Khóa luận Tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản từ năm 1990 và một số giải phápnhằm tăng cường thu hút đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam

pdf 99 trang hapham 1070
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản từ năm 1990 và một số giải phápnhằm tăng cường thu hút đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_tinh_hinh_dau_tu_truc_tiep_ra_nuoc_ngoai_cua_nhat.pdf

Nội dung text: Khóa luận Tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản từ năm 1990 và một số giải phápnhằm tăng cường thu hút đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI: TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI CỦA NHẬT BẢN TỪ NĂM 1990 VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT ĐẦU TƯ CỦA NHẬT BẢN VÀO VIỆT NAM Giáo viên hướng dẫn : Thạc sỹ Nguyễn Thị Việt Hoa Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Thanh Hà Lớp : A3 K37 Hà Nội-12/2002
  2. Lời cảm ơn Em xin chân thành cảm ơn gia đình, nhà trường, các thầy cô giáo và bạn bè-những người đã tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập dưới mái trường Đại học Ngoại Thương. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới cô giáo Thạc sỹ Nguyễn Thị Việt Hoa, người đã chỉ bảo giúp đỡ tận tình để em hoàn thành bài khoá luận này. Hà Nội 12/2002 Sinh viên Nguyễn Thị Thanh Hà
  3. MỤC LỤC Lời mở đầu 1 Chương 1: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) 3 1. Khái niệm và đặc điểm của FDI 3 1.1 Khái niệm FDI 3 1.2 Đặc điểm của FDI 4 2. Vai trò của FDI 5 2.1 Đối với nước chủ đầu tư 5 2.2 Đối với nước tiếp nhận đầu tư 6 3. Xu hướng vận động của dòng FDI trên thế giới hiện nay 7 3.1 Dòng FDI ngày càng tăng và tập trung vào các nước phát triển 8 3.2 Các công ty xuyên quốc gia (TNCs) ngày càng đóng vai trò quan trọng trong dòng lưu chuyển FDI 11 3.3 Sáp nhập và mua lại trở thành hình thức chủ yếu trong đầu tư quốc tế .13. 3.4. Lĩnh vực đầu tư có sự thay đổi sâu sắc 16 Chương II: Tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản từ năm 1990 đến nay 18 1 ĐÁNH GIÁ VỀ LỢI THẾ VÀ BẤT LỢI THẾ CỦA NHẬT BẢN KHI THAM GIA VÀO HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ QUỐC TẾ 18 1.1 Lợi thế 18 1.1.1 Tiềm lực tài chính hùng mạnh 18 1.1.2 Khoa học công nghệ hiện đại 19 1.1.3 Kinh nghiệm quản lý tiên tiến và độc đáo 20 1.2. Bất lợi thế 20 1.2.1 Một đất nước nghèo tài nguyên thiên nhiên 20 1.2.2 Vai trò của Nhật Bản trên trường quốc tế còn hạn chế 21 2. Chiến lược đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản từ năm 1990 đến nay 22
  4. 3. Tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của nhật Bản từ năm 1990 đến nay 24 3.1 Quy mô và tốc độ tăng vốn đầu tư 24 3.2 Địa bàn đầu tư 26 3.2.1 Bắc Mỹ và EU- Địa bàn đầu tư chủ yếu 26 3.2.2 Châu Á- Địa bàn đầu tư ngày càng quan trọng 30 3.3 Lĩnh vực đầu tư 32 3.3.1 Đầu tư vào lĩnh vực chế tạo có xu hướng giảm so với đầu tư vào . lĩnh vực phi chế tạo 32 3.3.2 Tập trung vào đầu tư vào ngành phi chế tạo ở Bắc Mỹ và EU 35 3.3.3 Ưu tiên vào ngành chế tạo ở Châu Á 36 3.4 Hình thức đầu tư 38 3.4.1 Mua lại và sáp nhập 39 3.4.2 Cho vay dài hạn 41 3.4.3 Thành lập các nhà máy mới 42 4. Đánh giá về hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản từ năm 1990 đến nay 44 4.1. Những thành tựu đạt được 44 4.1.1 Hoạt động JDI đã góp phần thực hiện thành công chính sách đối ngoại của Nhật Bản 44 4.1.2 Cơ hội kinh doanh của các công ty Nhật Bản ngày càng được mở rộng 46 4.1.3 Thế cân bằng trong quan hệ kinh tế giữa Nhật Bản với Mỹ và EU được tạo lập 49 4.2. Một số hạn chế tồn tại và nguyên nhân 52 4.2.1. Một số hạn chế tồn tại 52 4.1.2 Nguyên nhân 57 Chương III: JDI ở Việt Nam và một số giải pháp để Việt Nam tăng cường thu hút đầu tư của Nhật Bản 62 1. Sơ lược về tình hình đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam từ
  5. 1988 đến nay 62 1.1 Khái quát về tiến trình đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam từ năm 1988 đến nay 63 1.2 Quy mô dự án đầu tư 64 1.3 Cơ cấu lĩnh vực đầu tư 65 1.4 Hiệu quả của những dự án JDI ở Việt Nam 66 1.5 Một số hạn chế tồn tại 68 2. XU HƯỚNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI CỦA NHẬT BẢN TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ 21 69 2.1. Duy trì thị trường đầu tư truyền thống, tăng cường khai thác mở rộng thị trường mới 69 2.2. Tiếp tục khai thác lĩnh vực đầu tư thế mạnh đồng thời khai thác đầu tư các ngành mới 74 3. Chiến lược thu hút FDI của Việt Nam 75 4. Một số giải pháp để Việt Nam tăng cường thu hút đầu tư của Nhật Bản 76 4.1. Xóa đi tâm lý lo ngại của các nhà đầu tư Nhật Bản về môi trường đầu tư Việt Nam 77 4.2. Phát huy lợi thế so sánh của Việt Nam so với các nước trong khu vực 80 4.3. Tăng cường hợp tác với Nhật Bản trong lĩnh vực đầu tư 82 Kết luận 85 Danh mục tài liệu tham khảo 87 Phụ lục
  6. LỜI MỞ ĐẦU Hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong những năm qua đã có những bước tiến đáng kể do sự lạc quan của các nhà đầu tư nước ngoài về những thành công của Việt Nam trong tiến trình đổi mới và những nỗ lực của Việt Nam trong việc cải thiện môi trường đầu tư trở nên thuận lợi và hấp dẫn hơn. Nhiều đối tác đầu tư đã đến với Việt Nam và một trong những đối tác đầu tư quan trọng nhất là Nhật Bản. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp của Nhật Bản (JDI) có tầm quan trọng đối với Việt Nam bởi nhiều lẽ. Thứ nhất, Nhật Bản là quốc gia phát triển nhất nhì thế giới với tiềm lực tài chính hùng hậu, công nghệ hiện đại, những thứ mà Việt Nam còn yếu, còn thiếu và cần phải tranh thủ. Thứ hai, Nhật Bản đang hướng mạnh chính sách đối ngoại của mình trở về Châu Á, đặc biệt là Đông Á, Đông Nam Á (ASEAN) trong đó có Việt Nam. Thứ ba, các dự án đầu tư của Nhật Bản tại Việt Nam trong thời gian qua được đánh giá là thành công, nếu xét về phương diện vốn đầu tư thực hiện và tính hiệu quả thì cho tới nay tại Việt Nam chưa có nhà đầu tư nào vượt qua được Nhật Bản. Cuối cùng, mối quan hệ hợp tác hữu nghị trong gần 30 năm qua là cơ sở vững chắc để phát triển mối quan hệ kinh tế nói chung và quan hệ đầu tư Việt Nam-Nhật Bản nói riêng trong tương lai. Do tầm quan trọng của nguồn vốn JDI, Việt Nam cần có các giải pháp hợp lý để tăng cường thu hút nguồn vốn này. Để đưa ra được các giải pháp hữu hiệu thì trước hết chúng ta cần phải tìm hiểu xem mục đích của Nhật Bản khi tham gia vào đầu tư quốc tế là gì? Xu hướng vận động của dòng JDI trong thời gian qua ra sao? Các ngành nào Nhật Bản có thế mạnh và đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài? Chiến lược của các nhà đầu tư Nhật Bản trong thời gian tới như thế nào? Trên cơ sở trả lời các câu hỏi này thì chúng ta sẽ định hướng quy hoạch chiến lược thu hút đầu tư để kêu gọi đầu tư của Nhật Bản ra sao? Những giải pháp nào nhằm củng cố niềm tin của các nhà đầu tư Nhật Bản vào môi trường đầu tư của Việt Nam? Đây cũng là lý do mà tôi lựa chọn đề tài “Tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản từ năm 1990 và một số giải pháp
  7. nhằm tăng cường thu hút đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam “. Khi lựa chọn đề tài này tôi nghĩ rằng mình đă thực hiện được cả hai mục đích, vừa hiểu được tính hình JDI vừa tìm hiểu được tình hình tiếp nhận đầu tư những lợi thế cũng như những khiếm khuyết của môi trường đầu tư ở Việt Nam. Tất nhiên có nhiều lĩnh vực khác có thể hay hơn đề tài mà tôi đã lựa chọn nhưng đối với tôi, đây có lẽ là một công việc tâm đắc nhất mà tôi đã làm trong thời sinh viên của mình, bởi nó không chỉ chứa đựng những trí thức mà tôi đã dày công tìm kiếm và học hỏi mà nó còn là bản khoá luận tốt nghiệp đánh giá kết quả của tôi trong suốt quá trình học tập. Khi lựa chọn đề tài này tôi đã gặp được một số thuận lợi bởi tôi đã có một thời gian tìm hiểu, nghiên cứu và sưu tầm tài liệu. Bên cạnh đó tôi cũng nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của bạn bè trong việc thu thập tài liệu. Đặc biệt, tôi đã nhận được sự quan tâm chỉ bảo của cô giáo, Thạc sỹ Nguyễn Thị Việt Hoa cũng như các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế Ngoại thương. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất đối với tôi là những tài liệu nghiên cứu chuyên sâu về JDI trong những năm gần đây còn hạn chế. Hơn nữa, trong việc thu thập số liệu mới, cập nhật tôi cũng gặp rất nhiều khó khăn. Bởi vậy, với khả năng còn hạn hẹp tôi không giám khẳng định mình sẽ đưa ra được một chuyên luận hoàn chỉnh về tình hình JDI và một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam. Trong quá trình hoàn thành bài khóa luận này, chắc chắn tôi không tránh khỏi sai sót. Tuy nhiên, với khả năng có thể tôi đă cố gắng để hoàn thành tốt bài khoá luận. Ngoài lời nói đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, bài khoá luận gồm ba chương chính: Chương 1: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chương 2: Tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản từ năm 1990 CHƯƠNG 3: JDI VÀO VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ VIỆT NAM TĂNG CƯỜNG THU HÚT ĐẦU TƯ CỦA NHẬT BẢN
  8. CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) 1. Khái niệm và đặc điểm của FDI 1.1 Khái niệm Đầu tư nói chung là quá trình huy động và sử dụng mọi nguồn vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh nhằm sản xuất sản phẩm hay cung cấp dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và xã hội. Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, hiện tượng "tư bản thừa" đã làm cho đầu tư vượt ra khỏi biên giới quốc gia và mang tính chất quốc tế. Hoạt động đầu tư quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ, hợp thành những dòng chính trong trào lưu có tính quy luật trong liên kết kinh tế toàn cầu hiện nay. Một trong các hình thức đầu tư quốc tế chủ yếu nhất hiện nay là đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Theo Tổ chức thuơng mại và phát triển của Liên hợp Quốc (UNCTAD), FDI được định nghĩa là một hoạt động đầu tư liên quan đến một mối quan hệ dài hạn và phản ánh lợi ích lâu dài và quyền kiểm soát đối với tài sản ở nước sở tại của doanh nghiệp mà chủ đầu tư nước ngoài đã bỏ vốn đầu tư. Định nghĩa này khẳng định FDI là hoạt động có tính chất dài hạn, diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định, nó khác với hoạt động xuất khẩu hàng hoá hay mua bán cổ phiếu quốc tế. THEO CÁCH HIỂU THÔNG THƯỜNG CỦA NGƯỜI NHẬT BẢN THÌ FDI LÀ ĐẦU TƯ VỐN VÀO HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH Ở NƯỚC NGOÀI NHẰM THU LỢI NHUẬN. TRONG BỘ LUẬT KIỂM SOÁT NGOẠI HỐI VÀ NGOẠI THƯƠNG NHẬT BẢN 10/1980, FDI ĐƯỢC ĐỊNH NGHĨA "LÀ VIỆC NẮM LẤY BẤT KỲ CỔ PHIẾU DO TỔ CHỨC PHÁP NHÂN THEO LUẬT PHÁP NƯỚC NGOÀI PHÁT HÀNH HOẶC BẤT KỲ MỘT KHOẢN TIỀN CHO VAY TỚI MỘT TỔ CHỨC PHÁP NHÂN NHƯ VẬY NHẰM THIẾT LẬP MỐI QUAN HỆ KINH TẾ LÂU DÀI HOẶC BẤT KỲ KHOẢN TRẢ VỐN NÀO ĐỂ THÀNH LẬP, MỞ RỘNG MỘT CHI NHÁNH, NHÀ MÁY HAY MỘT DOANH NGHIỆP KHÁC Ở NƯỚC NGOÀI BỞI MỘT
  9. NGƯỜI BẢN XỨ". NHƯ VẬY CHỦ ĐẦU TƯ CÓ THỂ LÀ CỔ ĐÔNG CỦA DOANH NGHIỆP ĐƯỢC THÀNH LẬP HOẶC CŨNG CÓ THỂ LÀ TRÁI CHỦ CỦA DOANH NGHIỆP ĐÓ NHƯNG VỚI ĐIỀU KIỆN LÀ CHO VAY DÀI HẠN. FDI CÓ NGHĨA LÀ ĐẦU TƯ NHẰM CÓ ĐƯỢC QUYỀN LỢI THỰC SỰ VÀ LỢI ÍCH LÂU DÀI TRONG VIỆC QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP Ở NƯỚC CHỦ NHÀ. Điều 2, khoản 1 Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1996 quy định "Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành đầu tư theo quy định của Luật này". Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân, pháp nhân nước ngoài. Vốn trong hoạt động FDI không chỉ là tiền mà còn là các tài sản khác như máy móc nguyên vật liệu, công nghệ, bí quyết, Mặc dù hoạt động FDI có yếu tố nước ngoài nhưng vẫn phải tuân thủ theo các quy định của Luật Đầu tư nước ngoài Việt Nam nói riêng và pháp luật Việt Nam nói chung, FDI là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân. NHƯ VẬY, FDI LÀ HÌNH THỨC ĐẦU TƯ QUỐC TẾ CHỦ YẾU MÀ CHỦ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI ĐẦU TƯ TOÀN BỘ HAY PHẦN ĐỦ LỚN VỐN ĐẦU TƯ CỦA CÁC DỰ ÁN NHẰM DÀNH QUYỀN ĐIỀU HÀNH HOẶC THAM GIA ĐIỀU HÀNH CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT HOẶC KINH DOANH DỊCH VỤ THƯƠNG MẠI. 1.2 Đặc điểm của FDI FDI có những đặc điểm khác biệt để phân biệt với các hình thức đầu tư khác. Các đặc điểm đó là: Thứ nhất, FDI là vốn đầu tư do chủ đầu tư tự quyết định đầu tư và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Do đó, hình thức đầu tư này mang lại hiệu quả kinh tế cao, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế, ít bị lệ thuộc vào điều kiện chính trị. Lợi nhuận mà chủ đầu tư thu được phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của đối tượng mà họ bỏ vốn ra đầu tư, do đó, FDI có tính khả thi cao vì các chủ đầu tư theo đuổi mục tiêu lợi nhuận và hoàn vốn.
  10. Thứ hai, chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn pháp định hoặc điều lệ tối thiểu tuỳ theo quy định của luật pháp mỗi nước để tham gia kiểm soát doanh nghiệp. Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam 1996 quy định bên nước ngoài phải góp tối thiểu là 30% vốn pháp định của dự án. Tỷ lệ đóng góp của mỗi bên trong vốn pháp định sẽ quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đồng thời cùng là cơ sở để phân chia lợi nhuận và rủi ro. Thứ ba, thông qua hoạt động FDI, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kỹ nghệ tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý, là những mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được. Do đó, thông qua hình thức này nước tiếp nhận đầu tư có thể kết hợp tối ưu các nguồn lực trong và ngoài nước cũng như các nguồn lực tiên tiến từ bên ngoài. 2. Vai trò của FDI DÒNG LƯU CHUYỂN FDI CỦA THẾ GIỚI KHÔNG NGỪNG GIA TĂNG VÀ TRỞ THÀNH MỘT HÌNH THỨC ĐẦU TƯ QUỐC TẾ CHIẾM ƯU THẾ NHẤT. MỘT TRONG NHỮNG NHÂN TỐ THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN CỦA FDI CHÍNH LÀ VAI TRÒ TO LỚN CỦA FDI ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI NÓI CHUNG CŨNG NHƯ CÁC NƯỚC CHỦ ĐẦU TƯ VÀ NƯỚC TIẾP NHẬN ĐẦU TƯ. 2.1 Đối với nước chủ đầu tư FDI giúp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, tăng cường bành trướng sức mạnh kinh tế và vai trò ảnh hưởng trên thế giới. Hiện nay cùng với xu thế toàn cầu hoá thì chủ nghĩa bảo hộ cũng tiếp tục trỗi dậy. Việc xây dựng các nhà máy sản xuất chế tạo hoặc lắp ráp ở nước sở tại sẽ mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm phụ tùng của công ty mẹ ở nước ngoài đồng thời còn là biện pháp thâm nhập thị trường hữu hiệu tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước. Một trong những lý do mà Trung Quốc thường thu hút đến 50% FDI đổ vào các nước đang phát triển trong những năm gần đây chính là thị trường 1,2 tỷ dân của họ. FDI giúp các công ty nước ngoài giảm chi phí sản xuất, rút ngắn thời gian thu hồi vốn đầu tư và thu lợi nhuận cao. Sự phát triển không đồng đều về trình
  11. độ phát triển sản xuất tạo ra chênh lệch về điều kiện và giá cả các yếu tố đầu vào của sản xuất. Do đó FDI cho phép lợi dụng chênh lệch này để giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận FDI giúp các chủ đầu tư tìm kiếm các nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định. Một trong các động cơ đầu tư ra nước ngoài là định hướng nguồn nguyên liệu phục vụ cho nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của mình. Nguồn tài nguyên của các nước đang phát triển dồi dào nhưng do thiếu vốn và công nghệ nên không thể khai thác được. Do đó, đầu tư vào các lĩnh vực này sẽ thu được nguyên liệu thô với giá rẻ và lợi nhuận cao. FDI GIÚP CÁC CHỦ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI ĐỔI MỚI CƠ CẤU SẢN XUẤT, ÁP DỤNG CÔNG NGHỆ MỚI, NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH: CÁC NHÀ ĐẦU TƯ THƯỜNG CHUYỂN NHỮNG MÁY MÓC CÔNG NGHỆ ĐÃ LẠC HẬU SO VỚI TRÌNH ĐỘ CHUNG CỦA THẾ GIỚI ĐỂ ĐẦU TƯ SANG NƯỚC KHÁC. ĐIỀU NÀY GIÚP CÁC CHỦ ĐẦU TƯ BÁN ĐƯỢC MÁY MÓC CŨ NHẰM ĐỔI MỚI THIẾT BỊ CÔNG NGHỆ, KÉO DÀI CHU KỲ SỐNG SẢN PHẨM Ở THỊ TRƯỜNG MỚI VÀ DI CHUYỂN MÁY MÓC GÂY Ô NHIỄM RA NƯỚC NGOÀI. 2.2 Đối với nước tiếp nhận vốn đầu tư Các nước công nghiệp phát triển là những nước xuất khẩu FDI lớn nhất đồng thời là nước tiếp nhận FDI lớn nhất tạo nên luồng đầu tư hai chiều giữa các quốc gia trong đó các công ty xuyên quốc gia đóng vai trò chủ chốt. Nguồn vốn FDI có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của các nước này và chiến lược phát triển của TNCs như tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế, tăng nguồn thu cho chính phủ, giải quyết thất nghiệp, kiềm chế lạm phát. Bảng1: Đóng góp của FDI vào nền kinh tế Việt Nam: Chỉ tiêu 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Doanh thu (Triệu USD) 2063 2743 3815 3910 4600 6167 7400 Xuất khẩu (Triệu USD) 336 788 1790 1982 2547 3300 3560 Tỷ trọng GDP (%) 6,30 7,39 9,07 10,03 12,24 13,25 13,5
  12. Tốc độ tăng công nghiệp (%) 8,8 21,7 23,2 24,4 20,0 23,1 12,1 Tỷ trọng trong công nghiệp (%) 25,1 26,7 28,9 32,0 34,7 36,0 35,4 Nộp ngân sách (Triệu USD) 195 263 315 317 271 260 - Lao động trực tiếp (ngìn người) - 220 250 270 296 327 380 Nguồn: Thống kê của Bộ Kế hoạch và đầu tư 3/2002 Mặc dù các nước đang phát triển chỉ có thể tiếp nhận được khoảng 20% tổng lượng FDI của thế giới nhưng FDI đang có vai trò hết sức to lớn đối với các nước này trong việc cung cấp nguồn bổ sung vốn cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; FDI góp phần phát triển nguồn nhân lực và tạo thêm việc làm mới; FDI tác động quan trọng tới xuất khẩu, nhập khẩu cũng như góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý; Cuối cùng FDI góp phần bổ sung quan trọng cho ngân sách quốc gia. Bảng 1 cho thấy những đóng góp đáng kể của hoạt động FDI tại Việt Nam vào nền kinh tế quốc dân. Tính đến năm 2001, Việt Nam đã thu hút được 41.002 triệu USD, trong đó vốn thực hiện đạt 21.482 triệu USD. Riêng năm 2001, doanh thu của khu vực này đạt 7.400 triệu USD, kim ngạch xuất khẩu đạt 3.573 triệu USD, nếu tính cả dầu thô thì con số này lên tới 6.748 triệu USD. Hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã đóng góp khoảng 13,5% GDP và chiếm 35,4% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Tổng số lao động trực tiếp làm trong khu vực này khoảng 380 nghìn người, góp phần giải quyết bớt căng thẳng giữa nhu cầu việc làm và nhu cầu tuyển dụng lao động ở trong nước. NHƯ VẬY, FDI CÓ TÁC ĐỘNG RẤT TO LỚN ĐẾN NƯỚC CHỦ ĐẦU TƯ CŨNG NHƯ NƯỚC TIẾP NHẬN VỐN. TUY NHIÊN, CŨNG CÓ KHI LỢI ÍCH CỦA BÊN NÀY LẠI LÀ THIỆT HẠI ĐỐI VỚI BÊN KIA, CHẲNG HẠN NHƯ TRƯỜNG HỢP CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ CŨ, CHỦ ĐẦU TƯ CÀNG THU ĐƯỢC NHIỀU LỢI NHUẬN THÌ NƯỚC NHẬN ĐẦU TƯ CÀNG PHẢI GÁNH CHỊU NHIỀU THIỆT HẠI NHƯ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG, CÔNG NGHỆ LẠC HẬU VÀ CHI PHÍ CÔNG NGHỆ CAO DO ĐÓ, CHỦ ĐẦU TƯ CŨNG NHƯ BÊN TIẾP NHẬN PHẢI CÓ CÁC CHÍNH SÁCH HỢP LÝ NHẰM TỐI ĐA HOÁ LỢI ÍCH DO FDI MANG LẠI ĐỒNG THỜI PHẢI ĐÁNH
  13. GIÁ ĐÚNG NHỮNG CÁI "ĐƯỢC" VÀ "MẤT", ĐỂ QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TƯ HAY TIẾP NHẬN ĐẦU TƯ. 3. Xu hướng vận động của dòng FDI trên thế giới hiện nay Cùng với thương mại, tài chính-tiền tệ, FDI là một trong các động lực chính thúc đẩy quá trình xâm nhập vào nhau, nương tựa lẫn nhau và mâu thuẫn với nhau giữa các trung tâm kinh tế của thế giới. Dòng FDI chủ yếu vẫn đổ vào các nước công nghiệp phát triển và xuất phát chủ yếu từ các nước này lan toả khắp thế giới. Trong những năm qua, FDI tăng vượt tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới và tốc độ tăng trưởng của thương mại quốc tế. Xu hướng vận động chính của dòng FDI trên thế giới tập trung vào các đặc điểm sau: 3.1 Dòng FDI ngày càng tăng và tập trung vào các nước phát triển Bảng 2: Tình hình tiếp nhận và xuất khẩu FDI trên thế giới. Đơn vị: Triệu USD Cả thế giới Nước phát triển Nước đang phát triển Năm Tiếp Tiếp Xuất Xuất khẩu Tiếp nhận Xuất khẩu nhận nhận khẩu 1983-1987 77,1 76,8 58,7 72,6 18,3 4,2 1988-1992 177,3 208,5 139,1 193,3 36,8 15,2 1990 203,8 204,3 169,8 222,5 33,7 17,8 1991 157,8 210,8 114,0 201,9 41,3 8,9 1992 168,1 203,1 114,0 181,4 50,4 21,0 1993 207,9 225,5 129,3 192,4 73,1 33,0 1994 225,7 230,0 132,8 190,9 87,0 38,6 1995 331,844 357,537 205,693 306,822 111,884 50,259 1996 377,516 390,776 219,789 331,963 145,030 57,763 1997 473,052 471,906 275,229 404,153 187,789 64,335 1998 680,082 687,111 480,638 651,873 179,481 33,045 1999 865,487 799,928 636,449 731,765 207,619 65,638 2000 1,270,764 1,149,903 1,005,178 1,046,903 265,586 103,568 2001 694,753 680,629 502,202 510,356 192,549 170,323 Nguồn: Thống kê tài chính quốc tế của IFM (12/2001)
  14. NĂM 2000 ĐƯỢC ĐÁNH DẤU LÀ NĂM KỶ LỤC CỦA TỔNG FDI TRÊN THẾ GIỚI VỚI CON SỐ TRÊN MỘT NGÀN TỶ USD. DÒNG LƯU CHUYỂN FDI KHÔNG NGỪNG TĂNG LÊN. TRONG NHỮNG NĂM 70, FDI BÌNH QUÂN HÀNG NĂM CHỈ KHOẢNG 28,2 TRIỆU USD/NĂM NHƯNG TRONG THẬP KỶ 80, CON SỐ NÀY ĐÃ TĂNG LÊN TỚI 93,8 TRIỆU/NĂM, GẤP BA LẦN CON SỐ THẬP NIÊN 70 VÀ TỪ NĂM 1990 ĐẾN NAY, MỨC TRUNG BÌNH HÀNG NĂM LÀ 383,3 TRIỆU USD, GẤP 14 LẦN MỨC NHỮNG NĂM 70. NẾU CHỈ TÍNH RIÊNG NỬA SAU THẬP KỶ 90 THÌ CON SỐ BÌNH QUÂN LÊN TỚI 541,5 TRIỆU USD, GẤP KHOẢNG 19 LẦN SO VỚI CON SỐ 28,2 TRIỆU USD NHỮNG NĂM 70. SỰ TĂNG LÊN NHANH CHÓNG CỦA DÒNG LUÂN CHUYỂN FDI TRONG NHỮNG NĂM QUA CHỦ YẾU TẬP TRUNG VÀO CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN. CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN VỪA LÀ NGUỒN ĐẦU TƯ CHỦ YẾU RA NƯỚC NGOÀI VỪA LÀ ĐỊA CHỈ THU HÚT ĐẠI BỘ PHẬN ĐẦU TƯ QUỐC TẾ. TỪ NĂM 1996-1999, FDI VÀO CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN CHIẾM 60%, 59%, 71% VÀ 76,5% TỶ TRỌNG VỐN ĐẦU TƯ QUỐC TẾ. NĂM 1999, CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN CHIẾM 76,5% TRONG TỔNG SỐ 865 TỶ USD VỐN FDI, TRONG KHI 3/4 DÂN SỐ SỐNG TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN CHIA NHAU 23,5% CÒN LẠI, KHOẢNG 192 TỶ USD. NĂM 2000, KHẢ NĂNG THU HÚT VỐN FDI CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN ĐÃ ĐƯỢC CẢI THIỆN ĐÔI CHÚT, ĐẠT TRÊN 200 TỶ USD, CHIẾM 2,8% TRONG TỔNG SẢN PHẨM QUỐC NỘI CỦA CÁC NƯỚC NÀY, TĂNG TƯƠNG ỨNG VỚI TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG GDP.
  15. BIỂU ĐỒ 1: SO SÁNH FDI CỦA CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN VÀ ĐANG PHÁT TRIỂN 1200 1000 N­íc ph¸t triÓn N­íc ®ang ph¸t triÓn 800 600 TriÖu USD TriÖu 400 200 0 83-87 88-92 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 NGUỒN: THỐNG KÊ TÀI CHÍNH QUỐC TẾ CỦA IMF (12/2001) NĂM 2000, MỸ TIẾP TỤC LÀ ĐỊA CHỈ THU HÚT FDI NHIỀU NHẤT THẾ GIỚI, CHIẾM KHOẢNG HƠN 200 TỶ USD, PHẦN LỚN TRONG SỐ NÀY LÀ DO CÁC VỤ MUA BÁN VÀ SÁP NHẬP CÔNG TY MANG LẠI. TUY NHIÊN, NĂM 2001, MỸ ĐÃ BỊ ANH THAY THẾ TRONG TƯ CÁCH LÀ CHỦ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI LỚN NHẤT. THEO ĐÁNH GIÁ CỦA UNCTAD, NHẬT BẢN ĐÃ TRỞ THÀNH ĐỊA CHỈ MỚI HẤP DẪN FDI CỦA THẾ GIỚI. LƯỢNG FDI VÀO NHẬT BẢN NĂM 2000 TĂNG 105% SO VỚI NĂM 1999, ĐẠT 21,51 TỶ USD SO VỚI 10,47 TỶ USD CỦA NĂM TRƯỚC CAO HƠN NHIỀU SO VỚI MỨC 5,53 TỶ USD NĂM 1998. TRONG KHI ĐÓ, NHẬT BẢN VẪN DUY TRÌ ĐƯỢC VỊ THẾ CỦA MỘT NƯỚC CUNG CẤP FDI HÀNG ĐẦU THẾ GIỚI : 66,69 TỶ USD, TĂNG SO VỚI 63,7 TỶ USD CỦA NĂM 1999. TẠI CHÂU Á, FDI ĐỔ VÀO CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN CỦA KHU VỰC NÀY ĐÃ TĂNG TỪ MỨC 97 TỶ USD NĂM 1998, LÊN 106 TỶ USD NĂM 1999. NĂM 2000, DO ĐƯỢC KHÍCH LỆ BỞI SỰ PHỤC HỒI KINH TẾ TRONG KHU VỰC, CÙNG NHỮNG CẢI CÁCH THEO HƯỚNG KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI, NÊN CHỈ TÍNH RIÊNG LƯỢNG FDI MÀ CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA ĐỔ VÀO CÁC NƯỚC NÀY ĐÃ TĂNG TỪ
  16. MỨC 80,5 TỶ USD NĂM 1999 LÊN HƠN 100 TỶ USD NĂM 2000. CÒN Ở CHÂU ÂU, TRONG KHI TỔNG ĐẦU TƯ VÀO EU BAO GỒM CẢ VỐN KINH DOANH VÀ XÂY DỰNG DÂN DỤNG HẦU NHƯ RƠI XUỐNG TẬN ĐÁY VÀO QUÝ II NĂM 2000 VÀ NGAY CẢ CÔNG TY CÓ TRỤ SỞ EU CŨNG ĐANG CHUYỂN VỐN ĐẦU TƯ CỦA MÌNH VÀO MỸ THAY VÌ VÀO LIÊN MINH TIỀN TỆ NÀY, THÌ XU HƯỚNG GIA NHẬP EU CỦA CÁC NƯỚC ĐÔNG ÂU LẠI LÀ TÁC NHÂN KÍCH THÍCH LUỒNG FDI VÀO KHU VỰC NÀY GIA TĂNG. TẠI KHỐI THỊ TRƯỜNG CHUNG NAM MỸ (NAFTA), TỔNG FDI VÀO CÁC NƯỚC NÀY ĐẠT XẤP XỈ 110 TỶ USD TRONG THỜI GIAN 1995-1999. VỚI TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ TIẾP TỤC ỔN ĐỊNH, KINH TẾ PHỤC HỒI VỮNG CHẮC, TRIỂN VỌNG FDI ĐỔ VÀO KHU VỰC TRONG THỜI GIAN TỚI SẼ CÒN NHIỀU HƠN NỮA. NÓI CHUNG, TUY CÓ MỘT VÀI NĂM CHỮNG LẠI HOẶC GIẢM TỐC ĐỘ NHƯNG LUỒNG FDI TRÊN THẾ GIỚI TRONG CÁC NĂM QUA ĐÃ CÓ SỰ GIA TĂNG ĐÁNG KINH NGẠC. ĐIỀU NÀY CÓ THỂ LÝ GIẢI BỞI CÁC NGUYÊN NHÂN SAU: THỨ NHẤT, THÔNG QUA CÁC VỤ MUA BÁN VÀ SÁP NHẬP, FDI ĐƯỢC RÓT TRỰC TIẾP VÀO THỊ TRƯỜNG ĐỊA PHƯƠNG VÀ KHU VỰC, ĐỂ TẬN DỤNG ƯU THẾ VỀ CHI PHÍ VẬN CHUYỂN VÀ CHI PHÍ SẢN XUẤT THẤP CỦA THỊ TRƯỜNG NỘI ĐỊA, ĐÂY CŨNG LÀ CÁCH ĐỂ XUYÊN THỦNG HÀNG RÀO THUẾ QUAN. CHÍNH VÌ VẬY, TRIỂN VỌNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA NƯỚC TIẾP NHẬN VỐN LÀ YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH LÀM TĂNG LƯỢNG VỐN FDI. VIỆC GDP TOÀN CẦU TRONG NĂM 2000 THEO ĐÁNH GIÁ CỦA IMF TĂNG 4,7% CÓ THỂ ĐƯỢC XEM LÀ NHÂN TỐ CHÍNH GÓP PHẦN THÚC ĐẨY LUỒNG VỐN FDI GIA TĂNG. THỨ HAI, DO CHI PHÍ VẬN TẢI VÀ TRUYỀN THÔNG GIẢM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY, CÙNG VỚI VIỆC NỚI LỎNG CÁC HÀNG RÀO BUÔN BÁN VÀ ĐẦU TƯ GIỮA CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI ĐÃ LÀM TĂNG DÒNG FDI. VẢ LẠI, HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI GIA TĂNG
  17. MẠNH VỚI TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG HƠN 10% ĐÃ TẠO ĐỘNG LỰC THÚC ĐẨY DÒNG FDI . THỨ BA, LÀN SÓNG HỢP NHẤT VÀ MUA LẠI CÁC CÔNG TY ĐÃ ĐẨY MÔ HÌNH NHỮNG TẬP ĐOÀN ĐỒ SỘ DO GIA ĐÌNH CHI PHỐI KIỂU CŨ SỤP ĐỔ. THAY VÀO ĐÓ, NÓ TẠO RA BỨC TRANH BAO GỒM CÁC CÔNG TY HIỆN ĐẠI, SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ CAO, ĐƯỢC ĐIỀU HÀNH MỘT CÁCH CHUYÊN NGHIỆP VÀ TẬP TRUNG, CÓ THỂ CẠNH TRANH VỚI NHỮNG CÔNG TY KHỔNG LỒ TRÊN TOÀN CẦU. CHÍNH NHU CẦU HỢP NHẤT ĐỂ TỒN TẠI ĐANG DIỄN RA Ở MỌI NƠI TRÊN THẾ GIỚI NÀY ĐÃ TRỞ THÀNH NHÂN TỐ CHÍNH VÀ QUAN TRỌNG NHẤT THÚC ĐẨY LUỒNG VỐN FDI GIA TĂNG MẠNH TRONG MỘT THẬP KỶ QUA. NĂM 1990, TRONG 209 TỶ USD VỐN FDI CỦA THẾ GIỚI, VỐN CHUYỂN THÔNG QUA CÁC VỤ SÁP NHẬP CHIẾM 72,3% ĐẠT 151 TỶ USD. ĐẾN NĂM 1999, 83% TRONG TỔNG SỐ 865 TỶ USD VỐN FDI LÀ DO SÁP NHẬP MANG LẠI, TƯƠNG ĐƯƠNG KHOẢNG 720 TỶ USD. NGAY TẠI CHÂU Á, MẢNH ĐẤT CỦA NHỮNG CHAEBOL VÀ KEIRETSU, NGƯỜI TA ĐANG DẦN DẦN ĐÁNH GIÁ CAO VÀ HIỂU BIẾT VIỆC MUA LẠI VÀ SÁP NHẬP NHƯ MỘT CÔNG CỤ KINH DOANH. TẠI NHẬT BẢN VÀ HÀN QUỐC, NẾU NHƯ TRƯỚC ĐÂY NGƯỜI TA PHẢI BÁN MỘT THỨ GÌ ĐÓ, THÌ ĐÓ ĐƯỢC XEM NHƯ LÀ THẤT BẠI. NHƯNG DẦN DẦN CÁC DOANH GIA ĐÃ TỪ BỎ QUAN ĐIỂM NÀY, HỌ NHẬN THẤY NHU CẦU HỢP LÝ HOÁ HÌNH MẪU CŨ KHÔNG CÒN HOẠT ĐỘNG TỐT NỮA. Bảng 3 : Năm nước đầu tư ra nước ngoài lớn nhất thế giới Đơn vị: Triệu USD TT 1996 1997 1998 2000 1 Mỹ 91,883 Mỹ 105,017 Mỹ 146,053 Anh 259,427 2 Đức 50,752 Anh 63,499 Anh 119,747 Pháp 169,481 3 Anh 35,157 Đức 41,675 Đức 92,398 Mỹ 152,440 4 Hà Lan 31,905 Pháp 35,488 Pháp 45,701 Bỉ 823,342 5 Pháp 30,362 Nhật Bản 26,059 Hà lan 39,227 Hà lan 74,809 Nguồn: Thống kê tài chính quốc tế của IMF (12/2001)
  18. CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN VẪN LÀ LỰC LƯỢNG THỨ YẾU ĐỐI VỚI VIỆC THÚC ĐẨY VÀ THU HÚT LUỒNG VỐN FDI. TUY NHIÊN XU HƯỚNG ĐẦU TƯ SONG PHƯƠNG SẼ TRỞ NÊN PHỔ BIẾN THAY CHO KHUYNH HƯỚNG MỘT CHIỀU TRƯỚC ĐÂY. 3.2 Các công ty xuyên quốc gia (TNCs) ngày càng đóng vai trò quan trọng trong dòng lưu chuyển FDI Trong đầu tư quốc tế, TNCs có vai trò chủ đạo trong phân phối nguồn vốn của thế giới vào các khu vực, đặc biệt có vai trò quyết định trong hoạt động FDI, chiếm lĩnh thị trường, hình thành các trung tâm đầu tư mạnh của thế giới. Trong 100 tổ chức kinh tế lớn nhất thế giới hiện nay thì hơn một nửa là công ty (59 TNCs) chứ không phải là quốc gia (41 quốc gia). Theo số liệu thống kê của UNCTAD thì trong năm 1998 đã có tới 53.000 TNCs với 450.000 xí nghiệp chi nhánh và chiếm 2/3 tổng khối lượng buôn bán của thế giới, trong đó một nửa buôn bán nội bộ giữa các chi nhánh của TNCs. Hiện nay, TNCs đầu tư ra nước ngoài khoảng 3.000 tỷ USD, xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ khoảng trên 5.000 tỷ USD vào năm 1996, 15 nước phát triển có khoảng 30.500 TNCs trong số 38.700 TNCs của thế giới (Tạp chí Châu Mỹ ngày nay số 3/1998). Đến đầu năm 2001, số lượng TNCs đã tăng nhanh chóng và đạt con số 57.000 TNCs với hơn 500.000 chi nhánh. Chúng kiểm soát 40% GDP, 60% ngoại thương, 50% kỹ thuật công nghệ mới, 90% FDI thế giới (IMF: World Economic Outlook, May, 2001). Có thể nói, hoạt động của TNCs có vai trò to lớn trong phát triển kinh tế, trong chuyển giao công nghệ, nắm vững công nghệ cao, bảo đảm khả năng cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường. Sự phát triển của TNCs không chỉ ở mặt mở rộng quy mô, mà điều chủ yếu là ở sự điều chỉnh chiến lược kinh doanh của chúng. Việc điều chỉnh chiến lược kinh doanh đã tạo ra ảnh hưởng trực tiếp đối với quốc tế hoá và nhất thể hoá sản xuất của thế giới. Diễn biến chiến lược của TNCs chủ yếu đã trải qua ba giai đoạn: Một là, chiến lược công ty con độc lập. Đây là hình thức chiến lược phổ biến của TNCs, với việc các công ty con vận hành tương đối độc lập. Liên hệ giữa
  19. công ty mẹ với các công ty con ở nước ngoài được khống chế thông qua quyền sở hữu. Những liên hệ khác chỉ gồm: chuyển giao kỹ thuật và cung cấp tư bản dài hạn. Loại công ty con độc lập này rất giống hình ảnh thu gọn của công ty mẹ. Đặc biệt nó tồn tại nhiều ở các ngành chế tạo và dịch vụ. Hai là, chiến lược tìm kiếm vốn nước ngoài. Đây là chiến lược của TNCs chủ yếu thông qua tìm kiếm nguồn vốn bên ngoài để tham gia vào sản xuất quốc tế. Động cơ của việc tìm nguồn vốn bên ngoài là nhằm lợi dụng ưu thế về vị trí khu vực mà nước chủ nhà đã có được. Ba là, nhất thể hoá phức hợp. Tiền đề của chiến lược này là TNCs có được năng lực chuyển dời sản xuất và cung ứng hàng hoá đến bất kỳ địa điểm nào để thu lợi nhuận cao nhất. Nhất thể hoá phức hợp cho phép bất kỳ một công ty nào đang kinh doanh ở một địa phương nào đó đều có thể cùng các công ty con khác hoặc công ty mẹ sử dụng năng lực của toàn bộ công ty một cách chủ động để phát huy hiệu quả thu lợi nhuận. Trong chiến lược này, các công ty con ở những khu vực khác nhau có thể nhất thể hoá về chức năng ở mức độ tương đối nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của công ty. Chính nhờ chiến lược này mà các TNCs đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đầu tư ra nước ngoài nhằm thích ứng linh hoạt với sự thay đổi của môi trường kinh doanh với mục tiêu thu được lợi nhuận cao nhất. Đầu tư ra nước ngoài của TNCs năm nước Mỹ, Nhật Bản, Anh, Pháp, Đức chiếm tới trên 60% giá trị của FDI của thế giới. Với việc đầu tư ra nước ngoài, TNCs đã góp phần làm tăng nhanh quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới cả trong lĩnh vực sản xuất lẫn trong thương mại quốc tế. 3.3 Sáp nhập và mua lại trở thành hình thức chủ yếu trong đầu tư quốc tế. Xét về mặt lịch sử, làn sóng sáp nhập công ty đã xuất hiện ba lần: Lần thứ nhất vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, khi quá trình tích tụ tập trung tư bản mở rộng, chủ yếu là hình thức sáp nhập thẳng đứng giữa các công ty cùng ngành. Lần thứ hai là vào những năm 20 của thế kỷ 20, chủ yếu là sáp nhập nằm ngang giữa các công ty theo nhóm ngành. Và lần thứ ba là giữa thập kỷ 80 trở lại nay. Trước sức ép mạnh mẽ của cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu, các xí nghiệp quốc
  20. tế lấy sáp nhập ở nước ngoài làm chiến lược sống còn để thích ứng. Xét về số vụ sáp nhập hay quy mô mua vào thì làn sóng sáp nhập của các công ty lần thứ ba đã đạt đến mức cao nhất trong lịch sử. Theo UNCTAD, trong hai mươi năm gần đây, giá trị các vụ mua lại công ty tăng 42%, năm 2001 tổng giá trị các vụ mua lại lên tới 1.424 tỷ USD cao hơn nhiều so với tổng đầu tư quốc tế. Chỉ một nhóm các nước công nghiệp phát triển nhưng chiếm tỷ trọng lớn hơn trong khối lượng FDI toàn cầu là do các vụ sáp nhập và mua lại xuyên quốc gia. Các công ty lớn của Anh và Mỹ đóng vai trò chủ chốt trong lĩnh vực mua lại và sáp nhập, do đó hai nước này thường xuyên dẫn đầu thế giới về việc tăng quy mô đầu tư ra nước ngoài. Lấy ví dụ như vụ mua lại và sáp nhập lớn nhất năm 1999 là vụ Tập đoàn Vodafone PLC (Anh) mua lại Công ty viễn thông Air Touch (Mỹ) trị giá 60,3 triệu USD, tiếp theo là Tập đoàn Zeneca (Anh) mua Công ty Astra (Thụy Điển) với giá 34,6 triệu USD và vụ mua lại 32,6 triệu USD giữa Công ty Orange (Anh) và Tập đoàn Mannesmann (Đức). Nước Anh đứng vị trí số 1 trong số các nước đầu tư ra nước ngoài nhiều nhất phản ánh sự thật rằng hai trong số ba vụ sáp nhập lớn nhất bắt nguồn từ các công ty Anh. Thụy Điển nhảy lên vị trí thứ ba trong số các nước tiếp nhận FDI nhiều nhất năm 1999 cũng một phần nhờ vào vụ mua lại Astra (Sách trắng về đầu tư của Jetro 2001, trang 4). Làn sóng sáp nhập xuyên quốc gia giữa các công ty diễn ra từ thập kỷ 80 đến nay là kết quả của chiến lược kinh doanh mới mà TNCs đã chọn để thích ứng với môi trường kinh doanh quốc tế đang thay đổi. Nguyên nhân thúc đẩy việc hình thành làn sóng sáp nhập lần thứ ba là do tác dụng của các nhân tố ngắn hạn và dài hạn. Nhân tố ngắn hạn nẩy sinh vào giữa thập kỷ 80. Đó là thời kỳ kinh tế các nước phát triển tăng trưởng với tốc độ tương đối cao, ở thời kỳ này các công ty không chỉ có được nhiều cơ hội đầu tư mà còn có thể sử dụng được số lượng lớn lợi nhuận và tiền vay với lãi suất thấp để thực hiện các vụ đầu tư mới. Thứ hai là, các nước phát triển đã dấy lên làn sóng tự do hoá tài chính tiền tệ, Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản đã liên tục nới lỏng việc quản lý khống chế đối với tài chính tiền tệ, thúc đẩy và nâng cao được hiệu quả và lợi ích kinh tế của các
  21. ngân hàng và các tổ chức tài chính, vì vậy mà các công ty đã có thể tranh thủ được nhiều lợi nhuận về tài chính để đầu tư. Thứ ba là, sự hình thành thị trường châu Âu thống nhất vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với các công ty nước ngoài. Các công ty của Mỹ và Nhật Bản đã thông qua các hoạt động sáp nhập và mua lại với số lượng lớn để thúc đẩy sản xuất kinh doanh và hưởng những điều kiện tiện lợi do tự do lưu thông mang lại. Nhân tố dài hạn trước tiên là, xu thế toàn cầu hoá với cạnh tranh ngày càng gay gắt, TNCs của các nước phải áp dụng phương thức sáp nhập hoặc mua lại để tiếp nhận các kỹ thuật mũi nhọn, rút ngắn thời gian phát minh kỹ thuật, giảm bớt được rủi ro nguy hiểm, sử dụng ưu thế của kinh tế quy mô và mạng lưới hoá sản xuất quốc tế để tăng cường sản xuất thu lợi nhuận. Thứ hai là, từ giữa thập kỷ 80 các nước trên thế giới đã thi hành phổ biến chính sách tự do hoá đầu tư, về khách quan mà xét nó đã kích thích mạnh sự lưu thông tiền vốn của TNCs Như vậy, làn sóng sáp nhập công ty làm nảy sinh những ảnh hưởng to lớn đối với quốc tế hoá sản xuất và toàn cầu hoá kinh tế. Việc sáp nhập xuyên quốc gia các xí nghiệp đã làm cho năng lực kinh doanh của các TNCs mở rộng nhanh chóng trong một thời gian ngắn, đồng thời thực hiện việc sản xuất theo mạng lưới một cách có hiệu quả, từ đó nâng cao rất nhiều năng lực và hiệu quả lợi ích kinh tế của các xí nghiệp. Vào nửa sau của thập kỷ 90, làn sóng sáp nhập công ty lại nổi lên mạnh mẽ hơn, đặc biệt là TNCs tăng cường thôn tính lẫn nhau và thôn tính các công ty nước ngoài để trở thành các tập đoàn khổng lồ kinh doanh trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế thế giới. Làn sóng sáp nhập công ty vào cuối thế kỷ 20 xuất phát từ những tất yếu kinh tế sau: Thứ nhất, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới tăng lên, cạnh tranh ngày càng quyết liệt, nên một công ty lớn ngoài sức mạnh về tiềm lực còn cần cả uy tín với khách hàng. Ví dụ: với việc hợp nhất hãng hàng không Travelers và công ty tài chính Citi Corp, 40 triệu khách hàng hiện tại của hãng hàng không sẽ rất tiện lợi khi tiếp cận với các dịch vụ tài chính của Citi Corp, cùng lúc đó 60 triệu khách hàng
  22. hiện tại của công ty tài chính sẽ rất tiện lợi khi sử dụng các sản phẩm bảo hiểm của Travelers. Do sự tiện lợi như vậy nên tập đoàn mới ra đời này rất có tiềm năng thu hút khách hàng và có khả năng cạnh tranh vô cùng mạnh mẽ. Thứ hai, các công ty hợp nhất vốn không có mạng lưới rộng rãi để bán lẻ các sản phẩm, do đó sự sáp nhập giúp họ có thể dễ dàng thực hiện tiếp thị sản phẩm của mình ở mọi nơi trên thế giới. Thứ ba, sáp nhập công ty sẽ nâng cao hiệu quả của các hoạt động kinh doanh, đó là mục tiêu và là lý do duy nhất cho sự tồn tại và phát triển của quá trình sáp nhập. Thứ tư, việc sáp nhập các công ty làm cho các công ty cùng được lợi khi giá cổ phiếu của họ tăng mạnh, thể hiện tâm lý chung của người đầu tư là thích đánh cược vào các công ty khổng lồ, có tiềm lực mạnh đủ để vượt qua mọi cuộc cạnh tranh. Trong thực tế, ngay sau khi quyết định hợp nhất được công bố, ngay lập tức giá cổ phiếu của Travelers tăng lên 18% và của Citi Corp đã tăng lên 26% Tuy nhiên cũng có những nguy cơ bất ổn, tiềm tàng và hiện thực do sáp nhập đưa lại như các vụ sa thải nhân công hàng loạt, bộ máy quản lý không đủ khả năng điều hành, nguy cơ độc quyền biến người tiêu dùng thành nạn nhân. Trong những năm tới, việc mua lại các công ty của các nước còn diễn ra sâu sắc hơn. Các ngành tài chính, viễn thông, dược phẩm, ô tô sẽ được sắp xếp lại trên phạm vi toàn cầu thông qua việc mua lại và sáp nhập. Trong một số lĩnh vực dịch vụ, thương mại khoa học kỹ thuật cao và một số ngành có nhu cầu lớn về tài chính cũng diễn ra hiện tượng mua lại với quy mô lớn. Đầu tư trực tiếp xuyên quốc gia thông qua sáp nhập vẫn là hình thức chủ yếu trong đầu tư quốc tế mặc dù còn có những bất ổn do nó mang lại. 3.4 Lĩnh vực đầu tư có sự thay đổi sâu sắc TRONG THẬP KỶ 80, TỶ TRỌNG FDI CỦA CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN CHỦ YẾU TRONG NGÀNH CÔNG NGHIỆP NẶNG TỪ 18% (NĂM 1980) ĐÃ HẠ XUỐNG CÒN 11% (NĂM 1990), CÒN TỐC ĐỘ TĂNG VỀ THU HÚT FDI VÀO NGÀNH
  23. SẢN XUẤT KHAI KHOÁNG TĂNG NHANH HƠN NGÀNH CHẾ TẠO VÀ DỊCH VỤ. VÌ VẬY, TỶ TRỌNG CỦA FDI VÀO NGÀNH SẢN XUẤT SẢN PHẨM SƠ CẤP TỪ 52% (NĂM 1980) TĂNG ĐẾN 67% (NĂM 1990). Ở NỬA ĐẦU THẬP KỶ 80, HY VỌNG VỀ GIÁ DẦU MỎ TĂNG CAO, FDI VÀO NGÀNH CÔNG NGHIỆP DẦU MỎ TĂNG LÊN NHANH CHÓNG. ĐỂ ỨNG PHÓ VỚI VẤN ĐỀ GIÁ THÀNH SẢN XUẤT ĐẦU MỎ TĂNG, THỰC HIỆN VIỆC ĐA DẠNG HOÁ SẢN XUẤT, TNCS CỦA MỸ VÀ TÂY ÂU ĐÃ LÀM GẤP RÚT HOẠT ĐỘNG MUA LẠI VÀ SÁP NHẬP VỚI NHAU. Từ năm 1985 trở về trước, ngành chế tạo là ngành chủ yếu thu hút FDI. Tuy nhiên, đầu tư vào ngành chế tạo của các nước phát triển đã chuyển từ các ngành sản xuất kiểu tập trung cao nguồn vốn lao động sang ngành sản xuất tập trung tư bản và kỹ thuật. Lấy Mỹ làm ví dụ: Những năm 1982-1991, những ngành có tỷ lệ thu hút FDI nhanh của Mỹ theo thứ tự là: Thuốc chữa bệnh (24,7%), thiết bị máy tính và thiết bị văn phòng (17,4%), các máy móc công nghiệp (15,8%), máy điện và thiết bị điện trở (14,5%), công nghiệp hoá chất (14,6%). Từ năm 1985 lại đây, ngành dịch vụ đã trở thành ngành có tốc độ thu hút FDI nhanh nhất ở các nước phát triển. Năm 1993, JDI vào ngành dịch vụ là 66%, của Mỹ là 51%, Đức 59% và của Anh là 48%. Xét trong cơ cấu ngành sản xuất thì số công ty con của TNCs hoạt động trong ngành dịch vụ là nhiều nhất, còn trong 500 TNCs lớn nhất thế giới thì tỷ lệ công ty hoạt động trong nghành dịch vụ là 60% Tuy nhiên, ở các nước đang phát triển thì FDI vào các ngành sản xuất vật chất vẫn chiếm tỷ trọng lớn do cơ cấu kinh tế của các nước này đang trong quá trình chuyển đổi theo hướng công nghiệp hoá. Trong thời gian tới thì tỷ trọng của FDI vào ngành dịch vụ sẽ tăng lên do đầu tư vào các ngành này thường mang lại lợi nhuận lớn trong khi chính phủ của các nước đang phát triển lại có nhiều ưu đãi khuyến khích phát triển ngành dịch vụ nhằm đưa đất nước phát triển theo hướng hiện đại hoá. Những đặc điểm của luồng vốn đầu tư quốc tế trong thời gian qua cho thấy đầu tư thế giới vẫn quy tụ được những lực đẩy cần thiết để tiếp tục phát
  24. triển. Tuy nhiên, có những nhân tố làm hạn chế sự gia tăng luồng vốn FDI như sự suy giảm của nền kinh tế toàn cầu, những bất ổn về mặt chính trị xã hội ở châu Mỹ La-tinh, giá bất động sản và tỷ giá đang tăng cao ở Đông Á ảnh hưởng đến hoạt động sáp nhập và mua lại Điều cuối cùng muốn nói đến ở đây là đầu tư quốc tế, đặc biệt là vốn FDI trước đây, được trông đợi như là một biện pháp để thúc đẩy khả năng tạo việc làm, giảm thất nghiệp, nhưng những mặt trái của làn sóng sáp nhập không cho thấy mối quan tâm chung này của thế giới sẽ được giải quyết dù cho lượng vốn đầu tư quốc tế vẫn sẽ tiếp tục tăng cao. CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI CỦA NHẬT BẢN TỪ NĂM 1990 ĐẾN NAY NHẬT BẢN ĐÃ CÓ NHỮNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI TỪ ĐẦU NHỮNG NĂM 50, SAU ĐÓ ĐƯỢC THÚC ĐẨY MẠNH MẼ VÀO THẬP KỶ 70 VÀ TỪ NỬA SAU NHỮNG NĂM 1980 THÌ HOẠT ĐỘNG JDI ĐƯỢC GIA TĂNG MỘT CÁCH NHANH CHÓNG. NGUYÊN NHÂN CHỦ YẾU CỦA VIỆC JDI TĂNG ĐỘT BIẾN TRONG GIAI ĐOẠN NÀY LÀ DO TÁC ĐỘNG CỦA ĐỒNG YÊN LÊN GIÁ TỪ 240 YÊN/1USD NĂM 1985 LÊN TỚI MỨC 120 YÊN/1USD NĂM 1988 LÀM CHO GIÁ THÀNH ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI CỦA CÁC XÍ NGHIỆP NHẬT BẢN TRỞ NÊN RẺ HƠN. ĐẾN NĂM 1989, LÀN SÓNG SÁP NHẬP VÀ MUA LẠI CỦA CÁC CÔNG TY NHẬT BẢN Ở NƯỚC NGOÀI ĐẶC BIỆT LÀ Ở MỸ VÀ TÂY ÂU DIỄN RA NHƯ VŨ BÃO KHIẾN NGƯỜI TA PHẢI THỐT LÊN RẰNG "NƯỚC NHẬT RỒI SẼ MUA CẢ THẾ GIỚI". NHƯNG ĐẦU NĂM 1990, KHI NỀN KINH TẾ BONG BÓNG SỤP ĐỔ KÉO THEO MỘT BƯỚC SUY GIẢM CHƯA TỪNG CÓ TRONG LỊCH SỬ KINH TẾ NHẬT BẢN HIỆN ĐẠI, JDI TRONG TỪ NĂM 1990 ĐẾN NAY CŨNG CÓ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM KHÁC BIỆT. DÒNG FDI CÓ XU
  25. HƯỚNG GIẢM SÚT, CƠ CẤU NGÀNH, LÃNH THỔ ĐẦU TƯ CŨNG NHƯ HÌNH THỨC CŨNG ĐƯỢC ĐIỀU CHỈNH ĐỂ PHÙ HỢP VỚI TÌNH HÌNH MỚI. BỨC TRANH CHUNG VỀ TÌNH HÌNH ĐẦU CỦA NHẬT BẢN RA NƯỚC NGOÀI TRONG TỪ NĂM 1990 ĐẾN NAY CŨNG CÓ NHỮNG MẢNG SÁNG TỐI KHÁC NHAU. 1. ĐÁNH GIÁ VỀ LỢI THẾ VÀ BẤT LỢI THẾ CỦA NHẬT BẢN KHI THAM GIA VÀO HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ QUỐC TẾ 1.1 Lợi thế 1.1.1 Tiềm lực tài chính hùng mạnh TỪ MỘT NƯỚC BẠI TRẬN SAU CHIẾN THANH THẾ GIỚI THỨ HAI, NHẬT BẢN ĐÃ KHIẾN THẾ GIỚI PHẢI NỂ TRỌNG VÌ SỰ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VƯỢT BẬC CỦA MÌNH CHỈ TRONG VÀI BA THẬP KỶ, NHANH CHÓNG VƯƠN LÊN THÀNH MỘT SIÊU CƯỜNG KINH TẾ VÀ TRỞ THÀNH CÂU CHUYỆN THẦN KỲ VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ THẾ KỶ 20. THỜI KỲ TĂNG TRƯỞNG CAO LIÊN TỤC TỪ NHỮNG NĂM 60 ĐẾN GIỮA NHỮNG NĂM 70, NHẬT BẢN CƠ BẢN, ĐÃ TIẾN HÀNH HIỆN ĐẠI HOÁ. NẾU NHƯ Ở NHỮNG NĂM 60, KINH TẾ NHẬT BẢN CHỈ BẰNG 10% TỔNG SẢN PHẨM QUỐC DÂN MỸ THÌ HIỆN NAY ĐÃ BẰNG KHOẢNG 60%. NẾU XÉT VỀ THU NHẬP TRÊN ĐẦU NGƯỜI THÌ CON SỐ 40.830 USD CỦA NHẬT BẢN VƯỢT XA ĐỨC VỚI 29.504 USD VÀ MỸ VỚI 27.532 USD. TRONG KHI MỸ NGÀY CÀNG TRỞ THÀNH CON NỢ, THẬM CHÍ LỚN NHẤT THẾ GIỚI, THÌ NHẬT BẢN LẠI LÀ NƯỚC XUẤT KHẨU TƯ BẢN VÀ LÀ NƯỚC CHỦ NỢ LỚN NHẤT THẾ GIỚI VỚI TỔNG TÀI SẢN CỦA NHẬT BẢN Ở NƯỚC NGOÀI LÊN TỚI 600 TỶ USD ( TẠP CHÍ NHẬT BẢN NGÀY NAY 7/2002). ĐỒNG YÊN LÊN GIÁ MỘT CÁCH NHANH CHÓNG Ở NỬA SAU THẬP KỶ 80 CŨNG LÀ MỘT NHÂN TỐ KHIẾN CHO NHẬT BẢN VÀ CÁC CÔNG TY NHẬT BẢN GIÀU CÓ LÊN RẤT NHIỀU NẾU TÍNH BẰNG ĐỒNG USD. CHẲNG HẠN NẾU NHƯ TRƯỚC ĐÂY MỘT CÔNG TY NHẬT BẢN MUỐN XÂY DỰNG MỘT NHÀ MÁY 2 TRIỆU USD Ở NƯỚC NGOÀI THÌ PHẢI BỎ RA 480 TRIỆU YÊN THÌ NAY VỚI 480 TRIỆU YÊN NÀY, CÔNG TY CÓ THỂ XÂY ĐƯỢC HAI NHÀ MÁY NHƯ
  26. THẾ. TRÊN THỰC TẾ NHẬT BẢN GIÀU CÓ ĐẾN MỨC CÓ ĐỦ KHẢ NĂNG ĐẦU TƯ Ở KHẮP NƠI. KHÔNG CHỈ THẾ, HẦU HẾT CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI, KHÔNG CHỈ CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN NGHÈO KHÓ MÀ CẢ NHỮNG NƯỚC CHỦ NGHĨA TƯ BẢN LỚN Ở TÂY ÂU VÀ BẮC MỸ ĐỀU TÌM CÁCH THU HÚT ĐƯỢC THẬT NHIỀU VỐN CỦA CÁC NHÀ ĐẦU TƯ NHẬT BẢN. 1.1.2 Khoa học công nghệ hiện đại Đi cùng chiều đối với sự tăng trưởng kinh tế là sự phát triển theo chiều sâu của nền kinh tế Nhật Bản. Tiềm lực khoa học kỹ thuật ngày càng gia tăng, dần dần cạnh tranh với Tây Âu và Mỹ trong nhiều lĩnh vực quan trọng. Về mặt biến các kỹ thuật cao thành các sản phẩm thương mại thì Nhật Bản chiếm ưu thế rõ rệt. Nhật Bản đã vượt Mỹ trong các lĩnh vực như kỹ thuật vi điện tử, đồ điện gia dụng, thông tin bằng sợi quang, thiết bị tự động hoá văn phòng, Nhật Bản cũng đã giành được một phần đáng kể trên thị trường chất bán dẫn của thế giới để chiếm dần những chỗ đã mất của Mỹ. Sở dĩ có được những thành công như vậy là do Nhật Bản đã đầu tư mạnh vào phát triển khoa học kỹ thuật. Năm tài khoá 1986/1987, Nhật Bản đã nâng chi phí nghiên cứu và phát triển lên tới 9,2 ngàn tỷ Yên gần bằng một nửa của Mỹ so với khoảng cách 1/8 năm 1970. Ngân sách tài khoá năm 1996 của Nhật Bản đã tăng đầu tư cho khoa học công nghệ lên thêm 6,9% tương đương với 26,7 tỷ USD. Mặc dù ngân sách chung của Nhật Bản năm tài khoá 2001 giảm so với năm trước nhưng ngân sách đầu tư cho khoa học công nghệ vẫn tăng5% (Báo cáo về ngân sách cho khoa học công nghệ năm 2001-Bộ tài chính Nhật Bản ). Điều đó cho thấy quan điểm rõ ràng của Nhật Bản coi khoa học và công nghệ như là một động lực cho tăng trưởng kinh tế. Do đó Nhật Bản đã thành công trong việc nắm độc quyền về công nghệ trong một số lĩnh vực đặc biệt là ở các ngành công nghiệp cao cấp, qua đó khống chế được các ngành công nghiệp cấp thấp. Cho dù Mỹ và Tây Âu có rất nhiều ngành công nghiệp với quy mô lớn mạnh nhưng nhờ vào ưu thế độc quyền ở những công nghệ cao, Nhật Bản vẫn chiếm được thế nổi trội trong rất nhiều ngành công nghiệp. Hiện nay, Nhật Bản đang chiếm 1/3 lượng hàng xuất khẩu hàng năm đối
  27. với các mặt hàng có tính độc quyền. Sự độc quyền về kỹ thuật đã làm cho Nhật Bản có ưu thế khá mạnh về giá cả. Đây là nguyên nhân mà trong những năm qua ngay cả khi đồng Yên tăng giá gấp hai lần so với đồng USD mà xuất khẩu của Nhật Bản vẫn giữ được mức tăng nhanh. 1.1.3 Kinh nghiệm quản lý tiên tiến và độc đáo Một lợi thế nữa của Nhật Bản đó là những kinh nghiệm quản lý độc đáo và tiên tiến. Các ông chủ Nhật Bản thường khuyến khích các công nhân tham gia vào việc quản lý công ty bằng các hình thức khác nhau, điều này đã phát huy tối đa tính sáng tạo và tính tập thể của người lao động. Quản lý chất lượng cũng là một đặc trưng quan trọng trong quá trình quản lý doanh nghiệp. Với phương châm "chất lượng là trên hết", phong trào kiểm tra chất lượng để sản phẩm không có khuyết tật diễn ra rất mạnh mẽ trong các công ty Nhật Bản. Do đó, hàng hoá của Nhật Bản có chất lượng cao, có được vị trí vững chắc trong lựa chọn của người tiêu dùng. Các lợi thế của Nhật Bản được phát huy rất rõ trong quá trình đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản từ năm 1990 đến nay, thể hiện vai trò to lớn của Nhật Bản trong hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế. 1.2 Bất lợi thế 1.2.1 Một đất nước nghèo tài nguyên thiên nhiên NHẬT BẢN LÀ MỘT ĐẤT NƯỚC PHỤ THUỘC RẤT LỚN VÀO NGUỒN TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN NHẬP KHẨU. MÔI TRƯỜNG THIÊN NHIÊN NHẬT BẢN KHÓ KHĂN: NÚI NON BAO PHỦ 72% QUẦN ĐẢO, ĐỒNG BẰNG CHỈ CHIẾM 15% DIỆN TÍCH NƯỚC NHẬT, ĐẤT TRỒNG CHIẾM 14% DIỆN TÍCH LÃNH THỔ. LÒNG ĐẤT CHỈ CÓ MỘT ÍT THAN ĐÁ, ĐỒNG, CHÌ, KẼM VÀ LƯU HUỲNH, HẦU NHƯ KHÔNG CÓ DẦU MỎ VÀ KHÍ THIÊN NHIÊN. DO ĐÓ, NHẬT BẢN PHẢI THƯỜNG XUYÊN NHẬP KHẨU TỪ 98% - 100% NGUỒN NGUYÊN LIỆU Ở MỌI NGÀNH SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP. DO ĐÓ BẤT KỲ MỘT CUỘC KHỦNG HOẢNG NGUYÊN LIỆU THẾ GIỚI NÀO ĐỀU TÁC ĐỘNG SÂU SẮC ĐẾN NỀN KINH TẾ NHẬT BẢN HƠN BẤT KỲ MỘT
  28. NỀN KINH TẾ PHƯƠNG TÂY NÀO KHÁC VÀ CHÍNH TÍNH KHÔNG ỔN ĐỊNH TRONG CUNG CẤP NGUYÊN LIỆU ĐÃ GÂY NÊN SỰ KHÔNG ỔN ĐỊNH KÉO DÀI VỀ TĂNG TRƯỞNG CỦA NỀN KINH TẾ NHẬT BẢN. TRONG SUỐT TỪ NĂM 1990 ĐẾN NAY, NỀN KINH TẾ NHẬT BẢN ĐANG LÂM VÀO CUỘC SUY THOÁI TRẦM TRỌNG NHẤT KỂ TỪ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI VÀ NỀN KINH TẾ ĐANG TRONG BƯỚC CHUYỂN ĐÃ BỘC LỘ RÕ NHIỀU ĐIỂM BẤT CẬP, ĐIỀU NÀY ẢNH HƯỞNG TRỰC TIẾP ĐẾN HOẠT ĐỘNG JDI TRONG NHỮNG NĂM QUA. 1.2.2 VAI TRÒ CỦA NHẬT BẢN TRÊN TRƯỜNG QUỐC TẾ CÒN HẠN CHẾ Nhật Bản được mệnh danh là "người khổng lồ" về kinh tế nhưng lại là "một anh lùn" về chính trị, hay "một người không lồ không có bom". Việc phòng vệ của Nhật Bản được bảo đảm bởi Hoa Kỳ do Hiệp ước San Francisco 1951. JDI được xếp vào hạng cao của thế giới, Nhật Bản là nước chủ nợ hàng đầu thế giới, thị trường chứng khoán Tokyo chiếm 25% nguồn vốn toàn cầu, trong khi đồng Yên không phải là đồng tiền quốc tế. Trong các mối quan hệ giữa Nhật Bản và phương Tây còn có sự ngờ vực. Nhật Bản đang mong muốn mở rộng quan hệ với các nước Châu Á nhưng ảnh hưởng chính trị của Nhật Bản ở Đông Nam Á bị hạn chế bởi những kỷ niệm trong thời kỳ Thế chiến thứ hai. Ảnh hưởng văn hoá của Nhật Bản trên thế giới còn yếu. Nhật Bản không sẵn có những nguồn tài nguyên thiên nhiên như Hoa Kỳ cũng như không có một thị trường trong nước có thể so sánh với thị trường nội địa Hoa Kỳ hay EU. Hơn nữa, hiện nay Nhật Bản lại đang phải chịu sự cạnh tranh dữ dội của Mỹ, EU và các nước công nghiệp mới NIEs. Những mặt mạnh của nền kinh tế Nhật Bản đã được khẳng định nhưng những mặt bất lợi của nền kinh tế cũng được bộc lộ rõ nét, chính những hạn chế này làm cản trở hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản từ năm 1990 đến nay. 2. Chiến lược đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản từ năm 1990
  29. TỪ CUỐI NHỮNG NĂM 80 TRỞ LẠI ĐÂY, TRƯỚC NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA ĐỒNG YÊN TĂNG GIÁ, NHU CẦU ĐÒI HỎI BỨC THIẾT VỀ NGUYÊN NHIÊN LIỆU, NHU CẦU TÌM KIẾM THỊ TRƯỜNG MỚI VÀ MỨC LƯƠNG ĐANG TĂNG LÊN Ở NHẬT BẢN, THÊM VÀO ĐÓ LÀ XU HƯỚNG QUỐC TẾ HOÁ NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI, CUỘC CÁCH MẠNG KHOA HỌC KỸ THUẬT VÀ CÔNG NGHỆ, CÁC NHÀ ĐẦU TƯ NHẬT BẢN ĐÃ PHẢI HOẠCH ĐỊNH CÁC CHIẾN LƯỢC ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI MỚI NHẰM TỐI ĐA HOÁ LỢI NHUẬN THU ĐƯỢC. Mức lương tăng cùng với tác động của đồng Yên tăng giá làm cho giá thành sản xuất ở Nhật Bản đắt lên tương đối so với các nước khác, do đó, hàng xuất khẩu từ Nhật Bản không thể cạnh tranh được ở thị trường nước ngoài. Bên cạnh đó, hàng rào bảo hộ mậu dịch ngày càng trở nên tinh vi nên hàng hoá của Nhật Bản lại càng khó thâm nhập vào thị trường các nước khác hơn. Mô hình kinh tế lấy xuất khẩu làm trọng tâm trong thời kỳ tăng trưởng cao không còn phù hợp nữa, các nhà đầu tư Nhật Bản đã tiến hành "dời nhà máy ra nước ngoài", thực hiện chiến lược đầu tư ra nước ngoài để thay thế xuất khẩu. Nguyên nhân chủ yếu mà Nhật Bản đã chuyển mạnh từ chính sách lấy xuất khẩu làm lợi ích sống còn sang chiến lược lấy đầu tư nước ngoài làm nội dung chủ yếu là: Thứ nhất, bảo hộ mậu dịch không còn là xu hướng chính trong nền kinh tế thế giới nhưng sự xuất hiện của các liên minh mậu dịch tự do, trên thực tế đang tạo ra các rào cản tập thể đối với quan hệ kinh tế thương mại cho những nước bên ngoài; Thứ hai, việc tái triển khai và thay đổi cơ cấu công nghiệp trong nước không thể thực hiện có kết quả nếu chỉ dựa vào thương mại trong khi bản thân quá trình thay đổi cơ cấu kinh tế về thực chất là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang một nước khác thông qua đầu tư trực tiếp và chuyển giao công nghệ. Thứ ba, các tập đoàn công nghiệp của Nhật Bản đã lớn mạnh đến mức, phạm vi hoạt động của nó là địa bàn ngoài nước và liên kết mạng kinh doanh có tính toàn cầu. Trong điều kiện thị trường thế giới và tăng trưởng thương mại đang có xu hướng giảm dần so với nhịp độ tăng đầu tư, các công ty Nhật Bản không thể đi ngược lại với xu thế đồng Yên tăng giá mạnh để
  30. gây ra những trở ngại cho hoạt động xuất khẩu. Tổng thể những lý do đó đã thúc đẩy Nhật Bản tích cực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, coi đó là những giải pháp căn bản để giải quyết những bức xúc trong nền kinh tế, giải quyết mâu thuẫn với bạn hàng, nhanh chóng thích nghi với bối cảnh quốc tế. Quan hệ kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ, Tây Âu diễn ra theo hướng vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau, vừa nương tựa lẫn nhau vừa đấu tranh xung đột. Để thể hiện vai trò là một siêu cường kinh tế, Nhật Bản đã tấn công sâu vào tận thị trường nội địa của các nước công nghiệp phát triển này để nhằm dành giật các cơ hội kinh doanh cũng như bành trướng sức mạnh kinh tế của mình. JDI vào nhóm này thường xuyên chiếm tỷ trọng lớn trong tổng JDI nói chung, TNCs của Nhật Bản đã xác lập được chỗ đứng vững chắc tại các nước này trong tất cả các lĩnh vực từ ngành điện tử đến ngành kỹ thuật cao, từ giao thông vận tải tài chính, bảo hiểm, ngân hàng. Đối với các nước phát triển, đặc biệt là ở Châu Á, Nhật Bản mong muốn thông qua hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế để thành lập một vành đai an ninh kinh tế với Nhật Bản là trung tâm. Các công ty Nhật Bản đầu tư vào các nước đang phát triển nhằm mục tiêu như: xuất khẩu trở lại Nhật Bản hoặc xuất khẩu sang một nước thứ ba khác; khai thác thị trường lao động rẻ; tạo nguồn cung cấp nguyên vật liệu; sản xuất các hàng hoá thích ứng với thị trường địa phương nhằm khai thác tối đa lợi ích kinh tế dựa vào lợi thế công nghệ kỹ thuật của mình so với các công ty bản địa. Tuy nhiên, mục đích có tính chất bao trùm mà các công ty Nhật Bản đầu tư vào nhóm nước này là tăng sự phụ thuộc của các nước nhận đầu tư. Các chi nhánh của các công ty Nhật Bản hình thành nên mạng lưới phân công lao động trong khu vực và ngày càng giữ vai trò chi phối các công ty địa phương. Với các chiến lược này, các công ty Nhật Bản đã đẩy mạnh hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trong từ năm 1990 đến nay. TNCs của Nhật Bản đã thiết lập được mạng lưới kinh doanh toàn cầu, uy tín của Nhật Bản trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định. 3. Tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản từ năm 1990
  31. 3.1 Quy mô và tốc độ tăng vốn đầu tư Bảng 4 : Đầu tư nước ngoài của Nhật Bản (từ 1970 đến 2001) Đơn vị: Triệu USD Năm tài Năm tài Năm tài Số vốn FDI Số vốn FDI Số vốn FDI chính chính chính 1970 904 1980 4.693 1990 56.911 1971 858 1981 8.932 1991 41.584 1972 2.338 1982 7.703 1992 34.138 1973 3.494 1983 8.145 1993 36.025 1974 2.395 1984 10.155 1994 41.051 1975 3.280 1985 12.217 1995 50.694 1976 3.462 1986 22.320 1996 48.020 1977 2.806 1987 33.364 1997 53.972 1978 4.598 1988 47.022 1998 40.747 1979 4.995 1989 67.540 1999 66.694 70-79 22.848 80-89 215.161 90-99 389.898 2000 4.858 2001 3.616 2002 1.958 Nguồn: Thống kê về FDI của Bộ Tài chính Nhật Bản 17/9/2002. Ghi chú: Năm tài chính bắt đầu từ 01/4 năm nay đến 31/3 năm tiếp theo. Số liệu năm 2000 chỉ tính ở nửa đầu của năm JDI trong thập kỷ 90 gấp 17 lần tổng số JDI của thập kỷ 70 và tăng 180% so với thập kỷ 80. Nếu so với năm 1970 thì JDI năm 1999 gấp 73 lần. Theo thống kê của Bộ Công nghiệp & Ngoại thương Nhật Bản (MITI), tổng JDI giai đoạn 1946-1990 là 15.966 triệu USD, con số này chỉ bằng 40% tổng số JDI giai đoạn 1990-1999. Các con số trên chứng tỏ rằng Nhật Bản đã đẩy mạnh hoạt động đầu tư ra nước ngoài từ năm 1990 đến nay
  32. Biểu đồ 2: Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản từ năm 1990 80 % 80 63.7 60 60 40 40 23.5 20 14 12.4 0.5 0 TriÖu USDTriÖu 20 -5.3 -15.7 -17.9 -20 -26.9 -24.5 -27.1 -24.6 0 -40 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Tæng sè vèn Tèc ®é t¨ng(%) Nguồn :Thống kê về FDI củaBộ Tài chính Nhật Bản 17/9/2002. Tuy nhiên, nếu chỉ xét riêng thập kỷ 90 thì tình hình JDI có những bước thăng trầm. Tốc độ tăng bình quân hàng năm chỉ đạt 1,64%. Nền kinh tế bong bóng sụp đổ làm cho JDI liên tục giảm với tốc độ cao trong ba năm 1990, 1991, 1992 với mức tương ứng là -15,7%, -26,9% và -17,9%. JDI có dấu hiệu phục hồi trong ba năm tiếp theo, và mức độ phục hồi cũng tương đối cao đặc biệt là năm 1995. Nhưng một năm sau đó thì khối lượng JDI lại giảm 5,3%. Năm 1997, JDI tăng lên mức cao nhất kể từ năm 1991 với mức tăng 12,4%. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á bắt đầu vào tháng 7/1997 đã tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế Nhật Bản nói chung và hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nói riêng, JDI năm 1998 đã giảm đi 13 triệu USD (24,5%). Nhưng JDI năm 1999 lại tăng đột biến lên tới 66,694 tỷ USD gần đạt tới mức cao nhất của năm 1989. Nguyên nhân là do sự phục hồi của nền kinh tế Nhật Bản cũng như nền kinh tế khu vực đẩy nhanh tốc độ của quá trình mua lại và sáp nhập giữa các công ty nước ngoài. Trong năm 1999, có 238 vụ sáp nhập và mua lại do các công ty Nhật Bản tiến hành ở nước ngoài, tăng so với con số kỷ lục 175 vụ năm 1998. Tuy nhiên, JDI lại tiếp tục tụt dốc trong các năm 2000 và 2001. Năm 2001, JDI chỉ còn 3.616 tỷ USD, mức thấp nhất kể từ năm 1993.
  33. Dù tốc độ đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản có giảm sút so với những thập kỷ trước, nhưng nhìn chung, những năm 90 Nhật Bản vẫn giữ được mức đầu tư khá cao, thậm chí tăng đáng kể. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt về thu hút vốn đầu tư, cũng như sự di chuyển phức tạp về dòng lưu chuyển vốn trên thế giới thì việc Nhật Bản giữ được mức đầu tư trên chứng tỏ Nhật Bản không chỉ có kinh nghiệm mà còn có sức mạnh đáng kể trong lĩnh vực này. Câu hỏi đặt ra là: Tại sao nền kinh tế Nhật Bản những năm 90 rơi vào tình trạng suy thoái trầm trọng, nhưng JDI không giảm, mà ngược lại khối lượng đầu tư ra nước ngoài lại tăng lên dù rằng mức tăng không nổi trội, và hiện tại Nhật Bản vẫn là nước cung cấp tài chính quan trọng cho Châu Á và thế giới. Ở đây có thể được giải thích bởi nhiều ký do khác nhau. Trước hết Nhật Bản là nước thực hiện tương đối nhất quán chính sách xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu tư bản. Điều này một mặt giúp Nhật Bản mở rộng thị trường, có vị trí vững chắc trong thương mại và đầu tư. Mặt khác đây là lĩnh vực mà Nhật Bản có thể nhanh chóng thu lợi nhuận từ bên ngoài. Thứ hai là việc tăng cường khuyến khích xuất khẩu và đầu tư (đặc biệt là vào nước công nghiệp phát triển) nhằm làm giảm áp lực tăng nhập khẩu từ chính các nước này. Hơn nữa, chủ trương này không chỉ tạo công ăn việc làm cho các doanh nghiệp Nhật Bản mà còn là một giải pháp để làm giảm mâu thuẫn trong quan hệ mậu dịch với các nước. Thứ ba, điều có thể dễ nhận thấy là những năm gần đây kinh tế Nhật Bản rơi vào trì trệ, giá đồng Yên không ổn định, chi phí cao, lợi nhuận thấp, là những nguyên nhân trực tiếp khiến các nhà đầu tư Nhật Bản tích cực tìm kiếm và mở rộng đầu tư ra bên ngoài. 3.2 Địa bàn đầu tư 3.2.1 Bắc Mỹ và EU- Địa bàn đầu tư chủ yếu Có thể thấy nguồn vốn JDI chủ yếu tập trung ở Bắc Mỹ, châu Âu và Châu Á. Bắc Mỹ (đặc biệt là Mỹ) là thị trường thu hút FDI lớn nhất của Nhật Bản. Theo số liệu thống kê, tỷ trọng JDI vào khu vực này chiếm trung bình khoảng 35% cho đến giữa thập kỷ 80. Sau năm 1985, JDI vào khu vực này có sự gia tăng mạnh và đạt mức đỉnh điểm vào năm 1989 với tỷ lệ 50% tổng JDI. Thời kỳ nửa đầu những năm 1990, JDI vào Bắc Mỹ chiếm trung bình 40-45%, sau đó có
  34. giảm sút mạnh trong năm tài khoá 1997-1998, riêng năm 1998 giảm 46,6% so với năm trước. Bảng 5: Đầu tư của Nhật Bản phân theo lãnh thổ Đơn vị: Triệu USD Năm Bắc Mỹ Châu Á EU Mỹ Latinh Châu Úc Châu Phi 1990 27192 7054 14294 3628 4166 578 1991 18823 5936 9371 3337 3278 837 1992 14572 6425 7061 2726 2406 947 1993 15287 6637 7940 3370 2035 756 1994 18273 9699 6230 5231 1423 636 1995 22761 12264 8470 3877 2795 527 1996 23021 11614 7372 4446 897 669 1997 21389 12181 11024 6336 2058 803 1998 109430 6528 14010 6463 2213 590 1999 24770 7162 25804 7437 894 628 2000 11803 5704 23476 5033 641 696 Nguồn: Japan Almanac 2002, trang 93 Trong khu vực Bắc Mỹ, JDI phần lớn chảy vào Mỹ. Vào những năm đầu thập kỷ 90, Mỹ thu hút từ 40-45% tổng mức JDI. Vào cuối thập niên 70, JDI vào Mỹ vẫn còn thấp, lượng đầu tư chỉ khoảng 3,5 tỷ USD và duy trì đến cuối năm 1979. Trong suốt thập kỷ 80 là thời kỳ JDI vào Mỹ với tốc độ cao. Tuy nhiên, bước sang những năm 90, đặc biệt là nửa sau thập niên này, tỷ trọng của JDI có xu hướng giảm sút: Năm 1997, JDI vào Mỹ chỉ còn chiếm 38,5% tổng JDI trên toàn thế giới, sang năm 1998, con số này lại giảm đột biến xuống chỉ còn 25,3%, năm 1999 tuy có phục hồi nhưng cũng chỉ đạt mức 34,2%. Nguyên nhân là do cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á 1997 cũng như sự bất ổn của nền kinh tế toàn cầu làm giảm nhu cầu đầu tư của các công ty Nhật Bản. Từ năm 1980 đến nay, dòng JDI vào Mỹ đã thể hiện chiến lược "chiếm lĩnh thị trường nhằm bành trướng sức mạnh kinh tế" của các công ty Nhật Bản.
  35. Bởi lẽ trong suốt 10 năm của thập kỷ 80, thâm hụt buôn bán của Mỹ đối với Nhật Bản lên đến 353,7 tỷ USD bằng 1/3 chênh lệch âm trong ngoại thương của Mỹ. Tính không cân xứng này về buôn bán gây nên sự bất bình gay gắt của các giới kinh doanh trong nước Mỹ. Những khuynh hướng của chủ nghĩa bảo hộ buôn bán không ngừng tăng lên. Từ khi B.Clinton lên cầm quyền, vấn đề buôn bán với Nhật Bản đã được áp dụng bằng thái độ rắn hơn để đối phó với tình trạng này. Chính quyền B.Clinton đã tuyên bố áp dụng điều khoản "Super 301" trong buôn bán, khống chế cắt giảm các hoá đơn đối với Nhật Bản. Kể từ năm 1994 đến 1998, Mỹ đã buộc Nhật Bản phải ký 34 hiệp định liên quan đến buôn bán tay đôi giữa hai nước. Do đó, trọng điểm của JDI đã được định hướng vào ngành chế tạo của nước Mỹ, là những ngành có sự bảo hộ nghiêm ngặt như: xe ô tô, máy tính điện tử và đồ điện gia đình. Cách sản xuất tại chỗ, tiêu thụ tại chỗ này của Nhật Bản đã né tránh một cách có hiệu quả các hàng rào bảo hộ của Mỹ. JDI vào Mỹ chủ yếu lấy chiếm lĩnh khai thác thị trường làm mục tiêu chính. Đầu tư của Nhật Bản vào Châu Âu chỉ đứng sau đầu tư của Nhật Bản vào Bắc Mỹ. Năm 90, JDI vào Châu Âu chiếm 25% toàn bộ JDI trong năm đó. Từ giữa thập kỷ 80 đến nay, JDI đã tăng cao, chủ yếu là do tăng với quy mô lớn vào Châu Âu. Để sớm chiếm lĩnh thị trường Châu Âu, trước khi thị trường châu Âu thống nhất ra đời, tư bản của Nhật Bản đã đổ vào Tây Âu với tốc độ cao. Khoảng những năm 1986-1989, mức đầu tư cộng dồn của Nhật Bản vào Châu Âu đã tăng lên và đạt 24 tỷ USD. Bên cạnh xu hướng giảm sút JDI vào Mỹ, JDI vào Châu Âu trong thập kỷ qua chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn đầu những năm 1990, tỷ trọng JDI vào Châu Âu trong tổng JDI giảm rõ rệt: từ mức 25,1% năm 1990 xuống mức thấp nhất 13,2% năm 1994. Điều này ngược lại hẳn với xu thế gia tăng trong những năm 1980. Giai đoạn hai, nửa sau những năm 90, JDI vào Châu Âu lại có xu hướng tăng lên. Riêng năm 1997 tăng 65,6% so với năm trước, năm 1998 tăng 30,5%, với mức tăng này đã đưa tỷ trọng của JDI đầu tư vào Châu Âu cao hơn Bắc Mỹ (Bắc Mỹ là 26,9% còn châu Âu chiếm 34,4%). Năm 1999, JDI vào Châu Âu lại tiếp tục tăng mạnh tới 60,5% so với năm trước đưa tỷ lệ JDI vào
  36. đây lên tới 50,2%. Sự gia tăng dòng JDI vào khu vực này gắn liền với môi trường kinh doanh của Châu Âu khá ổn dịnh trong những năm qua. Với sự thay đổi này trong chính sách đầu tư của Nhật Bản cho thấy vai trò của Châu Âu với tư cách là thị trường đầu tư của các công ty Nhật Bản ngày một gia tăng. Để vượt qua sự thách thức của thị trường Châu Âu thống nhất, chiến lược chủ yếu mà các công ty Nhật Bản đã chọn trong định hướng dòng JDI vào Châu Âu: Thứ nhất, cố gắng sản xuất tại chỗ. Năm 1990, tỷ lệ tiêu thụ về phụ tùng rời và vật liệu của các công ty thuộc ngành chế tạo của Nhật Bản ở Châu Âu là 68,9% ở các công ty gia công và lắp ráp đạt được là 60,7%. Thứ hai là, thông qua mở rộng sản xuất trên thị trường các nước mới, lợi dụng mối liên hệ nội tại giữa nơi đầu tư với thị trường thống nhất để tăng cơ hội đầu tư. Đặc biệt là từ đầu những năm 80 đến nay, Nhật Bản đã tăng đầu tư vào EU nhằm thích nghi kịp thời với thị trường thống nhất mới hình thành. Mục đích chủ yếu của JDI là thông qua việc xây dựng các cơ sở sản xuất ở Châu Âu để đảm bảo chắc chắn việc chiếm lĩnh và mở rộng thị phần của Nhật Bản ở Châu Âu. Đầu tư của Nhật Bản chủ yếu tập trung vào Mỹ và EU là do: Thứ nhất, Mỹ, Nhật, EU là bạn hàng chủ yếu của nhau trong quan hệ buôn bán quốc tế. Năm 1998 kim ngạch xuất nhập khẩu với Mỹ chiếm 23% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Nhật Bản còn tổng trị giá buôn bán với EU chiếm 18%. Các công ty Nhật Bản mong muốn thành lập các nhà máy ở các nước là bạn hàng của mình và trong quá trình xây dựng sẽ tăng cường xuất nhập khẩu vật liệu xây dựng, lắp ráp và máy móc trang thiết bị. Hơn nữa, các nhà đầu tư Nhật Bản lại rất chú trọng đến xây dựng kênh phân phối sản phẩm nên đã đầu tư mạnh vào Mỹ và EU để thành lập các cơ sở phân phối để tạo điều kiện hỗ trợ cho xuất khẩu. Hai là, sau khi liên minh Châu Âu ra đời và khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ NAFTA được thành lập, cơ hội đầu tư cho các công ty Nhật Bản càng mở rộng nhằm để xâm nhập vào thị trường thống nhất. Khu vực NAFTA với GDP khoảng 6.500 tỷ USD, 600 tỷ USD kim ngạch xuất nhập khẩu và thị trường 360 triệu dân có hiệu lực từ 1/4/1994 đã buộc Nhật Bản phải có những đối sách mới
  37. trong quan hệ quốc tế. Để vượt qua hàng rào mậu dịch của NAFTA, Nhật Bản đã lợi dụng triệt để chính sách ưu đãi mậu dịch nội bộ giữa các thành viên NAFTA để tăng cường đầu tư, xây dựng nhiều xí nghiệp ở Mỹ nhằm tạo thế xuất khẩu tại chỗ trong tương lai. Ba là, chiến lược đầu tư ra nước ngoài nhằm thay thế xuất khẩu để tránh phải đối đầu với Mỹ và EU trong cạnh tranh xuất khẩu. Nhật Bản thường xuyên xuất siêu sang Mỹ và EU dù cho gặp những hàng rào bảo hộ mạnh mẽ làm cho quan hệ mậu dịch giữa Nhật Bản với Mỹ và EU ngày càng trở nên căng thẳng. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nhằm xoa dịu bớt các xung đột này. Cuối cùng, các công ty của Nhật Bản đã tìm đến thị trường Mỹ và EU để liên minh chiến lược nhằm tìm lợi thế so sánh vì Nhật Bản tuy có địa vị độc quyền nhất định trong một số ngành công nghiệp chế tạo cấp cao nhưng về lĩnh vực khoa học kỹ thuật vẫn ở trạng thái lạc hậu tương đối. Các công ty của Nhật Bản đã lợi dụng triệt để các liên minh này để học hỏi kinh nghiệm, bí quyết kỹ thuật cũng như tạo ra các sản phẩm ưu việt nhằm nâng cao vị thế cạnh tranh của mình. 3.2.2 Châu Á- Địa bàn đầu tư ngày càng quan trọng Châu Á là một thị trường dành được sự chú ý của các công ty Nhật Bản. Có thể thấy vào những năm 70 và 80, các công ty Nhật Bản phần lớn tập trung ở Bắc Mỹ và Châu Âu nhằm sản xuất phục vụ nhu cầu tại chỗ. Nhưng từ cuối những năm 1980 đến nay, các công ty Nhật Bản đã điều chỉnh trong chính sách địa bàn đầu tư, hướng tới tập trung vào khu vực Châu Á, nhất là Đông Á. Trước khi cuộc khủng hoảng tài chính khu vực bùng nổ năm 1997, tỷ trọng của JDI đầu tư vào Châu Á đứng thứ hai sau khu vực Bắc Mỹ, vị trí này vốn trước đây thuộc về Châu Âu. Mặc dù dòng vốn vào thị trường Châu Á tăng, song mức tăng cũng rất khác nhau. Vào cuối thập kỷ 70 đầu thập kỷ 80, JDI vào Châu Á tăng, chủ yếu là do tăng mức đầu tư ở thị trường ASEAN và NIEs. Thời gian từ 1986 đến 1989, FDI vào hai khu vực này tăng mạnh. Kể từ sau năm 90, JDI vào NIEs giảm do sự thay đổi lợi thế so sánh trong các ngành công nghiệp chế tạo cần nhiều lao động ở khu vực này. Sau đợt giảm vào năm 1993 (từ chỗ chiếm 9,4%
  38. tổng JDI xuống còn 6,7%), đầu tư của Nhật Bản vào ASEAN tăng lên đạt 4 tỷ USD năm 1995, tương đương với 9,5% tổng JDI. Năm 1997, JDI vào ASEAN tăng 81,7% so với năm 1996. Trong khu vực Châu Á, JDI vào thị trường Trung Quốc có sự gia tăng vào nửa đầu những năm 90. Năm 1995, JDI vào Trung Quốc đã đạt con số kỷ lục là 4,473 tỷ USD chiếm 8,8% tổng JDI. Sự gia tăng này gắn liền với lợi thế chi phí thấp cũng như quy mô thị trường rộng lớn và phản ánh mối quan hệ Nhật - Trung Quốc ngày một cải thiện. Sau cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Châu Á giảm mạnh. Năm 1998, đầu tư của Nhật Bản vào Châu Á chỉ ngang bằng với mức JDI vào khu vực Mỹ Latinh, sang năm 1999, JDI lại tiếp tục rời khỏi thị trường Châu Á trong khi tổng JDI lại tăng đột biến trong năm này. Sự gia tăng không ổn định dòng vốn JDI vào Châu Á có nhiều lý do. Thời kỳ trước cuộc khủng hoảng tài chính, khu vực Châu Á, nhất là Đông Á có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, ổn định. Sự tăng trưởng này đã thúc đẩy sự gia tăng kim ngạch cũng như cải thiện cơ cấu buôn bán và đầu tư từ khu vực cần nhiều lao động sang khu vực cần nhiều vốn và công nghệ. Hơn nữa, sự trì trệ suy thoái kinh tế Nhật Bản trong những năm 90 đã thúc đẩy các ngành công nghiệp đầu tư và mở rộng ra nước ngoài, nhất là các nước láng giềng Đông Á nhằm đáp ứng nhu cầu gia tăng hàng hoá lâu bền và dịch vụ ở các nước này. Bên cạnh việc gia tăng di chuyển vốn ngắn hạn thông qua đầu gián tiếp và các khoản cho vay của ngân hàng, JDI ở Đông Á cũng được khuyến khích gia tăng nhằm góp phần hạn chế sự suy giảm trong buôn bán và thâm hụt tài khoản vãng lai. Ngoài ra, cũng còn nhiều yếu tố thúc đẩy đầu tư của Nhật Bản vào Châu Á như việc đồng Yên tăng giá mạnh, lợi thế về vị trí địa lý, nguồn nhân lực dồi dào với chất lượng cao, chi phí giao thông thấp, chính trị tương đối ổn định. Tuy nhiên cơn bão khủng hoảng tài chính tiền tệ đã cuốn đi những thành quả mà các nước Đông Á dày công vun đắp và điều này ảnh hưởng trực tiếp đến việc tăng lượng vốn FDI đổ vào khu vực này nói chung và JDI nói riêng, làm cho lượng vốn đầu tư vào khu vực này giảm mạnh vào sau năm 1997.
  39. Đầu tư của Nhật Bản vào khu vực Mỹ Latinh, Châu Phi, Châu Đại Dương và vùng Trung Đông chiếm tỷ trọng không cao trong suốt cả thập kỷ 90. Tuy nhiên, sau cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, JDI đã có xu hướng chuyển dịch tới khu vực này. Vì vậy, tổng mức đầu tư vào khu vực Mỹ Latinh và vùng Caribê đạt ngang bằng với số vốn vào Châu Á trong các năm 1998-1999. Như vậy, cơ cấu địa bàn đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ra nước ngoài từ năm 1990 cho đến trước cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 đã có sự thay đổi, một mặt vẫn chú trọng đến thị trường truyền thống Mỹ và EU, đã cho thấy có sự dịch chuyển dòng vốn tập trung vào Châu Á, nhất là Đông Á. Mặc dù cuộc khủng hoảng đẫ tác động tiêu cực đến hoạt động JDI ở Châu Á nhưng các nhà kinh tế vẫn nhận định rằng trong tương lai gần đây vẫn là một hướng ưu tiên. Mục đích của đầu tư vào Châu Á hiện nay trước hết là nhằm mở rộng thị trường, tận dụng chi phí thấp, tạo thêm khách hàng mới và xuất khẩu trở lại Nhật Bản. 3.3 Lĩnh vực đầu tư 3.3.1 Đầu tư vào lĩnh vực chế tạo có xu hướng giảm so với đầu tư vào lĩnh vực phi chế tạo JDI vào lĩnh vực chế tạo giảm liên tục trong ba năm kể từ 19991 đến 19993 và xuống mức thấp nhất còn 12.766 triệu Yên vào năm 1993. Sự suy giảm này một phần là do sự suy giảm chung của dòng vốn đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản nhưng nó cũng phản ánh một điều rằng do nền kinh tế bong bóng sụp đổ, lợi nhuận mà các công ty thu về không còn như trước nữa thậm chí bằng không. Trong giai đoạn này JDI vào ngành phi chế tạo cũng giảm đáng kể, thậm chí tốc độ suy giảm còn cao hơn ngành chế tạo. Nếu như số JDI vào ngành chế tạo giảm 44% so với năm 1990 thì con số này của ngành phi chế tạo là 52%. Cùng với sự phục hồi của dòng JDI, đầu tư vào lĩnh vực chế tạo và phi chế tạo cũng tăng dần, nhưng tốc độ tăng vào lĩnh vực chế tạo nhanh hơn tốc độ tăng của lĩnh vực phi chế tạo. Sở dĩ như vậy là do trong giai đoạn này, JDI đang hướng mạnh vào Châu Á nơi cơ cấu kinh tế tập trung vào ngành sản xuất vật chất là chủ yếu. Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á đã làm cho JDI vào ngành chế tạo năm 98 giảm xuống mức kỷ lục kể từ năm 1995, giảm 34% so với năm
  40. 1997, trong khi đầu tư vào ngành phi chế tạo vẫn ở mức cao, chỉ giảm 13% so với năm trước. Điều này chứng tỏ rằng, các công ty của Nhật Bản rất chú trọng vào đầu tư bất động sản, khi có khủng hoảng xảy ra thì khó tháo chạy nên mức JDI vào ngành phi chế tạo vẫn cao. Biểu đồ 3: Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ra nước ngoài phân theo lĩnh vực 90 80 70 26.986 60 67.565 59.442 50 41.793 40 39.307 30.124 30.395 36.625 40.502 30.81 27.978 21.744 TriÖu yªn 30 28.449 47.193 20 21.773 22.718 22.821 23.731 16.919 18.236 17.449 10 13.038 12.766 14.426 15.686 12.911 0 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 ChÕ t¹o Phi chÕ t¹o Nguồn: Thống kê của Bộ tài chính Nhật Bản 17/9/2001 Năm 1999, JDI vào ngành chế tạo có sự gia tăng đột biến, chiếm tới khoảng 63% tổng JDI ra nước ngoài, trong khi đó JDI vào lĩnh vực phi chế tạo lại giảm, chỉ còn 45% mức năm 1990. Nguyên nhân là do các nhà đầu tư Nhật Bản bắt đầu bán tháo cổ phiếu cũng như bất động sản để đầu tư vào lĩnh vực khác ít rủi ro và hiệu quả hơn. Sang đến năm 2000, JDI vào ngành chế tạo đã giảm xuống mức thấp nhất trong vòng mười năm qua còn đầu tư vào lĩnh vực phi chế tạo lại gia tăng mạnh, tăng 50% so với năm trước. Nhưng JDI vào lĩnh vực chế tạo lại có xu hướng tăng trong năm 2001, ngược lai với sự giảm sút của JDI vào các ngành phi chế tạo. Nguyên nhân của sự tăng giảm bất thường của dòng JDI vào các ngành chế tạo và phi chế tạo là nền kinh tế toàn cầu trong các năm đầu thế kỷ 21 bị chững lại. Do đó, các cơ hội kinh doanh trở nên khó dự
  41. đoán hơn làm cho các nhà đầu tư của Nhật Bản không thể nhất quán trong việc lựa chọn ngành ngề đầu tư cho mình. Ngành hoá chất và ngành điện tử thường chiếm tỷ trọng cao trong tổng JDI vào lĩnh vực chế tạo. Điều này thể hiện thế mạnh của Nhật Bản trong lĩnh vực này. Năm 1999 được coi là năm hoàng kim nhất của ngành điện tử Nhật Bản khi con số JDI của ngành này đạt mức 18.237 triệu Yên tăng khoảng 400% so với năm 1998. Cũng trong năm này, ngành thực phẩm cũng thu hút được một lượng JDI lớn 16.628 triêu Yên, tăng gấp 10 lần năm 1998. Điều này có thể lý giải là do các vụ sáp nhập lớn diễn ra giữa các công ty Nhật Bản với các công ty ở nước ngoài trong năm 1999 về ngành điện tử và thuốc là. Về lĩnh vực phi chế tạo, ngành chiếm tỷ trọng cao là đầu tư bất động sản, dịch vụ và tài chính bảo hiểm. Tuy nhiên, kể từ sau cuộc khủng hoảng Châu Á 1997, đầu tư vào bất động sản và tài chính bảo hiểm đã giảm đi đáng kể. Riêng JDI vào ngành tài chính bảo hiểm năm 1999 đã giảm đi 39,6% so với năm 1998. Ngành vận tải vẫn duy trì được mức đầu tư ổn định kể từ năm 1992 với mức bình quân khoảng 24.000 triệu Yên mỗi năm do thế mạnh trong ngành đóng tàu và vận tải hàng hoá của Nhật Bản trong những năm qua. Bên cạnh đó, xu thế tự do hoá trong lĩnh vực viễn thông cũng đã thúc đẩy các doanh nghiệp Nhật Bản mua thêm cổ phần hoặc liên doanh với các hãng nước ngoài nhằm tiếp thu những bí quyết kỹ thuật trong lĩnh vực này. 3.3.2 Đầu tư tập trung vào ngành phi chế tạo ở Bắc Mỹ và EU Xu hướng biến động của tỷ trọng giữa JDI vào ngành chế tạo và phi chế tạo cũng gắn liền với mỗi địa bàn đầu tư cụ thể. Trong lĩnh vực chế tạo, xét theo tỷ trọng nguồn vốn đầu tư thì đầu tư vào lĩnh vực này giảm mạnh trên thị trường Bắc Mỹ, trong khi đầu tư vào công nghiệp chế tạo lại có sự gia tăng mạnh trên địa bàn Châu Á. Điều này cũng dễ hiểu do quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá ở khu vực này. Tỷ trọng JDI vào ngành phi chế tạo ở Bắc Mỹ và EU trong tổng JDI thường chiếm trên 50%. Vào đầu những năm 90, khi các nhà đầu tư Nhật Bản đang chú trọng đến hoạt động kinh doanh bất động sản ở hai khu vực này thì tỷ
  42. trọng trên lên đến 87%. Tuy nhiên, vào nửa sau thập niên 90 thì JDI vào ngành này ở Bắc Mỹ và EU giảm mạnh, kéo theo sự suy giảm của tỷ trọng đầu tư của Nhật Bản vào lĩnh vực phi chế tạo trong tổng JDI nói chung và vào hai khu vực này nói riêng. Xét cả giai đoạn 1990-2001 thì tỷ trọng JDI vào ngành phi chế tạo trong tổng đầu tư của Nhật Bản ở Bắc Mỹ và EU là 65,3%. Đối với khu vực Bắc Mỹ, trong công nghiệp chế tạo, phần JDI chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực điện tử, thiết bị giao thông và hoá chất. Năm 1995, JDI vào công nghiệp điện tử là 33%, năm 1997 là 47% và năm 1999 lên đến 73% tổng JDI của Nhật Bản vào lĩnh vực công nghiệp chế tạo ở khu vực này. Trong khi đó, đầu tư vào lĩnh vực máy móc phổ thông và sản phẩm dệt lại giảm xuống khá mạnh. Còn về lĩnh vực phi chế tạo thì các nhà đầu tư Nhật Bản lại chú trọng vào ngành dịch vụ, tài chính bảo hiểm, thương mại và bất động sản. Những ảo tưởng giàu sang vô tận của giới kinh doanh Nhật Bản vào cuối những năm 80 khiến cho họ mua sạch mọi thứ ở Hoa Kỳ - từ trung tâm Rockefeller đến công ty điện ảnh "Universal". Chính điều này đã làm cho JDI đầu tư vào bất động sản năm 1989 lên đến 11.909 triệu Yên, chiếm 34% đầu tư vào lĩnh vực phi chế tạo trong năm đó. Nhưng sự phồn thịnh kinh tế chấm dứt kéo theo sự suy giảm kỷ lục của JDI vào ngành này. Mức đầu tư vào ngành bất động sản lần lượt là 5.365 triệu Yên vào năm 1996, năm 1997: 3.488 triệu Yên, năm 1998: 1.855 triệu Yên, năm 1999: 999 triệu Yên sang đến năm 2000 chỉ còn 156 triệu Yên, bằng khoảng 1,3% con số năm 1989 ( Thống kê của Bộ Tài chính Nhật Bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài 17/9/2002) Đầu tư của Nhật Bản vào EU cũng tập trung vào ngành điện tử, chế tạo máy và tài chính bảo hiểm. JDI vào khu vực chế tạo ở EU sau cuộc khủng hoảng tài chính gia tăng mạnh, năm 1997 tăng 65,5% so với năm trước, chiếm 20,8% tổng JDI vào lĩnh vực này, năm 1998 tăng 30,5% chiếm 34,4% và năm 1999 tăng 60,5% chiếm 38,7% JDI vào khu vực chế tạo. Sự gia tăng này chủ yếu vào lĩnh vực chế biến thực phẩm, ngành hoá chất và thiết bị giao thông. Xét trong nội bộ EU thì cơ cấu ngành của JDI vào các nước khác nhau cũng khác nhau. Đức và Pháp là những nơi đầu tư chủ yếu của các công ty thương mại Nhật Bản,
  43. nước Đức là nòng cốt trong nền kinh tế EU và có thị trường rộng lớn, do đó thương mại Đức là sự lựa chọn ưu tiên của các công ty Nhật Bản. Còn đầu tư của các xí nghiệp Nhật Bản ở Hà Lan chủ yếu tập trung vào ngành dịch vụ, công trình máy điện và công nghiệp hoá học. Thuỵ Sỹ là nơi đầu tư lý tưởng của giới ngân hàng và giới chứng khoán Nhật Bản. Đầu tư của Nhật Bản vào Tây Ban Nha lại chủ yếu tập trung vào ngành chế tạo v.v 3.3.3 Ưu tiên đầu tư vào ngành chế tạo ở Châu Á Nếu như đầu tư của Nhật Bản vào Châu Á trước đây chỉ tập trung vào các ngành công nghiệp khai thác và sơ chế nguyên nhiên liệu thì kể từ năm 90 trở đi JDI vào khu vực này lại tập trung vào ngành máy móc, luyện kim, ngành ô tô và lắp ráp điện tử. Một điểm đáng chú ý nữa là từ đầu những năm 90, việc vận dụng các thị trường sẵn có và sản xuất để tiêu thụ tại chỗ cũng được các nhà đầu tư Nhật Bản chú trọng. Bởi vì từ đầu những năm 90 cho đến trước khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực, trong khi phần còn lại của thế giới bị lâm vào tình trạng giảm phát, nhu cầu tiêu thụ yếu thì tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm của Châu Á (NIEs + ASEAN + Trung Quốc) đạt khoảng 7-8%, cao hơn đáng kể so với bất kỳ khu vực nào khác trên thế giới, kết quả là nhu cầu tại chỗ cũng được mở rộng theo. Bên cạnh đó, JDI vào Châu Á trong giai đoạn này cũng nhằm cung cấp trở lại cho Nhật Bản những mặt hàng không còn sức cạnh tranh nếu tiếp tục được sản xuất ở trong nước. Do đó, tỷ trọng xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư Nhật Bản trong các ngành dệt may, giày dép, lắp ráp các sản phẩm điện tử so với tổng xuất khẩu của các nước tiếp nhận đầu tư thường cao. Sau cuộc khủng hoảng, đầu tư vào lĩnh vực chế tạo đã giảm 48% từ 8.978 triệu Yên xuống còn 4.732 triệu Yên, năm 1999 đầu tư của Nhật Bản vào lĩnh vực này có phục hồi nhưng không đáng kể và xu hướng suy giảm lại tiếp tục vào năm 2000. Tuy nhiên một dấu hiệu đáng mừng là JDI vào lĩnh vực chế tạo ở Châu Á lai tăng lên gần 25% trong năm 2001. JDI vào ngành phi chế tạo ở Châu Á tăng giảm bất thường: sau khi phục hồi vào năm 92, đầu tư vào ngành này giảm tới mức kỷ lục năm 1993 chỉ còn 3.357 triệu Yên, năm 1994 JDI lại tăng lên 30% nhưng năm 1995 lại chứng kiến
  44. sự suy giảm. Nguyên nhân là do JDI vào ngành dịch vụ và tài chính giảm mạnh. Năm 1997, JDI vào ngành phi chế tạo đạt mức cao nhất kể từ năm 1991 do sự gia tăng đột biến của đầu tư vào công nghiệp khai khoáng và bất động sản (cả hai ngành này chiếm tới 41% tổng JDI vào lĩnh vực này). Tuy nhiên kể từ năm 1998 JDI vào lĩnh vực phi chế tạo lại tụt dốc kỷ lục chỉ còn 2.983 triệu Yên vào năm 1999 và 2.257 triệu Yên vào năm 2000. Năm 2001, JDI vào lĩnh vực này cũng không đuợc cải thiện khi chỉ đạt 2.236 triệu yên. Mặc dù JDI vào khu vực Châu Á nhìn chung giảm nhưng tỷ trọng của JDI vào ngành chế tạo vẫn chiếm khoảng 2/3 tổng JDI. Những thay đổi trong cơ cấu lĩnh vực đầu tư như trên nằm trong chủ trương điều chỉnh chính sách kinh tế đối ngoại của Nhật Bản cho phù hợp với sự phát triển cơ sở sản xuất của nền kinh tế toàn cầu. Đối với những khu vực phát triển, đầu tư chủ yếu vào lĩnh vực dịch vụ và những ngành đại diện cho nền kinh tế tri thức. Ngược lại, đối với những khu vực đang còn công nghiệp hoá hay kinh tế chưa phát triển thì đầu tư chú trọng đến các ngành công nghiệp chế tạo, các ngành khai thác tài nguyên. 3.3 Hình thức đầu tư Bảng 6: Cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản Đơn vị: 100 triệu Yên Năm Mua lại và sáp nhập Cho vay dài hạn Lập chi nhánh mới Tổng Trường Giá trị Trường Giá trị Trường Giá trị Trường Giá trị hợp hợp hợp hợp 1991 1556 37129 2938 19097 25 636 4564 83527 1992 1397 28185 2318 15663 26 465 3741 44131 1993 1530 27525 1925 13690 33 299 3488 41514 1994 1203 29694 1236 12710 39 404 2478 42808 1995 1498 33749 1332 14881 33 938 2863 49568 1996 1228 40515 1254 12430 19 1149 2501 54094 1997 1032 50348 1446 15176 11 705 2489 66229 1998 508 32632 1083 19079 6 457 1597 52169
  45. 1999 603 62991 1104 11170 6 229 1713 74390 2000 633 45698 1048 7445 3 277 1684 53690 2001 620 30151 1127 9042 6 355 1753 39548 2002 362 15985 783 4512 4 312 1149 20808 NGUỒN:THỐNG KÊ CỦA BỘ TÀI CHÍNH NHẬT BẢN 17/9/2002 GHI CHÚ: SỐ LIỆU NĂM 2002 CHỈ TÍNH Ở NỬA ĐẦU CỦA NĂM. Tổng JDI bao gồm vốn mua lại và sáp nhập, vốn cho vay và vốn thiết lập cơ sở sản xuất, chi nhánh mới. Các số liệu ở Bảng 6 cho thấy các công ty Nhật Bản rất chú trọng vào chiến lược mua lại và sáp nhập, do đó JDI của hình thức này thường chiếm tỷ trọng lớn, khoảng 2/3 tổng JDI, đặc biệt là năm đỉnh điểm 1999, số vốn mua lại và sáp nhập lên tới 83% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài của năm đó. Với tư cách là chủ nợ lớn nhất thế giới, các nhà đầu tư tư nhân cũng tích cực cung cấp các khoản tín dụng dài hạn, điều này làm cho JDI đầu tư vào cho vay thường chiếm tỷ trọng lớn, ở nửa đầu thập kỷ 90, con số này là 30%, vào nửa sau những năm 90, tỷ trọng có giảm nhưng vẫn xấp xỉ 20%. Trước cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, các nhà máy và chi nhánh được thiết lập nhiều hơn so với sau năm 1997 nhưng so với tổng JDI thì vốn đầu tư vào đây chiếm phần không đáng kể. Như vậy các nhà đầu tư Nhật Bản tập trung vào chiến lược thôn tính, mua lại xuyên quốc gia, duy trì, nâng cao hiệu quả của các cơ sở sản xuất hiện có hơn là thành lập các nhà máy mới. 3.3.1 MUA LẠI VÀ SÁP NHẬP LÀN SÓNG MUA LẠI VÀ SÁP NHẬP GIỮA CÔNG TY NHẬT BẢN VỚI CÁC CÔNG TY NƯỚC NGOÀI ĐÃ DIỄN RA MẠNH MẼ KỂ TỪ NỬA SAU NHỮNG NĂM 1980. NĂM 1989, VỤ MỘT NHÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH ĐÃ MUA ĐỨT TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI ROCKEFELLER VỚI GIÁ 800 TRIỆU USD ĐÃ LÀM CHẤN ĐỘNG CẢ NƯỚC MỸ. BƯỚC SANG NHỮNG NĂM 90, CÁC VỤ MUA LẠI VÀ SÁP NHẬP CỦA CÔNG TY NHẬT BẢN DIỄN RA CÓ PHẦN "ÊM DỊU" HƠN, QUY MÔ CỦA CÁC VỤ SÁP NHẬP NHỎ HƠN NHIỀU SO VỚI
  46. CỦA CÁC VỤ SÁP NHẬP GIỮA CÁC CÔNG TY ANH VÀ MỸ VỚI NHAU. DO CUỘC KHỦNG HOẢNG CƠ CẤU KINH TẾ NĂM 92, SỐ VỐN ĐẦU TƯ VÀO MUA LẠI VÀ SÁP NHẬP ĐÃ GIẢM ĐI GẦN 900 TỶ YÊN, ĐÂY CŨNG LÀ NGUYÊN NHÂN CHÍNH LÀM CHO TỔNG JDI TRONG NĂM ĐÓ GIẢM ĐI 22%. TRONG BA NĂM TỪ 1992-1994, MỨC JDI DÀNH CHO CÁC VỤ MUA LẠI SÁP NHẬP VẪN ỔN ĐỊNH. MỘT ĐIỂM ĐÁNG CHÚ Ý LÀ NĂM 1993 TUY SỐ VỐN ĐẦU TƯ MUA LẠI VÀ SÁP NHẬP ĐẠT MỨC THẤP NHẤT NHƯNG SỐ VỤ ĐẦU TƯ LẠI ĐẠT MỨC CAO NHẤT TRONG CẢ GIAI ĐOẠN 1990- 2000. NGUYÊN NHÂN LÀ DO THỊ TRƯỜNG THỐNG NHẤT CHÂU ÂU VỪA MỚI ĐƯỢC THÀNH LẬP, CÁC NHÀ ĐẦU TƯ NHẬT BẢN BẮT ĐẦU Ồ ẠT THÔN TÍNH CÁC CÔNG TY VỪA VÀ NHỎ CŨNG NHƯ TĂNG THÊM VỐN CỔ PHẦN TẠI CÁC LIÊN DOANH CỦA MÌNH Ở CÁC NƯỚC EU NHẰM BƯỚC ĐẦU THỬ NGHIỆM KHAI THÁC TIỀM NĂNG TO LỚN CỦA MỘT THỊ TRƯỜNG THỐNG NHẤT. NĂM 1995, JDI VÀO HÌNH THỨC NÀY CÓ DẤU HIỆU PHỤC HỒI CẢ VỀ GIÁ TRỊ LẪN SỐ VỤ ĐẦU TƯ VÀ HAI NĂM 1996 VÀ 1997 MẶC DÙ SỐ VỤ ĐẦU TƯ CÓ GIẢM NHƯNG QUY MÔ CỦA CÁC VỤ LẠI TĂNG LÊN ĐÁNG KỂ. TRONG GIAI ĐOẠN NÀY, CÁC CÔNG TY CỦA NHẬT BẢN ĐÃ MUA LẠI HOÀN TOÀN 371 CÔNG TY NƯỚC NGOÀI TRONG ĐÓ CHỦ YẾU LÀ CÁC CÔNG TY Ở ANH VÀ Ở MỸ. NĂM 1998, DO ẢNH HƯỞNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ, CÁC VỤ SÁP NHẬP VÀ MUA LẠI BỊ CHỮNG LẠI VÀ GIẢM XUỐNG. TUY NHIÊN, ĐIỀU ĐÁNG NÓI Ở ĐÂY LÀ QUY MÔ TRUNG BÌNH CỦA CÁC VỤ SÁP NHẬP ĐÃ TĂNG TỪ 4,8 TỶ YÊN/VỤ NĂM 1998 LÊN ĐẾN 6,4 TỶ YÊN/VỤ NĂM 1999, CHỨNG TỎ RẰNG CÁC CÔNG TY NHẬT BẢN ĐÃ CÓ NHỮNG BƯỚC ĐI THẬN TRỌNG HƠN TRONG CHIẾN LƯỢC MUA LẠI VÀ SÁP NHẬP CỦA MÌNH, CHÚ TRỌNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG HƠN LÀ SỐ LƯỢNG VÀ CHỈ LỰA CHỌN CÁC ĐỐI TÁC ĐẦU TƯ XỨNG ĐÁNG. NĂM 1999, HOẠT ĐỘNG MUA LẠI VÀ SÁP NHẬP LẠI DIỄN RA NHỘN NHỊP, TUY SỐ VỤ ĐẦU TƯ TĂNG KHÔNG ĐÁNG KỂ NHƯNG TỔNG GIÁ TRỊ MUA LẠI VÀ SÁP NHẬP ĐÃ TĂNG VỌT LÊN TỚI GẦN 630 TỶ YÊN, TĂNG 93% SO
  47. VỚI NĂM 1998. TUY NHIÊN JDI VÀO MUA LẠI VÀ SÁP NHẬP LAI GIẢM DO SỰ SUY GIẢM CHUNG CỦA DÒNG JDI TRONG CÁC NĂM 2000 VÀ 2001 KỂ TỪ ĐẦU NHỮNG NĂM 90 ĐẶC BIỆT LÀ SAU CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ, CÁC CÔNG TY CỦA NHẬT BẢN CÓ XU HƯỚNG CỦNG CỐ LẠI CÁC CƠ SỞ SẢN XUẤT KINH DOANH HIỆN CÓ ĐỂ TÌM KIẾM HIỆU QUẢ KINH TẾ THEO QUY MÔ VÀ TĂNG CƯỜNG CÁC NGÀNH KINH DOANH CHỦ CHỐT BẰNG CÁCH LIÊN KẾT VỚI CÁC HÃNG NƯỚC NGOÀI. ĐẶC BIỆT LÀ ĐỐI VỚI NGÀNH CHẾ TẠO VỚI GÁNH NẶNG VƯỢT QUÁ CÔNG SUẤT TRONG KHI HẦU NHƯ NHU CẦU CỦA CÁC NGÀNH NÀY TĂNG KHÔNG ĐÁNG KỂ THÌ CẠNH TRANH QUỐC TẾ GAY GẮT BUỘC CÁC CÔNG TY PHẢI TÌM TÒI HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG LỚN HƠN, ĐIỀU NÀY KHIẾN HỌ PHẢI "KHỞI ĐỘNG" CÁC BƯỚC CƠ CẤU LẠI SẢN XUẤT MANG TÍNH CHẤT QUỐC TẾ. CÒN NGÀNH PHI CHẾ TẠO, ĐẶC BIỆT LÀ TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN, TRIỂN VỌNG TĂNG TRƯỞNG LÀ RẤT LỚN, XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN THEO HƯỚNG QUỐC TẾ HOÁ CÔNG VIỆC KINH DOANH VÀ NHỮNG TIẾN BỘ VỀ CÔNG NGHỆ ĐÃ TẠO RA NHU CẦU KHÔNG NGỪNG TĂNG LÊN ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH DICH VỤ QUY MÔ TOÀN CẦU. CÁC LÝ DO NÀY KHIẾN CÁC CÔNG TY NHẬT BẢN KHÔNG NGỪNG TẬP TRUNG VÀO CÁC NGÀNH KINH DOANH CHỦ CHỐT VÀ TIẾN TỚI MỞ RỘNG KINH DOANH TOÀN CẦU. RIÊNG ĐỐI VỚI KHU VỰC ĐÔNG Á, NƠI BỊ ẢNH HƯỞNG NẶNG NỀ NHẤT CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ, THÌ HOẠT ĐỘNG MUA LẠI VÀ SÁP NHẬP CŨNG BẮT ĐẦU ĐƯỢC HÂM NÓNG TRỞ LẠI TRONG NĂM 1999 VỚI 172 VỤ, DO CÁC CÔNG TY MẸ Ở NHẬT BẢN ĐÃ TĂNG THÊM VỐN HOẠT ĐỘNG CHO CÁC CÔNG TY CON Ở ĐÂY ĐỂ DUY TRÌ VÀ MỞ RỘNG SẢN XUẤT. MỘT ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC VỤ MUA LẠI VÀ SÁP NHẬP CỦA CÁC CÔNG TY NHẬT BẢN Ở ĐÔNG Á KỂ TỪ CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ 1997 LÀ CÁC CÔNG TY TRONG LĨNH VỰC CHẾ TẠO KHÔNG NGỪNG RÓT VỐN CHO CÁC CÔNG TY CON ĐỊA PHƯƠNG. NHÂN TỐ THÚC ĐẨY SỰ TĂNG
  48. TRƯỞNG NÀY LÀ CÁC QUỐC GIA BỊ KHỦNG HOẢNG ĐÃ NỚI LỎNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ HẠN CHẾ QUYỀN NẮM GIỮ CỔ PHẦN CỦA CÁC NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI. HÀNG LOẠT CÁC CÔNG TY NHẬT BẢN ĐÃ TẬN DỤNG ĐIỀU NÀY ĐỂ TĂNG TỶ LỆ NẮM GIỮ CỔ PHẦN CỦA CÁC CHI NHÁNH NƯỚC NGOÀI CỦA MÌNH LÊN TỚI 100% HOẶC Ở TỶ LỆ CHO PHÉP HỌ NẮM QUYỀN QUẢN LÝ CÔNG TY. 3.3.2 CHO VAY DÀI HẠN Nhật Bản nổi tiếng với những công ty tài chính khổng lồ với hàng trăm chi nhánh hoạt động khắp nơi ở các thị trường tài chính tiền tệ thế giới. Các ngân hàng Nhật Bản có sức mạnh đáng kể do số dư tài khoản có khổng lồ, đứng hàng đầu trên thị trường tư bản quốc tế. Nếu mười năm trước trong số 10 tổ chức tín dụng lớn nhất thế giới chỉ có một ngân hàng Nhật Bản thì năm 1990 có tới 7. Đứng đầu là ngân hàng "Daiichi Kangyo", thứ hai là tập đoàn tài chính "Taiyo Kobe Mitsu Hinko" mới hình thành cuối năm 1989 do sáp nhập hai ngân hàng "Mitsu" và "Taiyo Kobe". Tài khoản của ngân hàng này gấp đôi tài khoản có của ngân hàng khổng lồ Mỹ "City Corp" vào thời điểm đó. Các cuộc sáp nhập ngân hàng ở Nhật Bản đã đưa các ngân hàng Nhật Bản đạt đến trình độ mà hiện nay cả Mỹ và Tây Âu đều chưa đạt đến do đạo luật chống độc quyền hạn chế. Với sức mạnh tài chính của mình, các công ty tài chính đã đẩy mạnh hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thông qua hình thức cung cấp tín dụng dài hạn cho các doanh nghiệp nước ngoài. Do đó hình thức cho vay vốn có giá trị khá ổn định trong suốt từ năm 1990 đến nay. Năm 1991, tổng số tiền cho vay lên đến 19.097 triệu Yên, chiếm tới 33,5% tổng JDI năm đó, điều này cũng đánh dấu một sự phát triển phồn thịnh của giới tài chính Nhật Bản lúc này. Năm 1992 mặc dù lượng vốn cho vay có giảm nhưng tốc độ giảm chỉ 17% so với năm 1991, thấp hơn tốc độ giảm của tổng lượng vốn JDI là 32% do đó tỷ trọng vốn vay trong JDI vẫn đạt 35%. Năm 1993 tỷ trọng này giảm nhẹ xuống còn 33% và năm 1996 giá trị vốn cho vay đạt mức thấp nhất chỉ còn 12.430 tỷ Yên. Vào thời gian này các công ty tài chính đang phải gánh chịu một khoản nợ khó đòi lên tới 500 tỷ Yên cho hậu quả của những hợp đồng cho vay thiếu cân nhắc kỹ càng
  49. trong thời kỳ kinh tế bong bóng. Do đó, các công ty này phải sắp xếp lại các khoản nợ khó đòi cũng như thu hẹp lại các khoản cho vay do hiệu quả của chúng khồng còn cao như trước nữa. Năm 1997, cùng với sự tăng trưởng của các vụ mua lại và sáp nhập thì giá trị của các khoản cho vay cùng tăng lên 22% và năm 1998 lại tăng lên 25% so với năm 1997. Một mặt, các nhà đầu tư bắt đầu di chuyển các khoản cho vay sang Châu Âu, nơi ít bị ảnh hưởng của cơn bão tài chính 1997, mặt khác họ lại tiếp tục tài trợ thêm cho các công ty ở Châu Á, địa bàn hoạt động chiến lược của mình để giúp các công ty này vượt qua cơn sóng gió. Tuy nhiên, giá trị các khoản vốn vay lại liên tục tụt dốc vào năm 1999, 2000 và năm 2001 do số công ty bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng lâm vào phá sản ngày càng nhiều làm cho các khoản nợ khó đòi ngày một gia tăng trong khi hoạt động tài chính của Nhật Bản ở Châu Âu bị thu hẹp do không đạt được hiệu quả như mong muốn. 3.3.3 Thành lập các chi nhánh mới Như đã đề cập ở trên, các nhà đầu tư của Nhật Bản ưa thích hình thức đầu tư mua lại nhà máy đang hoạt động hơn là xây dựng các nhà máy mới, do đó, lượng JDI đầu tư vào hình thức này rất ít cũng như số lượng nhà máy được xây dựng hàng năm cũng không đáng kể. Tuy nhiên, nếu xét riêng hình thức này thì chúng ta sẽ thấy có sự thay đổi về số lượng cũng như quy mô dự án xây dựng trước và sau cuộc khủng hoảng Châu Á 1997. Từ năm 1996 trở về trước, số doanh nghiệp được xây dựng trung bình hàng năm là 31 doanh nghiệp/năm với số vốn trung bình 2 tỷ Yên. Kể từ năm 1991, hầu hết các nhà máy được xây dựng mới hoàn toàn đều nằm ở Châu Á, đặc biệt là năm 1994, 36 trong tổng số 39 nhà máy được xây dựng mới khắp thế giới của Nhật Bản được đặt ở Châu Á. Điều này cũng thật dễ hiểu bởi vì hầu hết các nước ở Châu Á đang trong quá trình công nghiệp hoá, cơ sở vật chất hạ tầng hầu như chưa có gì, các nhà máy ở đây hầu hết đã lạc hậu, cũ kỹ nên các nhà đầu tư không mặn mà mấy với việc mua lại và sáp nhập. Hơn nữa, chính phủ của các nước này lại tập trung vào xây dựng các khu công nghiệp và kêu gọi đầu tư vào đây nên các nhà đầu tư không còn cách nào khác là phải đầu tư thành lập
  50. cơ sở kinh doanh mới hoàn toàn nếu như họ muốn làm ăn lâu dài tại địa phương này. Kể từ năm 1997, số nhà máy được xây dựng mới mỗi năm giảm đi nhanh chóng, từ năm 1998 đến năm đầu năm 2002 chỉ có 25 nhà máy được xây dựng thêm và tất cả nằm ở Châu Á. Tuy nhiên quy mô vốn trung bình của mỗi dự án đã lên tới 65,2 tỷ Yên cao gấp ba lần con số của giai đoạn trước khủng hoảng. Điều này chứng tỏ các nhà đầu tư Nhật Bản đã nhận thức được hiệu quả kinh tế theo quy mô và chỉ những doanh nghiệp có số vốn đủ lớn thì mới đủ sức chống chọi trước những biến động của nền kinh tế thế giới cũng như sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp trong cùng ngành. Bảng 7: Số doanh nghiệp và chi nhánh của Nhật Bản được xây dựng mới ở nước ngoài Năm Bắc Mỹ Châu Âu Châu Á Khu vực khác Số nhà Giá Số nhà Số nhà Số nhà Giá trị Giá trị Giá trị máy trị máy máy máy 1989 46 463 11 341 14 137 2 60 1990 19 62 18 819 8 139 4 147 1991 3 48 11 390 10 160 1 38 1992 3 15 4 94 17 220 2 136 1993 3 107 4 15 24 137 2 40 1994 2 11 - - 36 298 1 95 1995 6 242 1 65 25 533 1 98 1996 1 36 3 141 14 862 1 120 1997 - - 2 241 8 330 1 134 1998 - - - - 6 141 - - 1999 - - - - 6 113 - - 2000 1 12 1 15 1 250 - - 2001 - - - - 6 358 - - 2001 - - - - 6 355 - - 2002 - - - - 4 312 - -
  51. Nguồn: Tổng hợp từ số liệu thống kê của Bộ Tài chính Nhật Bản 17/9/2002 Có thể nói trong những năm 1990, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á 1997, chính sách đầu tư của các tập đoàn kinh tế Nhật Bản vận động theo hướng tập trung duy trì, nâng cao hiệu quả của các cơ sở sản xuất hiện có và tăng quy mô vốn để nhằm dành lợi thế trong cạnh tranh trên thị trường thế giới. Do đó, hình thức đầu tư của họ cũng được điều chỉnh để phù hợp với chính sách này: các vụ sáp nhập cũng như đầu tư xây dựng nhà máy mới không ngừng tăng lên xét về quy mô vốn, từ đó vị thế của các công ty Nhật Bản cũng được nâng lên trong môi trường kinh doanh toàn cầu. 4. Đánh giá về hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản từ năm 1990 4.1 Những thành tựu đạt được 4.1.1 Hoạt động JDI đã góp phần thực hiện thành công chính sách đối ngoại của Nhật Bản Từ năm 1990 đến nay, Nhật Bản đã chuyển mạnh từ chính sách lấy xuất khẩu làm lợi ích sống còn sang chính sách đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài làm nội dung chủ yếu của chiến lược kinh tế đối ngoại. Về cơ bản hoạt động đầu tư nước ngoài của Nhật Bản đã góp phần thực hiện thành công chiến lược kinh tế đối ngoại này. Bắt đầu từ nửa sau những năm 80, chiến lược kinh tế đối ngoại của Nhật Bản đã được điều chỉnh nhằm giải quyết những yêu cầu sau đây: Một là, giảm sự lệ thuộc tự nhiên vào các nguồn cung cấp nguyên liệu của nước ngoài; Hai là, đa dạng hoá thị trường và sản phẩm xuất khẩu trong trường hợp có biến động bất lợi cho nền kinh tế Nhật Bản; Ba là, giảm thiểu những mất cân đối giữa nhập khẩu và xuất khẩu, gây tình trạng tách nền kinh tế Nhật Bản ở chừng mực nhất định với thị trường thế giới; Bốn là, giải quyết tình trạng dư thừa tư bản, thặng dư cán cân thanh toán do tình trạng thường xuyên xuất siêu của nền kinh tế. Về thực chất, các yêu cầu này đặt ra cho nền kinh tế Nhật Bản tham gia thực sự vào phân công lao động quốc tế mới, hoà nhập tốt hơn vào cộng đồng quốc tế.
  52. Nếu như các hãng của Mỹ chủ yếu tập trung vào cung ứng cho thị trường nước ngoài hơn là chuyển một phần thành phẩm về Mỹ thì ngược lại, các công ty của Nhật Bản lại rất chú ý hướng về thị trường Nhật Bản trong khi mở rộng hoạt động ra nước ngoài. Khoảng 10% trong tổng sản lượng của các hãng thuộc sở hữu của Nhật Bản được tái nhập về Nhật Bản vào năm 1995, trong khi tỷ lệ này năm 1986 chỉ là 4%. Hầu như tất cả các công ty của Nhật Bản tại Mỹ bán sản phẩm tại thị trường này thì các chi nhánh của Nhật Bản tại Châu Á lại ngày càng tăng cường xuất khẩu về Nhật Bản. Ví dụ như 87% các dự án đầu tư của Nhật Bản vào Thái Lan đầu năm 1994 để cung cấp hàng xuất khẩu, sẽ cung cấp 80% sản phẩm của mình trở lại Nhật Bản. Đây cũng là hướng trở nên hấp dẫn hơn đối với công ty Nhật Bản, nhất là những ngành chế tạo cần nhiều lao động, nguyên liệu và kỹ thuật thấp đã không tìm thấy lợi nhuận nếu còn được tiếp tục được sản xuất trong nước. Năm 1998, nhập khẩu từ các chi nhánh nước ngoài chiếm 14% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản (năm 1992 con số này là 4%). Về thực chất, phương thức tái nhập những hàng hoá do các cơ sở Nhật Bản sản xuất ở nước ngoài là sự chu chuyển mậu dịch nội bộ ngành công nghiệp và nội bộ các công ty Nhật Bản trên quy mô khu vực và toàn cầu. Một mặt nó phản ánh ở chừng mực nhất định tính chất khép kín của các công ty Nhật Bản, sự ảnh hưởng của tàn dư bảo hộ nền kinh tế Nhật Bản khá chặt chẽ từ các thập kỷ trước. Mặt khác, nó cũng phản ánh xu hướng tận dụng lợi thế so sánh về lao động, nguyên liệu thị trường ở nước ngoài của các công ty Nhật Bản qua việc liên kết chặt chẽ các mạng lưới chi nhánh với công ty mẹ và theo sự phân công lao động của công ty mẹ. Như vậy, với những điều chỉnh của chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài được bổ sung hữu hiệu với chính sách ngoại thương và chính sách chuyển giao công nghệ không trọn gói đã cơ bản đáp ứng được các mục tiêu mà chính sách đối ngoại đã đặt ra trong từ năm 1990 đến nay. Kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản không ngừng tăng lên trong khi thặng dư thương mại đã giảm dần, giảm được sức ép về thặng dư cán cân thanh toán cũng như làm dịu được những căng thẳng trong quan hệ buôn bán với các nước bạn hàng.
  53. Đồng thời xu hướng vận động của dòng JDI cũng tạo cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài thâm nhập thị trường Nhật Bản do cạnh tranh ở đây bớt gay gắt hơn, tận dụng được những lợi thế về thị trường hơn một trăm triệu dân với mức thu nhập bình quân đầu người cao nhất nhì thế giới. Chính luồng vốn đầu tư này đã bổ sung hữu hiệu vào những khiếm khuyết của nền kinh tế Nhật Bản cũng như tăng tính cạnh tranh của thị trường nội địa, thúc đẩy sản xuất phát triển. Việc tăng cường thu hút FDI trước hết là một yêu cầu khách quan do quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ buộc chính phủ Nhật Bản phải mở cửa thị trường vốn được bảo hộ rất chặt chẽ từ mấy thập kỷ trước. Hơn nữa, để thúc đẩy hoạt động đầu tư ra nước ngoài, chính phủ phải ký kết các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song và đa phương. Do đó, Nhật Bản không thể không ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài tại nước mình. Bên cạnh đó, do FDI là biện pháp có sức mạnh để xâm nhập thị trường nước chủ nhà, đây cũng là phương pháp để chiếm được nhiều thị phần quốc tế nên Mỹ và Tây Âu đã nhiều lần gây sức ép đối với Nhật Bản, bắt nước này phải sớm thực hiện việc tự do hoá đầu tư, dỡ bỏ những trở ngại để tư bản nước ngoài lọt vào Nhật Bản. Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản đã trực tiếp và gián tiếp thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Nhật Bản. Kết quả là, Nhật Bản đã phần nào giải quyết được những căng thẳng do tình trạng thặng dư cán cân thanh toán gây ra 4.1.2 Cơ hội kinh doanh của các công ty Nhật Bản ngày càng được mở rộng. THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG JDI, CƠ HỘI KINH DOANH CỦA CÁC CÔNG TY NHẬT BẢN NGÀY CÀNG ĐƯỢC MỞ RỘNG, LỢI NHUẬN THU ĐƯỢC NGÀY CÀNG TĂNG, ƯU THẾ CẠNH TRANH VỚI CÁC CÔNG TY KHÁC CÙNG NGÀNH ĐƯỢC CỦNG CỐ. CHO DÙ TỪ NĂM 1991, CHỊU ẢNH HƯỞNG CỦA GIÁ CẢ CHỨNG KHOÁN TRONG NƯỚC SỤT XUỐNG VÀ HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ VÀO CHÂU ÂU VÀ MỸ CUỐI THẬP NIÊN 80 KHÔNG CAO, NHƯNG TỐC ĐỘ VÀ QUY MÔ MỞ RỘNG Ở NƯỚC NGOÀI CỦA CÁC TẬP ĐOÀN CÔNG TY CỦA NHẬT BẢN VÀO NỬA ĐẦU THẬP KỶ 90 VẪN TĂNG NHANH ĐÁNG KỂ. NĂM 1992 TRONG BẢNG
  54. XẾP HẠNG 10 TNCS KIỂU DỊCH VỤ TỔNG HỢP LỚN NHẤT THẾ GIỚI THÌ CÓ 9 CÔNG TY LÀ CỦA NHẬT BẢN, MỨC TIÊU THỤ HÀNG NĂM CỦA 5 CÔNG TY NHẬT BẢN TRONG GIAI ĐOẠN NÀY LÊN TỚI 130 TỶ USD. TRONG 100 NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI LỚN NHẤT THỜI ĐÓ, SỐ LƯỢNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỦA NHẬT BẢN CHIẾM 1/3. VIỆC CÁC CÔNG TY NHẬT BẢN VỚI TƯ CÁCH LÀ NGƯỜI ĐẾN SAU TRONG KINH DOANH XUYÊN QUỐC GIA CŨNG ĐÃ XÂM NHẬP THÀNH CÔNG TRÊN THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ, CHỦ YẾU NHỜ ÁP DỤNG CHIẾN LƯỢC ĐẶC BIỆT VỀ KINH DOANH VÀ TIÊU THỤ TRÊN THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ. CÁC CÔNG TY TỔNG HỢP CỦA NHẬT BẢN ĐÃ PHÁT HUY ĐƯỢC TÁC DỤNG TRONG CHIẾN LƯỢC XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC BẰNG BUÔN BÁN VÀ ĐẦU TƯ, BIẾN MỘT NƯỚC BỊ TÀN PHÁ SAU CHIẾN TRANH THÀNH MỘT CƯỜNG QUỐC KINH TẾ SỐ HAI, CHỈ ĐỨNG SAU MỸ, KẺ ĐÃ CHIẾN THẮNG NHẬT BẢN TRONG CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI. CHO ĐẾN NAY, CHỈ TÍNH RIÊNG 9 TNCS LỚN NHẤT CỦA NHẬT BẢN ĐÃ CÓ TỚI 1.000 CHI NHÁNH Ở NƯỚC NGOÀI VỚI HAI VẠN NHÂN VIÊN LÀM VIỆC RẢI RÁC CẢ NĂM CHÂU LỤC. VỚI NHỮNG ĐẶC TRƯNG RÕ RỆT NHƯ: THỰC LỰC HÙNG HẬU, NGHIỆP VỤ CHUYÊN SÂU, CHỨC NĂNG ĐA DỤNG, NHỮNG CÔNG TY CỦA NHẬT BẢN ĐÃ PHÁT TRIỂN THÀNH NHỮNG TẬP ĐOÀN XUYÊN QUỐC GIA KIỂU CHỦ ĐẠO TRONG BUÔN BÁN QUỐC TẾ HIỆN ĐẠI. TRONG DANH SÁCH XẾP HẠNG CỦA "BUSINESS WEEK" VỀ 500 TNCS LỚN NHẤT CÓ TỚI 65 CÔNG TY LÀ CỦA NHẬT BẢN. Bảng 8: Sự phân bổ của 500 TNCs có giá trị lớn nhất thế giới năm 1999 Thứ tự Nước Số TNCs Thứ tự Nước Số TNCs 1 Mỹ 239 6 Hà Lan 14 2 Nhật Bản 65 7 Italia 12 3 Anh 50 8 Thụy Sỹ 10 4 Pháp 23 9 Canađa 9 5 Đức 21 10 Tây Ban Nha 9
  55. Nguồn: Business Week tháng 11/1999 CÁC CÔNG TY CỦA NHẬT BẢN ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI THÔNG QUA HÌNH THỨC MUA LẠI SÁP NHẬP ĐỂ BIẾN MÌNH THÀNH NHỮNG CÔNG TY HÀNG ĐẦU THẾ GIỚI. SAU KHI SÁP NHẬP VỚI CÔNG TY THUỐC LÁ RJ REYNOLDS INTERNATIONAL, CÔNG TY THUỐC LÁ NHẬT BẢN JAPAN TOBACO ĐÃ NHẢY LÊN VỊ TRÍ THỨ BA THẾ GIỚI XÉT VỀ MẶT DOANH THU, CHIẾM 7,3% THỊ PHẦN THỊ TRƯỜNG THUỐC LÁ TOÀN CẦU. TƯƠNG TỰ NHƯ THẾ, DOANH THU CỦA TẬP ĐOÀN TOYOTA LOOM CŨNG ĐÃ TĂNG LÊN TỪ CHỖ CHIẾM 13% THỊ PHẦN THẾ GIỚI ĐẾN 21% VÀ XẾP TỪ THỨ BA LÊN THỨ NHẤT TRONG BẢNG XẾP HẠNG CÁC CÔNG TY CÙNG NGÀNH. TẬP ĐOÀN HOÁ CHẤT KHỔNG LỒ CỦA NHẬT BẢN SHIN-ETSU SAU KHI MUA LẠI LIÊN DOANH ROBIN BV CỦA HÀ LAN VÀ ANH THÌ KHẢ NĂNG SẢN XUẤT LÊN TỚI 5,55 TRIỆU TẤN HOÁ CHẤT MỖI NĂM, TRỞ THÀNH HÃNG SẢN XUẤT HOÁ CHẤT LỚN NHẤT THẾ GIỚI. MỘT VÍ DỤ NỮA LÀ VÀO THÁNG 7/1999, TẬP ĐOÀN KHAI KHOÁNG VÀ LUYỆN KIM NIPPON MINING & METALS ĐÃ THÔN TÍNH CHI NHÁNH KHAI THÁC QUẶNG ĐỒNG CỦA TẬP ĐOÀN LG, VÀ VÀO THÁNG 9 NĂM ĐÓ, CẢ HAI TẬP ĐOÀN NÀY ĐÃ THÀNH LẬP LIÊN DOANH MANG TÊN LG-NIKKO COPPER. KẾT QUẢ LÀ TẬP ĐOÀN NIPPON MINING & METALS ĐÃ LEO LÊN VỊ TRÍ THỨ BA TRONG BẢNG XẾP HẠNG TOÀN CẦU VỀ LĨNH VỰC SẢN XUẤT QUẶNG ĐỒNG SO VỚI VỊ TRÍ THỨ 7 NĂM 1998. NGÀNH CÔNG NGHIỆP QUẢNG CÁO CŨNG CHỨNG KIẾN SỰ THÀNH CÔNG CỦA TẬP ĐOÀN DENTSU, VỐN XẾP THỨ NĂM THẾ GIỚI NĂM 1999 XÉT VỀ LỢI NHUẬN GỘP, SAU KHI MUA LẠI 20% CỔ PHẦN CỦA TẬP ĐOÀN MỚI BCOM3 ĐÃ NHẢY LÊN VỊ TRÍ THƯ TƯ NGAY MỘT NĂM SAU ĐÓ. NHƯ VẬY, CHỈ NHỜ HOẠT ĐỘNG FDI THÌ CÁC TẬP ĐOÀN LỚN CỦA NHẬT BẢN MỚI CÓ THỂ NÂNG CAO ƯU THẾ CẠNH TRANH CỦA MÌNH TRONG MÔI TRƯỜNG KINH DOANH QUỐC TẾ THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG LIÊN MINH THÔN TÍNH VỚI CÁC HÃNG CÓ TÊN TUỔI NHẰM PHÁT HUY CÁC LỢI THẾ SO SÁNH CỦA MÌNH.
  56. Cơ hội kinh doanh của các công ty Nhật Bản ngày càng được mở rộng còn được thể hiện ở chỗ các mặt hàng với nhãn mác "Sản xuất từ Nhật Bản" hoặc "Sản xuất theo công nghệ Nhật Bản" có mặt khắp nơi trên thế giới. Theo điều tra của tạp chí The Economist, công ty Toyota của Nhật Bản đã có 258 nhà máy chế tạo ô tô ở 116 nước trên toàn thế giới và có cơ sở bán hàng ở hầu hết các nước trên thế giới. Doanh thu bán hàng của hãng năm 1999 ở Châu Phi là 580 triệu USD, con số này tuy chỉ chiếm chưa đầy 0,1% doanh số bán hàng của hãng trong năm đó xét trên quy mô toàn cầu nhưng với doanh thu năm 1996 là 140 triệu USD thì con số này đã tăng lên đáng kể. Theo một cuộc điều tra về sự nổi tiếng của các hãng ô tô do Hiệp hội các nhà sản xuất Nhật Bản (JAPA) tiến hành tại Nam Phi thì 85,5% người được hỏi trả lời họ đã nghe đến nhãn hiệu Toyota và con số này đối với General Motor là 80% và Mitsubishi là 50%. Hãng Sony của Nhật Bản lại đặc biệt thành công ở Châu Á. Hàng năm hãng này cung cấp tới 25% các loại mặt hàng điện tử dân dụng ở đây, doanh thu đạt tới 740 tỷ Yên vào năm 1999. Sản phẩm của hãng Sony hầu như được sản xuất tại Đài Loan, Hồng Kông hay Singapore rồi lại xuất sang một nước Châu Á thứ ba khác, do đó giá thành sản phẩm thấp sức cạnh tranh cao. Tờ báo European News đã bình luận về sức cạnh tranh của hàng hoá Nhật Bản như sau: "Tên tuổi của các hãng Nhật Bản có mặt ở khắp nơi, từ các tiện nghi sang trọng tại các toà nhà cao ốc phương Tây đến các đồ dùng gia đình tinh giản tại các nước Châu Á, từ các sợi quang chất dẻo tổng hợp trên các linh kiện tàu vũ trụ con thoi cho đến các đồ dùng nhựa tổng hợp hàng ngày, Trong một ngày khoảng 50% dân số được phục vụ bởi ít nhất 1 sản phẩm sản xuất bởi các hãng Nhật Bản một cách trực tiếp." 4.1.3 Thế cân bằng trong quan hệ kinh tế giữa Nhật Bản với Mỹ và EU được tạo lập Một thành công khác mà hoạt động JDI từ năm 1990 đến nay mang lại là đã tạo lập được thế cân bằng trong quan hệ kinh tế với Mỹ và EU. Nhật Bản đã vươn lên thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới nhưng xét trên bình diện kinh doanh quy mô toàn cầu thì Nhật Bản vẫn là người đến sau. Hơn nữa kinh tế