Khóa luận Phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng tại Vân Đồn, Quảng Ninh

pdf 98 trang hapham 1900
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng tại Vân Đồn, Quảng Ninh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_phat_trien_du_lich_sinh_thai_dua_vao_cong_dong_tai.pdf

Nội dung text: Khóa luận Phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng tại Vân Đồn, Quảng Ninh

  1. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà LỜI CẢM ƠN Để thực hiện được luận văn này, tác giả xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới PGS. TS. Nguyễn Thị Hải, cô đã hướng dẫn và giúp đỡ tác giả hoàn thành khoá luận này. Tác giả xin chân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, các thầy, cô giáo trong Khoa Văn hoá - Du lịch, Trường ĐHDL Hải Phòng đã tạo điều kiện và tận tình giảng dạy tác giả trong suốt quá trình học tập tại Trường. Cuối cùng tác giả xin gửi lời cảm ơn trân trọng tới UBND huyện Vân Đồn và người dân huyện Vân Đồn đã cung cấp những tư liệu giúp tác giả hoàn thành tốt khoá luận tốt nghiệp. Hải Phòng, ngày 30 tháng 06 năm 2010 Sinh viên thực hiện Bùi Thị Hà 1
  2. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 6 2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài nghiên cứu 7 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 7 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 8 5. Cấu trúc của luận văn 9 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ DU LỊCH SINH THÁI DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG 10 1.1.Du lịch sinh thái 10 1.1.1. Lịch sử nghiên cứu về du lịch sinh thái 10 1.1.2.Quan điểm về du lịch sinh thái 11 1.2.Du lịch cộng đồng 11 1.2.1. Khái niệm về du lịch dựa vào cộng đồng 11 1.2.2. Ý nghĩa phát triển du lịch cộng đồng 13 1.2.3. Nguyên tắc phát triển du lịch cộng đồng 14 1.2.4. Điều kiện phát triển du lịch cộng đồng 14 1.2.5. Đặc điểm của du lịch cộng đồng 14 1.2.6. Mục đích của du lịch cộng đồng 15 1.2.7. Mối quan hệ giữa cộng đồng địa phương và hoạt động du lịch 16 1.3. Kinh nghiệm của một số quốc gia về mô hình phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng 18 CHƢƠNG 2: TIỀM NĂNG DU LỊCH SINH THÁI DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG TẠI VÂN ĐỒN, QUẢNG NINH 21 2.1.Khái quát về Vân Đồn 21 2.2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch tự nhiên 21 2.2.1. Vị trí địa lý. 21 2.2.2. Địa hình, địa mạo. 21 2.2.3. Thủy văn, hải văn. 23 2
  3. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà 2.2.4. Khí hậu. 23 2.2.5. Đa dạng sinh học. . 24 2.2.6. Tiềm năng du lịch tự nhiên. 30 2.3. Điều kiện kinh tế – xã hội và tài nguyên du lịch nhân văn. 33 2.3.1. Đặc điểm dân cư. 33 2.3.2. Đặc điểm kinh tế. 35 2.3.3. Văn hoá, y tế và giáo dục 36 2.3.4. Tài nguyên du lịch nhân văn. 38 2.4. Đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng tại Vân Đồn Quảng Ninh. . 43 CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH SINH THÁI DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG TẠI VÂN ĐỒN, QUẢNG NINH . 51 3.1. Các tuyến điểm và các loại hình du lịch chính đang đƣợc khai thác 51 3.2. Cơ sở vật chất phục vụ du lịch 52 3.3. Khách du lịch 56 3.4. Sự tham gia của cộng đồng vào hoạt động du lịch 60 3.5. Tác động của du lịch tới cộng đồng địa phƣơng 66 3.6. Một số nhận xét về hoạt động du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng tại Vân Đồn, Quảng Ninh. 72 CHƢƠNG 4: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG TẠI VÂN ĐỒN, QUẢNG NINH 75 4.1. Những tiền đề cho định hƣớng phát triển du lịch 75 4.2. Một số đề xuất 76 4.2.1. Đào tạo nguồn nhân lực hoạt động du lịch tại địa phương 76 4.2.2. Thu hút sự tham gia của cộng đồng đại phương 77 4.2.3. Cải thiện môi trường sống 79 4.2.4. Tạo lập, xây dựng chính sách phát triển phù hợp 80 4.2.5. Tăng cường hoạt động xúc tiến quảng bá 81 3
  4. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà 4.2.6. Đề xuất mô hình mẫu nhằm phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng tại xã Quan Lạn,Vân Đồn,Quảng Ninh. 82 KẾT LUẬN 87 TÀI LIỆU THAM KHẢO 89 PHỤ LỤC 92 4
  5. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CĐĐP : Cộng đồng địa phương BTTT : Bảo tồn tự nhiên DLCĐ : Du lịch cộng đồng DLST : Du lịch sinh thái EU : Châu âu IUCN : Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên thế giới KBT : Khu bảo tồn NGOs : Các tổ chức phi chính phủ UBND : Uỷ ban nhân dân VQG : Vườn quốc gia WTO : Tổ chức thương mại thế giới DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH Hình 1.1 : Các yếu tố của cộng đồng Hình 1.2 : Mối quan hệ giữa tài nguyên du lịch và hoạt động du lịch cộng đồng Bảng 2.1: Hệ động vật rừng VQG Bái Tử Long Bảng 2.2: Thực vật phù du VQG Bái Tử Long Bảng 2.3: Động vật phù du VQG Bái Tử Long Bảng 2.4: Động vật da gai VQG Bái Tử Long Bảng 2.5: Cá biển VQG Bái Tử Long. Bảng 3.1: Hiện trạng Bảng 3.1: Hiện trạng cơ sở lưu trú của khách du lịch tại Vân Đồn, Quảng Ninh. Bảng 3.2: Hiện trạng khách du lịch quốc tế đến Vân Đồn giai đoạn 2005 - 2009 Bảng 3.3: Hiện trạng khách du lịch nội địa đến Vân Đồn giai đoạn 2005 - 2009 Hình 4.1: Quản lý và tổ chức cộng đồng 5
  6. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong những năm gần đây, khi điều kiện kinh tế ngày một phát triển,nhu cầu đi du lịch, thư giãn, tham quan cũng ngày một tăng. Du lịch đang phát triển nhanh chóng không chỉ riêng ở nước ta mà với quy mô toàn cầu. Nó được mệnh danh là ngành công nghiệp không khói. Theo xu thế thân thiện với môi trường của tất cả các ngành kinh tế,trong ngành du lịch đã xuất hiện các hình thức du lịch gắn với bảo vệ môi trường như du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng Vì vậy,nghiên cứu sự phát triển của các hình thức này là rất cần thiết. Nằm cách Hạ Long chưa đầy 40km Vân Đồn cũng được biết đến như một trong những điểm du lịch sinh thái hấp dẫn của Quảng Ninh. Trong quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Quảng Ninh 2000 - 2010 Vân Đồn được xác định là một trong bốn không gian phát triển du lịch trọng điểm. Với tài nguyên du lịch phong phú, lịch sử phát triển lâu đời, Vân Đồn là vùng đất rất có tiềm năng để phát triển du lịch đặc biệt du lịch sinh thái, du lịch biển. Tuy nhiên, hiện thế mạnh đó chưa được khai thác một cách hiệu quả mà người ta vẫn hay nói một cách văn chương rằng “ như nàng công chúa ngủ trong rừng”. Chúng ta chưa biết cách đánh thức tiềm năng mà biểu hiện rõ nhất ở đời sống của người dân, nhất là các dân tộc thiểu số và những người dân sống trong các xã hải đảo. Cái nghèo vẫn đeo đẳng và chưa thoát ra được các xã của vùng đất miền biển này. Nhiều xã cũng đã biết phát triển kinh tế xã hội từ việc khai thác tiềm năng du lịch, song nguy cơ tái nghèo còn đang hiện hữu do du lịch chưa thật sự phát triển một cách bền vững. Có thể nói rằng, vấn đề con người, cơ sở hạ tầng, các điều kiện tự nhiên chính là những nhân tố cơ bản, quan trọng tác động trực tiếp tới việc khai thác những giá trị kinh tế từ du lịch. Hơn nữa, đây còn là khu vực mà hệ thống điện- đường - trường - trạm còn yếu, đây là những khó khăn rất lớn trong quá trình phát triển du lịch. Do đó việc triển khai thực hiện phát triển du lich sinh thái dựa vào cộng đồng gắn với xoá đói giảm nghèo bền vững mang 6
  7. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà tính tổng hợp để giúp nhân dân ổn định đời sống, xoá đói giảm nghèo cho các xã nghèo thuộc các xã xa xôi của huyện là nhu cầu hết sức cần thiết. Sự tham gia của CĐĐP trong các hoạt động du lịch ở đây cho đến nay vẫn còn ở mức thấp, người dân mới chỉ chủ yếu tham gia vào một số khâu, lợi ích kinh tế không thường xuyên và bấp bênh, theo mùa du lịch. Các hình thức tham gia hầu như mang tính tự phát, xuất phát từ quy luật cung, cầu của kinh tế thị trường ( người dân thấy có lợi, có thu nhập thì tham gia làm), trong khi đó đất canh tác để làm nông nghiệp và diện tích đất nuôi trồng thuỷ hải sản thì ngày càng thu hẹp để sử dụng mục đích du lịch. Do đó, vấn đề việc làm của người dân lại trở nên cần thiết hơn. Vì những lý do trên, với mong muốn góp phần vào việc phát triển hơn nữa hoạt động Du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng ở Vân Đồn, tác giả đã lựa chọn đề tài : “Phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng tại Vân Đồn, Quảng Ninh” làm khoá luận tốt nghiệp chuyên ngành Du lịch - Văn hoá của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. Mục đích của đề tài là xác lập các căn cứ khoa học nhằm phát triển du lịch sinh thái trên cơ sở đảm bảo lưọi ích của cộng đồng, xoá đói giảm nghèo và bảo vệ bền vững tài nguyên du lịch sinh thái Vân Đồn. Để thực hiện được mục đích trên, đề tài gải quyết những nhiệm vụ sau:  Đánh giá được tiềm năng, hiện trạng sử dụng tài nguyên tự nhiên, phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng tại Vân Đồn, Quảng Ninh.  Phân tích, đánh giá thực trạng vai trò của cộng đồng địa phương trong hoạt động DLST tại Vân Đồn.  Đề xuất mô hình mẫu giúp phát triển hoạt động du lịch sinh thái tại vùng, đồng thời giúp nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân thông qua tăng thu nhập, tăng tiếp cận với các dịch vụ xã hội, cơ sở hạ tầng có chất lượng, góp phần thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu :  Tài nguyên du lịch sinh thái. 7
  8. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà  Các hoạt động DLST đang triển khai tại Vân Đồn.  Người dân sống tại các địa điểm triển khai du lịch sinh thái tại Vân Đồn. Phạm vi nghiên cứu :  Về không gian : Nghiên cứu được giới hạn trong phạm vi các xã đảo (bao gồm khu vực ven biển và các đảo Cái Bầu, Ngọc Vừng, Quan Lạn, Ba Mùn) thuộc huyện đảo Vân Đồn.  Về thời gian : Nghiên cứu được tiến hành trong tháng 5.2010. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để hoàn thành công trình nghiên cứu của mình,tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây :  Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tác giả đã thừa kế tài liệu đã được công bố từ các thế hệ đi trước, từ những công trình nghiên cứu, tạp chí, mạng internet, sách báo, tài liệu thu thập từ các hãng lữ hành, báo cáo của UBND huyện Vân Đồn  Phương pháp khảo sát thực địa: Phương pháp này được sử dụng nhằm điều tra tổng hợp về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của khu vực nhằm bổ xung, chỉnh sửa, cập nhật số liệu, thông tin đã thu nhập. Đồng thời, việc trực tiếp tham quan, khảo sát tại địa phương đã giúp tác giả đánh giá sâu sắc hơn về thực trạng hoạt động DLST dựa vào cộng đồng địa phương, đồng thời giúp đề xuất một số giải pháp sát với thực tế phát triển của địa phương hơn.  Phương pháp điều tra xã hội học: Sử dụng phương pháp phỏng vấn chuyên gia, tham khảo ý kiến của một số người có chuyên môn ở địa phương về thực trạng hoạt động DLST tại Vân Đồn nhằm làm căn cứ cho những nhận xét, đánh giá của mình; sử dụng phương pháp phỏng vấn, đánh giá nhanh và điều tra bảng hỏi, cụ thể tác giả đã tiến hành phỏng vấn bằng bảng hỏi đối với 100 người dân địa phương có tham gia kiém sống bằng hoạt động du lịch tại các xã đảo Quan Lạn, Ngọc Vừng, Cái Bầu của huyện Vân Đồn. Đồng thời có gặp gỡ, tiếp xúc và phỏng vấn bằng bảng hỏi với 100 du khách đến tham quan tại Vân Đồn, kết hợp với phỏng vấn trực tiếp quan điểm của người dân địa phương tham gia làm du lịch tại các khách sạn, khu resort ở Vân Đồn. Qua đó, đã giúp tác giả 8
  9. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà hiểu và có cái nhìn chia sẻ hơn về cuộc sống, con người Vân Đồn, hiểu hơn về mong muốn, nguyện vọng của người dân địa phương tham gia làm du lịch cũng như mong muốn của du khách khi đến nơi này. Từ đó đề xuất một số giải pháp với hy vọng đóng góp nhỏ cho sự phát triển du lịch của Vân Đồn. 5. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục chữ viết tắt, danh mục các bảng hình, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội dung chính gồm 3 chương : Chƣơng 1: Tổng quan về du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng. Chƣơng 2: Tiềm năng du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng tại Vân Đồn, Quảng Ninh. Chƣơng 3: Thực trạng hoạt động du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng tại Vân Đồn, Quảng Ninh. Chƣơng 4: Một số giải pháp phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng tại Vân đồn, Quảng Ninh. 9
  10. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà CHƢƠNG I TỔNG QUAN VỀ DU LỊCH SINH THÁI DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG 1.1.Du lịch sinh thái 1.1.1. Lịch sử nghiên cứu về du lịch sinh thái. 1.1.1.1.Trên thế giới. Du lịch sinh thái được phát triển rất mạnh ở các nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới như Khối cộng đồng Châu Âu, Mỹ, Canada, Australia Trong nhóm các nước đang phát triển, DLST đã được tiến hành ở Nepal, Kenya, một số vùng ở Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia và Trung Mỹ. Các nước này đã xây dựng thành công những mô hình DLST như Ecomost của EU, Làng DLST của Áo, mô hình Hoàng Sơn ở Trung Quốc, mô hình DLST trên cơ sở cộng đồng Nepal. Năm 2002 được Đại hội đồng Liên hợp quốc chọn làm “Năm Quốc tế Du lịch sinh thái – International Year of Ecotourism”. Liên hợp quốc kêu gọi các nước đẩy mạnh nghiên cứu, áp dụng DLST và tổ chức tuyên truyền sâu rộng về DLST, tổ chức các hội nghị, hội thảo, chương trình DLST ở các nước, các khu vực, chuẩn bị tốt nhất, có hiệu quả nhất cho Hội thảo Quốc tế về DLST tổ chức vào năm 2002. Chủ trương này đã thúc đẩy nhiều nước đang phát triển, muốn dựa vào DLST để cải thiện nền kinh tế ốm yếu của mình. Hưởng ứng lời kêu gọi của Liên hợp quốc, nhiều quốc gia như Mexico, Úc, Malaysia đã xây dựng chiến lược và kế hoạc DLST quốc gia. 1.1.1.2. Ở Việt Nam. Bắt đầu từ cuối những năm 1990, DLST đã gây được sự chú ý ở cấp độ quốc gia với sự tham gia của các tổ chức lớn như Tổng cục du lịch Việt Nam, IUCN Với sự tài trợ của các tổ chức Quốc tế, chúng ta đã mở nhiều lớp tập huấn, nhiều hội thảo về DLST. Tuy nhiên, mới chủ yếu tập trung vào các Vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên như Cúc Phương, Cát Bà, Ba Bể, Ba Vì, Bạch Mã Đã có nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân quan tâm đến việc nghiên cứu và áp dụng DLST ở Việt NamVí dụ năm 2004, Cục Kiểm lâm, Bộ Nông nghiệp và 10
  11. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà Phát triển Nông thôn Việt Nam đã phối hợp với Tổ chức phát triển bền vững Fundeso và Cơ quan hợp tác Quốc tế Tây Ban Nha đã xuất bản cuốn “Cẩm nang quản lý phát triển DLST ở các khu bảo tồn Việt Nam”. Trong các tài liệu chính thức này, những vấn đề quy hoạch điểm DLST, quy định kiến trúc, kết cấu điểm DLST, đào tạo nguồn nhân lực, tiếp thị du lịch được trình bày rất rõ ràng. 1.1.2. Quan điểm về DLST. - Khái niệm DLST : DLST là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hoá bản địa, gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương ( Hội thảo quốc gia về xây dựng chiến lược DLST ở Việt Nam, tháng 09/1999 ). - Điều kiện phát triển DLST : DLST chỉ được phát triển trong điều kiện điểm đến có sự tồn tại của các hệ sinh thái điển hình với tính đa dạng sinh thái cao, đồng thời yêu cầu đội ngũ hướng dẫn viên hiểu biết, người điều hành nguyên tắc và DLST chỉ được tổ chức với sự tuân thủ chặt chẽ các quy định về sức chứa. 1.2. Du lịch cộng đồng. 1.2.1. Khái niệm về du lịch dựa vào cộng đồng. Thuật ngữ du lịch dựa vào cộng đồng (hay còn gọi là DLCĐ), xuất phát từ hình thức du lịch làng bản từ năm 1970 và khách du lịch tham quan cá làng bản, tìm hiểu về phong tục, tập quán, cuộc sống hoang dã, lễ hội, cũng có thể một vài khách muốn khám phá hệ sinh thái, núi non - mà thường được gọi là DLST. Hiện nay, có rất nhiều tên gọi khác nhau có liên quan đến phát triển du lịch và tham gia ít nhiều của cộng đồng đến phát triển du lịch như : Community - Based Tourism (Du lịch dựa vào cộng đồng). Community - Development in Tourism (Phát triển cộng đồng dựa vào du lịch). Community - Based Ecotourism (Phát triển DLST dựa vào cộng đồng). Community - Participation in Tourism (Phát triển du lịch có sự tham gia của cộng đồng). 11
  12. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà Community- Based Mountain Tourism (Phát triển du lịch núi dựa vào cộng đồng). Tuy có các tên gọi khác nhau nhưng có một số vấn đề cơ bản giống hoặc tương đồng về phương pháp tổ chức, địa điểm, mục tiêu vị trí tổ chức phát triển của du lịch và cộng đồng. Một số điểm cơ bản giống nhau của các khái niệm nêu trên: Loại hình du lịch được tạo bởi khách du lịch đến tham quan các khu vực có nhiều tài nguyên thiên nhiên. Địa điểm tổ chức phát triển du lịch dựa vào cộng đồng là những khu vực, điểm có tài nguyên thiên nhiên và nhân văn phong phú có sức hấp dẫn, thu hút du khách. Vấn đề cộng đồng được nhắc đến là các tầng lớp dân cư đang sinh sống trong vùng hoặc vùng liền kề với tài nguyên thiên nhiên như là các khu bảo tồn quốc gia hoặc là các vùng rừng núi nơi có nhiều tiềm năng để thu hút khách du lịch. “Du lịch cộng đồng” còn được gọi là “du lịch dựa vào cộng đồng” được biết đến như một nguyên tắc mà cộng đồng địa phương là những người quản lý hợp pháp đối với những nguồn tài nguyên đó. Có nhiều quan điểm về DLCĐ: “Du lịch dựa vào cộng đồng là phương thức phát triển du lịch trong đó cộng đồng dân cư tổ chức cung cấp các dịch vụ để phát triển du lịch, tham gia bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường, đồng thời cộng đồng được hưởng quyền lợi về vật chất và tinh thần từ phát triển du lịch và bảo tồn tự nhiên”. Viện nghiên cứu phát triển Miền Núi (Mountain Institute) đưa ra khái niệm về DLCĐ: “DLCĐ là nhằm bảo tồn tài nguyên du lịch tại điểm du lịch đón khách vì sự phát triển du lịch bền vững dài hạn. DLCĐ khuyến khích sự tham gia của người dân địa phương trong du lịch và có cơ chế tạo các cơ hội cho cộng đồng”. DLCĐ nhấn mạnh cả vào hai yếu tố là môi trường tự nhiên và con người DLCĐ hướng đến con người và không phủ nhận tầm quan trọng của yếu tố tự 12
  13. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà nhiên và môi trường. Nguyên lý cơ bản trên đây cho thấy hoạt động kinh doanh du lịch dựa vào cộng đồng là chính cộng đồng địa phương tham gia, làm chủ và quản lý, đồng thời chính họ là người quan tâm đến sự bảo tồn, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên môi trường, nơi gắn liền với sự tồn tại của cá nhân họ, gia đình họ và cả cộng đồng. Truyền thống đ ịa Lối sống phương Phong tục - Di sản Tôn giáo Cộng văn hoá đồng Nghệ thuật Kiến trúc Hàng thủ công ẩm thực Hình 1.1: Các yếu tố cộng đồng 1.2.2. Ý nghĩa phát triển du lịch cộng đồng. Đối với du lịch, DLCĐ góp phần đa dạng hoá sản phẩm du lịch, thu hút khách du lịch và bảo vệ tài nguyên du lịch. Đối với cộng đồng, DLCĐ phân chia một cách công bằng lợi ích từ hoạt động du lịch cho các chủ thể tham gia, trong đó có cộng đồng địa phương. DLCĐ mang lại lưọi ích kinh tế cho các thành viên cộng đồng tham gia trực tiếp cung cấp các dịch vụ cho khách du lịch, đồng thời cả cộng đồng cũng được hưởng lợi từ sự đóng góp của hoạt động du lịch vào môi trường, kinh tế - xã hội và văn hoá địa phương. 13
  14. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà 1.2.3. Nguyên tắc phát triển DLCĐ:  Cộng đồng được quyền tham gia thảo luận các kế hoạch, quy hoạch, thực hiện và quản lý, đầu tư để phát triển du lịch.  Phù hợp với khả năng của cộng đồng, khả năng bao gồm nhận thức về vai trò và vị trí của mình trong việc sử dụng tài nguyên, nhận thức được tiềm năng to lớn của du lịch trong sự phát triển của cộng đồng cũng như biết được bất lợi từ hoạt động du lịch và khách du lịch đối với tài nguyên, cộng đồng.  Chia sẻ lợi ích từ du lịch cho cộng đồng. Du lịch cộng đồng phải đảm bảo lợi ích cho cộng đồng địa phương trong tất cả các lĩnh vực môi trường kinh tế - xã hội và văn hoá, như: tái đầu tư cho cộng đòng xây dựng đường xá, cầu cống, điện và chăm sóc sức khoẻ, giáo dục  Xác lập quyền sở hữu và tham dự của cộng đồng đối với tài nguyên thiên nhiên và văn hoá hướng tới sự phát triển bền vững. 1.2.4. Điều kiện phát triển du lịch cộng đồng DLCĐ chỉ được phát triển trong điều kiện điểm đến có tài nguyên du lịch tự nhiên phong phú,nguyên sơ và tài nguyên du lịch nhân văn độc đáo,đặc sắc.Đồng thời, cộng đồng địa phương phải sở hữu những giá trị văn hoá truyền thống đậm đà đặc trưng tộc người và đặc biệt họ phải có nhận thức trách nhiệm đúng đắn về phát triển du lịch và bảo tồn tài nguyên. Có thị trường khách trong nước và quốc tế cũng là điều kiện quan trọng. Bên cạnh đó, để phát triển DLCĐ thì sự hỗ trợ của chính phủ, tổ chức phi chính phủ về tài chính và kinh nghiệm, sự hỗ trợ của các công ty lữ hành trong vấn đề tuyên truyền quảng cáo thu hút khách du lịch là rất quan trọng. 1.2.5. Đặc điểm của DLCĐ Là một phương thức hoạt động trong kinh doanh du lịch mà cộng đồng dân cư là người cung cấp chính các sản phẩm du lịch cho du khách, họ giữ vai trò chủ đạo phát triển và duy trì các dịch vụ. Các khu, điểm tổ chức phát triển du lịch dựa vào cộng đồng là những khu vực có tài nguyên hoang dã còn nguyên vẹn, đang bị tác động huỷ hoại, cần được bảo tồn. 14
  15. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà Phát triển du lịch dựa vào cộng đồng tại điểm đang có sức thu hút khách du lịch đến tham quan. Cộng đồng phải là người dân địa phương sinh sống, làm ăn trong đó hoặc liền kề các điểm tài nguyên thiên nhiên, nhân văn. Cộng đồng dân cư là người có trách nhiệm trực tiếp tham gia bảo vệ tài nguyên du lịch và môi trường nhằm hạn chế, giảm thiểu tác động bởi khách du lịch và khai thác của chính bản thân cộng đồng dân cư. Dựa vào cộng đồng gồm các yếu tố giao quyền cho cộng đồng, cộng đồng được tham gia khuyến khích và đảm nhận các hoạt động du lịch và bảo tồn tài nguyên môi trường. Phát triển du lịch cộng đồng đồng nghĩa với đảm bảo sự công bằng trong việc chia sẻ nguồn thu nhập du lịch cho cộng đồng giữa các bên tham gia. Do đặc điểm tài nguyên, điều kiện cộng đồng nên cần xét đến các yếu tố giúp đỡ, tạo điều kiện của các bên tham gia trong đó có vai trò của các tổ chức chính phủ, NGOs trong và ngoài nước, không phải làm thay cộng đồng. 1.2.6. Mục đích của DLCĐ Mục đích của DLCĐ là khai thác hợp lý, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn các di sản, văn hoá, nâng cao đời sống cộng đồng, xoá đói giảm nghèo, tạo ra thu nhập cho người dân, mang lại doanh thu cho du lịch ngày càng tăng. Ngoài ra, DLCĐ còn khuyến khích sự tham gia của CĐĐP với sự tự nguyện, giúp họ chủ động hơn, tôn trọng và có trách nhiệm đối với tài nguyên du lịch. Phát triển DLCĐ có nghĩa là trả lại cho cộng đồng địa phương quyền làm chủ thực sự các giá trị tài nguyên thiên nhiên, văn hoá nơi họ sinh sống và hướng dẫn họ cùng tổ chức các hoạt động du lịch, từ đó đem lại lợi ích trực tiếp cho đời sống dân cư. Một số mục đích, mục tiêu chính của du lịch cộng đồng đã được coi là kim chỉ nam cho loại hình phát triển du lịch này,bao gồm: DLCĐ phải góp phần bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và văn hoá, bao gồm sự đa dạng về sinh học, tài nguyên nước, rừng, bản sắc văn hoá 15
  16. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà DLCĐ phải đóng góp vào sự phát triển kinh tế địa phương thông qua việc tăng doanh thu về du lịch và những lợi ích khác cho cộng đồng địa phương. DLCĐ phải có sự tham gia ngày càng tăng của CĐĐP. DLCĐ phải mang đến cho khách một sản phẩm du lịch có trách nhiệm đối với môi trường và xã hội. 1.2.7. Mối quan hệ giữa cộng đồng địa phương và hoạt động du lịch Nguồn tài nguyên tự nhiên và văn hoá (Natural & Cultural Resources) Hoạt động (Action) Thu nhập(Income) Các khuyến khích (Incetives) Hình 1.2: Mối quan hệ giữa tài nguyên du lịch Mô hình trên cho thấy mối quan hệ giữa nguồn tài nguyên và hành động của cộng đồng có ý nghĩa rất lớn trong phát triển du lịch dựa vào cộng đồng, tức là: có tài nguyên du lịch là đối tượng để phục vụ cho việc thu hút khách du lịch tạo ra thu nhập cho cộng đồng và khuyến khích họ tham gia các dịch vụ cung cấp phục vụ khách du lịch, đồng thời cộng đồng tích cực tham gia các hoạt động bảo tồn, bảo vệ tài nguyên môi trường và ngược lại tài nguyên môi trường tốt hấp dẫn khách du lịch đến tham quan hay nói cách khác đây là vòng tuần hoàn trong việc phát triển du lịch dựa vào cộng đồng. CĐĐP trong hoạt động du lịch là tập thể người có mối quan hệ với nhau, sống trên lãnh thổ nơi có các nguồn tài nguyên thiên nhiên và nhân văn mà các nhà du lịch đang khai thác và sử dụng nhằm phục vụ cho mục đích kinh doanh du lịch. Những nguồn tài nguyên này bao gồm: đất đai, sản vật của rừng, thuỷ 16
  17. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà hải sản ở hồ, biển vốn trước đây là nguồn sống của CĐĐP hiện nay đã bị chia sẻ vì nhiều mục đích. Môi trường và hoạt động du lịch có mối quan hệ chặt chẽ, gắn mật thiết với nhau. Môi trường bao gồm nguồn tài nguyên vốn là nguồn sống của CĐĐP nay đã bị chia sẻ cho du khách. Nghĩa là: các điểm du lịch được hình thành dần dần tại những vị trí có tiềm năng du lịch trong không gian kinh tế - văn hoá - sinh thái. Có trước và tồn tại song song với hoạt động du lịch và hoạt động sinh hoạt sản xuất hàng ngày của cư dân địa phương. Một trong những đặc trưng cơ bản của lãnh thổ du lịch có tính đan xen ghép. Hầu hết các điểm du lịch: du lịch làng quê, DLST, du lịch làng nghề đều đồng thời là các điểm dân cư, hoặc gần khu dân cư có hoạt động kinh tế sôi động, mạnh mẽ. Đặc tính xen ghép khiến không gian du lịch và không gian kinh tế, xã hội của CĐĐP không thể phân biệt rạch ròi, tác động qua lại giữa môi trường và du lịch cũng khó phân định rõ ràng. Đặc tính xen ghép khiến cho việc quản lý môi trường, quản lý kinh tế, xã hội tại điểm du lịch phức tạp và kém hiệu quả. Chính vì vậy, việc phát triển hoạt động du lịch phải đảm bảo tính chỉnh thể, thống nhất với chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của mỗi địa phương. Hoạt động du lịch không được tách rời mà phải có sự tác động tương hỗ với hoạt động kinh tế, xã hội của CĐĐP. Cần phải thu hút CĐĐP vào hoạt động du lịch, đồng thời tạo ra động lực kinh tế xoá đói giảm nghèo và nâng cao chất lượng cuộc sống của CĐĐP. Du lịch cũng như nhiều ngành kinh tế khác đều hướng tới mục tiêu phát triển bền vững về kinh tế - môi trường - xã hội, phát triển du lịch cần đảm bảo: Sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. Bảo vệ văn hoá và phúc lợi của CĐĐP. Tạo lập sự công bằng trong nội bộ và giữa các thế hệ. Như vậy, một trong những đối tượng mà du lịch cộng đồng hướng tới là CĐĐP bởi họ chính là chủ nhân của tài nguyên du lịch nơi họ sinh sống và nâng cao chất lượng cuộc sống của CĐĐP là một mục tiêu rất quan trọng. Vai trò của CĐĐP trong hoạt động du lịch 17
  18. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà Trước khi có hoạt động du lịch, CĐĐP đã sinh sống và gắn bó với mảnh đất quen thuộc, họ là người chủ, gắn chặt cuộc sống của họ với mảnh đất ấy. Đồng thời, chính họ tạo ra những nền văn hoá bản địa đặc sắc, điều này đã tạo ra sức hút với du khách. Tiếp nối nhau, các thế hệ luôn tìm cách bảo tồn và phát triển các giá trị tự nhiên và văn hoá của nơi diễn ra hoạt động du lịch. Khi diễn ra hoạt động du lịch, CĐĐP phải chia sẻ một phần tài nguyên với du khách, với những người làm du lịch chuyên nghiệp, vốn là nguồn sống của họ trước đây. Cần phải tạo cho họ một vị thế làm chủ thực sự, không chỉ dừng lại ở những công việc làm hướng dẫn viên, bán hàng lưu niệm, vân chuyển khách mà họ sẽ có vai trò quản lý tài nguyên du lịch, tham gia vào quá trình quy hoạch du lịch ở vùng đất họ đã sinh sống. Sự tham gia không đầy đủ của CĐĐP và người làm du lịch không phải là duy nhất mà còn có nhiều bên tham gia: giữa người dan địa phương và nhà quản lý, giữa người dân và du khách Do đó, cần điều hoà mối quan hệ lợi ích giữa các bên. Trong hoạt động DLCĐ, việc lôi kéo sự tham gia của CĐĐP là một vấn đề phức tạp và rất quan trọng nếu muốn tổ chức chuyến du lịch thành công. Mặc dù có nhiều lựa chọn và giải pháp khác nhau ở mỗi vùng khác nhau và các cộng đồng khác nhau nhưng có một nguyên tắc quan trọng là phải làm việc với các tổ chức xã hội và cộng đồng, mọi ý kiến của CĐĐP cần được coi trọng. 1.3. Kinh nghiệm của một số quốc gia về mô hình phát triển DLST dựa vào cộng đồng 1.3.1.Tại vườn Quốc gia Gunnung Halimun - Indonexia : Vườn Quốc gia Gunnung Halimun được xây dựng từ năm 1992 với diện tích 40.000ha, có 237 loài động vật trong đó có nhiều loài quý hiếm. Trong vườn quốc gia có người dân sinh sống. Phát triển loại hình DLST dựa vào cộng đồng tại đây là điều cân thiết do đây là vườn quốc gia có vùng đất nguyên sơ, hệ sinh thái đa dạng, du lịch phát triển nhưng người dân không được hưởng lợi gì từ việc phát triển đó. Vấn đề bảo vệ tài nguyên không đảm bảo đã dẫn đến xung đột giữa du khách và người dân bản xứ. Để cân bằng giữa bảo tồn, phát triển và 18
  19. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà lợi ích cho cộng đồng từ hoạt động du lịch, các tổ chức phi chính phủ đã phối hợp với Ban quản lý xây dựng mô hình phát triển DLST dựa vào cộng đồng. Các bài học kinh nghiệm :  Du lịch dựa vào cộng đồng nhận được sự giúp đỡ của tổ chức phát triển du lịch, gồm 5 tổ chức tham gia: Câu lạc bộ sinh học, Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới, Trường đại học Indonexia và nhà hàng Mc Donald’s ở Indonexia. Các tổ chức đã tạo điều kiện giúp đỡ khu du lịch và cộng đồng dân cư về tài chính và kinh nghiệm nên đã huy động được những người dân tham gia cung cấp dịch vụ cho khách, vừa bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.  Thành lập Ban quản lý tham gia với cộng đồng. Ban quản lý này chủ động hỗ trợ cộng đồng thực hiện các việc hoạch định, quản lý, thực thi các kế hoạch phát triển DLST dựa vào cộng đồng nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và bản sắc văn hoá dân tộc như: phát triển nhà nghỉ cộng đồng, cơ cấu nhân sự phục vụ trong nhà nghỉ, ăn uống, hướng dẫn viên  Phát triển du lịch đi đôi với quảng cáo về tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn để thu hút khách du lịch.  Đảm bảo công bằng trong việc chia sẻ quyền lợi từ phát triển du lịch.  Giao quyền cho cộng đồng, đảm bảo họ được khuyến khích tham gia và đảm nhận trách nhiệm các công việc có liên quan đến việc phát triển du lịch và bảo về tài nguyên. 1.3.2. Tại làng Ghandruk thuộc khu bảo tồn quốc gia Annapura, Nepal. Làng Ghandruk thuộc khu bảo tồn Annapura, Nepal. Dân cư thuộc các sắc tộc và tôn giáo khác nhau, nguồn thu nhập chủ yếu là từ nông nghiệp, chăn nuôi trang trại và khai thác nguồn tài nguyên có sẵn trong khu bảo tồn. Họ làm nhà ở bằng gỗ khai thác trong rừng, khai thác gỗ làm nhiên liệu. Năm 1986, được sự hỗ trợ của Dự án bảo tồn thiên nhiên tại vùng Annapura, vùng đã phát triển hoạt động DLST dựa vào cộng đồng. Bài học kinh nghiệm : 19
  20. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà  Nhận được sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ về tài chính, kinh nghiệm tổ chức và chú trọng công tác đào tạo hướng dẫn cho cộng đồng ngay từ khi triển khai các vấn đề của dự án.  Chú trọng công tác đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ về du lịch và bảo tồn thông qua các tập huấn, báo cáo chuyên đề và tổ chức tham gia học tập cho cộng đồng.  Trong quá trình tổ chức, cần tôn trọng các giá trị tri thức văn hoá bản địa của cộng đồng trong suốt quá trình triển khai dự án từ việc hỏi ý kiến, bàn bạc, nêu kế hoạch và triển khai.  Có sự cam kết với cộng đồng về đảm bảo quyền lợi và chia sẻ lợi ích được hưởng từ du lịch.  Tăng quyền lực cho cộng đồng trong quá trình thực hiện các kế hoạch. Tiểu kết chƣơng 1 Chương 1 khoá luận, tác giả giải quyết được hai vấn đề : Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của loại hình du lịch dựa vào cộng đồng. Trong phần cơ sở lý luận, tác giả đã nhấn mạnh giải quyết khái niệm DLST dựa vào cộng đồng làm nền tảng lý luận cho khoá luận. Tác giả cũng nêu lên ý nghĩa, nguyên tắc, điều kiện của việc phát triển DLST dựa vào cộng đồng, ngoài ra tác giả cũng đề cập đến đặc điểm, mục đích và mối quan hệ giữa CĐĐP và hoạt động du lịch. Trong phần cơ sở thực tiễn, tác giả đã đưa ra những bài học kinh nghiệm với hai ví dụ điển hình tại Indonexia và Nepal, hai đất nước khá nổi tiếng với hoạt động DLST dựa vào cộng đồng. Đó là những cơ sở làm tiền đề cho việc phân tích tiềm năng và thực trạng phát triển DLST dựa vào cộng đồng ở Vân Đồn sẽ được trình bày ở chương 2. 20
  21. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà CHƢƠNG 2 TIỀM NĂNG DU LỊCH SINH THÁI DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG TẠI VÂN ĐỒN, QUẢNG NINH 2.1. Khái quát về Vân Đồn Huyện Vân Đồn có diện tích đất tự nhiên 59.676 ha, được hợp thành bởi 2 quần đảo Cái Bầu (còn gọi là Kế Bào) và quần đảo Vân Hải gồm 600 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có hơn 20 đảo có người ở. Lớn nhất là đảo Cái Bầu rộng 17.212 ha, trong đó có thị trấn Cái Rồng là trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội của huyện và 6 xã: Đông Xa, Hạ Long, Vạn Yên, Đoàn Kết, Bình Dân, Đài Xuyên. Quần đảo Vân Hải có 5 xã: Quan Lạn, Minh Châu, Ngọc Vừng, Thắng Lợi, Bản Sen. Các đảo đều có địa hình núi. Núi thường chỉ cao 200 - 300m, núi Vạn Hoa ở đảo Cái Bầu cao 397m. 2.2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch tự nhiên. 2.2.1. Vị trí địa lý. Vân Đồn là một huyên mièn núi, hải đảo nằm ở phía Đông Nam tỉnh Quảng Ninh, có toạ độ từ 20040’ đến 21012’ vĩ độ Bắc và từ 107019’ đến 107042’ kinh độ Đông. Huyện lỵ là thị trấn Cái Rồng trên đảo Cái Bầu cách thành phố Hạ Long gần 50km, cách Cửa Ông 7km. Phía Bắc giáp vùng biển huyện Tiên Yên và huyện Đầm Hà; phía Tây giáp thị xã Cẩm Phả, ranh giới là lạch biển Cửa Ông và sông Voi Lớn; phía Đông giáp vùng biển huyện Cô Tô; phía Nam giáp Vịnh Hạ Long và vùng biển Cát Bà thuộc Hải Phòng. 2.2.2. Địa hình, địa mạo. Địa hình Karst đá vôi xen lẫn đảo đất là giá trị nổi bật của địa hình, địa chất vùng Vân Đồn - Bái Tử Long, các tháp Karst hình nón phổ biến ở vùng vịnh Bái Tử Long, cảnh quan đảo đá vôi phát triển cũng là vùng có ý nghĩa quốc tế về cảnh quan Karst là nền tảng của khoa học địa mạo. Xâm thực biển với đảo đá vôi là đặc điểm nổi bật qua các thời kỳ xâm thực nhiều đảo đá tạo thành các đỉnh 21
  22. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà nhọn hẹp.Có các quá trình hình thành hang động kéo dìa suốt từ thời điểm khởi đầu ứng với sự tồn tại một mực xâm thực cơ sở cho đến ngày nay. Có 3 loại hang động trong vùng là: Các hang động ngầm cổ, các hang nền Karst cổ, các hang hầm ếch biển. Địa hình của Vân Đồn hết sức đa dạng, có rừng, có biển, có đảo đá, đảo đất, có nhiều vũng, bãi triều ven biển và ngập mặn Chính những kiểu địa hình ấy đã tạo ra cho cảnh quan Vân Đồn có những nét đặc trưng hấp dẫn đặc biệt Hệ thống đảo ở khu vực Vân Đồn hầu hết nằm trong đới địa chất duyên hải Bắc Bộ, hướng cấu trúc kiến tạo Đông Bắc - Tây Nam, song song với bờ biển của đất liền. Trên các đảo là địa hình đồi núi thấp, hoặc những dãy núi đá từ 100m - 300m (so với mặt biển), đỉnh cao 307m trên đoả Ba Mùn, 282m trên đảo Trà Ngọ Nhỏ, 232m trên đảo Sậu Nam, 202m trên đảo Ngọc Vừng. Sườn đảo phía Đông của đảo Ba Mùn và Sậu Nam dốc đứng dạng vách dựng sát mép biển. Đây chính là sản phẩm du lịch tiềm năng để Vân Đồn khai thác, phát triển loại hình DLST, du lịch mạo hiểm. Ven chân các đảo có nhiều vũng, bãi gian triều đất bùn, hoạc nhiều bãi cát hẹp, bãi đá, một số bãi đá gốc chân đảo rộng từ 30m - 70m ngập triều theo chu kỳ. Một số vùng rộng, vừa có bãi bùn, vừa có bãi cát, bãi đá, vừa có chỗ sâu, cảnh quan đẹp, thuận lợi neo trú tàu thuyền, diên tích hàng trăm hec ta như vũng Cát Quýt, Vũng ổ Lợn (đảo Ba Mùn), bãi cát dài hàng cây số ở bán đảo Minh Châu - Cửa Đối - Hòn Trụi trên đảo Quan Lạn. Đó là những bãi tắm còn hoang sơ, cát trắng muốt, sóng biển nhẹ và êm, nước biển trong xanh vô cùng hấp dẫn. Địa hình đáy biển phức tạp, có nhiều lạch sâu và dải đá ngầm do quá trình xâm thực, mài mòn và tích tụ. Hai hệ thống lạch chính hưuớng Tây Bắc - Đông Nam và Đông Bắc -Tây Nam. Hai hệ thống lạch có thể đạt độ sâu từ 5 - 30m. Đây là nơi sinh trưởng của các rạn san hô, đồng thời cũng tạo nên các luồng lạch và hải cảng trên dải bờ biển khúc khuỷu kín gió là tiềm năng của hoạt động DLST. Địa hình của Vân Đồn rất đa dạng, biển, núi và rừng ở Vân Đồn tạo nên bức tranh sinh thái sống động. Chính vì vậy, Vân Đồn đang là điểm đến của các du khách yêu thích với nhiều loại hình: mạo hiểm, sinh thái, văn hoá. 22
  23. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà 2.2.3. Thủy văn, hải văn. Về dòng chảy: Do hệ thống sông ngòi không lớn, lại có đường bờ biển khúc khuỷu bị chia cắt bưỏi cá dãy núi, do ảnh hưởng của dòng nước từ sông đổ ra biển lớn. Dòng chảy ở đây chủ yếu là dòng triều ngự trị, thường dòng chảy giữa hẹp có tốc độ lớn hơn. Sông lớn nhất huyện là sông Voi Lớn (dìa 19km), do hệ thống sông ngòi không lớn nên thường gây thiếu nước vào nmùa khô, đặc biệt ảnh hưởng đến cuộc sống sinh hoạt của người dân, nhất là đối với các xã đảo. Về thuỷ hoá: Nhiệt độ nước biển thay đổi theo mùa, lớn nhất là vào mùa hè, độ mặn cũng biến đổi theo mùa. Mùa đông nhiệt độ khoảng 180C, nhiệt độ thấp nhất vào tháng 1; mùa hè nhiệt độ nước khoảng 280C, nhiệt độ trung bình năm dao động trong khoảng 22 – 240C. Nhiệt độ nước trung bình như vậy rất thích hợp với hoạt động tắm biển. Do hệ thống núi, đảo dày nên chế độ sóng có sự khác nhau giữa khu vực đảo chắn ngoài và vùng đảo phía trong. Khu vực đảo chắn ngoài sóng khá cao, khu vực phía trong do địa hình che chắn nên thường ít xảy ra các hiện tượng bão, sóng thần. Sóng không lớn, khá êm ả nên rất phù hợp với hoạt động tắm biển của du khách. 2.2.4. Khí hậu. Vân Đồn có nhiều vùng tiểu khí hậu. Lượng mưa bình quân trên 200mm/năm, độ bức xạ lớn, nhiều sương mù, mưa phùn và gió bão lớn. Khí hậu Vân Đồn mang đặc điểm khí hậu nhiệt đới, có hai mùa rõ rệt: mùa hạ và mùa khô, nhiệt độ trung bình hàng năm từ 220C – 240C. Vân Đồn nằm trong khu vực nhiẹt đới gió mùa, từ tháng 3 đến tháng 8 gió Đông Nam từ biển thổi vào mát mẻ. Lượng mưa trung bình hàng năm 2.245 mm, mùa mưa vào tháng 5 đến tháng 10 (trong mùa mưa đạt tới 2.225mm). Độ ẩm trung bình năm 84%, vào mùa khô độ ẩm 70% và thấp hơn. Các hiện tượng thời tiết nguy hiểm như dông, gió mạnh xảy ra không nhiều như các đồng bằng, trung du. Đây là điều kiện hết 23
  24. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà sức thuận lợi cho phát triển các loại hình DLST, du lịch mạo hiểm, nghỉ dưỡng, tắm biển, văn hoá. 2.2.5. Đa dạng sinh học. 2.2.5.1. Đa dạng hệ sinh thái. Huyện đảo là vùng tiếp giáp giữa phần đất liền và biển Đông, có thềm lục địa rộng 1.620,83 km2 (gấp 3 lần diện tích phần đất nổi) trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa. Đó không chỉ là cơ sở cho nguồn hải snả phong phú mà còn hình thành nhiều hệ sinh thái đặc trưng. a. HST rừng lá rộng thường xanh nhiệt đới trên đảo đá vôi. Kiểu hệ này phân bố trên các đảo đá vôi trong lãnh thổ của VQG. Các loài thực vật đặc trưng gồm: Trai lý, Tuế đá vôi, Lan hài vệ nữhoa vàng, Kim giao núi đá, Lát hoa, Tắc kè đá. Các loài động vật như khỉ vàng, sơn dương, tắc kè, cao cát bụng trắng. Đây cũng là nơi có nhiều cảnh quan đẹp, là tiềm năng to lớn cho DLST. b. HST rừng lá rộng thường xanh nhiệt đới trên đảo đất. HST này chiếm phần lớn diện tích các đảo nổi, với quần thể thực vật thuộc họ Sói đẻ, họ Vang, Ba mảnh vỏ, họ Sim và các loài cây quý có giá trị kinh tế cao như Lim xanh, Rẻ hương, Kim giao núi đất, Táu mật. Địa hình biển đảo cũng tạo điều kiện cho quần thể thú nhỏ và thú ngón quốc phát triển. Một số quần thể thú có mật độ cao như Lợn rừng, Hoẵng, Nhím, Don; các loài quý hiếm như Tê tê, Khỉ vàng, Tắc kè, Trăn gấm, Báo lửa, Rắn hổ mang, Rắn hổ mang chúa, Rùa vàng, Rùa hộp ba vạch, Ba ba. Đây cũng là nơi tồn tại một quần thể nai duy nhất trong vùng Đoong Bắc Việt Nam. c. HST rừng ngập mặn. Quần thể thực vật trong HST này mang đặc trưng của vùng Đông Bắc Việt Nam. Chiều cao bình quân của cây thấp. Mật độ trên 10.000 cây/ha, với tổng diện tích ước tính 100 ha. Rừng ngập mặn phân bố chủ yếu ở vũng Cái Quýt, vũng Lỗ Hố, vũng Soi Nhọ, vũng ổ Lợn, thung hang Cái Đé, thung áng Cái Lim. HST này là nguồn cung cấp thức ăn phong phú nhiều loài hải sản, là nơi cư trú và bãi đẻ cho các loài tôm, cua, sá sùng và là nơi kiếm ăn của nhiều loài động 24
  25. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà vật trên cạn như thú móng guốc ăn thực vật, các loài khỉ, chim và côn trùng. Theo đánh giá, khu hệ sinh vật bao gồm thực vật ngập mặn – 19 loài, rong biển – 11 loài; động vật đáy có giun nhiều tơ - 12 loài; thân mềm – 46 loài; giáp xác – 8 loài; cá biển - 5 loài. Tổng cộng đã ghi nhận được 101. HST này cung cấp không gian lý tưởng cho hoạt động DLST và gioá dục môi trường. d. HST rạn san hô. Rạn san hô là một HST đa dạng nhất hành tinh, chỉ phân bố ở vùng biển nông ven bờ. Đây là nơi cư trú, đẻ trứng, ẩn náu, kiếm mồi cho nhiều loài hải sản. HST rạn san hô có năng suất sinh học cao, là nguồn thức ăn phong phú nên có khả năng lưu trữ nguồn gen của nhiều loài hải sản. Tuy nhiên, HST này khá nahỵ cảm với những biến đổi của môi trường, có ý nghĩa chỉ thị môi trường. Các rạn san hô ở Vân Đồn thuộc kiểu rạn không điển hình, rạn viền bờ ven đảo, mang đặc tính của rạn hở, chịu tác động mạnh của sóng và dòng chảy nên thường hẹp. San hô phân bố không tập trung, chủ yếu là sna hô dạng khối, dạng phủ bám chắc vào đá. Qua khảo sát chi tiết cho thấy san hô chỉ phân bố ở phía ngoài của đảo Ba Mùn và Sậu Nam và một đoả nhỏ phía trong Cửa Vành là hòn Khơi Ngoài. Thành phần loài của khu hệ đã phát hiện được gồm có: San hô - 14 loài; Da gai - 42 loài, Cá san hô - 52 loài. Tổng số đã phát hiện được 409 loài sinh vật có trong quần xã rạn san hô, phong phú hơn tất cả các HST biển khác của khu vực. e. HST thung áng trong đảo đá vôi. HST này được hình thành trong các thung lũng đá vôi, có nước biển xâm thực, điển hình như thang Cái Đé. Nước trong thung áng chỉ lưu thông với vùng biển ngoài qua những khe rãnh nhỏ hoặc các hang ngầm. Vì vậy ở đây còn tồn tại nhiều loài sinh vật được hình thành từ xưa, được coi là “ bảo tàng sống ” thể hiện lịch sử tiến hoá của sinh vật. 2.5.1.2. Đa dạng loài và nguồn gen. Cùng với sự đa dạng về HST, tiềm năng nguồn gen sinh vật trong lãnh thổ cũng rất phong phú. Tính đến thời điểm 01/2008, khu vực Vịnh Bái Tử Long đã thống kê được 1.909 loài động thực vật. Trong đó, HST rừng có 1.028 loài. HST 25
  26. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà biển có 881 loài. Tổng số loài quý hiếm ở riêng VQG là 102 loài, trong đó 72 loài động vật và 30 loài thực vật được ghi trong sách đỏ Việt Nam (2007). a. Hệ thực vật rừng. Hệ thực vật ở đây khá đa dạng, phong phú, gồm 780 loài, 468 chi, 135 họ thuộc 5 ngành thực vật bậc cao có mạch. Ngành Mộc Lan chiếm đa số với 729 loài. Ngành Dương xỉ có 45 loài. Trong tổng số 135 họ thực vật, có 2 họ có số lượng trên 40 loài là Rubiacae và Euphorbiaceae. Đây là những họ có số chi và loài đa dnạg nhất trong hệ thực vật Việt Nam. Hệ thực vật rừng có nhiều cây có ích. Theo thống kê có 431 loài cây thuốc, 126 loài cây cho gỗ, 44 loài cây cho quả và hạt ăn được, 33 loài cây làm rau ăn, 27 loài cây cho tinh dầu và dầu béo, 14 loài cây làm thức ăn gia súc. Đây chủ yếu là các rừng thứ sinh, cây cổ thụ không nhiều. Mặc dù chỉ là rừng thứ sinh nhưng vẫn còn nhiều loài gỗ quý như kim giao, giác đế, sao hồng mai, mật cật Bắc Bộ, lim xanh. Rừng còn là môi trường sống cho nhiều loại động vật nơi đây. b. Hệ động vật rừng Thành phần loài động vật trên đảo tương đối phong phú: Bảng 2.1: Hệ động vật rừng VQG Bái Tử Long TT Lớp Số loài Số họ Số bộ 1 Lớp thú 24 13 6 2 Lớp chim 71 28 9 3 Lớp lưỡng cư 15 1 1 4 Lớp bò sát 33 12 2 5 Côn trùng bộ Cánh phần 120 8 0 (Nguồn: [VQG,271]) Những loài được liệt vào Sách Đỏ của Việt Nam ở đây bao gồm: Bồ câu nâu, Báo gấm, Báo lửa, Sơn dương, Rái cá, Rùa hộp ba vạch, Tắc kè, Kỳ đà hoa, Trăn đất, Rắn ráo, Rắn cạp nong, Rắn hổ mang, Rắn hổ mang chúa c. Thực vật ngập mặn. Qua khảo sát đã phát hiện 19 loài thực vật ngập mặn thuộc hai nhóm: nhóm loài chủ yếu và nhóm loài chịu mặn gia nhập vào rừng ngập mặn. Trong đó, loài 26
  27. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà chủ yếu có 11 loài, loài chịu mặn có 8 loài. Loài Sú chiếm ưu thế trong toàn khu vực. d. Rong biển. Đã xác định được 44 loài rong biển, thuộc 4 ngành: Rong lam, Rong đỏ, Rong nâu và Rong lục. Trong đó, Rong lam ít nhất, có 3 loài (chiếm 6,8%), Rong đỏ 16 loài (chiếm 36,4%), rong nâu có 13 loài và Rong lục có 12 loài. Có 5 loài có giá trị kinh tế có thể khai thác sử dụng làm thực phẩm, nguyên liệu chế biến và dược phẩm chữa bệnh. e. Thực vật phù du. Thành phần thực vật phù du ở đây được đánh giá khá phong phú và đa dạng, với sự phân bố không đều về số lượng loài trong các chi tảo. Đã xác định được 210 loài, 67 chi, 29 họ, 9bộ, 4 lớp; trong đó lớp tảo Silic có 130 loài, chiếm 62% tổng số loài. Bảng 2.2: Thực vật phù du VQG Bái Tử Long TT Thực vật phù du Số loài Số chi Số họ Số bộ Tỉlệ(%) 1 Lớp tảo Silic 130 45 17 2 62 2 Lớp tảo Giáp 76 20 10 5 36,2 3 Lớp tảo Kim 2 1 1 1 0,9 4 Lớp tảo Lam 2 1 1 1 0,9 5 Tổng cộng 210 67 29 9 100 (Nguồn: [VQG,271]) e. Động vật phù du. Xét về động vật phù du, khu vực này chiếm 86,4% tổng số loài so với vùng biển Cát Bà - Hạ long và 74,3 % số loài xác định được vùng biển Quảng Ninh - Hải Phong. Trong đó ngành Chân đốt chiếm ưu thế hơn hẳn (85%). Bảng 2.3: Động vật phù du VQG Bái Tử Long TT Động vật phù du Số loài Chiếm tỉ lệ (%) 1 Ngành giun đất 1 1 2 Ngành chân đốt 76 76 27
  28. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà 3 Ngành thân mềm 3 3 4 Ngành hàm tơ 3 3 5 Ngành có bao 2 2 (Nguồn: [VQG, 27]. e. San hô Kết quả điều tra xác định được 106 loài san hô cứng thuộc 34 giống, 12 họ. Họ Faviidae có số lượng giống nhiều nhất, chiếm 35,3% và cũng có số lượng loài nhiều nhất 42 loài, chiếm 39,6%. Các họ khác đều ít hơn hẳn về số lượng giống cũng như số loài. f. Giun đốt. Đã xác định được 60 loài thuộc ngành Giun đốt, thuộc 48 giống và 25 họ, trong đó lớp Giun có nhiều tơ có 58 loài, lớp Sâu đất có 2 loài. Số loài trong các giống và họ đều thấp. g. Động vật thân mềm. Thân mềm là nhóm chiếm số lượng lớn với tổng số 197 loài, trong đó hai lớp Chân bụng (97 loài) và lớp Hai mảnh vỏ (96 loài) chiếm ưu thế (49,2% và 48,8%). 21 loài có giá trị xuất khẩu cao nhưu Ốc đụn, Bào ngư, Ngán, Trai ngọc, Ngao, Mực ống, Mực nang Nhiều loài dùng làm thực phẩm nhưu Trùng trục, Hầu, Điệp, Ốc đĩa, Ốc nhảy Một số có khả năng gia công thành đồ mỹ nghệ và còn tạo ngọc trai làm dồ trang sức có giá trị như Trai ngọc, Điệp ngoc. Một số loài dùng làm thuốc nhưu Cá mực, Bào ngư. Rất nhiều loài trong số này có tên trong Sách Đỏ của Việt Nam nhưng hiện bị khai thác mạnh, có nguy cơ bị tiêu diệt như Bào ngư chín lỗ, Tu hài, Ốc đụn đực, Ốc đụn cái, Ốc xoắn vách, Trai ngọc nữ, Trai ngọc môi đen, Mực nang vân hổ h. Giáp xác. Đã xác định được 22 loài thuộc 17 giống, 10 họ, phần lứon thuộc lớp phụ Giáp xác vỏ mềm, bộ Mười chân. Trong số 40 loài Giáp xác có một số loài có giá trị kinh tế cao nhưu Cua xanh, Ghẹ, Tôm he, Tôm rảo i. Động vật có da gai. 28
  29. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà Đã thống kê được 32 loài. Trong đó, lớp Đuôi rắn có số lượng cao nhất: 12 loài. Có giá trị kinh tế nhất là Hải sâm, Cầu gai đen, Sao biển Bảng 2.4: Động vật da gai VQG Bái Tử Long TT Động vật da gai Số loài Số họ Số bộ 1 Lớp Huệ biển 3 1 1 2 Lớp Hải sâm 8 4 3 3 Lớp Sao biển 3 2 1 4 Lớp Cầu gai 6 4 3 5 Lớp Đuôi rắn 12 7 1 (Nguồn: [VQG, 29-30]). k. Cá biển. Cá biển đã phát hiện được 68 loài, thuộc 38 giống trong 19 họ, trong đó chiếm ưu thế là họ Cá Thia (13 loài). Nhóm loài có giá trị cao nhất là các họ cá Mú, cá Kẽm, cá Hồng, cá Giò. Các loài có khả năng khai thác làm cảnh, có sức lôi cuốn khách du lịch như cá Bướm, cá Bàng chài, cá Thia, cá Sơn, cá Sơn đá. Loài có ý nghĩa khoa học cao, thuộc nhóm quý hiếm trong Sách đỏ Việt Nam và là sinh vật chỉ thị cho chất lượng môi trường nước biển là cá Lưỡng tiêm. Bảng 2.5: Cá biển VQG Bái Tử Long. TT Cá biến Số loài Chiếm tỉ trọng (%) 1 Họ cá Thia 13 19,12 2 Họ cá Mú 9 13,24 3 Họ cá Bàng chài 6 8,82 4 Họ cá Sơn 5 7,35 5 Họ cá Phép 5 7,35 6 Họ cá Bướm 4 5,88 7 Họ cá Lượng 4 5,88 8 Họ cá Bống trắng 4 5,88 (Nguồn: [VQG, 30]). 29
  30. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà 2.2.6. Tiềm năng du lịch tự nhiên. Huyện Vân Đồn có nhiều cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn, bao gồm các đảo đá vôi và đảo đất với hình thù đa dạng, các quần xã thực vật và hệ sinh thái điển hình, các bãi biển dài và đẹp Cảnh quan đảo có thể khai thác tại Vân Đồn ở cả giá trị thẩm mỹ, giá trị lịch sử - địa chất và giá trị văn hoá. Về giá trị thẩm mỹ: riêng khu vực vịnh Bái Tử Long đã phát hiện hàng trăm đảo đá vôi và đảo đất với nhiều hình kì thú, thu hút trí tưởng tượng của con người, gắn liền với những tên gọi của nó như hòn Mẫu Tử, hòn Thiên Thư, hòn Con Quy, hòn Thạch Mã, hòn Bàn Cờ Tiên Trong đó độc đáo và hâp dẫn nhất là những đảo đá vôi được xem như những kì quan đá, hang động vừa có giá trị thẩm mỹ, vừa có ý nghĩa lịch sử như hang Soi Nhụ, hang Hà Giắt, hang Trò, động Đông Trong I và II Tuy quy mô và giá trị thẩm mỹ của những hang đá phát hiện trong khu vực Vân Đồn không bằng ở vịnh Hạ Long nhưng nó có sức hấp dẫn riêng về giá trị lịch sử, địa chất và nổi bật về tính hoang sơ. Bên cạnh những cảnh quan núi đá và núi đất là quần thể thực vật và các hệ sinh thái đặc sắc, phản ánh sự đa dạng sinh học cao của khu vực. Nổi bật trong đó là quần thể thực vật rừng ngập mặn, ở các lạch biển giữa các đảo với một màu xanh tươi tốt. Ưu thế của Vân Đồn còn là nhiều bãi tắm đẹp, cát mịn. nước snáh, sóng tương đối lớn, có thể tạo thành các điểm nghỉ mát, thể thao du lịch biển như Sơn Hào, Ngọc Vừng, Quan Lạn, Minh Châu Một số điểm du lịch tiêu biểu:  Hang Soi Nhụ: Nằm trên đảo Soi Nhụ thuộc xã Hạ Long, huyện Vân Đồn nằm cách thị trấn Cái Rồng khoảng 4km về phía Bắc. Đây là một trong những di chỉ khảo cổ học quan trọng của Hạ Long. Năm 1938 lần đầu tiên hang động này được phát hiện bởi hai nhà khảo cổ học người Pháp. Với những di chỉ khảo cổ tìm được bao gồm các tàn tích thức ăn, công cụ lao động đồ gốm có thể khẳng định đây là một trong những ngôi nhà cổ của các cư dân văn hóa Hạ Long. Hang Soi Nhụ - căn nhà cổ nhất của các cư dân văn hóa Hạ Long đó và sẽ là một 30
  31. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà trong những điểm tham quan nghiên cứu quan trọng của du lịch Vân Đồn cũng như của du lịch Quảng Ninh.  Hang Hà Giắt: Hà Giắt là tên một thôn thuộc xã đoàn kết thuộc huyện Vân Đồn. Địa danh Hà Giắt có từ lâu đời do những người Việt gốc Hoa đặt tên với ý nghĩa là nhất, là một. Năm 1937 các nhà khảo cổ học người Pháp đó tới đây điều tra khai quật họ đã phiên âm Hà Giắt thành Hayart để gọi những bộ sưu tập hiện vật ở đây. Sưu tập Hayart hiện nay cũng được lưu giữ tại bảo tàng lịch sử Việt Nam. Hà Giắt là một trong những địa điểm khảo cổ học quan trọng của văn hóa Hạ Long. Bộ sưu tập hiện vật ở hang Hà Giắt hiện nay còn khoảng 70 hiện vật. Toàn bộ là đồ đẽo ghè và công cụ có dấu vết sử dụng không qua chế tác. Hầu hết đồ đá trong bộ sưu tập này đều làm bằng cuội Granit. Đá có hạt thô lẫn trong những tinh thể trắng, Vỏ cuội xù xì đã bị nước phong hóa. Đây là đặc điểm chung của vùng biển Hạ Long.Về niên đại, người Hà Giắt và người Soi Nhụ cũng sống chung ở một thời kì mà các nhà khảo cổ học gọi chung thời kì này là văn hóa Soi Nhụ Di chỉ Ngọc Vừng: Cách đây 5000 năm, người nguyên thủy thuộc thời đại đá mới đã đến đây cư trú. Ngày nay dân cư địa phương trong lúc làm vườn thường bắt gặp rìu đá, bôn đá vừa có vai, vừa có nấc, chì lưới, bàn mài có rãnh, hòn kê Là những di sản của người nguyên thủy đã sinh sống ở Ngọc Vừng. Vào những năm 30 của thế kỉ 20, từ khi một người chủ lò thủy tinh trong vùng, phát hiện ra di chỉ đá mới Ngọc Vừng, các học giả khảo cổ của Pháp đã tìm đến hòn đảo này. Căn cứ vào hình dáng độc đáo của những hiện vật thu lượm được trên đảo, họ đặt tên di chỉ đồ đá ở đây là “Nền văn hóa Danh-dô-la” (tên đảo Ngọc Vừng trên bản đồ của Pháp).  Hang luồn Cái Đé: Hang dài khoảng 300-400m, cửa bên ngoài thông với áng Cái Đé, cửa bên trong thông với thung Cái Đé, đó là một hồ nước mặn, nằm giữa đảo đá vôi với phần nổi có rừng che phủ, phần ngập nước có rừng ngập mặn tự nhiên với hệ sinh thái đa dạng. Có thể tham quan hang vào mùa khô, mùa mưa nước lớn gây ngập cửa hang. 31
  32. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà  Rừng trâm Minh Châu: Minh Châu là bãi biển đẹp nổi tiếng cách bãi tắm Quan Lạn 15km. Cát ở đây trắng muốt, đi không dính chân, bãi biển còn khá hoang sơ không khí trong lành và rừng trâm ngút ngàn, rất đẹp, chẳng khác gì áo giáp lớn bảo vệ ngoài vành đai cho đảo. Minh Châu là 1 trong 5 xã thuộc tuyến đảo Vân Hải của huyện đảo Vân Đồn, có bãi biển trải dài gần 2km. Minh Châu còn có một rừng trâm tự nhiên, diện tích khoảng 14 ha, chạy dài 4-5 km theo hình vòng cung phủ gần kín cồn cát tương đối bằng phẳng cạnh bãi tắm Chương Nẹp. Theo các chuyên gia, đây là rừng trâm lớn nhất Việt Nam, với hơn gần 90% cây thuần chủng. Các bậc cao tuổi trên đảo cho biết rừng trâm này có cách đây khoảng 300 năm và phát triển đến bây giờ. Ngay từ thời xa xưa, những người dân Minh Châu đã truyền cho con cháu ý thức bảo vệ rừng trâm. Mặc dù trâm là loài gỗ tốt, chỉ đứng sau gỗ lim, gụ,trắc, sến, nhưng hầu như không có người dân nào chặt gỗ trâm về làm nhà, hoặc sử dụng vào việc khác. Một lí do khác khiến người dân Minh Châu ra sức bảo vệ rừng trâm vì họ hiểu rằng nếu rừng trâm bị chặt hạ thì cộng đồng cư dân ở đây phải trả giá bằng chính cuộc sống của họ. Giữa người dân Minh Châu và rừng trâm giống như một quần thể khó có thể tách rời. Trước cách mạng tháng tám năm 1945, thực dân Pháp đã định khai thác quặng Ti - tan dưới rừng trâm. Dân đảo đã cử người vượt biển vào đất liền, lên phủ khâm sai Bắc Kỳ yêu cầu chính quyền thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn không được khai thác quặng Ti- tan ở rừng trâm Minh Châu. Vì thế rừng trâm còn tồn tại mãi đến ngày nay và trở thành niềm tự hào của người dân xã đảo khi nói về quê hương mình. Tháng 8 - 1948 từng xảy ra một trận bão tàn phá, tuốt trụi rừng trâm không còn một cành lá. Vậy mà rừng đã bật lên, xanh lại màu xanh tươi nguyên và đơm những mùa quả cứu dân đảo qua lạn đói. Đến thăm rừng trâm, du khách thường đi bộ trong rừng, qua đầm lác đến bãi tắm Nhãng Rìa và kết thúc tại bãi Chương Nẹp. Bãi tắm Nhãng Rìa có sóng mạnh như bãi tắm Quan Lạn, là điểm cắm trại rất lý tưởng. Nếu ở đây lâu hơn, 32
  33. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà du khách có thể tham gia một số hoạt động du lịch như câu cá ở vũng ổ lợn, khu vực có rất nhiều loại hải sản như mực nang, mực ống, cá mú  Rừng ngập mặn vịnh Cát Quý: Rừng ngập mặn vụng Cát Quý nằm trong lạch Cát Quý, khoảng giữa đảo Ba Mùn. Rừng ngập mặn tại đây rộng 24ha, cấu tạo nền bãi triều là bùn cát, đới gần bờ bùn chiếm nhiều tỉ lệ lớn hơn, đới xa bờ cát chiếm tỉ lệ lớn hơn. Đây là một khu vực có rừng ngập mặn với diện tích lớn nhất và đặc trưng nhất VQG Bái Tử Long.  Bãi tắm cụm Minh Châu - Ngọc Vừng - Quan Lạn: Đây là cụm bãi tắm đẹp nổi tiếng của vùng, bãi cát trải dài, trắng mịn, nước trong vắt, do ở đây lượng silic trong cát rất cao, 90% nên các trên các địa bàn này còn được sử dụng để chế tạo thủy tinh. Bãi tắm trải rộng, thoai thoải đều, bề mặt đáy không bị mấp mô, mùa hè sóng rất êm ả do các đảo lớp ngoài đã chắn sóng to.  Bãi Dài: Bãi Dài nằm trên đảo Cái Bầu. Với một cảnh quan tự nhiên còn khá hoang sơ, bãi biển đẹp trải dài gần 2 km tạo cho khu du lịch này có được một bãi tắm khá lý tưởng. Đến đây, khách du lịch không chỉ được tận hưởng bầu không khí trong lành, bình yên mà còn được thăm thú những cảnh đẹp do bàn tay con người tạo nên và những gì mà thiên nhiên ưu ái ban tặng cho mảnh đất này. Tại Bãi Dài, khách du lịch có thể vừa tắm biển vừa ngắm những núi đảo nhỏ nhô lên trên mặt biển, cảm nhận phong cảnh lên thơ, hữu tình. Ngoài ra khách du lịch có thể ra bãi biển tham gia các môn thể thao như đánh bóng truyền bãi biển, bơi lội, mô tô nước, 2.3. Điều kiện kinh tế – xã hội và tài nguyên du lịch nhân văn. 2.3.1. Đặc điểm kinh tế. Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế trên địa bàn huyện Vân Đồn cơ bản vẫn là nền kinh tế nông – lâm – ngư nghiệp. Hiện nay cơ cấu kinh tế của huyện Vân Đồn có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các ngành dịch vụ, du lịch và thuỷ sản, giảm tỷ trọng ngành nông – lâm – ngư nghiệp. Bên cạnh đó kinh tế ngoài quốc doanh tăng tương đối nhanh so với kinh tế quốc doanh. Tỷ trọng kinh tế giữa các ngành trong huyện năm 2009 như sau 33
  34. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà Nông – lâm – ngư nghiệp chiếm 33,5%. Công nghiệp – xây dựng chiếm 45,9%. Thương mại – dịch vụ chiếm 20,6%. 2.3.1.1.Khu vực kinh tế nông nghiệp. a. Thuỷ sản : Với diện tích mặt biển gần 160 nghìn ha, tiếp giáp với các ngư trường lớn, có hệ thống bến cảng và lao động chuyên môn có nhiều kinh nghiệm, ngành thuỷ sản thực sự là một ngành kinh tế mũi nhọn trên địa bàn huyện. Trong năm 2009, tổng sản lượng khai thác ước đạt 11.650 tấn, tăng 129,4% so với kế hoạch và tăng 33% cùng kỳ. Giá trị tổng sản lượng thuỷ sản ước đạt 256,3 tỷ đồng, tăng 163 tỷ đồng so với cùng kỳ. Song việc khai thác, đánh bắt và nuôi trồng tăng nhanh tạo nhiều áp lực đối với môi trường. Công tác bảo vệ môi trường chưa thực sự được chú ý. Hiện nay, huyện đang tích cực phát triển đội tàu đánh cá xa bờ vì vừa có năng suất cao, vừa bảo vệ được nguồn lợi trong vùng nội thuỷ của quốc gia, hạn chế tác động môi trường. b. Sản xuất nông nghiệp: Ngành nông nghiệp vẫn là ngành có số lao động đông, tuy nhiên hiệu quả chưa cao. Về trồng trọt, năm 2009 thực hiện công tác chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, sửa chữa nâng cấp, xây mới các công trình thuỷ lợi đảm bảo nguồn nước phục vụ sản xuất. Năng suất lúa đạt 35 tấn/ha, snả lượng đạt 3.111tấn. Tổng sản lượng lương thực năm 2009 là 3.322 tấn, đạt 97,71% so với kế hoạch. Về chăn nuôi, tăng cường các biện pháp phòng chống dịch bệnh, khử trùng tiêu độc. Lợn 12.642 con đạt 81,5% kế hoạch, đàn gia cầm 83.200 con, đạt 99% kế hoạch. c. Lâm nghiệp: Năm 2009 đã có tổ chức trồng 57.050 cây bảo vệ môI trường, 1.292 ha rừng tập trung, tăng 23,6% so với cùng kỳ. Các sản phẩm khai thác từ rừng: gỗ trồng rừng (7.079m3 ), tre nguyên liệu giấy (881tấn) Bắt giữ và xử lý nghiêm 57 34
  35. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà vụ vi phạm lâm luật, thực hiện công tác phòng cháy chữa cháy, tà soát 3 loại rừng phục vụ quy hoạch khoanh nuôi bảo vệ rừng. 2.3.1.2. Khu vực kinh tế công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Giá trị sản xuất khu vực này năm 2009 ước đạt 18 tỷ đồng, đạt 110% kế hoạch. Toàn huyện có 7 nghề, 26 đơn vị snả xuất tiểu thủ công nghiệp truyền thống như chế biến chè Vân, làm hương, sửa chữa cơ khí, đóng và sửa chữa tàu thuyền Cơ cấu công nghiệp còn đơn giản gồm khai thác than và vật liệu xây dung (chiếm 67% giá trị snả xuất của khu vực công nghiệp – xây dung), chế biến nông – lâm – ngư nghiệp và hải sản (chiếm 15,2%) và tiểu thủ công nghiệp (17,8%). 2.3.1.3. Khu vực thương mại - dịch vụ: Trong thời gian gần đây, thương mại – dịch vụ có những bước chuyển biến tích cực. Dịch vụ từng bước phát triển gồm nhiều thành phần kinh tế tham gia. Hệ thống các chi nhánh, đại lý kinh doanh quy mô hộ gia đình dần hình thành và phát triển nhanh chóng, tạo thuận lợi cho người tiêu ding. Hoạt động xuất nhập khẩu cũng góp phần tăng trưởng GDP của huyện. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu gồm đặc sản như tôm, mực, sò huyết, ngọc trai, các loại có giá trị (song, nhụ, thu, đé ), lâm sản (nhựa thông, dược liệu, mật ong). Hàng hoá nhập khẩu gồm máy móc nhỏ, dụng cụ cơ khí, quần áo văn phòng phẩm 2.3.2. Đặc điểm dân cư. 2.3.2.1. Dân số Do điều kiện tự nhiên chia cắt, nhìn chung sự phân bố dân cư phân tán manh mún, còn mang tính chất tự nhiên lại bị phân cách bởi biển. Tính đến 31/12/2006, dân số huyện Vân Đồn có 41.081 người, 9.130 hộ, với 9 dân tộc anh em: Kinh, Tày, Nùng, Dao, Mường, Sán Dìu, Cao lan, Hoa và Thán Sín cùng chung sống hoà hợp, trong đó người Kinh chiếm 88,6%, các dân tộc khác chiếm 11,4%. Dân cư phân bó không đều trên 20 hòn đoả, tại 80 thôn, bản tập trung đông nhất ở đảo Cái Bầu và đảo Quan Lạn, mật độ dân số: 75,4 nười/km2. Thấp hơn mức bình quân của tỉnh Quảng Ninh (181 người/km2). Dân cư tập trung chủ yếu trên một số xã (xã có dân số đông nhất là xã Đông Xá, trên 9.000 35
  36. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà nguời), còn lại phân bố rải rác trên các xã đảo, trong đó ít nhất là xã Minh Châu với 900 người (số liệu năm 2008). Trong giai đoạn 2001 - 2006 số nhân khẩu bình quân là 4,7 người/hộ, số lao động bình quân là 2,14 lao động/hộ,trong khi đó bình quân của tỉnh Quảng Ninh là 4,78 người/hộ; 2,24 lao động/hộ. Đặc điểm phân bố dân cư này ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế, xã hội và tổ chức không gian kinh tế trên địa bàn huyện, rất khó khăn trong việc huy động các nguồn lực và tiếp cận với các phúc lợi cộng đồng. 2.3.2.2. Lao động: Tính đến tháng 12/2009 số người trong độ tuổi lao động ở Vân Đồn là 20.953 người, chiếm 50,3% dân số toàn huyện, 97% dân số trong độ tuổi lao động có việc làm. Chất lượng lao động có trình độ kỹ thuật không cao, qua đào tạo chiếm 6,1%. Số lao động có trình độ Đại học, Cao đẳng là 500 người. Về cơ cấu tuổi: Dân số trẻ dưới 14 tuổi chiếm 36,6%, từ 15 đến 60 tuổi chiếm 56,3%, trên 60 tuổi chiếm 7,1%. Thu nhập của người dân đang từng bước được cải thiện. Năm 2009 GDP bình quân đầu người tăng lên 12,45 triệu đồng bằng 92,67% bình quân cả nước. Tỷ lệ đói nghèo trong toàn huyện giảm dần. Trong đó nghèo nhất là các xã Bản Sen, Đài Xuyên, Vạn Hoa. Cư dân Quan Lạn, Cái Rồng Hạ Long có đời sống khá hơn. 2.3.3. Văn hoá, y tế và giáo dục và an ninh quốc phòng: 2.3.3.1. Văn hoá - Thể dục thể thao: Được sự quan tâm của các cấp các ngành, hoạt động văn hoá, thể dục thể thao trên địa bàn huyện ngày càng sôi nổi ở các xã gần thị trấn huyện như Thị trấn Cái Rồng, Hạ Long, Đông Xá. ở Cái Rồng đã có 1 đài phát thanh truyền hình phát sóng đến 100% các thôn bản. Hiện toàn huyện đã được công nhận 16 làng văn hoá, 53 khu dân cư tiên tiến và hơn 6500 gia đình văn hoá. Lễ hội truyền thống chính trên địa bàn huyện và địa phương lân cận có lễ hội đình Quan Lạn và lễ hội đền Cửa Ông. Trong các năm gần đây, lễ hội đình Quan Lạn đã được UBND huyện Vân Đồn quan tâm tổ chức long trọng,với ý 36
  37. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà nghĩa là một lễ hội truyền thống, gắn việc giáo dục truyền thống với việc phát triển công tác du lịch trên địa bàn huyện.Đây sẽ là yếu tố quan trọng trong chương trình phát triển Du lịch sinh thái Về thể dục thể thao: Trên địa bàn huyện đã có 1 sân vân động và 7 sân luyện tập thể dục thể thao ở các xã. Cở sở vật chất còn nhiều khó khăn, chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân. Phong trào luyện tập thể dục thể thao được tổ chức thường xuyên và có hiệu quả, đạt được nhiều giải thưởng cấp tỉnh. 2.3.3.2. Y tế: Mạng lưới y tế có nhiều khó khăn do dân cư phân tán. Hiện đã có 1 bệnh viện tuyến huyện (bệnh viện Vân Đồn tại thị trấn CáI Rồng) và 1 trung tâm điều trị ( phân viện tại xã Quan Lạn). Ngoài ra còn có các trạm y tế tại tất cả 12 xã và thị trấn trong huyện. Các trạm y tế xã đang dần tăng hiệu suất sử dụng nhờ nâng cao cơ sở kỹ thuật để đạt chuẩn quốc gia. Điều kiện vệ sinh môi trường từng bước được cải thiện. Công tác dân số kế hoạch hoá gia đình được quan tâm. 2.3.3.3 Giáo dục, đào tạo: Hiện nay huyện có 28 cơ sở giáo dục, đào tạo. Các cơ sở đào tạo này được bố trí gần điểm dân cư, thu hút lượng lớn trẻ em đến trường. Tỷ lệ trẻ em đến trường ở các cấp đạt hơn 80%. Chất lượng giáo dục tương đối khá, năm 1998 đã phổ cập giáo dục tiểu học theo chuẩn ở tất cả các xã và cơ bản xoá mù chữ cho số người trong độ tuổi từ 15- 35 tuổi. Tuy nhiên một thực té xảy ra là lao động của huyện đi học Đại học, Trung học chuyên nghiệp ít trở lại quê nhà làm việc. 2.3.3.3. An ninh quốc phòng. Là một huyện nằm ở vị trí tiền tiêu của Tổ quốc nên vấn đề quốc phòng an ninh luôn được quan tâm chú ý. Huyện thực hiện nghiêm túc công tác quốc phòng ở địa phương, tổ chức điễn tập, phòng thủ khu vực, đồng thời thường xuyên chăm lo xây dựng, nâng cao chất lượng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang, dự bị động viên và dân quân tự vệ. 37
  38. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội cũng được quan tâm. Như vậy nhìn chung Vân Đồn nằm trong số các huyện có nền kinh tế đang có những bước chuyển tích cực, đời sống người dân được cải thiện, tỉ lệ đói nghèo giảm dần. Lực lượng lao động trong ngành nông – lâm – ngư nghiệp đông song gái trị sản lượng lại thấp. Đây là yếu tố bất lợi cho công tác bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và ổn định đời sống dân cư. 2.3.4. Tài nguyên du lịch nhân văn. Đến với Vân Đồn, kết hợp với tham quan các điểm du lịch tự nhiên, du khách có cơ hội được thăm lại thương cảng cổ Vân Đồn vốn thịnh vượng và sầm uất từ xa xưa. Là một vùng có các hệ thống kì quan đảo đá nối tiếp nhau với khu vực Hạ Long từ lâu đời đã trở thành vùng danh lam thắng cảnh nổi tiếng của đất nước gắn với truyền thống Hạ Long, Bái Tử Long. Vân Đồn có hơn 600 đảo lớn nhỏ đan thành những bức tường thành, là vùng phên dậu của đất nước một vùng thương cảng sầm uất đầu tiên của nước ta từ thời kỳ Lý-Trần (thế kỉ 11-12). Vân Đồn là một bảo tàng địa chất ngoài trời. Theo sử kí năm Thiên Hưng thứ 19 đời Trần lập ra trấn Vân Đồn (có Bình Hải quan). Những ghi chép có liên quan đến địa danh Vân Đồn như “Đại Việt địa dư toàn biên” dẫn sách “ thiên hạ quân quốc lợi bệnh thư” cho rằng “ vào năm Vĩnh Lạc thứ năm (1407) Vân Đồn là một trong 8 huyên của châu Vĩnh An. Về núi Vân Đồn chép rằng “núi Vân Đồn ở về phía Đông Bắc phủ Giao Châu, huyện Vân Đồn ở trong biển lớn, hai núi đối nhau. Một dòng nước chảy qua giữa, thuyền buôn của các phiên quốc phần nhiều họp ở đây”. Đây cũng là cái nôi của nền văn hóa Hạ Long, đó là văn hóa Soi Nhụ. Từ văn hóa Soi Nhụ đến văn hóa Cái Bèo, di chỉ Thoi Giếng phát triển thành một nền văn hóa Hạ Long. Giá trị văn hóa Hạ Long (bao gồm cả vùng Vân Đồn và Hạ Long) là toàn bộ các giá trị về tinh thần và vật chất cho các thế hệ người Vân Đồn - Hạ Long sáng tạo ra từ thời tiền sử. Từ những dấu tích loài hầu lớn tại một số hang động vùng Soi Nhụ chúng ta đã làm rõ một lịch sử văn hóa Soi Nhụ, là nền văn hóa có đặc trưng riêng. Kế tiếp văn hóa Soi Nhụ là nền văn hóa 38
  39. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà trung kì đá mới Cái Bèo. Tiến tới loại hình sớm của văn hóa Hạ Long là Thoi Giếng để rồi phát triển thành một nền văn hóa Hạ Long rực rỡ. Những dấu ấn của văn hóa Hạ Long trải khắp nơi ở trung du, đồng bằng bắc bộ. Các di tích lịch sử văn hóa.  Đình Quan Lạn: là một công trình kiến trúc cổ có quy mô lớn vào bậc nhất nhì hiện có ở Quảng Ninh. Đình được xây dựng vào thời Lê tại bến Cái Làng một trung tâm thương cảng Vân Đồn xưa, gồm 9 gian. Đến thời Nguyễn nhân dân chuyển sang đất Quan Lạn để sinh sống thì đình cũng được chuyển theo và rút bớt đi còn 7 gian, lúc đầu đình được xây theo kiểu chữ “khẩu”, sau lại sửa theo kiểu chữ “công”, gồm 5 gian 2 trái tiền đường, 3 gian ống muống và 1 gian 2 chái hậu cung. Sau đó được rời về xóm Thái Hòa, rồi xóm Nam, cuối cùng được rời về xóm Đoài và được thu gòn như hiện nay. Toàn bộ kiến trúc của đình tuy đồ sộ bề thế, nhưng các đầu đao uốn cong hình rồng đã tạo cho đình một nét cong uyển chuyển. Mái lợp ngói mũi hài, trên bờ nóc đắp nổi lưỡng long chầu nguyệt, hệ thống kèo cột gỗ kiểu giá chiêng chồng rường. Các kiểu trạm khắc ở đây được nghệ nhân trạm trổ công phu, tỉ mỉ , sắc nét và đạt đến đỉnh cao của nghệ. Đề tài trang trí chủ yếu là hình rồng, phượng và hoa lá được thể hiện với các sắc thái khác nhau trên mỗi bức cuốn, con rường, đầu bẩy, đầu dư, câu đầu, cửa võng mang đậm phong cách thời Lê. Toàn bộ hệ thống cột gỗ được làm bằng chất liệu gỗ Mần Lái- một loại gỗ tốt nhất và chắc hơn cả gỗ Lim, mọc từ núi đá trên đảo Ba Mùn (Vân Đồn). Đình Quan Lạn xây dựng để thờ Thành Hoàng làng và các vị Tiên Công có công khai lập ấp, lập nên xã Quan Lạn ngày nay và Trần Khánh Dư người có công lớn trong trận chỉ huy trận đánh tan đoàn quân lương của Trương Văn Hổ ở Vân Đồn, Cửa Lục góp phần quan trọng vào trận đại thắng Bạch Đằng năm 1288 lên đã được nhân dân tôn thờ làm Thành Hoàng của làng. Hiện nay còn lưu giữ được ở đỉnh là tượng Trần Khánh Dư, 18 sắc phong của triều Nguyễn phong cho Trần Khánh Dư, long ngai, khám thờ, cửa võng, hoành phi, câu đối.  Chùa Quan Lạn: Nằm ngay bên trái đình Quan Lạn có tên là chữ Vân Quan tự tên Vân Quan đã thể hiện mối quan hệ giữa thương cảng Vân Đồn và xã 39
  40. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà Quan Lạn ngày nay. Chùa có kiến trúc kiểu chữ “đinh” gồm 3 gian 2 trái tiền đường và 3 gian hậu cung, mái lợp ngói mũi hài, phía trước của chùa là tam quan gác chuông. Hệ thống vì kèo cột gỗ theo kiểu giá chiêng chồng rường, các con rường, con đầu đều được trạm trổ hình hoa dây, hoa lá vân xoắn và hoa cúc mãn khai. Ngoài thờ phật, chùa Quan Lạn còn thờ Mẫu Liễu Hạnh, một tín ngưỡng bản địa và thờ cụ Hậu (người có công với dân làng). Hiện nay chùa còn lưu giữ đầy đủ tượng phật có giá trị điêu khắc của thời Nguyễn, hoành phi, câu đối,sắc phong của vua Thành Thái (1889) phong cho mẫu Liễu Hạnh và nhiều đồ tự khác bằng đồng và gỗ có giá trị.  Chùa Lấm: nằm trên sườn phía tây đối diện với năm bến thuyền cổ dưới chân đảo Cống Đông. Chùa xây trong lòng chảo Ba Bể có núi cao bao bọc, cửa chùa trông ra biển lớn, có bãi cát trắng trải dài vài trăm mét. Phật là kiến trúc trọng yếu nhất của khu chùa Lấm. Nền chùa có hai cấp, cấp một hình gần vuông, cấp hai nhỏ hơn, cả hai cấp đều kè đá chắc chắn. Trên mặt cấp thứ 2 còn có 16 hòn đá kê cột, khoảng giữa của 4 hòn kê có một bệ sen bằng đá 3 tầng. Cả 3 tầng được trạm trổ đẹp mắt, các canh sen mềm mại thu nhỏ dần từ dưới lên trên, từ ngoài vào trong, tựa một búp sen đang nở. Khu nhà tổ khá đồ sộ có dãy nhà trên và dãy nhà dưới. Tường gồm những tảng đá xếp chồng lên nhau, không hề có một chút vôi vữa, vẫn không bị xô lệch, mặt tường vẫn phẳng phiu dù đã sáu, bảy chục năm trôi qua.  Ngọn bảo tháp Đất Nung: xây dựng chếch về phía Bắc đảo Cống Tây trên một khu đất bằng phẳng có ngọng đồi khá cao. Tháp xây hoàn toàn bằng gạch nung, mặt ngoài của tháp được trang trí hình rồng, phượng, hoa lá với dáng điệu uyển chuyển, sinh động. Trên mỗi bến thuyền có một khẩu giếng nước ngọt, đó là giếng Hiệu (hay giếng nàng tiên) trên bến Cái Làng quanh năm đầy nước mát. Ngoài ra còn có giếng Rùa Vàng trên Con Quy, giếng Đình trên bến Cái Cổng. Mỗi khẩu giếng gắn liền với một câu huyền thoại, và giếng nào cũng trong, ngọt và đầy nước xung quanh. 40
  41. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà  Đồn canh tiền tiêu Tĩnh Hải: không chỉ là một cảng mậu dịch quan trọng mà Vân Đồn còn là mảnh đất tiền tiêu, là cửa ngõ của Tổ Quốc. suốt trong thời kì phong kiến Vân Đồn luôn được xem nhu khu vực có vai trò quan trọng về mặt quân sự. Đến thời Nguyễn tuy không còn vai trò là một thương cảng quan trọng nữa nhưng việc buôn bán ở đây vẫn chưa chấm dứt. Các thuyền buôn nước ngoài vẫn qua lại đặc biệt là người Trung Quốc. Vào thời kì này hiện tượng cướp biển xảy ra thường xuyên. Giặc biển có khi là dân đánh cá đi cướp các thuyền cá khác của dân, có khi là bọn lái buôn đến nén nút mua hàng quốc cấm, chúng luôn chống lại cả quân tuần tiễu của triều đình. Trước hoàn cảnh đó nhà Nguyễn đã cho xây dựng một hệ thống đồn bảo sai quan lưu giữ vừa để canh phòng mặt biển vừa để thu thuế các thuyền buôn qua lại. Hiện nay di tích đồn canh Tĩnh Hải vẫn còn được lưu giữ gần như nguyên vẹn trên đảo Ngọc Vừng.  Nghè Trần Khánh Dư: nằm ở xóm Thái Hòa xã Quan Lạn thờ phó tướng Trần Khánh Dư. Nghè được xây dựng theo kiểu chữ đinh gồm 3 gian tiền đường và hai gian hậu cung. Nghè trần khánh dư và đình Quan Lạn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nghè là nơi thờ chính Trần Khánh Dư, đình là nơi làm lễ tế thành làng Trần Khánh Dư trong mỗi dịp lễ hội.  Các di tích Bến thuyền cổ: Những bến thuyền cổ, những di vật cổ và các di tích kiến trúc đã khảng định: thương cảng Vân Đồn với một hệ thống bến thuyền mà trung tâm là bến Cái Làng và Sơn Hào ngày nay vẫn xòn chứa hàng vạn vật phế thải từ những lần khuân vác lên bến suốt thời kỳ Lý – Trần - Lê.  Bến Cống Đông: Nằm trên đảo Cống Đông- xã Thặng Lợi. Phía Đông và phía Tây của đảo một khoảng dài hơn 10km là một bến thuyền cổ dài nhất trong các bến bãi. Bến này có 7 vụng to nhỏ ăn sâu vào đảo trở thành 7 bến đỗ an toàn và tiện lợi. Hiện vật ở đây có số lượng nhiều và phong phú nhất trong tất cả các bến. Dọc theo bến, trên sườn núi cao còn di tích của khá nhiều nền nhà cổ. Trong số đó gốm men nâu thời trần, gốm men ngọc Trung Quốc thời Nguyên và gốm thơi Mạc tiền đồng thời Đường, Tống không ít  Bến Cái Làng: Nằm trên địa phận xã Quan Lạn. Nhân dân địa phương gọi các vụng biển kín đáo, nông, khi nước thủy triều rút có thể lộ bãi cát là “cai”. 41
  42. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà Nơi đây xưa kia là một làng cư dân đông đúc nên được gọi là bến Cái Làng. Suốt bờ vụng phía Đông, một khoảng dài 200m có rất nhiều mảnh đồ gốm các loại thuộc nhiều thời kì khác nhau, Loại hình phổ biến là các loại lon, vò, hũ. Người dân ở đây còn tìm thấy nhiều chồng bát đĩa còn nguyên vẹn và một số tiền đồng thời Đường (khai nguyên thông bảo 712-756). Trên sườn núi còn nhiều dấu tích nền nhà và một nền đình cổ, một giếng cổ- giếng Hiệu, nước giếng trong ,mát, ngọt và đầy nước quanh năm với câu ca truyền tụng trong vùng: “Khi đi tóc mới ngang vai Tắm nước giếng Hệu tóc dài ngang lưng” Do bến Cái Làng ngày một nông, thuyền lớn không vào được nữa, mảnh đất không còn phù hợp lên nhân dân chuyển sang đồi cát cao đối diện phía Nam đồi Cái Làng.  Bến Cống Cái: nằm ở bờ Tây đảo Vân Hải, nay thuộc xã Quan Lạn. Cửa vụng mở ra một con sông do đảo Hải Vân và núi Man chạy song song ngăn một dải nước tạo thành. Bến này cách bến Cái Làng khoảng 2km, nước sâu, kín gió thuận lợi cho thuyền bè neo đậu. Suốt bờ Bắc một dải dài hơn 100m là nơi tích tụ rất nhiều mảnh gốm các loại giống như ở Cái Làng.  Bến Con Quy: Nay thuộc xã Minh Châu. Tại địa điểm này người ta cũng tìm thấy rất nhiều mảnh gốm như vò, hũ, các chồng bát dĩa còn nguyên vẹn và tiền đồng Trung Quốc từ thời Đường - Tống và tiền Việt các thời Lý- Trần -Lê mà nhiều hơn cả là tiền Tây Sơn. Quanh trên sườn núi còn lại nhiều dấu vết của những nền nhà cổ  Bến Cái Rồng: Gồm hai vụng được gọi là Cổng Ông (phía Bắc) và Cổng Bà (phía Nam) thuộc đảo Trà Bản. Tại khu vực này cũng tìm thấy nhiều mảnh đồ gốm các thời Lý - Trần - Lê. Đặc biệt người ta tìm thấy một cây đèn nến bằng gốm, có men màu trắng ngà, rạn, phong cách Hán- Bến Cống Yên, Cống Hẹp: Nằm ở phía Tây của đảo Ngọc Vừng. Tại đây cũng tìm thấy nhiều mảnh đồ gốm trên dải bờ biển kéo dài hàng trăm mét. 42
  43. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà 2.4. Đánh giá về tiềm năng DLST dựa vào cộng đồng ở Vân Đồn, Quảng Ninh Nhìn chung các điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá - xã hội của Vân Đồn là thuận lợi để phát triển hoạt động du lịch. Để đánh giá về thực trạng hoạt động DLST, những vấn đề cần quan tâm bao gồm: tài nguyên DLST và tính cạnh tranh, khả năng tiếp cận, vị trí so với nguồn khách, nhận thức và thái độ của cộng đồng, khả năng cung ứng các dịch vụ du lịch, mức độ an toàn, các nguy cơ về môi trường Sau đây, tác giả sẽ phân tích lần lượt những vân đề trên. 2.4.1. Về vị trí so với các nguồn cấp khách. Vân Đồn có vị trí thuận lợi, nằm trong “ bán kính ảnh hưởng trực tiếp của Hà Nội, trung tâm của Vùng du lịch Bắc Bộ” (dưới 350km). Về thị trường khách nội địa, thị trấn Cái Rồng của Vân Đồn chỉ cách Hà Nội và Hải Phòng – hai trung tâm cấp khách lớn cuả miền Bắc – hơn 4 tiếng bằng đường bộ, với hệ thống đường quốc lộ mới được nâng cấp, chất lượng tương đối tốt. Hơn nữa, huyện Vân Đồn thuộc tỉnh Quảng Ninh (vùng kinh tế trọng điểm Đông Bắc) có dân số hơn 1 triệu người và cách thành phố Hạ Long – trung tâm tiểu vùng duyên hải Đông Bắc – trong khoảng 50km. Kế cận Vân Đồn là thị xã Cẩm Phả, một thị trường khách du lịch cuối tuần tương đối dồi dào từ vùng mỏ. Về thị trường khách quốc tế, khi sân bay xã Đoàn Kết được xây dựng, Vân Đồn sẽ đón lượng khách quốc tế tập trung hơn bằng đường không, hoặc thông qua chạm trung chuyển ở sân bay Nội Bài và Tân Sơn Nhất. Đồng thời khách quốc tế (chủ yếu là khách Trung Quốc) đi đường bộ qua cửa khẩu Móng Cái cũng là một nguồn khách đáng chú ý cho du lịch Vân Đồn. Đường thuỷ với việc đưa vào vận hành đội tàu chở khách tốc độ cao của tập đoàn VINASHIN sẽ tạo thêm một đường kết nối trực tiếp từu TP. Hồ Chí Minh qua cảng Chân Mây (Huế) đến cảng Bãi Cháy của Quảng Ninh. Tương lai, nếu hoạt động DL bằng tàu biển phát triển mạnh, kết nối trực tiếp với Vân Đồn và Móng Cái thì huyện đảo này sẽ là một trong những trung tâm du lịch tầm cỡ quốc gia và quốc tế.` 2.4.2. Về khả năng tiếp cận 43
  44. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà Khả năng tiếp cận các điểm du lịch nhìn chung thuận tiện trên cả đường bộ, đường thuỷ và tương lai là đường không. Nếu trước năm 2002, việc đi lại bằng đường bộ từ Bĩa Cháy đến trung tâm Vân Đồn có khi mất cả buổi do phải mất nhiều thời gian chờ phà (phà Bãi Cháy, phà Tài Xá) thì nay, việc đi lại chỉ mất hơn 1giờ. Đó là nhờ việc nâng cấp hệ thống giao thông trên đảo Cái Bầu. Khả năng tiếp cận đến các tuyến đảo cũng dễ dàng hơn nhờ hệ thống bến bãi được cải tạo. Tần suất các chuyến tàu từ cảng Cái Rồng ra đảo tăng lên, hiện nay là 2 chuyến mỗi ngày và trong tương lai còn tăng lên. Ngoài ra, xuất phát từ cảng Hòn Gai (thành phố Hạ Long) còn có một chuyến định kỳ ra các đảo chưa đầy 4 tiếng, tạo thuận lợi cho khách du lịch. Tuyến xe buýt Hạ Long – Bãi Dài mới được đưa vào hoạt động không những giảm áp lực lên các chuyến xe khách mà còn thúc đẩy thị trường khách du lịch cuối tuần của cư dân trên tuyến, đặc biệt là học sinh giỏi và dân mỏ. Ngoài ra, do khoảng cách với bờ không quá xa nên các tuyến đảo của Vân Đồn không chịu tình trạng cô lập như ở các đảo Phú Quốc, Côn Đảo trong những mùa bão lũ. Đồng thời, khả năng xây dựng đường cáp treo phục vụ khách du lịch cũng như các cầu cảng có nhiều khả năng để thực thi. Tương lai, nếu phát triển các sân bày nhỏ cho trực thăng để chuyển khách từ sân bay Vân Đồn đến các xã đảo thì sẽ rút ngắn hơn thời gian đi lại, tạo điều kiện cho khách tham quan và sử dụng nhiều hơn các dịch vụ tại điểm. 2.4.3. Về tài nguyên du lịch. Tài nguyên du lịch là yếu tố cơ bản quyết định khả năng phát triển du lịch của một điểm. Tất cả các điểm du lịch nổi tiếng đều được hình thành trên nền tảng nguồn tài nguyên tự nhiên và văn hoá bản địa phong phú, nhiều màu sắc. Đối với phát triển DLST, đây cũng là điều kiện tiên quyết. Tài nguyên du lịch tự nhiên của Vân Đồn khá phong phú. Nổi bật nhất là giá trị đa dạng sinh học ở VQG Bái Tử Long cả về HST, nguồn gen và số lượng loài là nền tảng để xây dựng hoạt động DLST. Một số sản phẩm độc đoá hơn hẳn khu vực lân cận, nổi bật là chuỗi bãi biển hấp dẫn Minh Châu – Quan Lạn - Ngọc 44
  45. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà Vừng. Chất lượng những bãi tắm này là lợi thế so sánh của Vân Đồn với các huyện lân cận như vịnh Hạ Long, Cát Bà, Móng Cái cũng như toàn tuyến biển khu vực Đông Bắc. Hơn nữa cảnh quan của Vân Đồn được đánh giá là tương đối hoang sơ, chưa bị khai thác nhiều nên có sức hút mạnh mẽ với khách du lịch. Tuy nhiên, yếu tố thời tiết và dặc trưng biển gây ra một số bất lợi cho hoạt động du lịch, đặc biệt là tính mùa vụ. Tiềm năng du lịch nhân văn không hẳn là thế mạnh của Vân Đồn. Hệ thống di tích không nhiều, quy mô nhỏ và rời rạc chưa thật sự đặc sắc (trừ cụm di tích xã Quan Lạn), chủ yếu có giá trị cấp địa phương. Các di chỉ khảo cổ không lớn, nằm rải rác nên khó hình thành sản phẩm riêng. Việc khai thác chủ yếu theo hướng lồng ghép giá trị tự nhiên trong các chương trình du lịch. Tuy nhiên, nếu biết khai thác tốt thì đây có thể là một sản phẩm bổ sung, tạo ra tính đặc trưng vùng của huyện và khu vực. Chẳng hạn: văn hoá biển và các sản phẩm từ biển là cơ sở để thiết kế ra những sản phẩm, đồ lưu niệm có giá trị. Cần lưu ý rằng quá trình khai thác các giá trị lịch sử - văn hoá phục vụ du lịch không thể tách rời Vân Đồn khỏi những khu vực lân cận như Yên Hưng, cẩm Phả, Yên Tử đặc biệt là vịnh Hạ Long, nơi có những đặc điểm tựu nhiên, lịch sử tương đồng trong cùng một không gian văn hoá Hạ Long. 2.4.4. Về thái độ, trình độ của ngƣời dân. Tuy lưu giữ ít các yếu tố văn hoá dân tộc nhưng Vân Đồn lại đặc trưng bởi văn hoá biển và lịch sử lâu đời gắn liền với biển. Người dân gốc Vân Đồn vì thế nhìn chung “mến khách và phóng khoáng”. Một bộ phận có sự nhạy bén với hoạt động thương mại, có tính sáng tạo, tích cực tham gia vào hoạt động kinh doanh như cư dân Quan Lạn, Cái Rồng. Đây là tiền đề để phát triển du lịch cộng đồng. Song do những giá trị và lối sống của cư dân đã phải nhạt dần nên muốn thu hút khách, việc khôi phục lại lối sống và văn hoá biển thông qua các hoạt động liên quan đến hoạt động đánh bắt, khai thác và nuôi trồng thuỷ sản của ngư dân như đánh bắt cá, mực, sá sùng cũng như các hoạt động văn hoá, lễ hôị là yêu cầu của cấp bách. 45
  46. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà Người dân ở Vân Đồn chủ yếu là người Kinh (hơn 80%), khả năng tiếp cận và tiếp thu công nghệ và kỹ thuật tương đối thuận lợi hơn so với các dân tộc miền núi. Người dân đã được phổ cập phổ thông trung học, trình độ dân trí ngày được cải thiện. Đặc biệt, người dân sẵn sàng tiếp nhận sự có mặt của du khách. Đây là thuận lợi cho công tác giáo dục cộng đồng, khuyến khích một bộ phận ngư dân chuyển snag làm du lcịh, tăng thu nhập và ổn định đời sống. Tuy nhiên trình độ ngoại ngữ và kỹ năng nghiệp vụ còn kém. Việc tập huấn nghề nghiệp và ngoại ngữ sẽ mất một thời gian không nhỏ. 2.4.5. Khả năng cung ứng các dịch vụ. a.Về dịch vụ ăn uống: Lương thực, thực phẩm ở trên đảo chỉ phục vụ được một phần nhu cầu của người dân, chưa nói đến nhu cầu của khách du lịch. Phần lớn lương thực phải nhập từ đất liền. Ngay cả một số mặt hàng hải sản cũng phải lấy trong đất liền vì ngư dân khai thác xong thì phần lớn bán trực tiếp cho lái buôn sang Trung Quốc. Với sự nâng cấp của hệ thống hạ tầng, việc cung ứng các dịch vụ từ trong đát liền ra đảo Cái Bầu cũng như từ đảo Cái Bầu ra các tuyến đảo Vân Hải trở nên dễ dàng hơn. b.Về cơ sở lưu trú: Việc xây dựng nhiều nhà mái ngói khang trang đang là xu thế chung ở các huyện đảo do được hỗ trợ vốn vay. Song ngư dân vân phải nhập nguyên liệu xây dựng từ trong đất liền khiến giá thành xây dựng cao là một hạn chế đối với công tác phát triển hệ thống nhà nghỉ cho khách. Mặt khác, các công trình này không tạo được sự hài hoà với cảnh quan môi trường, chưa đáp ứng được yêu cầu của DLST. Đặc biệt hệ thống nhà vệ sinh ở một số xã đảo còn khá thô sơ, chưa có hệ thống xử lý, là nguy cơ phát triển dịch bệnh, gây mất an toàn và ảnh hưởng đến khả năng đón khách.Các dịch vụ khác còn nghèo nàn, chủ yếu phục vụ nhu cầu của cư dân địa phương. c. Về nước ngọt: Nhìn chung là thiếu, kể cả ở trong Cái Bầu và ngoài xã đảo nhưng chưa đến mức khan hiếm. Nhân dân chủ yếu khai thác nước ngầm và nước hồ cho sinh 46
  47. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà hoạt và đời sống thường nhật. Một số hồ cung cấp nước như hồ Mắt Rồng (cho khu vực Cái Bầu), hồ Dòng Linh (cho Quan Lạn, Minh Châu, Bản Sen), hồ Cầu Lậu (cho Ngọc Vừng). Tình trạng thiếu nước nghiêm trọng xảy ra ở Thắng Lợi vào các tháng khô hạn. 2.4.6. Về mức độ an toàn, an ninh. An toàn và an ninh cũng là một yêu cầu khi đánh giá tiềm năng DLST của Vân Đồn. Với điều kiện tự nhiên được bao bọc, che chắn khá chắc chắn, Vân Đồn không phải hứng chịu tác động mạnh của những cơn bão hay sóng thần. Việc đi lại bằng đương thuỷ hiện nay tương đối an toàn vì không nhiều tàu lớn ra vào cảng. Nhưng trong tương lai, khi hoạt động hàng hải diễn ra tấp nập hơn, những yêu cầu về giao thông thuỷ cần được quan tâm, chú ý. Đặc biệt là việc xây dựng phân chia tuyến, luồng lạch và kiểm soát chất lượng, hệ thống phao cứu sinh cần được triển khai sâu sát hơn. Đối với các bãi biển: Bãi biển Vân Đồn được đánh giá là khá an toàn với hàm lượng titan hoà tan nên cát mịn và bãi biển phẳng, không có hố xoáy, cá dữ Tuy nhiên ở Quan lạn, Bãi Dài vẫn xảy ra những vụ thiệt mạng thương tâm trong khi tắm biển. Ngoài ra, tệ nạn tiêm chích đang có xu hướng tăng lên dẫn đến hiện tượng vứt kim tiêm bừa bãi trên các bãi biển như Quan Lạn gây nguy cơ lan tràn bệnh dịch, ảnh hưởng sức khoẻ của người dân tắm biển cũng như khách du lịch. Ngoài ra, hoạt động an ninh cũng cần được thắt chặt nhưng không được gây cản trở đối với khách du lịch. 2.4.7. Các nguy cơ về môi trƣờng. Vấn đề ô nhiễm môi trường cũng không thể không đưa ra khi phát triển DLST. Hiện nay nguy cơ ô nhiễm chưa nghiêm trọng nhưng nó sẽ là sức ép lớn trong tương lai khi số lượng khách tăng nhanh. Những nguy cơ cho công tác bảo vệ môi trường và phát triển du lịch bao gồm: a. Nguy cơ từ hoạt động kinh tế: Hoạt động khai thác, nuôi trồng thuỷ sản. Việc khai thác, đánh bắt thuỷ hải sản quá mức, đôi khi sử dụng chất nổ và xung điện trong thời gian trước đây và 47
  48. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà hiện vân tái diễn, gây nhiều áp lực đến môi trường, làm cạn kiẹt nguồn tài nguyên. Tình trạng nuôi trồng nhuyễn thể bùng phát, không quy hoạch cũng đem lại những ảnh hưởng tiêu cực cho môi trường đặc biệt là môi trường biển. Gần những khu nuôi sứa, mùi khí uế khá nồng nặc, hạn chế khả năng tiếp cận của khách. Hoạt động giao thông đường bờ biển với việc tăng lên về số lượng của tàu bè nhanh chóng trong những năm trở lại đây cũng làm tăng nguy cơ về ô nhiễm tràn dầu, xả thải bừa bãi xuống biển. Hoạt động du lịch cũng tạo sức ép đối với môi trường, đặc biệt vào những ngày cao điểm. Tác động này sẽ được phân tích kỹ hơn trong chương sau. b. Nguy cơ từ quá trình đô thị hoá Sức ép đô thị và nguy cơ về rác thải sinh hoạt. Cư dân Vân Đồn, đặc biệt ở khu vực trung tâm, ngày một đông đúc là thị trườngách cho chính điểm du lịch này nhưng đồng thời cũng gây nhiều sức ép đến môi trường, ảnh hưởng đến vệ sinh và an ninh của khu vực. Xung quanh khu chợ chính và bãi đỗ xe ở thị trấn Cái Rồng tình trạng ô nhiễm do rác thải sinh hoạt đã bắt đầu đáng báo động. Hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng. Trong giai đoạn gần đây, hoạt động xây dựng phát triển mạnh với hàng loạt dự án, công trình được phê duyệt. Mặc dù đã triển khai đánh giá tác động môi trường như hậu quả môi trường của các hoạt động này, đặc biệt là với môi trường biển, khá rõ nét. Hiện tượng xói mòn, rửa trôi diễn ra thường xuyên hưon, khiến độ trong của của nước biển bị suy giảm. Sự lắng đọng của phù sa tạo nên những yếu tố bất lợi đối với sự sinh trưởng và phát triển của các loài sinh vật biển, nhất là san hô, cỏ biển. [Báo cáo về Quy hoạch rừng ở VQG Bái Tử Long]. Trong tương lai, việc phát triển mạnh các họat động xây dựng cũng như quá trình đô thị hoá sẽ là một thách thức về môi trường lớn, đe doạ đến hoạt động du lịch của địa phương nếu không chú ý quản lý bền vững. c. Nguy cơ từ tập quán, ý thức người dân. Phần lớn người dân sống bằng nghề nông – lâm – ngư nghiệp, thu nhập bấp bênh phụ thuộc vào mùa vụ và thời tiết. Mức sống còn thấp. Đời sống còn gặp 48
  49. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà nhiều khó khăn đặc biệt một số xã thuộc vùng đệm VQG Bái Tử Long như Bản Sen,Vạn Yên. Theo báo cáo của Ban quản lý VQG, trong vùng đệm của Vườn có khoảng 1600 người không có việc làm (chiếm 20% lực lượng lao động). Do đó tình trạng khai thác gỗ, cát biển và săn bắt trái phép trong phạm vi VQG vẫn liên tục diễn ra, tuy không phải là mạnh mẽ. a. Mặc dù tập quán đốt nương làm rẫy trước đây hầu như không còn nhưng tình trạng khai thác đang diễn ra làm ảnh hưởng đến cảnh quan, khiến hiện tượng xói mòn xảy ra mạnh mẽ hơn. b. Hiện tượng xả rác thải sinh hoạt trực tiếp ra biển vẫn thường gặp không chỉ ở các xã đảo mà ngay tại khu vực trung tâm. Một bộ phận dân nghèo trên đảo vẫn sử dụng những hố xí tự nhiên, chưa có hệ thống xử lý. Khi mật dộ dân số đông, lượng khách nhiều vấn đề ô nhiễm môi trường là nguy cơ trông thấy trước mắt. Nguyên nhân của những nguy cơ trên một phần là do công tác quản lý, hệ thống quy định về môi trường chưa phát huy hiệu lực, hệ thống xử lý rác chưa được quan tâm đầu tư nên kém phát triển. Hiện nay, trên địa bàn toàn huyện mới tổ chức được 3 điểm thu gom và xử lý rác thải ở các xã Hạ Long, Đông Xá và Quan Lạn nhưng khả năng xử lý chưa đạt một nửa yêu cầu thực tế. Công tác bảo vệ và giáo dục môi trường ở các xã đảo chưa được chú ý sâu rộng bởi tất cả các cấp. d. Nguy cơ từ các nhân tố tự nhiên và tác nhân bên ngoài. Do địa hình phần lớn là núi đất tháp song độ dốc cao khiến những tác động cả tự nhiên như mưa, bão .cũng gây ảnh hưởng đến chất lượng các công trình, kéo theo tình trạng sạt lở, xói mòn và nguy cơ ô nhễm. Mặt khác,Vân Đồn nằm gần các khu vực ô nhiễm của tỉnh như khu Cẩm Phả (mỏ khai thác than lớn nhất cả nước) và khu vực Bãi Cháy (điểm tập trung đông dân) Đây là khu vực đang chịu những tác động môi trường nổi bật như ô nhiễm không khí từ khai thác, vận chuyển than, ô nhiễm nước ven bờ, suy thoái rừng ngập mặn và san hô. Khả năng ô nhiễm ảnh hưởng tới khu vực Vân Đồn 49
  50. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà rất dễ xảy ra. Để giải quyết vấn đề này trước tiên cần sự chỉ đạo vĩ mô của các cấp chính quyền. Tiểu kết chƣơng 2. Chương 2 đã giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là phân tích tiềm năng du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng tại Vân Đồn, tác giả đã nêu nên Điều kiện tự nhiên, Điều kiện kinh tế – xã hội với các điểm tài nguyên du lịch tự nhiên, du lịch nhân văn phong phú và hấp dẫn đồng thời đánh giá về tiềm năng du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng tại VânĐồn, Quảng Ninh. 50
  51. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH SINH THÁI DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG TẠI VÂN ĐỒN, QUẢNG NINH. 3.1. Các tuyến điểm và loại hình chính đang đƣợc khai thác ở Vân Đồn, Quảng Ninh. 3.1.1. Các điểm du lịch Khách du lịch ở tập trung tại các khu du lịch trong đảo Cái Bầu như thị trấn Cái Rồng, khu du lịch Bái tử Long, ở các đảo như Quan Lạn - Minh Châu - Ngọc Vừng và VQG Bái Tử Long. Du lịch lễ hội tập trung ở các điểm như đền Cặp Tiên, chùa Cái Bầu, đình Quan Lạn 3.1.2. Các tuyến du lịch Tuyến Cái Rồng – Bãi Dài – VQG Bái Tử Long. Tuyến đảo Cái Rồng - Ngọc Vừng – Quan Lạn – Minh Châu – VQG Bái Tử Long. Tuyến Bãi Cháy - Vịnh Hạ Long - Ngọc Vừng – Quan Lạn – Minh Châu – VQG Bái Tử Long. Tuyến Hạ Long – Vân Đồn – Cô Tô. Tuyến Hạ Long - Cửa Ông – Vân Đồn. Hiện VQG Bái Tử Long đã xây dựng một số tour DLST trong địa bàn của Vườn như tuyến Cái Rồng - Soi Nhụ - Minh Châu - Cái Lim - Cái Rồng (1ngày); tuyến Cái Rồng - Trà Thần - Trạm kiểm lâm Cái Lim - Cái Đé - cảng Minh Châu - bãi Sá Sùng - đầm Lác - Đầu Cào - Quan Lạn - Soi Nhụ - Cái Rồng (2 ngày); tuyến Cái Rồng - Trà Thần - Cái Lim - Cái Đé - cảng Minh Châu - ổ Lợn - Quan Lạn - rừng trâm - Đầm Lác - Đầu Cào - bãi rùa biển - làng nghề thuỷ sản - Soi Nhụ - Cái Rồng (2 ngày 1 đêm); tuyến Cái Rồng - cảng Minh Châu - bãi Rùa biển - Đầm Lác - Đầu Cào - Quan Lạn - Cái Cọng - Lá Chè - Cái Lim - Cái Đé - Trà Thần - làng nghề thuỷ sản - Soi Nhụ - Cái Rồng (2 ngày 51
  52. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà 1 đêm); tuyến Hạ Long - Quan Lạn - Minh Châu - Cái Lim - Cái Đé - Trà Thần - Soi Nhụ - Cái Rồng (2 ngày 1 đêm). 3.1.3. Các chương trình du lịch Phổ biến nhất là chương trình du lịch Hà Nội - Vân Đồn - Quan Lạn - Hà Nội (3 ngày 2 đêm) với mức giá dao động từ 900.000 - 1.100.000 đồng/khách cho đoàn 40 người hoặc Hà Nội - Bái Tử Long - Quan Lạn - Hà Nội (4 ngày 3 đêm ), Hà Nội - Bái Tử Long -Hà Nội ( 2 ngày). Đa số các chương trình đều đi ngắn ngày, mục tiêu nghỉ dưỡng - tắm biển và tham quan biển. Hoạt động nghèo nàn và ít gắn với các nguyên tắc của DLST. 3.1.4. Các hình thức du lịch chính  Du lịch nghỉ dưỡng – tham quan biển: đặc biệt hoạt động tắm biển là phổ biến nhất. Tại các bãi tắm đã được công nhận đạt tiêu chuẩn ở khu vực Bãi Dài như: bãi tắm của Công ty cổ phần đầu tư du lịch và công nghiệp Mai Quyền, Công ty cổ phần du lịch Bái Tử Long, lượng khách du lịch rất đông vào các tháng hè. Đặc biệt vào các dịp nghỉ lễ kéo dài như: 30/4, 1/5, 2/9, lượng khách thường tăng đột biến, ước tính có hàng nghìn lượt khách đến các bãi tắm mỗi ngày. Ngoài ra, một bộ phận khách cũng tham gia các hoạt động du lịch thể thao trên các bãi tắm như chèo thuyền, dù bay, bóng chuyền Trong chuyến đi du lịch, khách du lịch kết hợp tham quan cảnh biển nhưng do hoạt động hướng dẫn còn mờ nhạt nên chưa thu hút được sự chú ý của du khách.  Du lịch lễ hội kết hợp: Các lễ hội được tổ chức hàng năm là hoạt động thu hút số lượng lứon du khách thập phương đến thăm quan và tham dự. Khách tập trung rất đông vào dịp đầu xuân đi lễ đền Cặp Tiên, chùa Cái Bầu, hệ thống đình, chùa, miếu, nghè tại xã Quan lạn hay Lễ hội truyền thống Vân Đồn vào ngày 16/08 âm lịch với kinh phí tổ chức 120 triệu đồng. 3.2. Cơ sở vật chất phục vụ du lịch: 3.2.1.Dịch vụ lưu trú: Dịch vụ du lịch có nhiều chuyển biến tích cực. Năm 2009, toàn huyện có 53 cơ sơ kinh doanh lưu trú, 713 phòng nghỉ, tăng 72 phòng nghỉ so với năm 2008. Trong năm lượng khách đến huyện là 350.000 đạt 122,2% so với cùng kì năm 52
  53. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà 2008, trong đó khách quốc tế là 3.500 lượt, tập trung chủ yếu tại các điểm du lịch thuộc xã Minh Châu, Quan Lạn, Hạ Long. Cụ thể như sau: Bảng 3.1: Hiện trạng cơ sở lưu trú của khách du lịch tại Vân Đồn, Quảng Ninh TT N ăm 2005 2006 2007 2008 2009 1 Số cơ sở lưu 35 40 42 50 53 trú 2 Số phòng 381 424 551 641 713 4 Khách Quốc tế 1.120 1.500 2.119 2.750 3.500 (lượt) 5 Lao động 500 700 850 1.000 1.200 (người) 6 Doanh thu 990 2.416 2.760 3.460 5.300 (triệu đồng) ( Phòng kinh tế huyện Vân Đồn) Tỉnh Quảng Ninh đã xác định Vân Đồn là một trong 4 trung tâm du lịch của tỉnh, là huyện có nhiều đảo và mỗi đảo đều có bãi tắm lý tưởng cho du khách. Năm 2000, ngành du lịch bắt đầu khởi sắc, đến nay khu du lịch sinh thái Bãi Dài (xã Hạ Long-huyện Vân Đồn) với diện tích 150 ha đã được đưa vào sử dụng. Xí nghiệp hợp lực Mai Quyền, Công ty công nghệ Việt Mỹ đã đưa vào hoạt động các nhà nghỉ. Tuyến đảo Vân Hải gồm: Quan Lạn, Minh Châu, Ngọc Vừng, Thắng Lợi, Bản Sen đang chuẩn bị cho lễ hội kỉ niệm 715 năm chiến thắng Vân Đồn lịch sử. Tại các nhà nghỉ, khách sạn ở các khu du lịch trọng điểm của Vân Đồn như : khu du lịch Bãi Dài ( xã Hạ Long), Quan Lạn vẫn “cháy phòng” từ đầu tháng 4 hàng năm. Theo thông tin từ phòng văn hóa thông tin huyện Vân Đồn, trong tuần lễ hội du lịch Hạ Long 2009, Vân Đồn đón khoảng 2 vạn lượt khách, gấp 4 lần so với cùng kỳ năm 2008. Tính đến tháng 6 năm 2009, Vân Đồn có khoảng 713 phòng nghỉ nhưng không đủ để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch trong dịp 53
  54. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà lễ. Trong tuần lễ hội du lịch Hạ Long, Lượng khách đến Vân Đồn tập trung đông nhất vào các ngày lễ 29, 30-4 và 1-5. Ngoài khu du lịch Bãi Dài, du khách đến Vân Đồn chủ yếu tham quan Vịnh Bái Tử Long rồi ra nghỉ tại các đảo Quan Lạn, Minh Châu, Ngọc Vừng. Các cơ sở lưu trú phân bố không đều, tập trung ở 3 xã và thị trấn ven biển của Cái Bầu là Cái Rồng, Hạ Long, Đông Xá và xã đảo Quan Lạn.Trong đó mật độ lứon nhất ở thị trấn Cái rồng (hơn 50%) mà nổi bật là khu 8. Đa phần là các nhà nghỉ và khách sạn của tư nhân, quy mô nhỏ. Riêng xã Hạ Long, nơi có bãi biển Bãi Dài, hình thành hai dự án khu du lịch lớn của huyện là Khu du lịch Bái Tử Long của Công ty ATI và Khu du lịch Mai Quyền nên bình quân số phòng/ cơ sở lưu trú cao hơn, gấp gần 4 lần so với mức trung bình của toàn huyện. Chất lượng dịch vụ tại các cơ sở lưu trú nhìn chung cũng đã đáp ứng được nhu cầu của du khách; đảm bảo đầy đủ các tiêu chí phòng, công tác an ninh trật tự, phòng cháy nổ. Một số cơ sở có chất lượng tốt như Công ty Việt Mỹ, Công ty Mai Quyền, Công ty Vân Hải Vigracera Song một số lượng không nhỏ các nhà nghỉ quy mô nhỏ của tư nhân, đặc biệt ở các xã đảo chất lượng thấp, dịch vụ nghèo nàn, vệ sinh không đảm bảo. Do đặc thù của hoạt động du lịch thường mang tính thời vụ khách du lịch đến Vân Đồn phần lớn là mùa hè nên công suất sử dụng buồng bình quân trong năm còn thấp, đạt khoảng: 49%. Mặt khác các sản phẩm du lịch còn nghèo nàn, khách đơn thuần đến với các bãi tắm thiêú nhiều các hoạt động hỗ trợ như vui chơi, mua sắm nên không kéo dài được thời gian lưu trú của du khách. 3.2.2.Cơ sở phục vụ ăn uống Hoạt động kinh doanh dịch vụ ăn uống luôn là loại hình mang lại doanh thu và lợi nhuận chính cho ngành dịch vụ du lịch trên địa bàn huyện. Ngoài các nhà hàng của các công ty du lịch có quy mô cùng với đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp thì tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống khác (các nhà hàng ở khu vực thị trấn, lồng bè ở khu vực cầu Vân Đồn và cảng Cái Rồng – bao gồm 15 lồng bè (năm 2009) tăng 35% so với năm 2008), chất lượng dịch vụ cũng ngày một nâng lên. Ccá cơ sở kinh doanh này đã giưói thiệu và chế biến nhiều snả 54
  55. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà phẩm mang tính đặc trưng của huyện: Sá sùng, Ốc, Tu hài, mắm Cái Rồng, sứa tăng thêm sự hấp dẫn với du khách. Giá cả của dịch vụ ăn uống tương đối cao. 3.2.3.Dịch vụ vận chuyển. 3.2.3.1 Về đường bộ: Việc đi lại ngày càng dễ dàng hơn. Toàn huyện có 31 xe khách đăng kí chạy ttrong huyện trong đó có 15 xe đi nội tỉnh và 16 xe đi các tỉnh ngoài. Do nhu cầu đi lại của nhân dân và khách du lịch ngày càng cao nên huyện Vân Đồn chủ trương tăng số chuyến xe và số tuyến xe liên tỉnh. Các tuyến liên tỉnh xuất phát từ Vân Đồn gồm: Hà Nội với 14 tuyến/ngày, Hải Dương với 2 tuyến/ngày, Thái Bình với tuyến/ngày, Nam Định với 5 tuyến/ngày Hải Phòng với 4 tuyến/ngày. Ngoài Ra tại Quảng Ninh đang thực hiện hai tuyến nội tỉnh là: Vân Đồn - Liên Vị (Yên Hưng) với 20 phút/chuyến, từ 05h00 đến 16h00, Vân Đồn - Hòn Gai. Ngoài ra còn có tuyến xe buýt từ Bãi Cháy đến Bãi Dài đã được đưa vào khai từ thác năm 2007, đây là điều rất thuận lợi nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân và du khách. Trên các đảo của Vân Đồn, người dân sử dụng xe túc-túc (còn gọi là xe Lam) là phương tiện để đón khách và phục vụ nhu cầu du lịch quanh đảo của du khách, rất phù hợp với môi trường sinh thái. Du khách cũng có thể thuê xe đạp tự đi khám phá đảo. 3.2.3.2. Về đường thủy: Tàu ra các tuyến đảo cũng đã thực hiện tốt hơn đảm bảo an toàn, chất lượng dịch vụ cho du khách; số lượng và số chuyến được đưa vào không ngừng tăng lên. Việc giao lưu, trao đổi, vận chuyển hàng húa từ đảo ra đất liền và ngược lại đều thông qua hệ thống giao thông đường thủy. Mỗi ngày có 2 chuyến tàu khách từ Quan Lạn – Minh Châu – Cái Rồng và ngược lại. Từ thị trấn Cái Rồng huyện Vân Đồn , du khách phải thuê tàu thuỷ để đi tham quan VQG và các điểm du lịch trên đảo. Trường hợp du khách muốn đến các xã như: Bản Sen, Ngọc Vừng, Quan Lan, Minh Châu, Thắng Lợi thì có tàu thủy chở khách đi về 2 55
  56. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà chuyến trong ngày. Thời gian xuất bến là 7h sáng và 13h chiều tại hai đầu bến là Cảng Cái Rồng và cảng của các xã kể trên. Ngoài ra khách có thể nhu cầu có thể thuê tàu riêng, trung bình 25 - 30 khách/ tàu. Chi phí tàu thường cao hơn nhưng khách chủ động được chương trình. 3.2.4. Các dịch vụ bổ xung Các dịch vụ bổ xung như: Dịch vụ giặt là, vui chơi giải trí (bar, karaoke, ) chỉ có tại các khu resort hoặc các khách sạn ở trung tâm thị trấn hoặc ở các cơ sở đầu tư xây dựng tốt, giá dịch vụ khá cao. 3.3. Khách du lịch. 3.3.1. Khách du lịch quốc tế. Mặc dù hàng năm đón một lượng không lớn các du khách quốc tế so với một vài địa phương khác trong tỉnh Quảng Ninh như Hạ Long, Móng Cái. Nhưng qua điều tra cho thấy thị trường khách du lich quốc tế đến với Vân Đồn tương đối đa dạng bao gồm cả các du khách mang quốc tịch châu Âu, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, châu Mỹ Số lượng khách du lịch quốc tế đến Vân Đồn được thể hiện qua bảng sau: Bảng 3.2: Hiện trạng khách du lịch quốc tế đến Vân Đồn giai đoạn 2005 - 2009 (Đơn vị tính: Lượt) Năm 2005 2006 2007 2008 2009 Tổng số 198.067 241.600 276.000 286.500 350.000 Khách quốc tế 1.120 1.500 2.119 2.750 3.500 (Phòng kinh tế huyện Vân Đồn). Khách quốc tế vẫn chiếm con số ít ỏi trong tổng lượng khách đến với khu vực này. Trong vài năm trở lại đây, rõ ràng khách quốc tế đến với Vân Đồn năm sau tăng hơn năm trước. Tuy nhiên con số này vẫn còn khá nhiều khiêm tốn so với lượng khách du lịch quốc tế đến với Quảng Ninh. Đồng thời lượng khách 56
  57. Khoá luận tốt nghiệp Bùi Thị Hà đến với huyện Vân Đồn chỉ tăng đột biến vào dịp nghỉ hè, nghỉ đông. Khách quốc tế đến thăm quan Vân Đồn chủ yếu tập trung tại các điểm du lịch thuộc xã Minh Châu, Quan Lạn, Hạ Long. Khách quốc tế đến với Vân Đồn vào hầu hết các khoảng thời gian trong năm nhưng tập trung đông hơn cả vào khoảng từ tháng 9 đến hết tháng 12 và có tính mùa vụ. Số ngày lưu trú bình quân của khách quốc tế ở Vân Đồn còn rất thấp, từ 2-2,5 ngày, 73% du khách đi được phỏng vấn đã trả lời rằng họ rất có tình cảm với vùng đất Vân Đồn vì vẻ đẹp hoang sơ, thiên nhiên kì thú. Song do dịch vụ ở điểm du lịch này còn quá nghèo nàn nên họ không lưu trú lâu, 8% số người được hỏi thích thú với cảnh sống tự nhiên, hoang sơ, 19% lựa chọn chỉ nghỉ lưu trú trong một ngày. Nhiều khách du lịch nước ngoài “mê” sự hấp dẫn của khu du lịch Bãi Dài bởi vẻ đẹp tự nhiên nhưng điều kiện dịch vụ hạ tầng vẫn còn thiếu nên chưa thể níu giữ được chân họ dài ngày. Đồng thời 80% số du khách được phỏng vấn trả lời họ mong muốn được tìm hiểu về cuộc sống của người dân địa phương song do bất đồng ngôn ngữ, hướng dẫn viên cũng chưa truyền tải hết được những nét văn hóa nổi bật của Vân Đồn nên họ cũng chỉ đến xem để biết. Một hạn chế khác khiến khách du lịch nước ngoài không cư trú lâu dài là do thời gian họ đi du lịch từ tháng 9 đến tháng 12, song đây lại là thời gian hay xảy ra mưa bão và là mùa Thu, Đông ở Việt Nam, Vân Đồn lại là vùng du lịch sinh thái, du lịch biển lên không thuận lợi về mặt thời tiết đối với du khách. So với các khu kinh tế khác thì Vân Đồn có một số điểm yếu vì du khách quốc tế thiếu khả năng tiếp cận, cơ sở hạ tầng yếu kém, thiếu cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch, bị sự cạnh tranh từ các khu kinh tế khác như Cát Bà của Hải Phòng hay Tuần Châu ở ngay địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Với lợi thế về tài nguyên tự nhiên phong phú bao gồm các khu vực tự nhiên còn hoang sơ rất thích hợp cho việc tổ chức các hoạt động du lịch sinh thái, tham quan, tìm hiểu, nghiên cứu, nâng cao nhận thức và kiến thức về tài nguyên, môi trường sinh thái (trên các đảo và khu vực ven biển). Hiện nay loại hình này đã được một số công ty lữ hành tổ chức cho khách đến các điểm du lịch trên đảo Quan Lạn, Ba Mùn. Các loại khách đi theo loại hình du lịch này chủ yếu là 57