Luận án Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân

doc 36 trang hapham 480
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docluan_an_tu_tuong_ho_chi_minh_ve_xay_dung_nha_nuoc_cua_dan_do.doc

Nội dung text: Luận án Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ TP. HCM Khoa Công Nghệ Thông Tin  TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN Giảng Viên : Nguyễn Khánh Vân Tp, Hồ Chí Minh, tháng 06 năm 2012
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ TP. HCM Khoa Công Nghệ Thông Tin  TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN Nhóm 3 Lớp: 08VTH2  Nguyễn Quốc Thanh  Trần Minh Quang Thụy  Bùi Mạnh Tiến  Nguyễn Lê Trần  Trần VănTùng  Dương Thế Vinh Tp, Hồ Chí Minh, tháng 06 năm 2012
  3. LỜI MỞ ĐẦU Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam ta đang ngày một tiến lên sánh vai cùng các cường quốc năm châu, đang dần khẳng định vị thế của mình với thế giới về một nền độc lập , tự do, dân chủ . Để đạt được thành quả này là cả một quá trình đấu tranh gian khổ với những hy sinh mất mát không thể bù đắp được của bao thế hệ cha ông ta. Và để có được nền độc lập dân chủ của nước nhà thì ngoài sự cống hiến, hy sinh của cả một dân tộc, còn có những người con kiệt xuất với phẩm chất anh dũng, kiên cường, không sợ khó, sợ khổ, sẵn sàng hy sinh cho tổ quốc. Người thanh niên mang tên Nguyễn Tất Thành đã một mình bôn ba khắp năm châu bốn bể để tìm ra con đường mang lại độc lập tự do cho tổ quốc mình. Nhắc tới người là nhắc tới một vị anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hoá của nhân loại, một vị lãnh tụ tài ba và đặc biệt là người cha già kình yêu của dân tộc. Cả cuộc đời Người đã cống hiến cho nền độc lập của dân tộc cho sự tự do của đất nước. Tư tưởng của Người đã đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc vượt qua muôn trùng khó khăn để đi đến những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử vĩ đại, là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và của nhân dân ta. Một trong những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xây dựng một nhà nước kiểu mới – nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Đây là tư tưởng xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng và Bác Hồ, đã được minh chứng và kiểm nghiệm trong lịch sử đấu tranh giành chính quyền và xây dựng chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân. Theo Hồ Chủ tịch, nhà nước kiểu mới – nhà nước pháp quyền phải là nhà nước của dân, do dân và vì dân, đó là tư tưởng, ý chí nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thật may mắn cho chúng ta vì đã được sinh ra, lớn lên và hưởng trọn những thành quả mà cả đời Người đã cống hiến. Qua thời gian học tập, nghiên cứu, tìm tòi trên sách vở, báo chí, đặc biệt là sự chỉ dạy tận tình của Thầy cô giúp chúng ta tiếp cận 1
  4. với hệ thống tư tưởng của Người, cho chúng ta hiểu được tầm quan trọng của hệ thống tư tưởng này trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Hơn nữa đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn thế nào là độc lập, tự do, dân chủ. Chính vì tầm quan trọng này và mong muốn được tìm hiểu, học hỏi cũng như chia sẻ những hiểu biết của mình mà tôi quyết định chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân”. Để hiểu rõ vấn đề này xin kính mời Cô và các bạn cùng đi vào phần nội dung chi tiết. Tên sinh viên Chữ ký sinh viên Nguyễn Quốc Thanh Bùi Mạnh Tiến Trần Minh Quang Thụy Nguyễn Lê Trần Trần VănTùng Dương Thế Vinh 2
  5. NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN ĐỀ TÀI: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân Nhóm 3: Điểm bằng số: Điểm bằng chữ: Tp. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2012 NGƯỜI NHẬN XÉT 3
  6. MỤC LỤC I.CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA DÂN DO DÂN VÀ VÌ DÂN 5 1. Nghiên cứu lịch sử dân tộc, Hồ Chí Minh tiếp thu kinh nghiệm xây dựng nhà nước trong lịch sử Việc Nam: 6 2. Hồ Chí Minh nghiên cứu các kiểu nhà nước trong lịch sử: 6 a. Nhà nước thực dân phong kiến 6 b.Nhà nước dân chủ tư bản 6 c. Nhà nước Xô viết. 6 d.Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác – Lênin 7 II. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ 7 1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ 7 2. Dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội 7 3. Thực hành dân chủ 8 a. Xây dựng và hoàn thiện chế độ dân chủ rộng rãi 8 b. Xây dựng các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội vững mạnh để bảo đảm dân chủ trong xã hội 8 III. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA DÂN DO DÂN VÀ VÌ DÂN 9 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước của dân, do dân và vì dân. 9 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của nhà nước 14 3.Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ 17 a.Xây dựng một Nhà nước hợp hiến 17 b.Quản lý nhà nước bằng pháp luật và chú trọng đưa pháp luật vào trong cuộc sống 18 c. Tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của Nhà nước đủ đức và tài 19 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước trong sạch vững mạnh, hoạt động có hiệu quả 20 a.Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước 20 b. Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng 22 IV. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA DÂN,DO DÂN,VÌ DÂN 23 V. KẾT LUẬN 31 4
  7. I.CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA DÂN DO DÂN VÀ VÌ DÂN Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước được hình thành từ những nguồn gốc chủ yếu sau: 1. Nghiên cứu lịch sử dân tộc, Hồ Chí Minh tiếp thu kinh nghiệm xây dựng nhà nước trong lịch sử Việc Nam: Tư tưởng xây dựng nhà nước việt Nam được phản ánh trong các sử lớn của dân tộc: Đại việt sử ký toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí ; Trong những bộ luật nổi tiếng như Bộ luật Hồng Đức (đời Lê) Các bộ luật sách nói trên phản ánh những tư tưởng pháp quyền. Lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời đã hình thành nên những giá trị truyềnthống hết sức đặc sắc và cao quý của dân tộc Việt Nam, trở thành tiền đề tư tưởng,lý luận xuất phát hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Người viết Việt Nam quốc sử diễn ca để giáo dục và vận động nhân dân, trong đó có nói đến các triều đại việt Nam trong lịch sử. 2. Hồ Chí Minh nghiên cứu các kiểu nhà nước trong lịch sử: a. Nhà nước thực dân phong kiến. Hồ Chí Minh vạch trần bản chất vô nhân đạo , chỉ rõ cái bản chất cái gọi là “ công lý” mà thực dân, đế quốc thi hành ở các xứ “bảo hộ”. Năm 1919, Hồ Chí Minh gửi đến hội nghị VécXây bản yêu sách cảu nhân dân An Nam đòi các quyền tự do tối thiểu cho dân tộc mình. Đây là văn kiện pháp lý đầu tiên đặt vấn đề kết hợp khăng khít quyền tự quyết của dân tộc với quyền tự do, dân chủ của nhân dân. b. Nhà nước dân chủ tư bản Người coi nhà nước tư sản Mỹ, Pháp là sản phẩm của “ những cuộc cách mạng không đến nơi ”, vì ở đó chính quyền vẫn ở trong tay của một số ít người chỉ phục vụ lợi ích chủ yếu cho người giàu- một xã hội bất bình đẳng 5
