Luận văn Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
luan_van_nghien_cuu_tiep_nhan_van_de_doc_tho_duong_o_viet_na.doc
Nội dung text: Luận văn Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -1
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam MỤC LỤC 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 5 3. NHIỆM VỤ, MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI 9 4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI TƯ LIỆU 10 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 10 6. BỐ CỤC KHÓA LUẬN 10 7. QUY ƯỚC TRÌNH BÀY 11 GIẢNG NGHĨA THƠ ĐƯỜNG 12 1.1. GIẢNG NGHĨA TỲ BÀ HÀNH TRONG SGK PT 14 1.2. “GIẢNG NGHĨA” PHONG KIỀU DẠ BẠC TRONG SGK PT 27 1.3. LÝ GIẢI HIỆN TƯỢNG GIẢNG NGHĨA TRONG SGK PT 35 GIẢI NGHĨA THƠ ĐƯỜNG TRONG 43 2.1. NGHIÊN CỨU PHÊ BÌNH TỲ BÀ HÀNH Ở VN 44 2.2. NGHIÊN CỨU PHÊ BÌNH PHONG KIỀU DẠ BẠC Ở VN 51 2.3. LÝ GIẢI HIỆN TƯỢNG GIẢI NGHĨA TRONG NGHIÊN CỨU, PHÊ BÌNH Ở VIỆT NAM 56 KẾT LUẬN 64 TÀI LIỆU THAM KHẢO 70 Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -2
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong một thời gian rất dài, khi nghiên cứu văn chương, người ta luôn kiếm tìm lời giải cho tác phẩm từ tác giả. Bởi vậy mà, trong tiềm thức của rất nhiều người hôm nay vẫn luôn tự tin khẳng định rằng tác phẩm Baudelaire cho thấy sự suy sụp của con người Baudelaire, tranh Van Gogh là sản phẩm trong những phút thăng hoa của hội chứng điên, nhạc Tchaikovsky là ẩn ức của những tội lỗi, sám hối day dứt nhất Không phủ nhận tác giả có một vai trò quan trọng hình thành nên tác phẩm song đó không phải là đối tượng quan trọng nhất và càng không phải là yếu tố duy nhất để ta xoáy vào khi nghiên cứu văn học. Bởi lẽ nói như Trương Đăng Dung rằng “tác phẩm văn học như là quá trình”, tác phẩm được phôi thai từ sự chiếm lĩnh nghệ thuật về hiện thực của nhà văn và kết quả là người đọc có được một văn bản nghệ thuật. “Nhưng sự sống của nó chỉ thực sự bắt đầu khi trải qua quá trình chiếm lĩnh thẩm mỹ về tác phẩm của người đọc. Văn bản chỉ trở thành tác phẩm khi có người đọc xuất hiện” [12, 108]. Đó là lí do vì sao từ cổ chí kim, không ít nhà văn, nhà thơ sáng tác nên hàng triệu tác phẩm nhưng không phải tất cả số đó vượt qua được dòng chảy nghiệt ngã của thời gian để đứng vững cùng bạn đọc. Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy đã có một nhận xét rất chính xác rằng: “Khoa học văn chương trong hai thế kỷ gần đây có ba phát hiện quan trọng: Thế kỷ XIX phát hiện ra tác giả, nửa đầu thế kỷ XX: tác phẩm, nửa cuối thế kỷ XX là độc giả. Mối quan hệ ba ngôi này đã tạo ra một nhất thể, một chỉnh thể văn học mà tùy theo từng thời điểm và từng phương pháp tiếp cận người ta tôn một ngôi nào đó là trung tâm nhưng vẫn không đặt ra ngoài mối quan hệ với hai ngôi kia.”[50, 28]. Đề cao vị thế của độc giả, tiếp cận tác phẩm từ góc độ người đọc là một bước tiến của lí luận văn học thế giới cũng như bước đầu ở Việt Nam. GS. TS Trần Đình Sử cũng đã đưa ra quan điểm của ông Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -3
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam rằng “về tác phẩm văn học, nhất thiết phải có khái niệm tác phẩm văn học trên cơ sở văn bản mà lí luận văn học hiện hành còn thiếu. Ở đó văn bản chỉ được coi như cái vỏ ngôn ngữ bên ngoài. Tác phẩm văn học phải được cắt nghĩa theo lí thuyết tiếp nhận hiện đại”. Cho dù tác giả đến tận hôm nay vẫn thống trị trong những bộ văn học sử, trong các tiểu sử văn học, các cuộc phỏng vấn trên báo chí, thậm chí ngay trong ý thức của giới văn chương thì dần dần địa vị ấy đã và đang bị lật đổ. Từ khi đưa ngôn ngữ lên vị trí trung tâm, giới nghiên cứu đã đề cao sự viết, triệt tiêu tác giả và khôi phục lại vị thế cho độc giả. Nhà văn Mỹ Brecht đã từng ví von rất ngộ nghĩnh là: nếu ví văn học là một sân khấu thì tác giả bị thu lại thành một hình thù tí xíu ở tít đầu kia của sân khấu văn học. Nếu như lí luận tiếp nhận truyền thống với tư duy lí luận văn học tiền hiện đại chỉ nhấn mạnh đến tác giả thì đến tư duy lí luận văn học hiện đại đã nhận ra vai trò quan trọng của văn bản nghệ thuật như là trung tâm tạo nghĩa. “Tác giả trở thành xác chết và sự viết bắt đầu” (R. Barthes). Những hoạt động ý thức của nhà văn không thuộc về tác phẩm mà chỉ là cơ sở tồn tại của tác phẩm. Tác phẩm chỉ thực sự được đắp da đắp thịt thông qua quá trình đọc “có chủ ý” của người tiếp nhận. Với khám phá hết sức mới mẻ, mĩ học tiếp nhận đã đưa việc nghiên cứu tác phẩm văn học lên một nấc thang mới. Nếu cứ cày xới từ góc độ tác giả, ngôn ngữ văn bản thì cánh đồng văn chương tưởng chừng không còn điều gì mới mẻ để khai phá. Từ đây, mở ra một chân trời tiếp nhận mới, tiếp cận tác phẩm từ nhiều chiều hơn tựa như khối rubic lập phương. Sự tồn tại của tác phẩm không thể hình dung được nếu thiếu sự tham dự của người đọc. Không có tác phẩm văn học nếu không có người đọc, một nền văn học không chỉ là phép cộng giản đơn của tác giả, tác phẩm mà còn phải kể tới mối quan hệ tác giả - tác phẩm, đội ngũ dồi dào những người tiếp nhận chúng cùng thời cũng như thế hệ mai sau Quá trình tiếp nhận tác phẩm chính là sự đối thoại liên tục với tác giả trên mọi lĩnh vực, độc giả cũng là người đồng sáng tạo. Lý luận tiếp nhận đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -4
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam trọng trong lịch sử tác phẩm văn học. Theo dõi đời sống lịch sử của các tác phẩm văn học, dễ nhận thấy tiếp nhận văn học ngày càng chiếm lĩnh tác phẩm một cách sâu sắc hơn, toàn diện hơn, cụ thể hơn trong nhiều tương quan và bình diện hơn. Tiếp nhận là một vấn đề rất mới mẻ và hấp dẫn, nó mở ra những chiều sâu khám phá sức sống nội tại của một tác phẩm văn học, đặc biệt là đối với những tác phẩm kinh điển, có sức sống mạnh mẽ trong lịch sử văn học. Người ta luôn tự hỏi: Cái gì làm nên sức sống tiềm tàng mãnh liệt ấy? Tác giả là một cây bút đầy tài năng? Thông điệp của nó ẩn chứa nhiều vấn đề hấp dẫn mang tính thời đại? Và độc giả mọi thế hệ chính là chiếc cầu nối kì diệu đã tiếp nhận, cất cánh cho những áng văn chương ấy vươn xa hơn. Bởi vậy mà có người đã nói không ngoa rằng: Lịch sử văn học là lịch sử của những cách đọc. Từ thời đại này sang thời đại khác, từ người này qua người khác sẽ nới rộng dần ra không gian thẩm mỹ của tác phẩm. Tác phẩm mở ra vô vàn những cái nhìn khác lạ. Thơ Đường là một trong những áng văn chương mang trong mình sức sống tiềm tàng như vậy. Thơ Đường là một dạng thơ nổi tiếng bởi sự thâm trầm, bí ẩn. Để hiểu hết được những tầng bậc ý nghĩa của nó không phải là một điều giản đơn. Nói như Will Durant thì: “Khắp thế giới đâu thấy được một thứ thơ nào so sánh được với thứ thơ đó về cách diễn tả thanh nhã, tế nhị, về những tình cảm dịu dàng điều độ, về sự bình dị và cô đọng của một câu ngắn thôi mà bao trùm được tư tưởng cân nhắc kĩ lưỡng.” Có phải thế chăng mà cho đến nay, nhiều văn bản Đường thi vẫn như những nguồn suối không cạn, có sức hút lớn, mời gọi bạn đọc khám phá. Thơ Đường là tinh hoa của văn học Trung Quốc, là thành quả rực rỡ của một thời đại văn chương một đi không trở lại, không chỉ với Trung Hoa mà với toàn thể thế giới. Ảnh hưởng của nó đến với văn hóa, văn chương các nước trên thế giới cũng như khu vực rất sâu nặng. Hàng nghìn năm đã trôi qua nhưng việc tiếp nhận - diễn dịch thơ Đường vẫn không hề bị lãng quên. Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -5
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị và Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế cũng là hai trong số đó. Bạch Cư Dị vốn được coi là ba đỉnh cao của thơ Đường cùng với Lý Bạch và Đỗ Phủ, tuy nhiên, còn có nhiều nhà thơ, tuy thơ của họ để lại không nhiều nhưng chỉ đôi ba bài cũng đủ khiến họ trở thành nhà thơ bất hủ. Trương Kế là một người như vậy. Có thể nói rằng, nếu kể tên mười nhà thơ tiêu biểu của thơ ca cổ điển Trung Quốc thì có thể không có Trương Kế, nhưng nếu kể tên mười thi phẩm xuất sắc của thơ cổ điển Trung Quốc thì khó mà bỏ qua được Phong Kiều dạ bạc. Nền văn học nghệ thuật Việt Nam đã đón nhận và lưu giữ tác phẩm Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị và Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế, đồng thời cũng đã từng có những sự tiếp thu ảnh hưởng rất sâu sắc từ tác phẩm đó. Không ít những sáng tác thơ ca Việt Nam đã được khởi xướng từ dư âm của Tỳ bà hành hay ý thơ thâm trầm, tĩnh lặng của cảnh chùa Hàn San trong Phong Kiều dạ bạc. Bài thơ từng được đưa vào giảng dạy trong chương trình phổ thông nên khá quen thuộc với học sinh - sinh viên. Khi lí luận phê bình văn học đã đạt được những thành tựu mới thì việc tiếp nhận tác phẩm văn học nói chung, tiếp nhận Tỳ bà hành và Phong Kiều dạ bạc nói riêng càng được quan tâm nhiều hơn. Như thế, Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế và Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị là hai tác phẩm hết sức tiêu biểu cho Đường thi, hơn nữa tư liệu nghiên cứu về tiếp nhận hai tác phẩm này đã được thực hiện khá đầy đủ trong các niên luận, khóa luận của những người đi trước. Chúng tôi muốn trên nền những tư liệu đã có của những người nghiên cứu trước để qua Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị và Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế tìm hiểu và lí giải một vài vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam. Khóa luận của chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu hai cách đọc, hai hướng tiếp nhận chính bên cạnh rất nhiều cách tiếp nhận phong phú khác đó là việc “giảng nghĩa” thơ Đường trong sách giáo khoa phổ thông và việc giải nghĩa thơ Đường trong nghiên cứu - phê bình để từ đó có cái nhìn tổng quát, nhận diện và lí giải vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam. Ở một khía cạnh nào đó có Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -6
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam thể gợi mở những chân trời của mĩ học tiếp nhận, nhìn nhận tác phẩm ở góc độ người đọc. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Có thể nói nghiên cứu quá trình tiếp nhận văn học ở góc độ người đọc là một vấn đề khá mới mẻ ở nước ta. Cụ thể, trong khóa luận của chúng tôi có nghiên cứu một vài vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam nói chung, tiêu biểu qua hai trường hợp Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị và Phong kiều dạ bạc của Trương Kế lại là một vấn đề ít gặp. Viết về quá trình tiếp nhận thơ Đường ở Việt Nam có thể kể tới Luận án phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn của Nguyễn Tuyết Hạnh với đề tài: Vấn đề dịch thơ Đường ở Việt Nam (TP Hồ Chí Minh, 1996). Luận án gồm có ba chương: Chương đầu tiên nói về lịch sử dịch thơ Đường ở Việt Nam với việc nêu ra truyền thống dịch thuật ở Việt Nam, truyền thống dịch thơ Đường và tổng kết lịch sử dịch thơ Đường ở Việt Nam. Chương hai đưa ra vấn đề những phát sinh do quan hệ giao tiếp văn hóa nhiều đời giữa Việt Nam và Trung Quốc trong việc dịch thơ Đường, chủ yếu là những thuận lợi và vấn đề thể loại chuyển dịch. Chương cuối tác giả viết về nghệ thuật dịch thơ Đường cần phải có sự đồng cảm giữa dịch giả và tác giả, ngôn ngữ thơ Đường trên góc độ dịch và chủ yếu người viết đi sâu nghệ thuật dịch thơ Đường trên góc độ thủ pháp. Có thể nói, luận án của Nguyễn Tuyết Hạnh đã nghiên cứu được rất chi tiết sự vận động và phát triển của việc dịch thơ Đường qua các giai đoạn lịch sử, sự vận động của thể loại chuyển dịch từ buổi ban đầu đến nay. Người đọc có một cái nhìn sâu hơn về vấn đề dịch thuật nói chung cũng như dịch thơ Đường nói riêng ở Việt Nam. Mà dịch thuật thực chất cũng chính là một khía cạnh của quá trình tiếp nhận nơi độc giả, của mĩ học tiếp nhận. Tuy nhiên, luận án mới chỉ nghiên cứu việc dịch thơ Đường theo thủ pháp nghệ thuật thơ Đường và mới chủ yếu quan tâm những bài thơ có số câu dưới mười sáu khi bàn về việc dịch theo thủ pháp. Thơ Đường là một loại thơ khá đặc biệt bởi nó có một sinh mệnh dịch thuật dài lâu ở Việt Nam. Cho tới hôm nay Đường thi vẫn được sự quan tâm Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -7
