Khóa luận Những bất cập trong hệ thống thuế thu nhập tại Việt Nam và giải pháp hoàn thiện

pdf 95 trang hapham 1950
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Những bất cập trong hệ thống thuế thu nhập tại Việt Nam và giải pháp hoàn thiện", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_nhung_bat_cap_trong_he_thong_thue_thu_nhap_tai_vie.pdf

Nội dung text: Khóa luận Những bất cập trong hệ thống thuế thu nhập tại Việt Nam và giải pháp hoàn thiện

  1. TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG HÀ NỘI KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG CHUYÊN NGÀNH TÀI CHÍNH QUỐC TẾ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI: NHỮNG BẤT CẬP TRONG HỆ THỐNG THUẾ THU NHẬP TẠI VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thơm Lớp: Anh 2 Khóa: 45 Giáo viên hƣớng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Hiền Hà Nội, tháng 05 năm 2010
  2. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ACCA: Association of Chartered Certified Accountants (chứng chỉ kế toán của hiệp hội kế toán – kiểm toán Anh Quốc) CFA: Chartered Financial Analyst (chứng chỉ phân tích đầu tư tài chính chuyên nghiệp) KH&CN: Khoa học và công nghệ NSNN: Ngân sách nhà nước TAMP: Dự án hiện đại hóa công tác quản lý thuế TNDN: Thu nhập doanh nghiệp TNCN: Thu nhập cá nhân TNCT: Thu nhập chịu thuế TNTT: Thu nhập tính thuế TTĐB: Tiêu thụ đặc biệt
  3. MỤC LỤC Trang Chƣơng1: TỔNG QUAN CHUNG VỀ THUẾ VÀ HỆ THỐNGTHUẾ THU NHẬP . 4 LỜI MỞ ĐẦU 1 1.1. Thuế, nguồn thu chủ yếu của Ngân sách nhà nƣớc 4 1.1.1. Khái niệm về thuế . .5 1.1.2. Đặc điểm của thuế . 6 1.1.3. Phân loại thuế 7 1.1.3.1. Dựa theo phương thức đánh thuế 8 1.1.3.2. Dựa theo cơ sở tính thuế 9 1.1.3.3. Dựa theo phạm vi điều chỉnh của thuế . 10 1.1.4. Nguyên tắc đánh thuế . .10 1.1.4.1. Nguyên tắc lãnh thổ .10 1.1.4.2. Nguyên tắc đánh thuế theo quốc tịch . 12 1.1.4.3. Nguyên tắc đánh thuế theo nơi cư trú . 13 1.1.5. Vai trò của thuế đối với nền kinh tế quốc dân . .14 1.1.5.1. Thuế là công cụ chủ yếu tập trung nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước 14 1.1.5.2. Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước 14 1.1.5.3. Thuế là công cụ điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong phân phối 15 1.1.5.4. Thuế là công cụ để thực hiện kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản xuất và kinh doanh. 16 1.2. Tổng quan về hệ thống thuế thu nhập 16 1.2.1. Khái niệm về hệ thống thuế thu nhập 16
  4. 1.2.1.1. Tổng quan về hệ thống thuế .16 1.2.1.2. Khái niệm về hệ thống thuế thu nhập .17 1.2.2. Các đặc điểm của thuế thu nhập 18 1.2.3. Vai trò của hệ thống thuế thu nhập đối với nền kinh tế 22 1.2.3.1. Thuế thu nhập là khoản thu quan trọng của NSNN . 22 1.2.3.2. Thuế thu nhập là một công cụ để Nhà nước thực hiện chính sách công bằng xã hội 22 1.2.3.3. Thuế thu nhập là công cụ quan trong của Nhà nước trong việc điều tiết các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, quản lý thu nhập của cá nhân 23 1.3. Các tiêu chí đánh giá sự hoàn thiện của một hệ thống thuế .23 1.3.1. Tính công bằng, bình đẳng .23 1.3.2. Tính hiệu quả 24 1.3.3. Tính chính xác (tính rõ ràng, minh bạch) .26 1.3.4. Tính thuận tiện 26 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG NHỮNG BẤT CẬP, VƢỚNG MẮC TRONG HỆ THỐNG THUẾ THU NHẬP TẠI VIỆT NAM . . .29 2.1. Tổng quan về hệ thống thuế thu nhập tại Việt Nam .29 2.1.1. Về Thuế thu nhập doanh nghiệp .29 2.1.1.1. Về khung pháp lý điều chỉnh . 29 2.1.1.2. Phạm vi áp dụng thuế TNDN 30 2.1.1.3. Căn cứ và phương pháp tính thuế TNDN . 31 2.1.1.4. Ưu đãi thuế TNDN .33 2.1.2. Về thuế thu nhập cá nhân 35 2.1.2.1. Về khung pháp lý điều chỉnh 35 2.1.2.2. Phạm vi điều chỉnh 36
  5. 2.1.2.3. Căn cứ tính thuế đối với cá nhân cư trú 39 2.1.2.4. căn cứ tính thuế đối với cá nhân không cư trú. .43 2.2. Những kết quả đạt đƣợc của hệ thống thuế thu nhập mới . 44 2.2.1. Về thuế TNDN .44 2.2.2. Về luật thuế thu nhập cá nhân 46 2.3. Thực trạng những bất cập, vƣớng mắc trong hệ thống thuế thu nhập tại Việt Nam 49 2.3.1. Đối với luật thuế TNDN 49 2.3.1.1. Bất cập về các khoản chi được trừ và các khoản chi không được trừ 49 2.3.1.2. Bất cập liên quan tới thu nhập khác của doanh nghiệp 50 2.3.1.3. Bất cập về ưu đãi thuế .53 2.3.1.4. Bất cập về vấn đề chuyển lỗ 55 2.3.1.5. Bất cập về việc trích lập quỹ phát triển khoa học công nghệ .57 2.3.2. Đối với luật thuế TNCN 58 2.3.2.1. Những bất cập trong đối tượng chịu thuế 58 2.3.2.2. Những bất cập trong quy định đối tượng miễn thuế 59 2.3.2.3. Bất cập trong cách tính thuế và căn cứ tính thuế 60 2.3.2.4. Bất cập ngưỡng thuế và biểu thuế suất. 61 2.3.2.5. Bất cập về mức giảm trừ gia cảnh .62 2.3.2.6. Bất cập về vấn đề đánh thuế thu nhập cá nhân khi chuyển nhượng chứng khoán 64 2.3.2.7. Bất cập về thủ tục hành chính 66 Chƣơng 3: GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THUẾ THU NHẬP TẠI VIỆT NAM . 67 3.1. Định hƣớng nâng cao vai trò và vị thế của hệ thống thuế thu nhập đối với nguồn thu NSNN và phát triển kinh tế 67
  6. 3.1.1. Xu hƣớng phát triển của thời cuộc . 67 3.1.2. Định hƣớng nâng cao vai trò của hệ thống thuế thu nhập 68 3.2. Kiến nghị hoàn thiện khung pháp lý đối với hệ thống thuế thu nhập tại Việt Nam .71 3.2.1. kiến nghị đối với hệ thống pháp luật thuế TNDN 71 3.2.1.1. Liên quan tới các khoản chi phí được trừ và không được trừ .71 3.2.1.2. Về chính sách ưu đãi thuế TNDN 73 3.2.1.3. Về quan điểm chuyển lỗ và trích lập quỹ phát triển KH&CN . .76 3.2.2. Kiến nghị đối với luật thuế TNCN 78 3.2.2.1. Về đối tượng chịu thuế và thu nhập miễn thuế .78 3.2.2.2. Về cách tính thuế, ngưỡng thuế và biểu thuế suất 78 3.2.2.3. Về vấn đề giảm trừ gia cảnh .79 3.2.2.4. Đối với vấn đề chuyển nhượng chứng khoán . 80 3.3. Giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống thuế thu nhập tại Việt Nam 80 3.3.1. Cải cách và hiện đại hóa công tác thu và quản lý thuế TNCN 80 3.3.1.1. Cải cách hành chính để áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thuế thuận tiện hơn . 80 3.3.1.2. Cải tổ bộ máy quản lý thuế 81 3.3.1.3 Tăng cường hoạt động của bộ phận thống kê, nghiên cứu chính sách thuế . 83 3.3.2. Phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu cải cách và hiện đại hóa trong quản lý thuế .83 3.3.3. Phát triển hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt quan các ngân hàng, tổ chức tín dụng bằng phƣơng pháp bắt buộc và khuyến khích tự nguyện 84 KẾT LUẬN 86
  7. LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hệ thống thuế thu nhập – một loại thuế đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong đời sống xã hội cũng như công tác quản lý – đã được triển khai tại nước ta đã hơn chục năm. Loại thuế này đã, đang và sẽ tiếp tục đóng góp một tỷ trọng quan trọng trong ngân sách nhà nước. Đồng thời, đó cũng là một trong những công cụ hữu hiệu để nhà nước ta thực hiện những chính sách nhằm đảm bảo công bằng xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế thị trường phát triển như vũ bão hiện nay, ngày càng nhiều các loại hình thu nhập mới được tạo ra khiến cho các luật thuế cũ không còn phù hợp nữa. Cùng với đó, sự tinh vi trong gian lận cũng dẫn đến những khoản thất thu lớn cho ngân sách nhà nước, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới công bằng và trật tự xã hội. Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã ban hành rất nhiều các luật thuế mới, trong đó có luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 và luật thuế thu nhập cá nhân 2007 nhằm đưa ngành thuế nước ta hội nhập với sự phát triển trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, việc đưa các luật thuế này vào cuộc sống đã không dễ dàng và suôn sẻ như ban đầu mong đợi. Đã có rất nhiều những bất cập, vướng mắc trong việc thực hiện các luật thuế này gây một số khó khăn nhất định cho doanh nghiệp và cá nhân. Bên cạnh đó, điều này cũng tạo điều kiện cho những kẻ cơ hội lách luật nhằm trốn thuế. Xuất phát từ thực tế trên, đề tài “Những bất cập trong hệ thống thuế thu nhập tại Việt Nam và giải pháp hoàn thiện” sẽ đưa ra những điểm còn tồn tại trong hệ thống thuế thu nhập và từ đó đưa ra những kiến nghị, đề xuất đề hoàn thiện hơn nữa hệ thống thuế thu nhập tại nước ta hiện nay. 2. Mục đích nghiên cứu Đề tài tập trung đi sâu nghiên cứu những vấn đề cụ thể sau: 1
  8. - Làm rõ những vấn đề cơ bản về thuế nói chung và hệ thống thuế thu nhập nói riêng như: khái niệm, phân loại, nguyên tắc đánh thuế, vai trò của thuế, - Nghiên cứu những tiêu chí đánh giá tính hiệu quả của một sắc thuế: tiêu chí công bằng, hiệu quả, chính xác, thuận tiện - Nghiên cứu thực trạng hệ thống pháp luật về thuế thu nhập tại Việt Nam hiện nay bao gồm thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp - Đề xuất những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống thuế thu nhập tại Việt Nam 3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu mà khóa luận tập trung vào là những điểm bất cập, tính thiếu hợp lý trong hệ thống thuế thu nhập tại Việt Nam, đó là những vướng mắc trong Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và luật thuế thu nhập cá nhân hiện hành. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Luật thuế thu nhập doanh nghiệp ban hành ngày 17/06/2003 hiện đang có hiệu lực thi hành và cũng luật này ban hành ngày 03/06/2008, cũng như những vướng mắc trong quá trình thực thi luật này - Luật thuế thu nhập cá nhân ban hành ngày 21/11/2007 và những vấn đề trong việc thực hiện luật này 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng Mac – Lênin, khóa luận sử dụng kết hợp một số phương pháp sau: - Phương pháp thu thập số liệu - Phương pháp phân tích, tổng hợp - Phương pháp so sánh - Phương pháp phân tích thống kê 5. Kết cấu của khóa luận 2
  9. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận được chia làm 3 chương: Chƣơng 1: Những vấn đề cơ bản về thuế và hệ thống thuế thu nhập tại Việt Nam Chƣơng 2: Những bất cập, vƣớng mắc trong hệ thống thuế thu nhập tại Việt Nam hiện nay Chƣơng 3: Một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện những bất cập, vƣớng mắc trong hệ thống thuế thu nhập tại Việt Nam Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù đã rất cố gắng, tuy nhiên vẫn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Do vậy rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ phía người đọc để em có thể hoàn thiện đề tài hơn nữa. Nhân đây, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Cô giáo hướng dẫn Th.S Nguyễn Thị Hiền đã tận tình giúp đỡ trong quá trình viết khóa luận. Hà Nội tháng 5 năm 2010 Nguyễn Thị Thơm 3
  10. Chƣơng1: TỔNG QUAN CHUNG VỀ THUẾ VÀ HỆ THỐNGTHUẾ THU NHẬP 1.4. Thuế - Nguồn thu chủ yếu của Ngân sách nhà nƣớc Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, thuế ra đời là một tất yếu khách quan, gắn liền với sự ra đời và tồn tại của Nhà nước. Để duy trì sự tồn tại của mình, Nhà nước cần có những nguồn tài chính để chi tiêu, trước hết là để duy trì bộ máy cai trị của mình, tiếp đến là chi cho các công việc thuộc chức năng của Nhà nước như quốc phòng, an ninh, xây dựng và phát triển, Để có nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu, Nhà nước có thể dùng các biện pháp động viên như quyên góp, vay từ nhân dân hay dùng quyền lực của Nhà nước bắt buộc dân phải đóng góp. Các hình thức vay hay quyên góp là những hình thức không mang tính ổn định và lâu dài, thường được sử dụng trong một số trường hợp đặc biệt. Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên, Nhà nước dùng quyền lực chính trị buộc dân phải đóng góp một phần thu nhập của mình cho Ngân sách Nhà nước. Đây chính là hình thức cơ bản nhất để huy động tập trung nguồn tài chính cho Nhà nước. Hình thức Nhà nước dùng quyền lực chính trị buộc dân đóng góp để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình – Đó chính là Thuế Về quan hệ giữa Nhà nước và Thuế, Mác đã viết: “Thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy Nhà nước, là thủ đoạn đơn giản để kho bạc thu được tiền hay sản vật để người dân đóng góp để dùng vào việc chi tiêu của Nhà nước”(1). Ăng Ghen cũng đã viết: “Để duy trì quyền lực công cộng, cần phải có sự đóng góp của công dân cho Nhà nước, đó là thuế”(2) (1) Mác – Ăng Ghen, tuyển tập Nhà xuất bản sự thật, Hà Nội, 1961, tập 2 (2) Ăng ghen, nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và Nhà nước, Nhà xuất bản sự thật, Hà Nội, 1962 4
