Luận án Làng nghề truyền thống ở tỉnh Nam Định trong hội nhập quốc tế

pdf 198 trang hapham 3510
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Làng nghề truyền thống ở tỉnh Nam Định trong hội nhập quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_an_lang_nghe_truyen_thong_o_tinh_nam_dinh_trong_hoi_nha.pdf

Nội dung text: Luận án Làng nghề truyền thống ở tỉnh Nam Định trong hội nhập quốc tế

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ NGỌC HOÀNG LµNG NGHÒ TRUYÒN THèNG ë TØNH NAM §ÞNH TRONG HéI NHËP QUèC TÕ LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ Mã số: 62 31 01 02 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGÔ TUẤN NGHĨA PGS.TS. ĐOÀN XUÂN THỦY HÀ NỘI - 2016
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Vũ Ngọc Hoàng
  3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ 6 1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan đến làng nghề truyền thống trong hội nhập quốc tế 6 1.2. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam có liên quan đến làng nghề truyền thống trong hội nhập quốc tế 10 1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu liên quan đến chủ đề làng nghề truyền thống trong hội nhập quốc tế và vấn đề đặt ra 19 Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ 21 2.1. Khái niệm và đặc điểm làng nghề truyền thống trong hội nhập quốc tế 21 2.2. Phát triển làng nghề truyền thống trong hội nhập quốc tế và các nhân tố ảnh hưởng 40 2.3. Kinh nghiệm phát triển làng nghề truyền thống trong hội nhập quốc tế của một số tỉnh và bài học cho tỉnh Nam Định 57 Chương 3: THỰC TRẠNG LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở TỈNH NAM ĐỊNH TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ 68 3.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên và các nhân tố ảnh hưởng tới làng nghề truyền thống tỉnh Nam Định trong hội nhập quốc tế 68 3.2. Thực trạng làng nghề truyền thống tỉnh Nam Định trong hội nhập quốc tế trong giai đoạn 2010-2015 72 3.3. Đánh giá chung về làng nghề truyền thống tỉnh Nam Định trong hội nhập quốc tế 92 Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở TỈNH NAM ĐỊNH TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ 114 4.1. Dự báo các nhân tố mới tác động đến làng nghề truyền thống ở tỉnh Nam Định trong hội nhập quốc tế 114 4.2. Phương hướng tiếp tục phát triển làng nghề truyền thống ở tỉnh Nam Định trong hội nhập quốc tế 120 4.3. Giải pháp nhằm phát triển làng nghề truyền thống ở tỉnh Nam Định trong hội nhập quốc tế 127 KẾT LUẬN 149 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ 150 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152 PHỤ LỤC 161
  4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CN-TTCN : Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp DANIDA : Tổ chức Hỗ trợ phát triển quốc tế đan Mạch GDP : Thu nhập quốc dân HTX : Hợp tác xã JICA : Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản KT-XH : Kinh tế - xã hội LN : Làng nghề LNTT : Làng nghề truyền thống NTCTT : Nghề thủ công truyền thống SDC : Bộ Hợp tác phát triển Thụy Sĩ SIDA : Cơ quan Hợp tác phát triển quốc tế Thụy điển TCMN : Thủ công mỹ nghệ TNHH : Trách nhiệm hữu hạn TP : Thành phố TTCN : Tiểu thủ công nghiệp UBND : Uỷ ban nhân dân USD : Đô la Mỹ WCCI : Hội đồng Quốc tế về nghề thủ công thế giới WTO : Tổ chức thương mại thế giới XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  5. DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ Trang Bảng 3.1: Các làng nghề truyền thống phân bố theo địa bàn hành chính huyện và thành phố (đến tháng 06 năm 2015) 75 Bảng 3.2: Các làng nghề truyền thống từ năm 2010 đến tháng 06 năm 2015 76 Bảng 3.3: Tình hình xuất khẩu sản phẩm làng nghề truyền thống tỉnh Nam Định giai đoạn 2010-2015 79 Bảng 3.4: Các mặt hàng xuất khẩu qua các năm của tỉnh Nam Định từ năm 2010-2015 80 Bảng 3.5: Trình độ lao động trong các làng nghề truyền thống của tỉnh Nam Định năm 2010 và 2015 83 Bảng 3.6: Số lao động làng nghề của làng nghề truyền thống năm 2015 85 Bảng 3.7: Lao động ở các làng nghề truyền thống ở Ý Yên từ 2010-2014 86 Bảng 3.8: Cơ cấu kinh tế theo GDP ở Nam Định 93 Bảng 3.9: Cơ cấu lao động của tỉnh 94 Bảng 4.1: Vốn đầu tư cho phát triển làng nghề 131 Sơ đồ 2.1: Sự hình thành làng nghề vùng nông thôn 22
  6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Với đặc thù là một nước nông nghiệp, làng nghề truyền thống hiện có vị trí quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Việc khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống đang góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, huy động và khai thác tiềm năng về lao động, nguyên vật liệu và nguồn vốn trong nhân dân để phát triển sản xuất - kinh doanh, tạo ra nhiều việc làm, góp phần xoá đói - giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Bên cạnh đó, phát triển các làng nghề truyền thống đúng hướng còn tác động đến việc phân công lại lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao thu nhập và đời sống người dân, hội nhập quốc tế. Trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm khuyến khích tạo điều kiện để các làng nghề truyền thống được khôi phục và phát triển. Nhiều địa phương trên cả nước đã phát triển cụm công nghiệp làng nghề, làng nghề truyền thống và làng nghề mới không chỉ phục vụ nhu cầu trong tỉnh, trong nước mà còn vươn ra thị trường khu vực và thế giới trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay. Nam Định là một tỉnh nằm ở phía Nam vùng Đồng bằng sông Hồng, có nhiều làng nghề truyền thống tiểu thủ công nghiệp (TTCN); với những sản phẩm nổi tiếng như: dệt may, nón lá, trạm khắc gỗ, cây cảnh, cơ khí đúc, sơn mài trong đó có những sản phẩm đã tồn tại và phát triển hàng trăm năm, được khách hàng trong và ngoài nước ưa chuộng. Trong những năm qua, quá trình hình thành và phát triển làng nghề truyền thống gắn liền với quá trình phát triển nông thôn, đã góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn trên địa bàn tỉnh Nam Định, đời sống người lao động từng bước được nâng cao, tạo việc làm ổn định, tăng thu nhập cho người lao động, giảm khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, giảm tỷ lệ hộ nghèo góp phần quan trọng đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
  7. 2 Tuy nhiên, trước yêu cầu của hội nhập quốc tế, thực tiễn phát triển làng nghề truyền thống tỉnh Nam Định hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, phải đối mặt nhiều khó khăn thách thức như: - Làng nghề truyền thống phát triển chưa bền vững, đa số vẫn là sản xuất nhỏ, năng lực trình độ quản lý kinh doanh các chủ hộ, cơ sở sản xuất còn hạn chế. - Người sản xuất trong các làng nghề truyền thống ở Nam Định khó tiếp cận những khoản vay ưu đãi để phát triển sản xuất, thiếu đội ngũ lao động có tay nghề cao, thiếu vốn để đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị máy móc nhằm nâng cao sản lượng, chất lượng sản phẩm. - Chủng loại sản phẩm tuy đa dạng nhưng chất lượng chưa cao, sản phẩm đạt trình độ tinh xảo còn ít, chưa có sản phẩm mang tính chủ lực mũi nhọn của địa phương. Việc tiêu thụ sản phẩm còn bị động, các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu vẫn chủ yếu phải qua khâu trung gian. Vai trò của các công ty, doanh nghiệp chưa phát huy hết hiệu quả. Mặt khác, với yêu cầu hội nhập ngày càng sâu rộng trong thời gian tới các sản phẩm làng nghề truyền thống Nam Định sẽ phải cạnh tranh gay gắt với sản phẩm cùng loại tại thị trường trong nước, thị trường khu vực và thị trường quốc tế. - Hơn nữa, môi trường trong các làng nghề truyền thống ở Nam Định hiện nay bị ô nhiễm nghiêm trọng điển hình là tại các làng nghề như: Vân Chàng, xã Nam Giang, Làng Phượng, xã Nam Dương; làng nghề Phong Lộc, phường Cửa Nam; làng nghề Cổ Chất, xã Phương Định; làng nghề cơ khí Bình Yên, xã Nam Thanh; làng nghề tái chế nhựa Vô Hoạn - xã Nam Mỹ; làng nghề sản xuất hoa nhựa Báo Đáp - xã Hồng Quang và làng nghề sơn mài, tre nứa ghép xã Yên Tiến - Sức ép của xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ có thể bóp chết làng nghề truyền thống - Không những thế vấn đề bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống chưa được quan tâm đúng mức của các cấp chính quyền nên một số nghề, làng nghề đang có nguy cơ mai một, thất truyền khi các nghệ nhân cao tuổi không còn nữa. Nếu những hạn chế nêu trên tiếp tục kéo dài, các làng nghề truyền thống ở tỉnh Nam Định sẽ không những không phát huy được tiềm năng, thế mạnh, mà thậm chí
  8. 3 còn làm cho các nghề truyền thống bị mai một, nếu điều này xảy ra sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới kinh tế, chính trị, xã hội của địa phương nhất là khu vực nông thôn. Vì thế nghiên cứu, đánh giá tìm ra câu trả lời về xu hướng mới cho phát triển làng nghề truyền thống ở Nam Định là vấn đề cấp thiết hiện nay. Với ý nghĩa đó, chủ đề: "Làng nghề truyền thống ở tỉnh Nam Định trong hội nhập quốc tế" được chọn làm để tài luận án tiến sĩ kinh tế chuyên ngành kinh tế chính trị. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận án là nghiên cứu làm rõ những cơ sở lý luận cơ bản về làng nghề truyền thống trong hội nhập quốc tế, đánh giá thực trạng làng nghề truyền thống tỉnh Nam Định thời gian qua và đề xuất giải pháp phát triển trong xu thế hội nhập quốc tế thời gian tới. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Thứ nhất: Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về làng nghề truyền thống trong hội nhập quốc tế, đặc biệt nêu bật những vai trò, nhân tố tác động mới của các làng nghề truyền thống trong hội nhập quốc tế. Thứ hai: Nghiên cứu kinh nghiệm một số địa phương ở Việt Nam về phát triển làng nghề truyền thống trong hội nhập quốc tế và rút ra những bài học cho tỉnh Nam Định. Thứ ba: Nghiên cứu thực trạng làng nghề truyền thống ở tỉnh Nam Định trong quá trình hội nhập quốc tế từ giai đoạn 2010 - 2015, chỉ rõ các thế mạnh, những hạn chế của làng nghề truyền thống ở tỉnh Nam Định trước yêu cầu mới của hội nhập quốc tế hiện nay. Thứ tư: Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy sự phát triển làng nghề truyền thống ở Nam Định đáp ứng yêu cầu mới của hội nhập quốc. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là làng nghề truyền thống với tư cách là một hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đặc thù trong kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
  9. 4 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: làng nghề truyền thống là vấn đề có phạm vi rộng, bao hàm nhiều phương diện. Luận án chủ yếu tập trung làm rõ dưới góc độ kinh tế chính trị đặc điểm và vai trò của làng nghề truyền thống với tư cách là loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh truyển thống của một số địa phương tại các nước đang phát triển, vận động và phát triển trong điều kiện hội nhập quốc tế. - Về không gian: Luận án tập trung nghiên cứu các làng nghề truyền thống đã được hình thành, đang hoạt động trên địa bàn tỉnh Nam Định hiện nay. - Về thời gian nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu đánh giá thực trạng làng nghề truyền thống ở Nam Định từ năm 2010 đến 2015 và đề xuất giải pháp phát triển các làng nghề truyền thống của tỉnh Nam Định đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp luận nghiên cứu Đề tài luân án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời tiếp thu, kế thừa phương pháp luận nghiên cứu kinh tế hiện đại. 4.2. Phương pháp nghiên cứu - Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như trừu tượng hoá khoa học, phương pháp lôgic và lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê. Bên cạnh đó, luận án cũng sử dụng phương pháp khảo sát thực tế, phỏng vấn sâu trong quá trình nghiên cứu làm rõ chủ đề chính của luận án. Chương 1: Sử dụng phương pháp nghiên cứu phân tích để đánh giá quan điểm của các học giả và trường phái lý luận về vấn đề nghiên cứu, từ đó rút ra những vấn đề đã được nghiên cứu đầy đủ và các vấn đề cần nghiên cứu bổ sung và nghiên cứu mới. Chương 2: Sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học để rút ra những khái niệm cơ bản như làng nghề, làng nghề truyền thống và luận giải những vấn đề lý luận cơ bản về đặc điểm, vai trò, nhân tố ảnh hưởng đến làng nghề truyền thống trong hội nhập quốc tế. Đồng thời sử dụng phương pháp
  10. 5 nghiên cứu đánh giá thực tiễn phát triển làng nghề truyền thống của một số địa phương để rút ra bài học cho tỉnh Nam Định. Chương 3: Sử dụng các phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp, nhằm làm rõ thực trạng làng nghề truyền thống tỉnh Nam Định trong hội nhập quốc tế, rút ra những kết quả tích cực, hạn chế chủ yếu và nguyên nhân. Chương 4: Sử dụng phương pháp khái quát hóa những vấn đề đã nghiên cứu ở chương hai và chương ba cùng với đánh giá dự báo về bối cảnh và nhu cầu thị trường quốc tế về sản phẩm làng nghề truyền thống để rút ra những phương hướng và giải pháp phát triển làng nghề truyền thống tỉnh Nam Định trong xu thế hội nhập quốc tế thời gian tới. 5. Những đóng góp về khoa học - Làm rõ vai trò mới của làng nghề truyền thống trong hội nhập quốc tế là vừa góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, vừa thúc đẩy xuất khẩu và phát triển du lịch quốc tế. - Phân tích, đánh giá thực trạng làng nghề truyền thống tỉnh Nam Định trong hội nhập quốc tế giai đoạn 2010 - 2015; chỉ ra những thành công, hạn chế và nguyên nhân. Những hạn chế chủ yếu bao gồm: phát triển tự phát, chưa được nhà nước định hướng và hỗ trợ có hệ thống; sản phẩm làng nghề truyền thống (LNTT) có chất lượng chưa cao, chưa có thương hiệu hàng hóa, mẫu mã, kiểu dáng chậm thay đổi, sức cạnh tranh kém, tỷ lệ hàng xuất khẩu còn thấp; du lịch làng nghề chưa phát triển; ô nhiễm môi trường ở một số LNTT đã đến mức nghiêm trọng. - Đề xuất giải pháp phát triển làng nghề truyền thống tỉnh Nam Định đến năm 2025 và tầm nhìn 2035 bao gồm hoàn thiện quy hoạch, kế hoạch phát triển; Tạo nguồn vốn cho phát triển sản xuất; Khuyến khích mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm; Kết hợp các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh Khuyến khích và hỗ trợ đổi mới công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực; Khuyến khích phát triển làng nghề truyền thống gắn với du lịch lữ hành; Xây dựng thương hiệu sản phẩm, thương hiệu làng nghề truyền thống. 6. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận án gồm 4 chương, 12 tiết.
