Phẩm chất nghệ sĩ của người Tây Nguyên trong văn học viết về Tây Nguyên

pdf 7 trang hapham 1780
Bạn đang xem tài liệu "Phẩm chất nghệ sĩ của người Tây Nguyên trong văn học viết về Tây Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfpham_chat_nghe_si_cua_nguoi_tay_nguyen_trong_van_hoc_viet_ve.pdf

Nội dung text: Phẩm chất nghệ sĩ của người Tây Nguyên trong văn học viết về Tây Nguyên

  1. Tư liệu tham khảo Số 46 năm 2013 ___ PHẨM CHẤT NGHỆ SĨ CỦA NGƯỜI TÂY NGUYÊN TRONG VĂN HỌC VIẾT VỀ TÂY NGUYÊN ĐẶNG VĂN VŨ* TÓM TẮT Bài viết làm nổi bật một phẩm chất độc đáo của người Tây Nguyên: phẩm chất nghệ sĩ. Chất nghệ sĩ ấy thể hiện ở việc họ rất thích chơi, họ có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc và điêu khắc. Bài viết sẽ giúp người đọc hiểu và yêu mến hơn con người Tây Nguyên. Từ khóa: Tây Nguyên, phẩm chất nghệ sĩ. ABSTRACT The artistic quality of the local people in the literature about the Central Highland The article highlights a unique quality of people living in the Central Highland: the artistic quality.It is described in how they love to play and have a special talent for music and sculpture. The article would help readers understand and feel deeper affection for the people in the Highland. Keywords: Highland, artistic quality. 1. Mở đầu 2. Chất nghệ sĩ của người Tây Các tác phẩm văn học viết về Tây Nguyên Nguyên đã đem đến cho người đọc một Thiên nhiên hoang dã với bao nhiêu sự ngạc nhiên thú vị về đời sống văn hóa, bí ẩn kì thú như màn sương mỏng bao đồng thời cũng khiến người đọc thích thú phủ trong tâm hồn con người Tây với vẻ đẹp của con người Tây Nguyên. Nguyên. Con người luôn đứng trong thế Đó là vẻ đẹp mặn mòi, khỏe khắn của chênh vênh giữa thực và hư, giữa “cô gái những cô sơn nữ với những quan niệm rừng” và “cô gái làng”. Sự giằng co, níu thẩm mĩ độc đáo. Đó là vẻ đẹp vạm vỡ, kéo giữa hai thế giới ấy khiến con người rắn chắc, tràn đầy sinh lực của những không thể chỉ sống với hiện thực mà phải chàng trai; vẻ đẹp vững chãi như “cây xà dành thời gian cho một cuộc sống phi nu lớn” của các cụ già. Đặc biệt, người hiện thực, tràn đầy sự lãng mạn. Sự lãng đọc sẽ trầm tư nghĩ lại mình khi đối diện mạn đã làm nên chất nghệ sĩ. Chất nghệ với những tính cách, phẩm chất nhân ái, sĩ được hấp thụ trong sự phong phú của luôn hết mình với người khác và với những điệu nhạc rừng tuôn chảy từ thuở cộng đồng, được hình thành từ truyền hồng hoang. thống tốt đẹp của buôn làng. Giây phút 2.1. Tâm hồn phóng khoáng trầm tư đi qua, người đọc lại hứng khởi Con người nghệ sĩ ấy thể hiện trước với những tâm hồn phơi phới chất nghệ hết ở tâm hồn phóng khoáng, lấy lang sĩ, với đời sống nghệ thuật tràn ngập thang phiêu bạt làm niềm vui của cuộc không gian núi rừng. đời, không chịu ràng buộc bởi yếu tố vật chất. Trong tác phẩm Lễ thổi tai và rượu * TS, Trường Đại học Sài Gòn 174
  2. Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Đặng Văn Vũ ___ cần, tản mạn nhớ và quên, Nguyên Ngọc vui tinh thần lớn hơn thú vui vật chất. Và nhấn mạnh: “Nếu có dịp đến Tây người Tây Nguyên xưa là dân tộc nghệ sĩ Nguyên bạn nán lại ở chơi với Tây nhất trong các dân tộc nghệ sĩ. Ngày nay, Nguyên dăm ba bữa, được mươi ngày trong sự hội nhập với các dân tộc anh em, nửa tháng càng hay, thì cũng chẳng cần người Tây Nguyên cũng bị cuốn xoáy chăm chú lắm đâu, bạn sẽ nhận ra ngay trong môi trường “làm ăn” và họ cũng rất điều này: người đàn ông Tây Nguyên rất thực dụng. Nhưng không vì thế mà họ thích lang thang” [6, tr.21]. Còn ở Tượng xao nhãng thú chơi của mình. Trong mùa gỗ rừng già, nhà văn cũng nói: “Tôi ở lễ hội, họ vẫn lang thang, uống rượu, vui Tây Nguyên đã lâu, tôi không thấy ai tự chơi đến quên cả thời gian. Có lẽ do sống do bằng người Ba-na. Có lẽ họ là dân tộc trong môi trường phóng khoáng của tự nghệ sĩ nhất trong các dân tộc nghệ sĩ. nhiên dẫn đến sự phóng khoáng trong Ham chơi, thích lang thang, ngao du, ca tính cách và tâm hồn. Môi trường rừng hát và yêu đương” [6, tr.10]. Không phải với sự phong phú của sản vật cùng những đơn giản mà nhà văn đưa ra một nhận xét bí ẩn đã thôi thúc con người khám phá, như vậy về người Tây Nguyên. Núp - chính vì vậy mà người Tây Nguyên có người anh hùng của núi rừng Tây thói quen thích lang thang trong rừng, Nguyên, con chim đầu đàn trong phong xem đó là một thú vui lớn. Dần dần, lang trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Tây thang đã trở thành một lẽ sống. Nguyên, cũng là con người rất thích lang 2.2. Năng khiếu âm nhạc thang: “Tôi chẳng lấy làm lạ lắm. Hơn Tuy nhiên lang thang phiêu bạt năm mươi năm quen biết nhau, tôi biết chưa phải là biểu hiện rõ nhất và phong tính ông rồi. Cũng như tất cả đàn ông phú nhất của con người nghệ sĩ Tây Ba-na, ông không bao giờ chừa được cái Nguyên. Đặc điểm nổi bật chính là năng tính đi lang thang, như ngọn gió. Gặp khiếu âm nhạc và điêu khắc, trong đó khả đâu ghé đó, vô mục đích. Hay đúng hơn, năng âm nhạc là hàng đầu. “Người Tây có một mục đích: lang thang!” [6, tr.7]. Nguyên rất nhạy cảm với nhịp điệu, với Đến thăm nghệ sĩ Y Yơn sau bao nhiêu sự hài hòa, với cái chung; giai điệu luôn năm xa cách, nhà văn Nguyên Ngọc thốt nghèo, chẳng quan trọng lắm đối với họ. lên: “Ôi Y Yơn của tôi, lại vẫn thế này Nhưng những yếu tố đó đã đủ làm cho họ sao anh? Vẫn Tây Nguyên đến tận đáy trở thành một nhạc sĩ. Họ có năng khiếu tâm hồn. Vẫn nghệ sĩ lang bạt kì hồ đến nhạc - họ có thể nghe nhạc hàng nhiều tận máu thịt. Và vẫn nghèo thế suốt đời, giờ - họ ham thích và có cảm quan âm công danh chẳng thiết, tiền bạc chẳng xu nhạc” [5, tr.234]. Tâm hồn phong phú dính túi, cuộc đời như một cuộc phiêu du thường nhạy cảm với nhịp điệu, nhất là bất định ” [7, tr.187-188]. Nghệ sĩ là khi nhịp điệu của núi rừng luôn vỗ về người rất thích chơi, tìm cái đẹp trong sự cảm xúc của con người. Điều đó khiến chơi, xem thường những cám dỗ vật chất. “Người Tây Nguyên rất thích hát: người Đối với họ nhu cầu thoả mãn những thú đàn ông ngồi sưởi bên bếp lửa nhà sàn, 175
  3. Tư liệu tham khảo Số 46 năm 2013 ___ người đàn bà ru con, trẻ con chơi đùa, có sẵn, mà chỉ là lời nói chuyện thông mọi người đều hát những bài hát truyền thường, nhưng người Tây Nguyên lại thống” [5, tr.203]. Tiếng hát, tiếng đàn thêm vào giai điệu để hát. Họ dùng giai không bao giờ ngừng vang lên trong đời điệu để giao tiếp với nhau. Chỉ có những sống, vì vậy nó cũng rất phong phú trong tâm hồn lãng mạn và tư chất âm nhạc những trang văn xuôi về Tây Nguyên. bẩm sinh mới có khả năng ứng tác tuyệt Các nhà văn phản ánh đặc điểm này như diệu như vậy. Trong giao tiếp thông là một bổ sung cho bức chân dung người thường, trong hội hè, người ta đã hát, và Tây Nguyên được hoàn thiện hơn. Và nó họ cũng hát lên cả trong hoàn cảnh hiểm cũng góp phần làm rõ hơn tính cách của nguy: “Sau khi hang trú ẩn bị ném bom, nhân vật - những nhân vật luôn được xây Bin nói: Chô cha, du kích tan hoang, tan dựng với ý thức ngợi ca. Trong Đất nước hoang, du kích tan hoang. Và cứ thế cậu đứng lên, Nguyên Ngọc rất chú ý miêu tả vừa đi vừa hát Nó vừa chất chứa một lĩnh vực âm nhạc và xem đó như là một nỗi niềm cay đắng, chán chường, lại vừa âm thanh nhẹ nhàng, thanh thoát vút lên hóm hỉnh, khôi hài Bin hát say sưa, tất giữa bao bộn bề loảng xoảng của vũ khí cả chúng tôi đều hát theo” [2, tr.46]. và của lòng căm thù. Tám bài hát trong Thường thì người ta chỉ hát lên khi trong tác phẩm như tám khe nước hòa thành lòng phơi phới niềm vui. Có lẽ không ở một dòng suối ngọt ngào chảy giữa rừng đâu, trong lúc “cay đắng chán chường”, núi dữ dội của cuộc chiến không cân sức con người vẫn hát như ở Tây Nguyên. giữa làng Kông Hoa đói rách với thực Dường như hát là một nhu cầu bản năng: dân Pháp dồi dào lương thực và vũ khí. “Cái rẫy do buôn làng làm chủ, lúa chín Cuộc kháng chiến chống Mĩ của đầy ắp. Đến rẫy mà không hát cái bụng làng Ma Hơ Giang trong tác phẩm Hơ khó chịu lắm” [3, tr.62]. Trong chiến đấu Giang của Y Điêng cũng vô cùng khốc thắng lợi: hát, thất bại cũng hát; trong lao liệt. Nhưng không vì thế mà tiếng hát động nhọc nhằn: hát; trong tình yêu hạnh ngừng cất lên trong sinh hoạt của đồng phúc: hát, đau khổ cũng hát. Tiếng hát là bào. Gia đình Ma Hơ Giang đến thăm sự nâng nhịp của trái tim, là điệu thức nhà Ma Soa để chuẩn bị làm lễ cưới cho của tâm hồn. Tâm hồn người Tây Hơ Giang và Y Soa, Mí Y Soa và Mí Hơ Nguyên trong veo như nước suối nên rất Giang nói chuyện với nhau bằng lời hát: dễ rung động trước những âm thanh “róc “Anh ơi, chị ơi! Chúng ta đâu phải xa rách” nhất, để rồi ngân lên những giai vời. Chị cán thì em lưỡi. Buôn ta cách điệu thiết tha. nhau chỉ một con đồi. Bến nước chúng ta Qua khảo sát trên, chúng tôi thấy chung một dòng suối. Em đến đây không hầu như trong mọi cảm xúc vui buồn, phải chuyện này, chuyện nọ. Đến thăm người Tây Nguyên đều hát để bộc lộ tâm anh chị. Muốn trái bầu tốt phải chăm tình, để gửi gắm nỗi niềm. Bài hát thể nom từ lúc nó còn non” [3, tr.39]. Nhìn hiện tình yêu quê hương, nương rẫy; thể vào nội dung, đây không phải là bài hát hiện tình người cao đẹp; thể hiện lòng 176
  4. Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Đặng Văn Vũ ___ căm thù giặc và ý chí sắt đá; thể hiện tr.314]. Các dân tộc Tây Bắc lợi dụng sức niềm hân hoan vui sướng, cả những khổ nước để giã gạo, ở vùng Quảng Ngãi đau Và tất cả mọi người đều hát, từ em người ta đặt guồng nước để tưới ruộng, ở bé cho tới cụ già, từ phụ nữ cho đến Tây Nguyên người ta dùng sức nước để thanh niên. Đối với họ, không gì có thể tạo ra âm nhạc. Đối với người Tây thay thế được lời hát trong đời sống tinh Nguyên, một chiếc lá rừng bình thường thần của mình. họ cũng có thể biến thành nhạc cụ: “Đôi Cuộc sống sẽ ngập tràn hương sắc môi anh mọng đỏ, những đôi môi lạ lùng khi âm nhạc ngự trị. Bởi vì âm nhạc có của người Gia-rai có thể biến mọi thứ lá khả năng biến hiện thực thành lãng mạn, rừng thành những chiếc kèn có âm sắc biến nỗi nhọc nhằn thành niềm vui, biến tha thiết đến nao lòng” [8, tr.247]. Như khổ đau thành hạnh phúc Người Tây trong lao động và chiến đấu, trong “sự Nguyên hay hát nên họ đã sáng tạo rất chơi” của người Tây Nguyên cũng luôn nhiều nhạc cụ. Cũng như cồng chiêng, gắn chặt với rừng. Ngoài cồng chiêng, ít các loại nhạc cụ có sức lay động diệu kì, thấy người Tây Nguyên có nhạc cụ bằng vì nó mang theo tiếng nói của thần linh: kim loại mà toàn là từ những sản vật của “Thần Núi, thần Lửa, thần Nước như rừng. Và cũng vì vậy mà nó chủ yếu mô nhập vào cả ống lồ ô của Dổi khiến tiếng phỏng âm thanh của rừng. Rừng già có T’rưng khi thì rầm rập, gấp gáp như bao nhiêu âm thanh thì con người cũng rừng núi chuyển mình với hàng đàn voi có bấy nhiêu nỗi niềm. Mọi nỗi niềm của đi nghiêng sườn núi; khi lại róc rách hiền con người đều được giãi bày qua tiếng hòa như tiếng suối ban mai; lúc lại líu lo đàn: “Gặp những đêm trăng sáng, hãy lảnh lót như như tiếng chim Kơ tía gọi nín lặng mà nghe điệu nỉ non của cây mặt trời lên” [10, tr.10]. Trong hàng trăm đàn kni đang nói đầu sàn lời yêu thương loại nhạc cụ ở Tây Nguyên, có thể nói của chàng trai Gia Rai. Nghe tiếng thủ đàn tơ rưng là loại nhạc cụ diễn tả được thỉ mơ hồ của sáu phụ nữ Ê-đê với sáu nhiều âm thanh của núi rừng nhất, bởi ống nứa của đàn đinh tút. Tiếng ân cần vậy, nó là nhạc cụ phổ biến nhất. Ngoài gọi vợ giã gạo buổi sáng của cây mbuốt đàn tơ-rưng thông thường, người Tây Mnông ” [11]. Có thể nói, không gian Nguyên còn sáng chế chiếc đàn tơ-rưng núi rừng Tây Nguyên đặc quánh âm nước vô cùng độc đáo: “Đàn tơ-rưng thanh của rất nhiều loại nhạc cụ. Họ nước cũng giống như đàn tơ-rưng không hề có lí thuyết âm nhạc, họ sáng thường, làm bằng nhiều ống tre lồ ô, cái tạo và chơi nhạc cụ bằng khả năng bẩm dài, cái ngắn khoét móp đi rất khéo, cột sinh, tức là khả năng được thần linh ban lại với nhau. Làm xong cái đờn, đem cột tặng, vì vậy mà sức biểu hiện của nó là trên một hòn đá ngoài suối. Đầu cái đờn vô tận: “Chị tôi cầm ống đinh yơng lên cột vào một hòn đá giữa suối, đuôi cái phủi bụi. Rồi chị nghiêng đầu thổi. Đêm đờn cũng cột vào một hòn đá giữa suối, sâu hun hút gió. Tiếng đinh yơng chập ngay chỗ nước suối đổ thẳng xuống” [7, chờn, âm thanh chuyển dần, sáng dần lên 177
  5. Tư liệu tham khảo Số 46 năm 2013 ___ tựa hồ chị tôi đang đi trên rẫy lúa lúc không tinh xảo trong đường nét như của chiều về. Tựa hồ tôi đang ngụp lặn dưới các dân tộc đã có được lí luận về nghệ sông tìm cá. Tựa hồ bản làng đang náo thuật này; bởi vì cũng như khi cất nhà nức rước Mẹ Lúa về kho ” [1, tr.274]. rông, khi làm tượng, họ chỉ dùng một Chắc chắn H’Noanh không biết chút gì dụng cụ duy nhất là chiếc rìu. Đối với về nhạc lí, nếu có biết nhạc lí chưa chắc người Tây Nguyên, “nghệ thuật” là một gì chị thổi đinh yơng hay đến vậy, bởi vì khái niệm hết sức xa lạ. Họ đẽo tượng từ ý thức về nhạc lí đôi khi làm hạn chế khả sự sai khiến của thần linh, từ sự thôi thúc năng hòa nhập tuyệt đối tâm trạng vào của tiềm thức, hay đơn giản để thỏa mãn tiếng đàn, lời hát. Âm nhạc của người cảm xúc dâng trào trước một sự kiện nào Tây Nguyên là một thứ âm nhạc của tự đó. Mỗi khu nhà mồ ở Tây Nguyên là nhiên, mà tự nhiên bao giờ cũng có sức một vườn tượng, giống như cuộc triển hút mạnh mẽ. lãm nghệ thuật của rừng già. Những bức Đời sống âm nhạc chiếm một vị trí tượng mẹ bồng con, trẻ sơ sinh trong bào rất quan trọng đối với người Tây Nguyên thai, người ngồi bó gối hai tay bịt hai tai, và gần như là hình thức giải trí quan người đánh trống, giã gạo, người giao trọng nhất. Đối với họ, ngoài sinh hoạt lễ hoan, các loài thú đã làm nên một thế hội, có hai hình thức sinh hoạt chủ yếu là giới tượng gỗ vô cùng độc đáo của núi làm rẫy để có cái ăn vật chất và sinh hoạt rừng Tây Nguyên. âm nhạc để có “cái ăn” tinh thần. Với Ở Tây Nguyên, không phải nhà thể chất cường tráng, họ có thể lao động rông nào cũng có tượng, nhưng hễ nhà không ngơi nghỉ; với tâm hồn khỏe rông nào có thì đó đều là những tác phẩm khoắn và tư chất âm nhạc bẩm sinh, họ đặc biệt. Đặc biệt vì nó thường được tạo có thể đánh đàn ca hát suốt đêm, thậm chí ra không phải từ ý thức nghệ thuật mà là suốt đời. Hơn nữa người Tây Nguyên chúng chỉ là sự bùng lên của một khát rất ít nói bằng ngôn ngữ nên họ thường vọng đột ngột đến vì kích thích trong một “nói” bằng âm nhạc. Âm nhạc, do đó, là dịp thiêng liêng nào đó: “Trong cái đêm một phương tiện giãi bày quan trọng làng cất nhà rông, không khí thiêng liêng những cảm xúc nảy sinh trong cuộc sống. và bí ẩn của sự kiện trọng đại đột nhiên Hiểu sâu sắc tính cách này, các nhà văn nhập vào anh, “ám” vào anh. Anh chẳng đã vận dụng nó để tạo ra một nét đẹp đặc dừng được, anh choàng dậy, chụp lấy cái trưng của con người Tây Nguyên. rìu, xăm xăm đi vào rừng, một mình, tìm 2.3. Tài điêu khắc đến đúng cây gỗ cứ như đã sinh ra tự bao Ngoài khả năng âm nhạc, người giờ cho đúng cái dịp này” [6, tr.18]. Thời Tây Nguyên còn có tài điêu khắc. Đến gian cất nhà rông là thời gian vô cùng Tây Nguyên, người ta sẽ ngỡ ngàng trước linh thiêng của buôn làng. Trong không những bức tượng nhà mồ và tượng ở nhà khí ấy, sẽ có một người trong làng được rông có hầu khắp các buôn làng. Các tác thần linh giao sứ mệnh đẽo tượng bằng phẩm điêu khắc của người Tây Nguyên một giấc mơ, và người ấy làm theo sự chỉ 178
  6. Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Đặng Văn Vũ ___ dẫn của thần. Họa sĩ Phạm Luận (Chớp thuật khác ở Tây Nguyên chứa bao nhiêu trên đỉnh Kon Từng - Trung Trung Đỉnh) điều kì bí, nhưng cơ bản nó vẫn thể hiện trong một chuyến đến làng Đê Chơ Rang tâm tư tình cảm của con người nơi đây. đã bị mê hoặc bởi một bức tượng đặt ở Đó là giây phút trầm tư của con người: nhà rông của làng, ông nhờ tác giả (Kơ “Tôi bỏ cần rượu ông Núp vừa trao, nhìn Tít) làm cho một cái như vậy, thế là Kơ lên và sửng sốt: một bức tượng tuyệt Tít đùng đùng nổi giận: “Chú nói tầm diệu! Bên dưới là cái bệ đỡ hình nón đặt bậy tầm bạ. Tui ưng thì tui làm. Thần ngược, trên đó là một con khỉ - hay một linh mách tui làm chớ chú tầm bậy quá, con người - ngồi chồm hỗm, hai tay sao biểu tui làm” [1, tr.255]. Vậy đó, chống cằm, hai gò má cao, đôi mắt trắng nghệ thuật điêu khắc Tây Nguyên là cả dã đăm đăm nhìn vào cõi không cùng” một sự bí ẩn, kì diệu. Sức hút của nó [7, tr.12]. Đó là nỗi đau thế sự: “Bức cũng chính từ đó chăng? Đến với nghệ tượng thoạt nhìn thật giản dị, thô sơ. Từ thuật bằng cái nhìn khoa học hay là bằng phần ngực trở xuống chỉ là một khối gỗ lí trí tỉnh táo đôi khi ta khó cảm nhận hết tròn đẽo vạc đơn sơ. Nhưng khuôn mặt chiều sâu cũng như sự độc đáo của nó. Tôi đã rùng mình khi ngước nhìn gương Cần có một chút “ngây thơ” nào đó trong mặt đau khổ với những giọt nước mắt to, tâm hồn mới có thể tiếp nhận tác phẩm nặng chảy dài trên thớ gỗ” [9, tr.151] một cách tinh tế nhất. Đối với với việc Điểm đáng chú ý của điêu khắc Tây thưởng thức nghệ thuật điêu khắc Tây Nguyên là không tả thực mà chỉ tả thần Nguyên, điều này càng cần thiết. Nghệ thái của nhân vật, những ràng buộc về thuật Tây Nguyên là một thứ nghệ thuật chức năng tôn giáo chỉ mang tính tương hồn nhiên, vì họ không phải là nghệ sĩ đối, chỉ có khoái cảm bản nguyên mới chuyên nghiệp: “Ở Tây Nguyên không có tràn ngập cho nên họ không cần hình nghệ sĩ chuyên nghiệp. Người ta không mẫu, say sưa thể hiện thể hiện mạch cảm làm nghệ thuật. Nghệ thuật tuyệt đối xúc cho đến lúc hoàn thành tác phẩm. không phải là một nghề. Nghệ thuật là Cùng với nghệ thuật điêu khắc Chăm Pa, đời sống, cách sống, thế thôi. Là hơi thở, điêu khắc trong các công trình xây dựng là không khí” [6, tr.17]. Có lẽ do không ở Bắc Bộ; điêu khắc nhà rông, nhà mồ có nghệ sĩ chuyên nghiệp nên mọi người Tây Nguyên là nền điêu khắc lớn, nhưng Tây Nguyên đều có thể là nhà điêu khắc, điểm khác của điêu khắc Tây Nguyên là bởi vì mọi thiếu niên lớn lên đều phải học ở tính độc đáo và kì lạ mang nhiều màu đan lát và đẽo tượng. sắc huyền thoại của nó. Ở đâu cũng vậy, nghệ thuật bao giờ 3. Kết luận cũng mang hơi thở của cuộc sống, nhất là Trong những trang viết về miền núi những khi người sáng tạo không xuất phía Bắc của Tô Hoài, tác giả cũng rất phát từ ý thức nghệ thuật mà từ nhu cầu chú ý khai thác chất nghệ sĩ của các tộc tự thân của cuộc sống. Nghệ thuật tạc người thông qua những bài hát, tiếng sáo tượng cũng như nhiều loại hình nghệ trong “Truyện Tây Bắc”. Chúng ta cũng 179
  7. Tư liệu tham khảo Số 46 năm 2013 ___ thấy được chất tài tử của con người Nam những cuộc chơi bất tận, không thể thiếu Bộ trong tác phẩm của Sơn Nam, Bình âm thanh của tiếng đàn tiếng hát luôn Nguyên Lộc, Trần Kim Trắc Tuy nhiên vang lên trong buôn làng, rừng núi. Họ so với các tác phẩm về Tây Nguyên, cũng thường xuyên có những giây phút những con người nghệ sĩ ấy không phong bùng phát của kí ức cộng đồng và cá phú, đậm đặc bằng. Thế giới nghệ thuật nhân để rồi thể hiện điều đó trong những của những tác phẩm văn xuôi Tây pho tượng gỗ giản dị ở đường nét nhưng Nguyên không thể thiếu những bài hát sâu sắc trong giá trị biểu hiện Con cũng như âm thanh của rất nhiều loại người Tây Nguyên, do đó, luôn đậm đặc nhạc cụ, không thể thiếu những bức chất tài tử. Họ là những nghệ sĩ Tây tượng nhà mồ độc đáo. Bởi vì đời sống Nguyên. của người Tây Nguyên không thể thiếu TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trung Trung Đỉnh (2002), Đêm nguyệt thực, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 2. Trung Trung Đỉnh (2006), Lạc rừng, Ngõ lỗ thủng, Nxb Văn học, Hà Nội. 3. Y Điêng (1978), Hơ Giang, Nxb TP Hồ Chí Minh. 4. Dambo (2003), Miền đất huyền ảo, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 5. Jacques Dournes (2002), Rừng, đàn bà, điên loạn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 6. Nguyên Ngọc (2005), Tản mạn nhớ và quên, Nxb Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh. 7. Nguyên Ngọc (1999), Tháng Ninh Nông, Nxb Đà Nẵng. 8. Nguyên Ngọc (2006), Tác phẩm chọn lọc, Nxb Văn học, Hà Nội. 9. Nhiều tác giả (1998), Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi, (7 tập), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 10. Đỗ Tiến Thụy (1998), “Tiếng Tơrưng làng Trấp”, Tạp chí Văn nghệ, (12), tr. 8-12. 11. http//www.linhnganiekdam.vn/index.php/truyen_ngan_linh_nga (Ngày Tòa soạn nhận được bài: 29-01-2013; ngày phản biện đánh giá: 04-3-2013; ngày chấp nhận đăng: 20-5-2013) 180