  11. 1.4.1. Khái niệm về thuế Cho tới nay, các nhà học giả và trên các sách báo kinh tế trong nước và trên thế giới vẫn chưa thống nhất quan điểm về khái niệm thuế. Trong giáo trình thuế và hệ thống thuế của trường Đại học Ngoại thương: “thuế là một phần thu nhập mà mỗi tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước theo luật định để đáp ứng nhu cầu chi tiêu theo chức năng của Nhà nước. Người đóng góp được hưởng hợp pháp phần thu nhập còn lại”(3). Theo trang web ế: “Thuế là số tiền thu của các công dân, hoạt động và đồ vật (như giao dịch và tài sản) nhằm huy động tài chính cho chính quyền, nhằm tái phân phối thu nhập, hay nhằm điều tiết các họat động kinh tế - xã hội”. Những khái niệm về thuế nêu trên tuy chưa thật thống nhất về thuế, nhưng các nhà kinh tế đều nhất trí cho rằng, để làm rõ được khái niệm về thuế thì định nghĩa về thuế phải nêu bật được những khía cạnh sau: - Nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng các quan hệ tiền tệ giữa Nhà nước với các pháp nhân và các thể nhân, không mang tính hoàn trả trực tiếp. - Những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ này là việc chuyển giao thu nhập có tính chất bắt buộc theo mệnh lệnh của Nhà nước. - Các pháp nhân và thể nhân chỉ phải nộp cho Nhà nước các khoản thuế đã được pháp luật quy định Từ việc phân tích các định nghĩa trên, chúng ta có thể định nghĩa về thuế như sau: Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc của các tầng lớp dân cư trong xã hội cho Nhà nước theo pháp luật quy định về mức độ và thời hạn, không mang tính hoàn trả trực tiếp, nhằm sử dụng cho mục đích chung của toàn xã hội.(4) (3) GS. TS Bùi Xuân Lưu (chủ biên), TS Nguyễn Hữu Khải, ThS Nguyễn Xuân Nữ, Giáo trình thuế và hệ thống thuế ở Việt Nam, ĐH Ngoại Thương, NXB Giáo Dục, 2003 tr13 (4) TS Nguyễn Thị Lan, Bài giảng Tài Chính công, 2008 5
  12. 1.4.2. Đặc điểm của thuế Qua phân tích nguồn gốc của sự ra đời của thuế và khái niệm chung về thuế nêu trên, ta có thể khẳng định rằng: Thuế là một công cụ tài chính của nhà nước, được sử dụng để hình thành nên quỹ tập trung nhằm sử dụng cho các mục đích công cộng. Tuy nhiên, về bản chất thuế khác với các công cụ tài chính khác như phí, lệ phí, giá cả, Đìều này thể hiện qua các đặc điểm cơ bản sau của thuế. (a) Thuế luôn gắn liền với quyền lực Nhà nước Đặc điểm này thể hiện tính pháp lý tối cao của thuế. Thuế là nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được quy định trong Hiến Pháp – đạo luật gốc của một quốc gia. Việc ban hành, sửa đổi, bổ sung, hay bãi bỏ bất kỳ một thứ thuế nào cũng chỉ có một cơ quan duy nhất có thẩm quyền, đó là Quốc Hội – cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước. Mặt khác, tính quyền lực của Nhà nước cũng thể hiện ở chỗ Nhà nước không thể thực hiện thu thuế một cách tùy tiện mà phải dựa trên những cơ sở pháp luật nhất định đã được xác định trong các văn bản pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành Đây là đặc trưng cơ bản nhất của thuế nhằm phần biệt với tất cả các hình thức động viên tài chính khác cho Ngân sách nhà nước (b) Thuế là một phần thu nhập của các tầng lớp dân cư bắt buộc phải nộp cho Nhà nước Đặc điểm này thể hiện rõ nội dung kinh tế của thuế. Nhà nước thực hiện phương thức phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân dưới hình thức thuế, mà kết quả của nó là một bộ phận thu nhập của người nộp thuế được chuyển giao bắt buộc cho Nhà nước mà không kèm theo bất kỳ một sự cấp phát hoặc những quyền lợi nào khác cho người nộp thuế. Với đặc điểm này, thuế không giống như các hình thức huy động tài chính tự nguyện hoặc hình thức phạt tiền tuy có tính chất bắt buộc nhưng chỉ áp dụng đối với những người vi phạm pháp luật. (c) Thuế là hình thức chuyển giao thu nhập không mang tính hoàn trả trực tiếp. Còn phí, lệ phí mang tính hòan trả trực tiếp cho người hưởng dịch vụ này 6
  13. Tính chất không hoàn trả trực tiếp của thuế được thể hiện trên các khía cạnh: Thứ nhất, Sự chuyển giao thu nhập thống qua thuế không mang tính chất đối giá, nghĩa là mức thuế mà các tầng lớp trong xã hội chuyển giao cho Nhà nước không hòan toàn dựa trên mức độ người nộp thuế thừa hưởng những dịch vụ và hàng hóa công cộng do Nhà nước cung cấp. Người nộp thuế không có quyền đòi hỏi Nhà nước cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng trực tiếp cho mình thì mới nộp thuế cho Nhà nước. Thứ hai, các khoản thuế đã nộp cho Nhà nước sẽ không được hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế. Người nộp thuế sẽ nhận được một phần các hàng hóa, dịch vụ công cộng mà Nhà nước đã cung cấp cho cả cộng đồng, phần giá trị mà người nộp thuế được hưởng thụ không nhất thiết tương đồng với khoản thuế mà họ đã nộp cho Nhà nước. Đặc điểm này của thuế giúp ta phân định rõ thuế với các khoản phí, lệ phí và giá cả. 1.4.3. Phân loại thuế Tùy theo điều kiện hòan cảnh của mỗi nước mà hệ thống thuế bao gồm nhiều hay ít các loại thuế khác nhau. Để định hướng xây dựng và quản lý hệ thống thuế, người ta tiến hành sắp xếp các sắc thuế có cùng tính chất thành những nhóm khác nhau, gọi là phân loại thuế. Có thể đưa ra khái niệm về phân loại thuế như sau: phân loại thuế là sự sắp xếp các sắc thuế trong một hệ thống chính sách thuế có cùng tính chất thành những nhóm khác nhau theo các tiêu thức nhất định.(5) 1.1.3.1. Dựa theo phương thức đánh thuế Các hình thức thuế, suy cho cùng đều đánh vào thu nhập của các tổ chức cá nhân trong xã hội. Tuy nhiên, tùy thuộc vào phương thức đánh thuế là đánh một cách trực tiếp hay gián tiếp vào thu nhập mà người ta chia hệ thống thuế thành hai loại: thuế trực thu và thuế gián thu (5) TS Nguyễn Thị Lan, Bài giảng Tài Chính công, 2008 7
  14. Thuế trực thu: Là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản của người nộp thuế. Thuế trực thu có đặc điểm là đối tượng nộp thuế theo luật quy định đồng nhất với người phải chịu thuế. Ở đây, theo quy định của luật, thuế thu trực tiếp vào thu nhập của người nộp thuế. Như vậy, thuế trực thu làm cho khả năng và cơ hội chuyển dịch gánh nặng thuế cho người khác khó khăn hơn. Về nguyên tắc, loại thuế này mang tính chất lũy tiến vì nó tính đến khả năng của người nộp thuế, người có thu nhập cao hơn phải nộp nhiều thuế hơn và ngược lại. Loại thuế trực thu thường bao gồm các sắc thuế đánh trên thu nhập của tổ chức và cá nhân. Ở nước ta, các sắc thuế trực thu bao gồm: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất, Ưu điểm của thuế trực thu là động viên trực tiếp vào thu nhập của từng tổ chức, cá nhân có thu nhập. Hơn thế nữa, thuế trực thu còn cho phép xem xét các yếu tố tương đối độc lập đến thu nhập của người nộp thuế như hoàn cảnh bản thân, hoàn cảnh gia đình Do đó, thuế trực thu có tác dụng rất lớn trong việc điều hòa thu nhập, giảm bớt sự chênh lệch đáng kể về mức sống giữa các tầng lớp dân cư, vì vậy đảm bảo được tính công bằng trong xã hội. Nhược điểm của thuế trực thu là dễ gây ra phản ứng từ phía người nộp thuế khi nhà nước điều chỉnh tăng thuế. Hơn nữa, việc theo dõi, tính toán số thuế phải nộp và thủ tục thu, nộp thuế hết sức phức tạp. Số thu động viên vào Ngân sách thường chậm và chi phí quản lý thu thuế khá tốn kém Thuế gián thu: Là loại thuế không trực tiếp đánh vào thu nhập hay tài sản của người nộp thuế mà đánh một cách gián tiếp thông qua giá cả hàng hóa, dịch vụ. Người tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ là người chịu loại thuế này. Thuế gián thu có đặc điểm là người nộp thuế theo luật và người chịu thuế không đồng nhất với nhau. Người nộp thuế là người sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, còn người chịu thuế là người tiêu dùng các hàng hóa, dịch vụ đó, họ mua hàng hóa với giá cả trong đó có cả thuế. Loại thuế này có sự dịch chuyển gánh nặng thuế trong những trường hợp nhất định. Thuế gián thu ảnh hưởng tới 8
  15. hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua cơ chế giá cả thị trường. Loại thuế này thường là các sắc thuế có cơ sở đánh thuế là khoản thu nhập của dùng để tiêu dùng. Ở nước ta, các sắc thuế gián thu bao gồm: thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu, Ưu điểm của thuế gián thu là đối tượng chịu thuế rất rộng. Thuế gián thu được che đậy qua giá bán hàng hóa, dịch vụ nên người chịu thuế ít có cảm giác mình bị Nhà nước đánh thuế. Thuế gián thu đem lại nguồn thu thường xuyên và ổn định cho Ngân sách Nhà nước. Đối tượng quản lý thu thuế cũng tập trung hơn, nghiệp vụ tính và thu thuế đơn giản, nên chi phí quản lý thuế cùng thấp hơn so với thuế trực thu. Nhược điểm của loại thuế này là có tính chất lũy thoái nên không đảm bảo tính công bằng trong nghĩa vụ nộp thuế. Nếu tính tỷ lệ động viên thuế gián thu so với thu nhập thì người giàu có tỷ lệ động viên thuế chịu thuế thấp hơn so với người nghèo. 1.1.3.2. Dựa theo cơ sở tính thuế Nếu căn cứ vào cơ sở đánh thuế, có thể chia các sắc thuế thành ba loại như sau: Thuế thu nhập: bao gồm các sắc thuế có cơ sở đánh thuế là thu nhập kiếm được. Thu nhập kiếm được từ nhiều nguồn: từ lao động dời dạng tiền lương, tiền công; thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh dưới dạng lợi nhuận, lợi tức cổ phần, do đó thuế thu nhập cũng có nhiều dạng: thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập công ty, thuế chuyển thu nhập ra nước ngoài, thuế lợi tức cổ phần, Thuế tiêu dùng: là loại thuế có cơ sở đánh thuế là phần thu nhập của tổ chức, cá nhân được mang ra tiêu dùng trong hiện tại. Trong thực tế, loại thuế tiêu dùng được thể hiện dưới nhiều dạng như thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng, Thuế tài sản: là các loại thuế có cơ sở đánh thuế là giá trị tài sản. Ví dụ như thuế nhà đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp. Tài sản có nhiều hình thức biểu hiện: - Tài sản tài chính bao gồm tiền mặt, tiền gửi, chứng khoán, thương phiếu, 9
  16. - Tài sản hữu hình là những tài sản vật chất có thể nhìn thấy được như: máy móc, thiết bị, nhà xưởng, - Tài sản vô hình là những tài sản không thể nhìn thấy được mà có thể đo lường được như nhãn hiệu hàng hóa, bí quyết kĩ thuật, 1.1.3.3. Dựa theo phạm vi điều chỉnh của thuế Căn cứ vào phạm vi điều chỉnh của thuế người ta có thể chia các sắc thuế làm hai loại: Thuế tổng hợp: Là loại thuế đánh vào tất cả các thành phần của cơ sở đánh thuế mà không có trường hợp ngoại lệ, không có miễn, giảm thuế. Thuế có lựa chọn: Là loại thuế chỉ đánh vào một phần nhất định của cơ sở đánh thuế. Thuế thu nhập cá nhân có thể coi là một sắc thuế điển hình của loại hình này. 1.4.4. Nguyên tắc đánh thuế Khi xây dựng chính sách thuế thu nhập nói chung và chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp nói riêng, mỗi quốc gia đều phải dựa trên những nguyên tắc đánh thuế nhất định. Lịch sử đã từng tồn tại những nguyên tắc đánh thuế khác nhau, nhưng tựu chung lại có 3 dạng nguyên tắc đánh thuế cơ bản nhất là: nguyên tắc đánh thuế theo quốc tịch, nguyên tắc đánh thuế theo nơi cư trú và nguyên tắc đánh thuế theo lãnh thổ 1.4.4.1. Nguyên tắc lãnh thổ (nguyên tắc đánh thuế theo nguồn gốc thu nhập) Nguyên tắc này xuất phát từ quyền đánh thuế của một Nhà nước là không hạn chế trong phạm vi biên giới quốc gia. Theo đó thì Nhà nước có quyền đánh thuế không hạn chế đối với mọi khỏan thu nhập hay tài sản có nguồn gốc phát sinh trong phạm vi lãnh thổ của Nhà nước đó. Vì lý do đó mà người ta còn gọi nguyên tắc này là nguyên tắc đánh thuế theo nguồn gốc lãnh thổ hình thành thu nhập. 10
  17. Bất luận thu nhập được tạo ra bởi công dân mang quốc tịch nào, hễ phát sinh trong khuôn khổ lãnh thổ quốc gia nào thì phải nộp thuế cho chính phủ nuớc chủ nhà bởi những bảo hộ, bảo đảm và tiện ích công cộng mà nước chủ nhà đã cung cấp. Ví dụ, tại điều 2 của Luật Thuế Thu nhập cá nhân Việt Nam 2007: “ Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân là cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam và cá nhân không cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam”. Trường hợp xuất hiện xung đột giữa nguyên tắc quốc tịch và nguyên tắc lãnh thổ thì các quốc gia và vùng lãnh thổ sẽ thỏa thuận tránh đánh thuế hai lần bằng một hiệp định. Hiệp định không tạo ra các nghĩa vụ thuế mới, khác hoặc nặng hơn so với luật thuế trong nước. Ví dụ: trường hợp tại Hiệp định có các quy định theo đó Việt Nam có quyền thu thuế đối với một loại thu nhập nào đó nhưng Luật thuế Việt Nam chưa có quy định thu thuế đối với thu nhập đó hoặc quy định thu với mức thấp hơn thì áp dụng theo quy định của Luật thuế Việt Nam. Khi Việt Nam thực hiện các quy định tại Hiệp định, vào từng thời điểm nhất định các từ ngữ chưa được định nghĩa trong Hiệp định sẽ có nghĩa như quy định tại luật của Việt Nam theo mục đích thuế tại thời điểm đó, trừ trường hợp ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác. Một ví dụ khác nữa về nguyên tắc nguồn gốc được thể hiện tại điều 28, Thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn của Luật Thuế Thu nhập cá nhân: “Thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn của cá nhân không cư trú được xác định bằng tổng số tiền mà cá nhân không cư trú nhận được từ việc chuyển nhượng phần vốn tại tổ chức, cá nhân Việt Nam nhân với thuế suất 0,1%, không phân biệt việc chuyển nhượng được thực hiện tại Việt Nam hay tại nước ngoài”. 1.4.4.2. Nguyên tắc đánh thuế theo quốc tịch Nguyên tắc này xác định các tổ chức pháp nhân được thành lập theo luật tổ chức kinh doanh của một nước được Nhà nước đó bảo hộ về mọi phương diện và có nghĩa vụ bắt buộc phải nộp thuế đối với toàn bộ thu nhập và tài sản, bất kể thu 11