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam của không ít độc giả. Bởi vậy mà nó trở thành đối tượng lí tưởng cho nhiều sự khảo sát. Nghiên cứu thơ Đường, mà cụ thể là sự tiếp nhận Đường thi ở Việt Nam là một vấn đề hấp dẫn và có thể khai thác sâu sắc, tuy nhiên những công trình nghiên cứu vấn đề này vẫn còn quá ít ỏi. Nhiều khóa luận tốt nghiệp của sinh viên trường ĐH KHXH & NV Hà Nội đã đề cập tới vấn đề này. Ngay từ khi nước nhà còn trong giai đoạn chiến tranh khốc liệt, năm 1965, Phạm Đình Lợi dưới sự hướng dẫn của thầy Ngô Xuân Anh đã viết đề tài: Điểm qua việc dịch thuật thơ Đường ở Việt Nam. Khóa luận có bốn phần: ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận gồm ba phần nội dung chính: Phần hai: Mấy nét về thơ Đường và giá trị của nó. Phần ba: Điểm qua việc dịch thuật thơ Đường ở Việt Nam với ranh giới phân chia hai giai đoạn là Cách mạng tháng Tám lịch sử. Khóa luận tuy ngắn và mới chỉ bước đầu điểm qua trên những nét lớn nhất, qua những dịch giả tên tuổi nhưng đã cung cấp cho bạn đọc nhiều nguồn tư liệu quý giá về vấn đề dịch thuật thơ Đường ở Việt Nam. Năm 1972, Nguyễn Trọng Nuôi viết khóa luận tốt nghiệp với tên đề tài là Tìm hiểu việc dịch thuật và nghiên cứu Đường thi ở Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Khóa luận gồm hai phần chính: Phần đầu: Vài nét về thơ Đường. Phần hai đi sâu nghiên cứu việc dịch thuật và khảo cứu Đường thi ở Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám với việc chia ra ba ý lớn: dịch thuật, khảo cứu và nhận định chung. Có thể nói, tuy trong hoàn cảnh đất nước khó khăn, nguồn tư liệu khan hiếm, còn ghi chép tay nhưng khóa luận đã tổng hợp được tài liệu và bước đầu có những lời bình giá nhất định về hiện tượng nghiên cứu. Nghiên cứu vấn đề tiếp nhận rộng hơn ở cả lĩnh vực giới thiệu, nghiên cứu và phiên dịch và đối tượng nghiên cứu rộng hơn hẳn là thơ ca Trung Quốc (không giới hạn ở Đường thi), Nguyễn Thị Mỹ Linh đã viết khóa luận tốt nghiệp với đề tài: Tình hình giới thiệu, nghiên cứu và phiên dịch thơ ca Trung Quốc ở Việt Nam từ trước tới nay. (năm 1991, Lê Đức Niệm hướng dẫn). Khóa luận gồm có sáu phần lớn, mỗi phần đi theo lịch sử phát triển của thơ Đường từ thời Tiên Tần; Tần Hán, Ngụy Tấn, Nam Bắc triều; thơ ca đời Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -8
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam Đường; thơ ca Tống Nguyên; thơ ca Minh Thanh và Cận đại; thơ ca Trung Quốc thời Hiện đại. Trong đó tác giả lại đi vào tìm hiểu quá trình giới thiệu, nghiên cứu cũng như đặt ra vấn đề ai là người đầu tiên dịch thơ Đường? Người đầu tiên khảo cứu thơ Đường? Khóa luận đã cung cấp cho độc giả nguồn tư liệu khảo sát rất chi tiết và đáng quý về thơ ca Trung Quốc đã được tiếp nhận ở Việt Nam. Các công trình trên được nghiên cứu từ các cách tiếp cận văn học so sánh (nghiên cứu ảnh hưởng) hoặc từ góc độ phiên dịch học, chứ chưa quan sát đối tượng từ góc độ mỹ học tiếp nhận. Hiện nay chúng ta đang thực hiện công việc này một cách tập trung, ý thức về phương pháp cũng rất rõ ràng: cùng với mỹ học tiếp nhận được truyền bá ở Việt Nam, dẫn đến cách hiểu mới về tác phẩm văn học, từ đó mở rộng lĩnh vực nghiên cứu của văn học sử, công việc nghiên cứu của chúng ta vẫn là bám chắc trên mảnh đất văn học sử, song chúng ta đặt công việc của mình vào môi trường của văn hóa - văn học so sánh, chuyển từ nghiên cứu ảnh hưởng sang nghiên cứu tiếp nhận. Người đọc - văn bản đọc trở thành tư liệu nghiên cứu chính. Trong những năm gần đây, khi mĩ học tiếp nhận được mở rộng và được quan tâm nhiều hơn thì vấn đề này lại được lật lại và nghiên cứu sâu hơn. Dưới sự hướng dẫn của GV Phạm Ánh Sao, liên tiếp trong những năm 2006, 2007, 2008 là các niên luận, khóa luận tìm hiểu quá trình tiếp nhận thơ Đường tại Việt Nam thông qua một số trường hợp tiêu biểu. Năm 2006, Nguyễn Thu Hương có khóa luận: Tiếp nhận và diễn dịch Phong Kiều dạ bạc tại Việt Nam. Khóa luận gồm ba chương. Chương đầu nêu một số vấn đề về lí luận tiếp nhận văn học, chương hai tổng thuật quá trình giao lưu văn hóa và tiếp nhận văn học Trung Quốc tại Việt Nam. Chương chính tìm hiểu tiếp nhận và diễn dịch Phong Kiều dạ bạc tại Việt Nam. Người viết đã đưa ra một hướng tiếp cận mới với Phong Kiều dạ bạc. Có thể nói, khóa luận của Nguyễn Thu Hương đã đưa ra được những tri thức lí luận văn học nền tảng về tiếp nhận văn học cũng như những ghi chép đáng quý về sự xuất hiện, tiếp nhận tác phẩm Phong Kiều dạ bạc tại Việt Nam. Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -9
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam Cũng như khóa luận của Nguyễn Thu Hương, niên luận của Nguyễn Thị Hường: Vấn đề tiếp nhận Tỳ bà hành tại Việt Nam (năm 2007) đã cơ bản mô tả được những ghi chép, tìm tòi tư liệu kỹ lưỡng về quá trình tác phẩm đến Việt Nam và được tiếp nhận như thế nào theo thời gian. Niên luận gồm bốn phần chính: Thời điểm sớm nhất tiếp nhận văn bản tác phẩm Tỳ bà hành tại Việt Nam; Tỳ bà hành trên sách báo tạp chí đầu thế kỷ XX; vấn đề tuyển dịch nghiên cứu Tỳ bà hành tại Việt Nam từ 1940 đến nay; vấn đề tiếp nhận Tỳ bà hành trong các thể loại văn học nghệ thuật tại Việt Nam. Công trình nghiên cứu của Nguyễn Thị Hường tuy nhỏ nhưng là nguồn tư liệu đáng quý đã cho thấy được toàn cảnh quá trình tiếp nhận Tỳ bà hành tại Việt Nam trên nhiều phương tiện: sách báo, tạp chí, sách, giáo trình và tương ứng với nó là các cách đọc khác nhau. Những ghi chép của Nguyễn Thị Hường về vấn đề tiếp nhận Tỳ Bà hành tại Việt Nam là một sự tìm kiếm tư liệu đáng quý và đáng ghi nhận. Cùng năm 2007 có khóa luận tốt nghiệp của Mạnh Thị Minh nghiên cứu: Đường thi trong sách giáo khoa phổ thông ở Việt Nam. Với hai chương: chương một: quá trình Đường thi được đưa vào giảng dạy trong trường phổ thông ở Việt Nam và chương hai: Hướng dẫn giảng dạy Đường thi trong sách giáo khoa phổ thông ở Việt Nam, đây cũng là một công trình tỉ mỉ, cung cấp nhiều tư liệu rất có ích cho bạn đọc quan tâm đến vấn đề này. Năm 2008, Nguyễn Hồng Mơ tiếp tục vấn đề tiếp nhận khi làm niên luận nghiên cứu: Vấn đề tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam. Niên luận gồm ba chương: Chương một vấn đề dịch thuật Hoàng hạc lâu, chương hai: Vấn đề nghiên cứu Hoàng hạc lâu và chương ba: Từ tác phẩm đến tác phẩm. Như vậy, ta có thể thấy rằng việc nghiên cứu vấn đề tiếp nhận văn học, cụ thể là tiếp nhận Đường thi ở góc độ bạn đọc vẫn chưa có nhiều cây bút tham gia. Nghiên cứu văn học từ mĩ học tiếp nhận là một vấn đề khó và thực sự cần có nhiều thời gian. Trong khóa luận này, chúng tôi muốn tiếp tục phát triển, nghiên cứu sâu hơn vấn đề tiếp nhận thơ Đường, thông qua hai trường hợp tiêu biểu: Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế và Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị. Những niên luận, khóa luận đi trước quả thực là những phần tư liệu Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -10
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam rất quý báu để trên cơ sở đó, chúng tôi tìm hiểu, tổng hợp và sắp xếp theo hướng tìm hiểu của mình. Tuy nhiên hầu hết những niên luận, khóa luận trước mới chỉ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tổng hợp tư liệu, ghi chép dữ liệu quý báu về quá trình tiếp nhận các tác phẩm Đường thi chứ chưa lí giải sâu sắc được ý nghĩa của các cách tiếp nhận. Chúng tôi không có tham vọng hoàn thành được hết những phần việc rất có ích đó bởi đó là công việc cần nhiều thời gian và tư liệu. Như một câu danh ngôn được lưu truyền rất hay là: “cánh cửa đã mở nhưng còn phải đẩy”. Quả thực, khóa luận của chúng tôi cũng mang tính chất gần giống như vậy, tiếp nối và để ngỏ để bạn đọc nào quan tâm có thể tiếp tục tìm tòi và nâng cao hơn nữa, bởi mĩ học tiếp nhận cho tới hôm nay vẫn là một mảnh đất màu mỡ chờ người khai phá. 3. NHIỆM VỤ, MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI Nhiệm vụ của chúng tôi trong đề tài này là tìm hiểu quá trình tiếp nhận và diễn dịch Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế ở Việt Nam theo từng giai đoạn khác nhau, khảo sát mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể của quá trình tiếp nhận và diễn dịch văn bản, chỉ ra những chặng đường và đặc điểm tiếp nhận của mỗi thời kỳ, lý giải nguyên nhân và hệ quả của những cách tiếp nhận về hai tác phẩm ở từng đối tượng. Để rồi từ hiện tượng Tỳ bà hành, Phong Kiều dạ bạc nhận diện một số vấn đề đọc thơ Đường cũng như các tác phẩm văn học nước ngoài nói chung tại Việt Nam, góp phần mở rộng việc nghiên cứu tác phẩm nhìn từ góc độ tiếp nhận bởi lẽ mĩ học tiếp nhận vốn đang là một lĩnh vực còn hết sức mới mẻ và hấp dấn đối với những ai đam mê tìm hiểu văn bản từ góc độ người đọc. 4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI TƯ LIỆU Đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là tìm hiểu quá trình tiếp nhận và diễn dịch tác phẩm Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị và Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế ở Việt Nam. Tương ứng với đối tượng nghiên cứu đó, chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên cứu cũng chủ yếu tập trung ở hai văn bản tác phẩm Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -11
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam này. Trên cơ sở đó, cũng có những sự liên hệ nhất định với việc tiếp nhận một số tác phẩm thơ ca khác của Đường thi tại Việt Nam. Về phạm vi tư liệu của đề tài, chúng tôi chủ yếu dựa vào tư liệu thành văn bằng chữ Quốc ngữ từ đầu thế kỷ XX đến thời điểm này đã được các tác giả niên luận và khóa luận trước đó sưu tầm, giới thiệu trong công trình của mình. Đó là những nguồn tư liệu rất quý báu và giúp ích rất nhiều cho chúng tôi hoàn thành khóa luận này. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để thực hiện đề tài này, trên bình diện lý thuyết, chúng tôi tiếp cận đối tượng chủ yếu từ góc độ văn học so sánh và mĩ học tiếp nhận. Về các mặt thao tác khoa học cụ thể, chúng tôi chủ yếu sử dụng phương pháp mô tả, hệ thống hóa, thống kê, phân loại, chia giai đoạn nhằm khôi phục diện mạo và phác họa quá trình tiếp nhận và diễn dịch hai tác phẩm Tỳ bà hành, Phong Kiều dạ bạc, đồng thời cũng sử dụng phương pháp phân tích, so sánh - đối chiếu nhằm cắt nghĩa đặc điểm, tính chất và lí giải nguyên do của quá trình đó. 6. BỐ CỤC KHÓA LUẬN Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục ra, phần Nội dung của khóa luận bao gồm 2 chương: CHƯƠNG 1: GIẢNG NGHĨA THƠ ĐƯỜNG TRONG SÁCH GIÁO KHOA PHỔ THÔNG Ở VIỆT NAM 1.1 Giảng nghĩa Tỳ bà hành trong SGK PT. 1.2 Giảng nghĩa Phong Kiều dạ bạc trong SGK PT. 1.3 Lí giải hiện tượng giảng nghĩa trong SGK PT. CHƯƠNG 2: GIẢI NGHĨA THƠ ĐƯỜNG TRONG NGHIÊN CỨU PHÊ BÌNH Ở VIỆT NAM 2.1 Nghiên cứu phê bình Tỳ bà hành ở VN. Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -12
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam 2.2 Nghiên cứu phê bình Phong Kiều dạ bạc ở VN. 2.3 Lí giải hiện tượng giải nghĩa trong nghiên cứu phê bình ở VN. 7. QUY ƯỚC TRÌNH BÀY Khóa luận của chúng tôi được trình bày theo quy cách của Trường Đại học KHXH & NV Hà Nội quy định cho khóa luận tốt nghiệp. Sau trích dẫn tư liệu đều có ngoặc vuông ghi lần lượt: thứ tự tư liệu (theo Tư liệu tham khảo ở cuối Khóa luận), trang thứ bao nhiêu của tư liệu đó. Chú thích trực tiếp ở chân trang dành riêng cho việc giải thích từ ngữ, khái niệm Đối với tên tác phẩm văn học thời cổ đại Trung Quốc và Việt Nam, để tôn trọng nguyên tác và tiện tra cứu, chúng tôi sẽ phiên âm Hán Việt, đồng thời in nghiêng (riêng tác phẩm Tỳ bà hành và Phong Kiều dạ bạc là in nghiêng đậm). Nếu tên tác phẩm nằm trong công trình nghiên cứu thì chúng tôi sẽ in nghiêng đậm. Đối với tên các công trình nghiên cứu và các bài báo khoa học, chúng tôi cũng sẽ in nghiêng. Các thông tin về công trình và bài báo như xuất xứ, tên tạp chí, tên các nhà xuất bản chúng tôi sẽ ghi ngay bên cạnh. Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -13
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam NỘI DUNG CHÍNH CHƯƠNG 1 GIẢNG NGHĨA THƠ ĐƯỜNG TRONG SGK PT Ở VIỆT NAM Trong lịch sử văn minh nhân loại, không có một nước nào có thể tự hào là không hề vay mượn, tiếp thu một ít vốn liếng của các dân tộc khác. Quả thực, văn học ở nước nào cũng vậy, cũng cần có một sự tiếp nhận, giao lưu với các nền văn học khác, tối thiểu là với các quốc gia láng giềng xung quanh mình. Như Giáo sư Quý Tiện Lâm (Đại học Bắc Kinh) đã từng ví: “Nếu lấy dòng sông để so sánh thì dòng sông văn học Trung Quốc có lúc nước đầy, có lúc nước cạn nhưng chưa từng khô kiệt bao giờ. Nguyên nhân là vì có nước mới chảy vào. Những lần chảy vào có khi nhiều, khi ít. Nhiều nhất có hai lần: một lần nước từ Ấn Độ chảy sang, một là vì phương Tây chảy tới. Mà hai lần nước chảy vào này đều do người dịch khơi thông”. Có thể nói thơ Đường nói riêng cũng như văn học Trung Quốc nói chung là một trong những dòng chảy lớn hòa vào văn học dân tộc nước ta. Từ rất lâu, thơ Đường - tinh hoa của cả thế giới đã được các nhà dịch thuật chú ý, dày công tuyển chọn và dịch cho độc giả tiếp cận. Và không ai lại không đồng ý rằng: Tuổi thọ của một bản dịch tác phẩm văn học phụ thuộc rất nhiều vào tài năng của dịch giả. “Mỗi một dịch giả có trình độ đều là một nghệ sĩ” (R. Italiander). Nhưng một điều rất dễ nhận ra là tuy những tác phẩm Đường thi được dịch thuật và giới thiệu rất sớm ở Việt Nam nhưng phải một thời gian dài sau đó, nó mới được tuyển lựa vào sách giáo khoa phổ thông giảng dạy cho học sinh. Có thể nói, soạn sách giáo khoa cho chương trình phổ thông đến hôm nay vẫn không phải là một công việc đơn giản. Bởi lẽ để có được một bộ sách chuẩn, trở thành chương trình mẫu mực giúp cho việc tiếp thu, nhận thức của Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -14
