Khóa luận Thẩm định dự án tín dụng đầu tư tại ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam

pdf 109 trang hapham 620
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Thẩm định dự án tín dụng đầu tư tại ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_tham_dinh_du_an_tin_dung_dau_tu_tai_ngan_hang_ngoa.pdf

Nội dung text: Khóa luận Thẩm định dự án tín dụng đầu tư tại ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài: Thẩm định dự án tín dụng đầu tư tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Giáo viên hướng dẫn : GS.NGƯT Đinh Xuân Trình Sinh viên : Nguyễn Thị Thanh Loan Lớp : A2-K37 Hà nội, tháng 12- năm 2002
  2. LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Trong những năm qua, thực hiện đường lối chính sách mà Đảng và nhà nước đã đề ra, kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến sâu sắc: Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển, giờ đây nền kinh tế Việt Nam đã phát triển khá vững chắc, bước đầu thoát khỏi những khó khăn do thời kỳ trước để lại. Tuy nhiên, để thực hiện được mục tiêu mà Đảng và nhà nước đã đề ra: Đến năm 2020, đưa Việt Nam trở thành một nước Công nghiệp hoá- Hiện đai hoá thì đòi hỏi cả nước cần phải nỗ lực hơn nữa. Trong giai đoạn này, Việt Nam cần tập trung đầu tư vào cơ sở hạ tầng, trang thiết bị máy móc hiện đại, xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất đổi mới kỹ thuật công nghệ. Điều này trên thực tế vấp phải một trở ngại rất lớn đó là thiếu hụt vốn từ các thành phần kinh tế trong nước. Hơn nữa, các dự án đầu tư như vậy đòi hỏi số vốn lớn, thời gian hoàn vốn lâu mà không phải bất kỳ doanh nghiệp, cá nhân nào cũng có thể đáp ứng. Do vậy, sự trợ giúp từ phía hệ thống ngân hàng là điêù kiện quan trọng để dự án đầu tư thành công. Ngân hàng là tổ chức hoạt động mang tính chất lợi nhuận. Mọi hoạt động của ngân hàng đều huớng tới hiệu quả kinh tế, tìm cách phân tán và giảm thiểu rủi ro. Vì vậy, trước mỗi dự án đầu tư, ngân hàng đều phải thẩm định xem dự án có khả thi không, doanh nghiệp có khả năng hoàn vốn, thu lợi nhuận không, và nhất là có khả năng trả nợ, lãi cho ngân hàng không. Thẩm định dự án đầu tư là bước đầu tiên và quan trọng nhất để đảm bảo rằng khoản cho vay đạt được ba tiêu chí cơ bản: lợi nhuận- an toàn- lành mạnh.
  3. Trên thực tế, công tác thẩm định dự án tín dụng đầu tư của các ngân hàng thương mại vẫn còn nhiều hạn chế. Nhiều dự án tín dụng đầu tư hoạt động không hiệu quả, ngân hàng không thu hồi được vốn đầu tư do những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Là một ngân hàng lớn trong hệ thống ngân hàng thương mại của Viêt Nam, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam cũng không nằm ngoài tình trạng này. Để nâng cao hiệu quả của công tác thẩm định tai Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, em xin chọn đề tài khoá luận tốt nghiệp: “ thẩm định dự án tín dụng đầu tư tại ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam “. Đề tài được hoàn thành dưới sự hướng dẫn nhiệt tình của GS.NGƯT Đinh Xuân Trình và sự giúp đỡ của các cán bộ tại ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam . 2. Mục đích nghiên cứu: Khoá luận sẽ phân tích và luận giải về mặt lý luận và thực tiễn tính chất của dự án đầu tư và công tác thẩm định dự án tín dụng đầu tư . Trên cơ sở phân tích thực trạng công tác thẩm định dự án tín dụng đầu tư tại ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, khoá luận sẽ rút ra những tồn tại và nhược điểm phải khắc phục để hoàn thiện trong thời gian tới. Đề xuất một số giải cơ bản ở tầm vĩ mô và vi mô để nâng cao hiệu quả của công tác thẩm định dự án tín dụng đầu tư tại ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam . 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu: Công tác thẩm định dự án tín dụng đầu tư Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu công tác thẩm định dự án tín dụng đầu tư của ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam trong những năm gần đây( từ năm 1999 đến năm 2002) 4. Phương pháp nghiên cứu:
  4. Dựa trên cơ sở phương pháp luận về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, thực hiện khảo sát các dự án đầu tư, phân tích và so sánh các dữ liệu của các dự án qua các năm để luận chứng. 5. Tên và kết cấu của khoá luận tốt nghiệp: Đề tài: Thẩm định dự ántín dụng đầu tư tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam Kết cấu của khoá luận: ngoài phần mở đầu, phần két luận và phần phụ lục, khoá luận gồm 3 chương:  Chương 1: Những vấn đề chung về dự án đầu tư và thẩm định dự án đầu tư  Chương 2: Thực trạng hoạt động thẩm định dự án tín dụng đầu tư tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam .  Chương 3: Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án tín dụng đầu tư tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam .
  5. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ VÀ THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ I. Khái niệm chung về dự án đầu tư 1.1. Khái niệm về dự án đầu tư a. Khái niệm dự án đầu tư : Đầu tư được coi là động lực của sự phát triển nói chung và sự phát triển kinh tế nói riêng của mọi quốc gia trên thế giới. Có thể hiểu đầu tư là việc huy động nguồn lực để biến các lợi ích dự kiến thành hiện thực trong một khoảng thời gian đủ dài trong tương lai. Trong đó: các nguồn lực chính là vốn, chất xám, tài nguyên thiên nhiên, thời gian ; lợi ích dự kiến có thể lượng hoá được( hay đo được hiệu quả bằng tiền như sự tăng lên của sản lượng, lợi nhuận ) mà cũng có thể không lượng hoá được ( như sự phát triển trong các lĩnh vực giáo dục, giải quyết các vấn đề xã hội, quốc phòng ). Đối với doanh nghiệp, đầu tư hiểu đơn giản là việc bỏ vốn kinh doanh để mong thu được lợi nhuận trong tương lai. Còn trên quan điểm xã hội thì đầu tư là hoạt động bỏ vốn để từ đó thu được các hiệu quả kinh tế - xã hội, vì mục tiêu phát triển quốc gia. Nhưng cho dù đứng từ góc độ nào đi chăng nữa, muốn tối đa hoá hiệu quả của đầu tư thì trước khi quyết định đầu tư, nhất thiết phải có dự án đầu tư. Và trên thực tế, hoạt động đầu tư được thể hiện tập trung qua việc thực hiện các dự án đầu tư. Vậy
  6. dự án đầu tư là gì ? Có rất nhiều khái niệm về dự án đầu tư theo các quan điểm sau : Theo Ngân hàng Thế giới: Dự án đầu tư là tổng thể các chính sách, hoạt động và chi phí liên quan đến nhau được hoạch định nhằm đạt được những mục tiêu nào đó trong một thời gian nhất định. Theo quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định 52/1999 - NĐ - CP ngày 08/07/1999 của Chính phủ: Dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất dựa trên căn cứ khoa học và thực tiễn về việc bỏ vốn để xây dựng mới, cải tạo, đổi mới kỹ thuật và công nghệ, những đối tượng là tài sản cố định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng sản phẩm hay dịch vụ trong một khoảng thời gian nhất định. b. Những yêu cầu của một dự án đầu tư : Để một dự án đầu tư có sức thuyết phục, khách quan, có tính khả thi cao đòi hỏi phải đảm bảo các yêu cầu sau: o Tính pháp lý: Tính pháp lý là cơ sở bước đầu để một dự án đầu tư được quyết định có đầu tư hay không, dự án đầu tư phải đảm bảo tuân theo các quy định về Quy chế quản lý đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước. Một dự án đầu tư muốn được nhà nước cấp phép để đi vào hoạt động trước hết phải tuân thủ các quy định mang tính pháp luật như Luật đầu tư, luật thuế, luật đất đai, luật lao động Song điều này cũng chưa đủ, các vấn đề về môi trường, thuần phong mỹ tục, tập quán, về an ninh quốc phòng, là những yếu tố quan trọng không thể bỏ qua khi xem xét để lập dự án. Tính pháp lý của một dự án đầu tư chỉ đạt được khi dự án được xây dựng trên cơ sở xem xét toàn diện tổng thể các vấn đề môi trường pháp lý có
  7. liên quan đến lĩnh vực đầu tư. Có thể thấy những dự án gây nguy hại đến an ninh quốc phòng, lợi ích công cộng, gây phương hại đến di tích lịch sử, văn hoá, thuần phong mỹ tục, gây tổn hại đến môi trường sinh tháI, sản xuất các hoá chất độc hại bị cấm theo điều ước quốc tế là những dự án không thể được cấp phép đầu tư ( theo Nghị định 10/1998/ NĐ - CP ngày 23/ 01/ 1998 của Chính phủ ) o Tính khoa học: Dự án đầu tư là thực hiện ý tưởng của nhà đầu tư về toàn bộ quá trình đầu tư từ khi chuẩn bị đầu tư cho đến khi hoàn thành kết thúc đầu tư, thu hồi được vốn và có lợi nhuận. Nếu không có tính khoa học thì dự án đầu tư sẽ không có tính thuyết phục, có nghĩa là ý tưởng đó sẽ không trở thành hiện thực. Một dự án đầu tư có tính khoa học cao là dự án có thông tin chính xác, trung thực, phương pháp khoa học, logic, việc sử dụng đồ thị, bản vẽ kỹ thuật phải đảm bảo về kích thước và tỷ lệ. Để đạt được tính khoa học đòi hỏi dự án đầu tư phải có phương pháp điều tra đúng, kỹ thuật phân tích cao. o Tính khả thi: Dự án đầu tư có tính khả thi có nghĩa là dự án phải có khả năng ứng dụng và triển khai trong thực tế. Vì vậy, muốn đảm bảo yêu cầu này, dự án đầu tư phải đặt trong đúng hoàn cảnh môi trường đầu tư, phản ánh những điều kiện cụ thể về môi trường, mặt bằng, vốn, khả năng của dự án Nói cách khác, dự án đầu tư phải phù hợp với quy hoạch tổng thể của ngành, của vùng. Mục đích của dự án đầu tư phải trùng với mục đích phát triển kinh tế - xã hội. o Tính hiệu quả:
  8. Tính hiệu quả của dự án đầu tư được thực hiện thông qua các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế - tài chính. Các chỉ tiêu này đòi hỏi phải chính xác, phải được xây dựng trên cơ sở các số liệu điều tra hợp lý, phương pháp tính toán kỹ lưỡng. Chỉ có như vậy tính hiệu quả của dự án mới có thể đạt được. c. Ý nghĩa của dự án đầu tư: Đối với cơ quan nhà nước, dự án đầu tư là cơ sở đầu tiên, là tài liệu cơ bản để cơ quan quản lý nhà nước xem xét và phê chuẩn, cấp giấy phép đầu tư. Đối với chủ đầu tư, đó là căn cứ quan trọng để quyết định sự bỏ vốn đầu tư, thu hút đối tác cùng tham gia liên doanh bỏ vốn đầu tư, là phương tiện thuyết phục các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước tài trợ cho vay vốn. Dự án là cơ sở để xây dựng kế hoạch thực hiện đầu tư, theo dõi đôn đốc và kiểm tra quá trình thực hiện dự án đầu tư. Từ đó đánh giá chính xác và điều chỉnh kịp thời những vướng mắc trong quá trình xây dựng và hoạt động của dự án. Nó có tác dụng tích cực trong việc giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quan hệ giữa các bên tham gia thực hiện dự án đầu tư, xử lý hài hoà về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên. Nội dung của dự án đầu tư: Một dự án đầu tư thường bao gồm các nội dung sau:  Về chủ đầu tư: Nội dung bao gồm: tư cách pháp nhân của chủ đầu tư, cơ quan chủ quản ra quyết định thành lập, giấy phép hoạt động, trụ sở làm việc, địa chỉ giao dịch, tài khoản ngân hàng giao dịch, kết quả kinh doanh trong quá khứ và hiện tại
  9.  Những căn cứ nghiên cứu về sự cần thiết đầu tư : Những xuất xứ căn cứ pháp lý, phân tích kết quả điều tra cơ bản về tài nguyên thiên nhiên, kinh tế - xã hội, các chính sách kinh tế - xã hội có liên quan đến phát triển nghành, những ưu tiên được phân định.  Phương án đầu tư, công suất thiết kế: Mục tiêu đầu tư, hình thức đầu tư, phạm vi đầu tư, phân tích thị trường (đánh giá nhu cầu hiện tại, dự báo nhu cầu tương lai, khả năng cung ứng, nguồn cung ứng trong hiện tại và tương lai ), công suất lựa chọn.  Chương trình sản xuất -yêu cầu đầu tư : Lịch sản xuất, tiến độ sản phẩm, các nhu cầu đầu vào và giải pháp đảm bảo  Khu vực, địa điểm: Các yêu cầu mặt bằng, yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, các yếu tố xã hội, phong tục tập quán, mối quan hệ quy hoach tổng thể vùng, nghành, lãnh thổ.  Phân tích kỹ thuật : Loai hình công nghệ được sử dụng và các ảnh hưởng của nó đối với môi trường sinh thái, hướng giải quyếtvà điều kiện cung cấp trang thiết bị, chuyển giao công nghệ  Tác động đối với môi trường và giải pháp xử lý: Khả năng gây ô nhiễm hay làm biến đổi môi trường do hoạt động đầu tư gây nên và hậu quả của nó. Các giải pháp chông ô nhiễm, bảo vệ môi trường sinh thái, xử lý chất thải.  Xây dựng và tổ chức thi công :
  10. Xây dựng tiêu chuẩn công trình xây dựng, phương án kết cấu, hạng mục công trình, yêu cầu kỹ thuật, giải pháp phòng cháy, chữa cháy, hình thức thi công.  Tổ chức quản lý sản xuất và bố trí lao động: Tổ chức quản lý các bộ phận sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, các bộ phận lao động trực tiếp, lao động gián tiếp, bộ phận quản trị điều hành.  Phân tích hiệu quả kinh tế tài chính: Nguồn vốn và các điều kiện tạo nguồn vốn, tông mức vốn đầu tư chia ra các chi phí đầu tư cố định, thường xuyên, các khả năng hình thức huy động vốn, ước tính chi phí sán xuất, dự trù doanh thu, lỗ lãi, khả năng hoà vốn, khả năng trả nợ, phân tích các lợi ích về mặt xã hội- môi trường.  Tổ chức thực hiện- kết luận- kiến nghị về chính sách, các chế độ ưu đãi. II. Thẩm định dự án tín dụng đầu tư : 2.1. Khái niệm : Dự án đầu tư có thể được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau, nhưng dưới con mắt của các nhà ngân hàng, người sẽ bỏ vốn đầu tư, thì khía cạnh lợi nhuận và khả năng tài chính, khả năng hoàn vốn luôn là những mối quan tâm hàng đầu. Để đánh giá các khía cạnh này, ngân hàng phải tiến hành một loạt các hoạt động mà ta gọi là thẩm định, nhằm mục đích cuối cùng là trả lời cho câu hỏi “Có nên cho vay hay không?”. Các hoạt động thẩm định về cơ bản là giống nhau giữa các ngân hàng. Nhìn chung, chúng bao gồm việc thu thập thông tin có ý nghĩa đối với việc đánh giá tín dụng, phân tích các thông tin thu thập được để trợ giúp quyết định tín dụng, lưu trữ các thông tin xử lý để sử dụng trong tương lai. Vậy:
  11. “Thẩm định dự án đầu tư là việc xem xét một cách khách quan có cơ sở các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến tính khả thi của dự án, từ đó ra quyết định về đầu tư và cho phép đầu tư. Kết quả của việc thẩm định dự án đầu tư là phải đưa ra kết luận về tính khả thi hay không của dự án và những kết luận này phải cụ thể, chính xác và đúng đắn. “ 2.2. Mục đích, ý nghĩa, yêu cầu của việc thẩm định dự án đầu tư : a. Mục đích: Vì những mục đích khác nhau, nên dự án đầu tư được thẩm định bởi nhiều cơ quan, đơn vị và cá nhân. Đối với cơ quan thẩm định Nhà nước, mục đích của việc thẩm định dự án đầu tư là nhằm xem xét lợi ích kinh tế -xã hội mà dự án đem lại có phù hợp với mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của vùng hay của đất nước hay không và thông qua đó, đưa ra những kết luận về sự chấp nhận hay bác bỏ dự án đề nghị. Đối với các định chế tổ chức quốc gia hay quốc tế, ngoài việc xem xét khả năng sinh lời cho bên đầu tư và sự đóng góp của dự án đối với nền kinh tế quốc dân, việc thẩm định còn nhằm xem xét hướng phát triển lâu dài, ổn định của dự án mà định hướng tài trợ hay cho vay vốn. b. Ý nghĩa của việc thẩm định dự án đầu tư:  Thẩm định dự án đầu tư giúp cho chủ đầu tư lựa chọn được phương án đầu tư tốt nhất. Khi nhà kinh doanh phát hiện ra cơ hội đầu tư và muốn bỏ vốn đầu tư vào một lĩnh vực nào đó, việc đầu tiên họ phải làm là thu thập, xử lý thông tin, xác định mọi điều kiện, khả năng, trên cơ sở đó xác định nhiều phương án. Để chọn được phương án tốt nhât mang tính khả thi cao, các dự án phải được thẩm định một cách khách quan, trung thực, chính xác, từ đó so sánh và chọn lựa các phương án sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
  12.  Thẩm định dự án đầu tư giúp các cơ quan quản lý nhà nước đánh giá được tính phù hợp của dự án đối với quy hoạch phát triển chung của ngành, của địa phương, của vùng hay của cả nước. Thông qua kết quả các báo cáo thẩm định, cơ quan quản lý Nhà nước xem xét ở tầm vĩ mô: lợi ích kinh tế do dự án mang lại, hiệu quả thu hút lao động, giải quyết công ăn, việc làm Xác định mục tiêu của dự án và phương hướng phát triển chung của vùng, của ngành. Từ đó đề ra các chính sách, kế hoạch thích hợp.  Thẩm định dự án đầu tư giúp các nhà tài chính ra quyêt định đúng đắn, chính xác về việc cho vay hay tài trợ dự án đầu tư. Bất kỳ một tổ chức tín dụng nào khi thực hiện cho vay, tài trợ cho các dự án đều phải xem xét tới các yếu tố: cho vay dự án nào? cho vay với khối lượng bao nhiêu? với lãi suất ra sao? Khả năng thu hồi nợ, các điều kiện đảm bảo tránh rủi ro thẩm định dự án có cung cấp thông tin chính xác thì các câu trả lời cho các vấn đề trên mới được thoả đáng và giúp ra các quyết định đầu tư đúng đắn. c. Yêu cầu của việc thẩm định dự án đầu tư : - Công tác thẩm định dự án đầu tư phải bám sát chủ trương đường lối phát triển kinh tế của nhà nước, của chính quyền địa phương theo từng thời kỳ. - Phải dựa trên chính sách tín dụng của ngân hàng; chính sách khách hàng, hướng đầu tư, cơ cấu đầu tư - Phải được tổ chức theo một quy trình chặt chẽ, khoa học và linh động - Kết quả thẩm định phải toàn diện, chính xác, khách quan và kịp thời. 2.3. Quy trình thẩm định dự án đầu tư :
  13. 2.3.1.Những nguồn thông tin để thẩm định: Một trong những hoạt động không thể thiếu của công tác thẩm định là thu thập thông tin về khách hàng và dự án vay vốn. Chất lượng thông tin thu thập đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá và kết luận sau này. Cán bộ thẩm định có thể thu thập thông tin qua các nguồn sau:  Phỏng vấn người xin vay: Qua phỏng vấn người xin vay, cán bộ tín dụng sẽ biết được lý do vay và yêu cầu xin vay có đáp ứng được chính sách tín dụng của ngân hàng không. Những thông tin ban đầu về lịch sử phát triển của ngành nghề kinh doanh, kiến thức, kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ chủ chốt, bản chất của sản phẩm dự án, nguồn nguyên liệu, ưu thế cạnh tranh, khả năng thị trường v.v., cũng có thể thu thập được. Ngoài ra, có thể phần nào tìm hiểu tính thật thà, ý muốn trả nợ của người vay. Từ đó Ngân hàng sẽ xem xét có cần thiết vật bảo đảm không. Tóm lại, phỏng vấn người xin vay sẽ cung cấp cho cán bộ tín dụng những thông tin có tính chất phác thảo, kiểm tra về người vay vốn và dự án vay vốn.  Sổ sách của ngân hàng: Những thông tin lưu trữ qua sổ sách ngân hàng có thể cung cấp thông tin tín dụng, nếu người vay đã từng có quan hệ với ngân hàng. Những số liệu về việc chi trả các khoản vay trước đây, số dư tài khoản tiết kiệm, số dư tài khoản tiền gửi có thể cho biết tình hình tài chính hay triển vọng kinh doanh của họ. Ngay cả các khách hàng chưa từng quan hệ với ngân hàng, hồ sơ tập trung cũng cho biết một số thông tin nào đó.  Điều tra nơi hoạt động kinh doanh của người đi vay: Các doanh nghiệp xin vay phải cho phép nhân viên tín dụng tham quan nơi kinh doanh của họ. Thông qua việc này, nhân viên tín dụng có thể biết được một số thông tin về mức độ phát triển của doanh nghiệp, về
  14. trình độ quản lý tổ chức nhân sự. Doanh nghiệp đang phát đạt hay đình trệ, tình hình hàng tồn kho, tình trạng thiết bị sản xuất, vật thế chấp là những thông tin phản ánh khá sát thực thực trạng doanh nghiệp và tương lai dự án xin vay mà một cán bộ tín dụng có năng lực phải thu thập được. Tuy vậy, cần lưu ý rằng rất cố thể những thông tin đó không chính xác do doanh nghiệp cố tình “tô vẽ” hình ảnh của mình trước khi nhân viên tín dụng đến điều tra.  Các báo cáo tài chính: Trong hồ sơ xin vay vốn, bất kỳ người xin vay nào cũng phải cung cấp cho ngân hàng các báo cáo tài chính, đặc biệt là những dự án có số lượng xin vay lớn, thời gian dài. Ngay cả những dự án nhỏ, người xin vay vẫn phải cung cấp số liệu về tài sản, những khoản nợ, vốn tự có và các thông tin khác phản ánh tình hình tài chính của họ. Rõ ràng là các thông tin thu được từ các báo cáo tài chính là vô cùng quan trọng trong công tác thẩm định. Tuy vậy, cũng cần phải thấy là, những thông tin đó phản ánh các kết quả của quá khứ và có thể nói lên điều gì đó trong xu thế tương lai nhưng không hoàn toàn quyết định tương lai. Vì thế, khi sử dụng những thông tin này, không được coi là căn cứ duy nhất để ra quyết định tín dụng.  Một số nguồn thông tin khác: Ơ một số nước phát triển, có các tổ chức chuyên thu thập và bán thông tin về các doanh nghiệp, hoặc có các cơ quan được quyền quản lý và cung cấp miễn phí thông tin. Ở nước ta, có Trung tâm Thông tin Tín dụng của Ngân hàng Nhà nước(CIC). Đây là một trong những nguồn mà ngân hàng cần khai thác để phục vụ dự án. Khi đánh giá một dự án, cán bộ tín dụng còn cần phải tìm hiểu về thị trường mà doanh nghiệp tham gia, nguồn nguyên vật liệu sử dụng, mạng
  15. lưới phân phối sản phẩm Ngoài ra, cán bộ tín dụng còn phải thu thập các thông tin về tình hình kinh tế xã hội, khả năng phát triển kinh tế, mức độ ổn định xã hội Những thông tin này có thể được khai thác từ nhiều nguồn, nhưng việc xử lý thông tin đó không phải đơn giản, nó yêu cầu người thẩm định phaỉ “trở thành” nhà nghiên cứu thị trường, nhà dự đoán kinh tế. Vì vậy có thể thấy, công việc thẩm định dự án vay vốn là hết sức khó khăn, phức tạp. Tóm lại, thu thập thông tin là một phần quan trọng trong công tác thẩm định tín dụng. Vì thế, các ngân hàng luôn phải làm tốt việc lựa chọn nguồn thông tin. Tuỳ vào tính chất của doanh nghiệp vay vốn, dự án vay vốn lớn hay nhỏ, hình thức kinh doanh, loại sản phẩm dự định kinh doanh cũng như tiềm năng phát triển của nó mà tiến hành lựa chọn nguồn thông tin phù hợp với khả năng và chi phí tài chính bỏ ra. 2.3.2. Nội dung quy trình thẩm định: Thẩm định dự án tín dụng đầu tư bao giờ cũng gồm hai công việc chính là kiểm tra đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính, uy tín của doanh nghiệp vay vốn và đánh giá tính khả thi, hiệu quả của dự án dựa trên quan điểm của ngân hàng. Cán bộ thẩm định sẽ không làm lại việc tính toán số liệu của người xin vay mà đi sâu vào tìm hiểu các thông tin đánh giá doanh nghiệp, kiểm tra tính chính xác, đầy đủ, lành mạnh của số liệu, đánh giá chúng theo những tiêu thức qui định. Việc này có thể tiến hành dựa trên hình thức đặt câu hỏi với những điểm nghi vấn nhằm yêu cầu sự giải trình thêm ở phía người vay. Trên cơ sở các cuộc thảo luận ấy mà đi đến kết luận cuối cùng. 2.3.2.1. Thẩm định doanh nghiệp vay vốn: a. Thẩm định một số yếu tố mang tính chất định tính: Đánh giá năng lực pháp lý của doanh nghiệp xin vay.
  16. Cán bộ tín dụng phải nắm rõ hình thức doanh nghiệp, tư cách pháp lý, nghành nghề đăng ký kinh doanh, trụ sở, nơi giao dịch, những cá nhân đại diện hay chịu trách nhiệm pháp lý cho doanh nghiệp. Qua điều tra năng lực pháp lý, cán bộ tín dụng sẽ biết được đầu tư vào nghành nghề nào được cho phép, trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp với các khoản nợ như thế nào. Khi xem xét cho vay, cán bộ tín dụng cũng nên nắm vững các điều luật để khẳng định được người nào có quyền thay mặt cho doanh nghiệp vay. Uy tín của doanh nghiệp vay vốn. Khái niệm uy tín có liên quan tới hoạt động cấp tín dụng, không chỉ hàm ý uy tín về chất lượng sản phẩm hay sự tôn trọng các hợp đồng của doanh nghiệp, tính sẵn lòng trả nợ mà còn mang ý nghĩa phản ánh tính kiên quyết thực hiện tốt tất cả các điều khoản hợp đồng giao ước. Uy tín quan trọng nhất trong tín dụng chính là tính thật thà và liêm chính của người xin vay. Rõ ràng hồ sơ quá khứ của người xin vay trong việc thực hiện các hợp đồng là tư liệu quan trọng đánh giá uy tín của họ. Tuy nhiên cần phải thấy rằng uy tín được đánh giá thường trên cơ sở phán đoán chứ không thể hiện trên cơ sở các thông tin số liệu đầy đủ và ngay cả các số liệu ấy cũng chỉ là hình ảnh của quá khứ chứ không phải hoàn toàn ảnh hưởng tới tương lai. Điều đó nói lên rằng quyết định tín dụng phải dựa trên kết quả tổng hợp từ nhiều mặt chứ không chỉ đánh giá phiến diện một khía cạnh nào đó Đánh giá năng lực quản lý. Phần lớn tiền hoàn trả các khoản vay đều được lấy từ lợi nhuận. Việc tạo ra lợi nhuận đối với một doanh nghiệp lại tuỳ thuộc vào tất cả các yếu tố ảnh hưởng tới lượng hàng bán, giá bán, giá thành và chi phí. Trong các yếu tố này, người ta thường coi trọng chất lượng quản lý, nhiều người coi nó là yếu tố chính để cấp tín dụng hay không. Khi đánh giá yếu tố quản
  17. lý, thường xem xét khả năng của ban điều hành trong việc thu hút nhân viên, nguyên liệu và quỹ vốn, tạo thời cơ và tận dụng thời cơ, khả năng điều chỉnh kịp thời kế hoạch kinh doanh Đánh giá các quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp. Quyền sở hữu tài sản được coi là một trong những tiêu chuẩn tín dụng. Thứ nhất, muốn có sức cạnh tranh trên thi trường, doanh nghiệp phải có máy móc, thiết bị, phương tiện, địa điểm Chính các tài sản hay vốn chủ sở hữu là một tiêu chuẩn đo lường sức mạnh tài chính của doanh nghiệp và cũng thể hiện tính thận trọng, tài tháo vát của chủ doanh nghiệp. Thứ hai, các quyền sở hữu tài sản có thể là một phần hay toàn bộ vật thế chấp cho khoản vay và như vậy, khẳng định rằng khoản vay sẽ được hoàn trả nếu như khả năng kiếm lời của người vay không đủ để thu hồi. Tuy nhiên, khi đánh giá các quyền sở hữu tài sản với tư cách là vật thế chấp, cán bộ tín dụng cũng phải lưu ý là tránh cho vay chỉ dựa vào sự đầy đủ của tài sản thế chấp. Một khoản cho vay được đánh giá là thành công nếu nó tạo ra được lợi nhuận cho ngân hàng và sự phát triển kinh doanh cho doanh nghiệp chứ không phải chỉ là khả năng thu hồi được. Hơn nữa, trong trường hợp phải sử dụng tài sản thế chấp để thu nợ, việc phát mại chúng thường tốn thời gian, chi phí và vướng mắc nhiều thủ tục pháp luật. Chính vì thế, trong quá trình thẩm định chỉ nên coi tài sản thế chấp là một yếu tố cần tính đến khi quyết định tín dụng chứ không phải là yếu tố mang tính quyết định. Đánh giá các điều kiện kinh tế. Có một số yếu tố ngoài tầm kiểm soát của người vay và người cho vay nhưng lại có thể ảnh hưởng rất lớn tới tính khả thi của dự án vay vốn. Đó là các điều kiện kinh tế chung như khả năng phát triển của một nghành, khuynh hướng tiêu dùng của dân chúng, tình hình ổn định chính trị xã hội, mức độ tăng trưởng hoặc suy thoái kinh tế Những điều kiện này có
  18. thể làm phá sản một dự án, ảnh hưởng tới năng lực uy tín của doanh nghiệp. Do đó đòi hỏi cán bộ thẩm định lúc này phải “ trở thành” nhà dự báo kinh tế. Với những món cho vay có kỳ hạn càng dài thì việc dự báo kinh tế càng trở nên quan trọng bởi có nhiều khả năng xảy ra rủi ro trước khi món vay đáo hạn. Tuy vậy việc đánh giá các điều kiện kinh tế là khó khăn đối với cán bộ thẩm định bởi nó đòi hỏi trình độ rất cao ở họ và điều này đôi khi không mang tính hiện thực. b. Thẩm định tài chính doanh nghiệp và tình hình sản xuất kinh doanh. Trong phần này, dựa trên số liệu thống kê, các báo cáo tài chính quyết toán của doanh nghiệp (ít nhất là 3 năm gần nhất và của các quí gần đây nhất ), cán bộ thẩm định phải thực hiện các phân tích để đưa ra những nhận xét về tình hình sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Về cơ bản, phải xem xét được các mặt sau: Sản xuất kinh doanh có ổn định không? Lợi nhuận, phân phối lợi nhuận ra sao? Doanh thu, doanh số bán, kiểm soát chi phí? Tình hình cơ cấu vốn và sử dụng vốn. Các chỉ tiêu hoạt động sử dụng vốn. Khả năng thanh toán và kiểm soát nợ vay? Nói tóm lại là cán bộ thẩm định phải nắm chắc bức tranh thực về tình hình tài chính doanh nghiệp. Theo nhiều nhà kinh tế đây là cơ sở, quan trọng nhất để quyết định cho vay hay không. Tuy vậy, không nên quan niệm rằng khi đánh giá xấu về tài chính thì sẽ không cho vay và ngược lại bởi tình hình tài chính trong quá khứ đôi khi bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh kinh tế khách quan hay thời gian hoạt động của doanh nghiệp (ví dụ như những doanh nghiệp mới đi vào hoạt động có thể bị lỗ trong một vài năm đầu). Chuẩn mực để đánh giá các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp là
  19. chỉ tiêu trung bình ngành. Khi chưa có các chỉ tiêu trung bình ngành thì dùng chỉ tiêu qui ước hoặc so sánh với những doanh nghiệp cùng loại hoạt động có hiệu quả, có tình hình tài chính vững chắc.  Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán: Nhóm chỉ tiêu này phản ánh khả năng của doanh nghiệp trong việc trang trải các món nợ. Người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau: Hệ số thanh toán ngắn hạn Hệ số thanh toán nhanh Hệ số thanh toán tức thời Khả năng thanh toán nợ cuối cùng Nhóm chỉ tiêu kết cấu tài chính : Nhóm chỉ tiêu này đánh giá mức độ tham gia của doanh nghiệp vào tài trợ cho tài sản của mình, do đó chúng cũng phản ánh mức độ rủi ro khi ngân hàng tham gia tài trợ doanh nghiệp. Thường sử dụng một số chỉ tiêu sau: Hệ số nợ Hệ số tự tài trợ Hệ số nợ dài hạn Khả năng thanh toán lãi vay  Nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động: Nhóm chỉ tiêu này cho phép ta đánh giá mức độ hiệu quả của doanh nghiệp trong việc khai thác, sử dụng số vốn đang có. Gồm các chỉ tiêu Vòng quay hàng tồn kho Kỳ thu tiền bình quân
  20. Hiệu suất sử dụng tài sản cố định Hiệu suất sử dụng tài sản lưu động  Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời: Các chỉ tiêu này phản ánh tông hợp kết quả sản xuất kinh doanh doanh nghiệp trên cơ sở so sánh lợi nhuận với nhiều chỉ tiêu khác như doanh thu, tài sản, vốn chủ sở hữu Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm Doanh lợi vốn tự có Hệ số sinh lợi tổng tài sản Trên đây là 4 nhóm chỉ tiêu tài chính cơ bản để phân tích tình hình tài chính hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn. Thông qua công việc này, ngân hàng sẽ hiểu được toàn cảnh về khía cạnh tài chính doanh nghiệp, từ đó có một trong những cơ sở quan trọng để ra quyết định cho vay hay không. 2.3.2.2. Thẩm định dự án đầu tư : a. Kiểm tra tính đầy đủ, hợp lệ, hợp pháp của hồ sơ dự án: Giai đoạn xin xét duyệt vay vốn: Ngân hàng yêu cầu doanh nghiệp đệ trình những văn bản, giấy tờ liên quan tới dự án và sự hoạt động của nó: - Đơn xin vay - Luận chứng kinh tế kỹ thuật hoặc phương án sản xuất kinh doanh - Giải trình hiệu quả kinh tế dự án Vay vốn. - Văn bản quyết định đầu tư hoặc giấy phép đầu tư.
  21. - Văn bản phê duyệt thiết kế kỹ thuật (với những dự án sản xuất) - Các hợp đồng kinh tế ký kết giữa chủ đầu tư và bên liên quan. - Hợp đồng giao nhận thầu (nếu có thiết kế xây lắp) - Hợp đồng nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu (nếu dự án có nhập khẩu). - Hợp đồng bảo hiểm công trình, lịch trả nợ Tóm lại, ngân hàng yêu cầu doanh nghiệp đệ trình đầy đủ các văn bản giấy tờ liên quan đến dự án đầu tư nhằm kiểm tra tính đầy đủ, hợp lý, hợp lệ của nó. b. Thẩm định phương diện thị trường: Thị trường là nhân tố quyết định việc lựa chọn mục tiêu và quy mô của dự án. Đối với cả trường hợp dự án đã ký được các hợp đông bao tiêu cũng phải nghiên cứu thị trường nơi người bao tiêu sẽ bán sản phẩm và uy tín của người bao tiêu trên thị trường. Nghiên cứu thị trường nhằm xác định thị trường cung cầu sản phẩm hoặc dịch vụ của dự án hiện tại, tiềm năng phát triển của thị trường này trong tương lai, các yếu tố kinh tế và phi kinh tế tác động đến nhu cầu của sản phẩm hay dịch vụ, khả năng cạnh tranh của sản phẩm so với các sản phẩm cùng loại có sẵn và các sản phẩm có thể ra đời sau này. c. Thẩm định phương diện kỹ thuật: Nghiên cứu kỹ thuật là tiền đề cho việc tiến hành phân tích kinh tế tài chính các dự án đầu tư. Các dự án đầu tư không khả thi về mặt kỹ thuật phải được bác bỏ để tránh những tổn thất trong quá trình thực hiện đầu tư và vận hành kết quả đầu tư sau này.
  22. d. Thẩm định về phương diện tổ chức và quản lý dự án : - Mô hình tổ chức quản lý của dự án : đơn vị quản lý dự án là một bên hay nhiều bên tham gia; quyền hạn, trách nhiệm và sự phối hợp giữa các bên trong điều hành dự án. - Xem xét năng lực hoạt động, uy tín các đơn vị tham gia thiết kế, thi công, cung ứng thiết bị để đảm bảo dự án được thực hiện đúng tiến độ dự kiến. - Thẩm định khả năng chuyên môn, kinh nghiệm quản lý của đơn vị điều hành dự án. e. Thẩm định tài chính của dự án : Đối với ngân hàng, một dự án thành công chỉ khi nó tạo ra được lợi nhuận và đủ khả năng thanh toán các khoản nợ. Việc tài trợ cho một dự án vay vốn chính là một hoạt động tín dụng, mà tiêu chí an toàn cho một khoản tín dụnglà nó được hoàn trả từ chính lợi nhuận và khấu hao của dự án nó tài trợ. Vì thế, đánh giá khía cạnh tài chính được xem là yếu tố mang tính quyết định nhất tới việc ra quyết định đầu tư của ngân hàng. Những đánh giá về thị trường, kỹ thuật, tổ chức quản lý là tiền đề và hỗ trợ cho thẩm định tài chính.  thẩm định việc tính toán tổng mức vốn đầu tư ban đầu: Với những dự án trung và dài hạn, thường có liên quan tới xây dựng hoặc mua sắm thiết bị. Do đó, có thể chia vốn đầu tư ban đầu thành 3 loại: vốn đầu tư xây lắp, vốn đầu tư thiết bị, vốn kiến thiết cơ bản khác: - Vốn xây dựng cơ bản: ước tính trên cơ sở khối lượng công việc xây lắp và giá xây lắp tổng hợp. Nội dung kiểm tra sẽ tập trung vào xem xét nhu cầu xây dựng cơ bản có phù hợp với quy mô dự án không, dựa trên kinh nghiệm hoặc tham khảo từ những dự án tương tự. Điều này để
  23. đảm bảo rằng vốn cho vay chỉ được dùng vào bản thân dự án hoặc chủ doanh nghiệp không cố tình giảm vốn đầu tư ban đầu nhằm tăng thêm tính khả thi cho dự án. - Vốn mua sắm thiết bị: căn cứ vào danh mục thiết bị, kiểm tra giá mua và các chi phí kèm theo như vận chuyển, bảo quản theo qui định của Nhà nước để tính toán chính xác số vốn bỏ ra. Với những thiết bị có kèm theo việc chuyển giao công nghệ thì phải tính cả những chi phí như chuyển giao, mua bí quyết kỹ thuật, đào tạo huấn luyện, thuê lắp đặt, vận hành chạy thử - Vốn kiến thiết cơ bản khác: các khoản mục chi phí được tính vào vốn đầu tư ban đầu theo qui định của Nhà nước. Việc xác định chính xác vốn đầu tư ban đầu sẽ mang lại hai lợi ích: thứ nhất là giúp ngân hàng phòng ngừa doanh nghiệp lợi dụng vốn ngân hàng vào dự án khác (khai thác quá cao vốn đầu tư ban đầu) hay cố ý tạo tính lợi nhuận của dự án (khai giảm). Thứ hai, nó cho phép ngân hàng kiểm tra được kế hoạch khấu hao trang thiết bị vì đIều này liên quan tới lợi nhuận thực của dự án và kế hoạch và nguồn thanh toán nợ. Ngoài 3 loại trên, còn có một số chi phí đầu tư cần kiểm tra xác định gồm nhu cầu vốn lưu động ban đầu (đối với dự án xây dựng mới), nhu cầu vốn lưu động bổ sung (đối với dự án mở rộng bổ sung thiết bị) để sau khi dự án được xây dựng xong có thể hoạt động bình thường, chi phí thành lập, chi phí trả lãi vay Ngân hàng trong thời gian thi công của các dự án đầu tư.  Thẩm định cơ cấu vốn và nguồn vốn: Cơ cấu vốn ở đây được hiểu là việc phân bổ vốn đầu tư vào các hoạt động xây dựng, mua sắm trang thiết bị, dự trữ và chi cho hoạt động sản xất kinh doanh. Về điểm này, sẽ không có mẫu thống nhất cho tất cả các
  24. nghành, nên cán bộ thẩm định buộc phải dựa vào kinh nghiệm, tham khảo những dự án những dự án tương tự đã hoạt động để kiểm tra tính hợp lý của cơ cấu vốn. Ngoài ra, căn cứ vào tính chất, phạm vi hoạt động của dự án, tính toán chính xác cơ cấu vốn nội tệ và ngoại tệ nhằm xác định được nguồn ngoại tệ tài trợ cho dự án, xây dựng cơ sở quy đổi phục vụ tính toán hiệu quả đầu tư.  Thẩm định doanh thu và lợi nhuận dự kiến. Trong mục này, vận dụng các kiến thức về kế toán và phân tích tài chính, ngân hàng phải đánh giá tính chính xác, hợp lý của các con số mà doanh nghiệp đưa ra: - Tính doanh thu dự kiến: nhận xét trên cơ sở liên hệ với các phân tích thị trường và phân tích kỹ thuật. - Tính toán giá thành và chi phí sản xuất. - Trên cơ sở kiểm tra cách tính và phân bổ chi phí, cách tính doanh thu dự kiến, ngân hàng thực hiện kiểm tra cách tính lợi nhuận hàng nănm của dự án.  Đánh giá hiệu quả tài chính dự án : Có nhiều chỉ tiêu và cách đánh giá hiệu quả tài chính dự án đầu tư: 1. Đánh giá dự án bằng giá trị hiện tại: Đây là cách đánh giá tính khả thi của dự án dựa trên các chỉ tiêu lãi kép và giá trị kép, giá trị hiện tại ròng (lợi nhuận hiện tại ròng NPV), suất doanh lợi nội bộ IRR. Các chỉ tiêu này được tính trên nguyên tắc tiền có giá trị thời gian. - Lãi kép và giá trị kép: Lãi kép là lãi sinh lời qua các năm và lãi năm trước được cộng gộp vào vốnlàm cơ sở tính lãI cho năm tiếp theo. Số tiền nhận được ở cuối mỗi
  25. năm bao gồm tiền vốn và toàn bộ lãi xác định theo cách tính lãI kép được gọi là gí trị kép. Công thức tính: Tn= V(1+I)n Trong đó: Tn: giá trị kép. I: lãi suất năm. n: số năm đầu tư . V: vốn đầu tư ban đầu. Thẩm định dự án qua việc đánh giá chỉ tiêu lãi kép và gía trị kép có ý nghĩa thực tiễn lớn, nó là mốc đánh giá hiệu quả tối thiểu mà người đầu tư cần đạt được khi bỏ vốn đầu tư. - Giá trị hiện tại ròng NPV (Net Present Value). Chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng cho ta biết quy mô lợi nhuận thu được ( đã được quy về hiện tại) sau khi trừ đi mọi khoản chi phí và hoàn đủ vốn. Cơ sở để tính giá trị ròng là lãi suất chiết khấu, nó được tính trên phương pháp giá trị bình quân gia quyền của lãi suất vốn huy động và tỉ lệ sinh lời yêu cầu tối thiểu của vốn chủ sở hữu Công thức tính NPV: n Ct n Rt NPV =  t +  t t 0 (1 i) t 1 (1 i) Trong đó: Ct: vốn đầu tư thực hiện năm thứ t n: thời gian hoạt động của dự án . Rt: khoản thu hồi ròng năm thứ t. i: lãi suất chiết khấu. Rt bao gồm: lãi ròng + khấu hao - trả vốn vay. Riêng năm cuối Rt còn gồm: thu hồi vốn lưu động ròng + thu nhập ròng từ thanh lý tài sản của dự án. Như vậy, từ công thức tính NPV ta thấy:
  26. o NPV >0: dự án có lời o NPV =0: dự án hoà vốn. o NPV 0. Tăng lãi suất chiết khấu cho đến khi đạt NPV >0 và tiến gần đến 0. ở đó ta được i1 và NPV1 - Tiếp tục tăng lãi suất chiết khấu cho đến khi NPV <0 và gần 0. ở đó ta được i2 và NPV2. Để tăng độ chính xác, NPV1 và NPV2 nên tiến sát tới 0.
  27. - Tính IRR theo công thức: NPV1 IRR = i1 + (i2- i1) NPV1 NPV2 IRR là chỉ tiêu được sử dụng rất rộng rãi trên thế giới. Tiêu chuẩn lựa chọn dự án theo phương pháp này là IRR lớn hơn tỉ lệ chiết khấu. Nếu là các dự án loại trừ thì dự án nào có suất thu hồi nội bộ tối đa sẽ được lựa chọn. Tuy vậy, nhược điểm của phương pháp này là dựa trên giả định các khoản thu nhập được tái đầu tư tại tỉ lệ IRR mà không phải tỉ lệ chi phí vốn bình quân ( tỉ lệ chiết khấu). Và với những dự án có cấu trúc dòng tiền biến đổi phức tạp thì có thể có nhiều giá trị IRR. Khi sử dụng IRR, nên có sự kết hợp với NPV và NPVR. 2. Phân tích các chỉ tiêu hiệu quả tài chính: - Phân tích đIểm hoà vốn: Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó doanh thu bằng chi phí bỏ ra. Việc phân tích điểm hoà vốn chính là phân tích mối quan hệ hữu cơ giữa chi phí bất biến, chi phí khả biến và lợi nhuận. Phân tích điểm hoà vốn nhằm chỉ ra mức sản xuất hoặc doanh thu thấp nhất mà tại đó dự án có thể vận hành mà không gây nguy hiểm tới khả năng tồn tại về mặt tài chính của nó. Phân tích điểm hoà vốn còn giúp cho việc đánh giá mức giá cả mà dự án có thể chấp nhận được. Khi phân tích điểm hoà vốn, thường tính cho một năm tính trong năm dự án hoạt động bình thường. - Điểm hoà vốn lý thuyết: Đ ĐLT = D- B
  28. Trong đó: D :tổng doanh thu dự kiến năm. B :tổng biến phí. Đ :tổng định phí. Sản lượng tại điểm hoà vốn q: Đ q = Giá bán 1 đơn vị SP- Chi phí biến đổi 1 đơn vị SP Các chỉ tiêu ĐLT, q càng nhỏ thì dự án càng khả thi. ở đây không có tiêu chuẩn chính thức mà thường dựa vào kinh nghiệm của cán bộ thẩm định hoặc so sánh với các dự án khác để đưa ra nhận xét. Ngoài việc sử dụng điểm hoà vốn lý thuyết, người ta còn sử dụng phân tích điểm hoà vốn trả nợ và điểm hoà vốn tiền tệ: - Điểm hoà vốn tiền tệ: ĐTT Đ- KHCB Đ TT = D- B Trong đó, KHCB: khấu hao cơ bản năm Điểm hoà vốn tiền tệ luôn nhỏ hơn điểm hoà vốn lý thuyết. - Điểm hoà vốn trả nợ: ĐTN Đ- KHCB + Nợ gốc + Thuế lợi tức Đ = TN D- B Phân tích điểm hoà vốn trả nợ nhằm mục đích: ngân hàng biết được tại mức sản lượng hay doanh thu nào trở đi thì doanh nghiệp có đủ tiền thu được từ dự án để trả nợ vay và nộp thuế.
  29. Nói chung cả 3 điểm ĐLT, ĐTT, ĐLT càng thấp thì dự án càng hiệu quả và độ rủi ro càng thấp. 3. Phân tích kế hoạch trả nợ: Như ở phần trên đã nêu, một dự án được coi là hiệu quả và an toàn khi nó trang trải các khoản vay nợ từ lợi nhuận của chính dự án tạo ra. Ngoài ra, một nguồn khác rất quan trọnglà nguồn vốn khấu hao cơ bản tính từ bản thân các tài sản hình thành bằng vốn đầu tư của dự án. Đây là hai nguồn chính để trả nợ, tuy nhiên nó hoàn toàn không ổn định qua các năm bởi tuỳ từng năm mà doanh nghiệp có dòng thu, dòng chi khác nhau. Do vậy cán bộ tín dụng trước hết phải nắm rõ bảng lưu chuyển tiền tệ dự kiến qua các năm của dự án . Các số liệu trong bảng phải được dự tính chính xác, hợp lý, hợp pháp. Trên cơ sở bảng này, ngân hàng biết được có khi nào doanh nghiệp lâm phải tình trạng không có khả năng thanh toán, mức độ nghiêm trọng của tình huống này để xem xét quýêt định cho vay hay không, hoặc yêu cầu doanh nghiệp điều chỉnh lại kế hoạch đầu tư, tiêu thụ, dự trữ cho hợp lý hơn. Sau khi xem xét khả năng thanh toán của dự án , ngân hàng tiến hành xem xét kế hoạch trả nợ. Trong đó phải chú ý tới kế hoạch trả nợ tất cả các chủ nợ chứ không chỉ riêng ngân hàng nhằm tránh trường hợp doanh nghiệp cố tình dấu nợ. Qua việc phân tích tỉ trọng vốn vay của ngân hàng trong tổn vốn vay, quyền ưu tiên của các chủ nợ, ngân hàng phải kiểm tra tính hợp lý của số tiền phân bổ cho kế hoạch trả nợ ngân hàng. Trong kế hoạch trả nợ này, ngân hàng sẽ cân nhắc xem nó có phù hợp với định hướng hoạt động, phù hợp với mức độ rủi ro của dự án , phù hợp với kế hoạch giải ngân không, từ đó quyết định chấp nhận hay bác bỏ nó. 4. Phân tích độ nhạy của dự án :
  30. Ơ tất cả các phần trên, chúng ta tiến hành thẩm định dựa trên cơ sở các số liệu thông tin dự kiến. Các số liệu này dù đã được kiểm tra về tính chính xác, hợp lý, hợp lệ nhưng chúng vẫn chỉ là các con số dự kiến, dự báo. Mà đã là dự báo thì rất có thể xảy ra sai lệch, nhất là dự báo ở những năm xa thời điểm hiện tại. Sự sai lệch này sẽ ảnh hưởng tới hàng loạt kết quả thẩm định khác. Vì thế một bộ phận quan trọng trong thẩm định dự án là đánh giá mức độ rủi ro có thể xảy ra, và sự đánh giá này ta gọi là phân tích độ nhạy của dự án . Khi đánh giá mức độ nhạy của các yếu tố định lượng người ta thường tính ra mức thay đổi (tương đối) của chúng làm cho NPV tiến tới 0. Khi tiến hành kiểm tra, có thể tiến hành theo từng nhân tố riêng biệt hoặc theo nhóm các yếu tố. Và để đánh giá mức độ an toàn của dự án , người ta thường giả định xảy ra những biến động xấu, ảnh hưởng bất lợi cho dự án (như tăng chi phí, giảm mức tiêu thụ ) Rõ ràng việc tính độ nhạy là khá khó khăn, nó đòi hỏi sự đánh giá độ rủi ro tổng hợp bởi thực tế không thể tách rời từng yếu tố. Tuy nhiên việc kết hợp lại rất phức tạp cho việc tính toán. Do vậy, người ta thường chỉ kiểm tra một số yếu tố dễ biến động và tương đối quan trọng. - Khối lượng sản phẩm tiêu thụ trong trường hợp thị trường chưa thể xác định chắc chắn. - Chi phí đầu tư trong trường hợp khối lượng đầu tư xây dựng và giá đầu tư chưa được xác định cụ thể. - Chi phí sản xuất trong trường hợp giá cả và điều kiện cung cấp các yếu tố đầu vào thường biến động. Sau khi phân tích độ nhạy người ta có thể tính lại tất cả các chỉ tiêu phân tích khác hoặc chỉ tính một vài chỉ tiêu nào đó. Điều này phụ thuộc vào ý kiến chủ quan và kinh nghiệm của người thẩm định. Thông thường phải
  31. xem xét lại các chỉ tiêu tỉ suất nội hoàn, thời gian thu hồi, bảng lưu chuyển tiền tệ, bảng kế hoạch trả nợ Nói tóm lại, thẩm định là một loạt các công việc bao gồm đánh giá doanh nghiệp vay vốn và đánh giá dự án vay vốn nhằm tìm ra câu trả lời cho câu hỏi duy nhất “Ngân hàng có nên cho vay hay không?”. Đây sẽ là căn cứ để ngân hàng trả lời yêu cầu vay vốn của doanh nghiệp, dù là việc chấp nhận hay từ chối. Để việc thẩm định đạt kết quả cao, ngân hàng phải đánh giá dựa trên quan điểm của người cho vay, nhìn nhận vấn đề một cách tổng thể từ nhiều góc cạnh, tránh áp dụng máy móc công thức toán học, tránh dùng kết quả quá khứ áp dụng cứng nhắc vào tương lai bởi vấn đề đang xem xét không phải là những con số, những quy luật toán học chính xác mà nó là hiện tượng kinh tế xã hội, nó chứa đựng những đặc điểm của tính tương đối, tính quy luật và tính nhạy cảm trước các biến động của các điều kiện bên ngoài. Do đó, công tác thẩm định vừa yêu cầu tính khoa học lại vừa mang yếu tố kinh nghiệm sâu sắc. III. Hoạt động tín dụng đầu tư theo dự án của ngân hàng 1. Nguồn vốn tín dụng đầu tư theo dự án : Nguồn vốn tín dụng đầu tư theo dự án được nằm trong nguồn vốn cho vay trung- dài hạn của ngân hàng, bao gồm các nguồn sau: 1.1. Nguồn vốn huy động: Công tác chủ yếu nhất của bất cứ một ngân hàng thương mại nào là thu thập tiền gửi, còn gọi là công tác huy động vốn trong xã hội. Đó là vốn tiền gửi của các tổ chức kinh tế, tiền tiết kiệm của dân cư, các khoản tiền tiết kiệm không kỳ hạn và có kỳ hạn, phát hành trái phiếu Nguồn vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng. Nguồn vốn tự có chỉ là điểm khởi đầu để tổ chức hoạt động, nguồn vốn huy động mới là nguồn vốn chủ yếu cho các nghiệp vụ của ngân hàng.
  32. Theo thời hạn, nguồn vốn huy động được chia làm hai loại: o Loại không có kỳ hạn: Tiền gửi các tổ chức kinh tế thực chất là một bộ phận vốn kinh doanh, người ta gửi vào với mục đích sử dụng linh hoạt trong các giao dịch với khách hàng. Vì vậy, về cơ bản tiền gửi của các tổ chức kinh tế là loại không kỳ hạn. Để khai thác tốt nguồn này, các ngân hàng thương mại cần phải giải quyết một cách nhanh chóng, thuận lợi, thoả mãn kịp thời các yêu cầu của người gửi. Mặt khác, các chi phí của ngân hàng cho tiền gửi không kỳ hạn sẽ thấp hơn nhiều so với tiền gửi có kỳ hạn, do đó đẩy mạnh khai thác nguồn vốn này sẽ tiết kiệm được nhiều chi phí kinh doanh và làm tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Tuy nhiên loại nguồn vốn huy động ngắn hạn về nguyên tắc không được sử dụng để cho vay trung và dài hạn. o Loại có kỳ hạn: Tiền tiết kiệm là những thu nhập bằng tiền mặt và tiền để dành của dân cư nên nó phù hợp với loại tiền gửi có kỳ hạn. Người guẻi tiền tiết kiệm nhằm mục đích thu lợi tức, do đó để thu hút nguồn này các ngân hàng thương mại cần thực hiện chính sách lãi suất phù hợp, hấp dẫn. Đây là nguồn vốn quan trọng của ngân hàng để cho vay trung- dài hạn. 1.2. Nguồn vốn tự có và quỹ đầu tư và phát triển: Vốn tự có là những khoản vốn và quỹ mà về mặt lý thuyết phải thuộc quyền sử dụng một cách chủ động và thường xuyên của một ngân hàng. Vốn điều lệ chủ yếu được dùng để mua sắm động sản và bất động sản, phát triển kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng, hùn vốn liên doanh, cho vay và mua cổ phần các tổ chức tín dụng khác. Các quỹ ngân hàng được trích từ lợi nhuận ròng (Lợi nhuận ròng = tổng thu nhập- tổng chi phí- thuế) của ngân hàng bao gồm:
  33. - Quỹ dự trữ: được hình thành bằng cách trích 5% lợi nhuận ròng hàng năm để bổ sung vốn điều lệ. Quỹ dự trữ đặc biệt trích 10% lợi nhuận ròng cho đến khi bằng 100% vốn đIều lệ, dùng dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình kinh doanh của ngân hàng như tiền bị giảm giá - Quỹ phát triển nghiệp vụ ngân hàng - Quỹ khen thưởng - Quỹ phúc lợi. Các quỹ không hình thành từ lơị nhuận ngân hàng như quĩ khấu hao cơ bản tài sản cố định, quỹ khấu hao sửa chữa lớn và các quỹ khác theo qui định của pháp luật tài chính. Nguồn vốn tự có của ngân hàng chiếm tỉ trọng không lớn trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, nhưng nó đóng vai trò quan trọngvì đó là cơ sở để tiến hành kinh doanh, tiến hành thu hút nguồn vốn khác. 1.3. Nguồn vốn tiếp nhận: Nguồn vốn tiếp nhận là những nguồn vốn mà các ngân hàng thương mại nhận uỷ thác từ các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, từ ngân sách nhà nước để cho vay trung, dài hạn thuộc kế hoạch xây dựng cơ bản tập trung của Nhà nước, để thực hiện những chương trình và dự án có mục tiêu định trước trong sản xuất, kinh doanh. 1.4. Nguồn vốn đi vay: Vốn huy động từ việc phát hành các loại kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi của ngân hàng nhằm bổ sung nguồn vốn hoạt động của ngân hàng khi vốn tự có và vốn tiền gửi chưa đáp ứng đủ yêu cầu kinh doanh.
  34. Vốn vay của Ngân hàng Nhà nước, khi Ngân hàng Nhà nước nhận cho vay chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá của ngân hàng thương mại. Vốn vay của ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác thông qua thị trường tiền tệ ngắn hạn. Tai đây, các ngân hàng thiếu thanh khoản sẽ vay của các ngân hàng dư thanh khoản, vừa giúp cho các ngân hàng thiếu thanh khoản có tiền mặt ngay, vừa giúp những ngân hàng có dư tiền cho vay sinh lợi đối với các số vốn dư thừa nhất thời. 1.5. Nguồn vốn khác: Các nguồn vốn khác như vốn phát sinh trong quá trình hoạt động của ngân hàng như khi làm đại lý, dịch vụ thanh toán, bán chứng phiếu có giá, làm trung gian thanh toán 2. Hiệu quả kinh tế của hoạt động tín dụng đầu tư theo dự án Hiệu quả kinh tế của hoạt động tín dụng đầu tư theo dự án chính là việc sử dụng có hiệu quả vốn tín dụng đầu tư. 2.1. Quan điểm về sử dụng có hiệu quả nguồn vốn tín dụng của các Ngân hàng. Theo khái niệm tổng quát nhất thì hiệu quả là mối quan hệ so sánh giữa kết quả nhất định với chi phí cần thiết nhằm đạt được kết quả đó. Do hoạt động tín dụng của ngân hàng là một hoạt động quan trọng và có vai trò to lớn đối với nền kinh tế nói chung và ngân hàng nói riêng. Xuất phát từ vai trò và cơ chế của hoạt động tín dụng ngân hàng thì hiệu quả tín dụng được đánh giá trên hai quan điểm sau: - Hiệu quả tín dụng cao hay thấp thể hiện ở chỗ tín dụng đã làm gì để góp phần thực hiện các chỉ tiêu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. - Hiệu quả tín dụng còn được thể hiện trực tiếp ở lợi nhuận.
  35. Hai quan điểm trên đây có quan hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau không thể tách rời nhau. Nhấn mạnh quan điểm thứ nhất, coi nhẹ quan điểm thứ hai sẽ dẫn đến tình trạng xem hoạt động tín dụng đơn thuần có tính chất phục vụ mà không mang tính chất kinh doanh. Do đó vốn tín dụng được sử dụng một cách tràn lan, nguyên tắc an toàn vốn, hoàn trả vốnbị vi phạm nghiêm trọng, nên hiệu quả kinh tế của hoạt động tín dụng rất thấp. Mặt khác trong nền kinh tế thị trường, Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp, tín dụng ngân hàng là một phạm trù kinh tế; hoạt động tín dụng bị chi phối bởi các quy luật kinh tể trong đó có quy luật giá trị, nên không thể bỏ qua mục đích lợi nhuận trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Ngược lại, nếu cho rằng ở đâu mang lại lợi nhuận, ở đó có sự tham gia của tín dụng ngân hàng thì đó là quan điểm phiến diện. Lợi ích của ngân hàng nói chung và của tín dụng nói riêng không thể tách rời lợi ích chung của nền kinh tế. Một nến kinh tế trì trệ, kém phát triển sẽ làm giảm khả năng huy động vốn và nhu cầu vay vốn đầu tư sản xuất kinh doanh. Ngược lại, nếu ngân hàng chạy theo lợi nhuận tối đa để dẫn đến mạo hiểm rủi ro, thì hiệu quả tín dụng của ngân hàng sẽ không cao, bấp bênh. Tóm lại, nói đến hiệu quả tín dụng của ngân hàng mà không gắn liền với sự tăng trưởng của nền kinh tế thì hiệu quả đó là hiệu quả cục bộ. Vì vậy, trong bất kỳ trường hợp nào, tín dụng ngân hàng cũng phải góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển, phù hợp với định hướng, mục tiêu của Nhà nước. Tín dụng ngân hàng không thể bằng bất cứ giá nào tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh mà phải cân nhắc, tính toán kỹ càng. Do đó hiệu quả tín dụng còn chính là lợi nhuận thu được từ nguồn vốn tín dụng bỏ ra. 2.2. Hiệu quả kinh tế của hoạt động tín dụng đầu tư theo dự án :
  36. Do vốn đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm, thời gian đầu tư dài, cho nên độ mạo hiểm cao vì tính chất kỹ thuật của hoạt động đầu tư rất phức tạp, phải chịu tác động của nhiều yếu tố bất định trong tương lai, không thểdự đoán hết và chính xác được (các yếu tố về nhu cầu, giá cả đầu vào, đầu ra, cơ chế, chính sách, thiên tai ) Vì vậy, dự án đầu tư phải được thẩm định kỹ càng, tỷ mỉ và khoa học. Trước khi cấp tín dụng đầu tư, ngân hàng thương mại phải cố gắng dự đoán những gì liên quan đến kết quả của hoạt động đầu tư trong tương lai, xem xét các biện pháp xử lý khi các yếu tố bất định xảy ra để đảm bảo thu hồi đủ vốn và có lãi Việc xác định hiệu quả kinh tế của hoạt động tín dụng đầu tư theo dự án là hết sức quan trọng, cần thiết đối với ngân hàng, cũng như chủ đầu tư. Đối với ngân hàng, việc xác định hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư theo dự án đảm bảo cho ngân hàng đầu tư đúng đối tượng. Với việc phân tích và thẩm định một cách toàn diện, khoa học và nghiêm túc dự án trước khi cho vay đã giúp cho ngân hàng hạn chế được những rủi ro có thể xảy ra, đảm bảo khả năng thu hồi cả vốn và lãi. Đối với chủ đầu tư, thông qua vốn tín dụng đầu tư theo dự án của ngân hàng, có thể mở rộng sản xuất, nâng cao năng suất lao động và tăng thu nhập cho người lao động. Mặt khác, đổi mới công nghệ và thiết bị đã tạo điều kiện thuận lợi để tăng cường số lượng và chất lượng sản phẩm, đồng thời hạ giá thành sản phẩm, mang lại lợi nhuận càng cao cho chủ đầu tư. Tóm lại, xuất phát từ tầm quan trọng của hoạt động đầu tư và hiệu quả kinh tế của hoạt động đầu tư đòi hỏi để tiến hành công cuộc đầu tư phải có sự chuẩn bị hết sức chu đáo bắt đầu từ khâu soạn thảo dự án đầu tư đến việc thẩm định và ra quyết định đầu tư. Có như vậy dự án mới có tính thuyết phục và khả thi.
  37. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THẨM ĐỊNH DỰ ÁN TÍN DỤNG ĐẦU TƯ CỦA NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM I. Khái quát về Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam : 1. Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (tên giao dịch quốc tế là Vietcombank) được chính thức thành lập ngày 1/4/1963 theo Nghị định 115-CP ngày 30/12/1962 của Hội đồng Chính phủ và được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ký Quyết định số 286-QĐ/NH ngày 21/9/1996 thành lập lại theo mô hình Tổng Công ty Nhà nước quy định tại quyết định số 90-TTg ngày 7/3/1994 theo uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ, nhằm tăng cường tích tụ tập trung chuyên môn hoá và hợp tác kinh doanh để thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao, nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của đơn vị thành viên và toàn ngành ngân hàng, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Trước năm 1990, Ngân hàng Ngoại thương là ngân hàng của Chính phủ thực hiện các chính sách tiền tệ, quản lý ngoại hối kinh doanh đối ngoại của Ngân hàng Nhà nước và cung ứng tín dụng cho các ngành kinh tế chủ chốt của đất nước theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Từ năm 1990, thực hiện cải tổ hệ thống ngân hàng theo pháp lệnh ngân hàng, Ngân hàng Ngoại thương mới thực sự trở thành một ngân hàng kinh doanh với số vốn NSNN ban đầu là 200 tỷ đồng. Ngân hàng Ngoại thương đã từng
  38. bước thay đổi thích ứng dần với cơ chế thị trường và có những đóng góp tích cực cho phát triển nền kinh tế thông qua việc phát động một nguồn vốn lớn trong xã hội để phục vụ mục tiều tăng trưởng kinh tế và thực thi chính sách tiền tệ theo định hướng của Nhà nước. Ngân hàng Ngoại thương được quản lý bởi Hội đồng Quản trị và được điều hành bởi Tổng Giám đốc. Hội đồng Quản trị thực hiện chức năng quản lý của Ngân hàng Ngoại thương, chịu trách nhiệm về sự phát triển của Ngân hàng Ngoại thương theo nhiệm vụ Nhà nước giao. Hội đồng Quản trị làm việc theo chế độ tập thể họp thường kỳ mỗi tháng một lần để xem xét và quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của mình. Hội đồng Quản trị có từ 5 đến 7 thành viên do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định bổ nhiệm. 2. Tình hình hoạt động của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trong những năm qua. Huy động vốn của Ngân hàng Ngoại thương. Tổng nguồn vốn tăng trưởng mạnh và liên tục. Đến cuối tháng 12-2001 tổng nguồn vốn của Ngân hàng Ngoại thương đạt 84349 tỷ qui VNĐ, tăng 17,2% so với năm 2000. Nguồn vốn huy động có kỳ hạn tăng 6,2%, chiếm 59,4% trong tổng nguồn vốn huy động. Nguồn vốn ngoại tệ phát triển mạnh đạt 3734,5 triệu USD tăng 43,7% chiếm tỷ trọng tới 74,9% trong tổng nguồn vốn. Trong môi trường kinh doanh hiện nay, nguồn vốn ngoại tệ lớn đang tạo lợi thế cho Ngân hàng Ngoại thương, tuy nhiên về lâu dài Ngân hàng Ngoại thương cần có sách lược nâng cao tỷ trọng nguồn vốn tỷ đồng để đảm bảo phát triển bền vững. a. Huy động vốn điều lệ của Ngân hàng Ngoại Thương.
  39. Là một ngân hàng thương mại nhà nước, vốn của Ngân hàng Ngoại thương được hình thành từ vốn Nhà nước giao (vốn điều lệ) và vốn tự bổ sung từ lợi nhuận để lại. Tính đến 31/12/2001, vốn điều lệ của Ngân hàng Ngoại thương đạt 1.188.463 triệu VND, trong đó có 1.096.188 triệu VND là của Nhà nước giao, còn lại 92.275 triệu VND là từ quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ. So với 1.124.637 triệu VND vốn điều lệ năm 2000 thì vốn điều lệ của Ngân hàng Ngoại thương giảm đi 63.824 triệu VND do ngân hàng đã đầu tư vào mua mới trang thiết bị, tăng cường điều kiện làm việc cho nhân viên. b. Huy động vốn ngắn, trung và dài hạn Đối với hoạt động của ngân hàng thương mại, nguồn vốn là một trong những yếu tố quan trọng nhất cho sự thành đạt trong hoạt động kinh doanh. Nhận thức được điều này, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã chú trọng việc ổn định và ngày càng tăng trưởng nguồn vốn, coi đây là nguồn động lực đầy sức mạnh tạo đà cho các mục tiêu chiến lược của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam . Huy động vốn từ tiền gửi ngắn hạn và có kỳ hạn dài.  Nguồn vốn huy động trên “thị trường I” : Thị trường I là thị trường đối với các tổ chức phi tài chính và các tầng lớp dân cư. Nguồn vốn huy động từ thị trường này chiếm tỉ trong bằng 82,7% trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Tại thời điểm 31/12/2001 đạt 64409 tỷ quy VND tăng 41,0% trong đó nguồn vốn ngoại tệ đạt 2395 triệu USD tăng 38,1%, nguồn vốn tiền đồng đạt 28317 tỷ VNĐ tăng 36,0%. Đặc biệt nguồn vốn có kỳ hạn tăng mạnh (72,6%). Việc tăng trưởng mạnh mẽ nguồn vốn huy động trên thị trường I của Ngân hàng Ngoại thương trong năm 2000 là do một số nhân tố sau:
  40. - Ngân hàng Ngoại thương đã chủ động cải thiện việc huy động vốn bằng biện pháp đa dạng hoá các hình thức huy động, bổ sung các kỳ hạn lãi suất khác nhau, linh hoạt điều chỉnh lãi suất, áp dụng chính sách ưu đãi đối với các khách hàng có số dư lớn. - Lãi suất USD trên thị trường quốc tế tăng cao kéo theo việc tăng lãi suất USD ở thị trường trong nước đã khuyến khích dân cư gửi USD trong khi đó Ngân hàng Ngoại thương lại có thế mạnh trong việc huy động nguồn vốn này. - Nguồn kiều hối trong năm tăng mạnh nhất là vào các tháng cuối năm.  Nguồn vốn huy động từ thị trường II: Là thị trường trong mối quan hệ với Ngân sách nhà nước, Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng. Đặc trưng của nguồn vốn từ thị trường là không ổn định cả về số dư và kỳ hạn. Trong thời gian qua, số dư của loại tiền gửi này tăng nhanh: Nguồn vốn huy động trên thị trường II đạt 13827 tỷ quy VNĐ tăng gần 20% so với cùng kỳ năm ngoái và chiếm tới 17,7% tổng nguồn vốn. Vốn ngoại tệ đạt mức 642 triệu USD tương đương với 9680 tỷ VNĐ chiếm 63,74% nguồn vốn huy động trên thị trường II. Vốn tiền đồng là 5505 tỷ trong đó vay Ngân hàng Nhà nước 1362,9 tỷ bao gồm vay tái cấp vốn 583 tỷ, vốn vay đặc biệt 647,9 tỷ. Bảng 1: Vốn huy động của Ngân hàng Ngoại thương từ hai thị trường Tỷ giá: 15070 (12/2001), 14501 (12/2000) Đơn vị: tỷ VNĐ, triệu USD Thị trường 2000 2001 So sánh (%) 2001/2000 Thị trường I
  41. - Tiền gửi của các tổ chức 24734,6 35527,8 143,6 kinh tế - Tiền gửi của các cá nhân 28413 28757,3 101,2 Thị trường 2 - Tiền gửi của ngân sách 6476,8 7938,7 122,57 nhà nước và Ngân hàng nhà nước - Tiền gửi của các tổ chức 4050,2 4140,4 102,27 tín dụng trong nước - Tiền gửi của các tổ chức tín dụng nước ngoài 1746,8 2136,2 123,55 Nguồn: Cân đối kế toán 31/12/2001 và 31/12/2000. Cơ cấu kỳ hạn vốn huy động: Bảng 2: Vốn huy động phân theo kỳ hạn. Đơn vị: tỷ VNĐ Tháng 12/2000 12/2001 Số dư Tỷ Số dư Tỷ Loại trọng trọng Có kỳ hạn 37.920 57,62% 40.253 51,5% Không kỳ hạn 27.890 42,38% 37.915 48,5% Tổng số 65.810 100% 78.168 100% Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Ngoại thương 2001 Từ bảng trên cho thấy, nguồn vốn không kỳ hạn không những tăng về mặt lượng mà còn tăng về mặt tỉ trọng. Điều này phản ánh công tác huy động vốn của ngân hàng đã đạt được những thành tựu đáng kể. Nguyên nhân là do Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã ban hành chính sách
  42. khách hàng, ngoài ra, ngân hàng liên tục đưa ra nhiều loại hình kinh doanh mới để thu hút vốn nhàn rỗi từ dân cư. Điển hình là gần đây Ngân hàng cho phát hành thẻ ATM, là loại thẻ rút tiền tự động, phục vụ cho nhu cầu giao dịch thông thường của đa số tầng lớp dân cư. Ngay khi mới đưa vào hoạt động, thẻ đã nhận được sự ủng hộ rộng rãi. Hiện nay, rất nhiều công ty đã sử dụng thẻ ATM để trả lương cho nhân viên. Tiền gửi có kỳ hạn tiếp tục tăng lên 2333 tỷ VND(6,15%) do trong thời gian này giá cả tương đối ổn định, tỷ lệ lạm phát thấp, lòng tin của dân chúng vào sự phát triển của nền kinh tế cao. Tiền gửi dân cư (bao gồm tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu) tính đến 12/2001 tăng lên 344 tỷ VND (1,2%) so với cùng kỳ năm 2000 do Ngân hàng Ngoại thương đã có nhiều biện pháp khai thác và sử dụng tốt nguồn vốn nhàn rỗi trong tầng lớp dân cư. Mặc dù có sự điều chỉnh giảm lãi suất tiết kiệm, các hình thức huy động vốn của các tổ chức tài chính- tín dụng khác như tín phiếu kho bạc với lãi suất cao, song tiền gửi tiết kiệm (chủ yếu là tiết kiệm có kỳ hạn) của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam vẫn tăng. Nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự tăng trưởng của nguồn tiền gửi tiết kiệm là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã áp dụng các công nghệ thiết bị hiện đại làm giảm bớt thời gian chờ đợi của khách hàng, mở thêm nhiều quầy giao dịch để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng khi giao dịch Việc tăng nguồn vốn huy động là tiền gửi của các tổ chức kinh tế cả về tỉ trọng và số lượng tuyệt đối (10793,2) đã tạo thuận lợi cho Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trong việc hạch toán kinh doanh nói chung vì nguồn vốn này có lãi suất thấp. Song lại gây khó khăn cho Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trong công tác đầu tư tín dụng trung dài hạn vì nguồn này về nguyên tắc không được sử dụng để đầu tư tín dụng trung dài hạn Ký các hiệp định tín dụng với các tổ chức tín dụng khác: Ngoài nguồn vốn huy động, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam còn được Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước cho vay. So với tổng nguồn vốn thì tiền vay chiếm tỷ lệ không đáng kể
  43. nhưng là khoản tiền cần thiết để mở rộng tín dụng, nhất là giải quyết khó khăn về ngoại tệ để cho vay nhập máy móc thiết bị. Nguồn vốn tại thị trường liên ngân hàng: Tiền gửi ngoại tệ của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam ở nước ngoài và cho các tổ chức tín dụng vay vẫn tương đối ổn định. Số dư tiền gửi và cho vay ở thị trường này tại thời điểm 31/12/2001 là 26.991 tỷ VND.Thị trường này có độ an toàn cao, song mức sinh lời và hiệu quả kinh tế xã hội thấp so với việc đầu tư trực tiếp cho nền kinh tế quốc dân. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Ngoại thương. 2.2.1. Hoạt động kinh doanh tín dụng: Tổng dư nợ cho vay của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đạt 18.564.803 triệu VND, tăng 866.223 triệu VND hay 5,54% so với năm 2000. Điểm đáng lưu ý là tốc độ tăng trưởng dư nợ kể trên đạt được trong điều kiện năm 2001 Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã sử dụng trên 1000 tỷ đồng từ quĩ dự phòng rủi ro để xử lý các khoản nợ tồn đọng ( ghi giảm khỏi bảng tổng kết tài sản 1000 tỷ dư nợ tồn đọng) đồng thơì chất lượng của các khoản cho vay mới được cải thiện đáng kể. Tỷ lệ nợ tồn đọng giảm từ 17% năm 2000 xuống còn 10%, tỷ lệ nợ quá hạn phát sinhh trong năm 2001 giảm xuống mức thấp nhất từ trước tới nay(3%) Tỷ trọng dư nợ cho vay khách hàng trong tổng tích sản chiếm 23,6%. Tỷ lệ cho vay trung, dài hạn chiếm 31% tổng dư nợ, tăng 9% so với năm 2000. Các doanh nghiệp quốc doanh vẫn là đối tượng cho vay chính chiếm 77,54%. Tuy nhiên tỷ lệ dư nợ tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã được cải thiện đáng kể, tăng 7,8% so với năm 2000. Hoạt động kinh doanh đầu tư dự án Những năm gần đây, tín dụng cuả ngân hàng đầu tư vaò các dự án ngày càng có xu hướng tăng. Thể hiện, tín dụng đầu tư dự án cuả ngân hàng
  44. tăng từ 2516 tỉ VND năm 1999, tới 3102 tỉ năm 2000, và 3439 tỉ VND năm 2001. Tuy nhiên, tỷ lệ % số tiền được duyệt so với tiền mà các chủ dự án xin vay giảm dần qua các năm, từ 61%, 54% trong năm 1999,2000 xuống còn 47% trong năm 2001. Điều này chứng tỏ hoạt động tín dụng đầu tư của ngân hàng đang phát triển vững mạnh. Bên cạnh đó Ngân hàng vẫn không chủ quan mà luôn cố gắng kiểm soát chặt chẽ hoạt động đầu tư, chỉ đầu tư vào những dự án có hiệu quả cao, tránh đầu tư tràn lan như trước đây. Trong năm 2001, số tiều đầu tư vào các dự án tăng khá nhanh, nguyên nhân một phần là do uy tín của Ngân hàng trong lĩnh vực này tăng lên, nhưng phần lớn là nhu cầu vốn tăng mạnh. Vài năm trước, chỉ có những Tổng công ty mới xin vay vốn, nhưng vài năm gần đây, do môi trường đầu tư thông thoáng hơn, Nhà nước đã giảm bớt những ưu tiên quá mức đối với các nhà đầu tư nước ngoài, chính điều này đã kích thích một số doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng xin vay vốn để thực hiện dự án đầu tư. Hoạt động kinh doanh bảo lãnh Hiện nay, nghiệp vụ bảo lãnh trong nước của Ngân hàng Ngoại thương là tương đối an toàn và hiệu quả. Nghiệp vụ này được thực hiện ở hầu hết các chi nhánh trong toàn hệ thống. Dư nợ bảo lãnh nước ngoài giảm 21% so với năm 2000. Nợ quá hạn giảm 12,7 triệu USD tương ứng với 31% so với năm trước. Dư nợ bảo lãnh trong năm 2001 giảm nhiều do Ngân hàng Ngoại thương thực hiện một số biện pháp sau: * Tiếp tục thực hiện việc hạn chế bảo lãnh nhập hàng trả chậm theo chủ trương của Ngân hàng Nhà nước để giảm thiểu rủi ro.
  45. * Kiểm soát chặt chẽ những khoản bảo lãnh mới. Hầu hết các trường hợp Ngân hàng Ngoại thương đều yêu cầu ký quỹ 100%, trừ việc mở thư tín dụng hàng gia công. *Tích cực tìm biện pháp giải quyết nợ tồn đọng nên đã xử lý được 2 món nợ lớn trị giá 12 triệu USD. Hoạt động kinh doanh ngoại hối Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng Ngoại thương năm 2001 diễn ra trong tình hình cung cầu ngoại tệ có nhiều khó khăn. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu giảm, tỷ giá gia tăng liên tục, tỷ lệ kết hối giảm, tỷ lệ nhập siêu còn cao cộng thêm diễn biến phức tạp trên thị trường tiền tệ quốc tế ttrong năm đã ảnh hưởng phần nào tới doanh số mua ngoại tệ. Tuy nhiên, do áp dụng linh hoạt các hình thức kinh doanh như hoán đổi, kỳ hạn và với phương châm hạn chế rủi ro, tập trung kinh doanh phục vụ khách hàng, Ngân hàng Ngoại thương vẫn điều hoà được cung cầu ngoại tệ trong hệ thống, góp phần bình ổn thị trường tiền tệ trong nước. Hoạt động kinh doanh thanh toán quốc tế Hoạt động thanh toán, đặc biệt là thanh toán xuất nhập khẩu là thế mạnh của Ngân hàng Ngoại thương. Năm 2001 Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chiếm 30,2% thị phần thanh toán xuất nhập khẩu của cả nước vượt chỉ tiêu đề ra (29%). Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu tăng 1,7% so với nam 2000, trong đó doanh số thanh toán xuất khẩu tăng 7,7%, chiếm 29,7% thị phần xuất khẩu cả nước, doanh số thanh toán nhập khẩu giảm 3,3%, chiếm 31,2% thị phần cả nước. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong lĩnh vực thanh toán sử dụng mang SWIFT với khả năng xử lý tự động, độ an toàn và chính xác cao cùng với mức phí hấp dãn.
  46. Hoạt động đầu tư tài chính của Ngân hàng Ngoại thương. 1.3.1. Hoạt động đầu tư chứng khoán. Tuy đầu tư chứng khoán là một hoạt động mới của Ngân hàng Ngoại thương, nhưng qua một thời gian hoạt động, nó đã chứng tỏ đây là một hoạt động có khả năng phát triển cao, mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng. Với phương châm đa dạng hoá các hoạt động ngân hàng, năm 2001, hoạt động đầu tư chứng khoán của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực, tăng gấp 2 lần so với năm 2000. Doanh thu đầu tư chứng khoán năm 2001 là 5.201.134 triệu VND, trong đó mua trái phiếu của các tổ chức tín dụng trong nước là 238.150 triệu VND, mua tín phiếu trái phiếu Kho bạc Nhà nước là 1.556.410 triệu VND. Đặc biệt đầu tư chứng khoán nước ngoài tăng gấp 7 lần từ 2.461.963 triệu VND năm 2000 tới 5.201.134 triệu VND năm 2001. . Hoạt động ngân quỹ Mặc dù khối lượng ngoại tệ công việc tăng nhưng công tác ngân quỹ của Ngân hàng Ngoại thương vẫn đảm bảo an toàn tuyệt đối. Trong năm 2001, không xảy ra trường hợp mất quỹ nào, cán bộ kiểm ngân liêm khiết đã trả lại tiền thừa cho khách hàng 765 món với tổng số tiền là 1519 triệu VNĐ và 162100 USD. Nhờ nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, năm 2001 toàn hệ thống đã phát hiện được 152 triệu VNĐ và 5900 USD giả. Ngân hàng đã mở các khoá đào tạo bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ cho cán bộ là công tác ngân quỹ để nắm bắt kịp thời những cái mới, phục vụ tốt hơn cho công việc. II. Thực trạng công tác thẩm định tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam: 1. Qui trình thẩm định của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam:
  47. Đối với các ngân hàng nói chung và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nói riêng, việc thẩm định các dự án tín dụng đầu tư đóng vai trò rất quan trọng trong việc ra quyết định có cho vay hay không. Để đảm bảo công tác thẩm định đạt hiệu quả cao, thẩm định tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam tuân theo qui trình chặt chẽ sau: 1.1. Thẩm định hồ sơ pháp lý. Hồ sơ pháp lý trước hết cần được cung cấp theo hướng dẫn tại điều 7 và 14 tại quyết định 407/QĐ- NHNT- HĐQT ngày 29/03/2002, gồm các vấn đề sau: Tên gọi, địa chỉ, fax của doanh nghiệp Giấy phép, quyết định thành lập Lĩnh vực hoạt động SXKD Các giáy phép chuyên nghành (nếu có) Tài khoản giao dịch tại các tổ chức tín dụng đồng thời là số dư và quan hệ vay trả với các ngân hàng khác nếu có (có thể kiểm tra qua Phòng Thông tin Tín dụng) Đặc biệt quan trọng là tư cách giám đốc (các vấn đề quan tâm: tuổi tác, trình độ học vấn, sức khoẻ, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh, và các mối quan hệ xã hội liên quan ) Kế toán trưởng (tuổi, trình độ, khả năng ứng dụng tin học ) Các đơn vị trực thuộc và số lao động của toàn doanh nghiệp. 1.2. Phân tích tình hình tài chính và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp a. Phân tích và nhận xét về tình hình tài chính của doanh nghiệp:  Tình hình tài sản và vốn của doanh nghiệp:
  48. - Tổng số vốn tự có: lưu động và cố định - Tổng dư nợ vay và bảo lãnh tại các tổ chức tín dụng, có thể lập bảng kê để theo dõi.  Tình hình công nợ hiện tại: - Tổng số nợ phải thu - Tổng số nợ phải trả  Nhận xét những đặc điểm và biến động của báo cáo tài chính qua các năm và rút ra nhận xét về quan hệ đối với các tổ chức tín dụng. b. Phân tích các chỉ tiêu tài chính chủ yếu của doanh nghiệp : Có 4 nhóm chỉ tiêu chính cần quan tâm:  Các chỉ tiêu về cơ cấu tài chính, còn được gọi là chỉ tiêu về đòn bẩy tài chính (leverage ratios), cho thấy mức độ nợ nần của doanh nghiệp. - Hệ số nợ tổng tài sản = Tổng nợ phải trả/ Tổng tài sản - Hệ số nợ vốn cổ phần = Tổng nợ phải trả/ Tổng vốn chủ sở hữu - Hệ số khả năng thanh toán lãi vay = (Lợi nhuận trước thuế + Lãi vay)/Lãi vay - Hệ số cơ cấu tài sản = TSCĐ hoặc TSLĐ/ Tổng tài sản - Hệ số cơ cấu nguồn vốn = Tổng vốn chủ sở hữu/ Tổng nguồn vốn  Các chỉ tiêu về tình hình và khả năng thanh toán, còn được gọi là các chỉ tiêu thanh khoản (liquidity ratios) nhằm thấy được khả năng thanh toán nhanh, bằng tiền mặt của doanh nghiệp: - Hệ số thanh toán ngắn hạn = Tài sản Lưu động/ Nợ ngắn hạn. - Hệ số thanh toán nhanh = (Vốn bằng tiền + các khoản phải thu)/ Nợ ngắn hạn.
  49. - Hệ số thanh toán tức thời = Vốn bằng tiền/ Nợ đến hạn  Các chỉ tiêu về khả năng lợi nhuận và năng lực hoạt động (profitability ratios) được sử dụng đẻ xem xét tính hiệu quả của doanh nghiệp trong việc sử dụng các tài sản: - Hệ số sinh lợi doanh thu = Lợi nhuận sau thuế/ Doanh thu thuần. - Hệ số sinh lợi của tài sản = (Lợi nhuận sau thuế + Tiền lãi phải trả)/ Tổng tài sản. - Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu = Lợi nhuận sau thuế/ Vốn chủ sở hữu. - Vòng quay hàng tồn kho = Giá vốn hàng bán/ Hàng tồn kho. - Vòng quay vốn lưu động = Doanh thu thuần/ TSLĐ - Hiệu suất sử dụng TSCĐ = Doanh thu thuần/ TSCĐ - Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = Doanh thu thuần/ Tổng tài sản. - Kỳ thu tiền bình quân = Các khoản phải thu/ Doanh thu bình quân một ngày  Các chỉ tiêu về phân phối lợi nhuận, còn gọi là các tỷ suất giá trị thịt trường (market value ratios) cho thấy doanh nghiệp được các nhà đầu tư đánh giá ở mức độ như thế nào - Thu nhập cổ phần = Lợi nhuận sau thuế/ Số lượng cổ phiếu thường - Cổ tức = Lợi nhuận đem chia/ Số lượng cổ phiếu thường - Tỷ lệ trả cổ tức = Cổ tức/ Thu nhập cổ phiếu. c. Tình hình SXKD của doanh nghiệp:
  50. Các loại sản phẩm hàng hoá đang sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Đánh giá tình trạng thiết bị, máy móc hiện có Đánh giá về số lượng, chất lượng sản phẩm chủ yếu, thị trường tiêu thụ Tình hình hàng tồn kho Doanh số hoạt động và kết quả kinh doanh trong 3 năm gần đây Từ đó nhận xét về xu hướng phát triển sản xuất kinh doanh và khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. 1.3. Thẩm định dự án đầu tư mới 1.3.1. Thẩm định tính pháp lý của dự án đầu tư mới: Theo quy định hiện hành tại quyết định số 1627/QĐ- NHNN ngày 31.12.2001 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và QĐ số 407/QĐ- NHNT- HĐQT ngày 29.03.2002 về Hướng dẫn của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam về quy chế cho vay đối với khách hàng (Nêu tên và kiểm tra tính pháp lý và đồng bộ, đầy đủ các loại giấy tờ trong bộ hồ sơ). Tập trung: Nghị quyết của HĐQT, hoặc Giám đốc công ty về việc đầu tư mới. Nếu có cơ quan chủ quản thì cần có Quyết định đầu tư từ cơ quan chủ quản. Địa điểm đầu tư và những phê duyệt giấy tờ (nếu có) liên quan đến địa đIểm (có thể là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Hợp đồng thuê đát, quyết định giao đất, giấy phép con của một số ngành nghề bắt buộc). 1.3.2. Thẩm định về mặt kỹ thuật, thực hiện:
  51. 1.3.2.1. Nhận xét chung: 1.3.2.2. Tên dự án : 1.3.2.3. Tổng chi phí đầu tư và nguồn vốn: a. Tổng vốn đầu tư dự án b. Nguồn vốn: Vốn tự có của doanh nghiệp tham gia dự án mới Nguồn vốn vay Các nguồn vốn khác (Lập bảng và tính tỷ trọng%) c. Mục đích sử dụng vốn vay d. Cơ cấu tổng mức đầu tư chia theo hạng mục (tài sản: Nhà xưởng, máy móc thiết bị, vốn lưu động): Lập bảng và tính tỷ trọng%. Đối với các dự án đầu tư mới, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chỉ xem xét cho vay dự án khi vốn tự có của chủ đầu tư chiếm trên 20% tổng vốn đầu tư. Đối với trường hợp cho vay theo chương trình tài trợ xuất khẩu bằng nguồn vốn vay các ngân hàng nước ngoài thì vốn tự có không thấp hơn 15%. Đối với trường hợp cho vay đầu tư cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ một phần thiết bị hiện có, hoặc mở rộng sản xuất, hợp lý hoá sản xuất với số vốn vay không lớn hơn tổng giá trị tài sản hiện có của chủ đầu tư, thì vốn tự có tham gia dự án có thể không đặt ra nếu dự án đó có hiệu quả, khả năng trả nợ chắc chắn và có đủ tài sản thế chấp. e. Phương thức cho vay dự kiến: 1.3.3 Tổ chức xây dựng dự án :
  52. Đối với dự án của doanh nghiệp nhà nước, phải đảm bảo thực hiện đúng theo Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 08/07/1999 của Chính phủ về ban hành Quy chế Quản lý Đầu tư và Xây dựng Kế hoạch mua sắm thiết bị phải tuân theo Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 01.09.1999 về Quy chế đấu thầu 1.3.4 Thẩm định khả năng cung cấp đầu vào của sản xuất a. Nguồn cung cấp nguyên vật liệu cho dự án: - Các nguyên liệu chính, các nguyên liệu phụ: xác định nguồn cung cấp trong nước, ngoài nước - Chất lượng nguyên liệu có đáp ứng chất lượng sản phẩm không? - Yêu cầu dự trữ nguyên vật liệu b. Nguồn cung cấp điện, nhiên liệu - Hiện trạng cung cấp điện, nước của địa phương, nguồn cung cấp có ổn định không? - Các giải pháp về nguồn cung cấp điện, cấp nước, thoát nước, nhiên liệu để đảm bảo phát huy hết công suất thiết bị và ổn định lâu dài. c. Nguồn cung cấp lao động: - Nhu cầu lao động cho dự án mới - Sử dụng lao động hiện có hay tuyển mới, giải quyết lao động dư thừa. - Trình độ lao động tại địa phương, tổ chức đào tạo như thế nào?
  53. - Tình hình thu nhập bình quân của công nhân tại địa phương, thu nhập bình quân của nhân dân sở tại, tốc độ phát triển thu nhập trong một số năm gần đây để tính toán chi phí đưa vào dự án cho phù hợp. d. Phân tích các yếu tố đầu vào khác của sản xuất như nguồn cung cấp bao bì, phụ tùng thay thế 1.3.5 Thẩm định thị trường tiêu thụ sản phẩm a. Xác định nhu cầu thị trường (cầu) hiện tại và tương lai: - Nhu cầu thị trường hiện tại: Thị trường trong nước (lưu ý các sản phẩm cùng loại, mùa, thời vụ tiêu thụ), thị trường ngoài nước (hợp đồng bao tiêu, hợp đồng mua sản phẩm ), xác định thói quen, tập quán tiêu dùng. - Xác định nhu cầu thị trường tiêu thụ trong tương lai khi dự án đi vào hoạt động: Xác định số lượng đã tiêu dùng trong 3-5 năm gần đây, tìm quy luật biến động, dự kiến nhu cầu trong tương lai bằng cách xác định tốc độ tăng trưởng bình quân. b. Xác định khả năng cung cấp hiện tại và trong tương lai - Xác định các nguồn cung cấp hiện tại : nguồn cung cấp trong nước (công suất, sản lượng các nhà máy hiện có, khả năng tự cung cấp trong dân), nguồn nhập khẩu (chính ngạch, tiểu ngạch, nhập lậu) - Xác định nguồn cung cấp trong tương lai: nguồn cung cấp trong nước (các nhà máy đang sản xuất và khả năng sẽ mở rộng công suất, các nhà máy đanh và sẽ được đầu tư mới, dự kiến khả năng tự cung, tự cấp trong dân cư), nguồn nhập khẩu (ước tính mức nhập khẩu). c. So sánh cung và cầu:
  54. - Cần so sánh giá thành sản phẩm, giá bán sản phẩm của dự án với giá cả thị trường hiện tại, tương lai để xác định khả năng chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm mới. - So sánh chất lượng, giá cả với hàng hoá cùng loại sản xuất trong nước và nhập khẩu. 1.3.3. Thẩm định kế hoạch sản xuất kinh doanh 1.3.3.1. Xác định công suất của thiết bị có thể đạt được trong thời gian vay nợ ngân hàng: a. Công suất lý thuyết: b. Công suất khả dụng: 1.3.3.2. Xác định doanh thu theo công suất dự kiến: a. Xác định giá bán bình quân: sản phẩm bán ra theo phương thức gì? Bán buôn hay bán lẻ? Giá bán hiện tại là bao nhiêu? So sánh với giá bán các sản phẩm tiêu thụ trên thị trường. Giá bán sản phẩm cao hay thấp gắn liền với chất lượng sản phẩm, uy tín, tên, nhãn, mác của sản phẩm. Đơn giá bán bình quân tính theo phương pháp bình quân số học gia quyền như sau: n P : đơn giá sản phẩm PiQi i  loại i i 1 Đơn giá bán bình quân = n Qi: số lượng sản phẩm  Qi loại i i 1 n: số loại sản phẩm b. Xác định khối lượng sản phẩm tiêu thụ trong năm: Sau khi đã xác địnhđược sản lượng sản xuất ra trong năm kế hoạch,
  55. ước tính tỷ lệ tồn kho cuối kỳ, tính được sản lượng tiêu thụ trong năm kế hoạch c. Xác định doanh số tiêu thụ trong năm kế hoạch: n Doanh số tiêu thụ =  PiQi i 1 Pi: đơn giá sản phẩm loại i Qi: số lượng sản phẩm loại i n: số loaị sản phẩm 1.3.3.3. Xác định Chi phí đầu vào theo công suất có thể đạt đươc trong thời gian trả nợ a. Chi phí biến đổi (biến phí): là những chi phí biến động tỷ lệ thuận với khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ. Chi phí biến đổi bao gồm nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu, đIện nước, bao bì đóng gói, tiền lương công nhân trực tiếp sản xuất, phụ tùng thay thế, lãi vay ngắn hạn Ngân hàng, chi phí vận chuyển, bốc dỡ, chi phí yiếp thị, quảng cáo, chi phí quản lý xí nghiệp, thuế doanh thu. b. Chi phí cố định (định phí): là những chi phí không thay đổi theo sự biến đổi của sản lượng sản xuất và tiêu thụ. Định phí gồm: khấu hao tài sản cố định, chi phí bảo trì, sửa chữa máy móc định kỳ, chi phí thuê mướn đất đai, nhà xưởng, tiền lãi vay trung, dài hạn, chi phí quản lý xí nghiệp, chi phí thành lập doanh nghiệp, phí bảo hiểm tài sản cố định và kho nguyên vật liệu, thành phẩm, lương công nhân (lao động gián tiếp), công tác phí, các khoản phải trả cố định hàng năm. Chi phí hàng năm = Định phí + Biến phí 1.3.4. Thẩm định dự án về mặt tài chính: 1.1.3.4.1. Khả năng trả nợ:
  56. Tổng doanh thu- Tổng chi phí = Lãi gộp Lãi gộp- Thuế lợi tức = Lợi nhuận ròng Tỷ lệ lợi nhuận ròng dùng để trả nợ ngân hàng: tuỳ theo tính chất của từng doanh nghiệp, lợi nhuận ròng dùng để trả nợ là phần lợi nhuận còn lại sau khi doanh nghiệp đã trích quỹ khen thưởng và phúc lợi theo quy định của Nhà nước, hoặc quyết định của Hội đồng Quản trị. Nguồn trả nợ vay = Số khấu hao cơ bản + Phần lợi nhuận ròng dùng để trả nợ + các nguồn khác (như thuế lợi tức được để lại, lợi nhuận kinh doanh phụ khác) + Tính thời gian hoàn vốn đầu tư (T): Tổng vốn đt T = KHCB + 50%Lợi nhuận bình quân + nguồn khác Thời gian hoàn trả vốn vay (Tv): Tổng vốn vay trung, dài hạn Tv = KHCB + 50%Lợi nhuận bình quân + nguồn khác Từ các thông tin thu thập được, lập bảng phân tích tổng hợp hiệu quả khả năng trả nợ của dự án, qua đó ta biết được thời gian hoàn vốn, dự án có tự trả được nợ đúng hạn hay không, bao lâu thì thu hồi được vốn vay, kỳ nợ nào trả được, kỳ nào thiếu, biện pháp bù đắp thiếu hụt như thế nào 1.3.4.2. Phân tích điểm hoà vốn: - Xác định sản lượng hoà vốn: - Xác định doanh số (doanh thu ) hoà vốn: - Điểm hoà vốn tiền tệ
  57. - Điểm hoà vốn trả nợ 1.3.4.3. Tính hiện giá thuần (còn gọi là giá trị hiện tại ròng, NPV( net present value): 1.3.4.4. Hệ số thu hồi vốn nội tại (Internal Rate of Return- IRR) 1.3.4.5. Phân tích các trường hợp rủi ro có thể xảy ra đối với dự án : - Rủi ro có nguyên nhân từ hoạt động sản xuất kinh doanh của bản thân doanh nghiệp. - Rủi ro từ nội bộ ngành sản xuất - Rủi ro kinh doanh từ môi truờng kinh tế vĩ mô - Các dự tính hạn chế rủi ro có thể có. - Lưu ý: Việc chỉ ra các rủi ro này một cách định tính song cũng nên tiến hành phân tích định lượng, thể hiện qua phân tích độ nhạy (sensitive analysis) qua phân tích và dự báo với những thay đổi trong đầu vào và đầu ra. - Những trường hợp chuẩn: Tăng giảm 5%, 10%, 15% của sản lượng, biến phí, đơn giá bán 1.4. Thẩm định điều kiện bảo đảm tiền vay 1.4.1. Các trường hợp bảo đảm tiền vay (theo Nghị định 178 và Thông tư 06):Thực tế khi dự án đi vào vận hành sẽ gặp nhiều biến cố mà chủ đầu tư cũng như ngân hàng không thể lường hết trước được như các điều kiện thay đổi thị trường, giá cả, cơ chế chính sách, thiên tai Do vậy, để đảm bảo an toàn khả năng trả nợ nước ngoài khi đến hạn, Ngân hàng thường yêu cầu chủ đầu tư thực hiện một số biện pháp như ký quỹ, thế chấp cầm cố tài sản, có bảo lãnh của người thứ ba Tuỳ theo từng loại khách hàng có tín nhiệm nhiều hay ít, khả năng tài chính mạnh hay yếu, tính hiệu quả kinh tế và khả năng trả nợ của dự án
  58. theo phương pháp thẩm định trên đây tin cậy nhiều hay ít , các doanh nghiệp có thể ký quỹ với tỷ lệ khác nhau. Đối với các trường hợp thế chấp tài sản thông thường: Theo đúng quy định hiện hành tại quyết định số 217 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và Thông ty liên bộ 01/TT Bộ Tài chính-Ngân hàng Nhà nước- Bộ Tư pháp, và quyết định số 07/NHNT của Tổng giám đốc Ngân hàng Ngoại thương về thế chấp, cầm cố tài sản, bảo lãnh vay vốn nước ngoài. Đối với trường hợp thế chấp bằng chính dự án đầu tư vay vốn Ngân hàng Ngoại thương, về nguyên tắc Ngân hàng Ngoại thương có thể chấp thuận nhưng phải có sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền. Trường hợp này cần xác định rõ giá trị tài sản và cơ sở pháp lý để Ngân hàng Ngoại thương có thể phát mại được tài sản thế chấp và tiền phát mại có thể đủ để trả nợ vay Ngân hàng Ngoại thương. 1.4.2. Xác định tính pháp lý và trị giá tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh: Trị giá thiết bị nhập khẩu phân ra 2 phần, phần vật chất (TSCĐ) và phi vật chất (TSCĐ vô hình), trên thực tế, những dự án phi vật chất chiếm tới 45% tổng trị giá hợp đông nhập thiết bị, vì phần phi vật chất sẽ không thu được tiền khi phát mại nên ngân hàng chỉ chấp thuận tính giá trị phần vật chất làm giá trị đảm bảo vốn vay. Phần vật chất gồm tổng giá trị mua các thiết bị lẻ, giá phụ tùng thay thế kèm theo hoặc mua thêm để dự phòng giá trị tài sản vật chất tính theo giá CIF. Phần phi vật chất như chi phí đào tạo, chuyển giao công nghệ, chi phí hoa hồng, lãi vay, chi phí chuyên gia, chi phí tham quan khảo sát không được tính là giá trị đảm bảo vay vốn vì khi phát mại phần phi vật chất không bán được. 1.4.3. Phân tích khả năng kiểm soát và tính thanh khoản của tài sản
  59. Lưu ý: Những câu hỏi cần được đặt ra khi xem xét tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh (tài sản): - Phải có giá trị thực tế: Giá trị của tài sản được đưa ra là bao nhiêu? - Phải có khả năng bán được- nếu cần thiết tài sản đó có thể được ngân hàng bán và như vậy thì số tiền bán được sẽ là bao nhiêu? - Người xin vay có quyền sở hữu rõ ràng đối với tài sản đó không? - Tài sản đó được giữ, cất ở đâu? - Tài sản được đưa ra làm bảo đảm có được chấp thuận không? - Tài sản đó có dễ bị hư hỏng không? Và có nhanh xuống giá không? 1.5. Phần kết luận: 1.5.1. Nêu các điểm thuận lợi nếu đầu tư vào Dự án: 1.5.2. Các điểm khó khăn, rủi ro nếu đầu tư vào Dự án: 1.5.3. Kết luận: - Nêu rõ ý kiến đề nghị đồng ý hay từ chối cho vay của cán bộ tín dụng. - Ghi ý kiến của Trưởng phòng Tín dụng đồng ý hay từ chối cho vay. - Ý kiến quyết định của giám đốc chi nhánh. ( Lưu ý: trong phần kết luận cần nêu cụ thể số tiền cho vay, phương thức cho vay, lãi suất và các khoản phí nếu có )
  60. 2. Đánh giá chung về hoạt động thẩm định tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Công tác thẩm định dự án tín dụng đầu tư của Ngân hàng Ngoại thương đã đạt được những bước tiến rõ rệt, điều đó được thể hiện qua doanh số tín dụng đầu tư tăng lên, nợ quá hạn và các dự án thất bại giảm đáng kể. Ngân hàng đã giành được nhiếu dự án tín dụng đầu tư quan trọng như dự án của Tổng Công ty Bưu chính viễn thông, Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam, Tổng Công ty điện Vị thế của Ngân hàng trong lĩnh vực này nhờ đó cũng được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, trong điều kiện cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt, Ngân hàng Ngoại thương cần phải cố gắng hơn nữa để hoạt động có hiệu quả. Hiện nay ngân hàng nước ngoài còn bị hạn chế bởi một số chính sách qui định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhưng trong thời gian tới khi Hiệp định thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực, Việt Nam sẽ tham gia các tổ chức tài chính, thương mại lớn trong khu vực và thế giới thì các chính sách hạn chế này sẽ không còn duy trì được nữa. Điều đó cũng có nghĩa là các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ phải cạnh tranh bình đẳng với các ngân hàng nước ngoài khi mà họ có rất nhiều lợi thế, nhất là về công nghệ và dịch vụ ngân hàng. Như vậy để tồn tại được trên một “sân chơi bình đẳng”, Ngân hàng Ngoại thương cần phải nhận thức được những mặt mạnh và yếu của mình, từ đó có phương hướng điều chỉnh cho phù hợp 2.1. Những mặt đã đạt được. 2.1.1. Về quy trình và phương pháp thẩm định. Nếu như trước đây, công tác thẩm định ở Ngân hàng Ngoại thương còn thô sơ, ít kinh nghiệm, thường chỉ xem xét trên góc độ tài chính bằng một số chỉ tiêu giản đơn, thì hiện nay phương pháp thẩm định dã mang tính khoa học với cách nhìn toàn diện hơn, kỹ thuật thẩm định được hoàn thiện dần cả về phương pháp luận và thực tiễn. Ngân hàng đã thiết lập
  61. được một hệ thống chỉ tiêu đa dạng, bao trùm trên nhiều khía cạnh của dự án, vai trò của các yếu tố định tính cũng được chú trọng. Phương pháp tính toán mang tính khoa học, tiến tới đáp ứng với những quy chuẩn quốc tế về kỹ thuật thẩm định nhưng vẫn phù hợp với thực trạng kinh tế- xã hội ở Việt Nam. Vì vậy, các doanh nghiệp, chủ dự án dễ dàng so sánh đối chiếu với phương án tính toán của họ để quyết định có chấp nhận những điều khoản mà ngân hàng đưa ra trong hợp đồng tín dụng về mức vay vốn, thời gian trả nợ, lãi suất hay không. Nội dung thẩm định cũng rất đa dạng, cho phép đánh giá được thực trạng của doanh nghiệp: thẩm định trước khi cho vay, trong khi cho vay và kiểm tra sau khi cho vay. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính như NPV, IRR, thời gian hoàn vốn. . . đã được đề cập trong các dự án đầu tư thay vì chỉ có các chỉ tiêu về mức sinh lợi và nguồn trả nợ của dự án. Chính điều này đã góp phần quan trọng làm cho kết qủa thẩm định được toàn diện và chính xác hơn. Vấn đề giá trị thời gian của tiền được quan tâm và đưa vào nội dung thẩm định tài chính dự án đầu tư. Dự án không chỉ được xem xét ở trạng thái tĩnh mà còn được phân tích trong trạng thái động, nhờ đó cán bộ thẩm định có thể phân tích được dự án trong mối tương quan với các sự vật, hiện tượng khác. 2.1.2. Về thiết bị thông tin. Ngân hàng Ngoại thương luôn chú trọng tới công tác nâng cao chất lượng máy móc, trang thiết bị nhằm đáp ứng tốt nhất cho hoạt động của Ngân hàng. Hiện nay, ngân hàng đã trang bị các loại máy tính hiện đại cho cán bộ thẩm định, đảm bảo trong mỗi phòng thẩm định 2 người/máy. Ngoài ra, mỗi cán bộ thẩm định đều được trang bị một tính máy kỹ thuật tài chính cầm tay rất thuận tiện cho việc tính toán các chỉ tiêu tài chính. Một số phần mềm ứng dụng cho soạn thảo, tính toán, lưu trữ đã được đưa vào
  62. sử dụng hỗ trợ cho các hoạt động thẩm định, làm tăng đáng kể tốc độ và tính chính xác của các chỉ tiêu. Nguồn thông tin thu thập được cũng ngày càng phong phú giúp cho việc phân tích đánh giá dự án chính xác hơn. Trước đây, thông tin chủ yếu thu thập từ phía khách hàng vay vốn, dựa vào các số liệu trên báo cáo quyết toán của khách hàng, kết hợp phỏng vấn và khảo sát thực địa nên không đầy đủ và thiếu chính xác. Hiện nay, nguồn thông tin được mở rộng và phong phú hơn nhiều. Thông tin không những được thu thập từ phía khách hàng mà còn từ các tài liệu phân tích thị trường trong và ngoài nước, các bộ luật, văn bản dưới luật có liên quan, các sách, báo, tạp chí, các phương tiện thông tin đại chúng, qua Trung tâm dữ liệu của Ngân hàng Nhà nước (CIC) Nhờ đó, Ngân hàng luôn cập nhật được về tình hình hoạt động của doanh nghiệp, cũng như tình hình về sản phẩm, công nghệ, thị trường cho dự án . Ngoài ra, để nâng cao chất lượng thu thập và xử lý thông tin, Ngân hàng đã mở rộng đầu tư nâng cấp hệ thông tin học, đặc biệt thông qua triển khai dự án “VCB- Tầm nhìn 2010” (VCB-VISION 2001). Việc tổ chức nối mạng trực tuyến giữa các chi nhánh với Hội Sở chính đã đáp ứng nhu cầu sử dụng sử dụng các dịch vụ ngân hàng của khách hàng ở bất cứ đơn vị thành viên nào trong hệ thống của Ngân hàng Ngoại thương. Đây chính là tiền đề quan trọng để Ngân hàng Ngoại thương tiếp tục triển khai một loạt các ứng dụng công nghệ tiên tiến như tăng cường hệ thống thông tin quản lý (MIS). 2.1.3. Về đội ngũ cán bộ. Cán bộ được coi là nền tảng quan trọng trong chiến lược trong chiến lược phát triển của Ngân hàng Ngoại thương. Ban lãnh đạo Ngân hàng đã tổ chức nhiều lớp đào tạo, đào tạo lại cán bộ thông qua các hội nghị chuyên đề, lớp tập huấn trong nước và các khoá học ngắn, dài hạn ở nước ngoài.
  63. Phần lớn các cán bộ thẩm định tại Ngân hàng đều có trình độ đại học và trên đại học. Tại Phòng dự án TW có một cán bộ là tiến sỹ, một thạc sỹ. Tại phòng Thẩm định và Đầu tư chứng khoán có một tiến sỹ và 3 thạc sỹ. Đội ngũ cán bộ thẩm định trẻ trung, nhiệt tình, năng động và có trình độ chuyên môn vững vàng là một nguồn tài nguyên quý giá của Ngân hàng Ngoại thương. 2.1.4. Về tổ chức điều hành. Quy trình thẩm định tại Ngân hàng Ngoại thương đã được xây dựng hoàn thiện từ trung ương tới chi nhánh. Những dự án có tầm quan trọng đặc biệt, đòi hỏi nguồn vốn lớn vượt quá mức phán quyết của chi nhánh đều gửi tới bộ phận tái thẩm định ở Ngân hàng TW thẩm định lại. Vì thế, các thông tin, kết quả thẩm định được sàng lọc, kế thừa và có độ chính xác cao. 2.2. Những vấn đề còn tồn tại trong công tác thẩm định. Tuy đã có nhiều thành tựu, nhưng công tác thẩm định dự án tín dụng đầu tư của Ngân hàng Ngoại thương còn không khỏi có những thiếu sót dẫn đến hiệu quả của hoạt động tín dụng đầu tư còn chưa cao. Cụ thể tính đến 31/12/2001 thì trong dư nợ tín dụng đầu tư của Ngân hàng Ngoại thương có tới 117,6 tỷ VND nợ quá hạn (chiếm 21% tổng số nợ quá hạn của Ngân hàng Ngoại thương), nợ khoanh là 260,8 tỷ VND chiếm 18,8% tổng số nợ khoanh của Ngân hàng) trong đó có 76,6 tỷ VND là không thể thu hồi. Các khách hàng có nợ khoanh (159 doanh nghiệp) chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước (99%). Nợ chờ xử lý là 44,6 tỷ. Các doanh nghiệp có số nợ chờ xử lý lớn là các công ty trách nhiệm hữu hạn, các doanh nghiệp tư nhân và các cá thể, các doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm 23% số nợ chờ xử lý.
  64. Đặc biệt, những sai lầm trong công tác thẩm định thời gian qua khiến Ngân hàng Ngoại thương không thể thu hồi vốn đầu tư trong vụ Minh Phụng - Epco và vụ công ty dệt Nam Định đã hưởng không ít tới uy tín cuả Ngân hàng. Trước thực trạng trên đòi hỏi Ngân hàng phải có phương án đối phó mà trước hết, Ngân hàng cần phải nhận thức được những vấn đề còn tồn tại để đưa ra yếu sách hợp lý. 2.2.1. Về phương pháp thẩm định. Tuy hệ thống chỉ tiêu là nội dung chính trong phương pháp thẩm định dự án tín dụng đầu tư, song nó chỉ mang tính hình thức, như là một thủ tục phải có, là con số để tham khảo, ít có giá trị trong việc đánh giá hiệu quả dự án. Việc kiểm tra tính chính xác của các số liệu không được tiến hành một cách tỉ mỉ, đôi khi ngân hàng chấp nhận một cách thụ động những số liệu do chủ dự án đưa ra. Trong nhiều trường hợp, các chỉ tiêu bị bỏ qua, vấn đề giá trị thời gian của tiền vẫn chưa đựơc quan tâm đúng mức. Các chỉ tiêu được dùng khi thẩm định chỉ ở trạng thái tĩnh, các con số gộp, tổng cộng mà không trong trạng thái động như bản thân quá trình diễn biến của dự án. Ngân hàng Ngoại thương chưa có một hệ số định mức tiêu chuẩn cho các chỉ tiêu hiệu quả tài chính ở từng ngành từng lĩnh vực mà các chỉ tiêu này mang tính ước lệ là chủ yếu. Sau khi xác định hệ thống chỉ tiêu cần thiết thì phải xây dựng cách thức tính toán các chỉ tiêu này cho phù hợp. Đây chính là vấn đề mà Ngân hàng Ngoại thương phải xem xét lại. Các chỉ tiêu thẩm định xét về nội dung hầu hết được xây dựng tính toán từ các thành phần liên quan đến doanh thu và chi phí của dự án. Hiệu quả của dự án là sự so sánh giữa hai kết quả trên, do đó, có xác định chính xác hai yếu tố trên trong từng trường hợp mới đánh giá đúng hiệu quả của dự án đầu tư. Khi xác định doanh thu và chi phí cần phải nắm vững tất cả các khoản có thể phát sinh
  65. từ các loại doanh thu và chi phí chung đến tất cả các loại doanh thu và chi phí riêng có của các dự án đặc thù. Một số tính toán chi phí trong xây dựng chủ yếu dựa trên định mức của Nhà nước, trong đó có những định mức không còn phù hợp với những định mức thực tế việc đánh giá dự án mới chỉ dừng lại ở mặt tĩnh, các đánh giá về yếu tố ảnh hưởng đến dự án như lạm phát ít được tính tới. 2.2.2. Thông tin. Trước đây, các ngân hàng cho vay chỉ dựa vào mối quan hệ cá nhân và những hiểu biết đầy đủ của ngân hàng về khách hàng. Ngày nay, những hiểu biết này là không thể hoặc không có tính thực tiễn, do các doanh nghiệp ngày càng phức tạp và các nhà quản lý cũng vạch ra những kế hoạch dài hạn hơn. Kết quả là, ngân hàng phải tìm kiếm những nguồn thông tin khác về khách hàng để đảm bảo rằng ngân hàng có thể phân tích được tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nguồn thông tin chủ yếu phục vụ cho hoạt động thẩm định thường lấy từ hồ sơ xin vay vốn của khách hàng, từ luận chứng kinh tế- kỹ thuật mà khách hàng cung cấp. Ngoài ra, Ngân hàng cũng chú ý sử dụng những nguồn thông tin khác như thông tin từ phỏng vấn khách hàng và khảo sát thực tế của cán bộ ngân hàng. Thông tin từ sách báo, tạp chí . . . thông tin từ bạn hàng của chủ đầu tư, thông tin từ trung tâm thông tin CIC của Ngân hàng Nhà nước cũng đóng vai trò quan trọng trong công tác thẩm định. Tuy nhiên, những thông tin này không phải lúc nào cũng phản ánh chính xác tình trạng của doanh nghiệp cũng như về dự án đầu tư. Trên thực tế, những thông tin này thường thay đổi thường xuyên vì vậy việc sử dụng thông tin cũ chưa được xử lý trong quá trình thẩm định là thiếu khách quan. Một trong những nguồn thông tin phong phú nhất, đặc biệt là về từng khách hàng cụ thể, về tình hình quản lý và hoạt động của doanh nghiệp là báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Mặc dù những báo cáo này phản
  66. ánh những hoạt động của doanh nghiệp trong quá khứ, nhưng nó cũng có thể cung cấp những chỉ số quan trọng để đánh giá trong tương lai. Tuy nhiên, khi nhìn vào báo cáo tài chính của doanh nghiệp, cán bộ thẩm định thường dựa quá nhiều vào cán cân thanh toán của doanh nghiệp. Chính điều này sẽ khiến họ sai lầm khi đánh giá do chính sách kế toán của doanh nghiệp có thể điều chỉnh linh hoạt để che giấu tình hình thực tế. Mức độ linh hoạt này thông thường được nới rộng tới tận hạn mức hợp pháp, đó là hạn mức mà một doanh nghiệp có thể có mà không làm ảnh hưởng đến lòng tin cậy của ngân hàng. 2.2.3. Về thời gian, thủ tục thẩm định. Theo quyết định của Tổng Giám đốc Ngân hàng Ngoại thương thời gian thẩm định tối đa là 25 ngày, ngay sau đó phải trả lời khách hàng đồng ý cho vay hoặc từ chối. Trên thực tế thời gian thẩm định một dự án rất dài, trung bình từ 6 - 8 tháng tính từ thời điểm nhận được đơn xin thẩm định. Thời gian kéo dài như vậy sẽ làm mất đi cơ hội của nhà đầu tư . Những thủ tục giấy tờ liên quan đến việc thẩm định còn rất phức tạp. Các báo cáo thẩm định nhiều khi chỉ dừng ở việc hướng dẫn thủ tục hành chính, chưa có phân tích đánh giá sâu về thị trường tiêu thụ, về chủng loại, công suất máy móc thiết bị, về công nghệ Đặc biệt là phân tích dự báo về mức độ tiềm ẩn rủi ro của khoản vay, dự án đầu tư. 2.2.4. Đội ngũ cán bộ: Mặc dù đội ngũ cán bộ thẩm định đã được tuyển chọn và đào tạo cẩn thận, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu hiện tại. Thẩm định dự án tín dụng đầu tư là một hoạt động rất khó khăn và phức tạp, đòi hỏi phải có kiến thức tổng hợp về nhiều lĩnh vực, ngoài ra cán bộ thẩm định phải có tư duy nhạy bén, kịp thời nắm bắt được những thay đổi của thị trường. Khả năng phân tích và dự báo rủi ro cũng là một yếu tố không thể thiếu
  67. được trong công tác thẩm định, do các kết quả của một dự án nhất định sẽ phụ thuộc vào những sự kiện bất định trong tương lai. Những yếu tố cơ bản trong luồng lợi ích và chi phí của dự án- như giá và lượng đầu ra đầu vào- rất ít khi là các sự kiện có tính chất chắc chắn hoặc gần như chắc chắn. Tuy nhiên rất ít cán bộ thẩm định có thể đáp ứng đuợc những tiêu chuẩn này. Thêm vào đó, các cán bộ thường bị thuyên chuyển điều động đi công tác hoặc kiêm nhiệm vụ khác, nên cán bộ thẩm định khó có thể có đủ thời gian để xem xét, nghiên cứu dự án một cách toàn diện, cụ thể, đầy đủ hơn. Cán bộ thẩm định thường khá trẻ, điều này là một thuận lợi đối với Ngân hàng nhưng đây cũng là một hạn chế do công việc thẩm định yêu cầu cán bộ ngoài kiến thức chuyên môn còn phải có kinh nghiệm. Một hạn chế khác trong công tác thẩm định hoạt động tín dụng đầu tư của Ngân hàng Ngoại thương là những tiêu cực của đội ngũ cán bộ. Tuy đây không phải là một hiện tượng phổ biến nhưng Ngân hàng cũng cần chú ý để làm thanh sạch đội ngũ nhân viên của mình 2.3. Nguyên nhân của những tồn tại: 3.1. Nguyên nhân khách quan: - Hệ thống thông tin kinh tế thị trường, giá cả nói chung và thông tin rủi ro trong hệ thống ngân hàng nói riêng đều ở tình trạng phân tán, kém hiệu quả, qui mô nhỏ bé, không đầy đủ, kịp thời, thiếu chính xác, đôi khi thông tin còn bị nhiễu gây khó khăn cho công tác thẩm định. Hiện nay chưa có những hướng dẫn cụ thể về kỹ thuật thẩm định, hệ thống văn bản còn sơ sài, không thống nhất. Điều đó được thể hiện qua : +Đối với nhiều doanh nghiệp nhà nước, việc hạch toán không phản ánh được thực chất, có khi quyết toán và duyệt quyết toán chậm. Chế độ kiểm toán bắt buộc mới chỉ áp dụng đối với những công ty
  68. nước ngoài, còn đối với doanh nghiệp nhà nước, đối tượng chủ yếu của ngân hàng thì hầu như không áp dụng. Điều này khiến ngân hàng gặp nhiều khó khăn khi phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp do số liệu quyết toán chưa được kiểm toán, các báo cáo của doanh nghiệp như bảng cân đối kế toán, báo cáo tình hình công nợ, báo cáo kết quả kinh doanh chỉ có tính tương đối, độ tin cậy thấp. +Mặt khác, đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, một số doanh nghiệp tư nhân thường đồng thời lên hai cân đối lỗ riêng và lãi riêng. Để đối phó với các cơ quan thuế, tài chính, doanh nghiệp tư nhân sử dụng cân đối lỗ để chịu thuế thấp, trong khi lại sử dụng cân đối lãi để che mắt ngân hàng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Nhà nước cũng như ngoài quốc doanh thường có những hoạt động tài chính ngầm mà ngân hàng khó có thể kiểm soát được. Việc thu thập thông tin qua các bạn hàng của doanh nghiệp cũng tỏ ra không mấy khả thi do các doanh nghiệp thường thông đồng với nhau để cung cấp thông tin, số liệu ảo cho ngân hàng. Các số liệu báo cáo nghành cũng rất chung chung, nhiều khi không ăn khớp với nhau khiến cán bộ thẩm định gặp lúng túng trong xử lý số liệu. - Định hướng quy hoạch phát triển kinh tế từng ngành kinh tế kỹ thuật, từng vùng, từng địa phương, từng tổng công ty chưa cụ thể, chưa khả thi, hoặc chủ trương của các ngành hữu quan không thống nhất dẫn đến khó khăn cho công tác thẩm định và quyết định cho vay: +Các vùng, địa phương đều muốn phát triển kinh tế một cách nhanh chóng nên ồ ạt xây dựng nhiều nhà máy mà không tính đến khả năng của vùng. Thậm chí trong một địa phương mà có tới 2, 3 nhà máy cùng sản xuất 1 loại sản phẩm, cung vượt xa cầu, dẫn đến dự án đầu tư không hiệu quả Sau khi xem xét, tính toán chung, ngân hàng thương