  18. nhập đó nằm trên phạm vi lãnh thổ nước đó hay nước khác. Tiêu chí để xác định quốc tịch của một tổ chức kinh doanh chính là “trụ sở chính” đóng trên quốc gia đó Nguyên tắc quốc tịch phát biểu rằng mỗi công dân phải có nghĩa vụ đóng thuế cho đất nước. Benjamin Franklin có một câu nói nổi tiếng: “In this world nothing is certain but death and taxes” (Trên cõi đời này không có gì chắc chắn ngoài cái chết và thuế). Câu nói này toát lên một sự thật hiển nhiên và đơn giản: đã là dân thì phải nộp thuế. Có thể nói theo kiểu Vua Gia Long, phàm là dân một nước thì phải nộp thuế cho nước đó cho dù làm ăn sinh sống ở bất kỳ nơi đâu trên thế giới (6). Nguyên tắc này làm cơ sở cho quy định đánh thuế lên khoản thu nhập phát sinh ngoài nước của doanh nghiệp Việt Nam và của công dân Việt Nam. Nguyên tắc quốc tịch không chỉ nêu rõ nghĩa vụ công dân mà còn bảo vệ công dân của một nước khỏi nghĩa vụ thuế của quốc gia khác, tức là “dân xứ nào phải và chỉ nộp thuế cho xứ đó” mà thôi, nếu như họ không có thu nhập phát sinh ở một xứ nào khác. Điển hình của nguyên tắc này là quy định thuế suất 0% trong thuế giá trị gia tăng Ngoài mục tiêu khuyến khích xuất khẩu như mọi người đều biết, thuế suất 0% của VAT còn quốc được sử dụng để thực thi nguyên tắc quốc tịch. Khi một hàng hóa đi ra khỏi một gia để vào đất nước khác thì xứ đi sẽ đánh thuế 0% hàm ý loại bỏ toàn bộ VAT ra khỏi những bộ phận cấu thành giá trị hàng hóa. Đến khi mặt hàng này được nhập khẩu vào xứ đến nó không còn chứa đựng bất kỳ một đồng tiền thuế nào của xứ đi và nó sẵn sàng chịu VAT nơi đến. Đây cũng chính là nguyên tắc nơi đến (destination principle) đang được thừa nhận rộng rãi. Trong khi đó, ở Việt Nam có câu “Nộp thuế là nghĩa vụ và quyền lợi của người dân” dễ khiến người dân thắc mắc về quyền lợi và mối tương quan giữa quyền lợi-nghĩa vụ mà không phải ai cũng hiểu và đo được những lợi ích mà chính phủ mang lại cho đất nước, như: sự ổn định về chính trị, sự vững mạnh về quốc === (6) 12
  19. phòng, uy tín và vị thế cạnh tranh quốc gia, môi trường thiên nhiên, Hơn nữa câu khẩu hiệu của cơ quan thuế Việt Nam dễ khiến người ta quên mất một đặc trưng cốt lõi của thuế là không đối giá. 1.4.4.3. Nguyên tắc đánh thuế theo nơi cư trú Theo nguyên tắc này, quyền đánh thuế của Nhà nước được xác lập trên cơ sở mối quan hệ kinh tế xã hội của đối tượng nộp thuế đối với quốc gia đó. Khi một tổ chức sản xuất kinh doanh được xác định là “đối tượng cư trú” tại một nước thì có nghĩa là đối tượng đó gắn chặt đời sống kinh tế của mình với quốc gia đó, được hưởng các dịch vụ công cộng và cơ sở hạ tầng ở quốc gia đó cho nên phải có nghĩa vụ nộp thuế đối với mọi khoản thu nhập của doanh nghiệp. Đối với “đối tượng không cư trú” thì chỉ bị đánh thuế đối với phần thu nhập phát sinh trong phạm vi lãnh thổ của nước đó. Theo thông lệ quốc tế và các hiệp định tránh đánh thuế 2 lần của các nước ký kết, một công ty được coi là “cư trú” tại một nước nếu công ty đó có “trụ sở điều hành thực tế” tại nước đó, còn nếu chỉ có “cơ sở thường trú” thì được coi là “đối tượng không cư trú” Trong 3 nguyên tắc nói trên, nguyên tắc cư trú và nguyên tắc lãnh thổ được áp dụng phổ biến hơn cả. Còn nguyên tắc quốc tịch ít được áp dụng vì nguyên tắc này không còn phù hợp trong điều kiện giao lưu kinh tế giữa các quốc gia ngày càng mở rộng. Việc các tập đoàn kinh doanh quốc tế mở các công ty con ở nước ngoài (hoạt động theo luật pháp của nước đó) ngày càng nhiều, do vậy khái niệm “trụ sở chính” nhiều khi không còn có ý nghĩa, thay vào đó là khái niệm “trụ sở điều hành thực tế”. 1.4.5. Vai trò của thuế đối với nền kinh tế quốc dân 1.1.5.1. Thuế là công cụ chủ yếu tập trung nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước 13
  20. Để huy động nguồn lực vật chất cho mình, Nhà nước có thể sử dụng nhiều hình thức khác nhau như: phát hành trái phiếu chính phủ, bán tài sản quốc gia, thu thuế, Tuy nhiên, thuế là công cụ chủ yếu có vai trò quan trọng nhất. Vì so với các hình thức khác, sử dụng thuế các những ưu điểm: - Thuế là một công cụ phân phối có lĩnh vực và phạm vi rộng lớn. Đối tượng nộp thuế bao gồm toàn bộ thể nhân và pháp nhân hoạt động kinh tế và phát sinh nguồn thu nhập nộp thuế - Phương thức huy động của thuế là sử dụng phương pháp chuyển giao thu nhập bắt buộc. Chính vì vậy, nguồn thu từ thuế được đảm bảo tập trung một cách nhanh chóng, thường xuyên và ổn định - Thông qua thu thuế một bộ phận của tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong nước được tạo ra đã tập trung vào Nhà nước để đảm bảo nhu cầu chi tiêu công cộng và thực hiện các biện pháp kinh tế xã hội. - Tính ưu thế của động viên thông qua thuế so với các công cụ khác còn thể hiện ở chỗ: thuế kết hợp hài hòa giữa phương pháp cưỡng bức và kích thích vật chất nhằm tạo ra sự quan tâm của các đối tượng nộp thuế tới chất lượng sản xuất và hiệu quả kinh doanh. 1.1.5.2. Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước Nền kinh tế thị trường, bên cạnh những mặt tích cực cũng chứa đựng những khuyết tật vốn có của nó. Nhà nước sử dụng công cụ thuế để khắc phục những khuyết tật của thị trường trên những mặt sau: - Điều chỉnh chu kỳ nền kinh tế: kinh tế phát triển theo chu kỳ với những giai đoạn thăng trầm khác nhau là không thể tránh khỏi. Trong những năm khủng hoảng và suy thoái kinh tế, Nhà nước có thể hạ thấp mức thuế, tạo ra những điều kiện ưu đãi về thuế thuận lợi nhằm kích thích nhu cầu tiêu dùng để tăng đầu tư và mở rộng sản xuất. Ngược lại, trong thời kỳ phát triển quá mức, có nguy cơ dẫn đến mất cân đối, Nhà nước có thể tăng thuế, thu hẹp đầu tư mà vẫn giữ vững được nhịp độ tăng trưởng theo mục tiêu đã đặt ra. 14
  21. - Thuế còn góp phần hình thành cơ cầu ngành hợp lý theo yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Bằng việc ban hành hệ thống thuế, Nhà nước sẽ quy định đánh thuế hoặc không đánh thuế, đánh thuế suất cao hoặc thấp vào các ngành nghề, các mặt hàng cụ thể. Thông qua đó, Nhà nước có thể thúc đẩy sự phát triển của những ngành kinh tế quan trọng hoặc san bằng tốc độ tăng trưởng giữa chúng, đảm bảo sự cân đối giữa các ngành nghề trong nền kinh tế. - Điều chỉnh tích lũy tư bản: Tích lũy tư bản có vai trò quan trọng trong việc tái sản xuất nền kinh tế, góp phần tăng trưởng bền vững. Việc thay đổi các chính sách thuế của Nhà nước có thể ảnh hưởng tới quy mô và tốc độ tích lũy tư bản, do đó tác động tới quá trình đầu tư, tái sản xuất phát triển kinh tế - Thuế có thể được sử dụng để điều tiết việc làm và thất nghiệp: khi nền kinh tế có mức thất nghiệp cao thì cùng với việc mở rộng chi tiêu của chính phủ, việc cắt giảm thuế là cần thiết để tăng tổng cầu và việc làm. Ngược lại, trong thời kỳ lạm phát cao, thuế cần phải được gia tăng để giảm tổng cầu và bình ổn việc làm. - Thuế được sử dụng như một công cụ có hiệu quả để góp phần thực hiện chính sách đối ngoại và bảo hộ nền sản xuất trong nước và thúc đẩy sự hòa nhập kinh tế trong khu vực và trên thế giới. 1.1.5.3. Thuế là công cụ điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong phân phối Việc điều hòa thu nhập giữa các tầng lớp dân cư được thực hiện một phần thông qua thuế gián thu mà đặc biệt là các hình thức thuế tiêu thụ đặc biệt. Loại thuế này có đối tượng chịu thuế chủ yếu là hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng cao cấp, đắt tiền. Các hàng hóa, dịch vụ này thông thường chỉ có những người có thu nhập cao trong xã hội mới có thể sử dụng và sử dụng nhiều, qua đó điều tiết bớt một phần thu nhập của họ. Các sắc thuế trực thu, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân với việc sử dụng thuế suất lũy tiền là sắc thuế có tác dụng rất lớn trong vấn đề điều tiết thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. 15
  22. 1.1.5.4. Thuế là công cụ để thực hiện kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản xuất và kinh doanh. Vai trò này được xuất hiện chính do quá trình tổ chức thực hiện các luật thuế trong thực tế. Để đảm bảo thu được thuế và thực hiện đúng các quy định của luật thuế đã ban hành, cơ quan thuế và các cơ quan liên quan phải bằng mọi biện pháp nắm vững số lượng, quy mô và các cơ sở sản xuất, kinh doanh, ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh. Từ công tác thu thuế mà cơ quan thuế sẽ phát hiện ra những khó khăn họ gặp phải để giúp đỡ họ tìm biện pháp tháo gỡ. Như vậy, qua công tác quản lý thu thuế mà có thể kết hợp kiểm tra, kiểm soát toàn diện các mặt hoạt động của các cơ sở kinh tế, đảm bảo thực hiện tốt quản lý Nhà nước về mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. 1.5. Tổng quan về hệ thống thuế thu nhập 1.5.1. Khái niệm về hệ thống thuế thu nhập 1.2.1.1 Tổng quan về hệ thống thuế Trong nền kinh tế thị trường, thu nhập được tạo ra và luân chuyển theo một dòng khép kín: người lao động nhận được tiền công, dùng tiền công này để mua hàng hóa, dịch vụ của các công ty, đến lượt các công ty lại dùng số tiền thu được để trả lãi cho vốn vay để đầu tư, tiền thuê đất, tiền nhân công, và sau đó các đối tượng có thu nhập này lại dùng thu nhập để chi tiêu dưới nhiều dạng để mua hàng hóa, dịch vụ. Chính sự biến đối đa dạng này đã tạo ra những cơ sở đánh thuế khác nhau, do đó rạo ra khả năng cho Chính phủ đánh thuế trên các cơ sở đánh thuế khác nhau trên sự luân chuyển của dòng thu nhập khép kín. Hay nói cách khác là xuất hiện các hình thức thuế khác nhau Ta có thể hiểu, hệ thống thuế là tổng hợp ác hình thức thuế khác nhau với cơ chế hoạt động, đối tượng điều chỉnh, phương pháp đánh thuế, mức độ điều tiết và phương pháp thu nộp khác nhau. Các hình thức thuế có mối quan hệ mật thiết, tác 16
  23. động lẫn nhau nhằm thực hiện mục tiêu điều chỉnh nền kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Hệ thống thuế đề cập ở đây chủ yếu là hệ thống chính sách thuế, các luật thuế, các hình thức thuế mà một quốc gia sử dụng để điều tiết nền kinh tế. Số lượng các hình thức thuế trong hệ thống thuế nhiều hay ít phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản sau: - Một là, sự vận động của dòng thu nhập trong nền kinh tế đơn giản hay phức tạp. - Hai là, khả năng kiểm soát và điều chỉnh sự vận động của dòng thu nhập trong nền kinh tế của Chính phủ. Tùy thuộc khả năng và ý đồ của Chính phủ trong việc điều chỉnh sự vận động của dòng thu nhập ở những giai đoạn khác nhau mà hình thành các hệ thống thuế khác nhau. Ngoài hệ thống chính sách thuế, để thực thi pháp luật về thuế, các quốc gia còn phải có hệ thống các định chế về thuế. Đó là tổng hợp các quy định, các biện pháp về nghiệp vụ, về tổ chức, về kinh tế, về hành chính, và cơ chế vận hành chúng nhằm tổ chức có hiệu quả việc thực thi các luật thuế như: bộ máy quản lý thu thuế, các biện pháp, quy trình nghiệp vụ; hệ thống các tổ chức tư vấn thuế: các trường đào tạo thuế. 1.2.1.2. Khái niệm về hệ thống thuế thu nhập Qua nghiên cứu ở trên về các vấn đề cơ bản của hệ thống thuế, ta có thể khái quát khái niệm thuế thu nhập và hệ thống thuế thu nhập như sau: Thuế thu nhập là một loại thuế trực thu đánh trực tiếp vào thu nhập thực tế của các đối tượng nộp thuế như các thể nhân hoặc các pháp nhân. Tính chất của loại thuế này là có sự thống nhất giữa người nộp thuế và người chịu thuế, hay nói cách khác là người nộp thuế đồng thời là người phải thực sự phải chịu khoản thuế này. Hệ thống thuế thu nhập là tổng hợp các hình thức thuế thu nhập khác nhau với cơ chế hoạt động, đối tượng điều chỉnh, phương pháp đánh thuế, mức độ điều 17
  24. tiết và phương pháp thu nộp khác nhau. Các hình thức thuế thu nhập có mối quan hệ mật thiết, tác động lẫn nhau nhằm thực hiện các mục tiêu điều điều hòa thu nhập cùng với các mục tiêu kinh tế xã hội khác của Nhà nước. Hệ thống thuế thu nhập chủ yếu bao gồm: - Ở trạng thái tĩnh: là các luật thuế, chính sách thuế, cơ chế vận hành của luật và chính sách thuế liên quan tới thu nhập của cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức. - Ở trạng thái động: là hệ thống tổ chức quản lý thuế, các định chế, các cơ quan thu thuế, quản lý thuế thu nhập. Thuế thu nhập có nhiều biến tướng khác nhau với các tên gọi khác nhau. Ví dụ như: thuế thu nhập cá nhân; thuế tiền lương, tiền công; thuế doanh thu, thuế thu nhập công ty, Tuy nhiên, tựu chung lại thì thuế thu nhập là các loại thuế đánh vào thu nhập của các cá nhân, doanh nghiệp hay tổ chức có thu nhập trên mức phải nộp thuế theo quy định pháp luật. Ở Việt Nam, hệ thống thuế thu nhập hiện nay bao gồm hai loại thuế chủ yếu đó là thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân. 1.5.2. Các đặc điểm của thuế thu nhập - Là thuế trực thu và khó chuyển Tính chất trực thu của loại thuế thu nhập được thể hiện ở khía cạnh đối tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế là một. Thông thường, trong các quy định về luật thuế thu nhập doanh nghiệp hay luật thuế TNCN thì đối tượng chịu thuế thường là thu nhập của các tổ chức, cá nhân đó sau khi đã trừ đi các khoản chi phí. Còn đối tượng nộp thuế chính là các tổ chức cá nhân có thu nhập chịu thuế. Tính khó chuyển thể hiện ở chỗ: đây là thuế đánh vào thu nhập của đối tượng nộp thuế nên đối tượng này phải kê khai và nộp thuế thu nhập. Không giống như các loại thuế gián thu như thuế giá trị gia tăng hay thuế tiêu thụ đặc biệt thì đối tượng nộp thuế có thể chuyển, khấu trừ thuế thông qua các phương pháp nộp thuế mà pháp luật quy định 18
  25. - Có tính công bằng xã hội cao Thuế thu nhập là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập chịu thuế của đối tượng nộp thuế. Với các biểu thuế suất lũy tiến thì người có thu nhập cao theo đó sẽ phải nộp một mức thuế cao hơn so với những người có mức thu nhập thấp hơn. Và những người có mức thu nhập thấp hơn nữa thì không phải nộp thuế. Điều này khác với các loại thuế gián thu đánh vào tiêu dùng. Theo đó, người giàu hay người nghèo, có thu nhập cao hay thấp nếu tiêu dùng một lượng hàng hóa như nhau thì phải chịu một mức thuế như nhau, tạo ra tính chất lũy thoái của thuế gián thu và giảm đi tính công bằng của loại thuế này. Như vậy, với việc quy định rõ các mức thuế suất cho các đối tượng có mức thu nhập khác nhau. Thuế thu nhập là một loại thuế quan trọng góp phần điều hoà công bằng xã hội. - Tƣơng đối nhạy cảm Tính nhạy cảm thể hiện ở chỗ, thuế thu nhập đánh trực tiếp vào thu nhập của đối tượng nộp thuế. Chính vì vậy, bất kỳ một sự thay đổi nào trong thuế suất, căn cứ tính thuế, phương pháp tính thuế, đều thu hút sự chú ý lớn từ đông đảo dư luận. Nếu như thuế suất tăng thì đối tượng chịu thuế phải nộp khoản thuế cao hơn. Điều này tất nhiên sẽ gây ra sự phản ứng gay gắt từ quần chúng khiến cho việc thực thi thuế gặp rất nhiều khó khăn. Ngược lại, nến hạ mức thuế suất xuống quá thấp thì sẽ ảnh hưởng tới nguồn thu NSNN - Thƣờng có tính lũy tiến Tính lũy tiến trong các biểu thuế thu nhập được sinh ra nhằm đảm bảo tính công bằng của loại thuế này. Đối với các mức thuế suất lũy tiến tăng dần khi thu nhập chịu thuế tăng dần thì đối tượng nào càng có thu nhập cao thì phải nộp mức thuế cao hơn. Điều này là hoàn toàn hợp lý trong việc phân chia và điều tiết thu nhập. - Chiếm tỷ trọng rất lớn tại Mỹ và Tây Âu Biều đồ 1: Tỷ trọng các loại thuế trong cơ cấu NSNN bang và liên bang Hoa Kỳ 19
  26. Nguồn: Economic Report of the President, American, 2002, http.g://w3.access po/eop/, Table B-81; and Bureau of Economic Analysis, Table 3.3. Ta có thể thấy, thuế TNCN (individual income taxes) là nguồn thu cực kỳ quan trọng đối với ngân sách Nhà nước Hoa Kỳ (chiếm tới 50%), và cũng chiếm một tỷ trọng khá cao trong ngân sách của các bang (18%). Cùng với đó, thuế công ty (corporate income) cũng chiếm tới 8% ngân sách Nhà nước Hoa Kỳ và chiếm 2% ngân sách bang. Điều đó cho thấy hệ thống thuế thu nhập chiếm một tỷ trọng chủ yếu trong nguồn thu NSNN tại Mỹ. Còn tại Tây Âu, theo thống kê trang web nationmaster.com tỷ trọng thuế TNDN trong tổng thu NSNN là 20,5% đối với Luxembourg, 13,1% đối với Ai-len, 10,4% đối với Hy Lạp, 9,3% đối với Phần Lan, và từ khoảng 8 – 9% đối với một số nước như Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Hà Lan Thụy Sĩ. Về thuế TNCN, chúng ta có thể xem bảng sau: 20
  27. Bảng 1: Tỷ trọng thuế TNCN trong tổng thu NSNN của một số nước. # Denmark: 53.2% 1 # New Zealand: 42.3% 2 # Iceland: 38.6% 3 # Australia: 38.5% 4 # United States: 37.7% 5 # Canada: 35% 6 # Switzerland: 34.4% 7 # Belgium: 31.7% 8 # Finland: 31.2% 9 # Sweden: 30.4% 10 # United Kingdom: 29.8% 11 # Mexico: 28.9% 12 Nguồn: taxation-components-personal-income-tax Như vậy, ta có thể thấy, tại hầu hết các nước Tây Âu và Bắc Mỹ, tỷ trọng thuế TNCN trong tổng thu NSNN là rất cao. Nếu tính tổng tỷ trọng thuế TNDN và TNCN thì tỷ trọng này vào khoảng từ 40 – 65%. Điều đó chứng tỏ hệ thống thuế thu nhập có vai trò rất quan trọng đối với các nước này. - Thuế TNCN ít gây biến dạng trên thị trƣờng hàng hóa nhƣng có ảnh hƣởng lớn tới thị trƣờng lao động. Đặc điểm này cũng xuất phát từ chính đặc điểm trực thu của thuế thu nhập cá nhân. Thuế thu nhập đánh vào thu nhập chịu thuế của cá nhân, không đánh trực tiếp vào việc tiêu dùng hàng hóa nên ít gây biến động trên thị trường hàng hóa. Tuy nhiên, nếu thuế thu nhập cá nhân quá cao sẽ dẫn tới hiện tượng chuyển dịch lao động theo vị trí địa lý. Người lao động tại nơi bị đánh thuế TNCN cao sẽ 21
  28. chuyển tới làm việc ở những nơi mà họ chỉ phải nộp một mức thuế thấp hơn. Chính điều này tạo ra sự mất cân đối trong cơ cấu lao động giữa các vùng miền, giữa các quốc gia. 1.5.3. Vai trò của hệ thống thuế thu nhập đối với nền kinh tế 1.5.3.1. Thuế thu nhập là khoản thu quan trọng của NSNN Điều này thể hiện ở phạm vi áp dụng của các luật thuế thu nhập. Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, phạm vi áp dụng của luật thuế này rất rộng rãi, là tất cả mọi cơ sở sản xuất kinh doanh có thu nhập. Mặt khác, cùng với xu hướng tăng trưởng kinh tế, quy mô của các hoạt động kinh tế ngày càng được mở rộng, hiệu quả kinh doanh ngày càng cao sẽ tạo ra guồn thu về thuế TNDN ngày càng lớn cho NSNN. Điều này cũng tương tự đối với thuế TNCN, khi bất kỳ cá nhân nào có thu nhập ở một mức cao nhất định trong xã hội đều phải nộp thuế. Cùng với đó, sự phát triển kinh tế mạnh mẽ cũng khuyến khích các tầng lớp cá nhân kinh doanh để tìm kiếm thu nhập cao hơn. Điều này tất yếu làm tăng thu cho NSNN thông qua thuế TNCN 1.5.3.2. Thuế thu nhập là một công cụ để Nhà nước thực hiện chính sách công bằng xã hội Thuế TNDN được tính trên số thu nhập còn lại sau khi đã trừ đi tất cả những khoản chi phí hợp lý theo quy định với mức thuế suất ổn định cho nên những doanh nghiệp có thu nhập cao phải nộp thuế nhiều. Ngược lại những doanh nghiệp có thu nhập ở mức thấp hơn thì nộp ít thuế hơn, doanh nghiệp không có thu nhập thì không phải nộp thuế, đã tạo ra sự bình đẳng trong khả năng đóng góp cho NSNN giữa các cơ sở kinh doanh. 22
  29. Đối với thuế TNCN, thông quan việc áp dụng các mức thuế suất lũy tiến từng phần, những cá nhân có thu nhập rất cao thì phải nộp một khoản thuế đáng kể cho NSNN. Ngược lại đối với những cá nhân có mức thu nhập chưa cao nhưng vẫn trong diện phải chịu thuế thì chỉ phải nộp một phần rất nhỏ trong thu nhập của họ. 1.5.3.3. Thuế thu nhập là công cụ quan trong của Nhà nước trong việc điều tiết các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, quản lý thu nhập của cá nhân Thông qua hệ thống thuế suất ưu đãi, chế độ miễn giảm thuế, thuế TNDN đã góp phần khuyến khích đầu tư, sản xuất kinh doanh phát triển theo định hướng của Nhà nước nhằm đảm bảo một cơ cấu kinh tế hợp lý. Đối với thuế TNCN, thông qua hệ thống kê khai nộp thuế, Nhà nước có thể kiểm soát được mức thu nhập của từng cá nhân. Từ đó có những định hướng phát triển kinh tế xã hội dựa trên nguồn thu nhập của cá nhân. 1.6. Các tiêu chí đánh giá sự hoàn thiện của một hệ thống thuế Để đánh giá hệ thống thuế của một quốc gia nhất định, người ta thường ít chú ý tới số lượng của các loại thuế trong hệ thống thuế đó, mà chủ yếu đánh giá xem xét đến khía cạnh chất lượng của hệ thống thuế đó. Mỗi quốc gia tùy theo điều kiện lịch sử kinh tế xã hội ở từng thời kỳ cụ thể mà định hướng xây dựng hệ thống thuế riêng của mình. Hệ thống thuế đó phải phản ánh được những mục tiêu của Nhà nước đặt ra. Chính vì vậy, việc tìm ra những tiêu thức chung để đánh giá một hệ thống thuế được coi là tích cực hay hiệu quả không phải là dễ dàng. Tuy nghiên nếu xem xét các yêu cầu chung của sự phát triển nền kinh tế quốc dân, cũng như đòi hỏi một xã hội dân chủ trong việc xác lập một hệ thống thuế tích cực, phù hợp và hiệu quả thì tất yếu phải đặt ra những tiêu thức cần thiết để xây dựng một hệ thống thuế. 23
  30. 1.6.1. Tính công bằng, bình đẳng Tính công bằng là một đòi hỏi khách quan trong việc phân chia gánh nặng của thuế khóa đối với các tầng lớp dân cư trong xã hội. Có công bằng trong nghĩa vụ nộp thuế mới động viên các thành phần kinh tế trong xã hội hăng hái lao động, do đó mới đảm bảo được các mục tiêu kinh tế và chính trị của đất nước. Các nhà kinh tế cho rằng tính công bằng của thuế phải dựa theo nguyên tắc công bằng theo chiều ngang và công bằng theo chiều dọc. - Hệ thống thuế được coi là công bằng theo chiều ngang, nếu các cá nhân có điều kiện về mọi mặt đều như nhau thì được đối xử như nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế. Tuy nhiên, nguyên tắc này khó áp dụng trong thực tiễn do không thể chỉ rõ tiêu thức nào để xác định hai cá nhân có điều kiện về mọi mặt như nhau, mặt khác cũng khó xác định việc đối xử như nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế là như thế nào. - Hệ thống thuế được coi là công bằng theo chiều dọc, nếu người có khả năng nộp thuế nhiều hơn thì phải nộp thuế cao hơn những người khác có khả năng nộp thuế ít hơn. Trong thực tế, để áp dụng nguyên tắc này cần phải xác định rõ hai vấn đề: tiêu thức xác định khả năng và mức độ nộp thuế cao hơn. Vấn đề tiêu thức xác định khả năng nộp thuế cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Phổ biến hiện nay người ta dùng tiêu thức thu nhập hoặc tiêu dùng để đánh giá khả năng nộp thuế. Cũng có ý kiến đề nghị để đánh thuế công bằng nên dựa vào lợi ích mà người nộp thuế nhận được từ việc cung cấp dịch vụ, hàng hóa công cộng của Nhà nước. Trong thực tế, có nhiều hàng hóa công cộng do Nhà nước cung cấp không thể xác định được lợi ích cụ thể mà cá nhân nhận được để xác định mức thuế. Việc căn cứ vào lợi ích để đánh thuế chỉ xảy ra trong trường hợp mà việc cung cấp hàng hóa công cộng đó xác định được một cách chính xác lợi ích mà cá nhân nhận được. Tóm lại, công bằng trong thuế khóa là một đòi hỏi khách quan, nhưng việc đánh giá một hệ thống thuế được coi là công bằng không phải là công việc dễ 24
  31. dàng. Do đó, công bằng trong thuế khóa vẫn thuộc về nhận thức quan điểm của mỗi quốc gia 1.6.2. Tính hiệu quả Tính hiệu quả của hệ thống thuế được xét trên các mặt sau: Thứ nhất, hiệu quả đối với nền kinh tế là lớn nhất Xét trên phương diện kinh tế, hành vi đánh thuế của Nhà nước bao giờ cũng ảnh hưởng tới việc phân bổ nguồn lực của xã hội và chịu sự chi phối của hai tác nhân có xu hướng vận động không đồng nhất là: Nhà nước và các lực lượng thị trường. Sự phân bổ nguồn lực dưới tác động của các lực lượng thị trường thường dựa trên yêu cầu của các quy luật kinh tế thị trường, còn sự phân bổ nguồn lực dưới tác động của Nhà nước thường dựa trên yêu cầu của xã hội và yêu cầu của nhà quản lý, điều chỉnh theo chức năng của Nhà nước. Nói chung, sự phân bổ các nguồn lực dưới tác động của các lực lượng thị trường hiệu quả hơn. Tuy nhiên, do động cơ chủ yếu là lợi nhuận, nên xét ở tầm vĩ mô việc phân bổ các nguồn lực dưới tác động của các lực lượng thị trường, trong nhiều trường hợp lại không đem lại hiệu quả chung cho nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, tất yếu phải có sự kết hợp của các hệ thống phân bổ nguồn lực của Nhà nước, trong đó công cụ thuế để điều chỉnh các xu hướng vận động khác nhau nhằm đạt hiệu quả chung cho nền kinh tế quốc dân. Như vậy, tính hiệu quả của hệ thống thuế được xét dưới hai góc độ: giảm tối thiếu những tác động tiêu cực của thuế trong phân bổ nguồn lực vốn đã đạt hiệu quả dưới tác động của các lực lượng thị trường; tăng cường vai trò của thiế đối với việc phân bổ nguồn lực chưa đạt được hiệu qủa dưới tác động của các lực lượng thị trường. Thứ hai, hiệu quả thu thuế là lớn nhất: Thể hiện tính hiệu quả của thuế là tổng số thuế thu được là lớn nhất với chi phí tổ chức thu thuế là thấp nhất. Trong thực tế, khi thu thuế bao giờ cũng phát sinh chi phí, đó là các khoản chi phí trực tiếp quản lý của cơ quan thuế và những 25
  32. chi phí gián tiếp do người nộp thuế gánh chịu. Tính hiệu quả của thu thuế được thể hiện là tổng số thuế thu được nhiều nhất trên cơ sở chi phí trực tiếp của cơ quan thuế và chi phí gián tiếp của người nộp thuế là thấp nhất. Các khoản chi phí trên gọi là chi phí hành chính và sự tăng hay giảm các khỏan chi phí này phụ thuộc vào: tính phức tạp hay đơn giản của hệ thống thuế; số lượng và mức độ phân biệt của thuế suất đối với đối tượng nộp thuế cũng như cơ sở tính thuế; sự lựa chọn các loại thuế. Nói chung các loại thuế có cơ sở tính thuế phức tạp, yêu cầu quản lý cao thường có chi phí hành chính lớn. Nhằm giảm bớt chi phí hành chính đòi hỏi hệ thống thuế phải đơn giản chứa đựng ít mục tiêu. Mặc khác hệ thống thuế đơn giản, dễ hiểu thì việc quản lý, kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước đối với người nộp thuế mới dễ dàng thuận lợi. 1.6.3. Tính chính xác (tính rõ ràng, minh bạch) Một hệ thống thuế chính xác thể hiện sự rõ ràng và minh bạch. Tức là, hệ thống thuế trước hết phải chỉ rõ ai chịu thuế, mức thuế phải nộp và thời hạn nộp thuế. Một hệ thống thuế rõ ràng và minh bạch sẽ tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư tính toán chính xác được hiệu qủa kinh doanh và nghĩa vụ nộp thuế. Đây là yếu tố quan trọng để các nhà đầu tư trong và ngoài nước yên tâm bỏ tiền đầu tư vào các dự án phát triển sản xuất, kinh doanh. Ngược lại, hệ thống thuế không rõ ràng minh bạch sẽ gây khó khăn cho các nhà đầu tư trong việc xác định hiệu quả kinh doanh và nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, do đó làm cản trở việc thu hút vốn đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế. 1.6.4. Tính thuận tiện Tính thuận tiện thể hiện sự dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ quản lý và khả năng thích ứng một cách dễ dàng của hệ thống thuế với những hoàn cảnh kinh tế thay đổi. Yêu cầu về tính dễ hiểu, dễ thực hiện thường thuộc về kỹ thuật xây dựng các văn bản pháp luật quy định về thuế sao cho logic, mạch lạc, rõ ràng, các từ dùng 26
  33. trong văn vản phải mang tính phổ thông để dễ hiểu và hiểu đúng thì thực hiện mới đúng và dễ kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện luật thuế trong thực tế. Hệ thống thuế phải đảm bảo có khả năng dễ thích ứng với sự thay đổi của hoàn cảnh kinh tế thì mới phát huy được vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế. Bởi vì các Nhà nước ban hành ra chính sách thuế, nhưng người thực hiện chính sách thuế ấy là các tầng lớp dân cư trong xã hội. Cho nên chính sách thuế càng đơn giản, dễ hiểu thì người dân mới có điều kiện hiểu rõ và làm đúng theo quy định của các luật thuế. Có như vậy, thuế mới phát huy được vai trò là công cụ chủ yếu tạo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước và thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Để đảm bảo được yêu cầu này mà không vi phạm các nguyên tắc đã định ra, khi xây dựng hệ thống thuế thì cơ quan lập pháp thường chỉ quy định khung thuế suất, còn việc quy định thuế suất cụ thể thường giao cho cơ quan hành pháp, có như vậy mới đảm bảo cho hệ thống thuế thích ứng với những biến động của hoàn cảnh kinh tế. Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trên cơ sở mở rộng hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Do đó, để phát huy hơn nữa vai trò quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế của công cụ thuế, hệ thống thuế hiện hành cần phải tiếp tục được sửa đổi, hoàn thiện và bổ sung sao cho phù hợp với yêu cầu của tình hình mới. Trên cơ sở các tiêu thức xây dựng hệ thống thuế, kết hợp với tình hình kinh tễ xã hội ở nước ta hiện nay thì hệ thống thuế mà chúng ta hướng tới cần phải đảm bảo được những tiêu thức cụ thể sau: - Thuế phải bao quát hết nguồn thu để quản lý và thu cho Ngân sách Nhà nước - Thuế phải là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế có hiệu quả góp phần khuyến khích sản xuất, kinh doanh phát triển, khuyến khích đầu tư và khuyến khích tối đa cho xuất khẩu, nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần thực hiện chính sách mở rộng kinh tế đối ngoại của Nhà nước. 27
  34. - Thuế phải góp phần động viên công bằng, hợp lý thu nhập xã hội - Chính sách thuế phải quán triệt yêu cầu đơn giản, dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra. - Chính sách thuế phải xây dựng trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm và rút ra những bài học kinh nghiệm của các nước trên thế giới, nhất là các nước có điều kiện kinh tế tương đồng với nước ta; đồng thời phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước trong từng thời kỳ, cũng như truyền thống, phong tục tập quán của dân tộc. 28
  35. Chƣơng 2: THỰC TRẠNG NHỮNG BẤT CẬP, VƢỚNG MẮC TRONG HỆ THỐNG THUẾ THU NHẬP TẠI VIỆT NAM 2.1. Tổng quan về hệ thống thuế thu nhập tại Việt Nam 2.1.1. Về Thuế thu nhập doanh nghiệp 2.1.1.1. Về khung pháp lý điều chỉnh Luật thuế TNDN của nước ta hiện nay là Luật thuế TNDN được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 03/06/2008, ban hành ngày 12/06/2008 và được chính thức áp dụng từ ngày 01/01/2009. Luật này thay cho luật thuế TNDN trước đó áp dụng từ ngày 01/01/2004. Cũng đi kèm với luật này là những văn bản pháp lý dưới luật hướng dẫn cụ thể và chi tiết việc thi hành luật này. Đó là: - Nghị định 124/2008/ NĐ – CP của chính phủ ban hành ngày 11/12/2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật thuế TNDN 2008 - Thông tư 130/2008/ TT – BTC, do Bộ tài chính ban hành ngày 26/12/2008 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế TNDN 2008 và hướng dẫn thi hành nghị định 124/2008 quy định chi tiết thi hành một số điều của luật thuế TNDN 2008 - Thông tư 12/2009/ TT – BTC do Bộ tài chính ban hành ngày 22/01/2009 hướng dẫn thực hiện gia hạn nộp thuế TNDN 2009 đối với doanh nghiệp kinh doanh một số ngành nghề - Thông tư 06/2010/ TT – BTC do Bộ tài chính ban hành ngày 13/01/2010 hướng dẫn xác định doanh thu tính thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động bán vé, bán thẻ hội viên sân gôn. - Quyết định 12/2010/ QĐ – TTg của thủ tướng chính phủ ban hành ngày 12/02/2010 về việc gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. 29
  36. 2.1.1.2. Phạm vi áp dụng thuế TNDN a. Về đối tượng chịu thuế TNDN Theo luật thuế TNDN hiện hành, đối tượng chịu thuế bao gồm: - Thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ - Và các thu nhập khác. b. Về đối tượng nộp thuế TNDN, bao gồm: - Các tổ chức sản xuất kinh doanh, được thành lập theo Luật pháp Việt Nam thực hiện sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ (kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) - Các công ty nước ngoài hoạt động kinh doanh thông qua cơ sở thường trú tại Việt Nam (cơ sở thường trú của công ty nước ngoài ở Việt Nam là cơ sở kinh doanh mà thông qua cơ sở này công ty nước ngoài tiến hành một phần hay toàn bộ hoạt động kinh doanh của mình tại Việt Nam) Như vậy, việc xác định đối tượng nộp thuế TNDN dựa trên 2 căn cứ: - Doanh nghiệp, các tổ chức sản xuất kinh doanh phải đóng trên lãnh thổ Việt Nam (bao gồm cả các cơ sở thường trú của công ty nước ngoài, các tổ chức nước ngoài tại Việt Nam) và thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp - Phải có thu nhập từ các hoạt động sản xuất kinh doanh đó. c. Về thu nhập được miễn thuế: bao gồm - Các khoản thu nhập từ trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản của tổ chức được thành lập theo Luật hợp tác xã và các khoản thu nhập từ việc thực hiện dịch vụ kỹ thuật trực tiếp phục vụ nông nghiệp - Thu nhập từ nghiên cứu khoa học, công nghệ mới lần đầu áp dụng tại Việt Nam - Thu nhập từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, dạy nghề của doanh nghiệp dành riêng cho lao động là người tàn tật, người sau cai nghiện, người nhiễm HIV và các đối tượng xã hội có hoàn cảnh khó khăn khác 30
  37. - Khoản tài trợ nhận được để sử dụng cho hoạt động giáo dục, nghiên cứu khoa học, văn hoá, nghệ thuật, từ thiện, nhân đạo và hoạt động xã hội khác tại Việt Nam. Đây là một điểm mới so với luật thuế TNDN năm 2003. Theo luật thuế TNDN 2003, hầu hết những thu nhập kể trên được quy định là thu nhập không thuộc diện chịu thuế, tức là không phải kê khai nộp thuế. Tuy nhiên, theo luật mới lần này thì các thu nhập này dù được miễn thuế nhưng vẫn phải đăng ký kê khai thuế. 2.1.1.3. Căn cứ và phương pháp tính thuế TNDN Thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp được xác định theo công thức sau: Thuế TNDN phải nộp = Thu nhập tính thuế (TNTT) x Thuế suất thuế TNDN - Trường hợp doanh nghiệp nế u có trích quỹ phát triển khoa học và công nghệ thì thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp được xác định như sau: Thuế TNDN phải nộp = (TNTT – phần trích lập quỹ KH&CN) x Thuế suất thuế TNDN Trong đó: + TNTT được xác định theo công thức sau: TNTT = TNCT – (TN được miễn thuế + Các khoản lỗ được kết chuyển) + Thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế xác định như sau: TNCT = Doanh thu – Chi phí được trừ + Các khoản thu nhập khác a. Doanh thu tính thuế Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là toàn bộ tiền bán hàng hoá, tiền gia công, tiền cung cấp dịch vụ bao gồm cả khoản trợ giá, phụ thu, phụ trội mà doanh nghiệp được hưởng không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền. Doanh thu được tính bằng đồng tiền Việt Nam. - Đối với doanh nghiệp nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thuế là doanh thu chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng. 31
  38. - Đối với doanh nghiệp nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp trên giá trị gia tăng là doanh thu bao gồm cả thuế giá trị gia tăng. Nếu trong chuẩn mực kế toán hay văn bản pháp luật khác có định nghĩa doanh thu khác với định nghĩa doanh thu tính thuế trong văn bản pháp quy về thuế thì thực hiện theo văn bản pháp quy về thuế. b. Chi phí hợp lý được trừ và không được trừ Các khoản chi phí phải được tính bằng đồng Việt Nam. Nếu có khoản chi tính bằng ngoại tệ thì phải quy đổi ra tiền Việt Nam theo tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm phát sinh chi phí bằng ngoại tệ. Các khoản chi phí hợp lý được trừ theo luật quy định bao gồm: - Khoản chi thực tế phát sinh liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; - Khoản chi có đủ hoá đơn, chứng từ hợp pháp theo quy định của pháp luật Các khoản chi phí không được trừ bao gồm: (i) Khoản chi không đáp ứng đủ các điều kiện về khoản chi hợp lý nên trên; (ii) Khoản tiền phạt do vi phạm hành chính; (iii) Phần chi vượt mức theo quy định của pháp luật về trích lập dự phòng; (iv) Phần chi phí nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, năng lượng, hàng hóa vượt định mức tiêu hao do doanh nghiệp xây dựng, thông báo cho cơ quan thuế và giá thực tế xuất kho; (v) Phần chi trả lãi tiền vay vốn sản xuất, kinh doanh của đối tượng không phải là tổ chức tín dụng hoặc tổ chức kinh tế vượt quá 150% mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm vay; (vi) Trích khấu hao tài sản cố định không đúng quy định của pháp luật; (vii) Tiền lương, tiền công của chủ doanh nghiệp tư nhân; thù lao trả cho sáng lập viên doanh nghiệp không trực tiếp tham gia điều hành sản xuất, kinh doanh; (ix) Chi trả lãi tiền vay vốn tương ứng với phần vốn điều lệ còn thiếu; (x) Phần chi quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại, hoa hồng môi giới; chi tiếp tân, khánh tiết, hội nghị; chi hỗ trợ tiếp 32
  39. thị, chi hỗ trợ chi phí, chiết khấu thanh toán; chi báo biếu, báo tặng của cơ quan báo chí liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh vượt quá 10% tổng số chi được trừ; đối với doanh nghiệp thành lập mới là phần chi vượt quá 15% trong ba năm đầu, kể từ khi được thành lập. Tổng số chi được trừ không bao gồm các khoản chi quy định tại điểm này; đối với hoạt động thương mại, tổng số chi được trừ không bao gồm giá mua của hàng hoá bán ra; c. Các khoản thu nhập khác Luật thuế TNDN không quy định cụ thể chi tiết về các khoản thu nhập khác. Tuy nhiên, trong thông tư 130/2008 có quy định đầy đủ, cụ thể về 20 khoản thu được xếp vào thu nhập khác của doanh nghiệp, điển hình là: thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản; thu nhập từ quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản; thu nhập từ chuyển nhượng, cho thuê, thanh lý tài sản; thu nhập từ lãi tiền gửi, cho vay vốn, bán ngoại tệ; hoàn nhập các khoản dự phòng; thu khoản nợ khó đòi đã xoá nay đòi được; thu khoản nợ phải trả không xác định được chủ; khoản thu nhập từ kinh doanh của những năm trước bị bỏ sót và các khoản thu nhập khác, kể cả thu nhập nhận được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh ở ngoài Việt Nam. d. Thuế suất thuế TNDN Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 25%, trừ trường hợp được áp dụng thuế suất ưu đãi theo quy định của luật thuế TNDN 2008 Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí và tài nguyên quý hiếm khác tại Việt Nam từ 32% đến 50%. Mức cụ thể do Thủ tướng chính phủ quy định 2.1.1.4. Ưu đãi thuế TNDN a. Ưu đãi về thuế suất 33
  40. - Mức thuế suất ưu đãi 10% dành cho: Doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, khu kinh tế, khu công nghệ cao; doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghệ cao, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng của Nhà nước, sản xuất sản phẩm phần mềm. Bên cạnh đó là các Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao và môi trường - Mức thuế suất ưu đãi 20% dành cho: Doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn trong thời gian mười năm. Và các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp và quỹ tín dụng nhân dân b.Ư u đãi về thời gian miễn thuế, giảm thuế: - Mức ưu đãi tối đa là 9 năm dành cho hầu hết các đối tượng doanh nghiệp được hưởng mức thuế suất ưu đãi 10% - Doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn được miễn thuế tối đa không quá 2 năm và giảm 50% số thuế phải nộp tối đa không quá bốn năm tiếp theo c. Chuyển lỗ - Doanh nghiệp có lỗ được chuyển số lỗ sang năm sau; số lỗ này được trừ vào thu nhập tính thuế. Thời gian được chuyển lỗ không quá năm năm, kể từ năm tiếp theo năm phát sinh lỗ. - Doanh nghiệp có lỗ từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản chỉ được chuyển số lỗ vào thu nhập tính thuế của hoạt động này. d. Về vấn đề trích lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp. - Mức tối đa là 10% thu nhập hàng năm của doanh nghiệp 34