  8. c. Nhà nước Xô viết. Người gọi Nhà nước Xô viết là kết quả của cuộc cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 - cuộc cách mạng “đến nơi”, đã “phát đất ruộng cho dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền ra sức tổ chức kinh tế mới, để thực hành chủ nghĩa thế giới đại đồng d. Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác – Lênin Hồ Chí Minh nghiên cứu vấn đề Nhà nước trong chủ nghĩa Mác – Lênin. Hồ Chí Minh đã nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề nhà nước, bản chất của nhà nước chuyên chính vô sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tiêu biểu của sự thành công là sự ra đời của nhà nước Xô Viết cho nên chủ nghĩa Mác-Lênin là đỉnh cao của trí tuệ loài người và là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất của tư tưởng Hồ Chí Minh. II. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ 1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ Dân chủ là khát vọng muôn đời của con người. Quan niệm về dân chủ được diễn đạt qua 2 mệnh đề: “Dân là chủ” và “Dân làm chủ” Dân là chủ: nói đến vị thế của dân. Dân làm chủ: đề cập đến năng lực và trách nhiệm của dân. Cả hai đi đôi với nhau, thể hiện vị trí, vai trò, quyền và trách nhiệm của dân. 2. Dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội Dân chủ thể hiện ở việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân, thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong đó lĩnh vực chính trị là quan trọng nhất nổi bật nhất và được biểu hiện tập trung trong hoạt động của nhà nước (chế độ chính trị) 6
  9. Dân chủ còn biểu hiện ở phương thức tổ chức xã hội: là phải có cấu tạo quyền lực xã hội mà ở đó người dân cả trực tiếp lẫn gián tiếp qua dân chủ đại diện, một hệ thống chính trị do “dân cử ra” và “do dân tổ chức nên” (chính quyền) Nguồn gốc, lực lượng tạo ra quyền hành là nhân dân. Đó là quan điểm gốc để Người coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng công cuộc đổi mới, xây dựng, kháng chiến kiến quốc là trách nhiệm và công việc của dân. HCM xem dân chủ như lý tưởng phấn đấu của các dân tộc và nó không dừng lại với tư cách như một thiết chế xã hội của một quốc gia mà nó còn có cả ý nghĩa biểu thị mối quan hệ quốc tế hòa bình giữa các dân tộc. 3. Thực hành dân chủ a. Xây dựng và hoàn thiện chế độ dân chủ rộng rãi Ngày 2- 9-1945 Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó có các quyền về dân chủ được gắn liền với đất nước độc lập, tự do, hạnh phúc. Dân chủ mới được thể hiện và bảo đảm trong đạo luật cơ bản nhất là Hiến pháp (1946, 1959) Hồ Chí Minh chú trọng đảm bảo quyền lực của các giai cấp, tầng lớp, các cộng đồng dân tộc trong thể chế chính trị: + Đối với giai cấp công nhân + Đối với nông dân + Đối với tầng lớp trí thức + Đặc biệt quan tâm tới vấn đề giải phóng phụ nữ, để phụ nữ bình đẳng với nam giới. + Đề cao vai trò làm chủ đất nước của thanh thiếu niên. b. Xây dựng các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội vững mạnh để bảo đảm dân chủ trong xã hội 7
  10. Đảng trở thành hạt nhân chính trị của toàn xã hội và là nhân tố tiên quyết để bảo đảm tính chất dân chủ của xã hội. Do đó dân chủ trong Đảng trở thành yếu tố quyết định tới trình độ dân chủ của toàn xã hội. Nhà nước thể hiện chức năng quản lý xã hội của mình qua việc bảo đảm thực thi ý chí của GCCN và nhân dân lao động đối với sự phát triển của đất nước. Nhà nước thể chế hóa toàn bộ bản chất dân chủ của chế độ Các tổ chức mặt trận và đoàn thể nhân dân thể hiện quyền làm chủ và tham gia quản lý xã hội. Tất cả các tổ chức đó đều có một mục tiêu chung là đạt tới trình độ dân chủ cao, dân chủ XHCN đó cũng là động lực cơ bản nhất để các giai cấp, tầng lớp trong xã hội phấn đấu. III. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA DÂN DO DÂN VÀ VÌ DÂN Gồm bốn nội dung cơ bản sau: 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh chú ý khảo cứu lựa chọn ra một kiểu nhà nước mới cho Việt Nam để xây dựng sau khi cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản thành công. Nhà nước đó phải đại biểu quyền lợi "cho số đông người" và Hồ Chí Minh đã chủ trương xây dựng một Nhà nước công nông binh thể hiện trong Chánh cương vắn tắtcủa Đảng khi thành lập Đảng đầu năm 1930. Trải qua thực tế các cao trào cách mạng ở Việt Nam, về sau, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng ở Việt Nam một nhà nước Dân chủ Cộng hòa, một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, nhà nước của dân, do dân, vì dân. Trong bài báo Dân vận (năm 1949), Hồ Chí Minh khẳng định: Nước ta là nước dânchủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính 8
  11. quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Quan điểm về nhà nước của dân, do dân, vì dân, chúng ta thấy trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở những nội dung cơ bản sau đây: Nhà nước của dân Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là xác lập tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Trong 24 năm làm chủ tịc nước, Hồ Chí Minh đã lãnh đạo soạn thảo hai bản Hiến pháp, đó là HP năm 1946 và HP năm 1959, chẳng hạn như : Điều 1: HP 1946 khẳng định: “ Tất cả mọi quyền bính trong nước đều là cuả toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Điều 32: HP 1946 “ Mọi việc liên quan đến vận mệnh dân tộc, quốc gia sẽ đưa ra dân bàn bạc giải quyết”. Thực chất đó là chế độ trưng cầu ý dân, một hình thức dân chủ được đề ra khá sớm ở nước ta. Nhân dân lao động làm chủ Nhà nước thì dẫn đến một hệ quả là nhân dân có quyền kiểm soát nhà nước, cử tri bầu ra các đại biểu, ủy quyền cho các đại biểu đó bàn và quyết định những vấn đề quốc kế dân sinh. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước ta là nước thuộc địa nửa phong kiến dưới sự cai trị của thực dân Pháp, do vậy nhân dân không được tham gia vào công việc của chính quyền, chính quyền bù nhìn khi đó do thực dân Pháp dựng lên. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Một trong những nhiệm vụ cấp bách lúc này là phải tổ chức xây dựng bộ máy nhà nước để quản lý xã hội và ban hành Hiến pháp để thể chế hoá đường lối lãnh đạo của Đảng. Bởi vậy, ngày 6-1-1946 nhân dân cả nước đã tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội và Quốc hội khoá 1 hình thành với 333 đại biểu. Tiếp sau đó, một nhiệm vụ quan trọng của Quốc hội là xây dựng bản 9
  12. Hiến pháp của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Đến ngày 9-11-1946, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên. Hiến pháp 1946 khẳng định chế độ chính trị ở Việt Nam là Dân chủ cộng hoà; tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo. Một trong những biểu hiện của chế độ dân chủ đó là quy định người dân có quyền tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội. Đây thuộc về vấn đề dân chủ đại diện bên cạnh chế độ dân chủ trực tiếp. Quyền làm chủ và đồng thời cũng là quyền kiểm soát của nhân dân thể hiện ở chỗ nhân dân có quyền bãi nhiễm những đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nào nếu những đại biểu đó tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Hồ Chí Minh nêu lên quan điểm dân là chủ và dân làm chủ. Dân là chủ có nghĩa là xác định vị thế của dân, còn dân làm chủ có nghĩa là xác định quyền, nghĩa vụ của dân. Trong nhà nước của dân, với ý nghĩa đó người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, được tự do sống và làm việc theo khả năng của mình trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật cho phép. Bằng thiết chế dân chủ, nhà nước phải có trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của dân, để cho dân thực thi quyền làm chủ của mình trong hệ thống quyền lực của xã hội. Quyền lực của nhân dân được đặt ở vị trí tối thượng. Điều đó có ý nghĩa thực tế, nhắc nhở những người lãnh đạo, những người đại biểu của nhân dân làm đúng chức trách và vị thế của mình, không phải là đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, “cậy thế” với dân, “quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân”. Một nhà nước như thế là một nhà nước tiến bộ trong bước đường phát triển của nhân loại. Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa do Hồ Chí Minh khai sinh ngày 2-9-1945 chính là Nhà nước tiến bộ chưa từng có trong lịch sử Việt Nam, bởi vì đó là Nhà nước của dân, nhân dân có quyền quyết định mọi công việc của đất nước. Nhà nước do dân. Nhà nước của dân nhà nước do dân xây dựng nên, do dân ủng hộ, dân làm chủ. Các bộ ban ngành của Chính phủ do dân bầu ra, nhân dân là 10
  13. người tổ chức nên các cơ quan Nhà nước từ Trung Ương đến địa phương thống qua thực hiện chế độ tổng tuyển cử phổ thông, trực tiếp, bỏ phiếu kín bầu các đại biểu xứng đáng vào các cơ quan quyền lực nhà nước Tài chính của Chính phủ do dân đóng góp, đường lối lãnh đạo, cơ cấu tổ chức của nhà nước do dân góp ý xây dựng. Các hoạt động của Nhà nước do dân kiểm soát. Người khẳng định chân lý đó: “Gốc có vững cây mới bền Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” “Trong bầu trời không có gì quý bằng quần chúng nhân dân.Trong thế giới không có gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của quần chúng nhân dân”. Sự hình thành của cách mạng đều gắn với vai trò của quần chúng nhân dân lao động. Thực tế lực lượng của nhân dân rất lớn, khả năng của nhân dân là phi thường. Trong mọi vấn đề của cách mạng, nếu có dân là có tất cả, ngược lại không có dân thì thất bại trong tầm tay. “Dễ mười lần không dân cũng chịu Khó trăm lần dân liệu cũng xong” Chính vì vậy Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh nhiệm vụ của người cách mạng là làm cho dân hiểu, làm cho dân giác ngộ đê nâng cao được trách nhiệm làm chủ, nâng cao được trách nhiệm chăm lo xây dựng nhà nước của mình. Hồ Chí Minh còn nhắc nhở: Tất cả các cơ quan nhà nước đều phải dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân. “Nếu chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi chính phủ”. Nhà nước có nghĩa vụ với công dân đồng thời có những quyền theo pháp luật để thực thi công quyền mà nhân dân giao phó; ngược lại công dân vừa có quyền, đồng thời có nghĩa vụ công dân với nhà nước. Người viết: “Những khi dân dùng đầy tớ bảo vệ cho mình thi phải giúp đỡ, nếu chính phủ sai thì phải phê bình, phê bình không có nghĩa là chửi”. Nhà nước vì dân. 11
  14. Nhà nước vì dân là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân, ngoài ra không còn bất cứ một lợi ích nào khác.Trong tư tưởng HCM, Nhà nước dân chủ nhân dân là Nhà nước phục vụ nhân dân, đem lại lợi ích cho dân. Mọi hoạt động của chính quyền phải nhằm mục tiêu mang lại quyền lợi cho nhân dân và lấy con người làm mục tiêu phấn đấu lâu dài, như Hồ Chủ Tịch từng nêu rõ trách nhiệm của Nhà nước trước hết là nhằm thoả mãn các nhu cầu thiết yếu nhất của nhân dân, trong đó phải: “Làm cho dân có ăn Làm cho dân có mặc Làm cho dân có chỗ ở Làm cho dân có học hành”. Nhà nước quan tâm, chăm lo cho đời sống của nhân dân bằng cách hướng dẫn nhân dân chăm lo thoả mãn các nhu cầu, lợi ích của mình, chứ không phải làm thay dân. Nhà nước vì dân là một nhà nước trong sạch, không có bất kì một đặc quyền, đặc lợi nào, Nhà nước đó phải có các đường lối, chủ trương và các chính sách đều phải phục vụ cho lợi ích của dân. Trên tinh thần đó Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Mọi đường lối chính sách đều chỉ nhằm đưa lại quyền lợi cho dân; việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm; việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng cố gắng tránh. Bên cạnh đem lại lợi ích cho dân, chăm lo mọi mặt đời sống nhân dân, Nhà nước phải biết kết hợp, điều chỉnh các loại lợi ích khác nhau giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, các bộ phận dân cư để luôn được mọi người dân ủng hộ, xây dựng. Và đặc biệt quan trọng là để phục vụ tốt nhân dân, Nhà nước phải thật sự liêm khiết, trong sạch, tránh quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi 12
  15. Dân là gốc của nước, Hồ Chí Minh luôn luôn tâm niệm: phải làm cho dân có ăn, phải làm cho dân có mặc, phải làm cho dân có chỗ ở, phải làm cho dân được học hành. Cả cuộc đời Người “ chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân”. Hồ Chí Minh viết “ Khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào trốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo – là vì mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền, ủy thác cho tôi gánh việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng – cũng vì mục đích đó” . Một nhà nước vì dân, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là từ chủ tịch nước đến công chức bình thường đều phải làm công bộc, làm đày tớ cho nhân dân chứ không phải “làm quan cách mạng” để “đè đầu cưỡi cổ nhân dân” như dưới chề độ thực dân. Ngay như chức vụ chủ tịch nước của mình, Hồ Chí Minh cũng quan niệm là do dân ủy thác cho và như vậy phải phục vụ nhân dân, tức là làm đày tớ cho nhân dân. Hồ Chí Minh phục vụ nhân dân, tức là làm đày tớ cho dân. Hồ Chí Minh nói: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh, phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải cố sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”. Nhà nước của dân, do dân, vì dân, là mục tiêu xuyên suốt cả cuộc đời hoạt động và lãnh đạo của Người. Ngay từ năm 1927, trong tác phẩm Đường cách mệnh, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “ Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì phải làm cho đến nơi, nghĩa là cách mệnh rồi trao quyền cho dân chúng số nhiều chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới dân chúng mới được hạnh phúc. 13
