thị hóa làm biến đổi các điều kiện sống tự nhiên, tách con người ra khỏi môi trường xung quanh, thay đổi bầu không khí và các quá trình tự nhiên khác của tự nhiên ảnh hưởng đến sức khỏe của con người, từ đó túc đẩy người dân đi du lịch. Hàng loạt các yếu tố: mật độ dân cư dày đặc, thông tin phong phú, tần số tiếp xúc cao, giao thông như mắc cửi, tiếng ồn quá lớn, ô nhiễm môi trường trở thành nguyên nhân của bệnh căng thẳng thần kinh. Do vậy, con người phải đi du lịch để tiếp cận với thiên nhiên, giải tỏa căng thẳng, và nó trở thành nhu cầu không thể thay thế của người dân thành thị. 1.2.3. Các điều kiện phát triển cung du lịch 1.2.3.1. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch thiên nhiên Các yếu tố địa chất, địa hình, địa mạo, khí hậu, thủy văn, hệ sinh thái, cảnh quan thiên nhiên có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch. - Vị trí địa lý: Sự thuận lợi do vị trí địa lý mang lại như thông thương với các nước dễ dàng, có đường biển, đường bộ, đường không là trung tâm của những vùng kinh tế phát triển năng động trên thế giới. Vị trí địa lý cũng là yếu tố tạo ra sự khác biệt về địa hình và các yếu tố tự nhiên khác. - Địa hình: Các dấu hiệu bên ngoài của địa hình và các dạng đặc biệt của địa hình có sức hấp dẫn cho khai thác du lịch. Khách du lịch thường ưa thích những nơi có phong cảnh đẹp, đa dạng. Địa hình đồng bằng: có ảnh hưởng gián tiếp đến du lịch. Địa hình vùng đồi: có khả năng phát triển loại hình tham quan theo chuyên đề. Địa hình miền núi, địa hình bờ biển: có ý nghĩa nhất đối với du lịch, đặc biệt
  26. là các khu vực thuận lợi cho việc tổ chức thể thao mùa đông, các nhà an dưỡng, các trạm nghỉ, các khu vực thuận tiện cho chuyển tiếp lộ trình, các đỉnh núi cao có thể nhìn toàn cảnh và thích hợp với môn thể thao leo núi. Địa hình Karst: karst là kiểu địa hình được tạo thành do quá trình kiến tạo của Vỏ Trái đất (đứt gãy, tạo sơn, sụt lún) kết hợp với các quá trình ngoại lực chủ yếu là sự lưu thông của nước (cả nước mặt và nước ngầm) trong các loại đá dễ bị hòa tan (đá vôi, đôlôminic, đá phấn, thạch cao, muối mỏ, ). Dạng địa hình này được hình thành ở Việt Nam chủ yếu trong địa hình đá vôi. Địa hình karst gồm các dạng chủ yếu như: hang động karst, cánh đồng karst, phễu karst, sông hồ karst, karst ngập nước. Trong đó kiểu karst hấp dẫn du khách nhất là hang động karst và kiểu karst ngập nước (Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, Cát Bà ) Địa hình này tạo ra tài nguyên du lịch tổng hợp, có khả năng tổ chức các tour du lịch cả ngắn ngày và dài ngày. - Tài nguyên khí hậu: Điều kiện khí hậu có ảnh hưởng đến việc thực hiện các chuyến du lịch hoặc hoạt động dịch vụ du lịch. Tính mùa của du lịch chịu tác động chủ yếu của nhân tố khí hậu. Các vùng khác nhau có tính mùa vụ du lịch không như nhau do ảnh hưởng của các thành phần khí hậu. - Tài nguyên nước: Nước mặt: sông, hồ, suối, thác nước, các vùng ngập nước ngọt, các vùng nước ven biển. Bề mặt nước của sông, hồ, suối, thác nước, các vùng ngập nước ngọt, các vùng nước ven biển đã kết hợp với các tài nguyên khác như núi non, rừng cây tự nhiên, hệ sinh thái nhân văn tạo ra những phong cảnh nên thơ, hữu tình hấp dẫn du khách. Các điểm nước khoáng, suối nước nóng: là tài nguyên thiên nhiên quý để triển khai các loại hình du lịch nghỉ dưỡng, tắm khoáng, chữa bệnh, Đối với du lịch thì nguồn nước có ý nghĩa rất lớn. Tài nguyên nước không chỉ có tác dụng phục hồi trực tiếp mà còn ảnh hưởng đến nhiều thành phần khác của môi trường sống, đặc biệt nó làm dịu khí hậu ven bờ. Nước cần thiết cho đời sống: Dùng để uống, vệ sinh và các nhu cầu sinh hoạt hàng ngày khác của khách du lịch. Để đáp ứng cho những nhu cầu này, đòi hỏi phải có nguồn nước ngọt dồi dào.
  27. Trong tài nguyên nước phải nói đến tài nguyên nước khoáng. Đây là nguồn tài nguyên có giá trị du lịch an dưỡng và chữa bệnh. - Tài nguyên động thực vật: Du lịch và giải trí trở thành nhu cầu cấp thiết và sức hấp dẫn lớn đối với du khách, đó là các tour du lịch ở các đảo, khu bảo tồn thiên nhiên và đối tượng là các loài động thực vật phong phú, việc tham quan du lịch trong thế giới động thự vật sống động, hài hòa trong thiên nhiên làm cho con người tăng thêm lòng yêu cuộc sống. Như vậy, các nhân tố địa hình, khí hậu, nguồn nước, động thực vật luôn luôn có tác động lẫn nhau mặc dù với mức độ khác nhau và hiệu quả du lịch không như nhau. Nếu tác động của địa hình đối với các mục đích du lịch, nghỉ ngơi là tương đối thường xuyên thì các thành phần còn lại, nhất là khí hậu và nguồn nước lại dao động rât lớn theo mùa và theo ngày đêm. - Ngoài ra tài nguyên du lịch tự nhiên còn bao gồm: Vườn quốc gia: là nơi tập trung đa dạng sinh học cao, trong đó có nhiều loài động, thực vật đặc hữu, quý hiếm, nhiều VQG có khả năng hấp dẫn du khách cao, thuận lợi cho việc phát triển các loại hình du lịch sinh thái. Khu bảo tồn thiên nhiên: là một khu vực tự nhiên trên đất liền hoặc trên biển, được thành lập để bảo tồn bền vững các hệ sinh thái chưa hoặc bị biến đổi rất ít và có loài động – thực vậtđặc hữu hoặc đang bị đe dọa. Khu bảo tồn thiên nhiên cũng có thể gồm các đặc trưng độc đáo về tự nhiên hoặc văn hóa. Khu bảo tồn loài và nơi cư trú: là khu vực trên đất liền hay trên biển, được quản lý bằng các biện pháp tích cực nhằm duy trì các nơi cư trú và đảm bảo sự sống lâu dài của các loài động vật kể cả các loài sinh vật biển đang có nguy cơ bị tiêu diệt. Khu bảo tồn cảnh quan: là khu vực đất liền, đất ngập nước ven biển hoặc trên biển, có tác động qua lại giữa con người và thiên nhiên lâu đời nên đã tạo ra một khu vực có giá trị cao về thẩm mỹ, sinh thái, văn hóa và lịch sử đôi khi cũng có giá trị đa dạng sinh học cao. Việc duy trì tính toàn vẹn của các mối tác động qua lại truyền thống này là điểm cốt lõi của công tác bảo vệ, duy trì và phát triển khu bảo tồn thuộc hạng này. Một số hệ sinh thái đặc biệt: các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam có
  28. một số HST đặc biệt có sự đa dạng sinh học cao tiêu biểu cho thiên nhiên mỗi vùng, có khả năng hấp dẫn du khách, có ý nghĩa cho việc bảo vệ môi trường, bảo vệ sự đa dạng sinh học. Trong đó có các hệ sinh thái đã được khai thác phục vụ mục đích du lịch như: HST rừng ngập mặn, HST đát ngập nước, HST san hô, HST núi cao, Những HST này, do vị trí địa lý, địa hình nên các quá trình địa mạo như xói mòn, rửa trôi, xâm thực, triều dâng diễn ra rất mạnh mẽ. Vì vậy tính nhạy cảm của các thành phần tự nhiên rất cao, nếu việc bảo vệ, khai thác không tuân theo những quy định nghiêm ngặt thì khi một thành phần tự nhiên bị thay đổi theo hướng tiêu cực sẽ kéo theo sự phá hủy các thành phần tự nhiên khác mà khó có thể khắc phục được. Các điểm tham quan sinh vật: là những khu vực trên đất liền hoặc trên các đảo được đầu tư quy hoạch xây dựng để bảo tồn, nuôi dưỡng các loại động – thực vật quý hiếm, các HST nhằm mục đích bảo tồn sự đa dạng sinh học, nghiên cứu phổ biến khoa học, giáo dục cộng đồng, tìm hiểu cảm nhận môi trường sống. Di sản thiên nhiên thế giới: là các công trình thiên nhiên hợp thành bởi những thành tựu vật lý và sinh học hoặc những nhóm thành hệ có một giá trị toàn cầu, đặc biệt về mặt thẩm mỹ hoặc khoa học, các thành hệ địa chất và địa văn, các miền được phân định ranh giới rõ ràng, làm nơi sinh sống của các loài động vật và thực vật bị đe dọa, có một giá trị toàn cầu đặc biệt về mặt khoa học hoặc bảo tồn; các địa điểm tự nhiên hoặc các vùng tự nhiên được phân định ranh giới rõ ràng, có giá trị toàn cầu, đặc biệt về các mặt khoa học, bảo tồn hoặc vẻ đẹp thiên nhiên. 1.2.3.2. Điều kiện kinh tế xã hội và tài nguyên du lịch nhân văn Tài nguyên du lịch nhân văn là tài nguyên có nguồn gốc nhân tạo do con người sáng tạo ra. Tuy nhiên chỉ có những tài nguyên nhân văn có sức hấp dẫn với du khách và có thể khai thác phát triển du lịch để tạo ra hiệu quả xã hội, kinh tế, môi trường mới được gọi là tài nguyên du lịch nhân văn. Tài nguyên du lịch nhân văn bao gồm: truyền thống văn hóa, các yếu tốvăn hóa, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, các công trình lao động sáng tạo của con người và các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể khác có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch như các phong tục tập quán, lễ hội, các món ăn, thức uống dân tộc, các loại hình nghệ thuật, thói quen, lối sống,
  29. nếp sống của các tộc người mang bản sắc độc đáo còn lưu giữ được tới ngày nay. - Tài nguyên du lịch nhân văn vật thể bao gồm di sản văn hóa thế giới, các di tích lịch sử văn hóa, thắng cảnh đẹp cấp quốc gia và địa phương( các di tích khảo cổ, các di tích lịch sử, các di tích kiến trúc nghệ thuật, các danh lam thắng cảnh, các công trình đương đại). Theo UNESCO, di sản văn hóa là: Các di tích: các tác phẩm kiến trúc, tác phẩm điêu khắc và hội họa; các yếu tố hay các cấu trúc có tính chất khảo cổ học, ký tự, nhà ở, hang đá và các công trình có sự liên kết giữa nhiều đặc điểm, có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm lịch sử, nghệ thuật và khoa học. Các quần thể các công trình xây dựng: các quần thể, các công trình xây dựng tách biệt hay liên kết với nhau mà do kiến trúc của chúng, do tính đồng nhất, hoặc vị trí của chúng trong cảnh quan, có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm lịch sử, gnheej thuật và khoa học. Các di chỉ: các tác phẩm do con người tạo nên, hoặc các tác phẩm cso sự kết hợp giữa thiên nhiên – nhân tạo và các khu vực, trong đó có các di chỉ khảo cổ có giá trị nổ bật toàn cầu xét theo quan điểm lịch sử, thẩm mỹ, dân tộc học hoặc nhân chủng học. Các di sản văn hóa là sự kết tinh cao những giá trị sáng tạo văn hóa của mỗi quốc gia. Các quốc gia có các di sản văn hóa được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới thì không những sẽ là vinh dự lớn cho quốc gia đó mà còn tôn vinh giá trị lịch sử - văn hóa vô giá của những di sản văn hóa, tọa ra sức hấp dẫn cao cho du khách đặc biệt là khách du lịch quốc tế. Các di tích lịch sử văn hóa, thắng cảnh đẹp cấp quốc gia và địa phương: Di tích lịch sử văn hóa chứa đựng những truyền thống tốt đẹp, những tinh hoa, trí tuệ, tài năng, giá trị văn hóa, kiến trúc, mỹ thuaatjcuar mỗi đại phương, mỗi quốc gia. DTLSVH là tài nguyên nhân văn quý giá được hình thành, bảo tồn, tôn tạo của nhiều thế hệ ở các địa phương và các quốc gia. Vì vậy nhiều DTLSVH đã trở thành đối tươợng tham quan, nghiên cứu, thực hiện các nghi lễ tâm linh của nhiều du khách và là nguồn tài nguyên du lịch quý giá. Các danh lam thắng cảnh: Theo Luật DSVH của Việt Nam năm 2003: “ Danh
  30. lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm cso sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ và khoa học”. Các công trình đương đại: là các công trình kiến trúc được xây dựng trong thời kỳ hiện đại, có giá trị về kiến trúc, mỹ thuật, khoa học, kỹ thuật xây dựng, kinh tế thể thao hấp dẫn du khách có thể là đối tượng tham quan nghiên cứu, vui chơi giải trí, chụp ảnh kỷ niệm, đối với khách du lịch. - Tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể bao gồm: di sản văn hóa truyền miệng và phi vật thể của nhân loại; các lễ hội; nghề và làng nghề thủ công truyền thống; văn hóa nghệ thuật; văn hóa ẩm thực; thơ ca và văn học; văn hóa ứng xử và những phong tục tập quán tốt đẹp; tài nguyên du lịch gắn với văn hóa các tộc người; các hoạt động mang tính sự kiện. Di sản văn hóa truyền miệng và phi vật thể của nhân loại: Năm 1989 tại phiên hop Đại hội đồng UNESCO đã đưa ra hai chính sách: Một là: công nhận một danh hiệu cho một sản phẩm văn hóa phi vật thể danh hiệu ấy gọi là “ Kiệt tác DSVH truyền miệng và phi vật thể của nhân loại”. Hai là: DSVH phi vật thể và truyền miệng luôn luôn được gìn giữ trình diễn, bổ sung truyền lại cho lớp trẻ thông qua trí nhớ và tài năng của nghệ nhân. Trên thế giới, văn hóa của mỗi nước đang được gìn giữ bằng chính những con người này và UNESCO tặng cho họ danh hiệu “ Báu vật nhân văn sống”. Các lễ hội: là hình thức sinh hoạt văn hóa tập thể của nhân dân sau thời gian lao động vất vả. Lễ hội là dịp để mọi người thể hiện lòng nhớ ơn tổ tiên, những người có công với địa phương và với đất nước, có liên quan đến những nghi lễ tôn giáo, tín ngưỡng, ôn lại những giá trị văn hóa nghệ thuật truyền thống hoặc hướng về một sự kiện lịch sử - văn hóa, kinh tế trọng đại của địa phương, của đất nước hoặc là những hoạt động vui chơi giải trí, là dịp để tăng thêm tinh thần đoàn kết cộng đồng. Như vậy lễ hội là một loại hình sinh hoạt văn hóa truyền thống có sức lôi cuốn đông người tham gia và trở thành nhu cầu trong đời sống tinh thần của nhân dân và là TNDL hấp dẫn du khách. Nghề và làng nghề thủ công truyền thống: Nghề thủ công truyền thống là những nghề mà bí quyết về công nghệ sản xuất ra các sản phẩm mang những giá trị thẩm mỹ, tư tưởng triết học, tâm tư tình cảm,
  31. ước vọng của con người. Nghề thủ công truyền thống là nghề sản xuất mà các nghệ thuật (hay còn gọi là bí quyết nghề nghiệp) do những nghệ nhân dân gian sáng tạo, gìn giữ phát triển và truyền từ đời này sang đời khác cho những người cùng huyết thống hoặc ở cùng làng bản. Nghề thủ công truyền thống là nghề mà các công đoạn sản xuất tạo ra sản phẩm chủ yếu bằng các công cụ sản xuất thô sơ và bằng tài nghệ tinh xảo, khéo léo của các nghệ nhân. Các sản phẩm của các nghề thủ công cổ truyền không những mang những giá trị sử dụng mà còn có giá trị về mỹ thuật, giá trị triết học, tâm linh thể hiện tài nghệ, tâm tư ước vọng của người làm ra chúng. Làng nghề được quan niệm: “ Làng nghề nông thôn Việt Nam là làng nghề có trên 30% tổng số dân tham gia sản xuất các sản phẩm phi nông nghiệp, tổng doanh thu do hoạt động sản suất này chiếm trên 50% tổng doanh thu của cả làng” Văn hóa nghệ thuật: Những giá trị văn hóa nghệ thuật là những món ăn tinh thần của nhân dân, thể hiện giá trị thẩm mỹ, truyền thống và bản sắc văn hóa, tâm tư, tình cảm, ước vọng của con người. Các giá trị văn hóa nghệ thuật, đặc biệt là những Kiệt tác DSVH phi vật thể và truyền miệng thế giới, không những góp phần tạo ra sự đa dạng về sản phẩm du lịch, mà có sức hấp dẫn đặc biệt với du khách. Bởi vì, TNDL văn hóa nghệ thuật vừa mang lại cho du khách sự thư giãn, vui vẻ, nâng cao đời sống tinh thần, làm lãng quên bao lo toan, vất vả thường nhật; vừa mang lại sự nhận thức, cảm nhận cái đẹp, giúp cho du khách có thể tận dụng thời gian rảnh rỗi, nhất là vào ban đêm. Văn hóa ẩm thực: Ăn uống là nhu cầu thiết yếu không thể thiếu được đối với mỗi người. Nhưng khi nói tới văn hóa ẩm thực hay nói tới nghệ thuật ẩm thực thì không chỉ nói đến nhu cầu ăn no, ăn đủ mà nói tới cái đẹp, nghệ thuật chế biến món ăn, không gian, thời gian ăn uống, cách ăn uống của con người, quan niệm triết học và nhu cầu ăn uống được nâng lên thành nghệ thuật. Việt Nam cũng là quốc gia có nghệ thuật ẩm thực phong phú, đặc sắc, có nhiều món ăn, đó uống đặc sản hấp dẫn du khách. Thơ ca và văn học:
  32. Các tác phẩm thơ ca, văn học là quốc hồn, quốc túy của mỗi quốc gia. Thơ ca và văn học là nghệ thuật sử dụng ngôn từ phản ánh cái đẹp, tình yêu của con người với thiên nhiên; của con người với nhau, với quê hương đất nước và đời sống xã hội – sản xuất của con người. Những nơi có thiên nhiên hùng vĩ, đa dạng, trữ tình cùng với lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời nên nhân dân đã sáng tạo, bảo tồn được kho tàng thơ ca văn học dân gian phong phú đồ sộ, nhiều bài thơ, truyện kể dân gian ca ngợi các vùng đất, danh lam thắng cảnh cũng đã tạo sức hấp dẫn lớn đối với du khách. Văn hóa ứng xử và những phong tục tập quán tốt đẹp: Văn hóa ứng xử , phong tuc tập quán sinh sống, sản xuất khác lạ, tốt đẹp ở các địa phương, các quốc gia trở thành TNDL quý giá, vừa góp phần tạo nên môi trường xã hội, môi trường tự nhiên tốt đẹp, vừa tạo ra sự đa dạng độc đáo của sản phẩm du lịch hấp dẫn du khách. TNDL gắn với văn hóa các tộc người: gồm những điều kiện sinh sống, sản xuất, phương thức sản xuất, kiến truc, trang trí nhà ở, nghề thủ công truyền thống, văn hóa nghệ thuật, văn hóa ẩm thực, lễ hội, các phong tục, tập quán với những sắc thái riêng của các tộc người trên những địa bàn sinh sống của họ. Việt Nam là một quốc gia đa sắc tộc, có 54 dân tộc, trong đó có tới 53 tộc người thiểu số sống chủ yếu ở các vùng miền núi, cao nguyên, đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng Duyên hải Nam Trung Bộ. Nhiều tộc người vẫn giữ được những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc tạo ra sức hấp dẫn lớn đối với du khách. Hiện nay nhiều loại hình du lịch tham quan các bảo tàng, di tích, nghiên cứu văn hóa và sinh thái gắn với việc khai thác bảo tồn những giá trị văn hóa tộc người đã và đang được triển khai phát triển ở nước ta. Các hoạt động mang tính sự kiện: như liên hoan phim, ảnh, ca nhạc quốc tế, các giải thể thao lớn. Các địa phương, các quốc gia đứng ra đăng cai tổ chức các sự kiện lớn như liên hoan phim, ảnh, nghệ thuật, các giải thể thao lớn, các cuộc triển lãm,những thành tựu kinh tế khoa học kỹ thuật, các hội nghị, hội thảo lớn, các lễ hội điển hình cũng là những đối tượng hấp dẫn du khách là điều kiện tài nguyên Đối với nước ta tài nguyên du lịch nhân văn có các di chỉ đồ đá: Núi Đọ, Hòa Bình, Bắc Sơn, Hạ Long; di chỉ đồ đồng: Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Đông Sơn.
  33. Từ thời các Vua Hùng dựng nước đến nay đã sản sinh, lưu giữ và phát huy một hệ thống di tích lịch sử - văn hóa, phong tục tạp quán, lễ hội hết sức phong phú, đặc sắc: Khu Đền Hùng và Lễ hội Đền Hùng; Cổ Loa thành và huyền thoại Mỵ Châu – Trọng Thủy; Đền thờ Hai Bà Trưng; Cố đô Hoa Lư, Tài nguyên du lịch nhân văn của nước ta còn được phân theo vùng mang tính đặc sắc riêng: Văn hóa Thăng Long; Văn hóa Huế; Văn hóa Tây Nguyên; Văn hóa Khơ Me – Nam Bộ; Văn hóa Tây Bắc; 1.2.3.3. Một số tình hình và sự kiện đặc biệt Có một số tình hình và sự kiện đặc biệt có thể thu hút khách du lịch và là điều kiện đặc trưng để phát triển du lịch. Đó là các hội nghị, đại hội, các cuộc hội đàm dân tộc hoặc quốc tế, các cuộc thi Olympic, các cuộc kỷ niệm tín ngưỡng hoặc chính trị, các đại hội, liên hoan, Tất cả những hình thức đó đều ngắn ngủi, nhưng đóng vai trò có ích trong sự phát triển du lich. 1.2.3.4. Sự sẵn sàng đón tiếp du khách Sự sẵn sàng đón tiếp khách du lịch thể hiện ở 3 nhóm điều kiện chính: các điều kiện về tổ chức, về kỹ thuật và điều kiện về kinh tế. Các điều kiện ấy ảnh hưởng lớn đến việc tiếp đón và phục vụ khách du lịch. Mỗi nhóm điều kiện đều có đặc điểm riêng, mức độ phát triển riêng và điều đó quyết định khả năng phục vụ luồng khách du lịch. Các điều kiện về tổ chức để có thể sẵn sàng đón tiếp khách du lịch thể hiện ở sự có mặt của các tổ chức và xí nghiệp du lịch chuyên trách. Các tổ chức và xí nghiệp ấy chăm lo đến việc đảm bảo sự đi lại và đảm bảo phục vụ thời gian lưu trú của khách du lịch. Đó là các bộ, ủy ban, tổng cục, ban thanh tra, ban thư ký và các hình thức tổ chức khác nhằm chỉ đạo hoạt động du lịch ở các nước. Những cơ quan và tổ chức ấy là các cơ quan chính thức về du lịch do Nhà nươcs lập ra để lãnh đạo ngành trong sự chỉ đạo thống nhất của nền kinh tế quốc dân. Họ đại diện cho chính quyền địa phương hoặc trung ương đảm bảo cho sự sẵn sàng thực sự để phục vụ khách du lịch trong vùng hoặc trong cả nước. Hoạt động của các cơ quan đó nhằm soạn thảo và thực hiện các phương sách của chính sách kinh tế trong kĩnh vực du lịch (nâng cao nhận thức về du lịch cho dân tộc, xây dựng tình cảm hữu hảo đối với khách du lịch ngoại quốc, đẩy mạnh và nâng cao lòng yêu tổ quốc của nhân
  34. dân, ) chăm lo đến việc giữ gìn các giá trị thiên nhiên, văn hóa và lịch sử, lãnh đạo trực tiếp việc tổ chức và kinh doanh các xí nghiệp du lịch, tổ chức tuyên truyền và quảng cáo du lịch ở trong và ngoài nước, mở rộng và thúc đẩy các mối quan hệ du lịch quốc tế, tham gia vào các tổ chức quốc tế về du lịch, mở các viện nghiên cứu để dự đoán các vấn đề về du lịch, đào tạo cán bộ cho du lịch Các điều kiện về kỹ thuật ảnh hưởng đến sự sẵn sàng đón tiếp khách du lịch trước tiên là các vấn đề về trang thiết bị tiện nghi ở nơi du lịch, việc xây dựng và duy trì cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết, Đó là cơ sở vật chất kỹ thuật của tổ chức du lịch và cơ sở hạ tầng. Cơ sở vật chất kỹ thuật của tổ chức du lịch bao gồm toàn bộ nhà cửa và phương tiện kỹ thuật để thỏa mãn nhu cầu thường ngày của khách du lịch như: khách sạn, tiệm ăn, phương tiện giao thông, các khu nhà giải trí, cửa hàng, công viên, đường sá trong khu du lịch, hệ thống thoát nước, mạng lưới điện, Cơ sở vật chất kỹ thuật còn gồm tất cả những công trình mà tổ chức du lịch xây dựng bằng vốn đầu tư của mình. Tóm lại, cơ sở vật chất kỹ thuật bao gồm tất cả công cụ lao động mà tổ chức du lịch tạo ra để phục vụ hoạt động của mình. Cơ sở hạ tầng là những phương tiện vật chất không phải do tổ chức du lịch xây dựng nên mà là của toàn xã hội. Đó là hệ thống đường sá, nhà ga, sân bay, bến cảng, đường sắt, công viên của toàn dân, mạng lưới thương nghiệp của khu dân cư gần nơi du lịch, các rạp chiếu phim, nhà hát, viện bảo tàng, các giá trị văn hóa và lịch sử của toàn xã hội, Cơ sở hạ tầng là cơ sở vật chất kỹ thuật bậc hai đối với du lịch, nó được xây dựng để phục vụ nhân dân địa phương và sau nữa phục vụ cả khách du lịch đến thăm đất nước hoặc vùng du lịch. Đây là cơ sở có tầm quan trọng đặc biệt, vì nó nằm sát ngay nơi du lịch , nó quyết định nhịp độ phát triển du lịch và trong chừng mực nào đó còn quyết định chất lượng phục vụ du lịch. Nói chung các điều kiện kỹ thuật liên quan đến việc sẵn sàng đón tiếp khách du lịch đóng một vai trò quyết định trong sự phát triển du lịch của một đất nước hoặc một vùng. Các điều kiện kinh tế liên quan đến sự sẵn sàng đón tiếp khách du lịch phải kể đến là việc cung ứng vật tư hàng hóa, lương thực, thực phẩm, cho tổ chức du lịch và khách du lịch phải thường xuyên. Song song với việc cung ứng đều đặn và
  35. đầy đủ vật tư hàng hóa cho tổ chức du lịch, cần phải quan tâm đến chất lượng và giá cả của hàng hóa vật tư để đảm bảo cho tổ chức du lịch có đủ sức cạnh tranh trên thi trường. 1.2.4. Một số các điều kiện khác ảnh hưởng đến phát triển du lịch 1.2.4.1. Tổ chức quản lý nhà nước về du lịch và nguồn lao động du lịch Tổ chức quản lý nhà nước về du lịch và nguồn lao động du lịch là nguồn tài nguyên giữ vai trò quan trọng và mang tính quyết định sự phát triển du lịch của mỗi quốc gia cũng như mỗi địa phương. Tổ chức quản lý nhà nước về du lịch bao gồm mô hình tổ chức quản lý, các cán bộ quản lý, nội dung, nhiệm vụ và cách thứ quản lý sẽ tác động trực tiếp và gián tiếp đến tất cả mọi hoạt động du lịch ở mỗi địa phương cũng như quốc gia. Ở các địa phương, các quốc gia có bộ máy tổ chức quản lý nhà nước về du lịch ổn định, hợp lý, khoa học, đội ngũ quản lý có chất lượng chuyên môn nghiệp vụ cao, phẩm chất tốt, làm việc hiệu quả, đảm bảo quản lý điều hành, theo dõi giám sát chặt chẽ mọi hoạt động trong ngành Du lịch chắc chắn ngành Du lịch sẽ đạt được hiệu quả cao về nhiều mặt. Sản phẩm du lịch là sản phẩm hàng hóa đặc biệt có hàm lượng dịch vụ cao. Chất lượng, số lượng, chủng loại sản phẩm du lịch cung cấp cho du lịch phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ ngoại ngữ đặc biệt là phẩm chất người lao động du lịch. Vì vậy số lượng, chất lượng, cơ cấu chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất, cách thức sử dụng nguồn lao động; số lượng, chất lượng đào tạo nguồn lao động sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến số lượng, chủng loại, chất lượng, sản phẩm du lịch cũng như mọi họat động của ngành Du lịch. Vì vậy, mỗi địa phương, mỗi quốc gia muốn ngành Du lịch phát triển đạt hiệu quả cao về nhiều mặt cần có sự quan tâm đầu tư đúng mức và cần có các chiến lược phù hợp, đúng đắn về việc sử dụng, đào tạo, nâng cao đời sống của nguồn lao động du lịch. 1.2.4.2. Điều kiện về mở rộng quan hệ quốc tế hòa bình và hữu nghị Trong nhiều thập kỉ vừa qua du lịch quốc tế đã có sự phát triển mạnh mẽ xu hướng toàn cầu hóa sản phẩm du lịch và thị trường du lịch ngày càng trở nên rõ nét, các mối quan hệ đa phương, song phương giữa các quốc gia trở thành một điều
  36. kiện hết sức quan trọng để phát triển du lịch. Khách du lịch ở một quốc gia này muốn đến một quốc gia khác để tiêu dùng sản phẩm du lịch thì trước hết phải có mối quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia đó. Mức độ hòa bình và hữu nghị trong mối quan hệ giữa hai quốc gia được thể chế hóa ở các đường lối, chính sách và các ưu đãi ngoại giao mà mỗi quốc gia giành cho nhau. Sự tăng trưởng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam giai đoạn 1990-2002 chứng minh thuyết phục, dẫn chứng bằng số liệu cho thấy so với năm 1990 số du khách quốc tế tăng 9 lần, còn du khách nội địa tăng hưn 10 lần. Du lịch mang lợi cho ngành kinh tế quốc dân năm 2001 là 1,4tỷ USD bao gồm các khoản thu trực tiếp của tổ chức du lịch và các ngành có liên quan. Tổng cục du lịch cho biết năm 2002 thu nhập toàn ngành đạt 23.500 tỷ đồng. Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam tăng trưởng 11% và khách du lịch nội địa tăng 5% so với năm 2001. Hoặc Thái Lan đã miễn visa cho công dân của 56 nước và công dân của 96 nước khác có thể xin visa vào Thái Lan ngay tại các cửa khẩu. Kết quả là vào những năm 90 của thế kỷ 20 mỗi năm có khoảng 8 triệu lượt khách du lịch quốc tế đến với nước này với doanh thu khoảng 7 tỷ USD. Mối quan hệ quốc tế hòa bình và hữu nghị giữa các quốc gia trước hết phụ thuộc vào thể chế chính trị của quốc gia, đặc điểm của kinh tế thế giới, giao lưu văn hóa giữa các dân tộc. Từ mối quan hệ quốc tế này mà tạo điều kiện thuận lợi dễ dàng an toàn cho chuyến đi của khách, cửa vào mỗi quốc gia được mở rộng. Mối quan hệ này xuất phát từ nhu cầu của con người được sống trong hòa bình, hữu nghị được tự do đi lại để chiêm ngưỡng, thưởng thức các giá trị thẩm mỹ, để học hỏi và cuối cùng là để nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Khi mà mối quan hệ quốc tế hòa bình và hữu nghị được mở rộng sẽ tạo ra du lịch không biên giới làm cho cả cung và cầu du lịch phát triển. 1.2.4.3. Các hoạt động xúc tiến quảng bá phát triển du lịch Một trong những đặc điểm của sản phẩm du lịch là không vận chuyển để bán cho du khách mà thường được ban tại chỗ. Vì vậy, du khách không thể tiếp xúc trực tiếp cũng như không biết rõ về sản phẩm du lịch khi lựa chọn điểm đến nếu họ thiếu thông tin về điểm đó. Họ quyết định có mua sản phẩm du lịch đó hay không trước chuyến du lịch phụ thuộc rất nhiều vào việc họ biết những thông tin về điểm đến. Vì vậy, hoạt động xúc tiến tuyên truyền quảng bá có ý nghĩa lớn đối
  37. với hoạt động du lịch. Nếu thiếu các hoạt động xúc tiến quảng bá phát triển du lịch, các yếu tố cung và cầu du lịch rất khó gặp nhau. Các hoạt động xúc tiến quảng bá có vai trò lớn trong việc thúc đẩy phát triển các hoạt động du lịch như thu hút đầu tư phát triển du lịch, giáo dục du lịch, bảo vệ tài nguyên môi trường du lịch, cung cấp các thông tin về điểm đến cho du khách như tài nguyên du lịch, các điều kiên kinh tế - xã hội, các dịch vụ du lịch, giá cả, Ở các quốc gia có ngành Du lịch phát triển thường quan tâm đầu tư khoảng từ 6 – 8% cho hoạt động xúc tiến phát triển du lịch với nhiều hình thức như in ấn, phát hành miến phí các ấn phẩm về du lịch, thành lập và duy trì hoạt động của các trung tâm thông tin và các trung tâm xúc tiến phát triển du lịch, các IT kios, tổ chức hội nghị, hội thảo , liên hoan du lịch, xây dựng các chương trình phát thanh truyền hình, lập – duy trì các trang web, 1.2.4.4. Sản phẩm du lịch Việc sản xuất và tiêu dùng nhiều sản phẩm của du lịch diễn ra đồng thời vì vậy mà người tiêu dùng không nhìn thấy sản phẩm hàng hóa mà mình mua trước khi dùng. Mặt khác đa số sản phẩm du lịch không tồn tại dưới dạng vật thể vì vậy việc đánh giá chất lượng của sản phẩm ngành du lịch rất khó khăn. Người tiêu dùng thường chỉ có thể biết được chất lượng sản phẩm thông qua việc tiêu dùng mà khó đánh giá được từ trước. Nếu hoạt động kinh doanh du lịch không được tổ chức tốt, việc cung cấp dịch vụ du lịch cho lần trước không phải để quảng bá cho lần sau và không chú ý tạo dựng uy tín, thương hiệu của sản phẩm thì kinh doanh du lịch nói riêng và phát triển du lịch nói chung sẽ dễ dàng, chóng vánh bị đổ vỡ. Sự co dãn cung cầu của sản phẩm du lịch thường không ổn định. Chẳng hạn du lịch biển về mùa hè thường đông khách hơn mùa đông, các ngày lễ tết, cầu về sản phẩm du lịch cao hơn ngày thường. Có những sản phẩm du lịch mang đặc trưng của hàng hóa công cộng là phi loại trừ, phi cạnh tranh trong quá trình sử dụng của khách hàng. Chẳng hạn đối với sản phẩm cảnh quan, tiêu dùng của người này không làm ảnh hưởng đến tiêu dùng của người khác, người khách này không thể cấm người khách khác thưởng thức cảnh quan mà họ đi du lịch đồng thời sản phẩm cảnh quan đó không mất đi trong quá trình người đó tiêu dùng.
  38. 1.2.4.5. Giá cả hàng hóa Đây là nhân tố trực tiếp quyết định việc biến nhu cầu du khách thành hiện thực. Hoạt động du lịch của xã hội không thể phát triển nếu lực lượng sản xuất xã hội còn thấp kém, hơn nữa nếu giá cả hàng hóa dịch vụ tăng cao thì cầu về dịch vụ đó sẽ giảm xuống. Đối với sản phẩm du lịch, nơi nào giá cả hàng hóa du lịch thấp thì cầu du lịch đó sẽ tăng lên. Tuy nhiên sự tác động này không hoàn toàn đúng với mọi sản phẩm du lịch ( chẳng hạn du lịch chữa bệnh).
  39. TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 Du lịch là một ngành công nghiệp không khói. Bước vào thế kỷ 21 ngành du lịch ngày càng có những thay đổi rõ ràng, do sự tác động của nhiều yếu tố. Do vậy để phát triển du lịch cần phải có sự thay đổi trong phương pháp quản lý trong phát triển du lịch. Trong quá trình phát triển chúng, ta cần phải thấy được vai trò của các đối tượng, các thành phần và vị trí của nó trong phát triển du lịch của toàn ngành. Xác định được vai trò, vị trí và mối quan hệ giữa chúng với nhau với quá trình phát triển của du lịch có nghĩa là cần phải hiểu được làm thế nào để trong quá trình phát triển du lịch mà ta không làm tổn hại đến các yếu tố trong du lịch như tài nguyên xã hội, nhân văn và tài nguyên thiên nhiên. Do vậy, phần chương 1 của luận văn đã trình bày khái quát về các điều kiện ảnh hưởng tới phát triển du lịch nói chung cũng như vai trò vị trí của chúng trong đối với ngành du lịch. Từ việc nghiên cứu các điều kiện ảnh hưởng tới phát triển du lịch có thể giúp các ban ngành địa phương tiến hành quản lý và quy hoạch tổng thể đối với từng điểm du lịch giúp cho ngành du lịch hoạt động một cách có quy mô và hiệu quả hơn.
  40. CHƢƠNG 2: TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở HUYỆN GIAO THỦY TỈNH NAM ĐỊNH 2.1. Giới thiệu khái quát huyện Giao Thủy Vùng đất Giao Thủy được hình thành vào khoảng từ cuối thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XVI, thuộc Phủ Thiên Trường, trấn Sơn Nam Hạ, gồm 4 tổng: Hoành Thụ, Hà Cát, Quất Lâm, Lạc Thiện. Do phù sa sông Hồng bồi tụ, đất đai của huyện ngày càng được mở rộng hướng ra phía biển Đông. Hơn 500 năm qua, các thế hệ người Giao Thủy cùng với các cư dân đến từ Xuân Trường nối tiếp nhau quai đê lấn biển, khai hoang lập ấp hình thành nên những miền quê phì nhiêu trù phú, có những xã lịch sử hình thành chưa đầy 200 năm nhưng các xã thuộc tổng Lạc Thiện chỉ mới được hình thành từ cuối thế kỷ XIX. Năm 1967, Giao Thủy được sáp nhập với Xuân Trường và được mang tên là huyện Xuân Thủy. Ngày 01/04/1997, huyện Giao Thủy được tái lập theo Nghị định 19/1997/NĐ-CP của Chính phủ. Hiện nay, huyện có 20 xã và 2 thị trấn?: Giao Hà, Giao Xuân, Giao Thiện, Giao Hương, Hồng Thuận, Hoành Sơn, Giao Thanh, Giao Nhân, Giao Châu, Giao Tiến, Giao Yến, Giao Tân, Bạch Long, Giao Long, Giao Phong, Giao Thịnh, Giao Lạc, Giao An, Bình Hòa, Giao Hải. Thị trấn Ngô Đồng là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa. Thị trấn Quất Lâm là trung tâm kinh tế, văn hóa và du lịch biển. Trong 5 năm trở lại đây (2005 – 2010) mặc dù gặp nhiều khó khăn do tình hình an ninh nông thôn có thời kỳ diễn biến phức tạp, song Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Giao Thủy luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, vượt lên khó khăn, thử thách, tranh thủ sự giúp đỡ của Trung ương, của tỉnh, phát huy nội lực, khai thác các tiềm năng thế mạnh của huyện để phát triển kinh tế - xã hội và đã thu được những thành tựu quan trọng. Nền kinh tế của huyện phát triển tương đối toàn diện và vững chắc. Nhịp độ tăng trưởng bình quân 5 năm (2001 – 2005) là 7,42%/ năm. Bộ mặt nông thôn không ngừng đổi mới, đời sống nhân dân từng bước cải thiện và nâng cao. Lĩnh vực văn hóa – xã hội liên tục có nhiều khởi sắc. Hệ thống giáo dục – đào tạo phát triển mạnh có thể đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực có
  41. trình độ học vấn, kỹ thuật và tay nghề dần đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông thôn. Hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở được xây dựng và củng cố vững chắc, quốc phòng – an ninh được bảo đảm là những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. 2.2. Các điều kiện phát triển cung du lịch ở huyện Giao Thủy 2.2.1. Các điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch tự nhiên 2.2.1.1. Điều kiện tự nhiên Huyện Giao Thủy là một trong 3 huyện ven biển của tỉnh Nam Định, diện tích tự nhiên 328,18 km2 , là khu vực đồng bằng tương đối bằng phẳng, nằm trong hành lang trọng điểm của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, cạnh hai cửa sông lớn là cửa Ba Lạt và Hà Lạn. Giao Thủy nằm ở phía Đông Nam của tỉnh Nam Định, có tọa độ địa lý từ 20010’ đến 20021’ vĩ độ Bắc và từ 106021’ đến 106035’ kinh độ Đông. Cách thành phố Nam Định 45km, với trục giao thông chính là quốc lộ 21 và đường tỉnh lộ 489, 481 chạy qua. Phía Đông – Bắc giáp với tỉnh Thái Bình Phía Tây Bắc giáp với huyện Xuân Trường Phía Tây giáp với huyện Hải Hậu Phía Nam – Đông Nam giáp với biển Đông. Huyện Giao Thủy có đầy đủ giao thông thủy và bộ đảm bảo cho phát triển kinh tế - xã hội, khoa học – kỹ thuật trong tỉnh và cả nước. Địa hình: Huyện Giao Thủy có địa hình tương đối bằng phẳng có xu hướng thấp dần từ Bắc xuống Nam, có thể chia thành hai vùng chính là vùng nội đồng và vùng bãi bồi ven biển, đất đai của huyện nhìn chung màu mỡ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, đặc biệt là trồng trọt, với 32 km bờ biển, ngư trường rộng lớn, sinh vật đa dạng, bãi biển đẹp tạo điều liện thuận lợi cho ngành thủy sản và ngành du lich. Địa tầng khu vực khảo sát nằm trong vùng có cấu trúc địa chất đơn giản bao gồm các trầm tích sông, hồ, đầm lầy, trầm tích biển. Khí hậu huyện Giao Thủy mang đầy đủ những thuộc tính cơ bản của khí hậu miền Bắc. Đó là khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, có mùa đông khá lạnh, ít mưa; mùa hè nóng, nhiều mưa, có 4 mùa rõ rệt. Đặc điểm khí hậu khu vực là sự khác biệt giữa hai mùa (mùa hè và mùa đông) trong năm, nhiệt độ trung bình mùa
  42. hè: 27,80C, mùa đông là: 19,50C. Nhiệt độ trung bình năm 2008 là 24,2 0C, tháng nóng nhất là tháng 7 và lạnh nhất là tháng Giêng. Biên độ dao động ngày đêm của nhiệt độ tương đối nhỏ. 2.2.1.2. Tài nguyên du lịch tự nhiên Thiên nhiên đã ban tặng cho Giao Thủy một nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên phong phú và hấp dẫn với các loại hình du lịch có thể khai thác như: tắm biển, nghỉ dưỡng, tham quan thắng cảnh, du lịch sinh thái bờ biển trải dài 32km với bãi tắm Quất Lâm nổi tiếng được nhiều du khách biết đến. Khu du lịch biển Quất Lâm thuộc thị trấn Quất Lâm huyện Giao Thủy có quy hoạch rộng 58ha, chính thức được khai thác từ năm 1999. Tại đây có bãi tắm đẹp và khu khách sạn, có các dịch vụ hồ bơi, ao cá, khu bơi thuyền, So sánh các chỉ tiêu về độ mịn bãi cát, chiều cao của sóng, độ dốc của bờ biển cho thấy những bãi cát này có chất lượng rất tốt. Lợi thế hơn hẳn các bãi tắm của Giao Thủy là rất hoang sơ, môi trường trong sạch lại nằm cạnh một vùng cảnh quan đã được công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới, tham gia Công ước Ramsar. Bãi tắm Quất Lâm – Giao Phong cùng với khu vực, bãi bồi và đồng muối rộng lớn thuộc thị trấn Quất Lâm và xã Giao Phong tạo điều kiện để phát triển thành một khu du lịch biển quy mô lớn. Không những thế, vùng biển này còn có nhiều tôm, nghêu, và các hải sản khác. Đến đây, không chỉ được tắm biển mà du khách còn được thưởng thức các món ăn đặc sản từ biển với giá thật hấp dẫn. Bên cạnh đó, ở Quất Lâm hiện nay đã phát triển nhiều loại hình dịch vụ giải trí và dần có chỗ đứng trong hệ thống các bãi biển ở khu vực phía Bắc. Ngày càng nhiều du khách tìm đến Quất Lâm cho những ngày cuối tuần và các kỳ nghỉ. Sự đa dạng về cảnh quan thiên nhiên là một thuận lợi lớn để tạo ra tính đặc trưng độc đáo cho du lịch Giao Thủy. Quất Lâm đã thu hút nhiều thành phần kinh tế đến đầu tư xây dựng. Trong tương lai, Quất Lâm sẽ trở thành khu đô thị biển sầm uất của tỉnh Nam Định. Hệ sinh thái Vườn Quốc gia Xuân Thủy: nằm ở huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định cách Hà Nội khoảng 150km về hướng Đông Nam. Tháng 01/1989, khu bãi bồi ở phía Nam cửa sông Hồng thuộc huyện Xuân Thủy (tỉnh Nam Định) được UNESCO công nhận chính thức gia nhập công ước Ramsar (Công ước bảo tồn những vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế đặc biệt như là nơi cư trú của
  43. những loài chim nước Ramsar, Iran, 1971). Đây là khu Ramsar thứ 50 của thế giới, đầu tiên của khu vực Đông Nam Á và duy nhất của Việt Nam suốt 16 năm (đến năm 2005, Việt Nam mới có khu Ramsar thứ 2 là khu Bàu Sấu của Vườn Quốc gia Cát Tiên). Năm 1992, Ủy ban nhân dân huyện Xuân Thủy thành lập Trung tâm tài nguyên môi trường thuộc huyện, nhằm giúp Chính phủ thực hiện tốt cam kết quốc tế về quản lý bảo tồn Khu Ramsar Xuân Thủy. Năm 1993, ngành Lâm nghiệp đã đề xuất xây dựng Khu Ramsar Xuân Thủy trở thành Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Xuân Thủy, thuộc hệ thống các Vườn quốc gia và Khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam. Ngày 19/01/1995, Bộ Lâm nghiệp đã quyết định phê duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Xuân Thủy. Từ đó trở đi Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Xuân Thủy chính thức được thành lập, Khu bảo tồn trực thuộc Chi cục Kiểm lâm Nam Hà (nay là tỉnh Nam Định). Ngày 02/01/2003, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định chuyển hạng Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Xuân Thủy thành Vườn quốc gia Xuân Thủy. Tháng 10/2004, UNESCO công nhận Khu dự trữ sinh quyển thế giới liên tỉnh đồng bằng ven biển châu thổ sông Hồng. Trong đó, Vườn quốc gia Xuân Thủy là vùng lõi có tầm quan trọng đặc biệt của Khu dự trữ sinh quyển thế giới này. Ngay từ ngày bắt đầu tham gia các Công ước quốc tế Ramsar, cộng đồng quốc tế đã có sự quan tâm đặc biệt nhằm trợ giúp cho sự nghiệp bảo tồn và phát triển tài nguyên môi trường ở khu vực. Sau khi thành lập Vườn quốc gia Xuân Thủy có nhiệm vụ như: bảo tồn hệ sinh thái đất ngập nước điển hình của vùng cửa sông Hồng, các loài động, thực vật đặc trưng của hệ sinh thái đất ngập nước, đặc biệt là các loài thủy sinh và chim di trú, chim nước phục vụ cho nghiên cứu khoa học, giáo dục môi trường và phát triển du lịch sinh thái, góp phần tạo công ăn việc làm và tích cực phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Vườn quốc gia Xuân Thủy được coi là điểm du lịch sinh thái độc đáo, đạt được 3 điều nhất đó là: “Đa dạng sinh học cao nhất, năng suất sinh học lớn nhất và cũng là hệ sinh thái nhạy cảm nhất”. Đây là điểm du lịch có sức hấp dẫn khách tham quan du lịch trong nước và quốc tế đặc biệt là vào mùa đông – mùa chim di trú. Hàng năm khu du lịch này đã đón nhiều đoàn khách du lịch trong nước và
  44. quốc tế (chủ yếu là các nhà khoa học, học sinh, sinh viên các trường đại học cao đẳng ) về tham quan nghiên cứu hệ sinh thái mang tính đặc trưng của vùng đất ngập nước cửa sông ven biển Bắc Bộ. Vườn quốc gia Xuân Thủy là một vùng bãi bồi ngập nước rộng lớn nằm ở phía Nam cửa sông Hồng; bao gồm một phần Cồn Ngạn (ở phía ngoài đê Vành Lược), toàn bộ Cồn Lu và Cồn Xanh thuộc huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định có tổng diện tích tự nhiên là 7100 ha. Vùng đệm Vườn quốc gia Xuân Thủy bao gồm phần còn lại của Cồn Ngạn ( ở phía trong đe Vành Lược), toàn bộ Bãi Trong và diện tích tự nhiên của 5 xã: Giao Thiện, Giao An, Giao Lạc, Giao Xuân và Giao Hải. Tổng diện tích của vùng đệm là 7300ha. - Địa hình: Vườn quốc gia Xuân Thủy có địa hình tự nhiên được kiến tạo bởi quy luật bồi lắng phù sa của vùng cửa sông ven biển. Các bãi sa bồi rộng lớn nằm xen kẽ với các dòng sông tạo nên cảnh quan tự nhiên đặc thù của khu vực. Vật liệu cấu thành nên các bãi bồi gồm cả sét lẫn cát, đã định hình nên các đầm lầy (là nơi sinh trưởng của rừng ngập mặn, cũng là nơi ăn nghỉ của những loài chim nước và chim di trú). Phù sa biển hình thành nên các giồng cát cao ở má ngoài Cồn Lu (là nơi quần tụ của rừng phi lao chắn sóng, đồng thời là nơi cư trú của nhiều loài chim bản địa). Phù sa màu mỡ của sông Hồng – con sông lớn nhất miền Bắc cùng với điều kiện tự nhiên trời phú đã tạo nên sự giàu có bậc nhất của tài nguyên môi trường ở khu vực về các giá trị sinh học và các loại hình dịch vụ kinh tế khác. Đây cũng chính là những tiềm năng phong phú đáp ứng hữu hiệu cho việc thực hiện chiến lược phát triển bền vững kinh tế - xã hội của vùng nhằm sử dụng khôn khéo tài nguyên đất ngập nước, phát triển nghiên cứu khoa học và du lịch sinh thái Vườn quốc gia Xuân Thủy có tài nguyên thiên nhiên rất phong phú và đa dạng , là tiềm năng to lớn và quý giá để phát triển du lịch. - Thực vật: Khu Ramsar có hệ thực vật khá phong phú và đa dạng. Thành phần thực vật bậc cao có mạch Vườn quốc gia Xuân Thủy có các ngành: Khuyết thực vật – Psilotophyta (6 loài); Thực vật hạt kín – Angiospermae (109 loại); Thực vật hai lá mầm – Dicotyledones (85 loài); Thực vật một lá mầm – Monocotyledones (34 loài). Tuy nhiên thành phần họ và chi thực vật rất đa dạng so với tổng số loài, với
  45. chỉ có 116 loài nhưng đó là sự đóng góp của 42 họ, 99 chi thực vật. Có tới 24 họ chỉ có 1 loài trong họ, 6 họ có 2 loài, 4 họ có 3 loài, 2 họ có 4 loài, 6 họ còn lại có từ 5 loài trở lên. Họ có số loài lớn nhất là Họ Cỏ (Poaceae) 18 loài, sau đó là Họ Cúc (Compocitae) 14 loài, họ Cói (Cyperaceae) 10 loài và họ Đậu (Leguminosae) 8 loài. Đối với các loài cây gỗ ở rừng ngập mặn thường mọc tự nhiên thuần loài hoặc nếu được trồng thì cũng thuần loài nên chúng càng nghèo về tành phần loài. Vườn quốc gia Xuân Thủy có 14 loài cây gỗ trong đó chỉ có 6 loài tham gia vào rừng ngập mặn và rừng phi lao, tập trung đó là các loài: Mắm biển, Sú, Vẹt dù, Trang, Đước và Phi lao. Từ kết quả điều tra sơ bộ cho thấy ở đây có trên 120 loài thực vật bậc cao có mạch, trong đó có gần 20 loài thích nghi với điều kiện sống ngập nước, cấu thành rừng ngập mặn rộng trên 3000ha. Có những loài thực vật chính tiêu biểu cho hệ sinh thái rừng ngập mặn như cây Trang (Kandelia obovata), Sú (Aegiceras corniculata), Bần chua (Sonneratia caseolairis), Mắm biển (Avicennia marina), Cóc kèn (Derris trifolia) Ngoài những giá trị bảo tồn cao, rừng ngập mặn ở đây góp phần cố định phù sa để tạo nên các cồn bãi mới, còn là nơi ươm giống, cung cấp thức ăn và môi sinh yên lành cho các loài động vật thủy sinh tồn tại và phát triển bền vững. Thực vật nổi có 57 giống với 111 loài, trong đó có nhiều loài rong tảo có giá trị kinh tế cao, đặc biệt có loài rong câu chỉ vàng (Gracilariabodgettii) dùng làm nguyên liệu chế biến xuất khẩu. Các sinh cảnh chính thường gặp là: rừng ngập mặn (64,6%); bãi sậy và cói (67,4%); bãi bồi và cồn cát trống (55,1%), rừng phi lao (42,2%).rừng phi lao. Trải dài trên các giồng cát ở Cồn Lu có gần 100ha. (Phụ lục 2) - Động vật: Hệ động vật của vườn cũng rất phong phú và đa dạng bao gồm động vật nổi, động vật đáy và động vật rừng, vườn còn có trên 500 loài động vật thủy sinh. Trong đó, động vật nổi có 104 loài, gồm 46 loài cá, 23 loài giáp xác. Động vật đáy có trên 200 loài, nhiều loài gan tơ và nhuyễn thể, trong đó có nhiều loài có giá trị kinh tế như tôm, cua bể, nghêu, ngao, Động vật rừng có hai lớp chim và thú: Lớp chim:
  46. Theo điều tra bước đầu của Birdlife international ở Vườn quốc gia Xuân Thủy đã gặp 219 loài chim thuộc 41 họ 13 bộ. Khu hệ chim ở đây tiêu biểu là các loài bộ Hạc, bộ Ngỗng, bộ Rẽ và bộ Sẻ. Trong 13 bộ chim ở khu vực, bộ Sẻ chiếm số lượng nhiều nhất tới 40% sau đó là bộ Rẽ, bộ Hạc, bộ Sếu và bộ Sả. Bộ Chim Lặn chỉ có hai loài. Nếu so sánh với danh lục các loài chim Việt Nam ở Vườn quốc gia Xuân Thủy có: + 219 loài bằng 26,5% của tổng số loài chim cả nước 828 loài + 41 họ bằng 50,61% tổng số họ chim cả nước 81 họ +13 bộ bằng 68,42% tổng số bộ chim cả nước 19 bộ. Như vậy sự đa dạng của khu hệ chim ở Vườn quốc gia Xuân Thủy là tương đối cao nếu so sánh với Vườn quốc gia khác. Những loài chim quý hiếm được ghi vào sách đỏ quốc tế thường gặp là: Cò Thìa (Platalea minor, P.leucorodia); Bồ nông (Penecanus philippensis), Cò trắng Trung Quốc (Egretta eulophotes), Mòng bể mỏ thìa (Erynorhynchus pygmeus), Choắt chân màng lớn (Limodromus simepalmatus), Te vàng (Vanellus cinereus). Hai loài Cò thìa và Mòng bể mỏ ngắn được coi là đỉnh của chuỗi dinh dưỡng đã có mặt khá đông ở Vườn quốc gia Xuân Thủy. Có thời điểm loài Cò thìa đã chiếm tới 20% số cá thể còn lại của thế giới. Loài Choi choi mỏ thìa là loài cực hiếm hầu như chỉ có thể thấy ở Vườn quốc gia Xuân Thủy. Có lúc đã phát hiện trên 20 cá thể. Những năm gần đây chỉ còn thấy dăm ba cá thể vào mùa di trú. Trong số 219 loài chim, có tới 150 loài di trú và gần 50 loài chim nước. Những loài chim nước và chim di cư có số lượng cá thể đông nhất, vào mùa di trú có thể gặp 30 đến 40 ngàn con (Tiêu chí của một vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế chỉ là: 20.000 con). Hàng năm vào mùa đông (từ tháng 11,12 năm trước đến tháng 3,4 năm sau) chim di trú từ Xiberi, Hàn Quốc, Bắc Trung Quốc di cư tránh rét xuống phía Nam, Vườn quốc gia Xuân Thủy là ga chim quan trọng trong chu trình di cư của nhiều loài chim. Đến Vườn quốc gia Xuân Thủy chim di trú dừng chân để nghỉ ngơi và tích lũy năng lượng cho hành trình di cư dài hàng ngàn km của mình. Khi mùa xuân ấm áp chim lại từ phía Nam (Australia, Malaysia, Indonexia) trở về nơi sinh sản (khoảng tháng 3,4) lại dừng chân ở Xuân Thủy. Có những loài đã trú đông ở
  47. Xuân Thủy khá dài, như Cò thìa (từ tháng 9 đến tháng 4 năm sau). Vườn quốc gia Xuân Thủy cũng là địa điểm lý tưởng của nhiều loài chim định cư. Chính vì vậy Vườn quốc gia Xuân Thủy có ý nghĩa rất quan trọng đối với công cuộc bảo tồn các loài chim, bao gồm cả chim bản địa và đặc biệt quan trọng đối với dòng chim di trú quốc tế. Lớp thú: Theo điều tra sơ bộ có khoảng chục loài thú ở trên cạn là các loài: Dơi, chuột, cầy, cáo ; ở dưới nước có 3 loài quý hiếm là: Rái cá (Lutra lutra), cá heo (Lipotes vexilifer) và cá đầu ông sư (Neophocaera phocaenoides). Cá heo thường gặp vào mùa mưa bão (từ tháng 8 đến tháng 10 hàng năm). Ngoài ra Vườn quốc gia Xuân Thủy còn có hàng trăm loài bò sát và lưỡng cư, côn trùng cũng rất phong phú tạo nên bức tranh về đa dạng sinh học rất độc đáo và vô giá. Số liệu về đa dạng sinh học của các lớp Bò sát và Lưỡng cư được điều tra sơ bộ là 27 loài, côn trùng có 112 loài. Tài nguyên thủy sản: - Thực vật thủy sinh: Thành phần rong biển ở khu vực khác nhau về tình trạng phát triển. Các loài rong có giá trị kinh tế thuộc hai ngành rong đỏ và rong xanh , tiêu biểu là rong câu chỉ vàng (Gracilaria bodgettii). Trong các thủy vực của vùng cửa sông có lau sậy, cói và rong tảo. Đa số rong tảo là nguồn thức ăn quan trọng của tôm cá và các loài động vật thủy sinh khác. Theo số liệu của Sở thủy sản, mùa khô 1996 có kết quả thu mẫu của 37 loài thuộc 4 ngành tảo như sau: Ngành tảo Silic (Bacillariophyta): 15 chi, 27 loài, chiếm 73% Ngành tảo Giáp (Pirophy): 2 chi, 4 loài, chiếm 10,8% Ngành tảo Lam (Cyanophyta): 2 chi, 3 loài, chiếm 8% Ngành tảo Lục ( Chlorophyta): 3 chi, 3 loài, chiếm 8% Hai chi có số loài cao thuộc ngành tảo Silic, các chi còn lại chỉ chiếm từ 1 đến 2 loài. Kết quả thu mẫu mùa mưa (1996) được 40 loài theo tỷ lệ: Ngành tảo Silic: 15 chi, 3 loài, chiếm 75%
  48. Ngành tảo Giáp: 1 chi, 5 loài, chiếm 12,5% Ngành tảo Lam: 2 chi, 2 loài, chiếm 2% Ngành tảo Lục: 3 chi, 3 loài, chiếm 7,5% Số tảo Giáp, Lục, Lam không có giá trị làm thức ăn cho thủy hải sản chiếm 25% tổng số loài. Mặc dù số loài phát hiện ở trên còn thấp nhưng lại có mặt nhiều loài ưu thế ở vùng cửa sông ven biển, ngành tảo Silic chiếm tỷ lệ lớn tạo lên sinh khối lớn làm thức ăn phong phú cho các loài động vật thủy sinh. Mật độ tế bào trung bình trong mùa mưa và mùa khô là: Mùa mưa: 140.370 tế bào/m3 nước, mùa khô: 2.275.644 tế bào/m3 nước. Như vậy có sự chênh lệch lớn giữa mùa khô và mùa mưa. Mùa mưa mật độ tế bào cao gấp 16 lần mùa khô. Đặc biệt là tảo Thalassiothrix có mật độ cá thể cao và xuất hiện phổ biến ở tất cả các trạm thu mẫu. - Động vật nổi: Đóng vai trò quan trọng vùng cửa sông Hồng bao gồm 165 loài của 14 nhóm chính như: Copepoda, Cladocera, Siphonophora, Chaetognatha, Nauphius. Tất cả các nhóm phù du động vật ở sông Hồng đều rộng muối và rộng nhiệt, bắt nguồn từ biển nhiệt đới thích nghi với dao động lớn của độ muối ở môi trường cửa sông và mật độ của chúng cũng dao động rất lớn tùy theo các điều kiện cụ thể của môi trường. Định tính: (Kết quả của Sở thủy sản 1996) Về mùa khô: thu được 33 loài, thuộc 7 nhóm. Chiếm ưu thế là Copepoda với 19 loài, chiếm 57,5%. Về mùa mưa: thu được 42 loài, thuộc 7 nhóm, nhóm Copepoda chiếm ưu thế cso 27 loài, chiếm 64,3%. Định lượng: Sự phân bố cá thể động vật nổi chịu sự chi phối của độ muối là yếu tố giới hạn chủ yếu đối với sự xâm nhập của các loài động vật nổi vào vùng cửa sông và kiểm soát sự phát triển về số lượng của chúng. Về mùa khô mật độ cá thể đạt mức hàng chục ngàn con/m3 nước. Về mùa mưa mật độ cá thể giảm xuống dưới 1000con/m3. Nhìn chung mật độ cá thể giảm quá nửa. Riêng cửa Ba Lạt giảm chỉ còn 6%. Dù là
  49. mùa mưa hay mùa khô, giáp xác chân chèo vẫn là nhóm có lượng cá thể cao nhất, tạo nên sinh khối lớn, làm nguồn thức ăn phong phú cho các loài động vật khác trong vùng. - Động vật đáy: Thành phần động vật đáy tương đối phong phú, đã phát hiện 154 loài, thuộc các nhóm phổ biến như Polychaeta, Mollusca và Crustacea. Mùa khô chiếm 78%, mùa mưa chiếm 59% số loài đã gặp. Trong đó có một số loài có giá trị kinh tế cao như: Ngao (Meretrix Iusoria), Vọp (Mactra quadrangularis), Cua rèm (Scylla serrata), Ghẹ (Portunus penaeus), Tôm he (Penaeus Merguiensis), Tôm rảo (Metapennaus ensis), Tôm vàng (Metapenmus soyneri). Gần đây Tôm sú (Pennaeus monodon) đã được đưa vào nuôi có giá trị kinh tế khá cao, bổ sung cho cơ cấu loài hải sản đặc sản của vùng. Về định lượng của động vật đáy cỡ nhỏ thuộc nhóm giun nhiều tơ, ấu trùng, nhuyễn thể ở giai đoạn bám, ấu trùng giáp xác sống đáy với kết quả như sau: Mùa khô: 2.400 cá thể/m3 nước (trung bình) Mùa mưa: 450 cá thể/m3 nước (trung bình) - Cá: vào những năm 1980 đã thống kê được 156 loài, năm 2002 điều tra sơ bộ thấy 107 loài thuộc 12 bộ, 44 họ, có trên 40 loài cá có giá trị kinh tế, sản lượng cá đạt khoảng 4000 tấn/ năm. Một số loài có giá trị cao như: Cá Vược (Lates calcarifer), Cá Bớp (Bostrichthys sinensis), Cá Đối (Mugil nepalensiseus), Cá Dưa (Muraenesox cinereus), Cá Nhệch (Pisoodonophifboro), Cá Tráp (Taius tumifrons). - Về mặt số lượng các loài cá trên chiếm tỷ lệ khá lớn. Tuy nhiên thời gian gần đây bị suy giảm do bị khai thác quá mức. Các đặc sản của địa phương: - Hải sản: Đối với du lịch biển, ngoài việc tắm biển thưởng ngoạn cảnh quan thiên nhiên, hít thở không khí trong lành thì việc thưởng thức các món ăn chế biến từ hải sản cũng là nhu cầu và mục tiêu của chuyến đi. Giao Thủy có nhiều món ăn ngon nổi tiếng được chế biến từ hải sản như: Ngao, cua biển, tôm sú, mực, sò huyết, cá thu, cá vược, và nhiều món ăn mang hương vị của biển đó là: Nồm sứa, nem hải sản,
  50. - Các đặc sản khác từ nông nghiệp như: gạo nếp, gạo tám thơm, rượu Thức Hóa, nước mắm Sa Châu, 2.2.2. Các điều kiện kinh tế xã hội và tài nguyên du lịch nhân văn 2.2.2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội: Theo số liệu tổng điều tra dân số và nhà ở 01/04/2009, dân số huyện Giao Thủy 188.903 người (trong đó, nam 93.613 người, nữ 95.290 người). Đại bộ phận người dân sống ở nông thôn 174.312 người, chiếm 92,27% dân số toàn huyện. Dân thành thị 14.591 người, chiếm 7,73% dân số toàn huyện. Mật độ dân số toàn huyện khá cao so với nhiều địa phương trong tỉnh ( 842 người/km2). Năm 2009, toàn huyện có khoảng 96.003 lao động, chiếm 50,82% tổng dân số. Đây là lực lượng lao động dồi dào tham gia vào nhiều lĩnh vực sản xuất kinh tế của huyện. Những năm qua, nhờ có sự đổi mới về cơ chế quản lý và chính sách kinh tế của Nhà nước, cùng với sự chỉ đạo của Đảng bộ, chính quyền, kinh tế huyện Giao Thủy ngày một phát triển, duy trì nhịp độ tăng trưởng cao. Trong 4 năm (2006- 2009) kinh tế phát triển khá, giá trị tổng sản phẩm tăng bình quân 10,56%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng tăng giá trị và thu nhập, giảm tỷ trọng nhóm ngành nông – lâm – ngư nghiệp; năm 2009 tỷ trọng ngành công nghiệp – xây dựng và dịch vụ chiếm 51,32%, tỷ trọng ngành nông – lâm – ngư nghiệp còn 48,68%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2009 đạt 8,5 triệu đồng/người/năm. Kết cấu hạ tầng: Hoàn thành việc bàn giao lưới điện nông thôn cho ngành điện quản lý, 100% số hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia. Hệ thống giao thông được đầu tư xây dựng qua nhiều năm đang phát huy tác dụng: trên địa bàn huyện có 46,4km tỉnh lộ, 19km huyện lộ, 761km đường trục xã, liên xã, đường thôn xóm được nhựa hóa hoặc bê tông hóa. Hiện tại chỉ còn 5% đường thôn xóm chưa được nâng cấp. Bưu chính viễn thông thường xuyên nâng cao chất lượng dịch vụ. Mạng lưới viễn thông phủ sóng toàn huyện với chất lượng sóng tốt, 100% số xã có điểm bưu điện văn hóa xã, 32,7% số hộ sử dụng điện thoại cố định và hàng vạn điện thoại di động, đáp ứng yêu cầu về thông tin liên lạc của xã hội. Sự nghiệp giáo dục – đào tạo được quan tâm, giữ vững thành tích đơn vị tiên tiến xuất sắc đứng trong tốp đầu của ngành giáo dục – đào tọa tỉnh Nam Định. Phong trào xây dựng nhà văn hóa xóm, xây dựng cơ quan, gia đình văn hóa phát
  51. triển mạnh và mang lại hiệu quả thiết thực: 38% số xóm, tổ dân phố có nhà văn hóa; 36% số xóm (tổ dân phố) đạt tiêu chuẩn “Làng văn hóa”; 61 trường học, 28 cơ quan, 20 trạm y tế được công nhận có nếp sống văn hóa; số gia đình văn hóa năm 2009 chiếm 61,83% tổng số hộ gia đình toàn huyện. Cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ y tế được tăng cường về số lượng và nâng cao chất lượng :18/22 xã đạt chuẩn Quốc gia về y tế. Bệnh viện đa khoa trung tâm huyện được đầu tư nâng cấp với số kinh phí hàng chục tỷ đồng, số giường bệnh năm 2009 đạt 190 giường, tăng 40 giường so với năm 2005. Bình quân có 4,2 bác sỹ/1vạn dân (tăng 2,1 bác sỹ/1vạn dân so với năm 2005). 100% số xóm và tổ dân phố có cán bộ y tế. Tích cực giải quyết việc làm cho người lao động. Tạo việc làm mới bình quân 4.000 lao động/ năm, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 35%. Tỷ lệ hộ nghèo đến năm 2009 còn 5,93%. Phát triển du lịch huyện Giao Thủy bên cạnh việc tạo hiệu quả to lớn về kinh tế như tăng thu nhập và nâng cao mức sống của người dân địa phương cũng cần quan tâm đến công tác bảo vệ môi trường bao gồm cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội của khu vực. Có thể khẳng định rằng đối với xã hội, du lịch có vai trò giữ gìn, phục hồi sức khỏe và tăng cường sức sống cho người dân. Đối với cộng đồng dân cư địa phương, du lịch có tác dụng tạo điều kiện cho họ được tiếp xúc với các nền văn hóa mới, giúp họ thu hẹp khoảng cách giữa các cộng đồng người khiến họ trở nên ần gũi, thân thiện với nhau hơn. Qua hoạt động du lịch để tăng cường tình đoàn kết cộng đồng, nâng cao dân trí, phát huy những đức tính tốt đẹp mang bản chất người như giúp đỡ, tương trợ, chân thành với nhau. Phát triển du lịch cũng góp phần nâng cao dân trí cho cộng đồng địa phương thông qua việc trích nguồn thu từ hoạt động du lịch để cải thiện, nâng cao cơ sở hạ tầng xã hội, y tế, giáo dục cho địa phương. Nguồn thu ngân sách đã góp phần quan trọng trong việc cải tạo và nâng cấp hệ thống trường học , lớp học và các trang thiết bị cơ bản phục vụ sự nghiệp giáo dục đào tạo của địa phương. Mức sống của cộng đồng dân cư sẽ được nâng cao hơn: Trong những năm tới hoạt động du lịch của huyện Giao Thủy sẽ góp phần tăng thu nhập cho người dân ở đây, cơ cấu lao động của vùng đang chuyển đổi dần theo hướng tăng nhanh số
  52. lượng lao động tham gia phục vụ du lịch, chất lượng của đội ngũ này cũng đang từng bước được cải thiện. Về công tác đảm bảo an ninh – trật tự an toàn xã hội: trong những năm qua tại địa bàn huyện Giao Thủy hầu như không xảy ra điểm nóng, tình hình trật tự an toàn xã hội được giữ vững, các vụ tranh chấp đều được nhanh chóng giải quyết kịp thời. Trật tự an toàn luôn được đảm bảo. Đây là một chuyển biến tích cực của chính quyền địa phương nhằm từng bước loại bỏ những vấn đề xã hội tiêu cực nảy sinh từ hoạt động phát triển du lịch như mại dâm, ăn xin, trẻ em lang thang chèo kéo khách du lịch, Bên cạnh những tác động tích cực, hoạt động du lịch cũng đã có những ảnh hưởng tiêu cực nhất định đến môi trường xã hội của vùng. Trước hết, du lịch đã làm tăng dần khoảng cách về mức sống của người dân trong vùng. Theo số liệu điều tra, thu nhập trung bình của người dân trong vùng chỉ bằng khoảng 1/7 thu nhập trung bình của nhóm người dân được tham gia dịch vụ du lịch ở khu vực thị trấn Quất Lâm. Đây là vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình phát triển du lịch tại các điểm du lịch trong địa bàn huyện. Tình trạng cò mồi, chèo kéo khách hiện nay, đặc biệt ở khu vực bãi tắm cũng đang là nguyên nhân gây nên những xung đột trong bản thân cộng đồng sống trong vùng. Nếu vấn đề này không được giải quyết sẽ tạo nguy cơ tiềm ẩn tạo nên sự rạn nứt trong cộng đồng vốn rất gắn kết trước đây khi du lịch còn ít phát triển. 2.2.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn Giao Thủy là vùng đất mới, có lịch sử hình thành khoảng 500 năm, mang đặc trưng của văn hóa lúa nước đồng bằng sông Hồng. Người dân Giao Thủy từ bao đời nay kiên cường trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên, vật lộn với biển khơi, miệt mài quai đê lấn biển, khai hoang lập ấp hình thành nên những làng quê trù phú. Tinh thần cố kết cộng đồng, tình làng nghĩa xóm rất bền chặt. Giao Thủy có 3 tôn giáo chính là đạo Phật, đạo Thiên Chúa và đạo Tin lành. Trên địa bàn huyện có hàng chục di tích lịch sử, văn hóa đã được xếp hạng cùng nhiều công trình tôn giáo có kiến trúc độc đáo sẽ là những địa chỉ thú vị đối với khách tham quan. Với truyền thống canh tác “lúa lấn cói, cói lấn vẹt, vẹt lấn biển”, những nét sinh hoạt văn hóa mang đậm dấu ấn của nền văn minh lúa nước như chèo cổ, chầu
  53. văn, bơi chải. múa lân, chọi gà hay đấu vật, trong các dịp lễ hội cùng với sinh hoạt thường nhật của cộng đồng. Đặc biệt du khách đến đây sẽ được nghe những làn điệu dân ca do chính người dân địa phương biểu diễn như “Sắp cổ phong”, “Hát mời trầu”, “Hát giã bạn”, Văn hóa phi vật thể ở đây bao gồm hệ thống kiến trúc truyền thống đan xen hòa quyện với các công trình kiến trúc hiện đại như nhà Bổi, nhà thờ, cảng cá, chợ chiều, khu thị tứ sầm uất, các điểm sản xuất nước mắm truyền thống, các sản phẩm du lịch độc đáo, cùng với tấm lòng rộng mở của người dân miền biển quen đối diện với biển trời bao la Nhà Bổi: xã Giao Xuân huyện Giao Thủy còn có những ngôi nhà bổi – nhà đặc trưng của vùng đất ven biển ngập nước, cũng là điểm đến thu hút du khách. Nhàbổi là những căn nhà khung gỗ, nền đất, được lợp bằng cói và rạ, mỗi mái nhà nặng hơn hai tấn, dày từ 1m – 1,2m, mát mẻ vào mùa hè và ấm áp vào mùa đông. Qua thời gian, mái bổi xẹp dần xuống, nhưng vẫn rất bền, chịu đựng được sức tàn phá của gió biển. Những căn nhà mái bổi ở Giao Xuân có tuổi thọ hàng trăm năm và được người dân rất gìn giữ từ thế hệ này qua thế hệ khác. Người Giao Xuân cung cấp dịch vụ lưu trú cho du khách, khách ăn ngủ ngay tại nhà dân, nếu may mắn, bạn có thể được nghỉ tại một trong những căn nhà bổi này. Đặc biệt, ở Giao Thủy còn có làng nghề nước mắm Sa Châu – xã Giao Châu nổi tiếng với các loại mắm ngon với trên 100 hộ tham gia sản xuất, chế biến, sản lượng bình quân đạt 450.000 – 500.000 lít nước mắm/năm. Cùng với sự phong phú của tài nguyên du lịch tự nhiên, khu vực phụ cận của huyện Giao Thủy có rất nhiều tài nguyên du lịch nhân văn có giá trị có thể kết hợp trong các Tour du lịch. Trước hết, trên đường đi đến thành phố Nam Định du khách có thể ghé thăm Phủ Dầy (Một di tích lịch sử nổi tiếng – nơi thờ Bà Chúa Liễu Hạnh ở huyện Vụ Bản – cách thành phố Nam Định khoảng 15km). Đến thành phố Nam Định du khách tham quan cụm di tích lịch sử: Đền Trần, Chùa Tháp, Đền Bảo Lộc – là nơi lưu giữ những chứng tích hào hùng về một triều đại hưng thịnh vào loại bậc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Du khách cũng có thể ghé thăm tượng đồng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn uy nghi bên hồ Vị Xuyên. Trước khi rời thành phố Nam Định đến với mảnh đất Giao Thủy để có dịp tìm hiểu
  54. thêm về đất và người của mảnh đất ngàn năm văn hiến này, du khách hãy ghé thăm làng trồng hoa cây cảnh Vị Khê – Nam Điền (ở ngoại thành thành phố Nam Định). Đến đây du khách sẽ gặp những bất ngờ hết sức thú vị khi chứng kiến những cỏ cây hoa lá tự nhiên vô tri vô giác nhưng dưới những bàn tay khéo léo của các nghệ nhân đã trở thành những sinh vật có hồn, đẹp mắt và sống động lạ thường. Xuôi tiếp xuống phía nam du khách có thể ghé thăm chùa Keo – Cổ Lễ, nơi gắn liền với các truyền thuyết về Thánh sư Khổng Minh Không và những điển tích của Phật giáo kỳ thú, cùng với lối kiến trúc độc đáo và vẻ đẹp huyền bí, chùa Keo như đưa con người về với cội nguồn của tiêu chí “ Chân, Thiện, Mỹ”. Đi xuôi xuống đất Xuân Trường du khách có thể ghé thăm một điểm văn hóa – lịch sử khác cũng rất có ý nghĩa, đó là Tượng đài bằng đồng và Nhà lưu niệm của Cố Tổng bí thư Trường Chinh tại làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng. Cách làng Hành Thiện không xa là tòa thành Phú Nhai và Trường dòng Bùi Chu. Đây còn là một trung tâm lớn của Đạo Thiên Chúa giáo. Trường dòng Bùi Chu cùng với nhà thờ Phát Diệm là hai cái nôi đầu tiên của Thiên Chúa giáo ở miền Bắc Việt Nam và cũng là nơi cung cấp cho chúng ta cái nhìn tổng quát về lịch sử phát triển và ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo ở khu vực. Trên đường đến với Giao Thủy, du khách có thể ghé thăm Tòa thánh Phú Nhai – là nhà thờ lớn nhất Đông Nam Á được xây dựng từ những năm 30 của thế kỷ trước. Giao Thủy là khu vực giao thoa của nhiều văn hóa, nhiều tập tục sinh hoạt khác nhau (đi theo đạo Thiên Chúa có xã chiếm 80% dân số. Trên địa bàn huyện có rất nhiều nhà thờ Thiên Chúa giáo trong đó có 15 nhà thờ lớn nằm rải rác ở các khu vực trong huyện (phụ lục 3). Điều này vừa tạo nên những khó khăn cho công tác quản lý, song đồng thời cũng tạo nên một đặc điểm hấp dẫn đối với việc phát triển du lịch nói chung và du lịch văn hóa nói riêng. Giá trị văn hóa bao trùm của huyện Giao Thủy là văn hóa vùng biển. Thời gian gần đây, chính quyền địa phương rất chú trọng việc đầu tư nâng cấp lễ hội truyền thống của cư dân. Với những tiềm năng và thế mạnh trên cho thấy Giao Thủy là một vùng đất có nhiều tiềm năng và thế mạnh để phát triển du lịch đặc biệt khu vực Vườn quốc gia Xuân Thủy với hệ sinh thái nguyên sơ rất thích hợp với việc phát triển các loại hình du lịch sinh thái biển.( phụ lục 4)