  41. - Trong thời hạn 5 năm, kể từ khi trích lập, nếu Quỹ phát triển khoa học và công nghệ không được sử dụng hoặc sử dụng không hết 70% hoặc sử dụng không đúng mục đích thì doanh nghiệp phải nộp ngân sách nhà nước phần thuế thu nhập doanh nghiệp tính trên khoản thu nhập đã trích lập quỹ mà không sử dụng hoặc sử dụng không đúng mục đích và phần lãi phát sinh từ số thuế thu nhập doanh nghiệp đó 2.1.2. Về thuế thu nhập cá nhân 2.1.2.1. Về khung pháp lý điều chỉnh Luật thuế TNCN hiện hành của Việt Nam được thông qua tại Quốc Hội Khóa XII, kỳ họp thứ 2 ngày 21/12/2009 bắt đầu có hiệu lực vào ngày 01/01/2009 là đạo luật về thuế TNCN đầu tiên ở nước ta. Bên cạnh luật này, còn có một số các văn bản pháp lý dưới luật hướng dẫn cụ thể và chi tiết việc thi hành luật này. Đó là: - Thông tư 84/2008/TT-BTC ban hành ngày 30/09/2008 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân và hướng dẫn thi hành Nghị định số 100/2008/NĐ-CP ngày 08/9/2008 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân - Thông tư 62/2009/TT-BTC ban hành ngày 27/03/2009 hướng dẫn sửa đổi, bổ sung Thông tư số 84/2008/TT-BTC hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân và hướng dẫn thi hành Nghị định số 100/2008/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân - Thông tư 161/2009/TT-BTC ban hành ngày 12/08/2009 hướng dẫn về thuế thu nhập cá nhân đối với một số trường hợp chuyển nhượng, nhận thừa kế, nhận quà tặng là bất động sản - Thông tư 160/2009/TT-BTC ban hành ngày 12/08/2009 hướng dẫn miễn thuế thu nhập cá nhân năm 2009 theo Nghị quyết số 32/2009/NQH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội - Thông tư 176/2009/TT-BTC ban hành ngày 09/09/2009 hướng dẫn về việc 35
  42. giảm thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân làm việc tại khu kinh tế - Thông tư 02/2010/TT-BTC ban hành ngày 11/01/2010 hướng dẫn bổ sung Thông tư số 84/2008/TT-BTC hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân và hướng dẫn thi hành Nghị định số 100/2008/NĐ-CP ngày 8/9/208 quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân 2.1.2.2. Phạm vi điều chỉnh a. Đối tượng nộp thuế Đối tượng nộp thuế theo luật thuế TNCN 2007 được xác định theo tiêu chí cá nhân cư trú và cá nhân không cứ trú. Cá nhân cư trú là người đáp ứng một trong các điều kiện sau đây: - Có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương lịch hoặc tính theo 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam; - Có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi ở đăng ký thường trú hoặc có nhà thuê để ở tại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn. Trong việc quy định đối tượng nộp thuế, luật cũng áp dụng quy tắc loại trừ. Những người nào thỏa mãn điều kiện là cá nhân cư trú thì là cá nhân cư trú. Những đối tượng không thỏa mãn điều kiện trên thì không được coi là cá nhân cư trú b. Thu nhập chịu thuế. Luật thuế TNCN 2007 quy định 10 nhóm thu nhập chịu thuế cụ thể như sau 1. Thu nhập từ kinh doanh: bao gồm thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và các ngành nghề khác theo quy định pháp luật 2. Thu nhập từ tiền lương, tiền công, bao gồm: (i) Tiền lương, tiền công và các khoản có tính chất tiền lương, tiền công; (ii) Các khoản phụ cấp, trợ cấp, trừ các khoản phụ cấp, trợ cấp theo quy định của pháp luật về các khoản ưu đãi theo 36
  43. quy định của pháp luật như các khoản phụ cấp cho người có công, phụ cấp quốc phòng, an ninh, phụ cấp độc hại, nguy hiểm; (iii) Tiền thù lao dưới các hình thức; (iv) Tiền nhận được từ tham gia hiệp hội kinh doanh, hội đồng quản trị, ban kiểm soát, hội đồng quản lý và các tổ chức; (v) Các khoản lợi ích khác mà đối tượng nộp thuế nhận được bằng tiền hoặc không bằng tiền; (vi) Tiền thưởng, trừ các khoản tiền thưởng kèm theo các danh hiệu được Nhà nước phong tặng, tiền thưởng kèm theo giải thưởng quốc gia, giải thưởng quốc tế, tiền thưởng về cải tiến kỹ thuật, sáng chế, phát minh được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận, tiền thưởng về việc phát hiện, khai báo hành vi vi phạm pháp luật với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 3. Thu nhập từ đầu tư vốn, bao gồm: tiền lãi cho vay; lợi tức cổ phần; thu nhập từ đầu tư vốn dưới các hình thức khác. 4. Thu nhập từ chuyển nhượng vốn, bao gồm: (i) Thu nhập từ chuyển nhượng phần vốn trong các tổ chức kinh tế; (ii) Thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán; (iii) Thu nhập từ chuyển nhượng vốn dưới các hình thức khác 5. Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, bao gồm: (i) Thu nhập từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; (ii) Thu nhập từ chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc sử dụng nhà ở; (iii) Thu nhập từ chuyển nhượng quyền thuê đất, thuê mặt nước; (iv) Các khoản thu nhập khác nhận được từ chuyển nhượng bất động sản. 6. Thu nhập từ trúng thưởng, bao gồm: trúng thưởng xổ số; trúng thưởng trong các hình thức khuyến mại; Trúng thưởng trong các hình thức cá cược, casino; và các hình thức trúng thưởng khác 7. Thu nhập từ bản quyền, bao gồm: Thu nhập từ chuyển giao, chuyển quyền sử dụng các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ; Thu nhập từ chuyển giao công nghệ. 8. Thu nhập từ nhượng quyền thương mại. 37
  44. 9. Thu nhập từ nhận thừa kế là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng. 10. Thu nhập từ nhận quà tặng là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng. c. Thu nhập được miễn thuế Thu nhập được miễn thuế theo luật thuế TNCN 2007 bao gồm 14 nhóm thu nhập miễn thuế cụ thể như sau: 1. Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau. 2. Thu nhập từ chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn liền với đất ở của cá nhân trong trường hợp cá nhân chỉ có một nhà ở, đất ở duy nhất. 3. Thu nhập từ giá trị quyền sử dụng đất của cá nhân được Nhà nước giao đất. 4. Thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là bất động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau. 5. Thu nhập của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, làm muối, nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản chưa qua chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường. 6. Thu nhập từ chuyển đổi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao để sản xuất. 38
  45. 7. Thu nhập từ lãi tiền gửi tại tổ chức tín dụng, lãi từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. 8. Thu nhập từ kiều hối. 9. Phần tiền lương làm việc ban đêm, làm thêm giờ được trả cao hơn so với tiền lương làm việc ban ngày, làm trong giờ theo quy định của pháp luật. 10. Tiền lương hưu do Bảo hiểm xã hội chi trả. 11. Thu nhập từ học bổng, bao gồm: Học bổng nhận được từ ngân sách nhà nước; Học bổng nhận được từ tổ chức trong nước và ngoài nước theo chương trình hỗ trợ khuyến học của tổ chức đó. 12. Thu nhập từ bồi thường hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ, tiền bồi thường tai nạn lao động, khoản bồi thường nhà nước và các khoản bồi thường khác theo quy định của pháp luật. 13. Thu nhập nhận được từ quỹ từ thiện được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập hoặc công nhận, hoạt động vì mục đích từ thiện, nhân đạo, không nhằm mục đích lợi nhuận. 14. Thu nhập nhận được từ nguồn viện trợ nước ngoài vì mục đích từ thiện, nhân đạo dưới hình thức chính phủ và phi chính phủ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. 2.1.2.3. Căn cứ tính thuế đối với cá nhân cư trú a. Thu nhập chịu thuế từ kinh doanh - . Đối với cá nhân kinh doanh không thực hiện chế độ kế toán hoá đơn, chứng từ nộp thuế theo phương pháp khoán, thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân được xác định theo công thức: TNCT trong kỳ = Doanh thu ấn định x Tỷ lệ thu nhập do cơ quan thuế ấn định 39
  46. - Đối với cá nhân kinh doanh chỉ hạch toán được doanh thu bán hàng hoá, dịch vụ, không hạch toán, xác định được chi phí. Thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân được xác định theo công thức: TNCT trong kỳ = Doanh thu để tính TNCT trong kỳ x Tỷ lệ TNCT ấn định - Đối với cá nhân kinh doanh thực hiện đầy đủ chế độ kế toán hoá đơn, chứng từ, thu nhập chịu thuế được xác định theo công thức: TNCT trong kỳ = Doanh thu – Chi phí hợp lý + TNCT khác trong kỳ Trong đó: - Doanh thu là toàn bộ tiền bán hàng, tiền gia công, tiền hoa hồng, tiền cung ứng hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong kỳ tính thuế từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ. - Chi phí hợp lý liên quan đến việc tạo ra thu nhập chịu thuế từ kinh doanh trong kỳ tính thuế (chi tiết được quy định tại thống tư số 84) - Trường hợp nhiều người cùng tham gia kinh doanh trong một đăng ký kinh doanh thì thu nhập chịu thuế của mỗi người được xác định theo một trong các nguyên tắc sau đây: + Tính theo tỷ lệ vốn góp của từng cá nhân ghi trong đăng ký kinh doanh; +Tính theo thoả thuận giữa các cá nhân ghi trong đăng ký kinh doanh; + Tính bằng số bình quân thu nhập đầu người trong trường hợp đăng ký kinh doanh không xác định tỷ lệ vốn góp hoặc không có thoả thuận về phân chia thu nhập giữa các cá nhân. b. Thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công Thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công được xác định bằng tổng số tiền lương, tiền công, tiền thù lao, các khoản thu nhập khác có tính chất tiền lương, tiền công mà đối tượng nộp thuế nhận được trong kỳ tính thuế 40
  47. c. Các khoản giảm trừ - Giảm trừ gia cảnh + Giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, thu nhập từ tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú. + Mức giảm trừ gia cảnh: Đối với đối tượng nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng, 48 triệu đồng/năm. Mức 4 triệu đồng/tháng là mức tính bình quân cho cả năm, không phân biệt một số tháng trong năm tính thuế không có thu nhập hoặc thu nhập dưới 4 triệu đồng/tháng; Đối với mỗi người phụ thuộc mà người nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng là 1,6 triệu đồng/tháng kể từ tháng phát sinh nghĩa vụ nuôi dưỡng + Việc giảm trừ gia cảnh theo 2 nguyên tắc: đầu tiên đối tượng nộp thuế phải đăng ký kê khai từ trước; thứ hai, mỗi người phụ thuộc chỉ được tính giảm trừ một lần vào một đối tượng nộp thuế trong năm tính thuế + Người phụ thuộc bao gồm các đối tượng: Con: con đẻ, con nuôi, con ngoài giá thú; Vợ hoặc chồng của đối tượng nộp thuế ngoài độ tuổi lao động hoặc trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật nhưng bị tàn tật, không có khả năng lao động, không có thu nhập hoặc có thu nhập nhưng không vượt quá mức quy định; Cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ, mẹ vợ (hoặc cha chồng, mẹ chồng) của đối tượng nộp thuế ngoài độ tuổi lao động hoặc trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật nhưng bị tàn tật, không có khả năng lao động, không có thu nhập hoặc có thu nhập nhưng không vượt quá mức quy định; Các cá nhân khác như anh, chị em ruột, cháu ruột, mà đối tượng nộp thuế trực tiếp nuôi dưỡng. - Các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo, khuyến học phát sinh năm nào được giảm trừ vào thu nhập chịu thuế của năm đó, nếu giảm trừ không hết trong năm thì cũng không được chuyển trừ vào thu nhập chịu thuế của năm tính thuế 41
  48. tiếp theo. Mức giảm trừ tối đa không vượt quá thu nhập tính thuế từ tiền lương, tiền công và thu nhập từ kinh doanh của năm phát sinh đóng góp từ thiện nhân đạo. d. Thuế suất Thuế suất thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền công được áp dụng theo biểu thuế luỹ tiến từng phần theo quy định tại Điều 22 Luật Thuế thu nhập cá nhân, cụ thể như sau: Bậc Phần thu nhập tính thuế/năm Phần thu nhập tính Thuế suất thuế (triệu đồng) thuế/tháng (triệu đồng) (%) 1 Đến 60 Đến 5 5 2 Trên 60 đến 120 Trên 5 đến 10 10 3 Trên 120 đến 216 Trên 10 đến 18 15 4 Trên 216 đến 384 Trên 18 đến 32 20 5 Trên 384 đến 624 Trên 32 đến 52 25 6 Trên 624 đến 960 Trên 52 đến 80 30 7 Trên 960 Trên 80 35 Biểu thuết suất toàn phần đối với các đối tượng còn lại quy định trong luật như sau: 42