  16. 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của nhà nước - Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Nhà nước là một phạm trù lịch sử, nó chỉ ra đời và tồn tại khi giai cấp và đấu tranh giai cấp xuất hiện, do đó, nhà nước là sản phẩm của một xã hội có giai cấp, nó bao giờ cũng mang bản chất một giai cấp nhất định, không có một nhà nước nào là phi giai cấp, không có nhà nước đứng trên giai cấp. Như vậy không phải lịch sử nhân loại xuất hiện là có nhà nước ngay và nhà nước không phải tồn tại mãi mãi. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước ta được coi là Nhà nước của dân, do dân, vì dân nhưng bản chất giai cấp của Nhà nước ta là bản chất giai cấp công nhân. Vì: Một là, Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Điều này được thể hiện: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân. Việc xác định bản chất giai cấp công nhân của nhà nước là một vấn đề rất cơ bản của Hiến pháp. Lời nói đầu của bản Hiến pháp năm 1959 khẳng định: Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo. Trong quan điểm cơ bản xây dựng một Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, một nhà nước thể hiện tính chất nhân dân rộng rãi, Hồ Chí Minh vẫn nhấn mạnh nòng cốt của nhân dân là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và trí thức do giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức thích hợp. Nói đến phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là nói đến cách lãnh đạo cho phù hợp với từng thời kỳ. Trong thời kỳ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch nước, đất nước ta phải vừa tiến hành kháng chiến chống giặc ngoại xâm, giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, vừa lãnh đạo nhân dân xây dựng chế độ mới. Do đó, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ta thời kỳ đó không giống với những thời 14
  17. kỳ sau này. Song, trong tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn có những vấn đề cơ bản về phương thức lãnh đạo của Đảng chung cho các thời kỳ. Đó là: Đảng lãnh đạo bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật, chính sách, kế hoạch. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên của mình trong bộ máy, cơ quan nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra. Hai là, bản chất giai cấp của Nhà nước ta thể hiện ở tính định hướng xã hội chủnghĩa của sự phát triển của đất nước. Điều này đã được thể hiện ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời ngày 2-9-1945 trong bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh. Ba là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta thể hiện ở nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồ Chí Minh rất chú ý đến tính dân chủ trong tổ chức và hoạt động của tất cả bộ máy, cơ quan nhà nước, nhấn mạnh đến việc phát huy cao độ dân chủ, đồng thời phát huy cao độ tập trung. Nhà nước phải tập trung thống nhất quyền lực để tất cả mọi quyền lực vào tay nhân dân. - Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân, tính dân tộc Hồ Chí Minh là người giải quyết rất thành công mối quan hệ giữa các vấn đề giai cấp - dân tộc trong xây dựng Nhà nước Việt Nam mới. Hồ Chí Minh đã giải quyết hài hòa, thống nhất giữa bản chất giai cấp với tính nhân dân, tính dân tộc và được biểu hiện rõ trong những quan điểm sau: Nhà nước ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của rất nhiều thế hệ người Việt Nam từ quá trình dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX dân tộc Việt Nam rơi vào khủng hoảng đường lối cách mạng. Trong cuộc đấu tranh trường kỳ chống thực dân Pháp của dân tộc ta, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của các nhà cách mạng tiền bối rất oanh liệt tô thắm cho truyền thống yêu nước 15
  18. chống ngoại xâm của dân tộc nhưng độc lập, tự do cho dân tộc vẫn chưa trở thành hiện thực. Từ ngày 3-2-1930 Đảng ta ra đời thì sự lớn mạnh của giai cấp công nhân với đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam đã vượt qua được tất cả các hạn chế và đã lãnh đạo thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 đấu tranh giành chính quyền, lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Tính thống nhất của nó còn biểu hiện ở chỗ Nhà nước ta bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm cơ bản. Bản chất của vấn đề này là ở chỗ, Hồ Chí Minh khẳng định lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của toàn dân tộc là một. Nhà nước ta không những thể hiện ý chí của giai cấp công nhân mà còn thể hiện ý chí của nhân dân và của toàn dân tộc. Trong thực tế, Nhà nước ta đã đứng ra làm nhiệm vụ của cả dân tộc giao phó, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển tiến bộ của thế giới. Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội rồi đi tới chủ nghĩa cộng sản là con đường mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định cũng là sự nghiệp của chính Nhà nước ta. 3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ Hồ Chí Minh đã sớm thấy được tầm quan trọng của pháp luật trong quản lý xã hội. Điều này thể hiện trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam do Người ký tên là Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Vécxây (Pháp) năm 1919. Sau này, khi trở thành người đứng đầu Nhà nước Việt Nam mới, Hồ Chí Minh càng quan tâm sâu sắc hơn việc xây dựng và điều hành nhà nước một cách có hiệu quả bằng pháp quyền. Một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ được Hồ Chí Minh chú ý xây dựng thể hiện trên những điểm sau đây: 16
  19. a. Xây dựng một Nhà nước hợp hiến Chỉ một ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh đã đề nghị tổ chức tổng tuyển cử càng sớm càng tốt để lập Quốc hội rồi từ đó lập ra Chính phủ và các cơ quan, bộ máy chính thức khác của Nhà nước mới. Cuộc Tổng tuyển cử được tiến hành thắng lợi ngày 6-1-1946 với chế độ phổ thông đầu phiếu và lần đầu tiên trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam cũng như lần đầu tiên ở Đông Nam châu Á, tất cả mọi người dân từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, dân tộc, đảng phái, tôn giáo đều đi bỏ phiếu bầu những đại biểu của mình vào trong Quốc hội. Ngày 2 - 3 - 1946, Quốc hội Khóa I đã họp Phiên đầu tiên lập ra các tổ chức, bộ máy và các chức vụ chính thức của Nhà nước. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Chính phủ liên hiệp đầu tiên. Đây chính là Chính phủ có đầy đủ giá trị pháp lý để giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề đối nội và đối ngoại ở nước ta. b. Quản lý nhà nước bằng pháp luật và chú trọng đưa pháp luật vào trong cuộc sống Quản lý nhà nước là quản lý bằng bộ máy và bằng nhiều biện pháp khác nhau nhưng quan trọng nhất là quản lý bằng hệ thống luật, trong đó quan trọng bậc nhất là Hiến pháp - đạo luật cơ bản của nước nhà. Các bản Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 đã để lại dấu ấn đậm nét những quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất, thiết chế và hoạt động của Nhà nước mới. Từ năm 1919, Hồ Chí Minh đã đề cập vấn đề "thần linh pháp quyền" trong đời sống xã hội hiện đại. Có Hiến pháp và pháp luật nhưng không đưa được vào trong cuộc sống thì xã hội cũng sẽ bị rối loạn. Dân chủ đích thực bao giờ cũng đi liền với kỷ cương, phép nước, tức là đi liền với thực thi Hiến pháp và pháp luật. Suốt cả thời kỳ giữ trọng trách Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh luôn luôn chăm lo xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa để bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân. Chính bản thân Hồ Chí Minh là một tấm gương 17
  20. sáng về sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Người tự giác khép mình vào kỷ luật, vào việc gương mẫu chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Sống và làm việc theo pháp luật đã trở thành nền nếp, thành thói quen, thành lối ứng xử tự nhiên của Hồ Chí Minh. "Thần linh pháp quyền" là sức mạnh do con người và vì con người. Do vậy, Hồ Chí Minh bao giờ cũng đòi hỏi mọi người phải hiểu và tuyệt đối chấp hành pháp luật, bất kể người đó giữ cương vị nào. Người cho rằng công tác giáo dục pháp luật cho mọi người, đặc biệt cho thế hệ trẻ, trở nên cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng một nhà nước pháp quyền, bảo đảm mọi quyền và nghĩa vụ công dân được thực thi trong cuộc sống. Trong việc thực thi pháp luật, có quan hệ rất lớn tới trình độ dân trí của nhân dân, vì vậy, Hồ Chí Minh chú trọng tới vấn đề nâng cao dân trí, phát huy tính tích cực chính trị của nhân dân, làm cho nhân dân có ý thức chính trị trong việc tham gia công việc của chính quyền các cấp. Làm tốt nghĩa vụ công dân cũng tức là thực hiện nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước, biết thực hành dân chủ. c. Tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của Nhà nước đủ đức và tài Để xây dựng một Nhà nước pháp quyền vững mạnh, vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Nói một cách tổng quát nhất về yêu cầu đối với đội ngũ này là vừa có đức vừa có tài, trong đó đức là gốc; đội ngũ này phải được tổ chức hợp lý, có hiệu quả. Đi vào những mặt cụ thể, chúng ta thấy Hồ Chí Minh nêu lên những yêu cầu sau đây về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức: Một là: Tuyệt đối trung thành với cách mạng. Đây là yêu cầu đầu tiên cần có đối với đội ngũ này. Cán bộ, công chức phải là những người kiên cường bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Nhà nước. Hồ Chí Minh nhấn mạnh lòng trung thành đó phải được thể hiện hàng ngày, hàng giờ, trong mọi lĩnh vực công tác. 18
  21. Hai là: Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ. Chỉ với lòng nhiệt tình không thôi thì chưa đủ và cùng lắm chỉ phá được cái xấu, cái cũ mà không xây được cái tốt, cái mới. Yêu cầu tối thiểu là đội ngũ này phải hiểu biết công việc của mình, biết quản lý Nhà nước, do vậy, phải được đào tạo và tự mình phải luôn luôn học hỏi. Hồ Chí Minh là người mạnh dạn sử dụng những công chức của chế độ cũ phục vụ cho chính quyền cách mạng và nhiều người trong số họ đã trở thành những người có công lớn đối với chế độ mới, đồng thời Người chú trọng đào tạo, bồi dưỡng những cán bộ, công chức mới. Hồ Chí Minh đã ký nhiều sắc lệnh về công chức, trong đó có những quy định cụ thể về tiêu chuẩn cán bộ tư pháp. Ngay trong thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 76 ban hành Quy chế công chức nêu rõ công chức là người giữ một nhiệm vụ cụ thể trong bộ máy nhà nước dưới sự lãnh đạo tối cao của Chính phủ. Sắc lệnh cũng nêu lên cách thức và nội dung thi tuyển để bổ nhiệm vào các ngạch, bậc hành chính trong bộ máy chính quyền. Ba là: Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Hồ Chí Minh luôn luôn chủ trương xây dựng mối quan hệ bền chặt giữa đội ngũ cán bộ, công chức với nhân dân. Đội ngũ cán bộ, công chức là những người ăn lương từ nguồn ngân sách của Nhà nước mà nguồn ngân sách này do dân đóng góp. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh nhắc nhở mọi cán bộ, công chức không được lãng phí của công; phải sẵn sàng phục vụ nhân dân, luôn luôn nêu cao đạo đức cách mạng, sẵn sàng hy sinh quyền lợi cá nhân mình cho Tổ quốc, lấy phục vụ cho quyền lợi chính đáng của nhân dân làm mục tiêu cho hoạt động của mình. Đặc biệt, phải chống bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu, phải luôn luôn gần dân, hiểu dân và vì dân. Cán bộ, công chức xa dân, quan liêu, hách dịch, cửa quyền đối với nhân dân đều dẫn đến nguy cơ làm suy yếu Nhà nước, thậm chí làm biến chất Nhà nước ta. Bốn là: Cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là trong những tình huống khó khăn, 19
  22. "thắng không kiêu,bại không nản". Đó là những người có ý thức sẵn sàng làm "công bộc", làm "đày tớ" cho dân, những người cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm việc với tinh thần đầy sáng tạo. Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ, công chức phải luôn luôn tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, luôn luôn "có chí tiến thủ", luôn luôn học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt, học ở trường, học ở trong cuộc sống, trong công tác, học ở thầy, học ở bạn; phải thường xuyên tự phê bình và phê bình. 4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước trong sạch vững mạnh, hoạt động có hiệu quả a. Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước Xây dựng một Nhà nước của dân, do dân, vì dân không bao giờ tách rời với việc làm cho Nhà nước luôn luôn trong sạch, vững mạnh. Điều này luôn luôn thường trực trong tâm trí và hành động của Hồ Chí Minh. Khi nước nhà vừa giành được độc lập, chính quyền cách mạng còn non trẻ cũng như lúc cách mạng chuyển giai đoạn, Hồ Chí Minh càng chú ý hơn bao giờ hết đến việc bảo đảm cho sự trong sạch, vững mạnh của các cấp chính quyền, bởi vì thường những lúc đó cách mạng đứng trước những thử thách rất gay gắt. Chỉ một tháng sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh gửi thư cho ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng nêu rõ sáu căn bệnh cần đề phòng: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Người nhắc nhở: "Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm những lầm lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung. Vì hạnh phúc của dân tộc, vì lợi ích của nước nhà, mà tôi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những chữ "công bình, chính trực" vào lòng". Trong quá trình lãnh đạo xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí 20
  23. Minh thường đề cập đến những tiêu cực sau đây và nhắc nhở mọi người đề phòng và khắc phục: Đặc quyền, đặc lợi. Xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh đòi hỏi phải tẩy trừ những thói cậy mình là người trong cơ quan chính quyền để cửa quyền, hách dịch với dân, lạm quyền, đồng thời để vơ vét tiền của, lợi dụng chức quyền để làm lợi cho cá nhân mình, làm như thế tức là sa vào chủ nghĩa cá nhân. Tham ô, lãng phí, quan liêu. Hồ Chí Minh coi tham ô, lãng phí, quan liêu là "giặc nội xâm", "giặc ở trong lòng", thứ giặc nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Người phê bình những người "lấy của công dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức". Quan điểm của Hồ Chí Minh là: "Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạnđồng minh của thực dân và phong kiến Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám". Ngày 27- 11-1946, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh ấn định hình phạt tội đưa và nhận hối lộ với mức từ 5 năm đến 20 năm tù khổ sai và phải nộp phạt gấp đôi số tiền nhận hối lộ. Ngày 26-1-1946, Hồ Chí Minh ký lệnh nói rõ tội tham ô, trộm cắp của công là tội tử hình. Lãng phí là một căn bệnh mà Hồ Chí Minh lên án gay gắt và chính bản thân Người là tấm gương sáng trong việc tích cực thực hành chống lãng phí trong cuộc sống hàng ngày và trong công việc, vì Người biết quý từng đồng xu, bát gạo do dân đóng góp cho hoạt động của bộ máy nhà nước. Lãng phí ở đây được Hồ Chí Minh xác định là lãng phí sức lao động, lãng phí thời giờ, lãng phí tiền của. Liên quan đến bệnh tham ô, bệnh lãng phí là bệnh quan liêu, một căn bệnh không những có ở cấp Trung ương, ở cấp tỉnh, ở cấp huyện mà còn có ở cả cấp cơ sở. Hồ Chí Minh phê bình những người và các cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem xét khắp mọi mặt, không vào sâu vấn đề. Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểmtra đến nơi đến chốn thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà 21
  24. không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững Thế là bệnhquan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy, muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu. "Tư túng", "chia rẽ", "kiêu ngạo". Những hành động này gây mất đoàn kết, gây rối cho công tác. Hồ Chí Minh kịch liệt lên án tệ kéo bè, kéo cánh, bà con bạn hữu mình, không tài năng gì cũng kéo vào chức này chức nọ. Người có tài có đức, nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài. Quên rằng việc là việc công, chứ không phải việc riêng gì dòng họ của ai. Trong chính quyền, còn chia rẽ, không biết cách làm cho mọi người hòa thuận với nhau, còn có người "bênh vực lớp này, chống lại lớp khác". Ngoài cậy thế, có người còn kiêu ngạo, "tưởng mình ở trong cơ quan Chính phủ là thần thánh rồi Cử chỉ lúc nào cũng vác mặt quan cách mạng", làm mất uy tín của Chính phủ. b. Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa quản lý xã hội bằng pháp luật với phát huy những truyền thống tốt đẹp trong đời sống cộng đồng người Việt Nam được hình thành qua hàng nghìn năm lịch sử. Trong việc thực thi quyền hạn và trách nhiệm của mình với cương vị là Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh bao giờ cũng thể hiện là một người sáng suốt, thống nhất hài hòa giữa lý trí và tình cảm, nghiêm khắc, bao dung, nhân ái nhưng không bao che cho những sai lầm, khuyết điểm của bất cứ ai. Kỷ cương, phép nước thời nào cũng cần và đều phải được áp dụng cho bất cứ ai. Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh dùng sức mạnh uy tín của mình để cảm hóa những người có lỗi lầm, kéo họ đi với cách mạng, giáo dục những người mắc khuyết điểm để họ tránh phạm pháp. Dưới 22
  25. ngọn cờ đại nghĩa, bao dung của Hồ Chí Minh, nhiều người vốn rất mặc cảm với cách mạng đã không "sẩy chân" phạm pháp hoặc không đi theo kẻ địch. IV. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA DÂN,DO DÂN,VÌ DÂN Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nhà nước của dân, do dân và vì dân là tư tưởng độc đáo, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển những quan điểm tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Lênin, sự tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới vào xây dựng chính quyền nhà nước kiểu mới do nhân dân làm chủ. Ngay sau ngày giành được chính quyền về tay nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã chủ trương xây dựng Hiến pháp, biểu hiện đầu tiên của một Nhà nước pháp quyền. Hiến pháp năm 1946 là Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước Việt Nam mới, phù hợp với giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của nước ta, là một mốc son quan trọng đánh dấu quá trình bắt đầu xây dựng một nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Theo Hồ Chí Minh: “Dân là chủ, Chính phủ là đầy tớ” 1. Đây là một trong những vấn đề hết sức căn bản trong xây dựng nhà nước kiểu mới, Nhà nước pháp quyền của dân, do nhân dân làm chủ, mà Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất do nhân dân trực tiếp bầu ra. Trong thư gửi Uỷ ban hành chính các bộ, huyện, làng xã ngày 17/10/1954, Người viết: “Cơ quan Chính phủ từ toàn quốc đến các làng, xã là đầy tớ của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung chứ không phải đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật”. “Dân là chủ thì Chính phủ là đầy tớ, nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ đi”. Mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân được thể hiện cụ thể trong mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ. Nhà nước có nghĩa vụ với công dân đồng thời có những quyền theo quy định của pháp luật để thực thi công quyền mà nhân dân giao 23
  26. phó, ngược lại công dân vừa có quyền, đồng thời có nghĩa vụ đối với Nhà nước. Người viết: “Những khi dân dùng đầy tớ để bảo vệ cho mình thì phải giúp đỡ, nếu Chính phủ sai thì phải phê bình, phê bình không có nghĩa là chửi”. Đối với cán bộ, đảng viên, nhân viên nhà nước, Người gọi đó là “công bộc” của dân, cách gọi ấy thật là dân dã mà sâu sắc. Trên tinh thần đó, Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có những quy định rất cụ thể về quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước, đồng thời cũng dành toàn bộ Chương V với 34 điều (từ Điều 49 đến Điều 82) quy định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Trong trước tác của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở Đảng, Nhà nước ta phải thực hành dân chủ. Người khẳng định: Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ, Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Nhà nước phải thể hiện ý chí quyền lực của dân, mưu cầu hạnh phúc cho dân, phấn đấu đem lại lợi ích cho dân, thoả mãn những nhu cầu hợp lý của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Đó là một Nhà nước dân chủ và tiến bộ. Những lợi ích và nhu cầu đó lại phải được thực hiện một cách công bằng, dân chủ, văn minh, chính đáng, bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa phát triển các cá nhân với mục tiêu phát triển xã hội. Đồng thời, lại phải chăm lo giải quyết những vấn đề bức xúc hàng ngày của dân tộc, của đất nước. Quan điểm về quyền làm chủ đất nước và xã hội của nhân dân đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đề cập hết sức đầy đủ và sâu sắc. Đến nay, các quan điểm này của Người vẫn giữ nguyên giá trị và có ý nghĩa thực tiễn 24
  27. to lớn đối với nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì vậy, vấn đề cốt tử là làm sao để nhân dân thực sự làm chủ vận mệnh của đất nước. Để quyền làm chủ của nhân dân được bảo đảm và thực thi trong cuộc sống, cần xây dựng và hoàn thiện thể chế, phương thức, cơ chế thực hiện. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, phải xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN), trong đó nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng Nhà nước pháp quyền và các tổ chức xã hội do chính họ lập ra và quản lý. Theo đó, nhân dân vừa là người cử ra chính quyền các cấp, vừa là người quản lý, kiểm tra, kiểm soát toàn bộ hoạt động của bộ máy quyền lực đó. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ đất nước và xã hội của nhân dân, Đảng ta đã đúc kết thành cơ chế, chính sách quản lý, điều hành đất nước: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Cơ chế đó phát huy được tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị - xã hội, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, đáp ứng đòi hỏi của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Bước vào thời kỳ mới, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN, việc xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân phải tiếp tục quán triệt sâu sắc tư tưởng và học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về quyền làm chủ đất nước và xã hội của nhân dân. Bởi, đây là nền tảng tư tưởng, lý luận quan trọng trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền kiểu mới do nhân dân làm chủ. Để tiếp tục quán triệt, học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, cần nắm chắc, thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau: Trước hết, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân phải nắm vững mục tiêu là tôn trọng, bảo vệ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tất cả vì độc lập dân tộc, dân chủ, tự do, hạnh phúc của nhân 25
  28. dân. Điều 2 Hiến pháp 1992 khẳng định rõ: Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quan điểm trên càng có ý nghĩa quan trọng trong xây dựng một Nhà nước pháp quyền dân chủ nhân dân - do nhân dân làm chủ, nhất là khi các thế lực thù địch đang lợi dụng chiêu bài “dân chủ” và “nhân quyền” cũng như các thủ đoạn khác để vu cáo, xuyên tạc chế độ dân chủ, chống phá cách mạng nước ta. Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân”7. Tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền phải quán triệt sâu sắc quan điểm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Vấn đề là phải thống nhất nhận thức về mối quan hệ giữa toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân với quyền lực của Nhà nước. Xét về mặt chính trị - xã hội thì nhân dân là cội nguồn của quyền lực Nhà nước, là chủ thể quản lý đất nước. Quyền lực của Nhà nước pháp quyền chính là quyền lực do nhân dân làm chủ trao cho Nhà nước, thay mặt cho nhân dân quản lý xã hội. Xét về mặt quản lý thì Nhà nước là một tổ chức công quyền thực thi quyền lực. Dựa vào hệ thống pháp luật và bộ máy của mình, Nhà nước thực hiện việc điều chỉnh các quá trình xã hội theo ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Vì vậy, giữa quyền lực Nhà nước với quyền làm chủ của nhân dân là thống nhất, không có sự đối lập về mục tiêu và lợi ích. Pháp luật là ý chí của nhân dân lao động, thể hiện sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội. Những quyền tự do, dân chủ, nghĩa vụ của nhân dân được đưa lên thành luật, và Nhà nước chịu trách nhiệm trước nhân dân, bảo đảm và bảo vệ những quyền lợi, nghĩa vụ ấy của nhân dân. Như vậy, việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN thực hiện công việc quản lý đất nước bằng pháp luật, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, đòi hỏi Nhà nước phải tự đặt mình dưới pháp luật, tổ chức và hoạt động 26
  29. theo pháp luật. Đồng thời, phải nâng cao dân trí, động viên, giáo dục và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân sử dụng quyền làm chủ, quyền lực của mình tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Hai là, phát huy quyền làm chủ của nhân dân để nhân dân thực sự thực hiện quyền làm chủ đất nước của mình. Vấn đề quan trọng hiện nay là phải tìm ra và thực thi những cơ chế, hình thức dân chủ hữu hiệu để nhân dân thật sự quyết định những công việc trọng đại của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, trước hết và trực tiếp ở cơ sở. Thực tiễn cuộc sống đã chỉ rõ, chừng nào và khi nào Nhà nước chưa tạo đủ điều kiện để nhân dân thực hiện phát huy quyền làm chủ của mình ở cơ sở, hoặc để xảy ra dân chủ cực đoan, dân chủ quá trớn, gây trở ngại cho hoạt động điều hành và quản lý của bộ máy chính quyền cơ sở, thì chừng đó quyền lực Nhà nước ở địa phương bị suy giảm, cản trở việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Trong quá trình phát huy dân chủ XHCN, để nhân dân thực sự thực hiện quyền lực và quyền làm chủ đất nước của mình, cần nắm vững bản chất và nội dung của vấn đề dân chủ. Dân chủ ở nước ta là dân chủ XHCN, là nền dân chủ của khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương; quyền lợi đi đôi với trách nhiệm và nghĩa vụ; dân chủ được cụ thể hóa thành pháp luật, dân chủ trong khuôn khổ pháp luật; khắc phục tình trạng vô kỷ luật, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để phá hoại chế độ XHCN. Đồng thời, tuyệt đối không mơ hồ trước những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch đối với các giá trị văn hoá dân chủ XHCN. Cần phải kiên quyết chống lại những luận điệu xuyên tạc, mị dân, núp dưới chiêu bài “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền” tư sản để xuyên tạc những giá trị dân chủ XHCN mà Đảng và nhân dân ta đã xây dựng, vun đắp trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. 27
  30. Ba là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong các cơ quan quyền lực của tổ chức nhà nước về phẩm chất chính trị, đạo đức, phong cách, năng lực quản lý, năng lực chuyên môn để họ thực sự là “người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”, toàn tâm, toàn ý phục vụ lợi ích của nhân dân. Đây là nhân tố “cốt lõi” bảo đảm sự thành công của nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì nhân dân. Theo đó, cùng với việc nâng cao bản lĩnh chính trị, giáo dục đạo đức cách mạng, phải đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức nhà nước có đủ tri thức về chính trị học, xã hội học, về hệ thống chính trị, pháp luật, quản lý hành chính nhà nước, về tổ chức lao động khoa học và tâm lý quản lý Thực hiện tiêu chuẩn hóa đội ngũ công chức theo các ngạch, bậc; tổ chức tốt việc đào tạo và thi tuyển, sát hạch, sàng lọc, bổ nhiệm theo chức danh. Bốn là, tăng cường vai trò lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, đáp ứng được những đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng XHCN thời kỳ mới. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua khẳng định và được xác định tại Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 1992. Thực tiễn đã chỉ rõ: sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là điều kiện để bảo đảm Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, bảo đảm cho hệ thống chính trị có đủ khả năng đưa đất nước ta từng bước vượt qua nguy cơ, thách thức, vững vàng đi theo con đường cách mạng XHCN. Để nhân dân thực sự phát huy được quyền làm chủ thì vấn đề cốt tử hiện nay phải ra sức xây dựng, củng cố hệ thống chính trị một cách đồng bộ; đặc biệt là đổi mới và chỉnh đốn Đảng, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và xã hội, đồng thời xây dựng kiện toàn bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN vững mạnh, trong sạch, có hiệu lực, hiệu quả cao. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới, Nhà nước của dân, do dân và vì dân vẫn mãi mãi có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn sâu sắc. 28
  31. Ngày nay, trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta nhất định thực hiện thắng lợi tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn, phấn đấu xây dựng một Nhà nước Việt Nam XHCN là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Vận dụng tư tưởng của bác vào thời đại đổi mới hiện nay Bác đã phân tích sâu sắc 5 vấn đề cơ bản có thể tóm tắt như sau: -Cần phải : Huấn luyện nghề nghiệp, huấn luyện chính trị, huấn luyện văn hóa, huấn luyện lý luận cho cán bộ. - Biết dạy cán bộ và dùng cán bộ: Phải biết rõ cán bộ, cất nhắc cán bộ cho đúng, khéo dùng cán bộ, phân phối cán bộ cho hợp lý, giúp cán bộ cho đúng, giữ gìn cán bộ. -Lựa chọn cán bộ: Phải chọn những người rất trung thành và hăng hái trong công việc, luôn quan hệ mật thiết với dân chúng, có thể phụ trách giải quyết các vấn đề trong những hoàn cảnh khó khăn, luôn giữ kỷ luật. - Có 5 cách đối với cán bộ: Chỉ đạo, nâng cao, kiểm tra, cải tạo và giúp đỡ cán bộ. -Mấy điểm lớn trong chính sách cán bộ: Hiểu biết cán bộ, khéo dùng cán bộ, cất nhắc cấn bộ, thương yêu cán bộ, phê bình cán bộ”(8). Năm vấn đề trên đã thể hiện được tầm nhìn bao quát của Bác về công tác cán bộ: Trước hết, để có được đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên môn thì cần phải thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về cả chính trị, văn hoá và lý luận; Công việc tiếp theo là phải lựa chọn cán bộ cho đúng với năng lực chuyên môn và khéo dùng cán bộ. Tuy nhiên như thế vẫn chưa đủ mà Người còn nhấn mạnh trong quá trình sử dụng cán bộ công việc cần thiết là phải thường xuyên chỉ đạo, nâng cao, kiểm tra, cải tạo và giúp đỡ cán bộ. Điều này có thể rất đúng khi nhận định rằng trong nhiều năm qua, công việc này không được coi trọng dẫn đến sự sa sút nghiêm trọng về phẩm chất của một bộ phận cán bộ, công chức, làm suy yếu bộ máy nhà nước và làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với nhà nước. 29
  32. những sai phạm tại tập đoàn Vinashin Tuy nhiên, những thiếu sót đó đã được Đảng và nhà nước ta nhận ra và đã có nhiều giải pháp khắc phục, điều này đã thể hiện rất rõ trong đường lối và chính sách của Đảng và nhà nước ta trong những năm gần đây. Để phát triển các quan điểm và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân, Đảng và nhà nước ta đã đề ra những mục tiêu cụ thể để củng cố, xây dựng và hoàn thiện nhà nước ta như sau: Hoàn thiện hệ thống thể chế hành chính, cơ chế, chính sách phù hợp với thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trước hết là các thể chế về kinh tế, về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính. Xóa bỏ về cơ bản các thủ tục hành chính mang tính quan liêu, rườm rà, gây phiền hà cho nhân dân; hoàn thiện các thủ tục hành chính mới theo hướng công khai, đơn giản và thuận tiện cho dân. Rà soát lại chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm rõ ràng của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước, tránh chồng chéo về chức năng, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả. 30
  33. Công tác cải cách hành chính ngày một đơn giản hơn cho nhân dân Cải cách hành chính theo hướng chuyển một số dịch vụ vốn trước đây do nhà nước đảm nhiệm cho các thành phần kinh tế khác và thực hiện phân cấp mạnh mẽ cho các địa phương, coi trọng hành chính địa phương. Nền hành chính nhà nước phải được tổ chức thành một hệ thống ổn định, hoạt động thông suốt, có kỷ cương nghiêm ngặt, cơ quan hành chính và cán bộ, công chức nhà nước chịu sự giám sát chặt chẽ của nhân dân, áp dụng các cơ chế, biện pháp hữu hiệu ngăn ngừa các hành vi mất dân chủ, tự do, tùy tiện, quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân. Đến năm 2010 đội ngũ cán bộ, công chức có số lượng cơ cấu hợp lý, chuyên nghiệp, hiện đại. Tuyệt đại bộ phận cán bộ, công chức có phẩm chất tốt và đủ năng lực thực thi công vụ, tận tụy phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước và phục vụ nhân dân. Tóm lại, trong không khí Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ X, kỷ niệm 116 năm sinh nhật Bác, việc suy ngẫm lại những quan điểm, tư tưởng của Bác và đối chiếu với những vấn đề nổi cộm, bức xúc hiện nay như: công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng; làm trong sạch bộ máy nhà nước; đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống quan liêu tham nhũng là việc làm có ý nghĩa. Chỉ có thể lấy lại được lòng tin trong nhân dân khi chúng ta kiên quyết đấu tranh để 31
  34. loại bỏ tư tưởng bóc lột, ăn bám; đầu óc tham lam, vụ lợi; chủ nghĩa ích kỷ, cá nhân trong bộ máy nhà nước. Trong 61 năm qua, quá trình không ngừng đổi mới và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nhất là khoảng thời gian 20 năm trở lại đây chính là sự vận dụng sáng tạo Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước Việt Nam XHCN để dần dần từng bước chúng ta sẽ có một nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân. V. KẾT LUẬN Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng nhiệt huyết, hết lòng vì nước, vì dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một di sản tinh thần hết sức sâu sắc, cao cả không chỉ góp phần to lớn và quyết định vào thắng lợi của dân tộc trong những năm qua mà còn có ý nghĩa chỉ đạo lâu dài cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, nhân dân ta. Tổng hợp những giá trị tinh thần đó là tư tưởng Hồ Chí Minh. "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh 32
  35. tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta". TƯ LIỆU THAM KHẢO ( Trang báo về đảng cộng sản) (Thư viện học liệu mở việt Nam) Tàilieu.vn (Trang chia sẻ tài liệu trực tuyến) 33
  36. Tham khảo Hồ Chí Minh toàn tập. 34