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam học sinh được tốt cần phải có một đội ngũ biên soạn có tầm hiểu biết, trí tuệ và làm việc khoa học. Sách giáo khoa ở nước nào cũng vậy, nó “chứa đựng những tri thức cơ bản, chính xác nhất và được nhân loại tin cậy nhất” (GS. TS Nguyễn Thanh Hùng). Sách giáo khoa trong nhà trường là loại sách dành cho học sinh nghiên cứu và học tập dưới sự chỉ đạo của giáo viên. Sách giáo khoa bộ môn văn cũng không nằm ngoài những vai trò và định hướng đó. “Chương trình sách giáo khoa là căn cứ rõ nhất để nghiên cứu tìm hiểu vấn đề tiếp nhận văn học theo hướng chính thống trong nhà trường. Sự biến đổi của nội dung chương trình phản ánh mức độ thích ứng giữa thực tế giảng dạy với lí luận mới về tiếp nhận văn học.” [34, 5]. Đặc biệt là đối với những tác phẩm văn học nước ngoài được biên soạn và đưa vào giới thiệu cho học sinh nhằm giao lưu, mở mang tầm hiểu biết của các em về văn học, văn hóa các dân tộc khác. Đã được coi là chuẩn mực trong việc đưa đến cho học sinh những kiến thức cơ bản và hữu ích nhất, đương nhiên những tác phẩm văn học nước ngoài được đưa vào chương trình đều phải được chọn lựa kĩ càng, là những đỉnh cao của văn học các nước và tiêu biểu cho quá trình phát triển lịch sử văn học thế giới qua các thời đại. Cách đây gần 60 năm, theo tư liệu nghiên cứu của Mạnh Thị Minh trong khóa luận của mình, Dương Quảng Hàm là người đầu tiên đưa môn văn học Trung Quốc vào chương trình THPT. Ông là người đặt viên gạch đầu tiên cho công việc giảng dạy và học tập văn học Trung Quốc ở nước ta nói chung và thơ Đường nói riêng. Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị và Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế cũng là hai trong số rất nhiều những tác phẩm Đường thi đã được giới thiệu và giảng dạy trong chương trình THPT nước ta. Có thể ở hệ SGK này, nó được giảng chính (đọc thêm), sang hệ SGK khác, nó lại được xếp vào phần đọc thêm (giảng chính) hay đọc thêm bắt buộc Sự chuyển dịch của tác phẩm từ chỗ là bài được chọn giảng chính chuyển sang tác phẩm đọc thêm, hay đọc thêm bắt buộc đều phản ánh rất rõ sự chuyển biến về nhận thức và quan điểm của người Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -15
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam biên soạn chương trình. Trên đó là sự chi phối không nhỏ của các tư tưởng, quan điểm của ban chỉ đạo biên soạn chương trình, các chính sách mới đối với nền giáo dục. Nhưng qua đó, bạn đọc có thể nhận ra một số vấn đề đọc, “giảng nghĩa” trong SGK PT về hai tác phẩm này. Đây cũng là một khía cạnh của việc tiếp nhận văn học từ góc độ người đọc mà chúng tôi quan tâm. 1.1. GIẢNG NGHĨA TỲ BÀ HÀNH TRONG SGK PT Cũng như hầu hết các tác phẩm cổ điển Trung Quốc khác được giới thiệu ở Việt Nam, để xác định thời điểm sớm nhất tiếp nhận văn bản tác phẩm Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị tại Việt Nam quả là một vấn đề không hề đơn giản. Cho đến nay, giới nghiên cứu văn học vẫn chưa khẳng định được Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị đã đến Việt Nam chính xác tự bao giờ. Trên cơ sở tổng hợp cứ liệu sẵn có thì bản dịch Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị được phát hiện, bản khắc in năm 1881 là bản cổ nhất. Dù chưa biết rõ văn bản chữ Hán của Tỳ bà hành đã xuất hiện và được dịch ra chữ Quốc ngữ ở Việt Nam từ bao giờ nhưng theo những tài liệu đã có được trong tay, dự đoán văn bản chữ Hán của tác phẩm này đã đến với người Việt từ khá sớm. Bản dịch Tỳ bà hành được truyển tụng xưa nay, đã từng được coi là của Phan Huy Vịnh nhưng hiện nay đã được chứng minh là của Phan Huy Thực - thân phụ của Phan Huy Vịnh. Căn cứ vào thời gian Phan Huy Thực sống (1779- 1846) thì chúng ta có thể dự đoán: bản dịch Tỳ bà hành đã ra đời từ những năm đầu thế kỷ XIX. Điều này có liên quan đến luận điểm của Phan Văn Diêu: “Trong đời làm quan, Huy Thực đã ba lần lên xuống chức Thượng thư bộ Lễ. Vì lẽ đó, ông đã cảm thông sâu xa với Bạch Lạc Thiên mà phiên diễn Tỳ bà hành chăng?” Tới nay, bản dịch Tỳ bà hành có nhiều, song thành công nhất vẫn là bản dịch của Phan Huy Thực. Đây được coi là một trong hai bản dịch hay nhất trong lịch sử dịch thuật của nước ta bên cạnh bản dịch tác phẩm Chinh Phụ ngâm khúc của Đoàn Thị Điểm (nguyên tác của Đặng Trần Côn). Bản Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -16
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam dịch sử dụng thể thơ song thất lục bát- một thể thơ truyền thống của dân tộc có khả năng biểu cảm mạnh mẽ. Bản dịch hoàn hảo bởi nó giữ được đúng số câu và số chữ của nguyên tác (88 câu và 616 chữ), soạn giả Phan Huy Thực đã khéo léo trong việc sử dụng những tiếng đôi, những từ láy trong tiếng Việt, tăng sức gợi tả, gợi cảm. Quan trọng hơn nó đã thể hiện được tinh thần của nguyên tác, lột tả được cái “thần”, cái “nhã” của Tỳ bà hành nguyên gốc chữ Hán. Cho dẫu còn rất nhiều ý kiến khác nhau chỉ ra những thiếu sót của bản dịch này nhưng đến hôm nay, nó vẫn chứng tỏ sức sống mãnh liệt của mình trong nền văn học dân tộc. Ngay từ những năm đầu tiên khi Đường thi được đưa vào giới thiệu trong chương trình SGK PT, Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị đã được chọn lựa. Không những vậy, thi phẩm còn được đưa vào giảng chính dù dung lượng không nhỏ và sự tiếp cận thấu đáo tinh thần bài thơ không phải là một công việc giản đơn. Theo nghiên cứu của Mạnh Thị Minh, năm 1990, Đường thi chính thức được đưa vào giảng dạy trong chương trình PTTH thì cũng trong sách Văn 10, tập 2, phần văn học nước ngoài và lí luận văn học, NXB Giáo dục, năm 1990, do Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên, chúng tôi tìm được văn bản Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị được giới thiệu. Ở đây, nhà biên soạn chỉ đưa ra bản dịch của Phan Huy Vịnh, không có phần phiên âm chữ Hán và dịch nghĩa. Việc cho học sinh tiếp cận tác phẩm văn học nước ngoài qua văn bản dịch phần nào đã hạn chế tầm nhìn và tầm tiếp nhận của học sinh. Sách Văn 10 ngay phần giới thiệu văn bản dịch là phần Chú giải. Người soạn sách cho học sinh nắm rõ hơn những thông tin về tác giả Bạch Cư Dị một cách hết sức ngắn gọn, lời tựa của thi phẩm và những từ Hán Việt khó đối với học sinh. Tuy nhiên số lượng từ chú giải so với dung lượng của tác phẩm còn quá ít ỏi, chỉ bao gồm 11 từ khó. Để giáo viên và học sinh có sự định hướng trong việc tìm hiểu, tiếp nhận tác phẩm, người soạn đã đưa ra một hệ thống câu hỏi trong phần Hướng dẫn học bài. Có thể thấy được phần nào đó trong việc “giảng nghĩa” tác phẩm trong chương trình SGK PT, chúng tôi muốn trích Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -17
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam dẫn phần câu hỏi này để thấy được rõ hơn việc phân tích, tìm hiểu tác phẩm Tỳ bà hành : “1. Tóm tắt câu chuyện diễn ra trong Tỳ bà hành? (Song cần lưu ý, Tỳ bà hành chủ yếu vẫn là thơ trữ tình. Cốt truyện chỉ là phương tiện để nhà thơ biểu lộ cảm xúc). 2. Bài thơ dài đến 88 câu nên chỉ có thể tập trung phân tích đoạn miêu tả tiếng đàn lần hai của người ca nữ. Tuy vậy, muốn thấy hết cái hay của đoạn thơ này, cần nắm vững mối quan hệ giữa nó với các phần khác. Lúc đầu tác giả và người ca nữ hoàn toàn không quen biết nhau, nhờ tiếng đàn làm môi giới, hai người dần dần hiểu biết, thông cảm với nhau và đến cuối bài thơ, có thể nói tâm tư của hai con người đã hòa hợp làm một. 3. Hãy nêu những thành công của tác giả trong việc miêu tả tiếng đàn của người ca nữ. a. Người ca nữ đã đánh đàn 3 lần. Hãy nêu lên sự hợp lí trong việc phân bố mức độ miêu tả ở mỗi lần. (Lần đầu không thể tả cụ thể vì chỉ thoảng nghe ở xa. Lần thứ 3 tâm tư hai người đã hòa quyện vào nhau, tác giả không thể, không nỡ và cũng không cần miêu tả dài dòng.) b. Tác giả đã dùng những phương pháp nào để miêu tả tài nghệ của người ca nữ? (Miêu tả hiệu quả, tác dụng của tiếng đàn: miêu tả trực tiếp các yếu tố của âm nhạc- âm sắc, cường độ, cao độ, trường độ- bằng tỉ dụ, miêu tả dung nhan, động tác, miêu tả gián tiếp bằng cảnh sắc thiên nhiên) c. Tác giả đã tập trung miêu tả những thời điểm nào của quá trình diễn tấu bản nhạc? (Lúc vặn trục lên dây dạo qua đôi ba tiếng, lúc ngắt, lúc đến cao trào và lúc ngừng hẳn) d. Tại sao có thể nói 2 câu 17 và 18 là linh hồn của cả đoạn trích? Vì sao nhà thơ đã nhanh chóng trở thành kẻ “tri âm” của người ca nữ như vậy? e. Đoạn trích gợi cho ta liên tưởng tới đoạn nào trong Truyện Kiều của Nguyễn Du?”[4, 63- 64] Có thể thấy, trong phần Hướng dẫn đọc bài của người biên soạn nhằm giúp học sinh và giáo viên có những định hướng trong việc tiếp cận và tìm Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -18
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam hiểu đã đưa ra một hệ thống câu hỏi hết sức chi tiết, chủ yếu tập trung vào việc lột tả được cái thần thái kỳ diệu của tiếng đàn người kỹ nữ. Sau khi nêu câu hỏi, soạn giả không quên gợi ý cho học sinh tìm hiểu bài, gợi ý cách trả lời theo hướng mà họ đã định sẵn trong phần ngoặc đơn đi kèm. Đây là cách giảng nghĩa tỉ mỉ, cặn kẽ của người biên soạn- có thể thấy họ là những người có một tầm hiểu biết rộng về văn học Trung Quốc nói chung cũng như Đường thi và tác phẩm Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị nói riêng. Nó cho thấy rất rõ cách dạy và học thời kỳ những năm 1990. Đó là cách dạy theo lối gần như áp đặt một chiều, chưa khai thác được thực sự khả năng sáng tạo, chủ động của học sinh- đồng thời cũng là những chủ thể tiếp nhận. Mà sự chủ động ấy là hết sức cần thiết trong quá trình tiếp nhận một tác phẩm văn chương bất kỳ. Năm 1994, SGK đã có sự chuyển đổi, sách được phân chia làm hai ban: ban KHXH và ban KHTN và KT để tiện cho việc dạy và học của học sinh theo từng phân ban. Kiến thức được chọn lựa phù hợp với từng chuyên ngành riêng biệt. Văn học 10 (tập 2, ban KHXH, NXB GD năm 1994, tài liệu giáo khoa thực nghiệm, do Nguyễn Hoàng Tuyên, Lưu Đức Trung, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử biên soạn) vẫn chọn lựa Tỳ bà hành vào chương trình học của học sinh ban KHXH. Nhìn chung, những kiến thức về tác phẩm vẫn tương tự như SGK năm 1990 nhưng đã có thay đổi trong việc trình bày. Ngay sau nhan đề tác phẩm là phần chữ in nhỏ giới thiệu về tác giả Bạch Cư Dị, phần giới thiệu này có chi tiết hơn và dài hơn so với SGK năm 1990, đã có sự so sánh, đối chiếu với Đỗ Phủ, Lý Bạch để học sinh nắm bắt rõ hơn về hoàn cảnh sáng tác cũng như cảm hứng chủ đạo, tinh thần chung về tác phẩm mà mình sẽ được học. Như thế, trước khi đi sâu vào tác phẩm, học sinh đã có cái nhìn khái quát về Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị. Phần trích dẫn văn bản cho học sinh tiếp cận vẫn chỉ là văn bản dịch, đó là bản dịch thành công nhất trong những bản dịch Tỳ bà hành hiện nay của Phan Huy Vịnh (nay được cho là của Phan Huy Thực, thân phụ của Phan Huy Vịnh). Trong quá trình trích dẫn văn bản, người biên soạn đã rất Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -19
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam chú ý khi tách riêng thành những khổ 4 câu và đánh số cho câu đầu tiên trong khổ để học sinh tiện theo dõi tác phẩm có dung lượng khá dài này. Phần Chú giải gần như giống với SGK năm 1990 đã xuất bản. Không có thêm từ khó được giải nghĩa, trong số 12 chú giải đã bao gồm một lời tựa trích dẫn của tác phẩm và thông tin về dịch giả Phan Huy Vịnh. Phần Hướng dẫn học bài đã cắt bớt những gợi ý quá kỹ càng nhằm vạch hướng cho học sinh tìm hiểu tác phẩm, câu hỏi đã được biên soạn lại theo hướng gợi mở nhiều hơn. Như thế, tính tích cực, năng động của học sinh- chủ thể tiếp nhận đã được chú ý. Sự thay đổi này phản ánh rất sâu sắc sự thay đổi trong nhận thức và quan điểm của các nhà biên soạn bấy giờ, đồng thời cũng phản ánh sự thay đổi trong chủ trương, chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước ta thời điểm đó. Ai cũng biết, trước khi đến với sự tiếp nhận của học sinh THPT thì thi phẩm này đã trải qua một sự tiếp nhận có tính thẩm mỹ chuyên biệt của các soạn giả. Họ đọc tác phẩm với tinh thần trách nhiệm cao, là loại độc giả “đặc biệt”, có chuyên môn và hiểu thấu đáo, sâu sắc cái “thần”, cái “nhã” của tác phẩm. Thế nhưng việc “đọc” của họ lại hướng về những đối tượng đa dạng khác nhau. Không phải giáo viên nào khi soạn giáo án hay học sinh nào khi soạn bài học ở nhà, thậm chí được giảng dạy chính trên lớp có thể hiểu sâu sắc Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị ngay lập tức. Mỗi độc giả lại có một trình độ và nền kiến thức ban đầu không giống nhau, bởi vậy tầm đón nhận đối với văn bản cũng vì lẽ đó mà rất khác nhau. Hiểu được nguyên tắc đó, trong phần Hướng dẫn học bài, các nhà biên soạn sách đã cố gắng phát huy tối đa tính gợi mở của câu hỏi cũng như qua đó thúc đẩy sự chủ động trong việc “đọc” của học sinh. Có khá nhiều câu hỏi được đưa ra xoay quanh tác phẩm cần tìm hiểu, nội dung gần như vẫn giống với phần câu hỏi trong SGK 1990, chỉ khác biệt ở chỗ đã có sự lược bỏ hết những phần gợi ý đi sâu vào tác phẩm trong ngoặc đơn như trước và thêm một số những gợi ý khác giúp học sinh hiểu rõ thi phẩm hơn. Có thể thấy rất rõ điều đó khi đọc một số câu hỏi được đưa ra trong mục này: Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -20