  49. Thu nhập tính thuế Thuế suất (%) a) Thu nhập từ đầu tư vốn 5 b) Thu nhập từ bản quyền, nhượng quyền thương mại 5 c) Thu nhập từ trúng thưởng 10 d) Thu nhập từ thừa kế, quà tặng 10 đ) Thu nhập từ chuyển nhượng vốn 20 Thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán (từng lần) 0,1 e) Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản 25 Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản (từng hợp đồng) 2 e. Cách tính thuế. * Thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền công là tổng số thuế được tính theo từng bậc thu nhập và thuế suất tương ứng theo biểu luỹ tiến từng phần, trong đó số thuế tính theo từng bậc thu nhập được xác định bằng thu nhập tính thuế của bậc thu nhập nhân (x) với thuế suất tương ứng của bậc thu nhập đó *Cách tính thuế đối với các khoản thu nhập khác Số thuế thu nhập phải nộp = thu nhập tính thuế x thuế suất tương ứng 2.1.2.4. căn cứ tính thuế đối với cá nhân không cư trú. - Đối với cá nhân kinh doanh (i) 1% đối với hoạt động kinh doanh hàng hoá; (ii) 5% đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ; (iii) 2 % đối với hoạt động sản xuất, xây dựng, vận tải và hoạt động kinh doanh khác. - Đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công: 20% - Thuế suất toàn phần đối với các loại thu nhập khác: cũng giống như quy định của các đối tượng cư trú. 43
  50. 2.2. Những kết quả đạt đƣợc của hệ thống thuế thu nhập mới. 2.2.1. Về thuế TNDN Thứ nhất, luật thuế TNDN 2008 đã đảm bảo tính chính xác trong cách trình bày cũng như tạo sự minh bạch, rõ ràng hơn so với luật này 2003: Ví dụ về thu nhập miễn thuế: Luật năm 2003 quy định, thu nhập được miễn thuế tại nhiều điều khác nhau như tại điều 2, điều19. Ngoài ra, còn có một số loại thu nhập xét về bản chất và ý nghĩa đối với kinh tế - xã hội thì cần xem xét không thu như: các khoản tài trợ dùng cho hoạt động từ thiện, nhân đạo, văn hóa, giáo dục, nghệ thuật, nghiên cứu khoa học; thu nhập do người sau cai nghiện làm ra Để phù hợp với thực tế nêu trên, bảo đảm rõ ràng, minh bạch và thể hiện được chính sách điều tiết đối với từng loại thu nhập, Luật năm 2008 quy định rõ thu nhập chịu thuế, thu nhập được miễn thuế (không phải tính thuế) và thu nhập tính thuế trên cơ sở sắp xếp lại các điều 2, điều 19 của Luật năm 2003. Các nội dung sửa đổi này được thể hiện trong điều 3 của Luật - Thu nhập chịu thuế, điều 4 - Thu nhập được miễn thuế. Tính chính xác cũng thể hiện trong việc quy định các loại chi phí được trừ và chi phí không được trừ khi tính thuế. Điều 9 luật thuế TNDN 2008 quy định rõ ràng tiêu chuẩn của chi phí được trừ và liệt kê các loại chi phí không được trừ. Đây là điểm mới so với luật thuế TNDN 2003. Theo đó, luật này không quy định cụ thể về các chi phí được trừ mà chỉ quy định tính hợp pháp và điều kiện để một chi phí phát sinh được tính là chi phí hợp lý. Đồng thời luật cũng quy định các trường hợp cụ thể về các khoản chi không được trừ. Do vậy, theo nguyên tắc loại trừ, nếu khoản chi nào giống với các khỏan chi không hợp lý thì nghiễm nhiên không được trừ ra khỏi chi phí hợp lý. Điều này tạo điều kiện dễ dàng hơn cho doanh nghiệp so sánh, đối chiếu. Thứ hai, luật thuế TNDN 2008 đã tạo ra sự thuận tiện hơn trong công tác kê khai nộp thuế: Luật năm 2003 quy định, doanh nghiệp kê khai, nộp thuế tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi đóng trụ sở chính. Tuy nhiên, hiện doanh 44
  51. nghiệp thường có cơ sở kinh doanh tại nhiều địa phương khác với địa phương đặt trụ sở chính. Nếu như vẫn phải nộp thuế tại nơi đóng trụ sở chính sẽ là rất bất tiện tronng công tác nộp thuế vì phải di chuyển từ nơi này sang nơi khác. Để giải quyết vấn đề này, điều 12 của Luật năm 2008 đã quy định: Doanh nghiệp nộp thuế tại nơi có trụ sở chính. Trường hợp doanh nghiệp có cơ sở sản xuất hạch toán phụ thuộc hoạt động tại địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khác với địa bàn nơi doanh nghiệp có trụ sở chính thì số thuế được tính nộp theo tỷ lệ chi phí giữa nơi có cơ sở sản xuất và nơi có trụ sở chính. Thứ ba, Luật thuế TNDN ban hành năm 2008 đã có tác động tích cực trong việc cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao hiệu quả của sắc thuế. Luật thuế TNDN hiện hành đã hạ mức thuế suất từ 28% xuống còn 25% áp dụng chung cho tất các các loại hình doanh nghiệp phổ thông. Việc điều chỉnh giảm mức thuế đối với doanh nghiệp trong nước không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp mới thành lập mà còn tạo thêm tiềm lực tài chính cho các doanh nghiệp đang hoạt động đổi mới thiết bị, bổ sung vốn đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Bên cạnh đó, mức thuế suất 25% được coi là mức thuế tương đối hấp dẫn đầu tư nước ngoài xét trên bình diện tương quan với các nước trong khu vực. (thuế suất thuế TNDN hiện nay của Trung Quốc và Hàn Quốc là 25%, của Singapore là 19%, của Hồng Kông là 17,5%). Nhiều người lo ngại, thuế suất thuế TNDN giảm sẽ ảnh hưởng tới doanh thu từ loại thuế này. Tuy nhiên, việc giảm thuế suất này là hợp lý, có cơ sở mà vẫn đảm bảo được hiệu quả thu thuế. Khi thuế suất giảm, môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam được cải thiện hơn, từ đó sẽ thu hút thêm nhiều nhà đầu tư đến với thị trường Việt Nam. Bên cạnh đó, điều này cũng khuyến khích các doanh nghiệp mới được thành lập. Số lượng doanh nghiệp tăng, quy mô và hiệu quả kinh doanh tăng lên, nguồn thu từ thuế TNDN ắt sẽ tăng. Hơn nữa, thuế suất giảm thì ý thức chấp hành luật thuế cũng nghiêm chỉnh hơn. Chính vì vậy, hiệu quả thu thuế được đảm bảo. 45
  52. Thứ tư, Luật thuế TNDN cũng tạo điều kiện thúc đẩy cải cách hành chính trong quản lý thuế và ưu đãi đầu tư: Luật thuế TNDN năm 2008 tiếp tục kế thừa và phát huy những điểm mạnh của luật thuế này năm 2003 về cơ chế doanh nghiệp tự tính, tự khai, tự nộp thuế, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính trung thực của số liệu đã kê khai thay cho cơ chế cơ quan thuế tính thuế, thông báo thuế, quyết toán thuế. Việc ban hành và thực thi Luật thuế TNDN đã đánh dấu một bước tiến về cải cách thủ tục hành chính trong quản lý thuế và đầu tư khi đề cao trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc lựa chọn, xác định điều kiện và mức ưu đãi thuế mà không cần cấp giấy phép, giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư. Nhờ việc chuyển sang cơ chế mới, cơ quan thuế có điều kiện tập trung nguồn lực vào công tác tuyên truyền, hỗ trợ, kiểm tra, giám sát để giúp doanh nghiệp thực hiện tốt những quy định của pháp luật. Chính những điều này đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp trong công tác nộp thuế, cũng như tạo điều kiện tốt hơn cho cơ quan thuế trong công tác thu thuế, từ đó đảm bảo được yêu cầu thuận tiện của một sắc thuế. 2.2.2. Về luật thuế thu nhập cá nhân Thứ nhất, luật thuế TNCN 2007 có tính công bằng cao hơn hẳn so với pháp lệnh thuế đối với người có thu nhập cao trước đó. Đó là việc đưa cá nhân kinh doanh vào diện nộp thuế TNCN. Theo quy định trước đây, cá nhân kinh doanh thuộc diện chịu thuế TNDN. Sự thay đổi này, trước hết đảm bảo tính công bằng trong điều tiết thu nhập bởi đã là cá nhân có thu nhập chịu thuế thì dù thu nhập từ bất kì nguồn nào cũng đều được đối xử như nhau, tức là đều chịu thuế TNCN. Thêm vào đó, việc điều tiết thu nhập của cá nhân kinh doanh theo Luật thuế TNCN thực hiện theo phương pháp luỹ tiến sẽ đảm bảo điều tiết hợp lý thu nhập dân cư. Điều này rất có ý nghĩa đối với các hộ kinh doanh nhỏ ở Việt Nam vì theo quy định trước đây họ phải nộp thuế TNDN với thuế suất chung bằng với các doanh nghiệp (thông thường là những đơn vị kinh doanh có quy mô lớn). Việc áp 46
  53. dụng thuế suất như với các doanh nghiệp là quá cao đối với hộ cá nhân kinh doanh. Hơn nữa, quy định này cũng đảm bảo tính thông lệ quốc tế, vì hầu hết các nước đều đưa cá nhận kinh doanh vào diện nộp thuế TNCN. Bên cạnh đó, việc áp dụng giảm trừ gia cảnh cá nhân và người phụ thuộc đồng thời với các khoản giảm trừ đối với đóng góp từ thiện, nhân đạo làm cho việc xác định nghĩa vụ thuế của mối đối tượng nộp thuế được công bằng hơn. Công bằng ở chỗ: thay vì áp dụng mức khởi điểm chịu thuế chung cho mọi đối tượng chịu thuế thì việc áp dụng chiết trừ gia cảnh đã tính tới hoàn cảnh của đối tượng nộp thuế. Thứ hai, đó là về tính hiệu quả trong luật thuế TNCN 2007. Tính hiệu quả trước tiên thể hiện ở việc mở rộng diện điều tiết một cách hợp lý trên cơ sở bổ sung một số khoản thu nhập chịu thuế: Một số khoản thu nhập trước đây không quy định (mặc nhiên được coi là thu nhập không chịu thuế) được quy định trong Luật thuế TNCN gồm: thu nhập từ chuyển nhượng quyền thương mại, thu nhập từ quà tặng là chứng khoán, phần vốn trong các cơ sở kinh doanh, bất động sản hoặc tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc sử dụng (tuy nhiên, thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản của cá nhận chỉ có nhà ở, đất ở duy nhất được miễn thuế), thu nhập từ casino, thu nhập từ trúng thưởng các cuộc thi có thưởng và các hình thức trúng thưởng khác (trước đây chỉ tính đối với trúng thưởng xổ số và khuyến mại). Tất nhiên, những khoản thu nhập này chỉ bị đánh thuế khi thu nhập phát sinh lớn (từ trên 10 triệu đồng một hợp đồng hoặc một lần phát sinh). Liên quan đến thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng, kế thừa, quà tặng, có một quy định đáng chú ý là Luật thuế TNCN quy định miễn thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng, thừa kế, quà tặng giữa các đối tượng thân thích đặc biệt như vợ chồng, cha mẹ, ông bà, con cái, anh chị em, Cùng với đó, Một số khoản thu nhập trước đây tạm thời chưa thu thuế như thu nhập từ đầu tư vốn (gồm lãi cho vay, lợi tức cổ phần và thu nhập từ đầu tư vốn dưới các hình thức khác); thu nhập từ chuyển nhượng vốn bao gồm cả chuyển nhượng chứng khoán. Tuy nhiên, phần thu nhập từ lãi tiền gửi tại các tổ chức tín dụng (ngân hàng, các quỹ tín dụng và 47
  54. các tổ chức tín dụng khác) và lãi từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ được miễn thuế TNCN. Mở rộng diện điều tiết như trên không chỉ góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà nước một cách hợp lí trên cơ sở không bỏ sót nguồn thu của nền kinh tế. Đồng thời, việc quy định này còn góp phần điều tiết công bằng thu nhập của các tầng lớp dân cư theo hướng mọi cá nhân có thu nhập (trừ trường hợp thu nhập rất thấp và một số trường hợp đặc biêt) đều phải có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước. Thứ ba, về tính chính xác, luật thuế TNCN 2007 đã có những quy định cụ thể hơn, minh bạch hơn so với pháp lệnh thuế thu nhập dành cho người có thu nhập cao trước đó. Tính chính xác thể hiện trước tiên ở việc quy định đối tượng nộp thuế. Theo đó, việc định nghĩa rõ hơn đối tượng cư trú (đối tượng phải nộp thuế TNCN cho Việt Nam đối với toàn bộ thu nhập, kể cả thu nhập phát sinh ở Việt Nam và nước ngoài). Nếu như trước đây, đối tượng cư trú chỉ là cá nhân có mặt ở Việt Nam từ 183 ngày trở lên trong năm dương lịch hoặc tính theo 12 tháng liên tục kể từ khi đến Việt Nam thì Luật thuế TNCN đã bổ sung thêm một điều kiện nữa được coi là cư trú ở Việt Nam, đó là "cá nhân có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi ở đăng ký thường trú hoặc có nhà thuê để ở lại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn". Bổ sung như vậy làm cho việc xác định đối tượng nộp thuế được thuận lợi hơn, bao quát hết đối tượng nộp thuế và mở rộng đói tượng nộp thuế một cách hợp lý. Tính chính xác còn thể hiện ở việc sử dụng thuật ngữ "thu nhập được miễn thuế" thay cho "thu nhập không chịu thuế" cũng làm rõ hơn bản chất của các loại thu nhập này(7) === (7) thu-nhap-ca-nhan-nhung-diem-moi-day-y-2.html 48
  55. 2.3. Thực trạng những bất cập, vƣớng mắc trong hệ thống thuế thu nhập tại Việt Nam 2.3.1. Đối với luật thuế TNDN 2.3.1.6. Bất cập về các khoản chi được trừ và các khoản chi không được trừ Thứ nhất, Tại khoản 2.4, mục IV, phần C thông tư 130/2008/ TT – BTC có quy định chi phí của doanh nghiệp mua hàng hóa, dịch vụ không có hóa đơn, được phép lập bảng kê thu mua hàng hóa, dịch vụ mua vào theo mẫu số 01/ TNDN nhưng không lập bảng kê kèm theo chứng từ thanh toán cho cơ sở, người bán hàng, cung cấp dịch vụ trong các trường hợp: mua hàng hóa là nông sản, lâm sản, thủy sản của ngưởi sản xuất, đánh bắt trực tiếp bán ra; mua sản phẩm thủ công làm bằng đay, cói, tre, nứa, vỏ dừa và một số chi phí tương tự khác liên quan tới việc mua hàng hóa, dịch vụ từ đối tượng kinh doanh, buôn bán nhỏ lẻ sẽ không được tính vào chi phí được trừ. Điều này là rất khó thực hiện đối với doanh nghiệp, nhất là đối với các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực nhà hàng. Họ thường xuyên phải mua các nguyên vật liệu nông sản như rau, củ, quả hay các đồ gia vị từ những tiểu thương với giá thành rẻ hơn. Nhưng trên thực tế, các doanh nghiệp này rất khó có thể lập bảng kê chi tiết đi kèm với chứng từ thanh toán cho các đối tượng này, do tập quán buôn bán nhỏ lẻ. Chính vì vậy việc quy định này vi phạm tiêu chí thuận tiện của một sắc thuế khi việc ghi chép cũng như tiến hành thủ tục này là rất khó khăn. Nếu có thể thì nên ấn định một mức cụ thể cho các đối tượng hàng hóa này đối với các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng có liên quan. Thứ hai, tại khoản 2.5d mục IV, phần C thông tư 130/2008/ TT – BTC quy định tiền lương, tiền công của doanh nghiệp tư nhân, chủ các công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (do một cá nhân làm chủ); thù lao trả cho các sáng lập viên, thành viên của hội đồng thành viên, hội đồng quản trị không trực tiếp tham gia điều hành sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không được tính vào chi phí được trừ. Việc quy định này là chưa rõ ràng ở chỗ thế nào là “trực tiếp tham gia 49
  56. điều hành” và “không trực tiếp tham gia điều hành”. Vì vậy cần có định nghĩa rõ ràng hơn về điều này để tránh gây nhẫm lẫn, hiểu lầm vi phạm tính chính xác của một sắc thuế. Thứ ba, tại khoản 2.6 mục IV, phần C thông tư 130/2008/ TT – BTC có quy định về các khoản chi không được trừ liên quan tới trang phục cho người lao động bao gồm các khoản chi trang phục cho người lao động không có hóa đơn, phần chi trang phục bằng hiện vật cho người lao động vượt quá 1500000 đồng/người/năm; phần chi trang phục bằng tiền cho người lao động vượt quá 1000000 đồng/người/ năm. Điều này vi phạm tính chính xác khi không quy định rõ ràng về nếu đã chi bằng hiện vật thì khoản chi bằng tiền không được trừ nữa. Các doanh nghiệp hoàn toàn có thể lách luật khi hạch toán cả chi phí trang phục cho người lao động bằng hiện vật và bằng tiền. Thứ tư, tại điều 2.14 cũng tại mục này có quy định về chi phí không được trừ liên quan tới chi phí trả lãi tiền vay vốn sản xuất kinh doanh của các đối tượng không phải là tổ chức tín dụng hoặc tổ chức kinh tế vượt quá 150% mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm vay. Trên thực tế, hiện nay đã có quy định về mức lãi suất cho vay thỏa thuận giữa các doanh nghiệp với tổ chức tín dụng có thể vượt quá 150 %. Vậy tại sao các doanh nghiệp vay vốn ở ngoài vẫn phải chịu mức chi chí được trừ khống chế ở mức 150%. Điều này rõ ràng đã vi phạm tính công bằng của một sắc thuế. 2.3.1.7. Bất cập liên quan tới thu nhập khác của doanh nghiệp Theo TT 130/2008 thì có 20 khoản mục thu nhập khác, theo đó tại khoản 5, mục V, phần C thông tư này có quy định: Thu nhập khác từ lãi tiền gửi, lãi cho vay vốn bao gồm: lãi tiền gửi tại các tổ chức tín dụng, lãi cho vay vốn dưới mọi hình thức theo quy định của pháp luật, phí bảo lãnh tín dụng và các khoản phí khác trong hợp đồng cho vay vốn. Việc quy định “lãi tiền gửi” thành “thu nhập khác” đã gây ra phản ứng gay gắt trong cộng đồng doanh nghiệp 50
  57. Dưới đây, xin trích ra 2 câu chuyện trên thời báo kinh tế Sài Gòn(8) để minh họa cho điều này: Câu chuyện 1: Một nhà đầu tư nước ngoài X vào những năm 1990, đến Việt Nam và đến những vùng khó khăn, hay những ngành mà Nhà nước muốn khuyến khích đầu tư có thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp hấp dẫn 10%, 15%, 20%. Hay là nhà đầu tư Y ở Việt Nam, muốn làm ăn trong những năm đầu “đổi mới” đã đầu tư vào khu công nghiệp A, B, C nào đó và đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấp phép đầu tư, trong giấy phép đầu tư đã ghi rõ thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 15% cho cả thời gian dự án là 40 năm. Những nhà đầu tư này chỉ lo làm ăn đúng ngành nghề quy định trong giấp phép, không quan tâm đến “kinh doanh khác” nhằm kiếm thêm “thu nhập khác”. Tám năm qua tính từ năm 2000-2008, nhà đầu tư này ăn nên làm ra và nộp thuế theo thuế suất 15%. Năm 2009 nhà đầu tư này có tổng lãi toàn bộ từ hoạt động kinh doanh là 100 tỉ đồng, trong đó chi phí lãi vay là 20 tỉ, lãi tiền gửi là 10 tỉ, tựu trung lại là chi phí tài chính là 10 tỉ. Lúc này theo TT 130 nhà đầu tư này phải kê khai: Lãi từ kinh doanh chính: 90 tỉ, còn 10 tỉ lãi tiền gửi thì phải áp dụng “thu nhập khác”. Nói cách khác, thuế thu nhập sẽ bị tác động (xem bảng). (8) 51
  58. Vậy là theo TT 130 thì nhà đầu tư này phải nộp thêm 1 tỉ đồng tiền thuế do cách xác định “thu nhập khác” này không được hưởng thuế suất ưu đãi là 15%. Thế nhưng, 10 tỉ lãi tiền gửi có thực sự là thu nhập ròng hay không? Là một doanh nghiệp sản xuất và không đủ vốn nên phải vay vốn ngân hàng, vay theo kỳ hạn và đến hạn phải trả. Ví dụ doanh nghiệp vay 300 tỉ, còn bán hàng thì thu tiền dần dần, doanh thu hàng ngày được tập hợp lại và doanh nghiệp tranh thủ đặt tiền gửi kỳ hạn một tuần, tháng, quí tùy theo tình hình cụ thể. Khi đủ một lượng tiền thích hợp và đến ngày đáo hạn doanh nghiệp mới trả nợ ngân hàng. Hoặc là doanh nghiệp vay ngoại tệ nhập hàng 3 hay 5 triệu đô la, doanh nghiệp thu được tiền đồng và tranh thủ đặt tiền gửi kỳ hạn tuần, tháng Khi có một lượng tiền đồng đủ lớn và ngân hàng có ngoại tệ thì doanh nghiệp mới mua được 1 hay 2 triệu đô la để trả nợ vay. Cả năm tổng kết lại, lãi vay ngân hàng phải trả là 20 tỉ đồng nhưng lãi tiền gửi là 10 tỉ, tựu trung lại chi phí tài chính vẫn là 10 tỉ. Vậy dưới góc nhìn tổng thể doanh nghiệp không có 1 đồng lãi tiền gửi nào cả. Câu chuyện 2: Giả sử có một nhà đầu tư mới vào vào một khu công nghiệp nào đó trong năm 2009 và trên giấy phép đầu tư có ghi rõ thuế suất thuế thu nhập là 10% trong vòng 15 năm đầu tiên đi vào hoạt động kinh doanh. Năm 2009 và 2010 chỉ là hai 52
  59. năm đầu tiên xây dựng cơ bản, nhà đầu tư này đã bỏ vào công ty 100 tỉ đồng vốn để tiến hành xây dựng nhà máy. Trong năm 2009 giám đốc tài chính đã tranh thủ lượng vốn nhàn rỗi chưa giải ngân cho công trình nên đã gửi vào ngân hàng và có khoản thu nhập lãi tiền gửi là 1 tỉ đồng. Với tình hình như thế báo cáo thuế hay kê khai thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2009 là thu nhập tính thuế bằng không, thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp bằng không. Còn theo cách mới đang thi hành (theo TT 130), nhà đầu tư phải kê khai thuế thu nhập là thu nhập tính thuế 1 tỉ (lãi tiền gửi). Thuế suất thuế thu nhập là 25%, vị chi thuế phải nộp là 250 triệu. Giám đốc công ty này sẽ hỏi, 1/ giấy phép đầu tư ghi rõ thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 10%, tại sao phải nộp 25%; 2/ công ty đang trong quá trình xây dựng cơ bản, chưa đi vào sản xuất kinh doanh tại sao phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp? Giám đốc tài chính chỉ có thể trả lời: tại quy định của TT 130 như vậy. Từ 2 câu chuyện trên ta thấy tiền lãi mà doanh nghiệp phải trả được hạch toán vào chi phí tài chính là hoàn toàn hợp lý. Số tiền nhàn rỗi của doanh nghiệp được gửi vào ngân hàng để hưởng lãi nhằm giảm thiểu chi phí tài chính của doanh nghiệp. Theo đó, khoản mục này cũng phần nào đó giảm bớt chi phí trước thuế. Tuy nhiên theo quy định mới thì khoản chi phí này lại được tính vào thu nhập khác, điều này tất nhiên gây bất bình cho doanh nghiệp. Có thể vì muốn tận thu thuế, mà cơ quan thuế đã liệt kê khoản mục này vào thu nhập khác. Tuy nhiên, điều này chưa chắc đã đạt yêu cầu hiệu quả của một sắc thuế mà còn vi phạm các tiêu chí công bằng và chính xác. 2.3.1.8. Bất cập về ưu đãi thuế Đây có lẽ là một trong những bất cập lớn nhất của hệ thống thuế thu nhập doanh nghiệp tại Việt Nam. Luật thuế TNDN 2008 không có nhiều sự thay đổi về các thu nhập được miễn thuế so với luật này năm 2003. Tại phần H, thông tư 130 53
  60. có quy định tới 8 nhóm doanh nghiệp được miễn thuế với phạm vi vẫn còn tương đối rộng, cộng với rất nhiều các quy định liên quan tới ưu đãi về thuế suất và thời gian ưu đãi thuế đối với các đối tượng khác nhau. Ví dụ: Về khoản 4, mục II, phần H thông tư 130 có quy định về mức thuế suất ưu đãi 20% trong thời gian 10 năm áp dụng đối với doanh nghiệp thành lập từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Do thời gian ưu đãi thuế là quá dài, các doanh nghiệp có thể lách luật bằng cách thành lập doanh nghiệp tại địa bàn kinh tế khó khăn bằng cách đặt trụ sở ở đó để hưỡng ưu đãi thuế nhưng công việc kinh doanh chính có thể không diễn ra ở đó. Tiếp nữa, cũng tại mục III, phần H của thông tư này có quy định về thời gian miễn thuế và giảm thuế tương đối dài (miễn thuế thường là 4 năm, thời gian giảm thuế từ 2 – 9 năm) đối với các đối tượng thuộc diện chính sách (các doanh nghiệp thành lập ở khu vực đặc biệt khó khăn, các doanh nghiệp thành lập và hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao, xã hội hóa, ). Điều này có thể dẫn tới tình trạng doanh nghiệp sẽ thành lập tại những khu vực này để hưởng miễn giảm thuế trong thời gian đầu, sau đó lại chuyển trụ sở chính hoặc chỉ duy trì một số ít hoạt động tại khu vực này sau khi hết thời gian miễn giảm thuế. Thiết nghĩ, miễn giảm thuế cho hoạt động sản xuất, kinh doanh đối với các đối tượng trên là cần thiết. Song không nên đặt lên “vai” chính sách thuế nhiệm vụ này bởi những lý do sau: Một là, chính sách thuế là chính sách kinh tế. Nếu áp đặt vào chính sách kinh tế quan trọng này quá nhiều mục tiêu xã hội tất yếu sẽ làm mất ý nghĩa là một công cụ quản lý của một chính sách kinh tế. Những mục tiêu xã hội cần giải quyết nhằm bảo đảm tính ưu việt của chế độ ta cần được giải quyết thông qua những chính sách khác. Hai là, miễn thuế, giảm thuế dù ở mức độ khác nhau đều làm ảnh hưởng đến sự công bằng trong cạnh tranh trên thương trường. Đó là điều không nên để xảy ra từ một chính sách kinh tế của nhà nước trong kinh tế thị trường. 54
  61. Ba là, việc miễn thuế, giảm thuế, vô hình trung, tạo ra một tâm lý chạy, xin và làm lu mờ ý thức về nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước của các cơ sở kinh doanh. Bốn là, việc miễn thuế, giảm thuế tất yếu sẽ dẫn đến những khó khăn, phức tạp hơn cho công tác quản lý thuế. Đó là “mảnh đất màu mỡ” có thể phát sinh các hành vi tiêu cực cả đối với các DN và cán bộ, công chức thuế. Năm là, miễn thuế, giảm thuế là nhân tố đặc biệt quan trọng làm suy yếu công tác kế toán DN. Thực tiễn cho thấy, với những DN đang trong thời gian được miễn thuế, giảm thuế, công tác kế toán DN đã không được quan tâm và do đó, tính minh bạch không được bảo đảm. Mặt khác, đòi hỏi quan trọng nhất đối với chính sách thuế nói chung và thuế TNDN nói riêng là sự ổn định. Bởi lẽ, chính sách thuế có liên quan mật thiết đến việc xác định chiến lược trong đầu tư, kinh doanh của các DN. Nếu chính sách thuế phải thường xuyên thay đổi để lồng ghép chính sách vào đó cho các đối tượng khác nhau và thường xuyên thay đổi thì tất yếu sẽ vi phạm nguyên tắc công bằng giữa các đối tượng nộp thuế và nguyên tắc hiệu quả trong công tác thu thuế. 2.3.1.9. Bất cập về vấn đề chuyển lỗ Vấn đề chuyển lỗ là một trong những vấn đề nhạy cảm và dễ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp lách luật nhất. Bằng nhiều thủ đoạn và phương pháp, doanh nghiệp hoàn toàn có thể biến lãi thành lỗ hòng trốn thuế. Ví dụ, doanh nghiệp có thể tăng tới mức tối đa các khoản trích lập dự phòng cho hàng tồn kho, chứng khoán, đầu tư ngắn hạn, dài hạn, để tăng chi phí và giảm thu nhập chịu thuế, thậm chí có thể chuyển lãi thành lỗ để không phải nộp thuế. Một cách phổ biến hơn đó là hình thức chuyển giá của những công ty liên doanh thành lập tại Viêt nam có công ty mẹ hoặc các chi nhánh ở nước ngoài. Về nguyên tắc đóng thuế TNDN, nếu lãi thì doanh nghiệp phải nộp thuế, nếu lỗ thì không phải nộp. Vì vậy, không nên có quy định chuyển lỗ trong luật thuế. 55
  62. Tuy nhiên, với chính sách khuyến khích phát triển kinh tế của Nhà nước ta, việc quy định chuyển lỗ là cần thiết. Mặc dù vậy, những quy định liên quan tới vấn đề chuyển lỗ trong luật thuế TNDN 2008 vẫn còn nhiều bất cập: Thứ nhất, quy định về thời gian chuyển lỗ tính liên tục không quá 5 năm, kể từ năm tiếp sau năm phát sinh lỗ là quá dài và không hợp lý. Theo đó, các doanh nghiệp có thể làm đủ mọi cách để khiến doanh nghiệp mình lỗ, và có thể lỗ nặng từ những năm đầu, tới những năm sau thu nhập ít hoặc gần như không có thu nhập để khoản lỗ khấu trừ mãi không hết trong tận 5 năm sau. Hết thời gian 5 năm này, doanh nghiệp lại có thể thực hiện chiêu thức tương tự để trốn thuế trong 5 năm tiếp theo. Thứ hai, bất cập thể hiện trong khoản 4, mục VII, phần C thông tư 130/2008. Theo đó, doanh nghiệp là liên doanh của doanh nghiệp khác khi có quyết định giải thể mà bị lỗ thì số lỗ được phân bổ cho từng doanh nghiệp tham gia liên doanh với thời gian liên tục không quá 5 năm. Dựa vào điểm này, các doanh nghiệp có thể chuyển lãi từ doanh nghiệp của mình sang đầu tư liên doanh vào doanh nghiệp khác với chủ đích cố ý hạch toán lỗ cho doanh nghiệp mà mình góp vốn liên doanh, sau đó giải thể doanh nghiệp đó nhằm chuyển số lỗ của doanh nghiệp được góp vốn sang doanh nghiệp mình trong một khoảng thời gian dài là 5 năm. Hoặc một biện pháp tương đối phổ biến đó là việc chuyển giá giữa các công ty mẹ con. Các công ty này mua bán với nhau để cố tính tạo lỗ và lại được chuyển lỗ trong 5 năm liền. Nhờ đó, trong khoảng thời gian 5 năm, số lỗ này cứ được khấu trừ từ năm này qua năm khác, và doanh nghiệp đã trốn được thuế. Cả hai bất cập trên gây ra sự bất bình đẳng giữa những doanh nghiệp hạch toán đúng và những doanh nghiệp cố tình hạch toán sai. Điều này vi phạm tiêu chí công bằng và đồng thời cũng vi phạm tính hiệu quả của một sắc thuế. 56