  11. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ Làng nghề truyền thống, ngành nghề ở nông thôn là những nguồn lực còn nhiều tiềm năng của đất nước. Việc nghiên cứu phát triển làng nghề, làng nghề truyền thống, ngành nghề ở nông thôn và phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng hội nhập quốc tế có ý nghĩa thực tiễn quan trọng và đã được nghiên cứu, thảo luận tại nhiều công trình hội thảo, hội nghị ở Việt Nam cũng như trên thế giới, các công trình đó được thể hiện dưới hình thức chuyên khảo, bài báo trên các tạp chí chuyên ngành. Tiêu biểu là nhóm công trình cụ thể như: 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ - “Ứng dụng khoa học và công nghệ vào phát triển các làng nghề” của Trung tâm Khoa học Công nghệ của các Quốc gia không liên kết và đang phát triển [68] đã báo cáo kinh nghiệm của Chính phủ Ethiopia trong việc chú trọng đến nâng cấp, hiện đại hóa tân trang kết cấu hạ tầng giúp các làng nghề phát triển, theo các tác giả tám mươi ba phần trăm người dân Ethiopia sống ở các vùng nông thôn và kế sinh nhai xuất phát từ nông nghiệp. Chính phủ Ethiopia đã thông qua chiến lược công nghiệp hoá phát triển nông nghiệp, đóng vai trò làm khung cho quy hoạch đầu tư nông thôn trong các lĩnh vực: cơ sở hạ tầng, dịch vụ xã hội, nghiên cứu và mở rộng. Kế hoạch phát triển bền vững và nhanh chóng để chấm dứt đói nghèo: 70% người dân nông thôn được tổ chức theo hợp tác xã, 200 điểm cung cấp thông tin thị trường cấp huyện và 20 trung tâm đầu cuối ở vùng sâu vùng xa của Ethiopia đã được dựng lên; 25 trung tâm giáo dục và đào tạo nghề ra đời; 55.000 công nhân được đào tạo; 18.000 trung tâm đào tạo cho nông dân được lập lên; 10 triệu người được đào tạo; làm giảm khoảng cách đi bộ trung bình trên mỗi con đường xuống còn 3,2 giờ; 8 triệu đường dây điện thoại (cố định, không dây và di động) và tăng dịch vụ ITC.
  12. 7 Việc mở rộng cơ sở hạ tầng này thực hiện theo cấp số nhân. Thay đổi cách sống của người nông thôn, đặc biệt là bằng cách giúp họ có thể sử dụng được các thiết bị máy móc hiện đại và kết nối họ với thế giới hiện đại (radio và TV). - "Ly nông, bất ly hương, làm thủ công tại làng" của tác giả Đặng Nguyên Anh, Hoàng Xuân Thành [2] đã báo cáo thành quả của một dự án nghiên cứu với sự hỗ trợ tài chính của Tổ chức Hỗ trợ phát triển quốc tế đan Mạch (DANIDA), cơ quan Hợp tác phát triển quốc tế Thụy điển (SIDA) và Bộ Hợp tác phát triển Thụy Sĩ (SDC). Các tác giả chỉ rõ: Mối liên kết giữa các trung tâm đô thị và các vùng nông thôn được phản ánh bằng mối quan hệ dân số, lưu thông hàng hoá, tiền tệ và thông tin. Liên kết nông thôn - thành thị có ý nghĩa quan trọng đối với sự tăng trưởng kinh tế địa phương, sự tiếp cận đến thị trường thành thị có ý nghĩa sống còn đối với người sản xuất nông sản. Trong khi đó nhiều doanh nghiệp ở thành phố tồn tại và phát triển trên nhu cầu khách hàng nông thôn. Liên kết nông thôn - thành thị còn đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp xóa đói giảm nghèo ở nhiều vùng nông thôn. Các nông hộ thường kết hợp các nguồn thu nhập từ các hoạt động phi nông nghiệp. Bên cạnh đó những người thân đi ra thành phố làm ăn có thể gửi tiền về cho gia đình để đầu tư vào sản xuất, cung cấp thông tin thị trường. Với nhóm người nghèo, tiền gửi về có thể giúp họ trang trải các chi phí hàng ngày về ăn, mặc, học hành, sức khỏe và trang trải nợ nần. Ngoài ra tiềm năng liên kết nông thôn - thành thị đối với phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam đã được thể hiện trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển ngành trong chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo. Phát triển nông nghiệp và nông thôn thông qua thâm canh sản xuất, đa dạng hoá nông nghiệp cùng với việc thúc đẩy thương mại trong nước và tiếp cận thị trường quốc tế vẫn là những mục tiêu hàng đầu trong chính sách. Tuy nhiên, do dân số tăng và quỹ đất có hạn nên sản xuất nông nghiệp không thể thu hút thêm được lao động. Chiến lược hành động là chú trọng đẩy mạnh các ngành nghề phi nông nghiệp ở khu vực nông thôn. Việc khai thác hết tiềm năng của liên kết nông thôn - thành thị phụ thuộc nhiều vào sự phối hợp giữa các ngành, các cấp điạ phương.
  13. 8 Như vậy mục tiêu chính của báo cáo này nhằm: + Tìm hiểu chiến lược sinh kế dựa trên mối liên kết nông thôn - thành thị của các nhóm nông hộ, sự biến đổi trong 15 - 20 năm qua và các yếu tố ảnh hưởng đến chiến lược sống của hộ gia đình làm nghề thủ công ở nông thôn. + Gợi ý một số định hướng chính sách ở các cấp địa phương và quốc gia nhằm phát huy vai trò của liên kết nông thôn - thành thị trong sự nghiệp phát triển kinh tế và xoá đói giảm nghèo ở địa phương, tránh hiện tượng di cư ra thành phố. Dưới sự tài trợ của quỹ Rockefeller, Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Cộng đồng (Trung Quốc) đã nghiên cứu về việc thương mại hóa nghề thủ công ở tỉnh Vân Nam. Mục đích của dự án là cải thiện thu nhập của phụ nữ ở huyện miền núi Malutang bằng cách thương mại hóa sản phẩm thêu truyền thống. Đầu tiên, họ triển khai thu thập toàn bộ mẫu thêu truyền thống và thay đổi sao cho phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng hiện nay. Sau đó, những người phụ nữ tham gia dự án sẽ được huấn luyện kỹ thuật gia công, tạo mẫu để có thể sản xuất ra những sản phẩm chất lượng cao và tiêu thụ tốt trên thị trường. Cuối cùng, dự án đưa ra khung chi phí hợp lý về sản phẩm do những người tham gia dự án thực hiện; bao gồm: số lượng nguyên vật liệu, thời gian và giá cả có thể tạo thu nhập cao. Dự án thành công và được chuyển giao đến những huyện vùng núi khác ở tỉnh Vân Nam. Làng Malutang trở thành một địa phương nổi tiếng về mặt hàng thêu truyền thống. - Trở lại lịch sử trên thế giới, từ những năm đầu của thế kỷ XX cũng đã xuất hiện những công trình nghiên cứu có liên quan đến làng nghề như: “Nhà máy làng xã” của Bành Tử [70]; “Mô hình sản xuất làng xã” [42] và “Xã hội hóa làng thủ công” của N.H.Noace [43]. Năm 1964, tổ chức WCCI được thành lập, hoạt động phi lợi nhuận vì lợi ích chung của các quốc gia có nghề thủ công truyền thống. - "Rosearch on Tourism Developmment of Traditional Villaget and the Change of Form" (Nghiên cứu phát triển du lịch của làng nghề truyền thống và các thay đổi hình mẫu) của G.Michon và F. Mary [90] nghiên cứu nội dung chuyển đổi khu vườn LNTT và chiến lược kinh tế mới của các hộ gia đình nông
  14. 9 thôn trong khu vực Bogor, Indonesia. Từ đó, tạo bước đệm để phát triển các làng nghề nơi đây gắn liền với hình thái du lịch sinh thái kết hợp với khu vườn LNTT, góp phần cải thiện thu nhập và tình hình kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn ở Indonesia. - "To Establish a Protection System for China’s Famous Villages of Historic and Cultural Interest" (Để thiết lập một hệ thống bảo vệ Làng lịch sử và văn hóa của Trung Quốc) của tác giả Liu Peilin [91] đã cho rằng nên thành lập một hệ thống bảo vệ cho “Làng nổi tiếng của Trung Quốc tham quan lịch sử văn hóa”. Trong các di sản lịch sử và văn hóa của thế gới, những ngôi làng cổ xưa của Trung Quốc chiếm một vị trí quan trọng. Ở Trung Quốc, số lượng LNTT là rất lớn, phân bố rộng rãi và có giá trị lịch sử cao, được ví như “ngọc trai của văn hóa truyền thống” và “bảo vật quốc gia của bộ sưu tập dân gian”. Tuy nhiên, việc bảo tồn và phát triển chưa thỏa đáng. Do đó việc cấp thiết trước mắt là lựa chọn và quyết định một số làng cổ đại diện chi nghiên cứu hộ ngay lập tức và bảo vệ đặc biệt như “ngôi làng nổi tiếng lịch sử văn hóa của Trung Quốc ”. Nghiên cứu này xem xét lại các quan niệm về ý tưởng về một hệ thống bảo vệ và thảo luận về các điều kiện để chấp thuận tình trạng, nội dung, nguyên tắc, phương pháp và biện pháp bảo vệ cũng như định hướng trong khai thác và phát triển của chúng. Hệ thống bảo vệ sẽ đóng vai trò tích cực trong việc bảo tồn hiệu quả cảnh quan và văn hóa cổ đại. - "Persistence and Tranformation of Chinese Traditional Villages - Rethinkinh the Planning of Traditional Settlemetnts" (Sự kiên trì và phát triển của Trung Quốc về truyền thống làng - Xem xét lại Quy hoạch khu định cư truyền thống) của MA Hang [92] đã nghiên cứu vấn đề kiên trì và chuyển đổi của làng nghề truyền thống Trung Quốc đồng thời xem xét lại các kế hoạch của khu định cư truyền thống. Tác giả đã tiến hành trình bày các ký tự quy hoạch không gian cơ bản của ngôi làng cổ của Trung Quốc, bài báo tập trung vào phân tích cơ bản các yếu tố xã hội, văn hóa, và tự nhiên. Tuy nhiên trong quá trình đô thị hóa và toàn cầu hóa. Biến đổi sắc bén của cơ cấu kinh tế mang lại tác động tiêu cực đến phát triển làng nghề truyền thống ở Trung Quốc. Vì vậy, tác giả đã
  15. 10 nghiên cứu và chỉ ra được năm khía cạnh giá trị của các làng nghề truyền thống của Trung Quốc cần được gìn giữ và bảo tồn, để hướng tới khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống ở Trung Quốc hiện nay. 1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ Các công trình liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận án ở trong nước có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu ở nhiều góc độ và cách tiếp cận khác nhau và hướng giải quyết các mục tiêu khác nhau đối với làng nghề truyền thống nói chung ở Việt Nam được chia thành các nhóm cụ thể như sau: * Các công trình nghiên cứu về thủ công nghiệp, nghề cổ truyền và vấn đề môi trường gắn với các làng nghề: -“Phát triển tiểu thủ công nghiệp trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở đô thị Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Hữu Lực [38] đã lược thuật khái niệm tiểu, thủ công nghiệp, làm rõ vị trí, vai trò và một số đặc điểm của TTCN ở đô thị trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Đồng thời, khái quát tình hình và kinh nghiệm phát triển TTCN của một số nước trên thế giới, từ đó rút ra những kết luận về phát triển TTCN ở nước ta và đề ra những giải pháp khả thi nhằm phát triển TTCN ở đô thị nước ta trong thời gian tới. - “Về các giải pháp phát triển thủ công nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng” của Đặng Lê Nghị [41] đã tập trung phân tích làm rõ về đặc điểm, tính chất, vai trò lịch sử của thủ công nghiệp và đánh giá một cách sát thực thực trạng thủ công nghiệp làm chủ nhiệm. Đề tài đã tập trung phân tích làm rõ về đặc điểm, tính chất, vai trò lịch sử của thủ công nghiệp và đánh giá một cách sát thực thực trạng thủ công nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng với số liệu tương đối phong phú. Từ những vấn đề đặt ra mà thủ công nghiệp đồng bằng sông Hồng phải giải quyết, đề tài đã đưa ra 9 điểm giải pháp cơ bản để phát triển thủ công nghiệp đồng bằng sông Hồng thời gian tới. - Các công trình: “Nghề cổ truyền nước Việt” của Vũ Từ Trang [66]; "Làng nghề thủ công truyền thống Viêt Nam" của Bùi Văn Vượng [88]. Các tác giả đã
  16. 11 đề cập một cách tổng quát về các nghề và làng nghề tiêu biểu của Việt Nam trong quá khứ cũng như hiện tại. Đồng thời trong đó các tác giả cũng thể hiện sự trăn trở về nghề thủ công Việt Nam đứng trước sự thăng trầm của lịch sử. - “Nghiên cứu quy hoạch phát triển ngành nghề thủ công theo hướng công nghiệp hóa nông thôn Việt Nam” của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn [11] đã xác định làng nghề Việt Nam dựa theo 2 tiêu chí: (I) Có trên 20% số hộ trong làng tham gia sản xuất thủ công, (II) chính quyền xã công nhận nghề thủ công đó có ý nghĩa quan trọng đối với làng. Đóng góp có ý nghĩa phương pháp luận của công trình là sử dụng phương pháp nghiên cứu thu thập tài liệu. Thông qua tiến hành điều tra theo 3 mẫu phiếu trên 9.400 xã tại 61 tỉnh thành. Thời gian điều tra từ tháng 3 đến tháng 6 năm 2002. Mẫu 1 xác định các thông tin cơ bản về từng xã, từng làng nghề. Mẫu 2 thu thập các thông tin chi tiết về từng làng nghề được điều tra. Mẫu 3 làm rõ hoạt động của các doanh nghiệp và các hợp tác xã sản xuất và kinh doanh hàng thủ công trên địa bàn các xã. Tiến hành các dự án thí điểm song song với nghiên cứu, tổ chức 7 cuộc hội thảo, thảo luận theo chuyên đề để nâng cao nhận thức các tổ chức, cá nhân có liên quan. Tổ chức các cuộc thi sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam. Lựa chọn thực hiện dự án thí điểm tại 4 tỉnh, đại diện 3 miền Bắc, Trung, Nam và khu vực miền núi. Nghiên cứu công phu về quy hoạch tổng thể, phát triển ngành nghề nông thôn Việt Nam và kết quả đạt được. + Lập bản đồ ngành nghề thủ công trên toàn quốc. + Phân bổ các làng nghề tại vùng đồng bằng sông Hồng, vùng Tây Bắc, đông Bắc, Nam Trung Bộ, đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long. + Đánh giá hiện trạng các mặt hàng thủ công như: Cói, sơn mài, chạm khắc đá, nghề làm giấy dó, nghề in tranh bản gỗ Thông tin chung cho từng ngành nghề. + Đánh giá hiện trạng các vấn đề nguyên liệu, điều kiện làm việc, tài chính vốn + Đặc biệt, đặt vấn đề hỗ trợ của chính phủ cho sản xuất nghề thủ công truyền thống của đồng bào vùng dân tộc thiểu số. Sự hỗ trợ trên các phương diện: hỗ trợ trực tiếp vốn; hỗ trợ gián tiếp về thực hiện thương mại bình đẳng, năng lực quản lý kinh doanh
  17. 12 + Sơ đồ hóa các ban, ngành, tổ chức có liên quan trong lĩnh vực ngành nghề thủ công Việt Nam. Với số liệu khảo sát công phu, công trình đã đưa ra được những mục tiêu khá chi tiết và cơ chế thực thi quy hoạch tổng thể ngành nghề thủ công Việt Nam theo hướng CNH. “Quy hoạch phát triển ngành nghề thủ công theo hướng công nghiệp hóa nông thôn ở Việt Nam” năm 2002, được coi là cơ sở cung cấp số liệu về làng nghề cho các công trình nghiên cứu sau này. - “Làng nghề Việt Nam và môi trường” của Đặng Kim Chi [14] đã nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng các chính sách và biện pháp giải quyết vấn đề môi trường ở các làng nghề Việt Nam. Đề tài đã làm rõ hiện trạng kinh tế - xã hội các làng nghề Việt Nam; hiện trạng môi trường các làng nghề; ảnh hưởng đối với sự phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường làng nghề Việt Nam. Trên cơ sở đánh giá thực trạng đề tài đã dự báo xu hướng phát triển và mức độ ô nhiễm môi trường do hoạt động của các làng nghề; nghiên cứu xây dựng một số chính sách bảo đảm phát triển và cải thiện môi trường cho làng nghề. - “Tác động xã hội và môi trường của việc phát triển làng nghề” của Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Thu Hòa [3] đã trình bày một cách tổng quan những xu hướng phát triển các nghề phi nông nghiệp và các làng nghề ở nông thôn Việt Nam. Phân tích những đặc điểm và tác động của sự phát triển làng nghề phi nông nghiệp và các làng nghề đối với những thay đổi về kinh tế, xã hội và môi trường, đặc biệt là tác động đối với nhóm những hộ nghèo ở nông thôn. Trên cơ sở phân tích đó, đề xuất những kiến nghị về việc phát triển và quản lý các nghề phi nông nghiệp và các làng nghề nhằm mục đích giảm nghèo nói riêng, cũng như đảm bảo sự phát triển nông thôn Việt Nam. Cùng chủ đề này còn có một số công trình: “Môi trường các làng nghề” Kỷ của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường [8]; “Phát triển tiểu thủ công nghiệp nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng” của Nguyễn Thị Hiền [33]; “Làng nghề công nghiệp - thủ công nghiệp với vấn đề giải quyết việc làm và xóa đói giảm nghèo ở Nam Định” của Nguyễn Xuân Bách [4]; “Tình trạng ô nhiễm không
  18. 13 khí, đất, nước ở các làng nghề và tác động của nó đến môi trường sống và sức khỏe cộng đồng” của Nguyễn Trí Tiến [61]. * Các công trình nghiên cứu về tình hình sản xuất và kinh doanh của làng nghề và làng nghề truyền thống - Nhóm các công trình sách nghiên cứu + “Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở vùng ven thủ đô Hà Nội” của Mai Thế Hởn [36] đã đi sâu phân tích đánh giá tiềm năng, thực trạng của việc phát triển làng nghề truyền thống cả những mặt được và chưa được, cũng như vấn đề bức bách đặt ra cần giải quyết như: Chủ trương, chính sách và luật pháp; vốn đầu tư cho sản xuất; vấn đề môi trường; về thị trường và tiêu thụ sản phẩm; về trình độ quản lý của người lao động. Công trình này đã đề xuất được những phương hướng và giải pháp phát triển LNTT vùng ven thủ đô Hà Nội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH). + “Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa” của Dương Bá Phượng [45] đã đề cập những vấn đề chung về làng nghề, vai trò tác động và những nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của làng nghề. Đồng thời, đi sâu phân tích thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh của các làng nghề về lao động, vốn, công nghệ, thị trường tiêu thụ của sản phẩm và môi trường trong các làng nghề. Các quan điểm và phương hướng bảo tồn, phát triển các làng nghề trong quá trình CNH, HĐH nông thôn mang tính khả thi cao và sát thực với thực tế. + “Tiếp tục đổi mới chính sách và giải pháp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của làng nghề truyền thống ở Bắc Bộ đến năm 2010” của Trần Công Sách [46] đã luận giải khá rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của LNTT và vai trò của các chính sách, giải pháp tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề truyền thống trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế để phân tích, đánh giá thực trạng phát triển và tác động của các chính sách và giải pháp của Nhà nước để tiêu thụ sản phẩm LNTT ở Bắc Bộ. Đánh giá đúng mức độ ảnh hưởng của yếu tố công nghệ đến kết quả sản xuất kinh doanh. Đề xuất phương hướng và giải pháp tiếp
  19. 14 tục đổi mới hoàn thiện chính sách nhằm tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề truyền thống ở Bắc Bộ đến năm 2010. + “Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của làng nghề mới gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng đồng bằng sông Hồng” của Nguyễn Tấn Trịnh [67] đã tập trung đi sâu phân tích thực trạng quá trình hình thành và phát triển các làng nghề mới, gắn với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn đồng bằng sông Hồng; nhất là quá trình hình thành làng nghề mới và điều kiện sản xuất kinh doanh, kết quả sản xuất kinh doanh. Sự tác động của làng nghề mới đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Đồng thời, tác giả đề xuất những kiến nghị, phương hướng và giải pháp, chính sách thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và phát triển làng nghề mới vùng đồng bằng sông Hồng. + “Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của Trần Minh Yến [89] đã hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về làng nghề truyền thống ở nông thôn theo những quan điểm của khoa học kinh tế chính trị Mác-Lênin và đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam và làm rõ vai trò của làng nghề truyền thống ở nông thôn để phân tích thực trạng và động thái phát triển của các làng nghề truyền thống ở nông thôn từ khi đổi mới đến 2003. Khái quát xu hướng vận động của LNTT dưới tác động của quá trình CNH, HĐH nhằm xây dựng những quan điểm và đề xuất những giải pháp cơ bản để phát triển LNTT ở nông thôn trước yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. + “Phát triển bền vững làng nghề truyền thống vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ” của Bạch Thị Lan Anh [1] đã nghiên cứu lý thuyết phát triển bền vững, luận án đã đưa ra kết luận phát triển bền vững làng nghề truyền thống phải đảm bảo kết hợp các nội dung phát triển bền vững về kinh tế với xã hội và môi trường phát triển bền vững làng nghề truyền thống đặt trong quy hoạch triển bền vững nông thôn và vùng kinh tế. Đồng thời xây dựng các tiêu chí phát triển bền vững làng nghề truyền thống trên các mặt: tăng trưởng kinh tế ổn định, tiến bộ và công
  20. 15 bằng xã hội, khai thác tối đa các nguồn lực, sử dụng hợp lý tiết kiệm tài nguyên bảo bệ môi trường và nâng cao chất lượng cuộc sống. Đề xuất kết quả rút ra từ kết quả nghiên cứu của luận án như sau: - Đề xuất quan điểm, định hướng và hệ thống đồng bộ 9 giải pháp để giải quyết mâu thuẫn giữa sản xuất, hiệu quả xã hội và môi trường trong các làng nghề truyền thống đảm bảo phát triển bền vững làng nghề truyền thống. - Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực đã chỉ ra hướng kết hợp với trường Đại học Sư phạm kỹ thuật TW sẽ tạo nguồn lực dồi dào với chi phí thấp trong sáng tạo mẫu thiết kế cho các làng nghề truyền thống vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ. - Xây dựng định hướng về chiến lược cạnh tranh các sản phẩm làng nghề truyền thống tập trung khâu thiết kế. Tăng cường mối quan hệ các trường đào tạo chuyên ngành mỹ thuật với các làng nghề truyền thống. + “Làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế” của Nguyễn Lê Thu Hiền năm 2014 [31] đã hệ thống, làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò làng nghề truyền thống phục vụ du lịch trong điều kiện mới của đất nước và thế giới, xây dựng các tiêu chí và các nhân tố ảnh hưởng đến làng nghề truyền thống phục vụ du lịch và nghiên cứu đánh giá thực trạng làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế, trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và một số giải pháp để khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống phục vụ du lịch của địa phương đến năm 2020. + “Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của Mai Thế Hởn và các cộng sự [36] đã tập trung nghiên cứu làm rõ phạm trù làng nghề truyền thống, đặc điểm hình thành và vị trí, vai trò của LNTT đối với sự phát triển kinh tế - xã hội qua các thời kỳ lịch sử; đồng thời, đi sâu phân tích những kinh nghiệm phát triển LNTT tiểu thủ công nghiệp của một số nước và rút ra bài học quý báu mà Việt Nam cần quan tâm; đánh giá tiềm năng, thực trạng của việc phát triển LNTT trong những năm đổi mới và những hạn chế, thiếu sót cần khắc phục các tác giả đã. Đưa ra những phương hướng và đề xuất những giải pháp đồng bộ, xác thực nhằm phát triển mạnh mẽ LNTT bao gồm: Giải pháp lập quy hoạch, kế hoạch phát triển LNTT; giải pháp mở rộng và
  21. 16 phát triển đồng bộ các loại thị trường cho LNTT; giải pháp đa dạng hóa các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong LNTT; giải pháp chuyển giao công nghệ thích hợp và đổi mới công nghệ cho LNTT; giải pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý và nâng cao tay nghề cho người lao động của các làng nghề. + “Phát triển thị trường cho làng nghề tiểu thủ công nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng trong giai đoạn hiện nay”, của Trần Văn Chử [19] đã hệ thống và làm rõ vị trí, vai trò của làng nghề tiểu thủ công nghiệp và các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển thị trường của làng nghề tiểu thủ công nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng; đánh giá tiềm năng, xu hướng phát triển và thực trạng của làng nghề tiểu thủ công nghiệp, đồng thời nêu lên những khó khăn vướng mắc về thị trường của làng nghề tiểu thủ công nghiệp vùng ñồng bằng sông Hồng. Đề tài xác định rõ phương hướng phát triển và các giải pháp để mở rộng thị trường cho làng nghề tiểu thủ công nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng theo hướng CNH, HĐH đất nước. + “Những giải pháp nhằm phát triển làng nghề ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng” của Nguyễn Trí Dĩnh [22] đã tập trung làm rõ những lý luận cơ bản về làng nghề, từ khái niệm, tiêu chí để phân loại và đặc điểm của làng nghề truyền thống trong nền kinh tế thị trường, đi sâu phân tích vai trò của làng nghề và những nhân tố tác động đến sự phát triển của làng nghề. Dựa trên cơ sở chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển làng nghề, đề tài đã đi sâu khảo sát, đánh giá thực trạng phát triển làng nghề ở đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến 2005. Từ đó, đề xuất hệ quan điểm và các giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh và tính hiệu quả của các làng nghề ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng. + “Xây dựng và phát triển mô hình làng nghề du lịch sinh thái tại một số tỉnh đồng bằng bắc Bắc Bộ” của Hoàng Văn Châu [15] đã làm rõ được khái niệm về làng nghề, làng nghề du lịch. Nêu bật tiềm năng về làng nghề du lịch và sự cần thiết phải phát triển mô hình làng nghề du lịch tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ cả những mặt được và chưa được; đã trình bày rõ quan điểm và mục tiêu phát triển làng nghề du lịch trong những năm tới để đưa ra giải pháp và kiến nghị
  22. 17 đối với các cơ quan hữu quan nhằm phát triển mô hình làng nghề du lịch. Đặc biệt là trong công trình các tác giả đã đề xuất phương án xây dựng các tour du lịch hợp lý và hiệu quả nhất để thu hút khách du lịch đến với các làng nghề. + “Xây dựng thương hiệu sản phẩm làng nghề truyền thống ở đồng bằng sông Hồng hiện nay” của Nguyễn Vĩnh Thanh [55] đã tập trung luận giải vai trò của thương hiệu đối với việc phát triển sản phẩm làng nghề truyền thống vùng đồng bằng sông Hồng trong nền kinh tế thị trường hội nhập hiện nay trên các khía cạnh: Thương hiệu và phân loại thương hiệu; vai trò và chức năng của thương hiệu; quan hệ thương hiệu - sản phẩm trong nền kinh tế thị trường và sự cần thiết phải xây dựng thương hiệu cho sản phẩm làng nghề truyền thống. Đánh giá thực trạng vấn đề xây dựng thương hiệu sản phẩm làng nghề truyền thống ở đồng bằng sông Hồng, trong đó có vấn đề nhận thức của làng nghề về thương hiệu, chiến lược phân phối và quảng bá thương hiệu. Từ thực trạng vấn đề xây dựng thương hiệu sản phẩm làng nghề, đề tài đã đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình xây dựng thương hiệu sản phẩm của làng nghề ở vùng đồng bằng sông Hồng trong thời gian tới. + “Một số giải pháp phát triển bền vững làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước” của Lê Đức Viên, Võ Thị Phương Ly [85] đã nêu sơ lược quá trình hình thành của làng nghề; vài nét về thực trạng trong đó có phân tích kết quả sản xuất kinh doanh, lao động và thu nhập, nguồn nguyên liệu, sản phẩm, thị trường tiêu thụ, những chính sách hỗ trợ của nhà nước và phân tích hạn chế và nguyên nhân; cuối cùng khuyến nghị một số giải pháp phát triển mang tính đột phá. + “Làng nghề truyền thống đồng bằng sông Hồng sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới” của Vũ Thị Thoa [58] đã phân tích những tác động tích cực và tiêu cực tới sự phát triển của các làng nghề truyền thống sau khi gia nhập WTO. Đồng thời, tập trung nghiên cứu thực trạng phát triển của các làng nghề truyền thống đồng bằng sông Hồng sau khi gia nhập WTO; từ đó rút ra những vấn đề cần phải tháo gỡ và đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy sự phát triển các LNTT ở đồng bằng sông Hồng sau khi gia nhập WTO [83].
  23. 18 Ngoài ra, còn có một số công trình như: - “Một số ý kiến về đảm bảo vốn cho phát triển làng nghề" của Trần Kim Hào, Nguyễn Hữu Thắng [34] đã nêu bật vai trò làng nghề; thực trạng sự phát triển LNTT tại Hà Bắc, Nam Hà; thực trạng về vốn tại các làng nghề ở 2 địa phương trên; đề xuất giải pháp huy động vốn cho phát triển làng nghề. - “Phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề tiểu thủ công nghiệp” của Nguyễn Thị Hường [37] đã phân tích nguyên nhân dẫn đến chất lượng sản phẩm chưa cao. Đặc biệt tập trung vào nguyên nhân chất lượng nguồn nguyên liệu. - “Phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm làng nghề” của Hồ Thanh Thủy [59] đã phân tích các giải pháp tài chính tiền tệ; vai trò của chính sách tài chính tiền tệ và tác động của chính sách tiền tệ đối với các làng nghề. - “Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của các làng nghề trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” của Vũ Thị Thoa [57] đã phân tích vai trò của các làng nghề. Phân tích giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của các làng nghề: Giải pháp nghiên cứu thị trường để xác định cơ cấu sản phẩm; giải pháp quy hoạch và chiến lược phát triển làng nghề ở từng địa phương; tập trung giải pháp hoàn thiện các chính sách thúc đẩy sự phát triển làng nghề. - “Xu hướng phát triển làng nghề ở khu vực đồng bằng sông Hồng” của Nguyễn Thị Ngân [40] đã chỉ ra vai trò của các làng nghề và bốn xu hướng: Xu hướng kết hợp yếu tố truyền thống với hiện đại, xu hướng phát triển gắn cụm công nghiệp nông thôn, xu hướng khôi phục nghề truyền thống gắn với phát triển nghề mới và đa dạng hóa các loại hình sản xuất kinh doanh. - “Phát triển làng nghề và vấn ñề bảo vệ môi trường trước hết là nước sạch” của Ngô Thái Hà [32] đã chỉ rõ vai trò ích lợi của sự phát triển làng nghề; vấn đề kiểm soát và xử lý phát thải môi trường hiện nay ở các làng nghề; chỉ ra các nguyên nhân gây ô nhiễm trong làng nghề và giải pháp tập trung các làng nghề theo hướng chuyên môn hóa để dễ xử lý ô nhiễm; giải pháp đề cao vai trò giám sát của chính quyền cơ sở và nhà nước. Cuối cùng là giải pháp quy hoạch cụm công nghiệp làng nghề.
  24. 19 - “Làng nghề và bảo vệ môi trường làng nghề theo hướng phát triển bền vững” của Chu Thái Thành [56] đã chỉ ra những đóng góp và thách thức trong sự phát triển làng nghề hiện nay. Nêu lên những số liệu dẫn chứng các chỉ số mức độ ô nhiễm và bức xúc môi trường trong làng nghề. Để giải quyết hậu quả ô nhiễm cần giải quyết các vấn đề sau: chú trọng chính sách phát triển bền vững làng nghề; quy hoạch không gian làng nghề; tăng cường quản lý môi trường tại các làng nghề; phát hiện và xử lý các làng nghề gây ô nhiễm; tổ chức thí điểm triển khai áp dụng sản xuất sạch tại các làng nghề. Ngoài ra còn có nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành, các bài tham luận tại các hội thảo quốc tế và trong nước, đề cập đến sự phát triển của các làng nghề, làng nghề truyền thống với nhiều nội dung khác nhau. 1.3. KHÁI QUÁT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN CHỦ ĐỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA 1.3.1. Những vấn đề đã được nghiên cứu luận giải rõ có thể kế thừa trong luận án Những công trình nêu trên đã tiến hành nghiên cứu LNTT trên nhiều khía cạnh khác nhau, về việc bảo tồn và phát triển các làng nghề ở Việt Nam nói chung, của các địa phương nói riêng trong những năm gần đây với định hướng và phương pháp về phát triển làng nghề truyền thống có liên quan mật thiết đến đề tài của tác giả luận án. Nội dung các nghiên cứu có thể chia thành 3 lĩnh vực sau đây: Thứ nhất, đã phân tích khái quát một số vai trò của làng nghề truyền thống trong phát triển kinh tế xã hội nông thôn, trong giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động ở các làng nghề truyền thống. Thứ hai, nghiên cứu về tình hình phát triển thủ công nghiệp và những vấn đề lớn về môi trường tác động đến làng nghề. Cụ thể là đã đi sâu phân tích sự phát triển của tiểu thủ công nghiệp trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Ngoài ra, nhiều công trình còn nghiên cứu thực trạng về các mặt hàng thủ công, thủ công mỹ nghệ, vấn đề ô nhiễm môi trường trong các làng nghề. Các công trình này giúp tác giả luận án nhận biết một cách tổng quan về năng lực của ngành tiểu thủ công nghiệp và năng lực sản xuất kinh doanh trên lĩnh vực tiểu
  25. 20 thủ công nghiệp. Giúp cho tác giả nắm được tổng quát mức độ ô nhiễm trong các làng nghề hiện nay. Thứ ba, các công trình đã nghiên cứu về tình hình sản xuất và kinh doanh đề xuất các giải pháp phát triển làng nghề truyền thống từ lao động, công nghệ, vốn, thị trường tiêu thụ sản phẩm đã giúp cho tác giả luận án đánh giá được phần nào về thực trạng của làng nghề truyền thống khi bước vào kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập quốc tế với bên ngoài. 1.3.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu Nhìn chung, các công trình tiếp cận dưới những góc độ khác nhau cả về lý luận và thực tiễn về các lĩnh vực phát triển của LNTT, song các công trình trên chưa đề cập đến các vấn đề. Một là, chưa đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện vấn đề phát triển LNTT trên 3 nội dung: kinh tế - xã hội - môi trường gắn với các yếu tố của sự liên kết và cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế, về vai trò mới, các nhân tố ảnh hưởng đến làng nghề truyền thống. Đặc biệt chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến nội dung phát triển Làng nghề truyền thống trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hai là, các công trình chưa đi sâu vào phân tích thực trạng các làng nghề truyền thống trong quá trình hội nhập quốc tế và chưa có công trình nào có sự phân tích toàn diện các thách thức chỉ ra các xu hướng của LNTT trong điều kiện hội nhập. Các công trình chưa đưa ra các quan điểm có tính hệ thống để LNTT phát triển theo hướng bền vững mà trong những năm tới cần phải tập trung giải quyết trong quá trình hội nhập sâu hơn vào thị trường khu vực và thế giới. Ba là, các công trình nghiên cứu chưa đưa ra được những định hướng chiến lược cho làng nghề truyền thống trong quá trình hội nhập quốc tế một cách tổng thể nhằm phát triển bền vững các LNTT trong bối cảnh cạnh tranh và hội nhập quốc tế. Tóm lại, có thể nói cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu tổng thể về phát triển Làng nghề truyền thống tỉnh Nam Định trong quá trình hội nhập kinh dưới góc độ kinh tế chính trị. Vì vậy, đây là đề tài độc lập, không trùng tên và nội dung với các công trình khoa học đã công bố trong và ngoài nước.
  26. 21 Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ 2.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ 2.1.1. Khái niệm làng nghề và làng nghề truyền thống * Làng nghề và tiêu chí phân định làng nghề Làng nghề được hình thành lâu đời trong lịch sử phát triển của xã hội. Theo sự phát triển của lực lượng sản suất của nhân loại, phân công lao động dần được phát triển, hoạt động sản xuất thủ công nghiệp từ chỗ ban đầu là hoạt động sản xuất phụ trợ cho sản xuất nông nghiệp, đã dần được phân tách từ nông nghiệp để trở thành ngành nghề độc lập. Chủ thể của hoạt động sản xuất này ban đầu là các thợ thủ công chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp theo dạng nông dân kiêm thợ thủ công. Trong quá trình phát triển, tại các đơn vị dân cư ở nông thôn, số người chuyển sang chuyên môn hóa sản xuất các mặt hàng thủ công nghiệp dần tăng lên, đội ngũ thợ với quy trình công nghệ thủ công nghiệp được hình thành và mở rộng đến mức độ nhất định đã tạo cơ sở cho sự xuất hiện của hình thức sản xuất kinh doanh mới là làng nghề. Cùng với sự phát triển của phân công lao động, chuyên môn hoá sản xuất trong các làng nghề được tiếp tục đẩy mạnh sâu hơn. Sản xuất thủ công trong làng nghề được phân chia nhỏ hơn và từng công việc, động tác riêng biệt được những người thợ khác nhau phụ trách. Nhờ đó, đã tạo ra điều kiện cho áp dụng kỹ thuật vào từng khâu công việc trong sản xuất TTCN nhằm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, nhờ đó làng nghề có thể phát triển. Quá trình phát triển TTCN ở nông thôn là quá trình hình thành các làng thủ công truyền thống, lúc đầu từ một vài gia đình rồi dần đến cả họ, sau đó phát triển ra cả làng. Trải qua thử thách của thời gian và những bước thăng trầm của lịch sử một số nghề thủ công vẫn tồn tại, duy trì phát triển và kế tiếp nhau truyền từ đời này qua đời khác
  27. 22 và đã trở thành những làng nghề thủ công truyền thống, gắn với tên làng, tên xã của nông thôn Việt Nam. Vùng sản xuất nông nghiệp Vùng sản xuất nông nghiệp có nghề TTCN Làng Một số Thợ thủ Hộ thủ Vùng Vùng nghề người công công sản sản kiêm bước sản xuất xuất làm đầu xuất thủ thủ tiểu thủ chuyên chuyên công công công môn môn xuất tập hoá hoá hiện trung Nghề thủ công xuất hiện phục Nghề thủ công tách khỏi nông nghiệp vụ cho nông nghiệp nhưng chưa và tác động trở lại nông nghiệp - làng tách khỏi NN nghề xuất hiện Sơ đồ 2.1: Sự hình thành làng nghề Vùng nông thôn Nguồn: [68]. Thông thường, làng nghề là một khái niệm dùng để phản ánh một không gian vùng quê nông thôn, trong đó ngoài các chủ thể sản xuất nông nghiệp còn có các chủ thể sản xuất phi nông nghiệp. Trong làng nghề tồn tại đan xen nhiều mối quan hệ kinh tế, xã hội phong phú và phức tạp. Làng nghề là những làng ở nông thôn có những nghề phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số hộ, số lao động và thu nhập so với nghề nông. Theo Thông tư 116/2006/TT-BNN của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, “Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn, có các hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau” [14]. Như vậy, theo giác độ kinh tế, có thể hiểu làng nghề là hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh đặc thù ở nông thôn, trong đó sự chuyên môn hóa của các ngành nghề phi nông nghiệp đã đạt tới trình độ nhất định, làm cho một hoặc một số ngành nghề phi nông nghiệp trở thành có vị trí, vai trò quan trọng, thậm chí là chủ yếu trong đời sống kinh tế của làng.
  28. 23 Xét về mặt định tính, làng nghề ở nông thôn Việt Nam được hình thành và phát triển do yêu cầu của phân công lao động và chuyên môn hóa nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển và chịu sự tác động mạnh của nông nghiệp và nông thôn Việt Nam với những đặc trưng của nền văn hóa lúa nước và nền kinh tế hiện vật, sản xuất nhỏ, tự cấp, tự túc. Xét về mặt định lượng, làng nghề là những làng mà ở đó có số người chuyên làm nghề thủ công nghiệp và sống chủ yếu bằng nguồn thu nhập từ nghề đó chiếm một tỷ lệ khá lớn trong tổng dân số của làng. Ngày nay, làng nghề được hiểu theo nghĩa rộng có thể là cụm các làng nghề, không bó hẹp trong phạm vi hành chính của một làng mà gồm một hoặc một số làng cùng một tiểu vùng, cùng địa lí kinh tế, cùng sản xuất một chủng loại hàng hóa truyền thống hoặc cùng kinh doanh liên quan đến một nghề phi nông nghiệp và có quan hệ mật thiết với nhau về kinh tế - xã hội (KT-XH). Mặt khác, có những địa phương mà tất cả các làng trong xã đều là làng nghề, trong trường hợp này, người ta gọi là “xã nghề”. Ngành nghề phi nông nghiệp ở các làng nghề cũng được mở rộng, bao gồm các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp như: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống có quy mô vừa và nhỏ, với các thành phần kinh tế và các tổ chức kinh doanh như: hộ sản xuất, tổ hợp, hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần - Tiêu chí phân loại làng nghề Làng nghề ở Việt Nam rất đa dạng, ngày nay có thể phân loại làng nghề theo các tiêu chí sau: Theo lịch sử hình thành và phát triển các làng nghề: - Làng nghề truyền thống; - Làng nghề mới. Theo ngành nghề sản xuất kinh doanh: - Làng nghề TTCN như: dệt, gốm sứ, đồ gỗ mỹ nghệ.v.v - Làng nghề công nghiệp cơ khí, chế tác như: chế tác vàng bạc, dát vàng, gia công tái chế sắt thép.v.v
  29. 24 - Làng nghề xây dựng; - Làng nghề dịch vụ. Theo quy mô làng nghề: - Làng nghề quy mô lớn, lan tỏa, liên kết nhiều làng làm cùng một nghề hoặc cùng một không gian địa lí lãnh thổ, tạo thành vùng nghề hoặc xã nghề ở đó các làng nghề, có quy mô lao động phi nông nghiệp rất lớn, không chỉ với lực lượng lao động tại chỗ mà còn thu hút nhiều lao động đến làm thuê; - Làng nghề quy mô nhỏ là trong phạm vi một làng theo địa giới hành chính. Ở các làng nghề này thường hoạt động kinh doanh một ngành nghề phi nông nghiệp, được truyền nghề theo phạm vi dòng tộc. Theo loại hình kinh doanh của làng nghề có tính phổ biến ở Việt Nam: - Các làng nghề truyền thống chuyên doanh một chủng loại sản phẩm hàng hoá; - Các làng nghề kinh doanh tổng hợp một số sản phẩm truyền thống; - Các làng nghề vừa chuyên doanh các sản phẩm truyền thống vừa phát triển các ngành nghề mới như dịch vụ, xây dựng. Loại làng nghề này phát triển mạnh trong những năm gần đây. Theo tính chất hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng nghề: - Các làng nghề vừa sản xuất nông nghiệp vừa kinh doanh các ngành nghề phi nông nghiệp; - Các làng nghề thủ công chuyên nghiệp; - Các làng nghề sản xuất hàng xuất khẩu. Các tiêu chí xác định làng nghề Ở Việt Nam, theo Thông tư 116/2006/TT-BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, làng nghề được công nhận phải đạt 03 tiêu chí sau: - Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành nghề nông thôn; - Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm đề nghị công nhận; - Chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước [14].
  30. 25 * Nghề truyền thống và đặc trưng của nghề truyền thống Truyền thống là thuật ngữ dùng để chỉ các giá trị, yếu tố, quan niệm của một cộng đồng người hay của xã hội lưu giữ trong một thời gian dài từ thế hệ này qua thế hệ khác. Truyền thống thể hiện tính kế thừa là chủ yếu, tuy nhiên cũng có sự phát triển theo lịch sử. Truyền thống được biểu hiện ở hình thức như truyền thống học tập, lễ hội truyền thống, truyền thống dòng họ, nghề truyền thống. “Nghề truyền thống là nghề đã được hình thành từ lâu đời, tạo ra những sản phẩm độc đáo, có tính riêng biệt, được lưu truyền và phát triển đến ngày nay hoặc có nguy cơ bị mai một, thất truyền” [14]. Đặc trưng cơ bản nhất của mỗi nghề truyền thống là: phải có kỹ thuật và công nghệ truyền thống, đồng thời có các nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề. Sản phẩm làm ra phải có tính hàng hoá, đồng thời có tính nghệ thuật và mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Những nghề truyền thống thường được truyền trong một gia đình, một dòng họ, một làng, một vùng. Trong những làng nghề truyền thống, đa số người dân đều hành nghề truyền thống đó. Ngoài ra, họ còn có thể phát triển những nghề khác, những nghề này chiếm tỷ lệ nhỏ hơn so với nghề truyền thống. Ngày nay, việc sản xuất các sản phẩm có tính truyền thống được hỗ trợ bởi quy trình công nghệ mới với nhiều loại nguyên vật liệu mới. Do vậy khái niệm nghề truyền thống cũng được nghiên cứu và mở rộng hơn. Phân loại nghề truyền thống Việc phân loại các nhóm nghề mang ý nghĩa tương đối, bởi vì một số nghề có thể vừa thuộc nhóm này song cũng có thể vừa thuộc nhóm khác. Mặt khác, một số nghề đối với địa phương được coi là nghề truyền thống, nhưng trên phạm vi vĩ mô có thể chưa được gọi là nghề truyền thống. Có nhiều cách phân loại nghề, tuy nhiên có thể xem xét một số cách như sau: Phân loại theo trình độ kĩ thuật: - Loại nghề có kĩ thuật đơn giản như đánh sợi, đan võng xã, sản xuất chổi đót, sản xuất bánh tráng, sản xuất gạch ngói sản phẩm của những nghề này có tính chất thông dụng, phục vụ nhu cầu hằng ngày của dân cư nông thôn.
  31. 26 - Loại nghề có kĩ thuật phức tạp như gốm, đúc đồng v.v các nghề này không chỉ có kĩ thuật công nghệ phức tạp mà còn đòi hỏi nhiều ở người thợ sự sáng tạo và khéo léo. Sản phẩm có giá trị kinh tế, vừa mang tính văn hóa; không chỉ tiêu thụ ở trong nước mà còn có thể xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới. Phân loại theo tính chất kinh tế: - Loại nghề thường phụ thuộc vào nền kinh tế nông nghiệp tự nhiên, đây là nghề phụ của hầu hết gia đình nông dân, sản phẩm ít mang tính chất hàng hóa, chủ yếu là phục vụ nhu cầu tại chỗ như: chế biến nông sản, sản xuất công cụ như cày bừa, liềm hái.v.v - Loại nghề mà hoạt động của nó độc lập với quá trình sản xuất nông nghiệp, những nghề này được phát triển bởi sự tiến bộ của trình độ kĩ thuật công nghệ và trình độ tay nghề của người thợ, sản phẩm thể hiện tài năng sáng tạo và sự khéo léo của người thợ, đặc biệt sản phẩm tạo ra trở thành hàng hóa, đem lại thu nhập cao cho người sản xuất, tiêu biểu là: nghề dệt, gốm sứ, kim hoàn Tuy nhiên, cách phân loại trên chỉ phù hợp trong điều kiện trước đây, ngày nay trong nền kinh tế thị trường, nhiều nghề đã phát triển mạnh. Dựa vào giá trị sử dụng của các sản phẩm, có thể phân loại các ngành nghề truyền thống theo các nhóm chính như sau: + Các ngành nghề sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ như gốm sứ, chạm khảm gỗ, chạm khắc đá, thêu, vàng bạc.v.v + Các ngành nghề phục vụ cho sản xuất và đời sống như: nề, mộc, hàn, đúc đồng, gang, nhôm, sản xuất vật liệu xây dựng, công cụ.v.v + Các ngành nghề sản xuất các mặt hàng tiêu dùng như: dệt vải, dệt chiếu, khâu nón.v.v + Các ngành nghề chế biến lương thực thực phẩm như: xay xát, làm bún bánh, nấu rượu, nấu đường mật, chế biến thủy sản.v.v Tiêu chí công nhận nghề truyền thống Theo Thông tư 116/2006/TT- BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nghề được công nhận là nghề truyền thống phải đạt 03 tiêu chí sau:
  32. 27 - Nghề đã xuất hiện tại địa phương từ trên 50 năm tính đến thời điểm đề nghị công nhận; - Nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hoá dân tộc; - Nghề gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của làng nghề. * Khái niệm làng nghề truyền thống và tiêu chí xác định làng nghề truyền thống - Khái niệm làng nghề truyền thống Khái niệm làng nghề truyền thống (LNTT) được khái quát dựa trên hai khái niệm làng nghề và nghề truyền thống nêu trên. “Làng nghề truyền thống là làng nghề có nghề truyền thống được hình thành từ lâu đời” [14]. Như vậy có thể hiểu về LNTT là loại hình làng nghề đã hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch sử, trong đó hoạt động kinh tế chủ yếu gồm có một hoặc nhiều nghề thủ công truyền thống, là nơi hội tụ các nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề, là nơi có nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề truyền thống lâu đời, giữa họ có sự liên kết, hỗ trợ nhau trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Họ có cùng tổ nghề và đặc biệt các thành viên luôn ý thức tuân thủ những ước chế xã hội và gia tộc. Các LNTT được hình thành từ lâu đời, trải qua thử thách của thời gian nhưng vẫn được duy trì và phát triển, được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Trong các LNTT thường có đại bộ phận dân số làm nghề cổ truyền hoặc một vài dòng họ chuyên làm nghề theo kiểu cha truyền con nối, nghĩa là việc dạy nghề được thực hiện bằng phương pháp truyền nghề. - Tiêu chí công nhận làng nghề truyền thống Theo quy định tại Thông tư 116/2006/TT-BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, LNTT phải đạt tiêu chí làng nghề và có ít nhất một nghề truyền thống theo quy định. Đối với những làng chưa đạt tiêu chuẩn của tiêu chí công nhận làng nghề nêu trên nhưng có ít nhất một nghề truyền thống được công nhận theo quy định thì cũng được công nhận là LNTT. * Phân biệt làng nghề mới với làng nghề truyền thống Làng nghề mới là những làng có ngành nghề phát triển trong những năm gần đây, chủ yếu do sự lan tỏa từ làng nghề truyền thống hoặc do sự du nhập
  33. 28 trong quá trình hội nhập giữa các vùng và giữa các nước. Ngay các làng nghề truyền thống cũng có sự đan xen giữa nghề mới và nghề truyền thống. Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, đã xuất hiện các làng nghề có tính hiện đại, trong đó đặc trưng bởi sự phát triển kinh doanh dịch vụ và xây dựng, kinh doanh đa ngành nghề; đồng thời, do quá trình công nghiệp hóa diễn ra mạnh mẽ ở các làng nghề, kỹ thuật và công nghệ sản xuất không đơn thuần chỉ là kĩ thuật thủ công, mà có nhiều nghề, nhiều công đoạn sản xuất áp dụng kĩ thuật và công nghệ hiện đại như mộc, thịt bò khô, sản xuất gạch, ngói.v.v 2.1.2. Đặc điểm của làng nghề truyền thống trong hội nhập quốc tế Làng nghề truyền thống trong hội nhập quốc tế được hiểu là một làng nghề truyền thống được xem xét với tư cách là một hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở đó có nhiều sản phẩm hoặc dịch vụ gắn với thị trường khu vực, quốc tế đồng thời chịu sự tác động của quá trình hội nhập quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế vừa tạo ra cho các Làng nghề truyền thống những cơ hội lớn để phát triển, đồng thời cũng nảy sinh không ít thách thức cần phải nỗ lực để quá trình hội nhập ngày càng có hiệu quả và bền vững. Theo đó làng nghề truyền thống trong hội nhập quốc tế có các đặc điểm sau: 2.1.2.1. Làng nghề truyền thống có quan hệ gắn bó với nông nghiệp và nông thôn trong hội nhập quốc tế Trong lịch sử lâu dài, các làng nghề truyền thống với tư cách là một hình thức tổ chức kinh tế có mối quan hệ hai chiều chặt chẽ với nông nghiệp, nông thôn được thể hiện dưới nhiều mức độ và sắc thái khác nhau. Một nền kinh tế với sản xuất nông nghiệp là chủ yếu đã tạo điều kiện cho các làng nghề thủ công nảy sinh và phát triển. Do thời gian dành cho sản xuất nông nghiệp không chiếm hết toàn bộ quỹ thời gian lao động, chỉ sử dụng từ 1/3 đến 1/2 thời gian lao động trong năm. Thời gian lao động ít, năng suất lao động thấp đã ảnh hưởng đến đời sống của người dân. Vì vậy, nhu cầu tạo việc làm để có thêm thu nhập ngoài sản xuất nông nghiệp trở thành cấp thiết, cộng với việc dư thừa lao động trong nông nghiệp đã thúc đẩy các nghề thủ công hình thành và phát triển. Tuy những nghề này chỉ
  34. 29 mang tính chất nghề phụ của người nông dân, nhưng do được chuyên môn hoá theo sự phân công nhất định nên năng suất, chất lượng sản phẩm ngày càng tăng lên. Sản phẩm làm ra không những đáp ứng nhu cầu cho sản xuất và tiêu dùng, mà còn dư thừa có thể đem bán trên thị trường. Hoạt động của các nghề thủ công đã ngày càng gắn liền với quan hệ hàng hoá, tiền tệ, gắn liền với thị trường. Sự phát triển của các làng nghề đã đáp ứng hầu hết các nhu cầu cơ bản và thiết yếu của người dân nông thôn, có tác động tích cực đến sản xuất nông nghiệp, phục vụ sản xuất nông nghiệp và phục vụ đời sống của nông dân. Vì vậy, giữa nghề nông và nghề thủ công nghiệp có mối quan hệ gắn bó, bổ sung cho nhau. Sự gắn bó này thể hiện ở hai mối quan hệ: - Một là: quan hệ trong trao đổi tư liệu sản xuất. Làng nghề sản xuất và cung cấp tư liệu sản xuất cho nông nghiệp, góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp, còn nông nghiệp là nơi cung cấp nguyên liệu cho làng nghề. Nông nghiệp được coi là "bàn đạp" để phát triển TTCN trong làng. Hầu hết nguyên liệu của thủ công nghiệp trong làng do nông nghiệp tạo ra (như chế biến nông sản, dệt vải, dệt chiếu ). - Hai là: quan hệ trong đổi tư liệu tiêu dùng, được gắn với quá trình nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân cũng như quá trình hình thành đô thị hoá nông thôn. Các cơ sở sản xuất của làng nghề được phân bố tại chỗ trên địa bàn, phục vụ trực tiếp cho sự phát triển kinh tế - xã hội nông thôn như: Tiêu thụ nguyên vật liệu, cung cấp vật tư sản phẩm hàng hoá làm ra, thu hút lao động nông thôn, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp và hoạt động dịch vụ cùng phát triển, góp phần tăng thu nhập cho người dân, tham gia xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn và đồng thời chịu sự quản lý hành chính của các cấp chính quyền địa phương. Vì vậy, sự phát triển các làng nghề tạo nên kết cấu kinh tế đa dạng, bền vững của kinh tế nông thôn. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, LNTT bị tác động của bởi quá trình hội nhập quốc tế ngày càng có tính độc lập hơn trong quan hệ đối với nông nghiệp. Bởi vì, nguyên liệu cho sản xuất của LNTT đa dạng hoá trong đó có cả
  35. 30 sản phẩm của các ngành công nghiệp ở thành thị. Hơn nữa, hiện nay nước ta đã là thành viên chính thức của WTO, việc thực hiện các cam kết thương mại quốc tế, đã làm cho nguyên liệu của các làng nghề bị cạnh tranh quyết liệt từ các bạn hàng nước ngoài. Do tác động của cách mạng khoa học công nghệ, lợi thế tài nguyên có nguồn gốc trực tiếp từ tự nhiên giảm xuống. 2.1.2.2. Đặc điểm về lao động của làng nghề truyền thống với xu thế hội nhập quốc tế hiện nay Lao động trong làng nghề truyền thống là sự kết hợp giữa kỹ năng, kỹ thuật cao với tay nghề khéo léo của thợ thủ công, giữa lao động tại chỗ với lao động từ nơi khác đến. Trong lao động hiện nay của làng nghề, trừ một số khâu công việc hoặc những công việc mang tính bí quyết nghề nghiệp, còn lại là lao động phổ thông, trình độ thấp, hầu hết là lao động địa phương. Cùng với xu thế mở cửa, hội nhập và phân công lao động xã hội ngày càng phát triển và giao lưu hàng hoá nên công nghệ, thiết bị sản xuất của làng nghề cũng thay đổi theo hướng hiện đại. Từ đó buộc lao động của làng nghề cũng phải được nâng cao trình độ để tạo ra sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Thợ thủ công của làng nghề phải có sự sáng tạo mới tạo ra những nét độc đáo trong hàng hoá và chủ động nắm bắt nhu cầu của khách hàng nhằm tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường. Do đó, lao động của làng nghề không những có sự thay đổi về chất lượng mà còn có sự biến động sâu sắc về cơ cấu lao động theo hướng hiện đại. Sự biến đổi về chất sẽ giúp cho lao động làng nghề nhanh chóng thích ứng với điều kiện lao động mới. Trong xu thế hội nhập quốc tế ngay tại nông thôn cũng xuất hiện nhiều ngành nghề mới hấp dẫn với những mức thu nhập cao hơn so với các ngành nghề truyền thống, do đó xuất hiện xu hướng bỏ dần các ngành nghề truyền thống đặc biệt đối với nguồn nhân lực trẻ, làm cho việc duy trì, phát triển LNTT sẽ phải đối mặt với nhiều khó khan thách thức hơn. 2.1.2.3. Đặc điểm về thị trường của làng nghề truyền thống trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay Trong xu thế phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, các thị trường yếu tố của các làng nghề truyền thống có nhiều thay đổi:
  36. 31 - Bên cạnh những thị trường cung ứng nguyên vật liệu trong nước đã dần từng bước hình thành thị trường nước ngoài thông qua sự phát triển của các hoạt động nhập khẩu nguyên vật liệu, công nghệ cho các làng nghề truyền thống. Do vậy, nếu như trước đây việc mua nguyên vật liệu chủ yếu được thực hiện dưới hình thái trực tiếp, tại chỗ, thì trong điều kiện mới hiện nay công việc cung cấp nguyên vật liệu cho các làng nghề truyền thống được thực hiện bởi hệ thống các chủ thể phức tạp, đa dạng, nhiều khâu. Điều này vừa tạo thuận lợi cho sự mở rộng thị trường yếu tố đầu vào, song cũng có tác động làm tăng chi phí, đặc biệt là các chi phí trung gian, từ đó đòi hỏi các chủ thể làng nghề truyền thống phải không ngừng nghiên cứu, tìm tòi để lựa chọn những ngành nghề truyền thống phù hợp có hiệu quả cao trong hội nhập. - Thị trường công nghệ cũng mang đặc tính riêng của nó. Việc tạo ra công cụ sản xuất là khả năng vốn có của người thợ thủ công, họ có thể làm ra những công cụ từ đơn giản đến phức tạp. Quá trình chuyên môn hoá sản xuất đã xuất hiện những làng nghề, hộ nghề chuyên chế tạo công cụ sản xuất. Như vậy, trong các làng nghề đã xuất hiện sự phân công lao động một cách tự nhiên. Ngày nay, trong điều kiện phát triển của khoa học và công nghệ, thị trường công nghệ trong các làng nghề đã có bước phát triển mới theo kiểu hiện đại hoá công nghệ truyền thống, thay thế công nghệ thủ công, lạc hậu bằng công nghệ hiện đại để nâng cao năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. - Thị trường vốn cho làng nghề truyền thống trước đây chủ yếu là vốn tự có của các chủ thể hiện nay với nhu cầu vốn lớn đòi hỏi các chủ thể kinh doanh phải huy động nhiều nguồn trong đó các ngân hang là chủ yếu bên cạnh các hình thức tín dụng truyền thống như vay mượn, cho vay lấy lãi, chơi họ, lập phường hội - Thị trường sức lao động được hình thành, phát triển và có nhiều yếu tố mới. Trước đây chủ yếu sử dụng lao động tại địa phương và mang tính chất thời vụ, hầu hết là những người đi làm thuê chỉ làm vào lúc nông nhàn. Hiện nay ngoài số lao động nông nhàn, còn có một bộ phận lớn lao chuyên nghiệp và không chỉ có lao động tại địa phương mà còn được mở rộng sang vùng khác, tỉnh khác.
  37. 32 - Thị trường tiêu thụ sản phẩm: Có vai trò rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các làng nghề. Trước đây thị trường tại chỗ, nhưng thị trường tại chỗ cũng kém phát triển do thu nhập thấp và có những sản phẩm thay thế chất lượng tốt giá phù hợp với nhu cầu của người dân. Do đó hiện nay các làng nghề truyền thống phải tập trung cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm để đáp dể đáp ứng nhu cầu trong nước và thị trường nước, khu vực và quốc tế. 2.1.2.4. Đặc điểm về sản phẩm của làng nghề truyền thống trong hội nhập quốc tế Sản phẩm của LNTT trước đây chủ yếu sản xuất ra để đáp ứng nhu cầu tiêu dung. Hiện nay những sản phẩm đó được thay thế bằng những sản phẩm sản xuất công nghiệp trong nước và quốc tế do đó các LNTT phải nghiên cứu sản xuất cài gì cho ai và sản xuất như thế nào có hiệu quả nhất để cạnh tranh bình đẳng với sản phẩm của các cơ sở khác và với sản phẩm nước ngoài. Nhưng đặc điểm sản phẩm của các LNTT đó là sản phẩm được sản xuất ra có sự kết hợp giữa sản xuất hàng loạt với sản xuất đơn chiếc mang bản sắc văn hoá dân tộc. Để có thể đứng vững và phát triển sản phẩm các LNTT phải nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. Vì thế, trong sản xuất các LNTT đã chú ý đến việc nâng cao năng suất lao động, tăng sự đồng đều của sản phẩm, giảm giá thành, thay đổi, hoàn thiện mẫu mã để thích ứng với nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế. Tuy sản xuất trong LNTT vẫn là quy mô nhỏ, nhưng do áp dụng máy móc, nên để tránh lãng phí trong việc sử dụng máy móc, thiết bị thì việc sản xuất với khối lượng lớn mới giảm được chi phí sản xuất, mới có lợi nhuận để tồn tại và phát triển. Đồng thời, trong điều kiện cạnh tranh gay gắt trên thị trường thì việc sản xuất sản phẩm bên cạnh những nét dáng công nghiệp, sản phẩm phải có nét đặc trưng gắn với giá trị văn hoá truyền thống địa phương thông qua công nghệ thủ công, sản xuất đơn chiếc ở một số công đoạn. 2.1.2.5. Đặc điểm về hình thức tổ chức kinh doanh của làng nghề truyền thống trong hội nhập quốc tế Hiện nay, trong LNTT có nhiều các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh khác nhau như: hộ gia đình, tổ hợp tác, hợp tác xã (HTX), doanh nghiệp tư nhân,
  38. 33 công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH). Các hình thức này cùng tồn tại và có tác động hỗ trợ nhau trong điều kiện mới của nền kinh tế thị trường nhưng do tác động của quá trình hội nhập quốc tế các sản phẩm làng nghề truyền thống không chỉ sản xuất ra dấp ứng nhu cầu trong nước mà còn đáp ứng nhu cầu của thị trường quốc tế. Nhưng hiện nay các đối tác của các LNTT nhập khảu lại cần số lượng lớn do đòi hỏi các chủ thể sản xuất của LNTT phải được cơ cấu lại theo hướng giảm số hộ cá thể, tăng số cơ sở như tổ hợp tác, hợp tác xã, công ty. Có sự liên kết giữa LNTT với các tổ chức kinh doanh khác như liên kết dịch vụ đầu vào, đầu ra, liên kết giữa các công đoạn sản xuất do phát triển chuyên môn hoá. Các hiệp hội ngành nghề giúp nhau sản xuất kinh doanh, hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh nhiều tầng giữa các công ty với các hộ cũng phát triển mạnh trong các làng nghề. Sự hợp tác liên kết giữa các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong các cụm CN - TTCN trong các LNTT ngày càng chặt chẽ hơn, các công ty có vai trò trung tâm lôi kéo các cơ sở sản xuất nhỏ khác làm vệ tinh cho mình, điều này đã làm cho sản xuất LNTT phát triển. Việc liên kết này không chỉ ổn định sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho LNTT nhờ bao cung, bao tiêu bởi doanh nghiệp lớn, mà các cơ sở sản xuất kinh doanh trong LNTT còn gia công sản xuất một số công đoạn giúp doanh nghiệp lớn mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh mà không cần mở rộng quy mô doanh nghiệp vẫn nâng cao hiệu quả kinh tế. 2.1.2.6. Đặc điểm về công nghệ của làng nghề truyền thống trong hội nhập quốc tế Trước đây LNTT chủ yếu là sản xuất thủ công bằng kinh nghiệm là chính. Nhưng hiện nay do sự phát triển của khoa học kỹ thuật và sự phát triển của sản xuất trong các LNTT đã tạo nên đặc điểm về công nghệ trong các làng nghề hiện nay đó là có sự kết hợp công nghệ sản xuất hiện đại với kinh nghiệm, kỹ thuật sản xuất thủ công. Sự kết hợp này đã đem lại ưu thế đặc biệt quan trọng: tạo ra năng suất lao động cao hơn gấp nhiều lần so với lao động thủ công, sản phẩm được sản xuất ra có khả năng cạnh tranh cao hơn, đồng thời làm giảm nặng nhọc, độc hại và nguy hiểm cho người lao động Vì thế, nhiều LNTT đã nhanh chóng đầu tư thiết
  39. 34 bị mới vào thay thế thiết bị cũ, lạc hậu Tuy nhiên, sản phẩm thủ công của làng nghề được hình thành là do sự kết hợp khéo léo của người thợ thủ công với kinh nghiệm được tích luỹ qua nhiều thế hệ, tích luỹ thành bí quyết nghề nghiệp điều này đã tạo nên sắc thái riêng có của sản phẩm. Nên ở một số khâu sản xuất ra sản phẩm người thợ vẫn dùng kỹ thuật thủ công để tạo nên tính truyền thống cho sản phẩm. Như vậy, sản xuất trong làng nghề truyền thống có sự kết hợp công nghệ hiện đại ở những khâu nhất định với kinh nghiệm, kỹ thuật sản xuất thủ công theo hướng tiểu công nghiệp hiện đại, thủ công nghiệp tinh xảo. Như vậy những đặc điểm nêu trên của LNTT được xem xét gắn với những biến đổi của nông nghiệp, nông thôn trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ. Vì vậy, trong thời gian tới các chính sách của Nhà nước nhằm phát triển LNTT phải căn cứ vào các đặc điểm của làng nghề để phát huy những điểm mạnh, giảm bớt những hạn chế để LNTT phát triển một cách bền vững. 2.1.3. Vai trò của làng nghề truyền thống trong hội nhập quốc tế 2.1.3.1. Góp phần khai thác và phát huy những nguồn lực sẵn có của đất nước, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trong hội nhập quốc tế Với tư cách là hình thức tổ chức kinh tế ở lâu đời nông thôn, hoạt động của các LNTT chủ yếu dựa trên cơ sở những nguồn vốn, công nghệ và nhân lực sẵn có, do đó duy trì và phát triển LNTT trong hội nhập quốc tế có vai trò to lớn trong khai thác, phát huy những nguồn lực sẵn có đó phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn nói riêng và cả nước nói chung. Thực tế cho thấy, đa số các làng nghề truyền thống ở Việt Nam thời gian qua không đòi hỏi vốn đầu tư quá lớn, bởi vì rất nhiều nghề chỉ cần công cụ thủ công, thô sơ mà những người thợ trong các làng nghề có thể tự chế tạo được. Bên cạnh đó, do sản xuất trong các làng nghề chủ yếu là quy mô nhỏ, yêu cầu về vốn và lao động không lớn nên rất phù hợp với khả năng huy động nguồn vốn nhàn rỗi của các hộ gia đình vào sản xuất kinh doanh. Các làng nghề còn có khả năng tiết kiệm chi phí xây dựng cơ bản vì không phải đầu tư nhiều vào xây dựng nhà xưởng, kho tàng Việc sử dụng ngay diện tích nhà ở, sân vườn, bếp làm nơi sản xuất, quản lý, nhà kho đã tiết kiệm được khá lớn vốn đầu tư cơ bản là một lợi thế của các làng nghề. Bên
  40. 35 cạnh đó, do đặc điểm sản xuất ở các làng nghề là sử dụng lao động thủ công là chính nên có khả năng tận dụng nhiều loại lao động, kể cả lao động là trẻ em. Việc khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống đã thực sự tạo ra một chuyển biến quan trọng trong việc tạo việc làm ổn định, tăng thu nhập và cải thiện đời sống dân cư. Người dân nông thôn luôn có tâm lý gắn bó với làng quê, do vậy khi đã có việc làm và thu nhập ổn định, mà nguồn thu nhập này lại cao hơn thu nhập từ sản xuất nông nghiệp thì họ không muốn đi tìm việc nơi khác. Việc phát triển các làng nghề theo phương châm "ly nông, bất ly hương" không chỉ có khả năng lớn giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động mà còn hạn chế được dòng di dân tự do ở nông thôn hiện nay. 2.1.3.2. Làng nghề truyền thống góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế Trong quá trình phát triển, các làng nghề truyền thống đã có vai trò tích cực góp phần tăng tỷ trọng nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, chuyển lao động từ sản xuất nông nghiệp có thu nhập thấp sang ngành nghề phi nông nghiệp có thu nhập cao hơn. Khi nghề thủ công hình thành và phát triển thì kinh tế nông thôn không chỉ có kinh tế nông nghiệp thuần nhất mà bên cạnh là các ngành thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ cùng tồn tại và phát triển. Xét trên góc độ phân công lao động thì các làng nghề truyền thống đã có tác động tích cực tới sản xuất nông nghiệp. Nó không chỉ cung cấp tư liệu sản xuất cho khu vực nông nghiệp mà còn có tác dụng chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp. Mặt khác, kết quả sản xuất ở các làng nghề truyền thống cho thu nhập và giá trị sản lượng cao hơn so với sản xuất nông nghiệp; do từng bước tiếp cận với kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, năng lực kinh doanh được nâng lên, người lao động nhanh chóng chuyển sang đầu tư cho các ngành nghề phi nông nghiệp, đặc biệt là những ngành mà sản phẩm có khả năng tiêu thụ mạnh ở thị trường trong nước, khu vực và thế giới. Làng nghề truyền thống phát triển đã tạo cơ hội cho hoạt động dịch vụ ở nông thôn mở rộng quy mô và địa bàn hoạt động, thu hút nhiều lao động, khác
  41. 36 với sản xuất nông nghiệp, sản xuất trong các làng nghề truyền thống là một quá trình liên tục, đòi hỏi một sự thường xuyên cung ứng dịch vụ vật liệu và tiêu thụ sản phẩm. Do đó dịch vụ nông thôn phát triển mạnh mẽ với nhiều hình thức đa dạng phong phú, đem lại thu nhập cao cho người lao động. Sự phát triển của làng nghề truyền thống có tác dụng rõ rệt với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH. Sự phát triển lan tỏa của làng nghề đã mở rộng qui mô địa bàn sản xuất, thu hút nhiều lao động. Đến nay cơ cấu kinh tế ở nhiều làng nghề truyền thống đạt 60 - 80% cho công nghiệp và dịch vụ, 20 - 40% cho nông nghiệp. 2.1.3.3. Làng nghề truyền thống góp phần thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn Hệ thống giao thông và kết cấu hạ tầng vừa là tiền đề, vừa là hệ quả của phát triển LNTT. Đầu tiên làng nghề được hình thành ở những vùng có giao thông thuận lợi, đồng thời làng nghề phát triển sẽ làm nảy sinh nhu cầu xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng. Bên cạnh đó, phát triển LNTT cùng với việc tăng thu nhập của người dân đã tạo một nguồn tích luỹ khá lớn và ổn định ngân sách địa phương cũng như các hộ gia đình. Vì vậy, có điều kiện đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng như đường giao thông, trạm biến thế điện, hệ thống thông tin liên lạc và các yếu tố thuộc kết cấu hạ tầng phục vụ sinh hoạt, nâng cao dân trí và sức khoẻ của người dân như trường học, trạm y tế, vệ sinh môi trường Kết cấu hạ tầng nông thôn có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, là một trong những điều kiện để khai thác các nguồn lực và lợi thế của từng vùng, là điều kiện thuận lợi để thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hoá, mở rộng giao lưu trao đổi hàng hoá giữa các vùng, nâng cao mức sống vật chất và tinh thần của dân cư, góp phần giảm sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn, thúc đẩy quá trình đô thị hoá. Như vậy, khi phát triển đến một mức độ nhất định, làng nghề vừa có nhu cầu về phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ cho chính làng nghề, vừa có điều kiện để đáp ứng việc phát triển kết cấu hạ tầng đó. Việc xây dựng các công trình này đã góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn.
  42. 37 2.1.3.4. Làng nghề truyền góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động ở nông thôn trong hội nhập quốc tế Với đặc điểm là nước đông dân với hơn 90 triệu người và có tốc độ tăng lao động tương đối cao. Vì vậy, sự phát triển của làng nghề truyền thống đã tác dụng tích cực không chỉ về mặt kinh tế mà cả về mặt xã hội trên phương diện việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Thực tế cho thấy hiện nay lao động nông nghiệp chiếm trên 50% lao động xã hội, trong khi diện tích đất canh tác ngày càng thu hẹp, thời gian lao động dư thừa trong nông thôn còn khoảng 1/3 chưa sử dụng nên tình trạng thất nghiệp càng có nguy cơ gia tăng. Trong khi đó kinh tế nông nghiệp vẫn lạc hậu là chủ yếu, năng suất lao động thấp, nên bản thân sản xuất nông nghiệp không có khả năng giải quyết lao động dư thừa trong nông thôn hiện nay. Vấn đề đặt ra là phải làm sao giải quyết được việc làm cho lực lượng lao động này, đồng thời tăng thu nhập cho các hộ gia đình trong điều kiện sản xuất còn khó khăn. Mặc dù trong những năm vừa qua các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương đã có nhiều biện pháp tích cực giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn. Một trong những giải pháp có ý nghĩa chiến lược là phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn với nhiều ngành nghề đa dạng, phong phú và có khả năng phát triển rộng khắp trong nông thôn. Sự phát triển của các LNTT không những chỉ thu hút lao động ở gia đình, làng xã mà còn thu hút được nhiều lao động từ các địa phương khác đến. Hiện nay, bình quân mỗi cơ sở chuyên làm nghề tạo việc làm ổn định cho khoảng 30 lao động thường xuyên và 10 - 15 lao động thời vụ, mỗi hộ chuyên làm nghề tạo việc làm cho 5 - 7 lao động thường xuyên và 3 - 5 lao động thời vụ. Đặc biệt ở nghề dệt, thêu ren, mây tre đan, mỗi cơ sở có thể thu hút 250 - 300 lao động. Nhiều làng nghề thu hút trên 60% lao động tham gia vào các hoạt động ngành nghề [7, tr.15]. Đồng thời sự phát triển của các làng nghề truyền thống còn kéo theo sự phát triển nhiều nghề khác, nhiều hoạt động dịch vụ liên quan đã tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Chẳng hạn, nghề chế biến lương thực, thực phẩm tạo điều kiện cho chăn nuôi phát triển. Ngành sản xuất hàng ngũ kim, ngành tái chế
  43. 38 các sản phẩm tạo điều kiện cho mạng lưới thu gom nguyên liệu, phế liệu phát triển. Ngoài ra các loại dịch vụ tín dụng, ngân hàng cũng phát triển do yêu cầu sản xuất trong các làng nghề ngày càng tăng. Sự phát triển các LNTT và làng nghề mới được coi là động lực trực tiếp giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động nông thôn. Ở nơi nào có ngành nghề phát triển thì ở nơi đó có thu nhập cao và mức sống cao hơn ở các vùng thuần nông. Bình quân thu nhập của một lao động trong hộ chuyên ngành nghề phi nông nghiệp là 4.000.000 - 4.500.000 đồng/ tháng, ở hộ kiêm nghề từ 2.000.000 - 2.500.000 đồng/tháng, trong khi đó ở các hộ lao động thuần nông chỉ có khoảng 500.000 - 720.000 đồng/người/tháng [51, tr.47]. Thu nhập từ ngành nghề ngày một cao mà nhiều gia đình đã xây dựng được nhà kiên cố và mua sắm những thứ đắt tiền. Đời sống người làm nghề được cải thiện, những biểu hiện tiêu cực trong xã hội cũng từ đó dần dần bị đẩy lùi. Thu nhập của cư dân nông thôn từ khu vực phi nông nghiệp tăng tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông thôn từ thuần nông sang nông - công nghiệp và dần sang nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ. Như vậy, việc phát triển LNTT là một giải pháp quan trọng nhằm khai thác các nguồn lực ở nông thôn tạo điều kiện cho những người có khả năng làm những nghề mà họ có ưu thế hơn. Mặt khác, các ngành nghề ở nông thôn phát triển đã kéo theo nhiều nghề dịch vụ có liên quan, thu hút và tạo thêm nhiều việc làm mới. 2.1.3.5. Làng nghề truyền thống vừa góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, vừa thúc đẩy xuất khẩu và phát triển du lịch trong hội nhập quốc tế Sự tồn tại và phát triển của các làng nghề là một quá trình gìn giữ nét văn hoá đậm đà bản sắc và truyền thống dân tộc, đồng thời có vai trò tạo ra những sản phẩm độc đáo, đa dạng cho xuất khẩu và cơ sở phát triển du lịch làng nghề. Mỗi làng nghề là một địa chỉ văn hoá, nó phản ánh nét văn hoá độc đáo của từng địa phương, từng vùng. Mỗi loại sản phẩm làng nghề được gắn với một địa danh văn hoá truyền thống, với một phong tục tập quán riêng, độc đáo, được các bàn tay khéo léo, tài hoa của các nghệ nhân tạo nên và được coi là biểu tượng của cái
  44. 39 đẹp mang truyền thống dân tộc. Sản phẩm truyền thống của làng nghề là nét đặc sắc, biểu trưng cho nền văn hoá cộng đồng làng xã Việt Nam. Vì vậy, các sản phẩm của làng nghề không còn là hàng hoá đơn thuần mà trở thành sản phẩm văn hoá với tính nghệ thuật cao. Việc khai thác và phát huy tốt lợi thế này chính là sự bổ sung đáng kể cho sản xuất hàng xuất khẩu, đồng thời tạo ra những điểm du lịch văn hóa hấp dẫn cho khách du lịch quốc tế. Trong xu thế hội nhập và mở cửa những năm đổi mới, làng nghề truyền thống ở Việt Nam đang dần lấy lại vị trí quan trọng của mình trong đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội. Phát triển du lịch làng nghề đã và đang là hướng đi đúng đắn và phù hợp. Những lợi ích to lớn của việc phát triển du lịch làng nghề không chỉ thể hiện ở những con số tăng trưởng lợi nhuận kinh tế, ở việc giải quyết nguồn lao động địa phương mà hơn thế nữa, còn là một cách thức gìn giữ và bảo tồn những giá trị văn hoá của dân tộc. Đó là những lợi ích lâu dài không thể tính được trong ngày một ngày hai. Du lịch làng nghề truyền thống ngày càng hấp dẫn du khách và đang là một hướng phát triển du lịch đầy triển vọng. Bên cạnh những lợi ích về kinh tế, xã hội, hình thức du lịch này còn góp phần bảo tồn và phát huy những bản sắc văn hoá độc đáo của từng vùng miền, địa phương. Tuy nhiên, việc phát triển làng nghề truyền thống giữ gìn bản sắc dân tộc cần gắn với việc hiện đại hoá để tăng khả năng sản xuất của sản phẩm. Việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc đòi hỏi quá trình hiện đại hoá sản xuất làng nghề đi liền với bảo tồn văn hoá dân tộc, phong tục tập quán tốt đẹp của làng nghề. Qua làng nghề, có thể hiểu thêm văn hoá của nghề, hiểu thêm về sắc thái văn hoá con người và quê hương đất nước. Làng nghề truyền thống phát triển còn thu hút khách du lịch, gắn sự phát triển làng nghề với phát triển văn hoá cộng đồng, du lịch sinh thái, từ đó hình thành tuyến du lịch làng nghề có tính nhân văn cao, tuyên truyền để nhiều người biết về làng nghề và sản phẩm của làng nghề, góp phần mở rộng thị trường sản phẩm và tăng thu nhập cho làng nghề từ dịch vụ du lịch. Tóm lại, việc phát triển làng nghề truyền thống có tác động tích cực đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội và CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn như chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn, tạo việc làm, hạn chế di dân tự do, tăng thu
  45. 40 nhập cho người dân, giảm các tệ nạn xã hội một cách đáng kể (nghiện hút, cờ bạc, trộm cắp ). Ngoài ra, phát triển làng nghề còn tạo thêm điều kiện để xây dựng kết cấu hạ tầng, văn hoá, y tế, giáo dục, nâng cao đời sống cư dân nông thôn. Đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay phát triển các làng nghề còn có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ gìn các giá trị văn hoá của dân tộc. 2.2. PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG 2.2.1. Phát triển làng nghề truyền thống trong hội nhập quốc tế Với tư cách là một loại hình tổ chức kinh doanh đặc thù được hình thành và phát triển lâu đời trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nhiều LNTT có xu hướng tiếp tục tồn tại và phát triển trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Sự phát triển LNTT trong hội nhập quốc tế thể hiện sự vận động của LNTT từ thấp đến cao, từ đơn giản tới phức tạp, có thể biểu hiện thông qua sự gia tăng của số lượng, quy mô, mức độ phức tạp của kết cấu của LNTT, đồng thời có thể biểu hiện thông qua khả năng thích nghi của từng LNTT với các điều kiện mới của hội nhập quốc tế. Xét theo cách tiếp cận đó, sự phát triển của LNTT trong hội nhập quốc tế trên địa bàn một địa phương thể hiện thông qua sự vận động về số lượng, loại hình, quan hệ thị trường và các nguồn lực của LNTT trong quá trình hội nhập quốc tế. 2.2.1.1. Sự phát triển của làng nghề truyền thống trong hội nhập quốc tế thông qua sự thay đổi về số lượng và loại hình Với tư cách là chủ thể đặc thù của sản xuất kinh doanh, các LNTT trong hội nhập quốc tế có thể vận động theo hai xu hướng: những LNTT thích nghi được với những thách thức của hội nhập quốc tế và tận dụng được cơ hội mới do hội nhập quốc tế mang lại sẽ không những có thể bảo tồn, duy trì, mà còn không ngừng phát triển. Ngược lại, những LNTT không thể thích nghi với điều kiện mới sẽ có xu hướng bị loại bỏ dần, làm cho số lượng LNTT trên một địa bàn địa phương cụ thể giảm xuống. Về cơ bản, việc duy trì sự tồn tại của làng LNTT đã phần nào thể hiện khả năng thích nghi và phát triển trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Do đó, để đánh giá sự phát triển của
  46. 41 LNTT trong hội nhập quốc tế có thể sử dụng trước hết tiêu chí về số lượng LNTT theo thời gian. Tuy nhiên, chỉ số này mới chỉ phản ánh một mặt của sự phát triển LNTT trong hội nhập quốc tế. Để duy trì và phát triển LNTT với tư cách là loại hình kinh doanh phải được dựa trên sự duy trì, tồn tại và phát triển của các nghề truyền thống nhất định, mà trong xu thế hội nhập quốc tế không ít các nghề truyền thống sẽ bị loại bỏ do sản phẩm không có sức cạnh tranh, không được thị trường không những nước ngoài mà ngay thị trường trong nước không chấp nhận, do đó sự phát triển của LNTT trong hội nhập quốc tế sẽ gắn với sự duy trì và phát triển từng loại nghề, chuyên môn truyền thống nhất định trên từng địa bàn cụ thể nhất định. Từ đó, sự phát triển của LNTT trong hội nhập quốc tế còn được biểu hiện ở sự đa dạng của các loại hình LNTT theo các nghề truyền thống. 2.2.1.2. Sự phát triển của làng nghề truyền thống trong hội nhập quốc tế thông qua mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm Hội nhập quốc tế tạo điều kiện mới cho sự phát triển của LNTT theo nhiều phương diện, trong đó nổi bật và rõ nét hơn cả là tạo thuận lợi cho LNTT mở rộng quan hệ giao lưu với các chủ thể nước ngoài thông qua gia tăng các hoạt động xuất, nhập khẩu. Nếu như ban đầu, sự hình thành và phát triển của LNTT gắn với nhu cầu tiêu dùng nội địa, nội vùng về sản xuất và tiêu dùng cá nhân, thì trong hội nhập quốc tế, những sản phẩm của LNTT có thể hướng tới nhu cầu tiêu dùng của các thị trường nước ngoài với sự độc đáo, thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc. Do đó, trong quá trình hội nhập quốc tế, những sản phẩm của LNTT được sản xuất đại trà hướng tới nhu cầu tiêu dùng sản xuất như các nông cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp sẽ dần bị thay thế bởi các sản phẩm công nghiệp, đặc biệt là các sản phẩm công nghiệp của nước ngoài có sức cạnh tranh cao, vì vậy, thị trường đối với những sản phẩm loại này có nguy cơ bị thu hẹp ngay ở phạm vi trơng nước, trong vùng. Ngược lại, những sản phẩm độc đáo phục vụ nhu cầu tiêu dùng cá nhân có khả năng đáp ứng những nhu cầu khó tính của các thị trường trong và ngoài nước vẫn có cơ hội phát triển. Từ đó, sự phát triển của LNTT trong hội nhập
  47. 42 quốc tế có thể đánh giá thông qua các chỉ tiêu về kim ngạch xuất khẩu sản phẩm của LNTT trên từng địa bàn theo thời gian. Bên cạnh đó, cơ hội gia tăng xuất khẩu sản phẩm của LNTT trong hội nhập quốc tế cũng không đồng đều giữa các loại hình LNTT và theo các thị trường nước ngoài cụ thể, bởi lẽ mức độ hiểu biết, giao lưu văn hóa thường không đồng đều giữa các địa phương, dân tộc. Mỗi dân tộc thường gắn với địa phương, quốc gia và thị trường cụ thể và có bản sắc văn hóa đặc thù, do đó việc mở rộng thị trường xuất khẩu sản phẩm LNTT không những biểu hiện thông qua sự gia tăng tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu và giá trị kim ngạch xuất khẩu của từng mặt hàng, mà còn biện hiện thông qua việc duy trì được các thị trường truyền thống và xâm nhập vào các thị trường mới, đặc biệt là thị trường hàng tiêu dùng khó tính của các nước phát triển. Bên cạnh đó, trong hội nhập quốc tế LNTT có thêm cơ hội để bổ sung các nguồn lực đầu vào, đặc biệt là nguồn nguyên vật liệu và công nghệ mới hiện đại thông qua mở rộng hoạt động nhập khẩu. 2.2.1.3. Sự phát triển của làng nghề truyền thống trong hội nhập quốc tế thông qua sự gia tăng các nguồn lực đầu vào Cũng như mọi chủ thể sản xuất kinh doanh khác trong kinh tế thị trường và hội nhập, để tổ chức sản xuất kinh doanh LNTT phải có các yếu tố cần thiết như vốn, công nghệ, nhân lực và sự phát triển của LNTT trong hội nhập quốc tế đòi hỏi phải có sự gia tăng phù hợp của các nguồn lực đó về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Trong số các nguồn lực đầu vào của LNTT, nguồn nhân lực là quan trọng nhất. Nhân lực, đặc biệt là nhân lực lành nghề, nghệ nhân là linh hồn của các nghề truyền thống và LNTT. Nếu không duy trì và phát triển được nguồn nhân lực lành nghề thì không thể nào có thể bảo tồn và duy trì, phát triển LNTT. Trong bối cảnh hội nhập, nhiều cơ hội việc làm mới với mức thu nhập cao được hình thành, trở thành mối quan tâm chủ yếu của lực lượng lao động trẻ, do đó gây không ít khó khăn cho việc duy trì, phát triển lao động lành nghề và đội ngũ nghệ nhân của LNTT, từ đó đe dọa sự tồn vong của nhiều nghề truyền thống và
  48. 43 LNTT. Do đó, sự phát triển của LNTT cũng biểu hiện thông qua khả năng duy trì và phát triển nguồn nhân lực LNTT, trong đó đặc biệt là đội ngũ lao động lành nghề và nghệ nhân. 2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến làng nghề truyền thống trong hội nhập quốc tế Với tư cách là hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, LNTT cũng là một trong những chủ thể tham gia hội nhập quốc tế, do đó sự tồn tại và phát triển của LNTT chịu tác động từ hai nhóm nhân tố chủ yếu, bao gồm các nhân tố trong nước và quốc tế. 2.2.2.1. Các nhân tố trong nước Thứ nhất, khả năng tiếp cận thông tin thị trường của LNTT. Thị trường các LNTT nước ta trong một thời gian khá dài, khả năng tiếp cận thị trường với bên ngoài rất hạn hẹp. Sản phẩm sản xuất ra còn mang nặng tính chất tự cấp, tự túc. Tính chất này không chỉ hạn chế sức mua trên thị trường hàng hóa tiêu dùng trong thời gian trước mắt, mà cũng hạn chế đến khả năng đầu tư mở rộng sản xuất của LNTT sau này. Thị trường xuất khẩu của LNTT có được mở ra nhưng với số lượng không đáng kể. Bởi vì, yêu cầu chất lượng, mẫu mã và chủng loại rất khắt khe, trong khi đó, LNTT của chúng ta chưa thay đổi. Một số sản phẩm thủ công mỹ nghệ đó được xuất khẩu sang một số nước phát triển nhưng mức độ chưa nhiều. Nguyên nhân chính là sản phẩm của chúng ta không phù hợp với khí hậu, thời tiết của bạn, nên bị nứt vỡ, cong vênh. Hơn nữa, khả năng tiếp cận thị trường của ta vẫn còn yếu, không có điều kiện cần thiết để tìm kiếm, nắm bắt thông tin thị trường. Theo số liệu điều tra của Dự án quy hoạch phát triển ngành nghề thủ công phục vụ công nghiệp hóa nông thôn của JICA Nhật Bản và Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, có gần 90% làng nghề gặp khó khăn về thông tin thị trường như thông tin về mẫu mã, giá cả và chất lượng cho hàng hóa của họ. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm ở trong nước và còn có tác động đến xuất khẩu ra nước ngoài. Thiếu thông tin về thị trường, về bản sắc dân tộc và văn hóa đặc trưng riêng của từng nước nhập khẩu về thị hiếu của khách
  49. 44 hàng Do đó, các làng nghề khó mà chủ động trong sản xuất, họ sẽ phải phụ thuộc nhiều vào đơn đặt hàng của thương nhân hoặc của khách hàng. Vì thế, khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của LNTT rất hạn chế. Thứ hai, công nghệ sản xuất rất lạc hậu. Đa phần các LNTT đều áp dụng các công nghệ truyền thống với đội ngũ lao động được truyền nghề từ đời này qua đời khác thông qua các thế hệ con cháu là chủ yếu. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến sản phẩm cũng như mẫu mã của sản phẩm và sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Nhiều cơ sở sản xuất và các hộ sản xuất trong LNTT còn sử dụng máy móc cũ, công suất nhỏ, thậm chí sử dụng cả máy móc thải loại để sản xuất; dẫn đến tình trạng mức chính xác không cao, tiêu tốn nguyên vật liệu nhiều và nguồn điện rất lớn. Mặc dù trong những năm gần đây, các LNTT đó tập trung đầu tư, đổi mới trang thiết bị để nâng cao chất lượng sản phẩm và năng suất lao động, nhưng sự thay đổi này vẫn diễn ra một cách chậm chạp. Sở dĩ việc sử dụng các trang thiết bị cũ kỹ lạc hậu là do đặc thù của các làng nghề. Hầu hết các cơ sở sản xuất đi lên từ sản xuất nhỏ, ban đầu sản xuất chủ yếu phục vụ cho nhu cầu của gia đình, họ đã phải tự chế tạo các thiết bị để sản xuất là chính. Khi nhu cầu hàng hóa ngày một gia tăng, họ mở rộng sản xuất phục vụ thôn xóm, cộng đồng rồi cho toàn bộ xã hội. Việc mở rộng sản xuất khiến họ phải đầu tư các thiết bị lớn hơn và nhiều hơn. Nhưng điểm mâu thuẫn là nguồn tài chính eo hẹp, nên đã buộc họ phải mua các thiết bị cũ kỹ, lạc hậu về sửa chữa lại và cải tiến đôi chỗ rồi đưa vào hoạt động. Mặt khác, do trình độ tay nghề của người lao động không cao, nên cũng không thể sử dụng được các loại máy móc, trang thiết bị hiện đại. Ngoài ra, yêu cầu về chất lượng sản phẩm của LNTT không cao và phải bán với giá thấp cho phù hợp với túi tiền của người dân, nên họ cũng không cần đầu tư thêm các trang thiết bị hiện đại vì quá nhiều tiền. Thứ ba, sức cạnh tranh của hàng hóa thấp. Sản phẩm của làng nghề truyền thống trước đây chủ yếu sản xuất ra phục vụ nhu cầu tiêu dùng nên không quan tâm đến thị trường cần cái gì nên sức cạnh tranh của sản phẩm LNTT rất kém, không đủ năng lực cạnh tranh trên thị trường.
  50. 45 Đặc biệt là các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của ta cũng đang chịu sự cạnh tranh gay gắt các mặt hàng tương tự từ những nước như: Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ, Nhật Bản Các nước này cũng có nghề truyền thống khá phát triển và khả năng xuất khẩu của họ rất lớn, do họ có chiến lược đầu tư thích hợp vào công nghệ và cải tiến sản phẩm. Ngoài ra, do sự phát triển của khoa học, công nghệ mà các nước này có mặt hàng xuất khẩu như Việt Nam, nhưng sản phẩm của họ được sản xuất bằng các vật liệu mới, giá rẻ hơn, mẫu mã đẹp hơn và có nhiều đặc tính tốt hơn hàng Việt Nam. Thứ tư, chất lượng nguồn lao động thấp. Trước đây LNTT chủ yếu là sản xuất thủ công kinh nghiệm là chính nhưng do sự phát triển của khoa học - công nghệ và yêu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và quốc tế, nên máy móc, thiết bị công nghệ mới và một số ngành nghề mới đã được đưa vào các làng nghề truyền thống, đòi hỏi người lao động phải nâng cao trình độ tay nghề luôn học hỏi cập nhật nâng cao trình độ của người lao động. Nhiều công việc trước đây làm thủ công, nay đã được cơ khí hóa, vừa nâng cao trình độ của người lao động, vừa làm tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, tăng chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Từ đó, sản phẩm của làng nghề ngày càng chiếm lĩnh thị trường trong nước và ngoài nước. Tuy nhiên, công tác đào tạo nghề và chất lượng lao động trong các LNTT vẫn còn nhiều bất cập. Điều này thể hiện rõ nhất là quy mô đào tạo nhỏ lẻ, nội dung nghèo nàn, tính chất phân tán, tự phát, thiếu quy hoạch, phương pháp truyền nghề theo kinh nghiệm, chưa kết hợp được với tiến bộ khoa học công nghệ mới nên chất lượng không cao. Cho đến nay, theo đánh giá của các chuyên gia, chất lượng lao động trong các làng nghề còn thấp, chưa phù hợp với yêu cầu của nền sản xuất hàng hóa. Tỷ lệ qua đào tạo nghề (chủ yếu là ngắn hạn) mới đạt khoảng 15%, trong đó có khoảng 1,5% là nghệ nhân hoặc lao động có tay nghề cao; 85% còn lại là lao động chưa qua đào tạo hoặc bồi dưỡng có hệ thống. Thứ năm, vấn đề ô nhiễm môi trường. Làng nghề truyền thống phát triển, góp phần giải quyết công văn việc làm, tạo thu nhập cho người lao động, song vẫn còn tồn tại khá nhiều vướng mắc từ
  51. 46 các làng nghề. Nổi bật và đáng lo ngại nhất là vấn đề ô nhiễm môi trường. Môi trường bị ô nhiễm lại phát sinh từ chính đặc thù hoạt động sản xuất của làng nghề do quy mô sản xuất nhỏ, công nghệ thủ công lạc hậu, thiết bị thiếu đồng bộ, chắp vá Một thực tế nữa là do chính sự hiểu biết của người dân còn hạn chế, không thấy hết được những tác hại của nạn ô nhiễm môi trường do chính họ gây ra, làm ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe cộng đồng. Nạn ô nhiễm môi trường, nhất là ô nhiễm nguồn nước và không khí gây ra bệnh nghề nghiệp rất lớn. Tỷ lệ người dân ở các làng nghề bị mắc các bệnh phổi, đường ruột, đau mắt hột, thậm chí có thể gây ung thư, giảm trí nhớ Thêm vào đó ở các làng nghề hiện nay kết cấu hạ tầng yếu kém, hệ thống cấp thoát nước chưa được xây dựng đồng bộ, hơn nữa do lượng ôtô ra vào vận chuyển nguồn nguyên liệu, thành phẩm nhiều, vượt xa so với đường giao thông ban đầu. Chẳng hạn như ở làng gốm sứ Bát Tràng (Hà Nội) khi có mưa xuống đó gây ra tình trạng ngập úng kéo dài, hoặc bụi quá mức cho phép khi trời nắng. Vấn đề môi trường ở các LNTT đã được các cấp, các ngành quan tâm, song do tính chất là những cơ sở sản xuất nhỏ, chủ yếu là hộ gia đình, do cơ sở vật chất nghèo nàn, nguồn vốn hạn hẹp thì việc giải quyết nạn ô nhiễm môi trường là vấn đề rất nan giải. Do đó, dẫn đến tình trạng ô nhiễm lan rộng, không được xử lý đúng quy định đã ảnh hưởng rất lớn đến các vùng lân cận và sản xuất nông nghiệp. Nhiều làng nghề thiếu quy hoạch tổng thể, không xử lý chất thải làm cho môi trường ngày càng bị ô nhiễm nặng nề. Hiện nay, đi đôi với phát triển làng nghề phải dựa trên cơ sở sử dụng hợp lý tài nguyên, đồng thời, phải bảo vệ tốt môi trường sinh thái đang là vấn đề cấp bách được đặt ra. Vì vậy, việc nhận thức rõ vai trò tích cực của nó để từ đó phát huy và đẩy mạnh làng nghề phát triển sẽ giúp cho việc xây dựng một nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ và phù hợp, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, nhanh chóng nâng cao thu nhập và đời sống, dân cư nông thôn nước ta tiến lên văn minh hiện đại. Có như vậy, mới đạt được mục tiêu đặt ra đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.