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam “1. Tóm tắt câu chuyện diễn ra trong Tỳ bà hành. Giữa cốt truyện có thể rút ra từ tác phẩm và câu chuyện nhà thơ kể lại trong lời tựa có chỗ nào không giống nhau? Thử tìm hiểu nguyên nhân và lí giải ý nghĩa của những chỗ không giống nhau đó. 2. Những yếu tố nào đã làm cho Tư mã Giang Châu và người ca nữ từ chỗ hoàn toàn không quen biết nhau đi đến dần hiểu biết thông cảm lẫn nhau, và đến cuối bài, dường như hòa nhập tâm tư làm một? 3. Hãy nêu những thành công của tác giả trong việc miêu tả tiếng đàn. Gợi ý: a. Người ca nữ đánh đàn 3 lần. Hãy nêu lên sự hợp lí trong việc phân bố mức độ miêu tả ở mỗi lần? b. Tác giả dùng những phương pháp nào để miêu tả tài nghệ của người ca nữ. c. Tác giả đã tập trung miêu tả những thời điểm nào của quá trình diễn tấu” [5, 74] Qua việc xem xét hệ thống câu hỏi trong SGK được soạn giả tuyển lựa, ta thấy rằng những phần ngoặc đơn trước kia đã được cắt bớt đi, thay vào đó là cách trình bày có sự in nghiêng các chữ quan trọng, cần nhấn mạnh trong câu hỏi. Đó cũng là cách định hướng cho công việc “đọc” của nhiều đối tượng khác nhau theo chủ ý của nhà biên soạn sách. Bên cạnh những nội dung tương tự sách giáo khoa năm 1990, SGK dành cho phân ban KHXH còn đưa thêm một số câu hỏi gợi mở mới: “4. Qua lời tự thuật của nhà thơ và ca nữ, có thể thấy những gì giống nhau trong cảnh ngộ và tâm sự giữa hai người? Vị trí của những lời tự thuật này trong bài thơ? 5. Có người cho hình tượng người ca nữ chỉ là sự khách quan hóa hình tượng nhà thơ. Ý kiến đó đúng hay sai? (Dành cho học sinh giỏi)”[5, 74]. Dễ hiểu vì sao với Tỳ bà hành, người biên soạn phải đưa ra một hệ thống câu hỏi nhiều như vậy và có sự định hướng gợi mở cho sự tiếp cận của học sinh. Bởi đây là một tác phẩm có số lượng câu chữ khá dài, để hiểu hết ý Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -21
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam nghĩa, cái “thần” cũng như cái “nhã” của tác phẩm Đường thi này không phải là một công việc dễ dàng đối với học sinh THPT. Người biên soạn đã cố gắng gợi mở, hướng học sinh đến những cách đọc đa chiều, tìm hiểu tác phẩm từ nhiều góc độ cũng như để học sinh tranh luận với nhau về những ý kiến trái chiều đang tồn tại trong giới dịch giả, nghiên cứu phê bình nhằm giúp những chủ thể tiếp nhận này thêm phần năng động, chủ động chiếm lĩnh tác phẩm. Qua cách gợi mở “có người cho rằng ” và trả lời lựa chọn “đúng”, “sai”, học sinh có cơ hội đưa ra ý kiến riêng. Từ đó chính chủ thể tiếp nhận cũng có sự thâm nhập sâu hơn vào tác phẩm, hiểu tác phẩm và lĩnh hội nó theo cách riêng của bản thân mình. Theo nghiên cứu của Mạnh Thị Minh (sđd), trong chương trình SGK PT từ năm 1990 (khi Đường thi chính thức được đưa vào giảng dạy) đến 2006, Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị có tần số được lựa chọn vào chương trình là rất nhiều, 8 lần. Năm 1990, năm 1993, 1994, 1995, 1997, 2000, 2003 và 2006. Khi thì thi phẩm được lựa chọn vào giảng chính (1990), lúc lại đưa vào phần đọc thêm (năm 1993, 1997, ban KHTN), từ sau 1995 lại trả vị trí cho nó về giảng chính. Sự sàng lọc này chứng tỏ giá trị thầm mỹ của Tỳ bà hành cũng như chứng tỏ sự phù hợp nội dung của nó với đối tượng tiếp nhận và đáp ứng mục tiêu giáo dục của chế độ. Năm 2000, trong bộ SGK Văn học 10 (tập 2, Phần Văn học nước ngoài và Lí luận văn học, NXB GD 2000, Nguyễn Hải Hà và Lương Duy Trung chủ biên), tác phẩm Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị được giới thiệu với tổng quan nội dung tương tự như sách năm 1994 dù đã có sự chỉnh lí, sửa đổi. Có sự thay đổi dễ nhận ra ở cách trình bày, sắp xếp và đặt tên cho các đề mục của người biên soạn: Tác giả và tác phẩm (cuối mục này có phần chú thích 1 từ khó: Tinh thần “phúng thích”: có nghĩa là châm biếm, phê phán, chưa đến mức đả kích), Giảng văn (trích dẫn phần dịch thơ của Phan Huy Vịnh), chú thích, cuối cùng là phần Hướng dẫn học bài. Các câu hỏi trong phần Hướng dẫn học bài vẫn được giữ nguyên so với SGK năm 1994, riêng ở câu 5 có bổ sung thêm “Lại có ý kiến cho Tỳ bà hành cơ bản là một bài thơ tự Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -22
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam sự và người ca nữ là hình tượng nhân vật chính của tác phẩm. Ý kiến đó có thỏa đáng không? (dành cho học sinh giỏi)” [6, 58]. Việc thêm ý kiến bổ sung trong câu hỏi đưa ra đã góp phần khơi gợi khả năng tranh luận cho học sinh. Học sinh tiếp cận với nhiều ý kiến trái nhau như vậy sẽ kích thích sự suy nghĩ, lí giải và đẩy việc “đọc” lên một ý trình độ cao hơn, hiểu tác phẩm một cách sâu sắc hơn. Đó cũng là mục tiêu của những người biên soạn sách khi giới thiệu các tác phẩm tiêu biểu của nước ngoài vào chương trình PTTH. Năm 2003, sách Ngữ văn 10 (tập 2- Bộ SGK thí điểm, bộ 2 ban KHXH & NV, NXB GD, 2003, do Phan Trọng Luận tổng chủ biên) có xếp Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị vào phần Đọc thêm bắt buộc cùng với 2 tác phẩm Xuân hiểu (Mạnh Hạo Nhiên) và Thu hứng (Đỗ Phủ). Vì nằm trong mục đọc thêm nên những chú giải về tác phẩm không nhiều. Tác giả Bạch Cư Dị được giới thiệu bằng một đoạn văn ngắn gọn ở sau nhan đề, tiếp đó là bản dịch thơ (không có sự chia tách khổ nhỏ hay đánh số cho câu thơ như những bản dịch trước đó, có sự ghi chú ở cuối văn bản trích dẫn tên người dịch Phan Huy Vịnh và nguồn dẫn Thơ Đường, tập 1, sđd). Phần Chú thích ngắn với 5 từ, câu khó cần giải thích, trong đó có lời tựa tác phẩm và vấn đề dịch giả. Hướng dẫn đọc thêm gồm 4 câu, không bao gồm những gợi ý chi tiết cụ thể định hướng cho học sinh trả lời. Nhìn chung, nội dung của những câu hỏi này vẫn giống với những câu hỏi SGK trước đó. Như vậy, các nhà biên soạn vẫn lựa chọn Tỳ bà hành vốn là một tác phẩm tiêu biểu của Đường thi vào chương trình dù xếp nó vào phần Đọc thêm bắt buộc. Những soạn giả đã cố gắng đưa ra những thông tin khái quát mà tiêu biểu nhất xoay quanh tác phẩm. Đọc thêm nhưng là đọc thêm bắt buộc bởi trong ý thức, suy nghĩ của những nhà biên soạn, Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị vẫn là một điểm sáng cần in dấu trong bầu trời lấp lánh vô vàn ánh sao của Đường thi. Năm 2006, Tỳ bà hành được tuyển lựa giảng dạy trong chương trình nâng cao. Có thể bởi dung lượng dài rất khó khăn cho việc cảm nhận trọn vẹn của học sinh THPT nên trong chương trình học cơ bản, tác phẩm đã không Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -23
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam được đưa vào giảng dạy. Tác phẩm cần có một sự cảm nhận, tiếp nhận ở trình độ cao hơn, sâu sắc hơn như ở bậc đại học và sau đại học. Cho đến nay, từ năm 2008, Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị không được đưa vào chương trình SGK PT lớp 10 nữa. Có thể dung lượng tác phẩm quá dài và việc tiếp nhận trọn vẹn nó không phải là điều đơn giản đối với học sinh trình độ THPT. Mặt khác, nó cũng thể hiện sự thay đổi trong chủ trương, chính sách của Nhà nước về Giáo dục, đặc biệt là vấn đề đổi mới SGK đang rất được quan tâm trong nhà trường cũng như dư luận hiện nay. Như vậy, Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị ngay từ ban đầu được lựa chọn vào chương trình học PTTH đã được vào giảng dạy chính thức. Điều đó cho thấy rất rõ những thành công xuất sắc về nội dung cũng như nghệ thuật tài ba của thi phẩm này. Năm 1993 và 1997, tác phẩm đưa vào phần Đọc thêm trong sách phân ban KHTN có lẽ nhằm tránh sự quá tải cho chuyên ban này. Từ 1995 trở đi, tác phẩm lại tiếp tục được lựa chọn vào giảng chính trong chương trình. Tuy nhiên, hầu hết, các bộ SGK PT đều chỉ dừng lại ở việc trích văn bản dịch chứ chưa có phần chữ Hán hay phiên âm chữ Hán. Điều đó đã hạn chế phần nào sự tiếp nhận văn bản của học sinh khi chỉ được tiếp xúc với văn bản dịch. Dù cho văn bản dịch được coi là thành công hơn cả, thậm chí có người còn coi bản dịch của Phan Huy Thực là một tác phẩm văn học thực sự của Việt Nam thì ở một khía cạnh nào đó, vẫn tác động không nhỏ đến sự tiếp nhận của độc giả, cụ thể là học sinh THPT. Nói như Nguyễn Quốc Siêu thì: “Dịch thơ, dù rằng rất tài ba thì chí ít cũng là làm cái công việc phủ lên bức tranh đẹp một tấm màn mỏng, làm mờ đi những đường nét tinh tế.” [24, 66] Nhìn tổng quan, từ cách biên soạn các câu hỏi trong phần Hướng dẫn học bài, ta có thể nhận thấy các nhà biên soạn SGK từ trước đến nay vẫn luôn nhất quán quan điểm cho rằng mặc dầu hình tượng người nghệ nhân tì bà là rất quan trọng và có ý nghĩa tương đối độc lập, song xét toàn bài thơ, hình tượng bao trùm hơn cả vẫn là Tư Mã Giang Châu họ Bạch. Từ đó, họ hướng học sinh theo cách cảm nhận Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị là tác phẩm dùng Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -24
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam hình tượng kĩ nữ để gửi gắm nỗi niềm riêng tư của cá nhân nhà thơ. Suy cho cùng bài thơ vẫn được coi là một tác phẩm trữ tình hơn là một tác phẩm tự sự dù cho nó có yếu tố kể chuyện trong đó. Tuy nhiên, việc trích dẫn trong SGK PT mới chỉ dừng lại ở văn bản dịch của Phan Huy Thực chứ chưa tạo điều kiện cho học sinh tiếp cận với nguyên văn chữ Hán cũng như phiên âm chữ Hán, dịch nghĩa tác phẩm. Điều đó cũng phần nào ảnh hưởng tới việc “đọc” của học sinh cũng như các độc giả nói chung khi đến với tác phẩm trong chương trình SGK chính thống. Sự trích dẫn ấy phải nhờ đến các bộ sách tham khảo môn Ngữ văn trong nhà trường dành cho giáo viên và học sinh biên soạn theo chương trình PT. Bên cạnh SGK PT là bộ sách chính quy bắt buộc cho học sinh ở trường thì còn rất nhiều những sách văn mẫu, sách phân tích bình giảng, tủ sách trong nhà trường nhằm giúp học sinh trong việc cảm nhận sâu sắc hơn các tác phẩm trong chương trình. Biên soạn những quyển sách tham khảo này hầu hết vẫn là những cái tên quen thuộc đã từng tham gia biên soạn SGK PT. Bởi vậy mà, tìm đọc những phân tích, bình giảng của họ cũng là một cách để chúng ta thấy được cách “đọc” của những người biên soạn sách cũng như họ định hướng cách “đọc” cho vô vàn những độc giả khác nhau trong cuộc sống nói chung và nhà trường nói riêng. Có lẽ bởi Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị có dung lượng khá dài, lại là một thi phẩm tuyệt vời của Bạch Cư Dị- một trong ba đỉnh cao của thơ Đường nên việc tìm hiểu, phân tích nó trong nhà trường còn nhiều khó khăn, hạn chế. Chính vì vậy mà trong nhiều sách tham khảo, các bài phân tích, bình giảng Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị không phải là hiếm. Rất nhiều cuốn sách phân tích theo các tác phẩm được giảng dạy trong chương trình PTTH. Năm 1995, Hồ Sĩ Hiệp biên soạn cuốn Thơ Đường ở trường PT (NXB Văn Nghệ, TP Hồ Chí Minh), trong đó có phân chia hẳn chương trình PTCS và chương trình PTTH. Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị cũng là một trong số những tác phẩm được phân tích. Có thể coi đây cũng là một bài giảng dạy, định hướng cho học sinh trong quá trình tìm hiểu tác phẩm. Tác Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -25
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam giả có trích phần dịch thơ (đánh số theo đầu mỗi khổ chi tách) do Phan Huy Vịnh dịch và đi vào phân tích nôi dung cũng như nghệ thuật của tác phẩm. Vì là tài liệu tham khảo cho học sinh PTTH nên cách phân tích cũng hết sức bài bản, bao quát cả nội dung và nghệ thuật tác phẩm này. Về nội dung, tác giả làm rõ hai ý lớn: tiếng kêu than của một người phụ nữ kỹ nữ bị giày vò khổ đau về vật chất và tinh thần trong xã hội phong kiến Trung Quốc; lời tố cáo của một kẻ tài hoa bị chà đạp. Trong quá trình phân tích nội dung, người viết đã chia đoạn hết sức tỉ mỉ, đoạn I: từ câu 1 đến câu 14 là cuộc gặp gỡ tình cờ, đoạn II: câu 15 đến câu 82: miêu tả bản đàn, đoạn III: còn lại, người kỹ nữ đánh đàn khiến Tư Mã Giang Châu rơi lệ. Trong từng đoạn, Hồ Sĩ Hiệp lại phân chia các đoạn nhỏ hơn với những nội dung cụ thể của từng câu thơ. Có cảm giác đó là sự diễn xuôi nội dung văn bản, sự chia tách quá nhỏ dù khiến việc đọc dễ dàng hơn nhưng lại nghiêng về kể lại diễn biến câu chuyện hơn là cảm nhận nó. Về nghệ thuật, người viết phân tích những đặc trưng tiêu biểu cho thơ Bạch Cư Dị như: nghệ thuật tả cảnh xen tả tâm trạng của con người, kết cấu “Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị là cả một khối sầu hận không cùng trên mấy đường tơ. Hết thảy mọi chi tiết trong bài thơ đều xoay quanh bản đàn minh diễm mà kích thích tố mỗi lúc một tăng dần lên để đưa lên nỗi xúc cảm cực độ lan tràn ra nước mắt.” [16, 101]. Bên cạnh đó là bút pháp miêu tả cảnh tài tình, miêu tả tiếng đàn, thể thơ trường thiên thất ngôn cổ phong. Rõ rang, không thể phủ nhận việc “đọc” tác phẩm rất kỹ của Hồ Sĩ Hiệp thông qua cách trình bày, phân tích, hướng dẫn học sinh PTTH của ông. Đây là cách bình giảng, phân tích theo kiểu cho học sinh PTTH, không có sự nhấn nhá, hay sự cảm nhận chủ quan cá nhân theo kiểu của giới phê bình nghiên cứu dù họ đều hướng sản phẩm đã “đọc” của mình đến những độc giả khác nhau và định hướng cho họ cách “đọc” tác phẩm ấy. Năm 1997, Tỳ bà hành vẫn là tác phẩm được giảng dạy trong chương trình nên trong cuốn Phê bình- bình luận văn học: Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Thôi Hiệu do Vũ Tiến Quỳnh biên soạn (NXB Văn Nghệ TP Hồ Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -26
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam Chí Minh, Tủ sách trong nhà trường) vẫn hướng dẫn học sinh tìm hiểu tác phẩm này. Với ba phần chính: Phân tích- bình luận- tác giả, tác phẩm; Phân tích- bình giảng- bình luận và Bài văn của học sinh, cuốn sách khá hữu ích cho học sinh tham khảo trong nhà trường.Vẫn là phần tìm hiểu tác phẩm nhưng thông qua bản dich của Phan Huy Vịnh, người biên soạn hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu thi phẩm nổi tiếng này bằng các ý lớn khá rõ ràng. Đầu tiên là cảm giác cô đơn lạnh lẽo toát lên từ khung cảnh, cái cô đơn của người đánh đàn và cô đơn của người nghe đàn. Ý 2 phân tích cảm giác buồn nhớ mênh mông, buồn vì cảnh vật, buồn vì tiếng đàn, buồn vì câu chuyện của người kỹ nữ, buồn vì cảnh ngộ của tác giả. Ý 3, Vũ Tiến Quỳnh làm rõ tâm sự của tác giả hòa hợp với tâm sự người đánh đàn. Phần cuối cùng, sau khi đi sâu nội dung là những khái quát về thành công nghệ thuật mà ông đặt tên cho phần này là Văn chương gồm có kết cấu, nghệ thuật tả tiếng đàn và kể chuyện tâm sự; lời thơ. Đây cũng là một cách “đọc” khác lạ của riêng Vũ Tiến Quỳnh, góp phần bổ sung thêm cho học sinh trong quá trình tìm hiểu tác phẩm. Điều đáng chú ý là ở đây, so với cách bình giảng năm 1995 của Hồ Sĩ Hiệp, Vũ Tiến Quỳnh đã có ý thức hướng học sinh đến văn bản gốc, phiên âm chữ Hán để từ đó có những so sánh, làm nổi bật thành công của bản dịch Phan Huy Vịnh. Học sinh có cái nhìn bao quát hơn và có cách “đọc” mới mẻ hơn, rất giúp ích cho việc học những tác phẩm văn học nước ngoài nói chung. Tiếp tục việc giảng nghĩa Tỳ bà hành trong SGK PT, năm 2004, Trần Ngọc Hưởng cho ra đời cuốn Thơ Đường trong nhà trường (NXB Tổng hợp Đồng Nai). Cuốn sách có phân tích, giảng bình tất cả những tác phẩm có trong chương trình THPT, kể cả những bài đọc thêm. Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị có trích dẫn đầy đủ Nguyên bản chữ Hán, Phiên âm (chia khổ 5 câu một), Chú thích cho phần Phiên âm khá nhiều (53 từ, câu khó), Dịch nghĩa và Dịch thơ (bản dịch của Phan Huy Vịnh, lấy từ Thơ Đường, tập 1, NXB Văn học, Hà Nội, 1987), có 12 chú thích cho phần dịch thơ. Cuối cùng là trích lời bình của Nguyễn Xuân Nam và bình giảng Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -27
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam của Hoắc Tùng Lâm (do Nguyễn Khắc Phi dịch). Lời bình của Nguyễn Xuân Nam cho rằng đây là một bản dịch mẫu mực, đồng thời gợi ý chia văn bản thành 3 đoạn lớn với những nội dung tương ứng: đoạn I: buổi tiễn đưa và tiếng đàn vằng đến, đoạn II: cuộc đời người kỹ nữ, đoạn III: từ cuộc đời kỹ nữ đến cuộc đời tác giả. Dù không phân tích nhiều, nghiêng về tính chất tham khảo nhưng cuốn sách đã cung cấp cho học sinh đầy đủ văn bản gốc và dịch cho học sinh. Việc xem xét tác phẩm ở nhiều góc độ, đưa thêm nhiều cách tiếp cận tác phẩm của những nhà nghiên cứu khác sẽ khiến việc “đọc” được toàn diện hơn và học sinh từ đó sẽ “đọc” tác phẩm được tốt hơn. Nguyễn Quốc Siêu cũng góp phần định hướng cách “đọc” cho học sinh thông qua sản phẩm “đọc” của bản thân qua cuốn Thơ Đường bình giải, theo sách giáo khoa Văn học 9 và 10. (NXB Giáo Dục, 2005). Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị được tìm hiểu có phần Tác giả, Giải đề, Phiên âm, Chú thích, Dịch nghĩa, Lời bình và Dịch thơ. Cuốn sách có cung cấp văn bản nguyên văn chữ Hán để bạn đọc tiện theo dõi. Có thể nói, cùng với việc tuyển lựa cho vào chương trình giảng dạy chính thức, các cuốn sách tham khảo cho học sinh PTTH cũng đã giới thiệu, định hướng cho học sinh cách “đọc”, tiếp nhận văn bản Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị. Đó đều là những thành quả nghiên cứu, những cách “đọc” của những người biên soạn vốn rất am tường thơ Đường. Họ cũng tiếp nhận Tỳ bà hành nhưng không phải theo hướng nhằm cung cấp một bản dịch toát lên cái “thần”, cái “nhã” của tác phẩm như các dịch giả hay cung cấp cho độc giả cảm nhận chủ quan của bản thân như những nhà nghiên cứu, phê bình mà sự cảm nhận ấy nằm trong khuôn khổ của nhà trường PTTH cũng như chịu sự chi phối của nhiều chính sách, quy định giáo dục. Cách họ phân tích, bình giảng cũng hết sức bài bản, theo kiểu bài văn trong chương trình THPT nhằm định hướng cho giáo viên, học sinh hay những người yêu văn thơ Trung Quốc tự đi sâu tìm hiểu tác phẩm ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Bên cạnh đó, các nhà biên soạn sách cũng định hướng cho Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -28
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam học sinh cách làm bài, trình bày một bài văn phân tích, bình giảng trong nhà trường phổ thông. 1.2. “GIẢNG NGHĨA” PHONG KIỀU DẠ BẠC TRONG SGK PT Cũng như Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, thật khó để xác định thời điểm chính xác tác phẩm Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế được giới thiệu tại Việt Nam. Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa biết được đích xác Phong Kiều dạ bạc đến Việt Nam từ lúc nào trên tư liệu chữ Hán, chỉ biết rằng vào những năm đầu của thế kỷ XX đã có bản diễn Nôm của tác phẩm này và sau đó được in trong quyển Trong 99 chóp núi (Tân Việt, Hà Nội, 1942), tư liệu do Nguyễn Quảng Tuân cung cấp trên Tạp chí Hán Nôm số 1/2002. Cho đến nay, bản dịch thành công nhất được cho là của thi sĩ- gạch nối của hai thế kỷ- Tản Đà. Tản Đà dịch thơ Đường nhiều và phần lớn đều lồng vào đó được cái tài, cái tình của một cây bút phóng túng, bay bổng, đồng cảm sâu sắc với thơ cổ điển xưa. Phong Kiều dạ bạc cũng được thi nhân dịch với phong thái đó: Trăng tà tiếng quạ kêu sương Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ Thuyền ai đậu bến Cô Tô Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San. (Thơ Đường - Nguyễn Quảng Tuân biên soạn, NXB Văn học 2003) Các dịch giả khi đi vào dịch Phong Kiều dạ bạc cũng đã cố gắng để dịch sát nguyên tác, giữ được cái “thần”, cái “nhã” của bài thơ. Tuy nhiên ngay trong câu chữ của nguyên tác cũng đã tạo nhiều làn sóng tranh luận khác nhau. Lấy ví dụ với câu: “Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền” cũng có nhiều bản dịch khác nhau: Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San (Tản Đà) Tiếng chuông đưa đến bến đò canh khuya (Ngô Tất Tố) Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -29
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam Đêm Cô- Tô vẳng tiếng chuông Chùa Hàn- San đến thuyền sông Phong- Kiều? (Trần Trọng San) Có lẽ chính bởi những tranh luận xoay quanh văn bản tác phẩm như vậy mà Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế được lựa chọn vào chương trình PTTH muộn hơn Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị. Bản thân tác phẩm được giới thiệu ở Việt Nam cũng muộn hơn so với Tỳ bà hành. Nếu như ngay từ những năm đầu tiên khi thơ Đường được đưa vào giảng dạy trong chương trình, Tỳ bà hành đã được tuyển chọn vào giảng dạy chính thức thì mãi đến năm 2001, Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế mới được các nhà biên soạn đưa vào SGK PT lớp 7. Trong SGK Ngữ văn 7 (bộ SGK thí điểm), tập 1, Nguyễn Khắc Phi tổng chủ biên, NXB GD năm 2001, Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế được đưa vào phần Đọc thêm. Người soạn sách đã trích dẫn tác phẩm với phần Phiên âm chữ Hán, Dịch nghĩa và Dịch thơ (bản dịch được ghi rõ do Tản Đà dịch, rút từ tập Thơ Đường, tập 1, NXB Văn học, 1987). Phần Chú thích giải nghĩa “(1) Phong Kiều: địa danh ở phía Tây thành Cô Tô (thuộc thành phố Tô Châu, Giang Châu ngày nay)” và “(2) Trương Kế: sống khoảng giữa thế kỷ VIII, người Tương Châu, tỉnh Hồ Bắc, đỗ tiến sĩ, có làm chức quan nhỏ. Thơ thường tả phong cảnh là chủ yếu.”[1, 126]. Vì là phần đọc thêm nên người biên soạn sách đã không soạn phần Hướng dẫn học bài hay những chú thích kỹ càng hơn về câu chữ trong thi phẩm. Bài thơ chỉ có 28 chữ nhưng sự tranh cãi về chúng lại không hề ít ỏi, ngay chính các cách dịch từ trước đến nay cũng có nhiều người hiểu rất khác nhau. Có lẽ bởi vậy mà khi biên soạn, lựa chọn Phong Kiều dạ bạc vào chương trình, những nhà biên soạn cũng hiểu rất rõ điều đó. Vì vậy, họ đã trích dịch cho học sinh bản dịch thành công nhất ở nước ta, đồng thời cũng cung cấp đầy đủ phiên âm chữ Hán cũng như dịch nghĩa, điều đó sẽ gợi mở khả năng “đọc” chủ động hơn ở độc giả. Dù chỉ là đọc thêm nhưng việc lựa chọn Phong Kiều dạ bạc vào chương trình SGK PT giới thiệu đến học sinh đã chứng tỏ sức sống tiềm tàng cũng như những dư Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -30
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam âm lan tỏa mạnh mẽ của tác phẩm này bên cạnh rất nhiều những áng thơ bay bổng khác của Đường thi. Sách Ngữ văn 7 tập 1, năm 2006 và năm 2008 do Nguyễn Khắc Phi tổng chủ biên (NXB GD) vẫn giữ Phong Kiều dạ bạc vào chương trình SGK PT. Nằm trong phần Đọc thêm, các soạn giả đã trích dịch tương đối giống với SGK năm 2001 đã đưa. Cũng với phần Phiên âm, Dịch nghĩa, Dịch thơ. Song bản dịch chỉ khác ở hai chữ cuối cùng của văn bản: “Hàn Sơn” và được ghi chú là do “K. D dịch (Thơ Đường, tập 1, NXB Văn học, Hà Nội, 1987)” [2, 112- 113 ]. (Bản dịch trước đây trong SGK Ngữ văn 7 năm 2001 khác ở hai chữ cuối là “Hàn San” và được ghi là Tản Đà dịch, rút từ Thơ Đường, NXB Văn Học, Hà Nội, 1987- tr.126). Điểm khác biệt này thể hiện sự thay đổi trong quan niệm, tư tưởng cũng như trong quá trình khảo sát, nghiên cứu của những người biên soạn SGK PT. Ở quyển sách này, bên cạnh có chú thích ở chân trang về địa điểm “Phong Kiều” và tác giả “Trương Kế”, soạn giả đã đưa thêm phần Gợi ý thưởng thức. Đây có thể coi là những định hướng cơ bản, nhằm giúp học sinh có những kiến thức nhất định khi tìm hiểu tác phẩm dù phần gợi ý này không dài. Chúng tôi muốn trích phần Gợi ý thưởng thức ra để có hình dung dễ hơn về cách “giảng nghĩa” trong SGK PT: “Bài thơ thể hiện một cách sinh động cảm nhận qua những điều nghe thấy, nhìn thấy của một khách xa quê đang thao thức không ngủ trong đêm đỗ thuyền ở bến Phong Kiều. Nếu K. D. đã rất tài hoa và hết sức sáng tạo trong việc dịch hai câu thơ đầu thì có thể nói đã không thành công trong việc dịch hai câu thơ sau, khi biến chủ thể vốn là tiếng chuông thành chủ thế là chiếc thuyền của lữ khách. Trương Kế đã kết hợp hai thủ pháp nghệ thuật truyền thống của thơ Đường là dùng động để tả tĩnh và mượn âm thanh để truyền hình ảnh. Câu thơ dịch của K. D. đã làm nhòa mất sự ngân vang, lan tỏa của tiếng chuông trong đêm yên tĩnh.” [2, 113]. Việc in nghiêng những phần chữ quan trọng trong phần gợi ý của biên soạn sách đã khéo léo mở hướng cho học sinh cũng như giáo viên trong quá Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -31
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam trình phân tích, bình giảng bài thơ tứ tuyệt này. Mới chỉ bước đầu chạm nhẹ vào tư tưởng của tác phẩm, gợi mở những ý chung nhất về nghệ thuật và có hướng so sánh giữa bản dịch với nguyên tác nhưng nó đã là chìa khóa giúp học sinh tự “đọc” và cảm nhận, ngấm sâu cho riêng mình. Nằm trong số những tác phẩm đọc thêm, do vậy việc học và giảng dạy Phong Kiều dạ bạc ở trên lớp không có. Sách trích dẫn và chú giải không nhiều. Điều này đã khiến cho việc tiếp nhận tác phẩm đối với độc giả không phải là điều đơn giản. Bài thơ ngắn ngủi, tưởng chừng dễ hiểu nhưng ẩn sâu trong đó là nhiều vấn đề mà đến hôm nay vẫn còn gây ra nhiều tranh cãi trong giới phê bình- nghiên cứu. Trong bộ SGK Ngữ văn 7 không có thêm lời phân tích nào sâu hơn về văn bản này. Chỉ duy nhất trong Để học tốt Ngữ văn 7 (NXB Thanh Niên do Trần Văn Sáu và Đặng Văn Khương biên soạn, 2007) có xuất hiện việc so sánh Đêm đỗ thuyền ở Phong Kiều với bài Rằm tháng giêng trong bài Ôn tập tác phẩm trữ tình (tiếp theo). Thao tác so sánh được gợi ý cho học sinh bằng một vài gạch đầu dòng ngắn gọn, mang tính chất định hướng là chính: “- Cảnh vật: ít nhiều có nét tương đồng. - Tình cảm: Nếu Đêm đỗ thuyền ở Phong Kiều là tâm tình của khách xa quê thao thức thì Rằm tháng giêng là tình yêu thiên nhiên gắn liền với lòng yêu nước, tâm hồn nghệ sĩ hòa hợp thống nhất với cốt cách của người chiến sĩ, của vị lãnh tụ.”(tr 122- 123). Như thế, so với Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, tần số xuất hiện được chọn giảng dạy trong chương trình PT của Phong Kiều dạ bạc ít hơn, chỉ có 1 lần. Đây là tác phẩm mới được đưa vào chương trình nhằm tạo nên một luồng sinh khí mới cho Đường thi trong nhà trường PT. Tuy vậy, nó cũng chứng tỏ được vị trí của mình trong số rất nhiều bài thơ Đường cùng thời khác khi vượt lên được tất cả số đó, chinh phục người biên soạn để được lựa chọn vào chương trình SGK PT chuẩn mực. Điều này cũng cho ta thấy sự đánh giá rất cao của những người biên soạn khi chọn Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế để giới thiệu cho học sinh. Bởi trong chương trình PT, thơ Đường được giới Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -32
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam thiệu không nhiều, chỉ là những áng thơ tiêu biểu và có sức sống lâu bền nhất trong lịch sử thơ ca Trung Quốc cũng như ở Việt Nam. Họ đã tiếp nhận, cảm nhận nó, sống với nó và khi biên soạn SGK đã không ngần ngại đưa tác phẩm này vào chương trình. Trương Kế không phải một nhà thơ tiêu biểu của Đường thi nhưng Phong Kiều dạ bạc là một trong số ít những tác phẩm chiến thắng được thời gian để tồn tại mãi trong lòng người đọc. Đối với người Việt Nam, bài thơ từ lâu đã trở nên quen thuộc mà ai ai cũng có thể ngâm, đọc và vận dụng sáng tạo trong thơ văn mình. Bởi vậy, việc lựa chọn đưa vào chương trình tác phầm này là quan điểm đúng đắn và thể hiện sự am hiểu Đường thi của những người biên soạn. Trong Thơ Đường ở trường PT do Hồ Sĩ Hiệp biên soạn năm 1995 (sđd), trong số những thi phẩm được chọn phân tích ở chương trình THCS không có Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế nhưng phần cuối sách có trích dẫn bài viết Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa- Trương Vĩnh Hằng, Giác ngộ, 1992 (tr 163- 164). Bài viết có thể được coi là một nguồn tư liệu mới cho học sinh và giáo viên trong quá trình “đọc” tác phẩm khi đưa ra một quan điểm khác về nội dung tư tưởng của nó. Từ chỗ nêu lên hoàn cảnh xã hội đen tối của kinh thành Trường An chìm trong khói lửa mịt mù, loạn An Lộc Sơn, tác giả đã diễn câu từ của bài thơ theo hướng u ám như vậy. Bài thơ “chứa đựng muôn vàn uẩn sự”. Những uẩn sự ấy hiển hiện thông qua những chi tiết dày đặc trong tác phẩm. Ấy là trăng lặn- tượng trưng cho xã hội xuống dốc, tiếng quạ kêu là của con người rên siết lầm than, màn sương gợi nên sự tối tăm, trăng chiếu, lửa chài tựa những bóng ma trơi vất vưởng lang thang trong đêm tối. Cây bàng ven sông rì rào điệp khúc ai oán, thành Cô Tô say giấc triền miên. Nổi lên tất cả là âm hưởng “nhặt khoan” của tiếng chuông chủa đã xoa dịu nỗi trầm tư của “kẻ thất thời bôn tẩu”. Cùng với việc đưa ra một quan điểm mới về nội dung tư tưởng, người viết còn đưa thêm chi tiết chùa Hàn San là một địa danh bên cầu Tây Phong, thuộc tỉnh Giang Tô. Như vậy, dù không định hướng cho học sinh cách “đọc” nhưng việc người biên soạn đưa ra tư liệu bài viết của Trương Vĩnh Hằng đã phần nào giúp học sinh tiếp cận Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -33
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam thêm với những “xôn xao” xung quanh thi phẩm này, tạo cái nhìn đa chiều để đánh giá tác phẩm được toàn diện hơn. Thơ Đường trong nhà trường của Trần Ngọc Hưởng xuất bản năm 2004 (sđd) phân tích toàn bộ những tác phẩm trong chương trình Ngữ văn PT, kể cả những tác phẩm đọc thêm, trong đó có Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế. Bài thơ được trích dẫn giới thiệu với Nguyên bản chữ Hán, Phiên âm, Dịch nghĩa và Dịch thơ (bản dịch được ghi của Tản Đà) và có chú thích chân trang về địa danh Phong Kiều. Tiếp đến là phần Gợi ý thưởng thức của người biên soạn dành cho học sinh tham khảo. Phần Gợi ý thưởng thức đưa ra hai ý kiến của Nguyễn Xuân Nam và của Nguyễn Khắc Phi. Đây cũng là những định hướng cho học sinh trong quá trình “đọc” văn bản tác phẩm. Nguyễn Xuân Nam và Nguyễn Khắc Phi đều là những người am tường sâu sắc thơ Đường nói riêng cũng như thơ ca Trung Quốc nói chung. Trước khi đến với độc giả, họ cũng như đa số những nhà biên soạn sách đều đã trải qua quá trình “đọc” tác phẩm. Hoạt động đọc của họ lại hướng về số đông những độc giả rất khác nhau, đặc trưng trong nhà trường. Có lẽ bởi vậy mà hoạt động “đọc” của họ cũng mang những đặc thù riêng khác với dịch giả hay giới nghiên cứu, phê bình dù chung quy lại đây đều là những “siêu độc giả”, đọc với tầm chuyên biệt thẩm mỹ cao. Nguyễn Xuân Nam đã giúp bạn đọc vẽ nên một bức tranh sống động về khung cảnh trong Phong Kiều dạ bạc: “Một cảnh buồn: trăng tà, sương tỏa, cây dọc bờ song cũng đen đen mờ mờ. Một vài đốm lửa thuyền chài leo lét càng làm cảnh buồn tối thêm. Và cảnh rất vắng lặng: Có vắng lặng mới nghe rõ tiếng quạ kêu, mới phân biệt tiếng chuông từng chùa trong một vùng nhiều chùa. Giữa cảnh buồn vắng mênh mông ấy là con người chơ vơ giữa những danh thắng: Cô Tô là nơi ở của vua Ngô và Tây Thi ngày xưa. Chùa Hàn Sơn, bến Phong Kiều đều là những cảnh đẹp nổi tiếng của Tô Châu. Bài thơ gợi ta nhiều liên tưởng, suy tưởng đẹp. Trong bài thơ có họa. Tôi đã xem hai bức tranh màu vẽ cảnh “Phong Kiều dạ bạc”. Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -34
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam Chỉ tiếc tiếng chuông ngân nga, trong đêm tĩnh mịch bức tranh không thể nào thể hiện được. Độc giả Việt nam rất quen thuộc bài thơ này. Các nhân vật, nhà thơ thường nhắc đến: Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng (Quách Tấn) Hồ Dzếnh cũng nhắc đến giọng ngâm: Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên trong Chân trời cũ.” [17, 23]. Người biên soạn cũng trích dẫn ý kiến của Nguyễn Khắc Phi một cách ngắn gọn nhưng nổi lên những quan điểm chính nhất: “1. Chú ý sự chuyển đổi nhịp điệu ở các câu thơ. Câu 1 không thể đọc hiểu một mạch mà phải ngắt làm ba vì có 3 cụm chủ vị. Ngược lại 2 câu cuối gần như phải đọc liền hơi vì nghĩa gắn chặt vào nhau. Chính vì kết cấu ngữ pháp gắn bó như vậy nên có người cho rằng 2 câu này đã diễn tả một cách tài tình sự vang vọng lan tỏa của tiếng chuông chùa trong đêm vắng. 2. Hai câu đầu dịch khá hay song 2 câu sau dịch không đạt: Ở nguyên bản chủ thể là tiếng chuông, ở bản dịch đã chuyển du khách thành chủ thể.” [17, 23- 24]. Như vậy, trong SGK PT, Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế chưa được giảng dạy trong chương trình chính. Có nhiều nguyên nhân để những người biên soạn sách cân nhắc trong việc tuyển lựa nó vào giảng chính hay Đọc thêm, đọc thêm bắt buộc. Một trong những lí do ấy có thể kể tới việc tiép nhận văn bản văn học này đến nay còn khá nhiều tranh luận dù câu chữ hết sức ngắn ngủi. Đọc một bài thơ Đường, nhất là tứ tuyệt, chúng ta luôn phải lắng nghe âm vang của nó, tưởng tượng ra những đường nét và màu sắc của nó để có thể cảm nhận hình tượng chung của bài thơ chứ không dựa vào những chi tiết ngôn ngữ cụ thể của bài thơ. Cái ma lực của Phong Kiều dạ bạc chủ yếu là bắt nguồn từ nghệ thuật miêu tả và biểu hiện tuyệt vời của nó. Nếu như hai câu đầu “đứt đoạn”, “dày đặc” tư liệu, hình ảnh thì hai câu thơ sau lại “liên tục” mà “thưa thoáng”. Những nhà biên soạn SGK hầu hết khi hướng cách “đọc” cho học sinh đều chỉ ra văn bản dịch chưa thành công ở hai câu thơ sau và chất tịch mịch, u hoài của Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -35
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam cảnh vật cũng như cái tĩnh lặng trong hồn người. Từ đó, độc giả có những cảm nhận riêng cho mình, tự tìm ra những nốt nhạc đồng điệu ẩn trong câu chữ. Tuy nhiên, việc gợi ý tìm hiểu Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế trong SGK PT còn quá ít ỏi, bởi thế, việc tiếp nhận thấu đáo văn bản này vẫn là một việc không dễ dàng, ngay cả đối với những nhà biên soạn sách vẫn còn nhiều do dự và phân vân. Nếu như ở năm đầu tiên, khi Phong Kiều dạ bạc mới được đưa vào chương trình, tác phẩm chỉ mang tính chất giới thiệu cho học sinh PT nên không có những phần gợi ý phân tích tác phẩm thì đến năm 2006, những người biên soạn sách đã soạn thêm phần Gợi ý thưởng thức nhằm đinh hướng cho học sinh cách tiếp cận văn bản. Nó giúp cho học sinh nói riêng và độc giả nói chung có thể hiểu hơn về tác phẩm, và từ đó có tâm thế, những cách “đọc” mới mẻ về tuyệt tác này. Cho đến nay, khi Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị đã bị lược bỏ khỏi chương trình SGK PT vì dung lượng quá dài và khó khăn trong quá trình “đọc” của học sinh thì SGK Ngữ Văn 7 vẫn tiếp tục đưa tác phẩm Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế vào chương trình. Dù chỉ là chương trình Đọc thêm nhưng nó đã chứng tỏ được sức sống cũng như giá trị tiềm ẩn của tác phẩm. Một văn bản “mở” mà đến hôm nay nó vẫn còn mời gọi độc giả tiếp tục khám phá, tiếp nhận. 1.3. LÝ GIẢI HIỆN TƯỢNG GIẢNG NGHĨA TRONG SGK PT Có thể nói, qua quá trình khảo sát, tìm hiểu hai tác phẩm tiêu biểu của thơ Đường: Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị và Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế trong SGK PT, ta thấy được nhiều nét rất đặc trưng trong vấn đề “giảng nghĩa” trong SGK PT. Từ góc độ mỹ học tiếp nhận, hai chữ “giảng nghĩa” có thể hiểu là “đọc nghĩa” kiểu SGK Trong khóa luận này, chúng tôi đi sâu tìm hiểu việc giảng nghĩa hai tác phẩm Đường thi trong SGK PT là Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị và Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế. Đây cũng là một trong những cách Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -36
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam “đọc” thơ Đường ở Việt Nam vốn rất đa dạng và phong phú với nhiều hình thức khác nhau như: dịch, nghiên cứu, phê bình đại chúng (sách, báo, tạp chí, mạng), dụng điển (tác phẩm văn học khác) v.v Tỳ bà hành và Phong Kiều dạ bạc là hai tác phẩm được giới thiệu vào Việt Nam không phải đồng thời, Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị được bạn đọc Việt Nam biết đến sớm hơn Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế. Dung lượng của chúng khác nhau rất nhiều, Tỳ bà hành- Bạch Cư Dị viết theo thể trường thiên thất ngôn cổ phong, số câu số chữ dài hơn so với thể thất ngôn tuyệt cú của Phong Kiều dạ bạc- Trương Kế. Tuy nhiên, cả hai tác phẩm đều đã được lựa chọn vào chương trình SGK PT nhằm giới thiệu, mở rộng tầm hiểu biết về một nền thơ ca rực rỡ của cả nhân loại cho học sinh. SGK trong nhà trường là loại sách dùng cho học sinh nghiên cứu, học tập dưới sự giảng dạy của giáo viên. Qua hệ thống câu hỏi trong SGK, giáo viên biết HS đã được định hướng đến đâu, từ đó biết cách truyền đạt kiến thức hiệu quả nhất. SGK Ngữ văn cũng vậy, đặc biệt với đặc thù của bộ môn, người giáo viên không chỉ truyền đạt kiến thức mà còn phải gợi mở, hướng học sinh tự “đọc” để cảm thụ, thấm nhuần chất thơ, chất nghệ thuật của văn bản và trau dồi tình cảm, làm phong phú thêm thế giới cảm xúc của bản thân. Muốn đạt được mục tiêu cao cả ấy, cần phải có sự phối hợp nhuần nhuyễn của rất nhiều khâu trong quá trình giáo dục ở nhà trường. Một trong những khâu mang tính quyết định cao chính là nằm trong tay những người biên soạn sách, chọn lựa và sắp xếp chương trình sao cho phù hợp nhất, định hướng cách “đọc” cho nhiều độc giả khác nhau không chỉ gói gọn ở học sinh. Người ta muốn biết nền giáo dục của một quốc gia phát triển ở mức độ nào, không thể không xem tới chương trình chuẩn SGK PT của nước đó. Bởi vậy, những người biên soạn, “giảng nghĩa” SGK PT cũng mang trên mình một trọng trách thiêng liêng, cao quý, định hướng cho lớp trẻ của đất nước một nền tảng trí thức vững vàng. Có rất nhiều yếu tố chi phối tới công việc biên soạn một chương trình SGK PT. Đó là chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước trong việc định Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -37
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam hướng phát triển một nền giáo dục. Sau đó là các quan điểm văn nghệ, các trường phái lí luận tiến bộ trên thế giới và những tác động của chúng đối với nguyên tắc và cách thức làm việc của tập thể tác giả biên soạn Có thể lấy ví dụ như trong giai đoạn 1975- 1979, đất nước ta gặp rất nhiều khó khăn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, giáo dục gắn chặt với sự nghiệp cách mạng XHCN. Các tác phẩm được lựa chọn đưa vào giảng dạy chủ yếu thiên về phản ánh cuộc sống chiến đấu, lao động sản xuất của nhân dân. Bởi vậy, trong giai đoạn này, Đường thi không được chú trọng và trên thực tế không xuất hiện trong chương trình SGK PT. Chỉ từ năm 1990 đến 2000, Đảng đề ra đường lối đổi mới, các tác phẩm đưa vào chương trình đa dạng hơn, mang nhiều nội dung, tư tưởng, tình cảm phong phú của con người. Đường thi cũng chính thức được đưa vào giới thiệu cho học sinh. Cho đến nay, các tác phẩm Đường thi ngày càng được mở rộng hơn, nhiều hơn và có thêm những tác phẩm mới, tạo luồng sinh khí mới cho văn thơ Trung Quốc. Điều đó rất hữu ích cho việc tiếp nhận, tìm hiểu sâu hơn những thi phẩm này của bạn đọc yêu văn thơ. Có thể nói, những chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước về Giáo dục đã chi phối không nhỏ tới việc “đọc” của các nhà soạn sách và từ đó ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận của học sinh. Trước năm 1990, đất nước ta còn nhiều khó khăn, nhiều vấn đề phải giải quyết do vậy nội dung chương trình SGK chưa được chú trọng. Từ năm 1991 trở về sau, Nhà nước ta đã chú ý sâu sát hơn đến vấn đề này. Khi kinh tế, xã hội đất nước phát triển thì giáo dục và đào tạo cũng được Nhà nước ta quan tâm thích đáng hơn. Trong Báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW lần VI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần VII (6- 1991) đã ghi rất rõ rằng: “Xác định rõ hơn mục tiêu, thiết kế nội dung, chương trình, đổi mới phương pháp giáo dục, đào tạo lựa chọn những nội dung có tính cơ bản, hiện đại” [9, 24]. Bắt đầu từ đây, việc biên soạn sách giáo khoa PT cũng có sự thay đổi đáng kể. Đặc biệt là từ sau năm 2001, khi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX của Đảng (4- 2001) đặt mục tiêu giáo dục và đào tạo lên tầm cao hơn, coi đây là quốc sách Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -38
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam hàng đầu “tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học[ ] Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề ”[9, 29] thì chương trình SGK PT cũng được biên soạn theo hướng mới. Những câu hỏi trong phần Hướng dẫn học bài của SGK PT đã loại bỏ đi những gợi ý cụ thể để nhường chỗ trống cho học sinh “tự học, tự hoàn thiện”. Với chương trình SGK PT, chiến lược của nhà nước ta đến năm 2010 là “Khẩn trương biên soạn và đưa vào sử dụng ổn định trong cả nước bộ chương trình và SGK PT phù hợp với yêu cầu mới”, “đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực hành, thực nghiệm, ngoại khóa, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay ” [9, 29] Chính điều đó đã tác động tích cực đến những người biên soạn, đổi mới một bước SGK, loại bỏ những nội dung không thiết thực, bổ sung những nội dung cần thiết theo hướng đảm bảo kiến thức cơ bản, cập nhật những tiến bộ khoa học, công nghệ, tham khảo kinh nghiệm nước ngoài một cách có chọn lọc và đặc biệt rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học. SGK Ngữ văn PT cũng không nằm ngoài những mục tiêu đề ra đó. Các soạn giả đã cố gắng “đọc” để từ đó xây dựng nên chương trình SGK PT vừa đảm bảo tính hệ thống, kế thừa và phát triển của chương trình cũ, vừa phù hợp với thực tiễn và truyền thống nước ta từ xưa. Bởi vậy, dù chương trình vẫn có tác phẩm Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị nhưng cách trình bày cũng như phần chú giải, hướng dẫn học bài qua các năm gần đây đã có sự đổi mới, phù hợp với mục tiêu phát huy tính năng động, sáng tạo của người tiếp nhận. Việc biên soạn SGK PT đã huy động được đội ngũ các nhà khoa học, các nhà sư phạm, các cán bộ quản lý giáo dục am hiểu, có kinh nghiệm về GD PT và các giáo viên giỏi tham gia biên soạn, thẩm định, thử nghiệm chương trình SGK mới trước khi áp dụng bộ SGK chuẩn trên cả nước. Những nhà biên soạn SGK ngữ văn, trước hết cũng là “độc giả” nhưng họ là những “siêu độc giả” bởi họ đến với thơ Đường trên một nền tảng vững chắc và dày dặn. Họ giữ vai trò quan trọng trong tư cách của “người đọc mẫu”. Để giảng Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -39
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam nghĩa một tác phẩm, trước hết họ cũng phải am hiểu thơ Đường như chính máu thịt của mình, có một quá trình tiếp nhận, “đọc” nghiêm túc và sống với nó để tìm ra những vấn đề nổi trội của văn bản. Có như vậy, những nhà biên soạn mới đủ trình độ để định hướng, gợi mở cho những độc giả “chính thống” trong nhà trường PT. Văn bản tác phẩm là một hệ thống kí hiệu nhưng chưa phải đã là một tác phẩm thực sự mà nó chỉ là bước đầu tiên không thể thiếu được để trở thành tác phẩm. Văn bản chỉ trở thành tác phẩm khi có người đọc xuất hiện. Ở văn bản, ngoài phần chủ ý (tức ý đồ của tác giả) trước và trong khi sáng tác còn có phần không chủ ý, nằm ngoài ý muốn của tác giả, đó là cái vô thức. Chính nó đã tạo ra một KHOẢNG TRỐNG để người đọc tham dự vào tác phẩm, trở thành kẻ đồng sáng tạo với tác giả. Sự giải mã một văn bản tùy thuộc rất nhiều vào vốn văn hóa, kinh nghiệm sống, kinh nghiệm thẩm mỹ của người tiếp nhận. Giống như Trương Đăng Dung đã từng phân loại: “Đối với một bạn đọc ngây thơ thì không tồn tại một văn bản văn học và tác phẩm văn học riêng. Trong ý thức của họ tác phẩm văn học là một khách thể. Đối với họ, từ một câu chữ đến một cuốn sách in đều rõ ràng, không có điều gì ẩn kín phải suy nghĩ. Tác phẩm văn học phản ánh cuộc sống thì nó phải như cuộc sống.” Nếu nói tác phẩm là một cái nhìn của người đọc thì nếu dịch giả cố gắng đem đến cho độc giả một văn bản đúng nhất, giữ được đúng cái “thần”, cái “nhã” của nguyên tác ban đầu thì đối với những người biên soạn sách lại hoàn toàn khác hẳn. Họ lựa chọn bản dịch thành công nhất đưa vào chương trình và từ đó phác họa những bước đi đầu tiên trên con đường đến với tác phẩm cho bạn đọc. Đó cũng là một sứ mệnh không kém phần cao cả. Giống như những dịch giả hay nhà phê bình- nghiên cứu, nhà biên soạn sách không phải là người cung cấp cho bạn đọc cái nghĩa đúng sai của thi phẩm đó. Họ chỉ có vai trò như người “định hướng” nhưng định hướng theo cách “đọc” của mình dù cho cách “đọc” ấy không được thỏa sức tung hoành, bộc lộ cái Tôi của bản thân như phê bình, nghiên cứu. Do đặc thù của công việc, văn Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -40
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam học nước ngoài có ít giờ ở nhà trường PT mà phải đưa học sinh tiếp xúc ngay với tinh hoa của văn chương thế giới nên việc giới thiệu đoạn trích của các soạn giả SGK cũng phải rất chu đáo: có các thông tin tuy vắn tắt nhưng đầy đủ về thời đại, tác phẩm, tác giả cũng như định hướng phân tích, nghiên cứu cho học sinh, giáo viên. Học sinh được giảng dạy trong chương trình phần nhiều mới chỉ thiên về các văn bản dịch. Đó cũng là một cách sống với nó, một cách cảm nhận sâu sắc tác phẩm khi có sự so sánh, đối chiếu với nguyên bản chữ Hán và rồi băn khoăn tìm ra con chữ phù hợp nhất với phong thái, tinh thần của bài thơ. Việc “đọc” của học sinh có thể gọi là việc “đọc lại”, có định hướng. Trước đó, các nhà soạn giả đã phải dành thời gian “đọc” tác phẩm như rất nhiều những độc giả thông thường khác. Để rồi, sau đó là việc “đọc” của giáo viên. Giáo viên tiếp nhận tác phẩm. Tư cách bạn đọc của giáo viên đã được xác lập trong quan hệ tri âm, đối thoại với tác giả thông qua tác phẩm. Văn bản văn học của nhà văn (vật tự nó) đã chuyển hóa thành tác phẩm văn chương trong thầy giáo (vật cho ta). Tri thức văn học được chuyển hóa thành tri thức dạy học để rồi trên cơ sở đó xác lập quan hệ bạn đọc- bạn đọc, chủ thể định hướng- đối tượng tiếp nhận với học trò. Đó chính là lí do việc “đọc” của nhà biên soạn hướng đến những độc giả khác nhau, có trình độ không giống nhau và họ có vai trò “định hướng”. Khác với những người biên soạn SGK Toán, Lí hay Hóa học , những người soạn SGK Ngữ văn bên cạnh việc bị chi phối bởi chủ trương của Đảng hay những định hướng giáo dục, họ còn bị quy định bởi những bước biến chuyển tinh vi của khoa lí luận văn học, những khuynh hướng, phương pháp nghiên cứu và các công trình nghiên cứu cũng như phê bình văn học trong nước và nước ngoài. Từ năm 1986 đến nay, lí luận phê bình, nghiên cứu văn học có những đột phá quan trọng, đưa ra vấn đề đặc trưng văn học trong cấu tạo của nó, đặc điểm thẩm mỹ của văn học, tiếp nhận văn học, vai trò của người đọc, nghiên cứu từ góc độ thi pháp học Rất nhiều người tham gia biên soạn nội dung giảng dạy Đường thi trong SGK PT cũng chính là những Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -41
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam người đi đầu trong việc ứng dụng thi pháp học nghiên cứu văn học. Bởi vậy mà, cùng với sự chuyển biến của lí luận văn học trên thế giới, những thành tựu mới đó cũng được áp dụng trong công cuộc soạn SGK. Lý luận văn học thế giới từ chỗ phát hiện ra tác giả, sau đó tác phẩm và gần đây nhất là người đọc được đề cao, có một vị thế mới. Những tiến bộ đó đã được giới thiệu vào nước ta theo nhiều con đường khác nhau, có ảnh hưởng lớn đến giới văn chương từ những người sáng tác đến nghiên cứu, phê bình hay dịch thuật Nếu như trước đây, những bài biên soạn trong SGK chủ yếu được chú trọng vào nội dung tư tưởng, xã hội của tác phẩm thì sau đó, chúng đã được tìm hiểu nhiều hơn về phương diện nghệ thuật, đi sâu vào văn bản. Và càng về sau này, việc gợi mở cho học sinh- đồng thời cũng là những chủ thể tiếp nhận tự đi sâu vào văn bản, tìm hiểu tác phẩm càng được các nhà biên soạn ý thức rõ hơn. Sự thay đổi dần dần theo thời gian thông qua các bộ SGK chỉnh lí, cụ thể qua một tác phẩm cho thấy rất rõ bước chuyển biến trong việc tiếp nhận những lí thuyết nghiên cứu văn học phương Tây của soạn giả. Có thể nói, quan niệm và trình độ hiểu biết của người soạn sách gián tiếp quyết định đến chất lượng phần gợi ý học sinh học tác phẩm. Quan sát phần Hướng dẫn học bài đối với những tác phẩm giảng dạy chính và Gợi ý thưởng thức với tác phẩm đọc thêm, chúng ta thấy rất rõ sự thay đổi trong quan niệm, tư tưởng của người biên soạn theo thời gian. Tỳ bà hành trong SGK Ngữ văn 10 là một ví dụ, từ lúc tác phẩm mới được đưa vào chương trình đến ngày nay, số câu hỏi trong mục Hướng dẫn học bài cũng đã có sự thay đổi ít nhiều. Lúc đầu, tỉ lệ giữa câu hỏi về nội dung và nghệ thuật tác phẩm còn khá nhiều ưu ái cho nội dung, việc gợi ý của người biên soạn trong ngoặc đơn gần như đã thay câu trả lời dù còn hết sức sơ lược. Nhưng dần dần, sự định hướng đó đã thay đổi. Có thể nhận ra cách “đọc” của người biên soạn cũng thay đổi dần dần qua chính sản phẩm của họ. Những câu hỏi về nghệ thuật đã được chú trọng và phần lớn xoáy sâu vào trọng tâm làm nên giá trị thực sự của thi phẩm. Với những gợi ý chi tiết Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -42
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam như vậy, học sinh có cơ hội hiểu biết về thơ Đường nhiều hơn, từ đó hiểu văn thơ của ông cha ta ngày trước. Đầu thế kỷ XX, khi mà lí luận văn học thế giới khám phá ra người đọc, xem người đọc có vai trò quan trọng với tuổi thọ của một tác phẩm bất kỳ thì việc biên soạn SGK PT cũng có sự chuyển biến. Đó chính là sự ra đời của mĩ học tiếp nhận. Mỹ học tiếp nhận đặc biệt chú ý đến người đọc, đúng hơn là việc đọc văn bản tác phẩm. Nó nhấn mạnh đến quá trình khai triển những thông tin thẩm mỹ (nghĩa) được mã hóa trong văn bản tác phẩm đó. Những nhà biên soạn chương trình đã cố gắng trình bày nội dung theo hướng gợi mở, định hướng và tích hợp nhiều hơn là chỉ ra rõ ràng như trước. SGK được chỉnh lí và mang một bộ mặt hoàn toàn mới, thay thế những bộ sách cũ ngày xưa. Hình thức mới mang trong lòng nó những nội dung và phương pháp mới hơn. Họ nhận ra trong giảng văn, không thể áp đặt cách hiểu, cách cảm thụ cho học sinh, bắt học sinh phải học thuộc theo phương pháp cũ. Từ chỗ chỉ trích bản dịch, nhà soạn sách đã trích toàn bộ nguyên âm chữ Hán, phiên âm chữ Hán, dịch nghĩa và dịch thơ Từ chỗ dành nhiều “đất” cho tác giả (tiểu sử, thân thế, sự nghiệp ) đến chỗ ưu ái hơn cho văn bản, nguyên tác và sau đó chú ý gợi mở, dành nhiều KHOẢNG TRỐNG cho học sinh tự “đọc”. Điều đó có ý nghĩa rất quan trọng giúp chúng ta nhìn một cách đầy đủ, toàn diện văn bản và phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của người tiếp nhận. Cũng là một cách tiếp nhận, một cách “đọc” thơ Đường nhưng các nhà biên soạn sách đã dần dần có ý thức đặt vấn đề năng động, sáng tạo của chủ thể tiếp nhận (học sinh), phát hiện đặc điểm, quy luật tâm lí cảm thụ của học sinh lên hàng đầu. Và từ đó, họ cố gắng xác lập cơ chế dạy và học văn hợp lí trong nhà trường thông qua cách trình bày SGK PT. Không phải những nhà biên soạn không hiểu kỹ Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị hay không hiểu hết câu chữ trong Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế nên phần hướng dẫn trong SGK còn ít ỏi. Bởi họ còn bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố khác khi biên soạn chương trình. Cũng là một cách “đọc” nhưng họ phải cô đúc những hiểu biết của mình và cố gắng gửi gắm nó qua những câu hỏi trong phần hướng dẫn để Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -43
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam học sinh dần tiến đến tư tưởng mà họ muốn nói đến. Học sinh khi tiếp xúc với văn bản văn học chính là đang tiến hành quá trình giao tiếp thẩm mỹ với văn bản. Việc tiếp nhận văn học của học sinh ở mỗi thế hệ khác nhau. Những thay đổi tùy thuộc vào thời đại và sự phát triển về cấu trúc tâm lí, cấu trúc nhân cách và cấu trúc văn hóa của chủ thể tiếp nhận. Do khoảng cách thẩm mỹ, thời đại và khác biệt về văn hóa nên tầm đón nhận của bạn đọc- học sinh cũng mang đặc trưng riêng. Việc gợi ý, hướng dẫn con đường tiếp nhận trong SGK PT là hết sức cần thiết nhằm rút ngắn khoảng cách đó. Việc tiếp nhận văn học trong nhà trường có những quy tắc, đặc điểm riêng, mang tính tập thể và có sự hướng dẫn của giáo viên nên khi biên soạn sách, các soạn giả cũng luôn phấn đấu vì mục đích hướng vào đáp ứng của học sinh. Trước đây, phần Hướng dẫn học bài còn nặng quan niệm truyền thống: dạy học sinh thấy được cái hay, cái đẹp của tác phẩm nhưng cái hay, cái đẹp đó là do người soạn sách chỉ ra và giáo viên thuyết trình, thuyết giảng. Những SGK biên soạn sau năm 2000 đã đưa ra nhiều câu hỏi gợi mở hơn, cho thấy những nhà biên soạn đã quán triệt quan điểm phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học- đồng thời cũng là những chủ thể tiếp nhận. Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -44
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam CHƯƠNG 2 GIẢI NGHĨA THƠ ĐƯỜNG TRONG NGHIÊN CỨU PHÊ BÌNH Ở VIỆT NAM Đa nghĩa là thuộc tính của tác phẩm nghệ thuật. Với người này, vào hoàn cảnh này thì nghĩa này nổi lên, với người khác vào hoàn cảnh khác thì nghĩa khác sẽ nổi lên. Quả thực không có một tác phẩm văn học nào tồn tại khép kín với một vẻ mặt duy nhất dành cho tất cả mọi người đến với nó. Đó là yếu tố chủ quan trong việc đọc và tìm hiểu tác phẩm. Hoạt động ý thức của nhà văn không thuộc về tác phẩm mà chỉ là cơ sở tồn tại của tác phẩm mà thôi. Một mặt, tồn tại một văn bản văn học như là sản phẩm sơ lược với những chỗ trống và những sự kiện chưa xác định, giống như một bộ xương, mặt khác thông qua sự cụ thể hóa (đọc) như là một hoạt động của ý thức hướng về nó mà bộ xương được đắp thêm da thịt và tác phẩm trên cơ sở đó mới thực sự được hình thành. Tính chất của sự cụ thể hóa này phụ thuộc vào trình độ người đọc và bản thân tác phẩm cũng hiện ra đúng với diện mạo của nó nếu gặp được sự cụ thể hóa lí tưởng nhất. Sự cụ thể hóa này mỗi người mỗi vẻ, không ai giống ai. Phương thức tồn tại của tác phẩm văn học qua sự cụ thể hóa của người đọc đã cho thấy sự tồn tại một tác phẩm không đơn giản là cái văn bản được viết ra mà còn phụ thuộc vào việc người ta tiếp nhận nó như thế nào. Nhà nghiên cứu- phê bình cũng là một trong số những độc giả tiếp nhận tác phẩm nhưng nếu như dịch giả với sứ mệnh cao cả đem đến cho người đọc bản dịch trung thành nhất với nguyên tác, người soạn sách “đọc” dưới sự chi Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -45
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam phối, quy định chặt chẽ của rất nhiều yếu tố khác thì nhà phê bình lại cung cấp cho họ một cái nhìn riêng, độc đáo, mới mẻ của riêng mình. Mỗi một nhà nghiên cứu lại mang đến một diện mạo mới, gương mặt mới cho một văn bản, khác với nhà biên soạn sách. Dù cho hoạt động “đọc” của họ đều xuất phát từ lập trường thẩm mỹ chuyên biệt và việc đọc nghĩa các tác phẩm của họ đều hướng đến những độc giả khác nhau, có tác dụng định hướng cao. 2.1. NGHIÊN CỨU PHÊ BÌNH TỲ BÀ HÀNH Ở VN 2.1.1. Giai đoạn 40 – 75: Sau năm 1940, đặc biệt là từ sau 1945, khi nền văn học Việt Nam thoát khỏi sự kiểm soát gắt gao của thực dân Pháp. Văn học Việt Nam có những điều kiện mới để phát triển, lí luận văn học từng bước được củng cố và nâng cao. Do đó, vấn đề diễn dịch tác phẩm Tỳ bà hành cũng được chú trọng. Hầu hết các tạp chí sách báo khoa học, chuyên ngành cũng như một số sách giáo trình và sách giáo khoa, khi giới thiệu văn bản chữ Hán của Tỳ bà hành đều có kèm lời “tự” của bài thơ. Bài tự này như sau: “Niên hiệu Nguyên Hòa thứ 10, ta phải đổi ra làm Tư Mã quận Cửu Giang. Mùa thu năm sau, đi tiễn khách ở bến Bồn, đêm nghe thấy người gảy tiếng đàn tỳ bà ở trong một chiếc thuyền kia, những giọng đàn lanh lảnh có tiếng ở Kinh kỳ. Hỏi ra mới biết là một người xướng nữ ở Trường An, thường học đàn hai nhà thiện tài họ Mục và họ Tào, đến khi tuổi già sắc suy mới gửi thân làm vợ một anh lái buôn. Liền bảo đặt rượu và gảy mấy khúc chơi. Gảy xong, người ấy buồn bã tự kể trẻ trung thì vui thú chừng nào, nay phải lưu lạc tiều tụy ở nơi giang hồ. Ta ra làm quan ở ngoài đã hai mươi năm, vẫn thường lẳng lặng, tự dưng đêm ấy cảm mấy lời nàng nói mới để ý đến mình bị giáng trích, nhân làm ra bài trường thiên này để tặng. Có bài có sáu trăm mười sáu lời, đặt tên là Tỳ bà hành”. Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị trên sách báo, tạp chí khoa học đã được tiếp nhận từ nhiều khía cạnh khác nhau. Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -46
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam Thơ Đường ở Việt Nam, ít nhiều đều tạo nên những ý hướng khác nhau trong việc diễn giải các điển tích, điển cố và ý thơ trong bài. Có những bài thơ rất ngắn nhưng cuộc tranh luận về câu chữ của nó thì hoàn toàn ngược lại, chẳng hạn như Phong kiều dạ bạc của Trương Kế. Bài thơ vẻn vẹn 4 câu thất ngôn thế nhưng “chẳng những nó gây xôn xao dư luận ở Việt nam mà cũng từng gây xôn xao dư luận cả ngàn đời ngay chính tại nơi nó sinh ra”. Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, tuy là một tác phẩm lớn nhưng sự tranh luận về nghĩa của câu chữ thì không phải là nhiều. Có sách chú thích theo bản dịch, có sách chú thích theo nguyên văn nhưng lượng từ được chú thích không nhiều. Trong nguồn tài liệu về Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị hiện còn lưu giữ, Bài hát Tỳ - bà của Thê Húc là quyển chú thích trọn vẹn nhất cho tác phẩm – cả nguyên tác và bản dịch. Nhìn chung các từ ngữ, ý thơ đều được hiểu tương tự nhau, chỉ số ít từ ngữ là không được thống nhất trong cách diễn giải. Việc chú thích cho các từ ngữ trong Tỳ bà hành dù không gây ra những cuộc tranh luận lớn nhưng cũng là một công việc khá phức tạp. Cuộc tranh luận về Tỳ bà hành chủ yếu tập trung vào mục đích và nội dung tư tưởng của tác phẩm. Lời tự của Bạch Cư Dị đã nói đến hoàn cảnh và nguyên nhân ra đời của bài thơ, nhưng cho đến nay, vẫn chưa có sự thống nhất trong cách cắt nghĩa về mục đích và nội dung tư tưởng của nó. Về hình ảnh người kỹ nữ trong bài, cũng có người cho đó là chuyện có thực, cũng có người cho đó chỉ là cái cớ tác giả tạo ra để tiện giãi bày tâm trạng. Năm 1949, trong Việt Nam văn học sử trích yếu (Nhà sách Vĩnh Bảo- Sài Gòn), Nghiêm Toản viết “Tỳ bà hành là bài thơ tả cảnh huống một người ký nữ, nổi danh tài sắc, riêng ngón đàn Tỳ thực là tuyệt diệu những sau một thời gian lừng lẫy trong làng son phấn, nàng lấy và đi theo một lái buôn. Khách mải kinh doanh để nàng trơ trọi một mình, trong đêm khuya nương bóng bên ngọn đèn xanh, nàng gửi lòng mình vào tiếng đàn Tỳ, vừa hay Bạch Lạc Thiên tiễn bạn đi qua, nghe tiếng đàn ghé lại hỏi chuyện nàng, “Nhân một lứa bên trời lận đận”, thi sĩ không khỏi ngậm ngùi mới Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -47
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam làm ra bài thơ này truyền thế” Theo cách hiểu này thì cuộc gặp gỡ giữa nhà thơ và kỹ nữ trên bến Tầm Dương là có thật, bài thơ được viết ra bởi tấm long xót xa đồng cảm với người kỹ nữ. Như vậy, Nghiêm Toản đã tiếp nhận Tỳ bà hành là một tác phẩm nghiêng về yếu tố tự sự. Cách tiếp nhận này về sau đã được một số tác giả sách giáo trình đồng tình, trong đó có Giáo sư Lê Đức Niệm. Đối lập với ý kiến trên, có người cho rằng Tỳ bà hành là bài thơ nghiêng về chất trữ tình thể hiện tâm trạng riêng của Bạch Cư Dị. Năm 1953, Phạm Văn Diêu trong Việt Nam văn học giảng bình đã chỉ ra rằng “cảm thông cho thân phận của người kỹ nữ này, lại nghĩ rằng đời bạc mệnh của nàng có giống than thế mình, thi sĩ ngậm ngùi phiên tác Tỳ bà hành đưa tặng người ca kỹ nhưng thực ra là cốt chỉ để bộc lộ nỗi niềm tâm sự riêng tây”. Nói như vậy, người kỹ nữ và cuộc gặp gỡ trên bến Tầm Dương có thể đã có thật nhưng mục đích của Bạch Cư Dị khi viết tác phẩm này là để kí thác tâm sự của mình, còn việc tặng thơ cho người ca kỹ chỉ là cái cớ. Phạm Văn Diêu đã phân tích khá chi tiết Tỳ bà hành. Ông diễn giải tác phẩm theo các luận điểm chính, đó là: 1 – Cảm giác cô đơn, lạnh lẽo (cô đơn trong khung cảnh, cô đơn của người đánh đàn, cô đơn của người nghe đàn), 2 – Cảm giác buồn nhớ mênh mông (buồn vì cảnh vật, buồn vì tiếng đàn, buồn vì câu chuyện của người kỹ nữ, buồn vì cảnh ngộ của tác giả), 3 – Tâm sự của tác giả hòa hợp với tâm sự của người đánh đàn, 4 – văn chương (kết cấu và lời thơ). Cùng thời gian năm 1953, có những người tiếp nhận Tỳ bà hành theo hướng phủ định tất cả nội dung tư tưởng của nó. Điều đáng nói là ý tưởng này lại nằm trong cuốn sách hướng dẫn ôn thi Trung học – Luận đề về Phan Huy Vịnh (bản dịch Tỳ bà hành) và Từ Diễn Đồng (Những bài thơ Nôm) (NXB Thăng Long, tác giả Sao Mai). Trong sách này, Sao Mai cho rằng “Áng thơ chỉ là một hoạt động thuần nhất, không cần chú trọng đến nhân sinh. Trong một phú xúc động mạnh mẽ, tác giả viết nó ra để tình cảm của mình bớt đau khổ. Bạch Cư Dị làm bài Tỳ bà hành chỉ vì chất nghệ sĩ, vì niềm tâm sự riêng của mình”. Như vậy, nói theo quan điểm đương thời ở Việt Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -48
- Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam Nam, thì Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị chỉ thuần túy là một tác phẩm “nghệ thuật vị nghệ thuật”, chứ hòan tòan không có “nghệ thuật vị nhân sinh”. Tuy nhiên cách hiểu này dường như bị cô lập, đến nay không còn xuất hiện trên các tạp chí, sách báo khoa học. 2.1.2. Giai đoạn sau 1975: Sau năm 1975, có thể nói, nghiên cứu, phê bình văn học nói chung và văn học Trung Quốc nói riêng, tiêu biểu là thơ Đường đã có điều kiện phát triển rầm rộ ở nước ta. Nhiều bài nhiên cứu, phê bình đã được in và giới thiệu trên các tạp chí khoa học, các tuyển tập Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị trong bối cảnh đó cũng nhận được nhiều sự quan tâm của giới yêu văn thơ, đặc biệt là yêu cái thâm trầm, kín đáo của thơ Đường. Cùng với cách hiểu với Phạm văn Diêu, năm 1994, Nguyễn Thạch Giang xếp Tỳ bà hành vào Những khúc ngâm chọn lọc cùng với Chinh Phụ ngâm- Đoàn Thị Điểm (nguyên tác của Đặng Trần Côn), Cung oán ngâm khúc- Nguyễn Gia Thiều Ở đây, Tỳ bà hành được xem là “một bài thơ nổi tiếng lấy chuyện người đánh đàn Tỳ - bà để tự ví mình” và ở đó, nhà thơ Bạch Cư Dị “khóc cho người mà cũng khóc cho chính mình”. (Nguyễn Thạch Giang (biên khảo và chú giải): Những khúc ngâm chọn lọc. Tập II. NXB Giáo Dục, 1994). Nhiều nhà nghiên cứu – phê bình tiếp cận Tỳ bà hành theo hướng khác: coi tác phẩm như một chỉnh thể vừa là tự sự, vừa là trữ tình – vừa nói về kỹ nữ, vừa nói về nhà thơ. Năm 2004, trong cuốn Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc: Toàn tập, tập II, NXB Văn học, tác giả, trên cơ sở phân tích mối quan hệ tương đồng giữa hoàn cảnh của Bạch Cư Dị và người kỹ nữ đã viết “ cái bài tràng thiên những sáu trăm hai mươi hai chữ của ông Lạc Thiên này vừa nói chính ông, lại vừa nói cả kỹ nữ, ngụ biết bao nhiêu ý tứ não nùng, diễn ra bao câu văn thú vị”. Nguyễn Quốc Siêu, khi giải đề cho Tỳ bà hành đã đồng thời nhấn mạnh cả chất tự sự và chất trữ tình. Ông không phản đối ý kiến cho rằng bài thơ có tâm trạng của Bạch Cư Dị song cũng chú ý đến tính chất “điển hình” Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -49