Luận án Kinh tế du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ trong hội nhập kinh tế quốc tế

pdf 186 trang hapham 2150
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Kinh tế du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ trong hội nhập kinh tế quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_an_kinh_te_du_lich_o_cac_tinh_bac_trung_bo_trong_hoi_nh.pdf

Nội dung text: Luận án Kinh tế du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ trong hội nhập kinh tế quốc tế

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ HỒNG LÂM KINH TẾ DU LỊCH Ở CÁC TỈNH BẮC TRUNG BỘ TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ HÀ NỘI - 2013
  2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ HỒNG LÂM KINH TẾ DU LỊCH Ở CÁC TỈNH BẮC TRUNG BỘ TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Chuyên ngành : Kinh tế chính trị Mã số : 62 31 01 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS. AN NHƯ HẢI HÀ NỘI - 2013
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong luận án là trung thực. Những kết luận nêu trong luận án chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình khoa học nào khác. Tác giả luận án Nguyễn Thị Hồng Lâm
  4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ KINH TẾ DU LỊCH 6 1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài về kinh tế du lịch 6 1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước về kinh tế du lịch 11 1.3. Khái quát kết quả các công trình nghiên cứu đã công bố và vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu về kinh tế du lịch 25 Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KINH TẾ DU LỊCH TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 30 2.1. Kinh tế du lịch và các bộ phận cấu thành kinh tế du lịch 30 2.2. Mối quan hệ giữa kinh tế du lịch với sự phát triển kinh tế - xã hội và các nhân tố ảnh hưởng đến kinh tế du lịch trong hội nhập kinh tế quốc tế 47 2.3. Kinh nghiệm phát triển kinh tế du lịch của nước ngoài có khả năng vận dụng ở Việt Nam nói chung và các tỉnh Bắc Trung Bộ nói riêng 62 Chương 3: THỰC TRẠNG KINH TẾ DU LỊCH Ở CÁC TỈNH BẮC TRUNG BỘ TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY 72 3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của các tỉnh Bắc Trung Bộ có ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế du lịch 72 3.2. Thực trạng kinh tế du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ trong hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 2000 đến nay 80 3.3. Đánh giá thực trạng kinh tế du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ trong hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 2000 đến nay 94 Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH Ở CÁC TỈNH BẮC TRUNG BỘ TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 113 4.1. Bối cảnh và phương hướng phát triển kinh tế du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 113 4.2. Giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ trong hội nhập kinh tế quốc tế 125 KẾT LUẬN 149 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152 PHỤ LỤC 159
  5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN ASEAN Hiệp hội các nước Đông Nam Á CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CSVC - HT Cơ sơ vật chất - hạ tầng DLST Du lịch sinh thái DNDL Doanh nghiệp du lịch EWEC Hành lang kinh tế Đông - Tây GDP Tổng sản phẩm quốc nội GMS Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng HNKTQT Hội nhập kinh tế quốc tế KH - CN Khoa học - công nghệ KT - XH Kinh tế - xã hội KTDL Kinh tế du lịch KTTT Kinh tế thị trường MICE Du lịch kết hợp Hội nghị Nxb Nhà xuất bản NC & PT Nghiên cứu và phát triển QP - AN Quốc phòng - An ninh UNESCO Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc WTO Tổ chức thương mại thế giới XHCN Xã hội chủ nghĩa
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 3.1: Số lượng cơ sở lưu trú du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ (2000 - 2011) 86 Bảng 3.2: Chất lượng cơ sở lưu trú du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ (2009 - 2011) 87 Bảng 3.3: Tình hình phát triển sản phẩm du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ từ năm 2000 đến nay 90 Bảng 3.4: Thu nhập từ khách du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ (2000 - 2011) 95 Bảng 3.5: Tỷ lệ lao động trong kinh tế du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ so với cả nước (2000 - 2011) 99 Bảng 3.6: Chất lượng nguồn nhân lực du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ phân theo trình độ (2005 - 2010) 109 Bảng 4.1: Cam kết gia nhập WTO của Việt Nam về dịch vụ du lịch và dịch vụ liên quan 114 Bảng 4.2: Dự báo các chỉ tiêu phát triển kinh tế du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ 119
  7. DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Trang Biểu đồ 3.1: Số lượng khách quốc tế đến các tỉnh Bắc Trung Bộ (2000 - 2011) 81 Biểu đồ 3.2: Thống kê một số thị trường khách quốc tế đến các tỉnh Bắc Trung Bộ (2005 - 2011) 82 Biểu đồ 3.3: So sánh lượng khách quốc tế đến các tỉnh Bắc Trung Bộ với các vùng khác trong nước (2000 - 2011) 83 Biểu đồ 3.4: Số lượng khách nội địa đến các tỉnh Bắc Trung Bộ (2000 - 2011) 84 Biểu đồ 3.5: So sánh lượng khách nội địa đến các tỉnh Bắc Trung Bộ với các vùng khác (2000 - 2011) 85 Biểu đồ 3.6: So sánh tổng thu nhập từ khách du lịch khu vực Bắc Trung Bộ với các khu vực khác (2000 - 2011) 95 Biểu đồ 3.7: Cơ cấu tổng thu nhập từ khách du lịch của các tỉnh Bắc Trung Bộ (2009 - 2011) 96 Biểu đồ 3.8: Cơ cấu tổng thu nhập từ khách du lịch của các tỉnh Bắc Trung Bộ phân theo các thành phần kinh tế (2005 - 2011) 97 Biểu đồ 3.9: Quy mô việc làm trong kinh tế du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ (2000 - 2011) 98 Biểu đồ 3.10: Cơ cấu kinh tế ngành trong GDP của vùng Bắc Trung Bộ (2006 - 2011) 100
  8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao. Hoạt động của ngành kinh tế này không chỉ đáp ứng nhu cầu du lịch ngày càng tăng của người dân mà còn đóng vai trò quan trọng “xuất khẩu tại chỗ” các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ ra ngước ngoài. Nhiều nước đã coi KTDL là ngành “công nghiệp không khói”, mang lại lợi ích vô cùng to lớn. KTDL không chỉ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của đất nước, mà còn tạo động lực phát triển các ngành kinh tế khác, tạo nhiều cơ hội việc làm và thu nhập cho người dân, là phương tiện quảng bá hiệu quả hình ảnh đất nước v.v Ở Việt Nam, ngành du lịch được thành lập từ năm 1960, tuy nhiên, du lịch chỉ thực sự được xem là ngành kinh tế từ những năm 1990 khi đất nước mở cửa hội nhập với khu vực và quốc tế. Từ đó đến nay, KTDL đã phát triển nhanh chóng và đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Theo Tổng cục Du lịch, năm 2012 số khách quốc tế đến Việt Nam đạt hơn 6,8 triệu lượt, tăng gần 14% so với năm 2011. Khách du lịch nội địa đạt 32,5 triệu lượt, tăng hơn 8,3% so với năm 2011. Nhờ vậy, năm 2012 tổng nhập từ khách du lịch đạt 160.000 tỷ đồng, tăng trên 23% so với năm trước. Ngoài những đóng góp trên, du lịch còn góp phần quan trọng vào quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam với cộng đồng quốc tế, thúc đẩy giao lưu văn hóa, tăng cường hiểu biết giữa các dân tộc và nhiều quốc gia trên thế giới. Bắc Trung Bộ là vùng kinh tế bao gồm sáu tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế, với diện tích tự nhiên là 84.163,3 km2, dân số là 16.556,7 nghìn người. Bắc Trung Bộ là lãnh thổ tập trung nhiều tiềm năng có giá trị về du lịch với sự đa dạng về thiên nhiên (bãi biển, hang động, lăng tẩm, nhiều cảnh quan tự nhiên độc đáo, điển hình: bãi biển Sầm Sơn, Cửa Lò, Thiên Cầm, Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng); giàu bản sắc về văn hóa với nhiều di tích lịch sử văn hóa, đặc biệt là các di sản văn hóa thế giới như: Thành nhà Hồ, quần thể di tích cố đô Huế với nhã
  9. 2 nhạc cung đình và nhiều di tích có giá trị: di tích chủ tịch Hồ Chí Minh tại Kim Liên, địa đạo Vĩnh Mốc, thành cổ Quảng Trị, v.v Mặt khác, với vị trí địa lý thuận tiện giao thông đường bộ, đường sắt và đường biển khá phát triển tạo điều kiện cho KTDL ở các tỉnh Bắc Trung Bộ phát huy được lợi thế, thu hút khách du lịch. Trong những năm qua, KTDL ở các tỉnh Bắc Trung Bộ đã có những bước phát triển đáng khích lệ, tăng trưởng du lịch đã có những đóng góp quan trọng vào công cuộc CNH, HĐH của vùng nói riêng, của đất nước nói chung, thể hiện ở đóng góp của ngành trong giá trị tổng sản phẩm kinh tế vùng. Hoạt động du lịch đã góp phần tạo nhiều cơ hội việc làm và thu nhập cho cộng đồng, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, giữ vững QP - AN của vùng. Tuy nhiên, sự phát triển hiện nay của KTDL so với yêu cầu HNKTQT và tiềm năng của vùng còn hạn chế. Du lịch chưa thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn như đã được xác định trong Nghị quyết của các cấp ủy Đảng của các địa phương trong vùng, chưa có bước phát triển đột phá và khai thác có hiệu quả tiềm năng và lợi thế về du lịch của các tỉnh. Chất lượng sản phẩm du lịch chưa cao, loại hình chưa thật sự phong phú, đặc sắc với bản sắc văn hoá riêng, chưa có được những sản phẩm du lịch có giá trị gia tăng cao. Giá cả so sánh trong một số khâu dịch vụ còn cao dẫn tới kém sức cạnh tranh quốc tế. Nhiều khu du lịch, điểm du lịch còn khai thác ở dạng tự phát, chưa được đầu tư đúng tầm. Chương trình du lịch còn đơn điệu, trùng lặp, chưa đáp ứng nhu cầu của từng đối tượng khách, của mỗi thị trường. Dịch vụ du lịch chưa đa dạng, chất lượng hạn chế, ít hấp dẫn. Chưa có nhiều thương hiệu mạnh, có uy tín trên thị trường. Việc bảo tồn, tôn tạo, nâng cấp các di tích lịch sử văn hoá, lịch sử cách mạng và giữ gìn cảnh quan môi trường chưa thực sự được chú trọng đầu tư, thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành. Hoạt động tuyên truyền quảng bá du lịch trong nước, khu vực và quốc tế còn nhiều hạn chế, tính chuyên nghiệp chưa cao, cung cấp chưa đủ và kịp thời thông tin cho du khách và các nhà đầu tư.
  10. 3 Vấn đề đặt ra hiện nay là làm như thế nào để phát huy tiềm năng, lợi thế của KTDL trong toàn vùng trước yêu cầu HNKTQT sâu rộng đem lại hiệu quả KT - XH cao? Trong bối cảnh đó việc nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài: “Kinh tế du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ trong hội nhập kinh tế quốc tế” để nghiên cứu làm luận án tiến sĩ chuyên ngành kinh tế chính trị tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh sẽ không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn góp phần cho phát triển KTDL ở các tỉnh Bắc Trung Bộ trong thời gian tới. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án - Mục đích nghiên cứu: Thúc đẩy phát triển KTDL ở các tỉnh Bắc Trung Bộ trong điều kiện Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn, đầy đủ hơn vào các quan hệ kinh tế quốc tế dưới góc độ kinh tế chính trị. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt mục đích nêu trên, luận án có các nhiệm vụ: + Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về KTDL trong HNKTQT của một vùng lãnh thổ Việt Nam dưới góc độ kinh tế chính trị. + Đánh giá thực trạng KTDL trong HNKTQT ở các tỉnh Bắc Trung Bộ, chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong phát triển KTDL ở các tỉnh này. + Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển KTDL ở các tỉnh Bắc Trung Bộ trong HNKTQT đến năm 2020. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án - Đối tượng nghiên cứu: Toàn bộ các quan hệ trong KTDL bao gồm: kinh doanh lữ hành, kinh doanh lưu trú du lịch, kinh doanh vận chuyển khách du lịch, kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch và kinh doanh dịch vụ du lịch khác ở các tỉnh Bắc Trung Bộ trong HNKTQT.
  11. 4 - Phạm vi nghiên cứu: + Về không gian: Luận án nghiên cứu KTDL ở các tỉnh Bắc Trung Bộ từ tiếp cận kinh tế vùng được xác định trong Chiến lược phát triển du lịch của Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020, tầm nhìn 2030 là vùng phát triển du lịch Bắc Trung Bộ. Vùng phát triển du lịch này bao gồm sáu tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Luận án không nghiên cứu riêng rẽ từng tỉnh trong vùng mà coi KTDL của mỗi tỉnh là một bộ phận cấu thành KTDL Bắc Trung Bộ của Việt Nam. + Về thời gian: Phần phân tích, đánh giá thực trạng tính từ năm 2000 đến nay; phần phương hướng, giải pháp xác định đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án - Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm, đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước ta về phát triển KTDL. - Phương pháp nghiên cứu: + Nghiên cứu sinh sử dụng các phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị bao gồm: phương pháp trừu tượng hóa, phân tích - tổng hợp, lôgic kết hợp với lịch sử + Ngoài ra, nghiên cứu sinh còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của kinh tế học hiện đại gồm: phương pháp thống kê, phân tích định lượng, phương pháp chuyên gia, phương pháp so sánh, đồng thời tiếp thu có chọn lọc một số kết quả của các công trình khoa học đã công bố trong quá trình nghiên cứu luận án. 5. Những đóng góp về khoa học và giá trị của luận án - Hệ thống hóa lý luận về KTDL trong HNKTQT của một vùng du lịch ở Việt Nam dưới góc độ kinh tế chính trị. Trong đó, luận án đã khái quát các yếu tố cấu thành KTDL, phân tích làm rõ mối quan hệ giữa KTDL với sự phát triển KT - XH và các nhân tố ảnh hưởng đến KTDL trong HNKTQT.
  12. 5 - Chọn lọc một số bài học kinh nghiệm về phát triển KTDL của nước ngoài tham khảo cho KTDL ở Việt Nam nói chung và các tỉnh Bắc Trung Bộ nói riêng. - Đánh giá thực trạng về KTDL, luận án phân tích những thành tựu, hạn chế của KTDL ở các tỉnh Bắc Trung Bộ trong HNKTQT. Từ đó, phân tích những nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan dẫn đến những thành tựu, hạn chế đó. - Đề xuất phương hướng và giải pháp thúc đẩy phát triển KTDL ở các tỉnh Bắc Trung Bộ trong bối cảnh HNKTQT trong thời gian tới. 6. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương, 11 tiết.
  13. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ KINH TẾ DU LỊCH Đến nay ở nhiều nước trên thế giới, du lịch đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn góp phần quan trọng cho thu nhập quốc dân, giải quyết việc làm cho người lao động. KTDL ngày càng có vị trí và vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nhận thức được tầm quan trọng của KTDL, nhiều nhà nghiên cứu và tổ chức thực tiễn đã có những nghiên cứu chuyên sâu về khu vực kinh tế này và đã có những đóng nhất định cho sự phát triển của ngành. Dưới đây là tổng quan những công trình chủ yếu nghiên cứu về du lịch, KTDL ở trong và ngoài nước đã công bố từ trước đến nay, nhất là trong 15 năm trở lại đây. 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI VỀ KINH TẾ DU LỊCH Những nghiên cứu về KTDL của các nước trên thế giới đã hướng vào các vấn đề giải thích phạm trù phản ánh hiện tượng hoạt động về kinh doanh, dịch vụ du lịch, các bộ phận cấu thành và các hình thức dịch vụ du lịch, quan hệ cung - cầu và cơ chế vận hành hoạt động kinh doanh du lịch, trong đó, tiêu biểu là các công trình: - “Tourism in Developing Countries” (Du lịch ở các nước đang phát triển) của hai tác giả Martin Oppermann và Kye - Sung Chon, được xuất bản bởi Nxb International Thomson Business Press vào năm 1997. Nội dung cuốn sách tập trung phân tích những vấn đề sau: sự phát triển du lịch ở các nước đã và đang phát triển, trong đó tác giả nhấn mạnh về quá trình nghiên cứu du lịch tại các đất nước đang phát triển theo nhiều giai đoạn: 1930-1960, 1970-1985 và 1985-1993. Đồng thời, công trình này còn đề cập đến mối liên hệ giữa chính phủ và du lịch, các mô hình phân tích phát triển du lịch, các phương
  14. 7 pháp đo lường phát triển du lịch quốc tế, sự phát triển các điểm đến du lịch như khu nghỉ mát ven đồi hay ven biển, các khu du lịch vùng ngoại ô. - Công trình: “Global Tourism - The next decade” (Du lịch toàn cầu - Thập kỷ tới) do tác giả William Theobald viết và được Nxb Butterworth - Heinemann Ltd xuất bản năm 1994. Công trình này giới thiệu về khái niệm và phân loại du lịch; xác định những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của du lịch; định hướng và kế hoạch phát triển du lịch; vai trò du lịch đối với hòa bình thế giới. Ở công trình nghiên cứu này, tác giả đã làm rõ du lịch là một trong những nguồn lực lớn thúc đẩy nền hòa bình, hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau. Khi mọi người đi du lịch khắp nơi trên thế giới và hiểu biết về nhau, về phong tục tập quán của nhau cũng như đánh giá cao về cá nhân con người của mỗi quốc gia, từ đó các quốc gia sẽ xây dựng được sự hiểu biết quốc tế, điều này có thể cải thiện rõ rệt nền hòa bình thế giới. - Công trình: “Leisure and Tourism” (Giải trí và Du lịch) của các tác giả John Ward, Phil Higson và William Campbell, Nxb Stanley Thornes Ltd, xuất bản năm 1994. Nội dung nghiên cứu về ngành công nghiệp du lịch và giải trí được thực hiện thông qua việc phân tích các hình mẫu và xu hướng, các sản phẩm và dịch vụ trong ngành du lịch và giải trí cũng như các tác động của nó đến kinh tế, xã hội, văn hóa hay môi trường. Ngoài ra, nội dung nghiên cứu còn đề cập đến vấn đề tiếp thị, cung cấp các dịch vụ thông tin quản lý, việc lên kế hoạch và đánh giá các sự kiện cũng như các nguồn cơ sở hạ tầng cho các dự án du lịch và giải trí. - Công trình: “The Business of Rural Tourism International Perspectives” (Quan điểm quốc tế về việc phát triển kinh doanh du lịch tại khu vực nông thôn) của hai tác giả Stephen J. Page và Don Getz, được Nxb International Thomson Business Press xuất bản năm 1997. Nội dung nghiên cứu đề cập đến những vấn đề chính như: chính sách, kế hoạch, các tác động của nghiên cứu về việc thương mại du lịch tại khu vực nông thôn, trong đó tác giả phân tích về vấn đề tài chính cũng như quảng bá cho du lịch tại khu vực
  15. 8 nông thôn, đồng thời nêu ra một số mô hình mẫu tại các nước như Mỹ, Canada, Trung Quốc, Đức, Úc, Niu Dilân và một số tác động đối với việc phát triển loại hình du lịch tại khu vực này. - Công trình: “Commercial Recreation & Tourism - An Introduction to Business Oriented Recreation” (Giải trí Thương mại và Du lịch - Sự giới thiệu về giải trí định hướng kinh doanh), của tác giả Susan A.Weston, Nxb Brown & Benchmark, được xuất bản năm 1996. Nội dung nghiên cứu đưa ra khái niệm và phân tích nguồn gốc của ngành thương mại giải trí và du lịch, trong đó tác giả nêu ra các tên gọi đa dạng được sử dụng để miêu tả về ngành thương mại giải trí và du lịch; miêu tả sứ mệnh của ngành này; giải thích sự khác biệt giữa sản phẩm và dịch vụ; giới thiệu những địa điểm mà thương mại giải trí và du lịch có thể diễn ra; giới thiệu các cơ hội nghề nghiệp cho các ứng viên tốt nghiệp ngành này. Bên cạnh đó, tác giả cũng đề cập đến vấn đề quản lý và tổ chức sự kiện, vấn đề về lưu trú; thực phẩm và đồ uống, vấn đề quản lý nghề nghiệp, đồng thời cuốn sách cũng phân tích về các ngành công nghiệp có tính chất tương đồng. - Công trình: “Managing Tourism” (Quản lý Du lịch) được giáo sư S. Medlik viết vào năm 1991, được tái xuất bản vào năm 1995 bởi Nxb Butterworth - Heinemann Ltd. Nghiên cứu tập trung vào những nội dung chính sau: “Tương lai - Phân tích - Kế hoạch”, trong đó tác giả phân tích và trả lời các câu hỏi về khả năng đóng góp của các cuộc nghiên cứu tương lai đối với chính sách về du lịch, vòng đời của khu vực du lịch liệu có thể được kiểm soát? Tác giả đã cho rằng: Trong du lịch, các chính sách phải dựa trên một kết hợp chặt chẽ của kinh tế, chính trị, xã hội và các đối tượng về không gian. Những đối tượng này phải được đặt vào một khuôn khổ mang tính quyết định mà chức năng chính của nó là việc đạt được mục tiêu với những ý nghĩa cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định. Thiết lập chính sách trong du lịch không phải là một nhiệm vụ phức tạp với chính phủ, mà là việc phát triển
  16. 9 thông qua sự cộng tác với các tổ chức du lịch và ngành công nghiệp du lịch. Ngoài ra, công trình còn đề cập về khái niệm sản phẩm, sự cạnh tranh trong ngành hàng không, sự quảng bá sản phẩm và điểm đến, sự quản lý du lịch, giới hạn cũng như thách thức đối với ngành du lịch. - Công trình: “The Economics of Leisure and Tourism” (Kinh tế học về Giải trí và Du lịch) của tác giả John Tribe, được Nxb Butterworth - Heinemann Ltd xuất bản vào năm 1995. Nội dung công trình xoay quanh các vấn đề về tổ chức và quảng bá hoạt động Giải trí và Du lịch; Giải trí và Du lịch tương quan với môi trường quốc tế; tác động của Giải trí và Du lịch đối với nền kinh tế quốc gia; Giải trí và Du lịch với các vấn đề về môi trường, sự đầu tư về Giải trí và Du lịch. Trong tiểu mục: Sự đầu tư về Giải trí, tác giả đề cập đến các nhân tố tác động đến sự đầu tư các dự án như: lợi nhuận, doanh thu, chi phí vận hành v.v Các công trình trên nghiên cứu về du lịch, du lịch giải trí ngoài trời, marketing du lịch, luật du lịch, du lịch ở các nước đang phát triển, các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch trong đó đã có một số quan tâm đến KTDL và quản lý KTDL. Ngoài ra, bằng tiếng Anh và một số thứ tiếng khác, đã có một số công trình nghiên cứu về du lịch và KTDL đã được dịch ra Tiếng Việt như: - Công trình: “Kinh tế du lịch” của tác giả Robert Lanquar, Nxb Thế giới, năm 1993. Trong công trình này tác giả đã khẳng định: KTDL đó là ngành công nghiệp vì nó là toàn bộ những hoạt động nhằm khai thác các của cải của du lịch, nhằm biến các tài nguyên nhân lực, tư bản và nguyên liệu thành dịch vụ và sản phẩm. Đồng thời, tác giả cuốn sách đã giới thiệu những vấn đề về tình hình và ảnh hưởng của du lịch đến nền kinh tế. Yêu cầu về du lịch, sự tiêu dùng của du lịch, sản xuất cho du lịch, đầu tư du lịch. Những công cụ và phương tiện phân tích kinh tế học du lịch và kinh doanh du lịch. - Công trình: “Marketing du lịch” của Robert Lanquar và Robert Hollier, Nxb Thế giới, năm 1992. Nội dung công trình đề cập đến những mốc
  17. 10 lịch sử của marketing du lịch, các định nghĩa và quan niệm về marketing du lịch; phân tích cung, cầu du lịch và các nhu cầu khác về thị trường du lịch. Về lịch sử ra đời của marketing du lịch, tác giả cho rằng: marketing ra đời từ sự phát triển của nền văn minh công nghiệp. Đồng thời, tác giả đã đưa ra khuyến nghị cho các nước cần phát triển chiến lược marketing với những mục tiêu như: i, phát triển mạng lưới sắp đặt việc chuyên chở du lịch bảo đảm và có hiệu quả; ii, cải thiện các trang thiết bị công cộng của các điểm du lịch; iii, tăng cường phụ cấp cho một số dịch vụ tại chỗ trong trường hợp thời tiết xấu; iv, áp dụng chính sách giá mềm dẻo đối với các mùa; v, cung phải hướng vào từng nhóm khách du lịch v.v - Công trình: “KTDL và du lịch học” của hai tác giả Trung Quốc là Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình, Nxb Đại học Giao thông Thượng Hải, năm 2000, được Nxb Trẻ dịch ra Tiếng Việt vào năm 2001. Nội dung công trình đề cập đến những vấn đề lý luận cơ bản về du lịch và KTDL như: khái niệm về du lịch, khái quát về KTDL, sản phẩm du lịch, thị trường du lịch, vai trò của KTDL, quy hoạch xây dựng khu du lịch, v.v Bên cạnh đó, lịch sử phát triển Du lịch ở Trung Quốc đã được đề cập, theo đó có nhiều điểm tương đồng với lịch sử hình thành và phát triển Du lịch Việt Nam. Từ chỗ là cơ quan chuyên làm nhiệm vụ tiếp đón các đoàn khách quốc tế của Đảng và Nhà nước, do nhu cầu phát triển của xã hội mà ngành du lịch phải phá thế bao cấp, trở thành một ngành kinh tế có nhiều điều kiện để phát triển, một ngành công nghiệp không khói mang lại nhiều lợi ích cho xã hội. KTDL và du lịch học là công trình nghiên cứu khoa học có hệ thống về hoạt động du lịch từ thực tiễn của Trung Quốc, có thể rút ra những bài học để đưa du lịch Việt Nam phát triển theo định hướng XHCN. Ngoài các công trình đã được công bố nêu trên, còn có những bài viết về kinh doanh du lịch, dịch vụ du lịch công bố trên các thông tin khác của UNWTO, trên các Tạp chí, các website bằng tiếng nước ngoài.
  18. 11 Nhìn chung, những nghiên cứu trên đã quan tâm đến những tri thức lý luận và thực tiễn về mặt kinh tế - kỹ thuật trong hoạt động du lịch, đến kinh doanh du lịch, thị trường du lịch và nêu kinh nghiệm phát triển du lịch của một số nước. Đây là nguồn tài liệu thứ cấp rất cần thiết cho việc nghiên cứu luận án của nghiên cứu sinh. Do vấn đề lý luận liên quan đến KTDL được khái quát từ thực tiễn của những nền kinh tế có nét đặc thù và xu hướng chính trị - xã hội khác Việt Nam, nên những công trình nói trên mới chỉ là những tài liệu tham khảo, tìm hiểu kinh nghiệm tổ chức kinh doanh, tiếp cận khách hàng và phát triển các loại dịch vụ du lịch, phát triển thị trường ở Việt Nam. Đề tài mà nghiên cứu sinh lựa chọn nghiên cứu không trùng tên và nội dung với các công trình đã công bố ở nước ngoài mà nghiên cứu sinh được biết cho đến nay. 1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC VỀ KINH TẾ DU LỊCH 1.2.1. Các công trình nghiên cứu dưới dạng đề tài khoa học và luận án tiến sĩ Đến nay, ở Việt Nam cũng đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về du lịch và KTDL. Liên quan đến nội dung này, dưới dạng các công trình là đề tài khoa học, luận án tiến sĩ đã có các công trình chủ yếu sau: - Đề tài cấp Bộ (2006): “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp đầu tư phát triển khu du lịch”, của nhiều tác giả do Viện NC & PT Du lịch chủ trì, Th.s Lê văn Minh làm chủ nhiệm. Đề tài tập trung nghiên cứu hệ thống các khái niệm về khu du lịch, vai trò của đầu tư phát triển các khu du lịch và kinh nghiệm thực tiễn của các nước về đầu tư phát triển các khu du lịch. Phân tích thực trạng về hệ thống các cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư du lịch nói riêng và phát triển du lịch nói chung; xác định thực trạng chính sách đầu tư phát triển khu du lịch của Việt Nam và đề xuất 10 giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách đầu tư bao gồm: (i) Giải pháp về công tác tổ chức, quản lý các khu du lịch; (ii) Giải pháp về xây dựng, quản
  19. 12 lý và thực hiện quy hoạch các khu du lịch; (iii) Giải pháp về quyền sử dụng đất đai ở các khu du lịch; (iv) Giải pháp về đầu tư phát triển các khu du lịch; (v) Giải pháp về huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển khu du lịch; (vi) Giải pháp về cơ chế, chính sách tài chính, thuế trong đầu tư phát triển các khu du lịch; (vii) Giải pháp về phối hợp và hợp tác liên ngành, liên vùng trong khai thác tài nguyên ở các khu du lịch; (viii) Giải pháp về cải cách thủ tục hành chính; (ix) Giải pháp hỗ trợ, khuyến khích cộng đồng tham gia phát triển các khu du lịch; và (x) Giải pháp về đầu tư, bảo tồn, tôn tạo các giá trị tài nguyên du lịch và bảo vệ môi trường. - Đề tài cấp Bộ (2007): “Nghiên cứu xây dựng sản phẩm du lịch Việt Nam có tính cạnh tranh trong khu vực, quốc tế”, của nhóm tác giả do TS. Đỗ Cẩm Thơ làm chủ nhiệm, Viện NC & PT Du lịch chủ trì. Tiếp cận trên quan điểm quản lý nhà nước và kinh tế vĩ mô, các tác giả của đề tài khai thác những hướng như: Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về cạnh tranh sản phẩm du lịch. Phân tích, đánh giá thực trạng hệ thống sản phẩm du lịch Việt Nam theo 2 tiêu chí: cấu thành sản phẩm chung của điểm đến và sản phẩm theo các loại hình du lịch. Nghiên cứu cạnh tranh và định vị sản phẩm du lịch Việt Nam trong thị trường du lịch khu vực và quốc tế. Phân tích và đánh giá hệ thống sản phẩm du lịch của các nước cạnh tranh trong khu vực như: Thái Lan, Malaixia, Xingapo, Trung Quốc, Inđônêxia. Nghiên cứu điều tra từ góc độ tiêu dùng, tìm ra định vị hiện tại của sản phẩm du lịch Việt Nam. Phân tích đặc thù và thế mạnh cho sản phẩm du lịch Việt Nam: đánh giá một cách có hệ thống các sản phẩm du lịch Việt Nam. So sánh, xác định sản phẩm du lịch Việt Nam với các sản phẩm cạnh tranh, sản phẩm du lịch biển đảo, sản phẩm du lịch văn hóa và sản phẩm DLST. Đề xuất khái niệm sản phẩm du lịch tổng thể và mô hình 10 tiêu chí đánh giá so sánh cạnh tranh sản phẩm du lịch bao gồm: (i) Tính hấp dẫn và độc đáo của tài nguyên du lịch; (ii) Tính đa dạng của dịch vụ du lịch; (iii)
  20. 13 Chất lượng sản phẩm du lịch; (iv) Tổ chức xây dựng sản phẩm du lịch; (v) Đầu tư xúc tiến sản phẩm du lịch; (vi) Giá sản phẩm du lịch; (vii) Khả năng tiếp cận sản phẩm; (viii) Thương hiệu sản phẩm du lịch; (ix) Chu kỳ sống của sản phẩm du lịch; và (x) Yếu tố đặc biệt của sản phẩm du lịch. Đề tài còn đề xuất hệ thống giải pháp chủ yếu góp phần tăng cường tính cạnh tranh của sản phẩm du lịch Việt Nam trên thị trường trong thời hạn ngắn. Đồng thời, đề xuất phương hướng và giải pháp xây dựng sản phẩm du lịch có tính cạnh tranh cho thời hạn dài hơn (đến năm 2015). - Đề tài cấp Bộ (2008):“Cơ sở khoa học phát triển du lịch đảo ven bờ vùng du lịch Bắc Trung Bộ” do PGS, TS. Phạm Trung Lương chủ nhiệm, Viện NC & PT Du lịch chủ trì. Nội dung của đề tài hướng vào những vấn đề: Đánh giá vị trí và vai trò của du lịch đảo ven bờ trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng ở vùng ven biển Bắc Trung Bộ và trong phát triển du lịch EWEC. Phân tích đặc điểm tài nguyên du lịch và các nguồn nhân lực có liên quan đến phát triển du lịch tại các đảo ven bờ vùng du lịch Bắc Trung Bộ. Đánh giá thực trạng phát triển du lịch trên các đảo ven bờ vùng du lịch Bắc Trung Bộ, xác định những thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách thức đối với phát triển du lịch đảo ven bờ ở khu vực ven biển vùng du lịch Bắc Trung Bộ. Đề xuất các giải pháp đảm bảo sự phát triển du lịch đảo bền vững, bao gồm các nhóm giải pháp sau: (i) Nhóm giải pháp về nâng cao nhận thức và hiểu biết của du lịch đảo; (ii) Nhóm giải pháp về chính sách; (iii) Nhóm giải pháp về quy hoạch; (iv) Nhóm giải pháp về đầu tư; (v) Nhóm giải pháp phát triển sản phẩm - thị trường du lịch biển đảo; (vi) Nhóm giải pháp xúc tiến quảng bá du lịch biển đảo; (vii) Nhóm giải pháp phát triển nguồn nhân lực; (viii) Nhóm giải pháp bảo vệ tài nguyên, môi trường du lịch biển - đảo; và (ix) Nhóm giải pháp phát triển du lịch biển gắn với đảm bảo QP - AN. - Đề tài cấp Bộ (2011) “Hiện trạng và giải pháp phát triển các khu du lịch biển quốc gia tại vùng du lịch Bắc Trung Bộ”, do Viện NC & PT Du lịch
  21. 14 chủ trì, TS. Nguyễn Thu Hạnh chủ nhiệm. Các tác giả của đề tài đã tập trung nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về du lịch biển và phát triển khu du lịch biển quốc gia. Nêu khái niệm mới về sản phẩm du lịch của khu du lịch biển quốc gia, khẳng định đó là tập hợp tất cả các cảm xúc đơn lẻ đem lại cho du khách ấn tượng đặc trưng nhất về một khu du lịch biển. Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm phát triển của một số khu du lịch biển quốc gia nước ngoài, đề tài đã đưa ra được 10 bài học kinh nghiệm sau: (i) Tổ chức phát triển và quản lý khu du lịch phải nằm trong chiến lược phát triển du lịch bền vững của đất nước; (ii) Xác định một cách rõ ràng về thị trường, đối tượng và nhu cầu du lịch của hệ thống các khu du lịch; (iii) Lựa chọn vị trí phù hợp để thu hút khách du lịch; (iv) Tổ chức hình thành khu du lịch phải gắn với mạng lưới giao thông đường bộ, đường sông, đường biển, đường sắt, đường không và gắn với các thị trường lớn về du lịch; (v) Hệ thống các khu du lịch có chung thị trường lưu trú, từ đó đề nghị phải ứng dụng những công nghệ, thành tựu khoa học trong việc tổ chức, quản lý khách sạn trong khu du lịch; (vi) Các khu du lịch có quy luật vòng đời của sự hấp dẫn, muốn kéo dài vòng đời hấp dẫn của khu du lịch phải thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp khác nhau, phải có kế hoạch khai thác đúng mức, liên tục ứng dụng KH - CN, liên tục hoàn thiện, đổi mới sản phẩm du lịch, nắm bắt nhu cầu, thị hiếu của thị trường ; (vii) Hình thành và phát triển các khu du lịch không mùa để khai thác quanh năm: (viii) Phải tổ chức nghiên cứu thị trường riêng cho hệ thống các khu du lịch; (ix) Phải biết gắn kết hợp giữa khu du lịch với các điểm, khu tham quan, khu vui chơi giải trí công cộng; và (x) Hình thành và phát triển các khu du lịch đều có tính hai mặt, nên cần phải quan tâm giải quyết yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến môi trường xã hội. Từ những bài học kinh nghiệm đó, nhóm tác giả đã tập trung phân tích, đánh giá thực trạng, chỉ ra những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong phát triển các khu du lịch biển quốc gia tại vùng Bắc Trung Bộ; đề xuất
  22. 15 các định hướng và giải pháp phát triển các khu du lịch biển quốc gia tại vùng Bắc Trung Bộ đến năm 2020. - Đề án: “Chủ trương và giải pháp đẩy mạnh phát triển du lịch Miền Trung - Tây Nguyên” (2001) của Tổng cục Du lịch Việt Nam; Nội dung đề án đã phác họa bức tranh về đặc điểm chung của các tỉnh Miền Trung - Tây Nguyên; chỉ rõ vai trò và vị trí của du lịch Miền Trung - Tây Nguyên; nêu ra các cơ sở để đề xuất chủ trương và giải pháp như: tiềm năng và lợi thế phát triển du lịch Miền Trung - Tây Nguyên; thực trạng phát triển du lịch Miền Trung - Tây Nguyên; những cơ hội và thách thức của du lịch Miền Trung - Tây Nguyên. Từ đó, đề án đã đưa ra những giải pháp phát triển mạnh du lịch Miền Trung - Tây Nguyên: i, Tạo điều kiện thuận lợi cho khách du lịch tiếp cận các điểm du lịch trong khu vực Miền Trung - Tây Nguyên; ii, Về đầu tư phát triển du lịch: cần huy động các nguồn lực phát triển du lịch Miền Trung - Tây Nguyên; iii, Về tài chính: cần tạo nguồn vốn phát triển du lịch như cho phép phát hành trái phiếu, kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài, sử dụng quỹ đất, “đổi đất lấy hạ tầng”, tăng tỷ lệ điều tiết từ các nguồn thu của địa phương; iv, Về xúc tiến, quảng bá du lịch và đa dạng hóa sản phẩm: tăng cường công tác quảng bá và xúc tiến du lịch trong nước và quốc tế; đa dạng hóa sản phẩm du lịch là công việc xuyên suốt trong quá trình thực hiện chiến lược phát triển du lịch của Miền Trung - Tây Nguyên; v, Phát triển nguồn nhân lực du lịch; vi, Sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp; vii, Tăng cường hoạt động của các Hiệp hội Du lịch: thành lập được Hội du lịch của các doanh nghiệp và nhà quản lý trong vùng Miền Trung - Tây Nguyên nhằm ngày càng xây dựng và quảng bá, xúc tiến thương hiệu du lịch “Con đường di sản”, “Thành phố Xanh” v.v - Báo cáo: “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng du lịch Bắc Trung Bộ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” (2012) của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Nội dung Báo cáo đã tập trung vào một số vấn đề chủ yếu:
  23. 16 Một là, đánh giá các yếu tố nguồn lực và hiện trạng phát triển du lịch vùng Bắc Trung Bộ; xác định cơ hội và thách thức đối với phát triển du lịch của vùng. Hai là, quy hoạch phát triển du lịch vùng Bắc Trung Bộ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Trên cơ sở đưa ra quan điểm, mục tiêu và dự báo các chỉ tiêu phát triển du lịch, đã đưa ra một số định hướng phát triển về các mặt như: sản phẩm du lịch, thị trường khách du lịch, xây dựng hình ảnh, phát triển thương hiệu và xúc tiến quảng bá, tổ chức không gian phát triển du lịch, đầu tư phát triển du lịch, bảo vệ tài nguyên môi trường du lịch vùng. Ba là, các giải pháp và tổ chức thực hiện quy hoạch, trong đó, bao gồm các giải pháp: nhóm giải pháp đầu tư và huy động vốn đầu tư, giải pháp phát triển nguồn nhân lực; xúc tiến, quảng bá; tổ chức, quản lý; ứng dụng KH - CN; liên kết vùng và hợp tác quốc tế; bảo vệ tài nguyên môi trường du lịch vùng và ứng phó với biến đổi khí hậu. - Luận án Tiến sĩ Kinh tế của Trương Sĩ Quý (2002), “Phương hướng và một số giải pháp để đa dạng hóa loại hình và sản phẩm du lịch ở Quảng Nam Đà Nẵng”, bảo vệ tại trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. Luận án hướng vào nghiên cứu hệ thống hóa và phát triển một số vấn đề lý luận cơ bản về đa dạng hóa loại hình và sản phẩm du lịch. Trên cơ sở phân tích rõ những yêu cầu và căn cứ để xác định phương hướng, giải pháp cũng như các mục tiêu cụ thể đặt ra với việc phát triển ngành du lịch của Quảng Nam Đà Nẵng trong thời gian tới, luận án đã đưa ra các nhóm giải pháp, kiến nghị quan trọng về nội dung của việc đa dạng hóa loại hình du lịch, cũng như nội dung của đa dạng hóa các dịch vụ, chương trình du lịch ở Quảng Nam Đà Nẵng trong thời gian tới. - Luận án Tiến sĩ Kinh tế của Nguyễn Đình Sơn (2002), “Phát triển kinh tế du lịch ở vùng du lịch Bắc Bộ và tác động của nó tới quốc phòng - an ninh”, bảo vệ tại Học viện Chính trị - Quân sự, Hà Nội. Tác giả luận án đã khái quát lý luận chung về phát triển KTDL kết hợp với củng cố QP - AN.
  24. 17 Theo tác giả, du lịch là hoạt động của con người mà trong quá trình đó đồng thời diễn ra cả hai mặt: sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm du lịch, người đi du lịch là những người tiêu dùng các sản phẩm du lịch, người kinh doanh du lịch là người cung cấp các sản phẩm du lịch, chỉ có hoạt động diễn ra đồng thời thì mới đảm bảo được một tour du lịch hoàn chỉnh. Phân tích những đặc điểm cơ bản của KTDL, thực trạng KTDL ở vùng Bắc Bộ trong mối quan hệ với củng cố QP - AN. Sau khi chỉ rõ những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế của KTDL vùng Bắc Bộ trong thời gian qua, tác giả đã đề xuất phương hướng, mục tiêu và những giải pháp cơ bản để phát triển KTDL ở vùng Bắc Bộ kết hợp với tăng cường củng cố QP - AN trong thời gian tới. - Luận án Tiến sĩ Kinh tế của Vũ Đức Minh (2004), “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực của các DNDL nhà nước trên địa bàn thành phố Hà Nội trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới”, bảo vệ tại trường Đại học Thương mại, Hà Nội. Trong đó, tác giả luận án đã nghiên cứu những vấn đề cơ bản có tính chất lý thuyết về nguồn nhân lực, hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, yêu cầu của nguồn nhân lực du lịch trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam. Nhấn mạnh đến những quan niệm hiện nay về hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, các chỉ tiêu tính toán, phương pháp đo lường và các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực trong các DNDL hiện nay. Cùng với việc trình bày những kinh nghiệm trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực ở một số quốc gia như các nước ASEAN, Trung Quốc, Liên minh Châu Âu và những bài học kinh nghiệm vận dụng vào điều kiện của Việt Nam, tác giả đã xây dựng khung lý thuyết về hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, tạo cơ sở khoa học cho việc phân tích ở phần tiếp theo. Phân tích thực trạng hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực của các DNDL nhà nước trên địa bàn Hà Nội thông qua các chỉ tiêu, phương pháp đo lường và các nhân tố tác động. Luận án đã phân tích các nguyên nhân của việc sử
  25. 18 dụng nguồn nhân lực chưa cao trong các DNDL nhà nước ở Hà Nội hiện nay và đề xuất 7 nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực của các DNDL nhà nước trên địa bàn Hà Nội. - Luận án Tiến sĩ Kinh tế của Nguyễn Thị Tú (2006), “Những giải pháp phát triển du lịch sinh thái Việt Nam trong xu thế hội nhập” bảo vệ tại trường Đại học Thương mại Hà Nội. Nội dung luận án đã hướng vào phân tích làm rõ khái niệm về du lịch, DLST, yêu cầu và nội dung phát triển DLST xu thế HNKTQT. Trong đó, đã chỉ ra những cơ hội và thách thức đối với phát triển DLST trong xu thế hội nhập. Đồng thời, trên cơ sở phân tích những kinh nghiệm phát triển DLST của một số nước như: Ôxtrâylia, Niu Dilân, Nêpan, Kênia, Êcuađo, Côxta Rica, Pháp, Inđônêxia, Malaixia, Thái Lan và xem xét điều kiện của Việt Nam, tác giả luận án đã rút ra 7 bài học kinh nghiệm quý báu có thể vận dụng đối với Việt Nam. Đánh giá thực trạng phát triển DLST Việt Nam trong giai đoạn vừa qua về các mặt thành công, hạn chế và nguyên nhân chủ yếu. Từ đó, tác giả luận án đã đưa ra những giải pháp chủ yếu phát triển DLST Việt Nam trong giai đoạn tới bao gồm: (i) Hoàn thiện quy hoạch DLST bền vững theo hướng cộng đồng; (ii) Hoàn thiện tổ chức quản lý và cơ chế chính sách nhằm hỗ trợ phát triển DLST; (iii) Tăng cường đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất - kỹ thuật; (iv) Đa dạng hóa và tạo tính đặc thù sản phẩm DLST; (v) Nâng cao chất lượng sản phẩm DLST; (vi) Chú trọng công tác bảo tồn đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường; (vii) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực DLST; (viii) Tăng cường nghiên cứu thị trường, quảng bá và xúc tiến DLST; (ix) Tăng cường hội nhập và hợp tác quốc tế trong phát triển DLST; (x) Đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức về DLST. - Luận án Tiến sĩ Kinh tế của Hoàng Thị Ngọc Lan (2007), “Thị trường du lịch tỉnh Hà Tây”, bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Nội dung luận án hướng vào phân tích hàng hóa, cung, cầu
  26. 19 và các bộ phận cấu thành, cơ chế vận hành thị trường du lịch. Trong đó, xác định cầu du lịch là bộ phận nhu cầu xã hội có khả năng thanh toán về dịch vụ hàng hóa, đảm bảo sự đi lại, lưu trú tạm thời của du khách ngoài nơi ở thường xuyên của họ nhằm mục đích du lịch. Đây là tổng số lượng sản phẩm du lịch mà du khách có khả năng và sẵn sàng mua với các mức giá khác nhau trong một khoảng thời gian nhất định. Cung về du lịch là toàn bộ các hàng hóa, dịch vụ du lịch được người bán đưa ra thị trường nhằm thỏa mãn nhu cầu có khả năng thanh toán của du khách trong một thời gian nhất định. Trên cơ sở phân tích tiềm năng và thực trạng phát triển thị trường du lịch trên địa bàn tỉnh Hà Tây, chỉ rõ những mặt yếu kém và nguyên nhân, tác giả luận án đã đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển thị trường du lịch trên địa bàn tỉnh Hà Tây trong thời gian tới. - Luận án Tiến sĩ Kinh tế của Nguyễn Anh Tuấn (2010), “Năng lực cạnh tranh điểm đến của du lịch Việt Nam”, bảo vệ tại Đại học Quốc gia Hà Nội. Tác giả luận án đã tập trung nghiên cứu khái quát một số vấn đề lý luận cơ bản về cạnh tranh điểm đến trong phát triển du lịch như: cạnh tranh, năng lực cạnh tranh, điểm đến và năng lực cạnh tranh điểm đến. Tác giả áp dụng một số mô hình và phương pháp nghiên cứu mới để phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh điểm đến của ngành du lịch Việt Nam; chỉ ra những mặt mạnh, mặt yếu, cơ hội và áp lực đối với ngành du lịch Việt Nam cũng như nguyên nhân của hạn chế về năng lực cạnh tranh điểm đến của ngành du lịch Việt Nam. Đề xuất 4 quan điểm nâng cao năng lực cạnh tranh điểm đến của ngành du lịch Việt Nam xác đáng và phù hợp với thực tiễn Việt Nam: (i) Ngành du lịch phải trở thành một trong những ngành kinh tế hàng đầu, đóng góp quan trọng vào sự thịnh vượng quốc gia; (ii) Môi trường chính sách phải tạo thuận lợi cho du lịch phát triển; (iii) Ngành du lịch phải được phát triển theo hướng năng động, thích ứng nhanh và ứng phó kịp thời với những thay đổi; (iv) Ngành du lịch phải được phát triển theo hướng chất lượng, hiệu quả, bền vững. Trên cơ sở các quan điểm này và kết quả nghiên cứu lý luận, thực
  27. 20 tiễn, tác giả luận án đã đề xuất 7 nhóm khuyến nghị về chính sách và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh điểm đến của ngành du lịch Việt Nam với những luận cứ chặt chẽ, toàn diện và có tính khả thi. - Luận án Tiến sĩ Kinh tế của Trần Xuân Ảnh (2011),“Thị trường du lịch Quảng Ninh trong hội nhập kinh tế quốc tế”, bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Tác giả luận án đã hướng nghiên cứu vào làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về thị trường du lịch trong HNKTQT; phân tích thực trạng của thị trường du lịch Quảng Ninh trong HNKTQT, trong đó tác giả đã phác họa rõ nét về những thành tựu, đặc biệt là nêu rõ những vấn đề đặt ra cần khắc phục để mở rộng thị trường du lịch Quảng Ninh đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020. Nêu rõ xu hướng phát triển của thị trường du lịch quốc tế và quốc gia, từ đó đề xuất phương hướng trọng tâm phát triển thị trường du lịch Quảng Ninh trong HNKTQT là: (i) Xây dựng chương trình thị trường trong đó xây dựng chính sách thị trường phù hợp nhằm đẩy mạnh công tác quy hoạch chiến lược và kế hoạch ngắn hạn cho từng giai đoạn, từng thị trường khách du lịch; (ii) Tăng cường hợp tác du lịch trong nước và quốc tế; (iii) Phát triển không gian lãnh thổ của thị trường du lịch; (iv) Định hướng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cho du lịch; (v) Dự báo các chỉ tiêu phát triển thị trường du lịch Quảng Ninh trong giai đoạn 2006 - 2010, định hướng đến 2020 tầm nhìn 2030. Cuối cùng, luận án đã đề xuất 4 nhóm giải pháp nhằm phát triển thị trường du lịch trong thời gian tới bao gồm: (i) Nhóm các giải pháp tạo lập nguồn cung hàng hóa du lịch; (ii) Nhóm các giải pháp kích cầu; (iii) Nhóm giải pháp điều tiết giá cả; (iv) Nhóm giải pháp tạo lập môi trường du lịch trong HNKTQT. - Luận án Tiến sĩ Kinh tế của Hoàng Thị Lan Hương (2011), “Phát triển kinh doanh lưu trú du lịch tại vùng du lịch Bắc Bộ của Việt Nam”, bảo vệ tại trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. Nội dung của luận án hướng vào làm rõ cơ sở lý luận về kinh doanh lưu trú du lịch, phát triển bền vững kinh doanh lưu trú du lịch, xây dựng được hệ thống chỉ tiêu đánh giá mức độ
  28. 21 phát triển kinh doanh lưu trú du lịch bền vững mang tính đặc thù. Đồng thời, luận án đã phân tích, tổng kết và đúc rút những bài học kinh nghiệm quốc tế từ nghiên cứu mô hình phát triển kinh doanh lưu trú du lịch bền vững của một số nước ASEAN là hết sức hữu ích cho lĩnh vực kinh doanh lưu trú du lịch của Việt Nam nói chung và Bắc Bộ nói riêng. Phân tích tiềm năng, thế mạnh và thực trạng phát triển bền vững kinh doanh lưu trú du lịch ở vùng du lịch Bắc Bộ của Việt Nam. Đánh giá một cách khái quát sự phát triển của các DNDL kinh doanh lưu trú du lịch tại vùng du lịch Bắc Bộ của Việt Nam và thực trạng công tác quản lý nhà nước về du lịch, kinh doanh lưu trú du lịch trong những năm vừa qua. Đề xuất các giải pháp có tính đột phá và tính khả thi cao cho các cơ sở kinh doanh lưu trú du lịch và các chủ thể quản lý nhà nước tại vùng du lịch Bắc Bộ tham khảo. Bên cạnh đó, luận án đã đưa ra một số kiến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước như Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các Bộ có liên quan cũng như các chủ thể tham gia vào hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch vùng du lịch Bắc Bộ nhằm tạo môi trường thuận lợi cho phát triển bền vững kinh doanh lưu trú du lịch vùng du lịch Bắc Bộ trong thời gian tới. - Luận án Tiến sĩ Kinh tế của Nguyễn Quang Vinh (2012),“Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp du lịch lữ hành quốc tế Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)”, bảo vệ tại trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. Luận án đã hệ thống hóa những lý luận và thực tiễn về khả năng cạnh tranh bao gồm năng lực cạnh tranh của các DNDL lữ hành quốc tế, các yếu tố tác động tới cạnh tranh, chỉ số đo lường khả năng cạnh tranh của các DNDL lữ hành quốc tế. Nêu và phân tích kinh nghiệm cạnh tranh của DNDL lữ hành quốc tế Việt Nam, những bài học thành công và chưa thành công trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh hiện tại và triển vọng nâng cao khả năng cạnh tranh của các DNDL sau khi nước ta vào WTO. Luận án đã đề xuất các phương hướng, giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các DNDL lữ hành Việt Nam trong thời gian tới.
  29. 22 - Luận án Tiến sĩ Kinh tế của Nguyễn Trùng Khánh (2012), “Phát triển dịch vụ lữ hành du lịch trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế: Kinh nghiệm của một số nước Đông Á và gợi ý chính sách cho Việt Nam”, bảo vệ tại Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội. Nội dung chính của luận án hướng vào hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến việc phát triển dịch vụ lữ hành du lịch trong điều kiện HNKTQT như: du lịch, khách du lịch, dịch vụ lữ hành du lịch, dịch vụ lữ hành du lịch quốc tế inbound Tác giả luận án đã xác định phạm vi dịch vụ lữ hành du lịch theo nghĩa rộng, khẳng định tính chất dịch vụ thương mại của hoạt động lữ hành du lịch; chỉ ra các điều kiện phát triển dịch vụ lữ hành du lịch, bao gồm các điều kiện về cung và cầu. Kinh nghiệm phát triển dịch vụ lữ hành du lịch trong HNKTQT của một số nước Đông Á mà Việt Nam có thể tham khảo như: (i) Hệ thống hóa và bằng các số liệu cập nhật đến 2010 phân tích kinh nghiệm phát triển dịch vụ lữ hành của Trung Quốc, Malaixia và Thái Lan trên các mặt nguồn lực, sự thay đổi của chính sách qua các giai đoạn và sự tác động của chúng tới sự phát triển của dịch vụ lữ hành du lịch; từ đó, rút ra những nhận xét về kết quả tích cực và những hạn chế đối với sự phát triển của dịch vụ lữ hành du lịch trong quá trình HNKTQT; (ii) Qua nghiên cứu sự tác động từ chính sách của Nhà nước tới phát triển ngành du lịch, trong đó có dịch vụ lữ hành du lịch, luận án đã đưa ra 7 bài học thành công về chiến lược phát triển, marketing, cung cấp dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ tầng, đảm bảo an ninh, phát triển nguồn nhân lực và bảo vệ môi trường. Tác giả luận án đã phân tích thực trạng phát triển ngành du lịch của Việt Nam, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân trong lĩnh vực dịch vụ lữ hành du lịch. Từ đó, đề xuất một số giải pháp cơ bản và kiến nghị về chính sách phát triển dịch vụ lữ hành du lịch cho Việt Nam trong điều kiện HNKTQT hiện nay. 1.2.2. Các công trình nghiên cứu dưới dạng sách và công bố khác Trên các loại ấn phẩm này, bàn về du lịch và KTDL, đến nay đã có các công trình chủ yếu sau:
  30. 23 - Cuốn “Thị trường du lịch” của tác giả Nguyễn Văn Lưu, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2009. Cuốn sách đã nêu những vấn đề tổng quan về thị trường du lịch: khái niệm và những đặc điểm của thị trường du lịch, các loại thị trường du lịch, phân tích một số yếu tố cơ bản trên thị trường du lịch. Theo tác giả, thị trường du lịch là bộ phận của thị trường chung, phạm trù của sản xuất và lưu thông hàng hóa, dịch vụ du lịch, phản ánh toàn bộ quan hệ trao đổi giữa người mua với người bán, giữa cung với cầu và toàn bộ các mối quan hệ, thông tin kinh tế, kỹ thuật gắn với mối quan hệ đó trong lĩnh vực KTDL. Đồng thời, tác giả đã phân tích khá kỹ hai yếu tố quan trọng của thị trường du lịch đó là cầu du lịch và cung du lịch. Từ đó, tác giả đã đi sâu phân tích thị trường du lịch thế giới, thị trường du lịch các nước ASEAN làm cơ sở để so sánh, đánh giá thị trường du lịch của Việt Nam. Cuối cùng, tác giả kết luận: du lịch Việt Nam đang đứng trước nhu cầu lớn của khách nước ngoài và nhân dân trong nước, khách hàng có sẵn; đồng thời có nhiều thuận lợi để phát triển. Thị phần về khách của Việt Nam trong thị trường ASEAN và Đông Á - Thái Bình Dương sẽ tăng. Thị trường du lịch nội địa của Việt Nam trong thời gian tới cũng phát triển mạnh với tốc độ tăng trưởng cao. - Cuốn “Giáo trình Kinh tế du lịch” được xuất bản tại Nxb Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, năm 2008 do hai tác giả GS,TS. Nguyễn văn Đính và PGS,TS. Trần Thị Minh Hòa đồng chủ biên. Dưới góc độ KTDL, các tác giả cuốn sách cung cấp các tri thức cơ bản về khái niệm du lịch, khách du lịch, sản phẩm du lịch và tính đặc thù của nó; lịch sử hình thành, xu hướng phát triển và tác động KT - XH của du lịch. Khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của du lịch thế giới; hệ thống hóa những xu hướng phát triển cơ bản của cầu và cung du lịch trên thế giới và phân tích các tác động về KT - XH của du lịch đối với một địa bàn phát triển du lịch (chủ yếu dưới góc độ một quốc gia). Cung cấp những kiến thức cơ bản về: cầu du lịch, loại hình du lịch và các lĩnh vực kinh doanh du lịch; điều kiện để phát triển du lịch; tính thời vụ trong du lịch; lao động trong du lịch; cơ sở vật chất - kỹ thuật du lịch; chất
  31. 24 lượng dịch vụ du lịch; hiệu quả KTDL; quy hoạch phát triển du lịch; tổ chức và quản lý ngành du lịch. Trong đó, cuốn sách đã dành một dung lượng nhất định để đánh giá ngành du lịch Việt Nam từ khi ra đời nhất là từ khi đổi mới đến nay. Khẳng định vai trò của du lịch đối với sự phát triển KT - XH của quốc gia và những khó khăn, hạn chế cả về chủ quan lẫn khách quan mà KTDL Việt Nam đang gặp phải. Cuốn sách còn chỉ rõ những nguyên nhân mà KTDL Việt Nam phát triển chưa ổn định, thiếu bền vững, hiệu quả chưa tương xứng với tiềm năng du lịch to lớn của đất nước. - Cuốn: “Giáo trình Quản trị kinh doanh lữ hành” của hai tác giả PGS, TS. Nguyễn Văn Mạnh và PGS, TS. Phạm Hồng Chương, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, năm 2009. Nội dung cuốn sách đề cập đến các vấn đề: khái quát lịch sử phát triển kinh doanh lữ hành, các nội dung cơ bản của kinh doanh lữ hành, cơ cấu tổ chức và quản trị nhân lực của doanh nghiệp lữ hành, quan hệ giữa nhà cung cấp với nhà kinh doanh lữ hành Đồng thời, trong cuốn sách các tác giả còn phác họa thực trạng kinh doanh lữ hành ở Việt Nam trong giai đoạn 1990 - 2004. Từ việc phân tích những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế, các tác giả cuốn sách đã chỉ rõ xu hướng trong tiêu dùng du lịch và các giải pháp nhằm phát triển hoạt động kinh doanh du lịch lữ hành ở Việt Nam giai đoạn 1997 - 2010. - Cuốn: “Quy hoạch du lịch” của tác giả Bùi Thị Hải Yến, được xuất bản bởi Nxb Giáo dục, Hà Nội, năm 2009. Nội dung cuốn sách hướng làm rõ các dẫn luận quy hoạch du lịch: lịch sử phát triển của khoa học quy hoạch du lịch, khái niệm quy hoạch du lịch, nguyên tắc quy hoạch du lịch, tiềm năng và các điều kiện quy hoạch du lịch. Thực trạng kinh doanh du lịch và cơ sở khoa học của việc xây dựng bản đồ trong quy hoạch du lịch. Dự báo nhu cầu phát triển du lịch và các định hướng chiến lược phát triển du lịch. Tổ chức thực hiện và đánh giá tác động từ các dự án quy hoạch phát triển du lịch đến tài
  32. 25 nguyên và môi trường. Kinh nghiệm của thế giới về quy hoạch ở vùng biển, vùng núi, các vùng nông thôn và ven đô. Tác giả cuốn sách còn đưa ra những khuyến nghị về quy hoạch du lịch vùng nông thôn và ven đô ở Việt Nam, khẳng định phát triển du lịch gắn với việc bảo vệ, tôn tạo tài nguyên môi trường đảm bảo sự phát triển bền vững; cần có kế hoạch và cơ chế quản lý phù hợp để khai thác có hiệu quả các lợi thế về vị trí, tiềm năng, đẩy mạnh phát triển du lịch góp phần vào phát triển KT - XH song vẫn bảo tồn được giá trị về tự nhiên, văn hóa, xã hội. Ngoài ra, trên diễn đàn nghiên cứu khoa học trong nước còn có một số bài viết liên quan đến KTDL trong bối cảnh HNKTQT, tiêu biểu là: “Phát triển du lịch khu vực Bắc Trung Bộ: Những vấn đề đặt ra”(2010) của PGS, TS. Phạm Trung Lương, tại Hội thảo “Định hướng phát triển Du lịch khu vực Bắc Trung Bộ, tổ chức tại Vinh - Nghệ An. “Phát triển du lịch các quốc gia Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng” (2010) của TS. Nguyễn Văn Dùng và Th.s Nguyễn Tiến Lực, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 10. “Du lịch Việt Nam: Khó khăn, thách thức và vận hội phát triển” (2010) của tác giả Nguyễn Văn Tuấn, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 01. “Xây dựng và xúc tiến thương hiệu điểm đến” (2011) của TS. Nguyễn Anh Tuấn, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 02. “Du lịch Việt Nam với hội nhập quốc tế” (2012) của PGS, TS. Phạm Trung Lương, bài giảng cho cán bộ ngành Du lịch v.v 1.3. KHÁI QUÁT KẾT QUẢ CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU VỀ KINH TẾ DU LỊCH 1.3.1. Khái quát kết quả của các công trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến kinh tế du lịch Trong tiết 1.1 và 1.2, nghiên cứu sinh đã khái quát các công trình chủ yếu đã công bố về du lịch và liên quan đến KTDL. Từ các công trình nêu trên, theo nghiên cứu sinh tổng kết, các tác giả đã hướng vào những nội dung chủ yếu sau đây:
  33. 26 Thứ nhất, xác định được những nét cơ bản về KTDL với nội hàm liên quan đến KTDL: khái niệm du lịch, KTDL, DLST, khách du lịch, năng lực cạnh tranh điểm đến, nguồn nhân lực du lịch, quản lý nhà nước về KTDL Thứ hai, đặc điểm, tình hình và xu hướng phát triển KTDL ở các quốc gia trên thế giới hiện nay. Những kinh nghiệm để nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo lập sản phẩm du lịch độc đáo để thu hút khách du lịch của một số vùng ở Việt Nam và các nước trên thế giới cho phát triển KTDL. Thứ ba, phân tích, làm rõ sản phẩm du lịch, cơ cấu sản phẩm du lịch, vai trò của những yếu tố cấu thành sản phẩm du lịch, vai trò của KTDL đối với sự phát triển KT - XH của đất nước, của các vùng trên các khía cạnh, các yếu tố cấu thành cung và cầu du lịch, sự hình thành, vận hành và phát triển của thị trường du lịch. Thứ tư, thực trạng về thị trường du lịch ở một số tỉnh của Việt Nam như Hà Nội, Hà Tây, Quảng Nam Đà Nẵng, Quảng Ninh Luận chứng sáng kiến hợp tác liên vùng dọc EWEC và hợp tác KTDL trong khuôn khổ chương trình phát triển EWEC với các vấn đề cần được quan tâm. Thứ năm, một số giải pháp nhằm đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch ở một số tỉnh của Việt Nam bao gồm: những cơ chế chính sách thu hút, nâng cao hiệu quả nguồn vốn đầu tư để phát triển KTDL; cách thức vận hành các nguồn lực du lịch, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực du lịch trong quá trình HNKTQT. Ở một số công trình nghiên cứu, các tác giả đã đề xuất những phương hướng, mục tiêu và các nhóm giải pháp nhằm phát triển du lịch, thị trường du lịch và kinh doanh du lịch, nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch để thu hút du khách trong nước và quốc tế. Các tác giả đã phản ánh khá đầy đủ, chi tiết và rõ nét về khái niệm, vị trí, vai trò và tác dụng của du lịch, coi nó như một ngành “công nghiệp không khói”, “con gà đẻ trứng vàng” có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển KT - XH của đất nước.
  34. 27 Tuy nhiên, về mặt lý luận các công trình khoa học đã công bố chưa làm rõ khái niệm KTDL dưới góc độ kinh tế chính trị, những đặc trưng của KTDL, chưa phân tích có hệ thống các yếu tố cấu thành KTDL, mối quan hệ giữa KTDL với sự phát triển KT - XH và các nhân tố ảnh hưởng đến KTDL trong HNKTQT. Chưa phân tích một cách đầy đủ cơ hội và thách thức của HNKTQT đối với KTDL Việt Nam nói chung và các tỉnh Bắc Trung Bộ nói riêng. Các nội dung của các công trình đã công bố cũng chưa làm rõ vai trò của các yếu tố thuộc lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong KTDL, mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất nhất là trong KTDL ở các tỉnh Bắc Trung Bộ. Về mặt thực tiễn, đối với các tỉnh Bắc Trung Bộ thì càng chưa đề cập một cách đầy đủ, toàn diện về thực trạng về các mặt: thành tựu và hạn chế, thuận lợi và khó khăn; nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến những tồn tại, hạn chế đó. Các tác giả chưa phân tích đầy đủ về bối cảnh kinh tế mới của KTDL ở các tỉnh Bắc Trung Bộ trong HNKTQT. Đồng thời, các tác giả chưa đưa ra một cách có hệ thống các mục tiêu, phương hướng và giải pháp để phát triển KTDL ở các tỉnh Bắc Trung Bộ, nâng cao sức cạnh tranh, thu hút khách du lịch trong điều kiện HNKTQT. Thêm vào đó là những biến đổi của tình hình trong nước và quốc tế ảnh hưởng mạnh mẽ đến phát triển KTDL trong thời gian gần đây, nhất là sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, 2009 mà hậu quả của nó còn kéo dài đối với vấn đề việc làm, thu nhập của các ngành nói chung, KTDL nói riêng. Bối cảnh mới có nhiều diễn biến phức tạp với những thuận lợi và khó khăn đan xen có nhiều đặc điểm mới cần đặc biệt quan tâm đánh giá trong quá trình tìm giải pháp thúc đẩy phát triển KTDL ở nước ta hiện nay. Để góp phần vào giải quyết vấn đề này, đề tài: “Kinh tế du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ trong hội nhập kinh tế quốc tế” mà nghiên cứu sinh lựa chọn là mới, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách.
  35. 28 1.3.2. Những vấn đề đặt ra cần được tiếp tục nghiên cứu Một là, làm rõ vấn đề lý luận về KTDL và phát triển KTDL trong bối cảnh mới của tình hình trong nước, quốc tế và của HNKTQT dưới góc độ kinh tế chính trị. Theo vấn đề này, luận án của nghiên cứu sinh phải phân tích và làm rõ khái niệm về KTDL, đặc trưng của KTDL, làm rõ nội hàm về các chỉ tiêu đánh giá KTDL: khách du lịch, thu nhập từ khách du lịch, hiệu quả KT - XH từ KTDL đem lại, tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm, cơ cấu và hiệu quả của nguồn vốn đầu tư, chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ trong HNKTQT. Làm rõ các yếu tố cấu thành KTDL, mối quan hệ giữa KTDL với sự phát triển KT - XH và các nhân tố ảnh hưởng đến KTDL, sự chuyển cơ cấu kinh tế trong KTDL bao gồm: cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, cơ cấu các thành phần kinh tế, HNKTQT và thời cơ, thách thức của HNKTQT ảnh hưởng đến KTDL. Trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa KTDL với sự phát triển KT - XH, luận án luận chứng tính tất yếu trong liên kết KTDL và làm rõ sự cần thiết phát triển KTDL ở các tỉnh Bắc Trung Bộ trong HNKTQT. Hai là, nghiên cứu những kinh nghiệm cả thành công và không thành công của các nước trên thế giới về phát triển KTDL trong HNKTQT hiện nay để rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam nói chung và các tỉnh Bắc Trung Bộ nói riêng để tham khảo. Theo vấn đề này, tác giả luận án sẽ phải nghiên cứu những kinh nghiệm phát triển KTDL theo từng chủ đề và chứng minh cho những kinh nghiệm đó bằng kinh nghiệm của ba nước Trung Quốc, Thái Lan, Xingapo để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm phát triển KTDL cho Việt Nam nói chung và các tỉnh Bắc Trung Bộ nói riêng. Đối với các tỉnh Bắc Trung Bộ, luận án phải tiếp tục làm rõ những đặc điểm về tự nhiên, KT - XH, nhất là những thành tựu và hạn chế, thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức của KTDL ở các tỉnh Bắc Trung Bộ trong HNKTQT. Đi sâu phân tích các kết quả đạt được và chưa
  36. 29 đạt được về các mặt thu nhập từ khách du lịch, hiệu quả KT - XH, quan hệ sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm, cơ cấu của nguồn vốn đầu tư, chất lượng nguồn nhân lực, liên kết, hợp tác trong lĩnh vực du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ trong HNKTQT. Từ đó, xây dựng những kế hoạch, qui hoạch, chiến lược dài hạn để phát triển KTDL và đổi mới các cơ chế chính sách cho KTDL nơi đây phát triển. Muốn vậy, trong luận án cần phải nêu bật được toàn cảnh về thực trạng KTDL của vùng trong những năm qua (từ năm 2000 đến nay); thông qua đó, đánh giá những thành tựu đạt được, chỉ rõ những hạn chế và nguyên nhân khách quan, chủ quan của những hạn chế, yếu kém của KTDL ở các tỉnh Bắc Trung Bộ trong thời gian qua. Ba là, cần làm rõ thực trạng KTDL ở các tỉnh Bắc Trung Bộ, chỉ ra những thế mạnh, hạn chế trong quá trình phát triển của khu vực kinh tế này để đề xuất các mục tiêu, phương hướng và giải pháp thúc đẩy phát triển trong thời gian tới. Theo vấn đề này, nghiên cứu sinh sẽ xác định bối cảnh, phương hướng và giải pháp nhằm phát triển KTDL ở các tỉnh Bắc Trung Bộ trong HNKTQT, góp phần vào sự phát triển KT - XH chung của vùng và góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đảng bộ ở các tỉnh Bắc Trung Bộ trong thời gian tới.
  37. 30 Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KINH TẾ DU LỊCH TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 2.1. KINH TẾ DU LỊCH VÀ CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH KINH TẾ DU LỊCH 2.1.1. Kinh tế du lịch và đặc điểm của kinh tế du lịch 2.1.1. Du lịch và kinh tế du lịch 2.1.1.1. Du lịch Quan niệm Như chúng ta đã biết, trong cuộc sống của mình, mỗi người đều có những nhu cầu nhất định. Những nhu cầu đó có thể được đáp ứng ngay tại nơi ở (hay nơi cư trú) của bản thân họ, nhưng cũng có không ít nhu cầu chỉ có thể được thỏa mãn ngoài nơi ở thông qua các cách thức tổ chức thực hiện khác nhau. Một trong số cách thức tổ chức đó là mỗi người hoặc nhóm người thực hiện chuyến đi du lịch. Luật Du lịch năm 2005 của Việt Nam nêu quan niệm: “Du lịch là hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định” [36, tr.8]. Với quan niệm này, du lịch là hoạt động liên quan đến nhu cầu, nhưng không phải mọi nhu cầu đều là du lịch. Chỉ có hoạt động nào dẫn đến thỏa mãn nhu cầu về tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một thời gian nhất định mới được gọi là du lịch. Trong đề tài luận án này, nghiên cứu sinh quan tâm đến phạm trù du lịch dưới góc độ kinh tế chính trị, xem đó là tổng thể những hiện tượng và những mối quan hệ kinh tế phát sinh từ sự tác động qua lại lẫn nhau giữa khách du lịch, nhà kinh doanh du lịch, chính quyền sở tại và cộng đồng dân cư địa phương trong quá trình thu hút và lưu giữ khách du lịch. Du lịch là một hoạt động có nhiều đặc thù, gồm nhiều thành phần tham gia, tạo thành
  38. 31 một tổng thể hết sức phức tạp. Hoạt động du lịch vừa có đặc điểm của ngành kinh tế, lại có đặc điểm của ngành KT - XH. Sản phẩm du lịch và tính đặc thù của nó Sản phẩm du lịch được hiểu “là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thoả mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch" [36, tr.2]. Theo cách hiểu khác, sản phẩm du lịch là “các dịch vụ, hàng hoá cung cấp cho du khách, được tạo nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự nhiên, xã hội với việc sử dụng các nguồn lực cơ sở vật chất - kỹ thuật và lao động tại một cơ sở, một vùng hay một quốc gia nào đó” [13, tr.31]. Sản phẩm du lịch có thể tồn tại dưới dạng vật thể (sản phẩm hữu hình), có thể là sản phẩm phi vật thể (sản phẩm vô hình). Sản phẩm du lịch phi vật thể được cung ứng bởi các hoạt động dịch vụ du lịch. Đặc điểm của sản phẩm du lịch: Ngoài những đặc điểm chung của hàng hóa thông thường, sản phẩm du lịch còn có những đặc trưng sau: Một là, nếu các hàng hoá thông thường sau khi bán và được người mua sử dụng, giá trị của nó sẽ mất dần đi, thậm chí có thể mất luôn sau lần sử dụng đầu tiên, nhưng giá trị của sản phẩm du lịch thì ngược lại. Nó sẽ tồn tại trong cảm nhận và đánh giá của khách du lịch và những giá trị này còn có thể được ghi nhận theo kênh lan truyền từ du khách này sang du khách kia. Nếu chất lượng của sản phẩm du lịch tốt, thì giá cả của nó còn có thể được tăng lên qua những lần sử dụng của du khách tiếp theo. Sở dĩ có hiện tượng trên, là do người cung ứng không phải bán cho du khách bản thân tài nguyên du lịch mà chỉ bán giá trị các khả năng thoả mãn nhu cầu đặc trưng của du khách được chứa đựng trong sản phẩm du lịch đó mà thôi. Hai là, việc tiêu dùng sản phẩm du lịch thường không thường xuyên mà có thể chỉ tập trung vào những thời gian nhất định trong ngày (đối với sản phẩm ở bộ phận nhà hàng), trong tuần (đối với sản phẩm của chủ thể loại du lịch cuối tuần), trong năm (đối với sản phẩm của một số loại hình du lịch: du
  39. 32 lịch nghỉ núi, du lịch nghỉ biển ). Chính vì đặc tính này, hoạt động du lịch mang tính thời vụ cao. Trên thực tế, trong cơ cấu sản phẩm du lịch, dịch vụ du lịch chiếm tỷ trọng rất lớn (khoảng 80% - 90%) nên việc tìm hiểu và đánh giá đúng đặc điểm của dịch vụ du lịch là điều hết sức quan trọng. Dịch vụ du lịch và đặc điểm của nó Dịch vụ du lịch là hoạt động trong đó các đơn vị kinh doanh du lịch cung ứng nhằm thu hút và phục vụ du khách theo mức giá, mức chi phí sản xuất và các biến số kinh tế khác trong một thời gian nhất định. Cụ thể hơn, dịch vụ du lịch là “việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi, giải trí, thông tin, hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch” [36, tr.10]. Du lịch là một loại dịch vụ, vừa có những điểm chung của dịch vụ, vừa có nét đặc thù: - Tính phi vật thể. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của dịch vụ du lịch. Tính phi vật thể làm cho du khách không thể sử dụng thử trước khi trực tiếp tiêu dùng dịch vụ du lịch, vì quá trình sản xuất gắn liền với quá trình tiêu thụ dịch vụ du lịch. Vì vậy, đối với du khách khi họ chưa tiêu dùng dịch vụ du lịch thì nó vẫn là trừu tượng. Dịch vụ thường xuyên đồng hành với những sản phẩm vật chất nhưng dịch vụ mãi mãi tồn tại tính phi vật chất của mình khiến cho du khách thực sự khó đánh giá dịch vụ. Điều đó đòi hỏi nhà cung ứng dịch vụ du lịch cần cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết cho du khách, những thông tin ấy phải nhấn mạnh được tính lợi ích của dịch vụ đối với du khách để họ thấy hài lòng và quyết định mua dịch vụ của mình. Đồng thời, đòi hỏi công tác quảng bá du lịch cần phải có nhiều nội dung, chương trình, phương pháp, phương tiện quảng bá rộng rãi đến du khách để họ có thể định hình trước được những dịch vụ mà nhà cung ứng có và họ sẽ quyết định tiêu dùng những dịch vụ nào mà họ muốn.
  40. 33 - Tính đồng thời của sản xuất và tiêu dùng dịch vụ du lịch. Đặc tính này thể hiện sự khác biệt giữa dịch vụ và hàng hoá. Đối với hàng hoá (vật chất) quá trình sản xuất và tiêu dùng tách rời nhau. Việc sản xuất và tiêu dùng thường diễn ra ở những thời gian và địa điểm khác nhau. Còn đối với dịch vụ thì ngược lại, việc sản xuất và tiêu dùng thường trùng nhau về “không gian” và “thời gian”. Sản xuất không phải để lưu kho hay cất đi như các hàng hoá thông thường. Chẳng hạn, vào mùa đông thời gian rỗi của nhân viên du lịch ở các vùng ven biển không thể để dành đến lúc cao điểm của mùa hè được, một phòng khách sạn không cho thuê được trong ngày thì đã coi như mất dịch vụ, do đó mất nguồn thu v.v Dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng đồng thời nên cung - cầu cũng không thể tách rời nhau và cần phải tạo ra sự ăn khớp giữa cung và cầu. Vì thế, công tác dự báo nhu cầu trong kinh doanh dịch vụ du lịch là hết sức quan trọng. - Sự tham gia của khách du lịch trong quá trình tạo ra dịch vụ. Đặc điểm này nói lên rằng, khách du lịch ở một chừng mực nào đó đã trở thành nội dung của quá trình sản xuất. Do việc sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời, nên ở đó có sự gặp gỡ giữa hai chủ thể: khách hàng và người sản xuất. Sự gắn liền họ trong sự tác động qua lại này trong dịch vụ được khẳng định sự phụ thuộc vào mức độ lành nghề, khả năng của người cung cấp dịch vụ cũng như ý nguyện của người tiêu dùng. Do có sự đa dạng về yêu cầu, sở thích, trình độ cũng như khả năng cảm nhận và đánh giá của khách du lịch mà nhà cung ứng dịch vụ du lịch cần sáng tạo trong quá trình sản xuất của mình để thoả mãn nhu cầu của du khách. Mức độ hài lòng của du khách phụ thuộc nhiều vào khả năng, trình độ, nghệ thuật ứng xử của người làm dịch vụ. Người tiêu dùng ở đây không chỉ là người hưởng thụ những lợi ích do nhà cung ứng mang lại mà sự hợp tác cùng với những phản hồi của họ có tác động đến khả năng phục vụ và mức độ hoàn thiện của dịch vụ; họ trở thành người đồng sáng tạo trong quá trình sản xuất dịch vụ du lịch.
  41. 34 - Tính không thể di chuyển của dịch vụ du lịch. Vì cơ sở du lịch vừa là nơi sản xuất, vừa là nơi cung ứng dịch vụ nên dịch vụ du lịch không thể dịch chuyển được. Trên thực tế, không thể cung cấp dịch vụ du lịch đến tận tay du khách được mà du khách muốn tiêu dùng dịch vụ phải đến các cơ sở du lịch. Do vậy, các nhà kinh doanh du lịch muốn thu hút du khách du lịch, cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng bá du lịch. Đây là một trong những nội dung hết sức quan trọng để phát triển KTDL. - Tính không chuyển đổi quyền sở hữu dịch vụ. Khi mua sản phẩm vật chất, người mua có quyền sở hữu đối với sản phẩm đó. Còn đối với dịch vụ du lịch thì vấn đề không phải như vậy. Khi khách hàng mua dịch vụ du lịch thì sự tiêu dùng dịch vụ của họ song song với quá trình sản xuất của nhà cung ứng; do vậy, khách hàng chỉ đang mua quyền hưởng thụ dịch vụ do nhà cung ứng mang lại chứ không thể mua được quyền sở hữu dịch vụ đó của nhà cung ứng dịch vụ du lịch. - Tính không đồng nhất của dịch vụ du lịch. Dịch vụ du lịch là một loại hình dịch vụ đời sống thoả mãn nhu cầu cho khách du lịch trong suốt thời gian đi du lịch. Dịch vụ du lịch khác với các hoạt động dịch vụ KH - CN, dịch vụ sản xuất, dịch vụ đời sống khác ở chỗ: dịch vụ du lịch chỉ thoả mãn nhu cầu cho khách du lịch, chứ không thoả mãn nhu cầu cho tất cả mọi người trong toàn xã hội, dịch vụ du lịch thoả mãn nhu cầu cho khách du lịch trong suốt thời gian đi du lịch như: nhu cầu ăn, ở, nghỉ ngơi, tham quan, vui chơi giải trí, tìm hiểu lịch sử, văn hoá và các nhu cầu khác. Mặt khác, do khách hàng rất muốn được chăm sóc như những con người riêng biệt nên dịch vụ du lịch thường bị cá nhân hoá và không đồng nhất. DNDL rất khó đưa ra các tiêu chuẩn dịch vụ nhằm thoả mãn tất cả các khách hàng trong mọi hoàn cảnh vì sự thoả mãn ấy phụ thuộc vào sự cảm nhận của du khách - Tính không đồng đều về sản lượng. Do quá trình sản xuất dịch vụ du lịch gắn liền với quá trình tiêu thụ nên sản lượng dịch vụ du lịch phụ thuộc chủ yếu vào nhu cầu của du khách. Mặt khác, nhu cầu của khách du lịch rất
  42. 35 phong phú, đa dạng và phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như thời tiết, tình hình chính trị - xã hội, an ninh quốc phòng, thiên tai, dịch bệnh, vv Kết quả là, số lượng khách du lịch thay đổi và kéo theo sản lượng dịch vụ du lịch cũng thay đổi theo từng ngày trong tuần, từng tuần trong tháng, từng tháng trong năm và giữa năm này so với năm khác. Các loại hình du lịch Dựa vào các tiêu thức phân loại khác nhau có thể phân du lịch thành các loại hình du lịch khác nhau: - Theo phạm vi lãnh thổ của chuyến đi du lịch, sẽ có du lịch quốc tế và du lịch nội địa. Du lịch quốc tế, là hình thức du lịch mà ở đó điểm xuất phát và điểm đến của khách nằm ở lãnh thổ của các quốc gia. Với loại hình du lịch này khách du lịch phải qua biên giới và sử dụng dịch vụ ở nơi đến du lịch. Du lịch nội địa, là hình thức đi du lịch mà điểm xuất phát và điểm đến của khách cùng nằm trong lãnh thổ của một quốc gia. - Theo nhu cầu làm nảy sinh hoạt động du lịch có: du lịch chữa bệnh, du lịch nghỉ dưỡng và giải trí, du lịch thể thao, du lịch tham quan, du lịch công vụ, du lịch tâm linh - Theo vị trí địa lý của nơi khách đến du lịch có: du lịch núi, du lịch biển, sông, hồ, du lịch thành phố, du lịch đồng quê. - Theo phương tiện giao thông phục vụ chuyến đi du lịch của khách có: du lịch bằng xe đạp, du lịch bằng xe máy, du lịch bằng xe ô tô, du lịch bằng tàu hỏa, du lịch bằng tàu thủy, du lịch bằng máy bay - Theo hình thức tổ chức chuyến đi, du lịch được phân thành: du lịch theo đoàn và du lịch cá nhân. - Theo độ dài thời gian chuyến đi của du khách, du lịch được phân thành: du lịch dài ngày và du lịch ngắn ngày v.v Việc quan tâm đến các bộ phận trên của du lịch là cần thiết để lựa chọn hình thức tổ chức thích hợp trong phát triển KTDL trên một địa bàn, lãnh thổ.
  43. 36 2.1.1.2. Kinh tế du lịch Quan niệm về kinh tế du lịch Cho đến nay, đã có một vài quan niệm về KTDL với các cách tiếp cận khác nhau. Theo tác giả Nguyễn Đình Sơn: “KTDL là một phạm trù phản ánh bước tiến mới của lực lượng sản xuất trong quá trình tổ chức khai thác các tài nguyên du lịch của đất nước thành sản phẩm du lịch nhằm thu hút khách du lịch trong và ngoài nước, tổ chức buôn bán xuất khẩu tại chỗ hàng hóa và dịch vụ thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng cho du khách, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho con người, thúc đẩy KT - XH phát triển”.[38, tr. 23] Nhà nước Việt Nam xác định: “du lịch là ngành kinh tế tổng hợp quan trọng, mang nội dung văn hóa sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao” [13, tr 167 - 168]. Dưới góc độ kinh tế chính trị, tác giả luận án cho rằng, kinh tế du lịch là một quan hệ kinh tế trong lĩnh vực cung ứng sản phẩm du lịch, bao gồm các quan hệ ngành, nghề là: kinh doanh lữ hành, kinh doanh lưu trú du lịch, kinh doanh vận chuyển khách du lịch, kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch và kinh doanh dịch vụ du lịch khác, nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần của du khách, đem lại lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội thiết thực cho nước làm du lịch và bản thân DNDL. KTDL là ngành công nghiệp không khói, ngành sản xuất phi vật chất nhưng mang lại những giá trị vật chất và tinh thần rất cao. Tinh thần ấy cũng được thể hiện tại điều 38, Luật du lịch Việt Nam như sau: Kinh doanh du lịch là kinh doanh dịch vụ, bao gồm các ngành, nghề sau đây: i, Kinh doanh lữ hành; ii, Kinh doanh lưu trú du lịch; iii, Kinh doanh vận chuyển khách du lịch; iv, Kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch; v, Kinh doanh dịch vụ du lịch khác [36, tr 38 - 39]. Tính tất yếu ra đời và phát triển của kinh tế du lịch Sự ra đời và phát triển của KTDL không phải do ý muốn chủ quan của một cá nhân hay một tổ chức nào mà là kết quả tất yếu của quá trình phát triển
  44. 37 của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội đã đạt đến trình độ phát triển nhất định. Trước đây, trong nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, dường như chưa có KTDL. Như V.I. Lênin đã từng chỉ ra rằng: Người nông dân có khi suốt đời quanh quẩn trong lãnh địa của địa chủ, không đi xa khỏi các chợ lân cận nhỏ bé [19, tr 63 ]. Theo sự phát triển của lực lượng sản xuất, nhu cầu đi tham quan, du ngoạn của con người đã xuất hiện. Để đáp ứng nhu cầu của du khách, các nhà kinh doanh du lịch đi tìm nguồn lực, tìm hiểu cách thức tổ chức, quản lý của nhau. Từ đó, các quan hệ kinh tế trong kinh doanh du lịch đã nảy sinh. Hoạt động du lịch ban đầu chỉ mang tính chất cá nhân lẻ tẻ, dần dần nó trở nên phổ biến hơn và đa dạng hơn về hình thức. Đi du lịch không chỉ dừng lại ở hình thức cá nhân riêng lẻ mà tiến đến nhóm người, tập thể người, không gian du lịch đồng thời được mở rộng ra trong phạm vi từng lãnh thổ và giữa các lãnh thổ với nhau. Yêu cầu đối với việc tổ chức các chuyến đi ngày càng phức tạp hơn, du khách cần có các tổ chức với tư cách là trung gian trong chuyến đi của mình để thực hiện các hoạt động như bố trí phương tiện đi lại, chỗ ăn nghỉ, hướng dẫn tham quan Trước yêu cầu đó, các tổ chức kinh doanh du lịch đã ra đời. Lúc này hoạt động du lịch không còn là hiện tượng mang tính chất cá nhân, lẻ tẻ mà đã trở thành một hoạt động chuyên nghiệp mang tính chất kinh doanh, hoạt động kinh tế. Với đại công nghiệp và nhất là với cách mạng KH - CN hiện đại, do năng suất lao động tăng, thu nhập của một số tầng lớp dân cư tăng, dẫn đến tăng cầu về du lịch. Mặt khác, do sản xuất tăng có điều kiện đầu tư vào các ngành dịch vụ, trong đó có dịch vụ du lịch, tạo điều kiện vật chất - kỹ thuật cho du lịch nên KTDL tăng. Kinh tế càng phát triển, điều kiện vật chất của xã hội ngày càng được cải thiện và các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống dần được đáp ứng một cách đầy đủ hơn thì con người lại càng có điều kiện để thoả mãn những nhu cầu tinh thần đó của mình. Đây là động lực thúc đẩy KTDL ngày càng phát triển.
  45. 38 Ngày nay, trong xu thế HNKTQT, sự phát triển của KTDL không chỉ dừng ở biên giới quốc gia mà còn mở rộng ra với quy mô toàn cầu. Mặt khác, khi điều kiện về giao thông vận tải càng đạt trình độ cao và an toàn, đáp ứng nhu cầu thuận lợi cho du khách trong di chuyển từ nơi này đến nơi khác, sẽ là cơ hội tốt để KTDL phát triển. KTDL ra đời và phát triển như một tất yếu khách quan, trở thành ngành kinh tế độc lập với những đặc trưng riêng. Đặc điểm của kinh tế du lịch KTDL là ngành kinh tế dịch vụ, có các đặc điểm như sau: - Hoạt động của KTDL có tính nhạy cảm. So với các ngành kinh tế khác, KTDL có tính nhạy cảm cao hơn. Do KTDL gồm nhiều bộ phận tạo thành nên trong quá trình cung cấp dịch vụ đối với du khách, nhà cung ứng cần bố trí chính xác về thời gian, có kế hoạch chu đáo, chi tiết về nội dung các hoạt động, cần phải kết hợp một cách hữu cơ, liên hệ chặt chẽ giữa các khâu vận chuyển hành khách, du ngoạn, ăn uống, lưu trú, vui chơi, giải trí, mua sắm Giả sử một khâu nào đó không tuân thủ quá trình thì có thể gây ra hàng loạt phản ứng dây chuyền làm mất sự phối hợp nhịp nhàng trong cơ cấu tổ chức, ảnh hưởng đến việc cung cấp dịch vụ du lịch, do đó ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh du lịch. Mặt khác, các nhân tố thiên nhiên, chính trị, kinh tế và xã hội đều có ảnh hưởng đến KTDL như chiến tranh, động đất, khủng bố kinh tế, bất ổn về chính trị, đại dịch, đều ảnh hưởng lớn, tạo tâm lý lo ngại cho những du khách khi họ muốn đến điểm du dịch, từ đó cản trở đối với sự phát triển của KTDL. Chẳng hạn, thảm họa động đất, sóng thần ở Nhật Bản (đầu năm 2011) là minh chứng điển hình. Do đó, để khắc phục được “tính nhạy cảm” này, KTDL cần chủ động để có chiến lược đúng đắn trong hoạt động của mình. - KTDL có tính tổng hợp cao. KTDL là ngành có tính tổng hợp cao, bởi vì trong quá trình hoạt động du lịch, khách du lịch có nhu cầu về ăn ở, đi lại, du ngoạn, vui chơi giải trí,
  46. 39 mua sắm Để đáp ứng các nhu cầu khác nhau đó, nhà cung ứng du lịch cần cung cấp tuyến du lịch, cung cấp tư vấn tin tức, cung cấp các phương tiện giao thông, nhà nghỉ cho du khách Vì vậy, sản phẩm của KTDL là sản vật tác dụng chung của nhiều bộ phận, là sản phẩm tổng hợp được biểu hiện ra bằng nhiều loại dịch vụ. Phạm vi hoạt động của KTDL bao gồm các khách sạn du lịch, công ty du lịch, giao thông du lịch, đơn vị bán hàng lưu niệm du lịch trong đó, có cả các bộ phận sản xuất tư liệu vật chất (công nghệ dệt, ngành xây dựng ) và một số bộ phận sản xuất tư liệu phi vật chất (văn hoá, giáo dục, tôn giáo, khoa học kỹ thuật, hải quan, tài chính, bưu điện ). Nắm được đặc điểm tổng hợp của KTDL có ý nghĩa thực tế vô cùng quan trọng đối với việc quản lý kinh doanh của ngành. Các bộ phận trong KTDL không chỉ có đặc tính hướng đích thông qua nút “thoả mãn nhu cầu của du khách” mà còn liên hệ chặt chẽ với nhau. Bất cứ hành vi chậm trễ hoặc bỏ lỡ dịp của bất kỳ bộ phận nào cũng đều ảnh hưởng tới số lượng khách du lịch. Do vậy, các bộ phận trong KTDL phải hỗ trợ lẫn nhau và cần thiết triển khai kinh doanh liên hợp. Nếu các DNDL theo đuổi lợi ích cục bộ, không phối hợp nhịp nhàng với các DNDL khác có liên quan thì hiệu quả kinh doanh của toàn ngành sẽ bị suy giảm. Vì thế, thực hiện quản lý ngành nghề toàn diện trong KTDL là điều hết sức cần thiết. - KTDL có tính đa ngành. Tính đa ngành được thể hiện ở đối tượng khai thác phục vụ cho hoạt động du lịch như: sự hấp dẫn về cảnh quan tự nhiên, các giá trị lịch sử, văn hoá, cơ sở hạ tầng và các dịch vụ kèm theo v.v KTDL sẽ không phát triển được nếu không có sự trợ giúp của các ngành KT - XH khác như thủ công mỹ nghệ, tài chính ngân hàng, bảo hiểm, y tế, giao thông - vận tải, công an, môi trường Ngược lại, KTDL cũng mang lại nguồn thu cho nhiều ngành kinh tế khác nhau thông qua các sản phẩm dịch vụ cung cấp cho khách du lịch: bảo hiểm, điện, nước, hàng nông sản, hàng thủ
  47. 40 công mỹ nghệ, tranh ảnh, v.v Nắm được đặc tính đa ngành trong KTDL đòi hỏi các cấp, các ngành, các địa phương cần phải có chính sách phối, kết hợp chặt chẽ, nhằm tạo ra “xung lực’’mạnh mẽ cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. - KTDL có tính đa thành phần. Đặc điểm này được biểu hiện ở tính đa dạng trong thành phần khách du lịch, những người phục vụ du lịch, các cộng đồng dân cư trong khu du lịch, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ tham gia vào KTDL. Do đặc tính đa thành phần của KTDL mà nhiều loại hình du lịch khác nhau và dịch vụ mới đã ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu phong phú và đa dạng của du khách. Tuy nhiên, đặc tính đa thành phần trong KTDL, nếu không được khai thác một cách hợp lý sẽ dẫn đến sự bất đồng quan điểm giữa một số cá nhân hoặc thậm chí là nhiều cá nhân trong đoàn đi du lịch, cũng như mâu thuẫn trong nội bộ những người làm du lịch. - Cầu của du khách có tính chi phí. Mục đích của các khách đi du lịch là hưởng thụ các sản phẩm du lịch chứ không phải với mục tiêu kiếm tiền. Du khách sẵn sàng trả những khoản chi phí trong chuyến đi của mình về các khoản dịch vụ như ăn, uống, ở, đi lại và nhiều các chi phí khác nhằm thực hiện được mục đích vui chơi, giải trí, hưởng thụ vẻ đẹp của thiên nhiên, giá trị văn hoá, lịch sử v.v Hiểu rõ đặc tính này, các quốc gia, các nhà kinh doanh du lịch cần có biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, đa dạng các loại hình dịch vụ, nhằm thu hút khách du lịch, kéo dài thời gian lưu trú của du khách. Song, thực tế ở một số điểm du lịch nhiều nhà kinh doanh du lịch đã lợi dụng đặc tính này để đẩy mức giá dịch vụ lên quá cao, làm cho sự tin tưởng của du khách đối với nhà cung ứng du lịch giảm sút. Những sai sót này sẽ lan truyền từ du khách này đến du khách khác làm ảnh hưởng đến hình ảnh của KTDL trong con mắt của du khách.
  48. 41 - KTDL có tính liên vùng. Đặc điểm này biểu hiện thông qua các tuyến du lịch với một quần thể các điểm du lịch trong một khu vực, trong một quốc gia hay giữa các quốc gia với nhau. Mỗi một điểm du lịch đều có những nét độc đáo, hấp dẫn riêng, song nó không thể tách khỏi xu thế thời đại và sự phát triển chung của khu vực và quốc gia. Vì vậy, bất cứ một khu vực, một quốc gia nào muốn phát triển KTDL cần phải đưa mình vào “quỹ đạo’’ chung của quốc tế và khu vực. KTDL ở một vùng, một quốc gia khó có thể phát triển được nếu không có sự liên kết các tuyến, điểm du lịch trong phạm vi quốc gia cũng như trên toàn thế giới. Trên thực tế hiện nay, các địa phương, các DNDL đang khai thác sản phẩm du lịch theo kiểu “mạnh ai nấy làm” dẫn đến hệ quả là các sản phẩm du lịch “trùng nhau” như sản phẩm du lịch biển, du lịch nghỉ dưỡng hoặc có những sản phẩm du lịch đặc thù của từng vùng thì lại “bưng bít”, “thiếu thông tin” đến với du khách đang ở vùng khác. Điều đó dẫn đến hiện tượng là các du khách khi đến du lịch ở tỉnh này nhưng cũng không biết vùng khác đang diễn ra hoạt động văn hóa du lịch gì? Điều này làm thất thu một nguồn thu nhập lớn cho người làm du lịch, đồng thời không làm thõa mãn được nhu cầu lưu trú dài ngày của du khách. - Hoạt động KTDL có tính thời vụ. Do ảnh hưởng của yếu tố địa lý tự nhiên, thời tiết khí hậu, nên KTDL hầu khắp các nước đều mang “tính thời vụ” đặc trưng. Tại điểm du lịch, điều kiện khí hậu có ảnh rất lớn tới sự hình thành tính thời vụ du lịch. Ngoài ra, tính thời vụ của KTDL có liên quan mật thiết tới việc sắp xếp ngày nghỉ của nhân viên, các kỳ nghỉ của học sinh, sinh viên; sự bố trí sắp xếp này có ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động của KTDL. Những nguyên nhân xuất phát từ yếu tố cung - cầu trên khiến hoạt động kinh doanh du lịch có tính mùa vụ rõ rệt, ảnh hưởng tới tỷ lệ cung và cầu của du lịch, gây ra
  49. 42 hiện tượng mùa thịnh thì cung du lịch không đủ cầu du lịch, mùa suy thì thiết bị và nhân viên phục vụ nhàn rỗi. Vì vậy, muốn tối đa hoá lợi nhuận người kinh doanh du lịch cần chú ý đầy đủ tới đặc điểm này để tìm mọi cách áp dụng các biện pháp hữu hiệu, cố gắng giảm thiểu sự chênh lệch giữa mùa thịnh, mùa suy, khai thác tối đa các thiết bị và tài nguyên du lịch nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế. Việc khắc phục tính mùa vụ luôn là vấn đề bức xúc cả về mặt thực tiễn cũng như về mặt lý luận trong KTDL. Các chỉ tiêu đánh giá kinh tế du lịch. Căn cứ vào mục tiêu hoạt động của các tổ chức kinh doanh du lịch trên thế giới nói chung và Luật Du lịch của nước ta nói riêng, có thể xác định các chỉ tiêu để đánh giá KTDL bao gồm: Một là, chỉ tiêu về khách du lịch:“Người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, không phải trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến” [36, tr.8-9]. Hai là, chỉ tiêu về thu nhập từ khách du lịch: Bao gồm các khoản thu do khách du lịch chi trả, đó là: thu nhập từ cơ sở lưu trú và ăn uống, kinh doanh tuyến du lịch, điểm du lịch, từ vận chuyển khách du lịch và từ các dịch vụ du lịch khác. Thực tế cho thấy, tất cả các khoản này không phải chỉ do KTDL trực tiếp thu mà còn do nhiều ngành khác có tham gia các hoạt động du lịch thu. Bên cạnh đó, thu nhập từ khách du lịch còn được thu bởi một số ngành dịch vụ khác không những chỉ phục vụ người dân địa phương, mà còn phục vụ cho cả du khách (ví dụ: giao thông công cộng, bảo hiểm, dịch vụ y tế, ngân hàng, bưu điện, phim ảnh, v.v ). Ba là, chỉ tiêu về tổng sản phẩm ngành du lịch: “Tổng sản phẩm trong nước (GDP) là một trong những chỉ tiêu kinh tế tổng hợp quan trọng trong hệ thống Tài khoản quốc gia được sử dụng với mục đích nhằm đánh giá kết quả tổng hợp hoạt động kinh tế, nghĩa là đánh giá khối lượng và tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia, tỉnh, thành phố và từng ngành kinh tế” [57,
  50. 43 tr. 86]. Với cách hiểu đó, GDP áp dụng vào hoạt động du lịch là chỉ tiêu nhằm đánh giá kết quả KTDL của cả nước cũng như của từng vùng, từng trung tâm du lịch trong một giai đoạn phát triển. Bốn là, chỉ tiêu về hiệu quả KTDL: Xét về hiệu quả kinh doanh thì đây là chỉ tiêu thể hiện mức độ sử dụng các yếu tố sản xuất, tài nguyên du lịch, nhằm tạo ra và tiêu thụ một khối lượng lớn nhất các dịch vụ và hàng hóa có chất lượng cao trong một khoảng thời gian nhất định. Đồng thời, nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch với chi phí nhỏ nhất, đạt mức thu nhập từ khách du lịch cao nhất. Hay nói cách khác, hiệu quả KTDL phản ánh trình độ sử dụng nguồn lực có sẵn để đạt được kết quả sản xuất kinh doanh cao với chi phí thấp nhất. Bên cạnh hiệu quả kinh doanh du lịch, hoạt động của KTDL còn phải tính đến hiệu quả KT - XH. Tức là phải tính đến mức đóng góp vào tăng trưởng chung của nền kinh tế, tạo việc làm và thu nhập cho người dân, sức lôi kéo sự phát triển của các ngành kinh tế khác và hiệu ứng tích cực đối với bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo phát triển bền vững. 2.1.2. Các bộ phận cấu thành kinh tế du lịch KTDL là một quan hệ kinh tế tổng hợp, bao gồm các quan hệ ngành, nghề chủ yếu là kinh doanh lữ hành, kinh doanh lưu trú du lịch, kinh doanh vận chuyển khách du lịch, kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch và kinh doanh dịch vụ du lịch khác. 2.1.2.1. Kinh doanh lữ hành Theo nghĩa rộng, kinh doanh lữ hành được hiểu là doanh nghiệp đầu tư để thực hiện một, một số hoặc tất cả các công việc trong quá trình tạo ra và chuyển giao sản phẩm từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực tiêu dùng du lịch với mục đích hưởng hoa hồng hoặc lợi nhuận. Kinh doanh lữ hành có thể là kinh doanh một hoặc nhiều hơn một, hoặc tất cả các dịch vụ và hàng hóa thỏa mãn hầu hết các nhu cầu thiết yếu, đặc trưng và các nhu cầu khác của khách du lịch. Ví dụ, sắp xếp để tiêu thụ hoặc bán các dịch vụ vận chuyển, lưu trú,
  51. 44 chương trình du lịch hoặc bất kỳ dịch vụ du lịch khác; tổ chức hoặc thực hiện các chương trình du lịch vào và ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia; trực tiếp cung cấp hoặc chuyên gia cho thuê dịch vụ vận chuyển cho khách du lịch; trực tiếp cung cấp hoặc chuyên gia môi giới hỗ trợ các dịch vụ khác có liên quan đến các dịch vụ kể trên trong quá trình tiêu dùng của du khách [29, tr.47]. Theo nghĩa hẹp, kinh doanh lữ hành bao gồm kinh doanh lữ hành nội địa, kinh doanh lữ hành quốc tế. Kinh doanh lữ hành nội địa là việc xây dựng, bán, tổ chức thực hiện các chương trình du lịch cho khách du lịch nội địa và phải có đủ ba điều kiện. Kinh doanh lữ hành quốc tế là việc xây dựng, bán, tổ chức thực hiện các chương trình du lịch cho khách du lịch quốc tế và phải có đủ năm điều kiện. Như vậy, theo định nghĩa này, kinh doanh lữ hành ở Việt Nam được hiểu theo nghĩa hẹp và được xác định một cách rõ ràng sản phẩm của kinh doanh lữ hành là chương trình du lịch [29, 47]. Trên thực tế, khi nói đến hoạt động kinh doanh lữ hành chúng ta thường thấy song song tồn tại hai hoạt động phổ biến sau: (i) kinh doanh lữ hành, là việc thực hiện các hoạt động nghiên cứu thị trường, thiết lập các chương trình du lịch trọn gói hay từng phần; quảng cáo và bán các chương trình này trực tiếp hay gián tiếp qua các trung gian hoặc văn phòng đại diện, tổ chức thực hiện chương trình và hướng dẫn du lịch. (ii) kinh doanh đại lý lữ hành, là việc thực hiện các dịch vụ đưa đón, đăng ký nơi lưu trú, vận chuyển, hướng dẫn tham quan, bán các chương trình du lịch của các doanh nghiệp lữ hành, cung cấp thông tin du lịch và tư vấn du lịch nhằm hưởng hoa hồng. Tuy nhiên, cách phân chia như trên chỉ mang tính chất tương đối. Trên thực tế, không có nghĩa là tồn tại các doanh nghiệp chỉ kinh doanh đại lý lữ hành với các hoạt động kể trên. Các doanh nghiệp lữ hành đương nhiên được phép tổ chức mạng lưới đại lý lữ hành. Hiện nay, các công ty lữ hành du lịch có nhiều loại khác nhau, với những hoạt động phong phú, đa dạng, phức tạp và biến đổi không ngừng theo sự phát triển của hoạt động du lịch.
  52. 45 2.1.2.2. Kinh doanh lưu trú du lịch Theo điều 62 Luật Du lịch Việt Nam, cơ sở lưu trú du lịch bao gồm: khách sạn, làng du lịch, biệt thự du lịch, căn hộ du lịch, bãi cắm trại du lịch, nhà nghỉ du lịch, nhà ở có phòng cho khách du lịch thuê và các cơ sở lưu trú du lịch khác [36, tr.55]. Trong đó: - Khách sạn: là cơ sở lưu trú du lịch, có quy mô từ mười buồng ngủ trở lên, đảm bảo chất lượng về cơ sở vật chất, trang thiết bị và dịch vụ cần thiết phục vụ khách lưu trú và sử dụng dịch vụ. - Làng du lịch: là cơ sở lưu trú du lịch gồm tập hợp các biệt thự, căn hộ, bãi cắm trại được xây dựng ở nơi có tài nguyên du lịch, cảnh quan thiên nhiên đẹp, có hệ thống dịch vụ gồm các nhà hàng, quầy bar, cửa hàng mua sắm, khu vui chơi giải trí, thể thao và các tiện ích khác phục vụ khách du lịch. - Biệt thự du lịch: là biệt thự có trang thiết bị, tiện nghi cho khách du lịch thuê, có thể tự phục vụ trong thời gian lưu trú. Nếu có từ ba biệt thự du lịch trở lên được gọi là cụm biệt thự du lịch. - Căn hộ du lịch: là căn hộ có trang thiết bị, tiện nghi cho khách du lịch thuê, có thể tự phục vụ trong thời gian lưu trú. Nếu có từ mười căn hộ du lịch trở lên được gọi là khu căn hộ du lịch. - Bãi cắm trại du lịch: là khu vực đất được quy hoạch ở nơi có cảnh quan thiên nhiên đẹp, có kết cấu hạ tầng, có cơ sở vật chất - kỹ thuật du lịch và dịch vụ cần thiết phục vụ khách cắm trại. - Nhà nghỉ du lịch: là cơ sở lưu trú du lịch, có trang thiết bị, tiện nghi cần thiết phục vụ khách du lịch như khách sạn nhưng không đạt tiêu chuẩn xếp hạng khách sạn. - Nhà ở có phòng cho khách du lịch thuê: là nơi sinh sống của người sử dụng hợp pháp trong thời gian cho thuê lưu trú du lịch, có trang thiết bị, tiện nghi cho khách du lịch thuê lưu trú, có thể có dịch vụ khác theo khả năng đáp ứng của chủ nhà.
  53. 46 - Các cơ sở lưu trú du lịch khác bao gồm: tàu thủy du lịch, tàu hỏa du lịch, caravan, lều du lịch. Cơ sở lưu trú du lịch là cơ sở cho thuê buồng, giường và cung cấp các dịch vụ khác phục vụ khách lưu trú, trong đó khách sạn là cơ sở lưu trú du lịch chủ yếu. Kinh doanh lưu trú là một trong những ngành, nghề quan trọng đem lại nguồn thu nhập lớn cho KTDL. 2.1.2.3. Kinh doanh vận chuyển khách du lịch Đặc trưng nổi bật của hoạt động du lịch là sự dịch chuyển của con người từ nơi này đến nơi khác ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ, thường với một khoảng cách xa. Do vậy, khi đề cập đến hoạt động du lịch nói chung, đến hoạt động kinh doanh du lịch nói riêng không thể không đề cập đến hoạt động kinh doanh vận chuyển. Kinh doanh vận chuyển là hoạt động nhằm giúp cho du khách dịch chuyển được từ nơi cư trú của mình đến điểm du lịch cũng như là dịch chuyển tại điểm du lịch. Để phục vụ cho hoạt động kinh doanh này có nhiều phương tiện vận chuyển khác nhau như ô tô, tàu hỏa, tàu thủy, máy bay Trên thực tế ít có các DNDL (trừ một số tập đoàn du lịch lớn trên thế giới) có thể đảm nhiệm toàn bộ việc vận chuyển khách du lịch từ nơi cư trú của họ đến điểm du lịch và tại điểm du lịch. Phần lớn trong các trường hợp, khách du lịch sử dụng dịch vụ vận chuyển của các phương tiện giao thông đại chúng hoặc của các công ty chuyên kinh doanh dịch vụ vận chuyển. 2.1.2.4. Kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch Kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch bao gồm: đầu tư bảo tồn, nâng cấp tài nguyên du lịch đã có; đưa các tài nguyên du lịch tiềm năng vào khai thác phát triển khu du lịch, điểm du lịch mới; kinh doanh xây dựng kết cấu hạ tầng du lịch, CSVC - KT du lịch. Theo điều 4 Luật du lịch Việt Nam thì: “Khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ưu thế về tài nguyên du lịch tự nhiên, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch, đem lại hiệu quả
  54. 47 KT - XH và môi trường”. “Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch” [36, tr.9]. Kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch là điều kiện quan trọng không thể thiếu để phát triển sản phẩm dịch vụ du lịch nhằm thu hút du khách và đem lại hiệu quả KT - XH cho quốc gia hoặc vùng có tài nguyên du lịch. 2.1.3. Kinh doanh dịch vụ du lịch khác Ngoài các hoạt động kinh doanh như đã nêu ở trên, trong các bộ phận cấu thành KTDL còn có một số hoạt động kinh doanh bổ trợ như kinh doanh các loại hình dịch vụ vui chơi, giải trí, tuyên truyền, quảng cáo du lịch, tư vấn đầu tư du lịch, v.v Việc kinh doanh các loại hình dịch vụ nói trên sẽ góp phần vào chuỗi các sản phẩm, dịch vụ du lịch nhằm cung ứng cho khách du lịch, đem lại lợi ích thiết thực cho nước làm du lịch và bản thân DNDL. Ngày nay, cùng với xu hướng phát triển ngày càng đa dạng những nhu cầu của khách du lịch, sự tiến bộ của KH - CN và sự gia tăng mạnh của các DNDL dẫn đến sự cạnh tranh ngày càng tăng trên thị trường du lịch thì các hoạt động kinh doanh bổ trợ này ngày càng có xu hướng phát triển mạnh. 2.2. MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ DU LỊCH VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KINH TẾ DU LỊCH TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 2.2.1. Mối quan hệ giữa kinh tế du lịch với sự phát triển kinh tế - xã hội Quá trình phát triển của KTDL và quá trình phát triển KT-XH có quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. 2.2.1.1. Sự tác động của kinh tế du lịch đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Sự phát triển của KTDL có tác động nhiều mặt đối với đời sống KT - XH. Thể hiện: - Sự phát triển KTDL góp phần thúc đẩy tăng trưởng của kinh tế.
  55. 48 Trong phạm vi một quốc gia, sự phát triển của KTDL có vai trò góp phần quan trọng trong việc tạo nên thu nhập quốc dân, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. KTDL sẽ tham gia tích cực vào quá trình phân phối lại thu nhập quốc dân giữa các vùng. Hay nói cách khác, KTDL tác động tích cực vào việc làm cân đối cấu trúc của thu nhập và chi tiêu của nhân dân theo các vùng. Du lịch nội địa là ngành kinh tế huy động tốt nhất kết cấu hạ tầng vật chất KT - XH, các nguồn lực khác nhau của xã hội cho phát triển kinh tế quốc dân nói chung và mỗi địa phương nói riêng. Ngoài ra, sự phát triển KTDL nội địa sẽ góp phần nâng cao sức khoẻ cho người dân và do vậy góp phần làm tăng năng suất lao động xã hội. Đồng thời, du lịch nội địa giúp cho việc sử dụng cơ sở lưu trú du lịch của du lịch quốc tế được hợp lý hơn. Vào trước và sau thời vụ du lịch, khi khách quốc tế vắng có thể sử dụng cơ sở lưu trú du lịch ấy vào phục vụ khách du lịch nội địa. Theo cách đó vừa có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của du lịch nội địa, vừa tận dụng được cơ sở lưu trú du lịch. Trong lĩnh vực xuất khẩu, KTDL là hoạt động xuất khẩu có hiệu quả rất cao. Tính hiệu quả cao trong kinh doanh du lịch thể hiện trước nhất ở chỗ, du lịch là một ngành “xuất khẩu tại chỗ” những hàng hoá công nghiệp, hàng tiêu dùng, thủ công mỹ nghệ, đồ cổ phục chế, nông lâm sản theo giá bán lẻ cao hơn (nếu như bán qua xuất khẩu sẽ theo giá bán buôn). Được trao đổi thông qua con đường du lịch, các hàng hoá được xuất khẩu mà không phải chịu hàng rào thuế quan mậu dịch quốc tế. KTDL không chỉ thúc đẩy “xuất khẩu tại chỗ” những sản phẩm hữu hình mà còn là ngành “xuất khẩu vô hình” sản phẩm du lịch. Những sản phẩm như các cảnh quan thiên nhiên, khí hậu và ánh nắng mặt trời vùng nhiệt đới, những giá trị của những di tích lịch sử - văn hoá, tính độc đáo trong truyền thống phong tục tập quán thông qua hoạt động của KTDL mà đến với người dân ở các quốc gia trên thế giới. Với hai loại sản phẩm xuất khẩu trên cho thấy hàng hoá và dịch vụ bán thông qua du lịch đem lại lợi nhuận kinh tế cao hơn, do tiết kiệm được đáng kể các chi phí đóng gói bao bì, bảo quản, vận chuyển và thuế xuất khẩu có
  56. 49 khả năng thu hồi vốn nhanh và lãi suất cao do nhu cầu du lịch là nhu cầu cao cấp có khả năng thanh toán. - KTDL phát triển sẽ thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân theo hướng tiến bộ. Sự phát triển của KTDL sẽ góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế ngành, nghĩa là khi KTDL phát triển sẽ kéo theo sự tăng giá trị dịch vụ và tăng tỷ lệ lao động trong ngành dịch vụ và các ngành hỗ trợ. Trước hết, hoạt động của KTDL cần có sự tham gia hỗ trợ liên ngành, như giao thông vận tải, công nghiệp, nông nghiệp, tài chính, bưu điện, hải quan KTDL càng phát triển thì sự tham gia của các ngành, lĩnh vực kinh tế khác càng nhiều. KTDL mở ra một thị trường tiêu thụ hàng hoá. Mặt khác, sự phát triển KTDL tạo các điều kiện để khách du lịch tìm hiểu thị trường, ký kết hợp đồng về sản xuất kinh doanh trong nước, tận dụng các cơ sở vật chất - kỹ thuật ở các ngành kinh tế khác. Đồng thời, KTDL phát triển góp phần thay đổi cơ cấu thành phần kinh tế ở cả các DNDL nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, hỗn hợp và cả các hộ dân Mặt khác, khi KTDL phát triển cũng có thể giúp thay đổi cơ cấu vùng kinh tế thông qua các hình thức liên kết giữa các tỉnh, giữa các vùng, giữa các nước để mở các tour du lịch. Phát triển KTDL sẽ góp phần mở mang, thúc đẩy phát triển và hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế như mạng lưới giao thông công cộng, mạng lưới điện nước, các phương tiện thông tin đại chúng. Đặc biệt, ở những vùng phát triển KTDL, do xuất hiện nhu cầu đi lại, vận chuyển thông tin liên lạc v.v của khách du lịch, cũng như những điều kiện cần thiết cho cơ sở kinh doanh du lịch hoạt động nên các ngành này phát triển. Ngoài ra, du khách không chỉ dừng lại ở điểm du lịch mà trước đó và sau đó du khách có nhu cầu đi lại giữa các điểm du lịch, trên cơ sở đó ngành giao thông vận tải phát triển. - Sự phát triển của KTDL góp phần kích thích đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, qua đó làm tăng tổng cầu của nền kinh tế.
  57. 50 Theo quy luật có tính phổ biến của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên thế giới hiện nay, giá trị ngành dịch vụ ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong tổng sản phẩm xã hội. Do vậy, các nhà kinh doanh đi tìm hiệu quả của đồng vốn, thì du lịch là một lĩnh vực kinh doanh hấp dẫn so với nhiều ngành kinh tế khác. Du lịch đem lại tỷ suất lợi nhuận cao, vì vốn đầu tư vào du lịch tương đối ít so với ngành công nghiệp nặng, giao thông vận tải mà khả năng thu hồi vốn lại nhanh, kỹ thuật không phức tạp, mức độ rủi ro thấp. Đặc biệt, trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ bổ sung thì nhu cầu về vốn đầu tư không lớn như lĩnh vực kinh doanh dịch vụ cơ bản, mà thu hồi vốn nhanh, doanh thu cao, thu hút được nhiều lao động góp phần giải quyết nhu cầu về việc làm, giảm sức ép cho toàn xã hội. - Sự phát triển của KTDL góp phần củng cố và phát triển các mối quan hệ kinh tế như: quan hệ hợp tác đầu tư, hợp tác sản xuất, quan hệ buôn bán, hợp tác về các lĩnh vực dịch vụ giữa các chủ thể và thành phần kinh tế. Để đạt được mục tiêu phát triển KTDL, các tổ chức quốc tế mang tính chất chính phủ và phi chính phủ về du lịch đã tác động tích cực với nhau nhờ đó mà hình thành được các mối quan hệ kinh tế. KTDL quốc tế phát triển, nhiều du khách có xu hướng khám phá những miền đất mới lạ, đi đến nhiều điểm du lịch trong một chuyến hành trình của mình Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu đi lại thuận tiện cho quá trình du lịch của du khách mà ngành giao thông quốc tế đã không ngừng quan tâm đầu tư phát triển. Du lịch quốc tế như một đầu mối “xuất - nhập khẩu” ngoại tệ, góp phần làm phát triển quan hệ ngoại hối quốc tế, v.v Đối với những vùng lạc hậu xa xôi hẻo lánh, kinh tế khó khăn không thích hợp phát triển công nghiệp thì phát triển du lịch sẽ có ý nghĩa quan trọng đến việc xoá đói, giảm nghèo, dần đi đến làm giàu. Đồng thời, sự phát triển của KTDL sẽ trực tiếp tăng thu nhập tài chính của nước nơi đón tiếp. Ngoài ra, du lịch phát triển còn “đánh thức” một số ngành sản xuất thủ công mỹ nghệ truyền thống của các dân tộc bởi các lý do sau: