Phương pháp nghiên cứu xã hội học - Nguyễn Xuân Nghĩa

pdf 183 trang hapham 7391
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Phương pháp nghiên cứu xã hội học - Nguyễn Xuân Nghĩa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfphuong_phap_nghien_cuu_xa_hoi_hoc_nguyen_xuan_nghia.pdf

Nội dung text: Phương pháp nghiên cứu xã hội học - Nguyễn Xuân Nghĩa

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM Phương pháp nghiên cứu xã hội học NGUYỄN XUÂN NGHĨA Biên soạn 1
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN HỌC TẬP PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU XÃ HỘI HỌC Biên soạn: NGUYỄN XUÂN NGHĨA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2
  3. Mục Lục GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT MƠN HỌC Chương 1: NGHIÊN CỨU XÃ HỘI: ĐẶC ĐIỂM VÀ LOẠI HÌNH 1.1. Tính chất và đặc điểm của nghiên cứu xã hội: 7 1.2. Các loại hình nghiên cứu: 9 1.3. Những khía cạnh thực tế và đạo đức của nghiên cứu xã hội 21 Chương 2: CÁC BƯỚC ĐI TRONG NGHIÊN CỨU XÃ HỘI 2.1. Tổng Quan: 25 2.2. Xác định vấn đề nghiên cứu: 27 2.3. Xây dựng mơ hình phân tích: 34 2.4. Thiết kế nghiên cứu: 39 Chương 3: CHỌN MẪU 3.1.Một số thuật ngữ liên quan đến chọn mẫu: 44 3.2. Các loại mẫu: 45 3.3. Qui mơ của mẫu: 51 3.4. Nghiên cứu định lượng và định tính với việc chọn mẫu: 54 Chương 4: KỸ THUẬT XÂY DỰNG BẢN CÂU HỎI 4.1.Chọn loại hình bản hỏi thích hợp: 58 3
  4. 4.2. Những sai lầm thường mắc phải khi xây dựng bản hỏi: 61 4.3. Các điểm cần lưu ý khi đặt các câu hỏi: 62 4.4.Câu hỏi mở và câu hỏi đĩng: 64 4.5. Thứ tự các câu hỏi: 67 4.6. Hình thức của câu trả lời: 69 4.7. Bố cục của bản hỏi: 71 4.8. Phỏng vấn thử và tập huấn điều tra viên: 73 Chương 5: KỸ THUẬT PHỎNG VẤN 5.1. Ưu điểm và hạn chế của kỹ thuật phỏng vấn 75 5.2. Các đặc tính của điều tra viên cĩ thể ảnh hưởng đến cuộc phỏng vấn 77 5.3. Chuẩn bị phỏng vấn: soạn thảo bản hướng dẫn phỏng vấn. 78 5.4. Các loại hình phỏng vấn: 80 Chương 6: PHƯƠNG PHÁP QUAN SÁT 6.1. Ưu điểm và hạn chế của quan sát: 96 6.2. Các loại hình quan sát: 99 6.3. Những bước đi chính trong quan sát tham gia: 104 Chương 7: NGHIÊN CỨU TƯ LIỆU & PHÂN TÍCH NỘI DUNG 7.1. Ưu điểm và hạn chế của nghiên cứu tư liệu: 111 4
  5. 7.2. Nguồn tư liệu và việc sử dụng tư liệu trong nghiên cứu: 113 7.3. Vài loại hình nghiên cứu tư liệu 114 7.4. Phân tích nội dung 115 Chương 8: PHƯƠNG PHÁP THỬ NGHIỆM 8.1. Đặc điểm của thử nghiệm: 130 8.2. Phân loại các loại hình thử nghiệm: 130 Chương 9: XỬ LÝ, PHÂN TÍCH CÁC DỮ KIỆN THÂU THẬP & TRÌNH BÀY MỘT BÁO CÁO NGHIÊN CỨU 9.1. Xử lý và phân tích các dữ kiện định lượng: 142 9.2. Xử lý và phân tích các dữ kiện định tính: 150 9.3. Trình bày một báo cáo nghiên cứu xã hội: 159 HƯỚNG DẪN GIẢI ĐÁP BÀI TẬP 163 TÀI LIỆU THAM KHẢO 166 5
  6. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT MƠN HỌC Phương pháp nghiên cứu xã hội học là mơn học bắt buộc và cĩ tầm quan trọng trong chương trình đào tạo cử nhân xã hội học ở nước ta. Ở nhiều nước trên thế giới, mơn phương pháp nghiên cứu nĩi chung cũng là mơn bắt buộc ở nhiều ngành thuộc các bậc học cử nhân và trên đại học. Mơn học này nhằm cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản để cĩ khả năng thực hiện các nghiên cứu xã hội. Vì vậy tập sách này sẽ trình bày các bước đi, một số phương pháp, kỹ thuật để sinh viên cĩ thể bước đầu làm những nghiên cứu ở qui mơ nhỏ. 1.Nội dung Tập sách này bao gồm những phần chính như sau: Giới thiệu khái quát các đặc điểm và các loại hình chính yếu của nghiên cứu xã hội (chương 1).Các chương kế tiếp trình bày ba giai đoạn chính khi thực hiện một nghiên cứu. 1.1.Giai đoạn chuẩn bị. Trình bày ba bước đi cơ bản trong một cuộc nghiên cứu, là: xác định vấn đề nghiên cứu, xây dựng khung lý thuyết, thiết kế cuộc nghiên cứu (chương 2) và các kỹ thuật và loại hình chọn mẫu nghiên cứu (chương 3) 1.2.Giai đoạn thực hiện. Cuộc nghiên cứu được thể hiện qua việc trình bày các phương pháp và kỹ thuật để thu thập thơng tin, như: xây dựng bản hỏi (chương 4); phỏng vấn (chương 5); phương pháp quan sát (chương 6); nghiên 6
  7. cứu tư liệu và phân tích nội dung (chương 7); thử nghiệm (chương 8). 1.1.3.Giai đoạn xử lý, phân tích. Các thơng tin đã được thu thập và trình bày một báo cáo nghiên cứu xã hội được trình bày ở chương 9. 2.Điều kiện. Để học tốt mơn này sinh viên cần cĩ những kiến thức cơ bản của các mơn Xã hội học đại cương, Thống kê xã hội và Tin học ứng dụng trong khoa học xã hội (SPSS). 3.Cách học. 3.1Về thời gian học tập. Tuỳ thuộc loại hình đào tạo, tập sách này cĩ thể sử dụng cho thời lượng 45-60 tiết học trên lớp. Sau khi đã nắm những khái niệm cơ bản, sinh viên cĩ thể kiểm tra kiến thức của mình bằng cách tự trả lời các câu hỏi và làm một số bài tập nằm cuối mỗi chương. 3.2Về kỹ năng thực hiện. Đây là mơn học mang tính ứng dụng, do đĩ địi hỏi sinh viên kỹ năng thực hiện – theo hình thức cá nhân hay nhĩm – chẳng hạn với các kỹ thuật làm bản hỏi, phỏng vấn sâu, phỏng vấn nhĩm, sinh viên cĩ thể thực tập ngay trong lớp với sự gĩp ý của bạn bè và giảng viên hướng dẫn. Sinh viên cũng cĩ thể học hỏi kinh nghiệm nghiên cứu của người khác, bằng cách đọc, tĩm tắt, phê bình các bài nghiên cứu trong các tạp chí khoa học, các khố luận tốt nghiệp. Lý tưởng nhất là sau khi đã nắm bắt các kiến thức cơ bản của mơn này, mỗi sinh viên tự suy nghĩ chọn một đề tài nghiên cứu, thực hiện các bước đi, thiết kế các cơng cụ để 7
  8. thu thập dữ kiện - nếu cĩ điều kiện, thực hiện cuộc nghiên cứu ở qui mơ nhỏ và học cách xử lý, phân tích các dữ kiện đã thu thập. 4.Tài liệu tham khảo. Trong mỗi chương, chúng tơi sẽ nêu lên một vài tài liệu tham khảo chọn lọc bằng tiếng Việt và sách tham khảo chung - cả tiếng Việt và tiếng n ước ngồi - sẽ được đặt phần cuối tập sách. Đây là tập sách về phương pháp nghiên cứu xã hội học mang tính nhập mơn. Tuy nhiên sinh viên khơng nên quan niệm phương pháp chỉ gắn với các cơng cụ, kỹ năng, kỹ thuật cụ thể, mà phương pháp xã hội học luơn gắn liền với phương pháp luận, với các mơ hình lý thuyết (paradigm), do đĩ sinh viên cần đọc kỹ lại chương 1 để nắm vững các tiền đề, các giả định trong các loại hình nghiên cứu, hịng nhận ra những mặt mạnh cũng như các hạn chế của các loại hình nghiên cứu này. 8
  9. CHƯƠNG 1: NGHIÊN CỨU XÃ HỘI: ĐẶC ĐIỂM VÀ LOẠI HÌNH 1.Giới thiệu khái quát. Chương 1 trình bày những khái niệm căn bản, như thế nào là “nghiên cứu”, “nghiên cứu định lượng”, “nghiên cứu định tính”, “nghiên cứu phê phán”, “những khía cạnh đạo đức trong nghiên cứu”. 2.Mục tiêu của chương này. Giúp người học hiểu được những đặc điểm của một nghiên cứu khoa học, phân biệt được những loại hình chính trong nghiên cứu xã hội nhằm nắm bắt những ưu điểm và hạn chế của chúng. Đồng thời giúp ý thức những vấn đề thực tiễn và đạo đức khi làm nghiên cứu 3.Tính chất và đặc điểm của nghiên cứu xã hội: 3.1.Nghiên cứu là gì? Nghiên cứu khơng phải là cái gì cao siêu, nĩ liên quan đến các hoạt động hàng ngày, đến nghề nghiệp của mỗi người chúng ta. Khi thu thập thơng tin một cách hệ thống để trả lời cho những câu hỏi được đặt ra về những hiện tượng xã hội chính là làm nghiên cứu. Nghiên cứu khơng chỉ bao gồm một số kỹ thuật, kỹ năng, mà chủ yếu là một lối suy nghĩ, xem xét một cách phê phán những khía cạnh của hiện tượng xã hội, của hoạt động xã hội; là hiểu được, đưa ra những nguyên tắc hướng dẫn cho một hoạt động cụ thể; là phát triển và kiểm định các ý tưởng, lý thuyết mới nhằm phục vụ các hoạt động và nghề nghiệp của chúng ta. 9
  10. Trước một hiện tượng xã hội, chúng ta thường nêu lên những câu hỏi để xem xét, tìm hiểu. Những câu hỏi này cĩ thể khác biệt nhau tuỳ gĩc độ đứng nhìn vấn đề. Lấy thí dụ, trước vấn đề thanh niên nghiện ma tuý, chúng ta cĩ thể đặt ra những câu hỏi khác nhau, tuỳ thuộc vị trí xã hội: là một người chữa trị, là một người quản lý xã hội, là người dân trong cộng đồng, là một chuyên viên nghiên cứu, là thân nhân của người nghiện hay là chính người nghiện. Cĩ nhiều cách để trả lời những câu hỏi được nêu lên, từ kinh nghiệm, trực giác, tư biện cho đến những cách trả lời theo những nguyên tắc địi hỏi của khoa học. Như vậy, nghiên cứu chỉ là một trong các cách trả lời. Nhưng các bộ mơn khoa học cĩ những mong đợi khác nhau trước những chuẩn mực khoa học. Vật lý học sẽ cĩ những mong đợi khác các khoa học xã hội. Mức độ kiểm sốt ở một nghiên cứu vật lý phải chặt chẽ và gắt gao hơn. Cũng cĩ mức độ địi hỏi khác nhau giữa các khoa học xã hội. Nhưng nĩi chung các nghiên cứu khoa học đều phải tuân theo những địi hỏi này. Nghiên cứu khơng hồn tồn là cái gì phức tạp, địi hỏi nhiều phương pháp, kỹ năng mà là một hoạt động được thiết kế nhằm tìm ra những câu trả lời – đơi khi rất đơn giản – cho những hoạt động hàng ngày. Nhưng mặt khác nghiên cứu cũng cĩ thể tìm ra những khuơn mẫu, quy luật chi phối cuộc sống của chúng ta, đi đến việc hình thành những lý thuyết. Sự khác biệt giữa hoạt động nghiên cứu và hoạt động khơng cĩ tính nghiên cứu hệ tại cách thức đi tìm câu trả lời. 3.2.Đặc điểm của nghiên cứu: Như vậy, nghiên cứu là một quá trình thu thập, phân tích và lý 10
  11. giải để trả lời cho những câu hỏi được đặt ra. Nhưng để thực sự là nghiên cứu khoa học, quá trình này phải cĩ những đặc điểm: - Kiểm sốt được Trong khoa học tự nhiên cĩ thể kiểm sốt được các yếu tố tác động vào để tìm mối liên hệ nhân quả. Trong khoa học xã hội, nhất là trong những nghiên cứu cĩ liên quan đến con người, rất khĩ thực hiện việc kiểm sốt các biến bên ngồi tác động vào, nhưng những nhà khoa học xã hội vẫn cố gắng định lượng ảnh hưởng của chúng. -Chặt chẽ Phải bảo đảm những tiến trình, kỹ thuật để tìm ra câu trả lời là thích hợp, chứng minh được. Dĩ nhiên giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, mức độ tính chặt chẽ này là khác nhau. -Hệ thống Quá trình nghiên cứu phải theo một diễn tiến hợp lý, khơng mang tính ngẫu nhiên -Cĩ cơ sở và kiểm chứng được Những kết luận từ nghiên cứu là chính xác và người khác cĩ thể kiểm chứng. -Thực nghiệm Kết luận được rút ra từ những thơng tin do quan sát, do kinh nghiệm cĩ thực từ cuộc sống. -Mang tính phê phán 11
  12. Quá trình nghiên cứu là hợp lý và cĩ thể trả lời mọi phê phán. 4.Các loại hình nghiên cứu: Hiện tượng xã hội là phức tạp, cĩ thể được nghiên cứu dưới nhiều gĩc độ, nhiều khía cạnh, do đĩ cũng cĩ nhiều lối tiếp cận để tiến hành nghiên cứu xã hội. Nhưng thơng thường, dựa trên một số tiêu chí nhất định cĩ thể phân ra các loại hình nghiên cứu xã hội chính: nghiên cứu định lượng (quantitative research), nghiên cứu định tính (qualitative research) và nghiên cứu phê phán (critical research). 4.1.Nghiên cứu định lượng. Nghiên cứu định lượng trong khoa học xã hội khởi đầu với ý định áp dụng mơ hình nghiên cứu của các khoa học tự nhiên vào lãnh vực xã hội như ý định của các nhà khoa học xã hội thế kỷ 18 và 19 ở châu Âu, những nhà khoa học được xếp vào hàng các lý thuyết gia của lý thuyết duy nghiệm (positivism), như A. Comte, É. Durkheim. Theo các tác giả này, cĩ một thực tại xã hội “khách quan” mà ta cĩ thể nghiên cứu và tìm ra những quy luật như khi nghiên cứu thế giới tự nhiên. Do vậy những nhà nghiên cứu định lượng đã chủ trương “phải xem các sự kiện xã hội như là các đồ vật” (É. Durkheim). Họ muốn nghiên cứu sự kiện một cách khách quan, từ bên ngồi. Sự kiện xã hội được quan niệm như một chuỗi biến số gắn chặt với nhau do cơ cấu và chức năng, được tổ chức như là một hệ thống. Người nghiên cứu lần lên đến những biến số để tìm những mối liên hệ nhân quả, và để làm điều này họ cắt thực tại ra thành từng mảng để tìm các thành tố và các mối dây liên hệ nối các thành phần này. Nhiều nhà nghiên cứu gọi đây là lối phân tích nhân quả, nĩ đã bỏ qua khơng tìm hiểu tính ý hướng (intentionality) tồn tại trong mọi sự kiện xã hội và nhân văn. 12
  13. Nĩi cách khác, người nghiên cứu chỉ làm vai trị khoa học thuần tuý và ít cĩ (hoặc khơng cĩ) ảnh hưởng lên hiện tượng xã hội được nghiên cứu. Một nhà nghiên cứu khác nghiên cứu cùng hiện tượng xã hội, nếu sử dùng cùng những quy trình, phương pháp, kỹ thuật, sẽ đi đến cùng kết quả. Con người – khách thể của nghiên cứu xã hội – cũng chỉ là những đối tượng khảo sát, khơng cĩ chút quyền quyết định gì trong quá trình thực hiện nghiên cứu. Cĩ khác chăng những đối tượng vơ tri, vơ giác là ở điểm người ta lưu ý hơn đến tính riêng tư, tính khuyết danh, sự an tồn vì đối tượng khảo sát ở đây là con người. Nghiên cứu định lượng cĩ mục tiêu là tìm ra những quy luật chi phối xã hội bằng cách đi tìm những tương quan giữa các sự kiện xã hội, giữa một số biến số nhất định, hạn chế. Nghiên cứu định lượng như vậy thường cĩ mục tiêu rõ ràng, nhưng đồng thời đĩ cũng là một nhãn quan hạn hẹp, vì phải cơ lập các sự kiện, các biến số ra khỏi bối cảnh của chúng. Thơng thường, nhà nghiên cứu định lượng khởi đầu cuộc nghiên cứu với những ý tưởng tổng quát, những lý thuyết rồi đi vào thực tiễn xã hội tìm ra những sự kiện xã hội để kiểm định, phát triển những lý thuyết đã đưa ra. Phương pháp nghiên cứu như vậy là diễn dịch (deductive method). Nghiên cứu định lượng dựa trên các phương pháp, kỹ thuật thu thập và phân tích các thơng tin chủ yếu dựa vào các số liệu, các dữ kiện thống kê mà người nghiên cứu cĩ thể tìm thấy trong tư liệu thư tịch, trong các ngân hàng dữ kiện hay là chính các dữ kiện mà người nghiên cứu phải tự mình thu thập qua các phương pháp điều tra (survey), hay những kỹ thuật thu thập thơng tin cĩ tính cơ cấu – như quan sát cơ cấu, phỏng vấn cơ cấu Các dữ kiện trong nghiên cứu định 13
  14. lượng là những dữ kiện ta cĩ thể cân, đong, đo, đếm. Như vậy nghiên cứu định lượng cho ta những dữ kiện khách quan, cĩ tính thống kê, dễ dàng kiểm chứng và do đĩ cĩ độ tin cậy cao. Vì muốn đi tìm những “quy luật” xã hội, nghiên cứu định lượng chú ý đến tính tiêu biểu của đối tượng được nghiên cứu. Nghiên cứu định lượng thường được sử dụng khi ta cĩ mẫu nghiên cứu lớn, khi muốn tìm hiểu bề rộng của hiện tượng và khi muốn khái quát hố kết quả nghiên cứu cho một dân số (tổng thể nghiên cứu), cho một cộng đồng lớn hơn. 4.2.Nghiên cứu định tính. Nghiên cứu định tính trước hết xuất phát từ quan niệm sự kiện nhân văn, xã hội là những sự kiện tổng thể, một tồn thể khơng thể phân cắt ra từng bộ phận riêng biệt, như M. Mauss đã đề cập đến tính tồn diện của sự kiện xã hội (fait social total). Thứ đến, trong sự kiện nhân văn, cĩ một sự đồng cảm (empathy) giữa chủ thể quan sát và đối tượng quan sát. Chủ thể quan sát chỉ cĩ thể hiểu được đối tượng nhờ những tương đồng giữa chủ thể và đối tượng (như quan điểm của G. H. Mead, của lý thuyết tương tác biểu tượng). Sự kiện nhân văn cịn mang ý nghĩa, những giá trị, định hướng và như J. Monnerot nĩi, cái ý nghĩa, cái giá trị nĩ khơng xuất hiện ra bên ngồi. Sự kiện nhân văn cịn mang dấu ấn của một sự hiện hữu - cĩ nghĩa là cĩ tính chủ quan từ cả hai phía: chủ thể cũng như đối tượng. Và cuối cùng là tính phản ứng của sự kiện nhân văn. Khác với sự kiện vật lý trong khoa học chính xác: đối tượng khơng thay đổi khi bị quan sát, ngược lại trong sự kiện xã hội đối tượng biết mình bị quan sát và cĩ thể thay đổi thái độ, và thái độ của đối tượng lại tác động ngược lại lên chủ thể. Những luận điểm trên bắt nguồn từ lý thuyết hành động xã hội của Max Weber, lý thuyết tương tác xã hội, hiện tượng luận, phương 14
  15. pháp luận tộc người mà nghiên cứu định tính đã chịu ảnh hưởng sâu đậm. Như vậy nghiên cứu định tính cĩ mục tiêu phức tạp hơn, với ý đồ muốn đặt sự kiện xã hội trong bối cảnh của chúng, muốn hiểu được con người cá nhân hay tập thể trong bối cảnh sống của họ, nĩi cách khác nhằm tìm kiếm những mơ thức tương quan giữa nhiều biến số. Sở trường của nghiên cứu định tính là nhằm tìm hiểu những sự kiện như động cơ, niềm tin, kinh nghiệm, sự chọn lựa của các cá nhân, của các tập thể Hay nĩi cách khác, nghiên cứu định tính là "nghiên cứu cĩ tính khoa học nhằm tìm hiểu ý nghĩa riêng tư của kinh nghiệm và hành động của cá nhân trong bối cảnh mơi trường xã hội" (Alex Muchielli, 1991). Qua định nghĩa trên, như vậy, nghiên cứu định tính là nghiên cứu cĩ hệ thống vì phải theo những yêu cầu, những bước đi bắt buộc, là nghiên cứu cĩ tính cách quy nạp, "tồn diện" (con người trong bối cảnh) và là cố gắng nhằm hiểu được thực tại như người khác đang kinh nghiệm nĩ. Trái với nghiên cứu định lượng nhằm kiểm định các lý thuyết qua nghiên cứu thực tiễn xã hội, nghiên cứu định tính khởi đầu với những kinh nghiệm của các tác nhân trong hoạt động xã hội nhằm lý giải ý nghĩa các hiện tượng xã hội từ đĩ khám phá ra những khái niệm, lý thuyết mới. Nghiên cứu định tính đặt lại cái gọi là “tính khách quan”, “khơng phán đốn giá trị” của nghiên cứu, bởi lẽ những nhà nghiên cứu định tính tin rằng “thực tại” tuỳ thuộc kinh nghiệm và lý giải của con người. Như vậy thực tại “được con người cùng nhau thiết kế ra”, do đĩ khơng thể hiểu được từ bên ngồi, mà muốn hiểu phải bắt đầu từ “bên trong” (emic), từ quan điểm của người trong cuộc. Điều này cũng chi phối mối tương quan giữa người nghiên cứu và 15
  16. người được nghiên cứu. Khác với quan điểm định lượng buộc người nghiên cứu phải cĩ khoảng cách với đối tượng khảo sát và cho rằng người nghiên cứu ít cĩ ảnh hưởng với đối tượng khảo sát, nghiên cứu định tính cho rằng quá trình nghiên cứu là một quá trình tương tác hai chiều, bình đẳng giữa người nghiên cứu và người được nghiên cứu. Vấn đề là người nghiên cứu phải biết những khía cạnh chủ quan của chính mình và của đối tượng, vì vậy nghiên cứu định tính địi hỏi người nghiên cứu phải ý thức những chọn lựa, giá trị, quan điểm đạo đức của chính mình. Do đĩ, phương pháp và kỹ thuật thu thập thơng tin của nghiên cứu định tính cũng linh động hơn, mềm dẻo hơn, “ít tính cơ cấu hơn”. Các dữ kiện định tính khơng đo đếm được, thường ở dưới dạng các từ (words), lời nĩi, âm thanh, hình ảnh - chứ khơng dưới dạng các con số - là các dữ kiện chủ yếu được thu thập trong một số ngành khoa học xã hội như nhân học (anthropology), dân tộc học (ethnology), sử học, chính trị học. Những dữ kiện trong nghiên cứu định tính thường « ít chính xác », chủ quan và cĩ thể gây cho đối tượng khĩ khăn khi diễn tả. Cĩ thể thu thập những dữ kiện định tính từ nhiều nguồn gốc khác nhau: các cuộc phỏng vấn, thư từ, nhật ký, hồi ký, các tài liệu văn bản , từ các kỹ thuật khác nhau, như: toạ đàm, quan sát tham gia, phỏng vấn sâu (in-depth interview), tự truyện (life history), thảo luận nhĩm Nghiên cứu định tính ít nhấn mạnh hơn tính tiêu biểu và tầm quan trọng của thống kê, thay vào đĩ những nhà nghiên cứu theo khuynh hướng này khái quát hố những kết quả của mình bằng cách đồng thời sử dụng các lý thuyết vừa đào sâu, thảo luận những chủ đề nổi bật lên với những đối tượng đang được khảo sát. Nghiên cứu định tính thường được áp dụng cho những mẫu nghiên cứu nhỏ, do đĩ 16
  17. khơng được tổng quát hố cho tồn dân số, nhưng cĩ thể là cơ sở cho những nghiên cứu định lượng sau này, khi muốn tìm xem cĩ bao nhiêu người mang những đặc điểm trên. Làm sao đánh giá được một nghiên cứu định tính tốt, cĩ tính cơ sở vững chắc (validity), dựa vào những tiêu chí nào? Nghiên cứu định tính khác nghiên cứu định lượng chủ yếu ở điểm: nghiên cứu định tính phải cĩ tính cách tồn diện (holistic). Để đạt được tính cách tồn diện, địi hỏi phải thu thập những dữ kiện cĩ bề sâu. Điều này thường địi hỏi người nghiên cứu trong cơng tác thực địa khơng được dùng mẫu nghiên cứu lớn. Do đĩ người nghiên cứu thường chọn những cộng đồng cĩ qui mơ nhỏ để cĩ thể đi vào chiều sâu của dữ kiện thu thập. Thứ đến, để cĩ những dữ kiện cĩ bề sâu, người nghiên cứu phải cĩ quan hệ tốt, tạo được niềm tin nơi đối tượng khảo sát. Điều này khơng chỉ địi hỏi sự hiện diện của người nghiên cứu mà cịn cần cả thời gian. Tĩm lại, trong nghiên cứu định tính số lượng các dữ kiện khơng phải là trọng tâm mà là tính tồn diện (tính đa dạng, tính sâu sắc của vấn đề). Do những tính chất nêu trên, người tiến hành nghiên cứu định tính cần phải hội đủ một số đặc điểm như: nhạy cảm, kỹ năng giao tiếp tốt, cĩ khả năng quan sát tốt, cĩ khả năng giữ khoảng cách, biết "khách quan hố" để giải thích trung thực những dữ kiện quan sát được. 4.3.Nghiên cứu phê phán. Lịch sử đã cho thấy, nghiên cứu và những kết quả do chúng mang lại khơng cĩ tính “trung lập”, thốt khỏi mọi giá trị ràng buộc, như cĩ lúc người ta đã suy nghĩ như vậy, đặc biệt là những thế kỷ 18- 19. Việc sử dụng bom nguyên tử trong Thế chiến thứ hai đã chấm dứt 17
  18. ảo tưởng về sự vơ tội của nghiên cứu khoa học. Và cũng từ lâu các nhà dân tộc học đã thấy những nghiên cứu của họ về các dân tộc ít người, các dân tộc ở các nước đang phát triển đã bị đế quốc thực dân sử dụng vào các mục tiêu chính trị và quân sự. Từ nhận thức này đã sản sinh loại hình nghiên cứu phê phán, mà cĩ tác giả cịn gọi là nghiên cứu đấu tranh, nghiên cứu biện hộ. Loại hình nghiên cứu này xuất phát từ lý thuyết mác-xít, lý thuyết nữ quyền, thuyết phê phán và xung đột xã hội, hay từ những lý thuyết đề cao vai trị của việc nâng cao nhận thức – như của Paulo Freire. Khác với nghiên cứu định lượng và định tính, theo những người nghiên cứu phê phán, điều cốt lõi của nghiên cứu khơng chỉ là giải thích thế giới mà thay đổi nĩ. Nghiên cứu từ lâu nằm trong tay những người cĩ quyền lực, do đĩ nghiên cứu phê phán nhằm vạch ra những huyền thoại, niềm tin, cấu trúc xã hội đang gĩp phần duy trì hiện trạng. Thơng thường các nghiên cứu cũng nhắm đến các tầng lớp dưới nhiều hơn: cĩ nhiều nghiên cứu về văn hố dân bản địa hơn là về văn hố thực dân; về tầng lớp lao động hơn là tầng lớp quý tộc, thống trị. Những nghiên cứu về các tầng lớp trên thường gặp nhiều khĩ khăn khi thực hiện. Về quan điểm thực tại xã hội, những người chủ trương loại hình nghiên cứu này định vị đâu đĩ giữa quan điểm nghiên cứu định lượng và định tính. Một mặt họ nhìn thế giới đầy mâu thuẫn giữa những kẻ thống trị và bị trị, giữa những người áp đặt thực tại của mình lên kẻ khác và những người bị áp đặt. Trong lối nhìn này, quan điểm của họ tương tự những giả định của những nhà nghiên cứu định lượng. Nhưng mặt khác, con người cũng nhận thức việc bị thống trị và cố gắng chống lại cái lối nhìn về thực tại của những kẻ thống trị. Ở khía 18
  19. cạnh này họ lại cĩ lập trường như những nhà nghiên cứu định tính. Với những nhà nghiên cứu phê phán, nghiên cứu khơng bao giờ là “trung tính”, khơng mang những phán đốn giá trị. Vấn đề là người nghiên cứu đứng về phía nào. Họ thường chọn đứng về phía những người bị áp bức, bị thiệt thịi. Ngày nay, những người trước đây bị xem là những “đối tượng thụ động” của nghiên cứu lên tiếng địi hỏi những cuộc nghiên cứu phải cĩ gì cĩ lợi cho họ, địi hỏi họ phải kiểm sốt phần nào những cuộc nghiên cứu, phải được huấn luyện để cùng nghiên cứu. Ta cĩ thể so sánh những giả định chính giữa ba loại hình nghiên cứu (phỏng theo Sarantakos, 1993; Alston, Bowles, 1998): Bảng 1.1: Những giả định của các loại hình nghiên cứu Nghiên cứu Nghiên cứu Nghiên cứu định lượng định tính phê phán, đấu tranh, biện hộ Cơ sở lý thuyết Thuyết thực Tương tác biểu Chủ nghĩa Mác, nghiệm tượng, thuyết thuyết nữ quyền, hành động, hiện lý thuyết mâu tượng luận, dân thuẫn, các lý tộc học thuyết giáo dục nâng cao nhận thức Quan điểm về Thực tại tồn tại Thực tại mang Thực tại được thực tại, về hiện một cách khách tính chủ quan xác định bởi kẻ tượng xã hội quan, cĩ thể và lệ thuộc kinh cĩ quyền lực nhận thức được nghiệm của con nhằm phục vụ 19
  20. người quyền lợi của riêng họ Quan điểm về Là cơng cụ kỹ Khơng hồn Thường là cơng khoa học thuật khơng tồn tuyệt hảo, cụ của kẻ áp mang giá trị, mang giá trị bức. Những tri đem lại tri thức thức được cơng phục vụ xã hội bố bị chi phối bởi quyền lợi của người cĩ quyền lực Mục đích của Khám phá Khám phá, hiểu Thay đổi cơ cấu nghiên cứu những quy luật và giải thích xã hội bất bình xã hội, những được những đẳng hiện tại tương quan thực tại xã hội giữa các biến khác nhau số. Các phương Số liệu thống Thu thập dữ Của cả định pháp và kỹ kê, bản hỏi, kiện thứ cấp, tính và định thuật sử dụng phỏng vấn cơ quan sát tham lượng cấu, thử gia, phỏng vấn nghiệm, quan sâu, phỏng vấn sát cơ cấu tiểu sử, thảo luận nhĩm Dữ kiện Thống kê, cân, Bằng từ, hình Mang tính định đong đo đếm ảnh mơ tả quá lượng và định trình, diễn tiến, tính nhưng bối cảnh tồn mang tính chọn diện, cảm nhận, lọc, chiến 20
  21. suy nghĩ, động đấu cơ Vai trị của Trung lập, Tương tác với Đứng về phía người nghiên “khoa học đối tượng được người bị thiệt cứu thuần tuý” nghiên cứu. Ý hại, nghiên cứu thức những giá nhằm đấu tranh trị, định kiến của người nghiên cứu Cái nhìn về Là đối tượng Chủ thể cùng Thay đổi: cĩ người được của cuộc nghiên tham gia với thể là đối tượng nghiên cứu cứu người nghiên của đấu tranh cứu để tìm hiểu hoặc là chủ thể ý nghĩa của các cùng làm việc hiện tượng xã với người hội nghiên cứu 4.5.Ưu điểm và hạn chế của các loại hình nghiên cứu: - Ưu điểm và hạn chế của nghiên cứu định lượng: Nghiên cứu định lượng cho phép khám phá ra những khuơn mẫu, những khuynh hướng của vấn đề (ví dụ tương quan giữa tình trạng gia đình và hiện tượng trẻ đường phố). Đi xa hơn nĩ cịn giúp chúng ta tìm được những tương quan, và cả các mối liên hệ nhân quả giữa các biến số. Nghiên cứu định lượng cho ta những dữ kiện cĩ nhiều ưu điểm như khách quan, đo lường được Nhưng, như đã đề cập, quan điểm nghiên cứu định lượng rất giản 21
  22. lược bởi lẽ nĩ chia cắt sự kiện, hiện tượng xã hội ra từng bộ phận, nghiên cứu các sự kiện ngồi bối cảnh tự nhiên của chúng, thiếu một cái nhìn tổng hợp để liên kết, hội nhập các sự kiện. Suy diễn của nghiên cứu định lượng chỉ dựa trên tính xác suất, nhưng đơi lúc người ta cĩ khuynh hướng cường điệu xem đĩ là sự thật, là chân lý. Và trong nghiên cứu xã hội, việc đi tìm quan hệ nhân quả khơng giản đơn chút nào vì thật ra một sự kiện xã hội chịu tác động của nhiều yếu tố. - Ưu điểm và hạn chế của nghiên cứu định tính: Các kỹ thuật nghiên cứu định tính cho phép ta đi sâu nghiên cứu quá trình của vấn đề, cho phép nắm bắt được những biến số quan trọng nhất, chúng giúp kiểm sốt được các yếu tố ảnh hưởng đến các kỹ thuật định lượng. Điều cĩ ý nghĩa nhất, các dữ kiện định tính làm sống động, làm cho các con số trở nên cụ thể hơn. Phối hợp với các con số vơ tri vơ giác, các đề nghị của các dữ kiện định tính cĩ sức thuyết phục hơn. Tính cơ sở vững chắc của nghiên cứu định tính càng cao nếu biết phối hợp cùng một lúc nhiều kỹ thuật định tính. Nhưng nghiên cứu định tính cũng cĩ những hạn chế. Về mặt phương pháp luận, một phê phán quan trọng là những phương pháp, kỹ thuật của nghiên cứu định tính cĩ tính vi mơ, do đĩ đã khơng đề cập đến những lực, cơ cấu xã hội rộng lớn hơn tác động đến thực tại. Khía cạnh đạo đức của những kỹ thuật định tính cũng bị đặt thành vấn đề. Ngồi ra các kỹ thuật liên cá nhân, như nghiên cứu tiểu sử, phỏng vấn sâu địi hỏi nhiều thời gian, tốn kém tiền bạc. Tính chất "thống", "mềm" của các kỹ thuật định tính cũng làm giảm độ tin cậy của các dữ kiện Tính chủ quan và khơng chính xác trong việc thu thập dữ kiện là một trở ngại lớn (làm thế nào biết chắc là ta hiểu được thơng tín viên, và những điều thơng tín viên nĩi ra là sự thật). Sự hiện 22
  23. diện của người nghiên cứu cũng gây phản ứng khơng tự nhiên nơi đối tượng được quan sát và sự tham gia của người nghiên cứu trong cộng đồng cũng cĩ thể đưa đến những kết quả thiên lệch, nếu người nghiên cứu quá "nhập vai". Mức độ tiêu biểu của nghiên cứu định tính cũng là vấn đề cần đặt ra, bởi lẽ mẫu nghiên cứu nhỏ nên rất khĩ khái quát hố. Qua quá trình nghiên cứu thực địa, đơi lúc người nghiên cứu bị tràn ngập bởi các dữ kiện: từ quan sát, ghi chép, tài liệu thâu băng Nhất là khi cuộc nghiên cứu được tiến hành bởi các nhĩm nghiên cứu sử dụng các kỹ thuật khác nhau. Do vậy, việc thu thập và phân tích các dữ kiện cần phải tiến hành một cách hệ thống để dễ đối chiếu. Và cuối cùng, các dữ kiện định tính khơng dễ phân tích. Việc liệt kê, phân loại các dữ kiện định tính khơng phải là cơng việc dễ dàng, chúng địi hỏi nhiều thời gian và kiên nhẫn. Việc phân tích các dữ kiện định tính cũng là một nghệ thuật, vì nĩ khơng chỉ tuỳ thuộc quan điểm chủ quan của người được nghiên cứu mà cịn cả quan điểm của người nghiên cứu. Cuối cùng tính tồn diện của nghiên cứu định tính cũng chỉ cĩ tính cách tương đối, cĩ tính cách chọn lựa theo chủ quan của người nghiên cứu. -Ưu điểm và hạn chế của nghiên cứu phê phán: Nghiên cứu phê phán đã xác định được là một loại hình nghiên cứu riêng biệt bên cạnh hai loại hình nghiên cứu định lượng và định tính, bởi lẽ đã nêu lên được những quan điểm riêng về thực tại xã hội, một lối nhìn về con người, về tính chất của khoa học, về mục đích của nghiên cứu. Nhưng trên bình diện phương pháp luận, nghiên cứu phê phán chưa cho thấy những đặc trưng, khác biệt trong việc thu thập và phân tích các dữ kiện so với hai loại hình nghiên cứu truyền thống đã nêu 23
  24. trên. Thật ra ba loại hình nghiên cứu trên phải được xem như là những « loại hình lý tưởng » (ideal types) – theo quan điểm của M. Weber. Trong thực tế các nhà nghiên cứu thường phối hợp, liên kết những loại hình trên trong nghiên cứu cụ thể, hay một số nhà nghiên cứu khác quan niệm chúng chỉ là những giai đoạn của một chu kỳ nghiên cứu tổng thể. Ví như, cĩ thể bắt đầu thăm dị bằng nghiên cứu định tính, kế tiếp triển khai trên qui mơ lớn với nghiên cứu định lượng, rồi trở về nghiên cứu định tính để tìm hiểu sâu hơn một số xu hướng mà nghiên cứu định lượng đã làm nổi bật lên. 5.Những khía cạnh thực tế và đạo đức của nghiên cứu xã hội Các nghiên cứu xã hội đều cĩ những khía cạnh thực tế và đạo đức mà tất cả các nhà nghiên cứu phải quan tâm (Sarantakos, 1993; Punch, 1998; Alston, Bowles, 1998) 5.1.Những khía cạnh thực tế: Khơng cĩ cuộc nghiên cứu nào hồn tồn mang tính trung lập, mà luơn cĩ những hệ luận thực tiễn và đạo đức đi kèm. Trước một cuộc nghiên cứu ta phải đặt hai câu hỏi cơ bản: - Nghiên cứu này nhằm vào ai? Phục vụ quyền lợi của ai? - Đâu là mục tiêu của cuộc nghiên cứu này? Kết quả của nĩ được sử dụng như thế nào? Để phần nào làm rõ hai câu hỏi trên ta phải xác định rõ những tác nhân chính tham dự vào quá trình hình thành cuộc nghiên cứu: - Những người nghiên cứu 24
  25. - Đối tượng khảo sát - Người tài trợ nghiên cứu - Người được hưởng lợi từ cuộc nghiên cứu - Những người mà cuộc nghiên cứu nhằm thuyết phục (những nhà làm chính sách). Trong quá trình thiết kế cuộc nghiên cứu phải nhận rõ thành phần xã hội của các bên tham gia, vì quyền lợi của các thành phần này cĩ thể khác nhau. Lấy thí dụ một tổ chức xã hội làm việc cho người khuyết tật nhờ một nhĩm nhà nghiên cứu xác định nhu cầu nhà ở cho các thành viên của tổ chức mình. Một vấn đề khơng kém quan trọng khác là quyền sở hữu cơng trình nghiên cứu. Để tránh những phức tạp cĩ thể cĩ, trong hợp đồng nghiên cứu cần cĩ quy định rõ về quyền sở hữu cơng trình nghiên cứu. 5.2.Những khía cạnh đạo đức: Một số tiêu chí sau đây giúp xác định các nguyên tắc đạo đức của nghiên cứu xã hội: 1. Sự độc lập, tự chủ của đối tượng được nghiên cứu: - Đồng ý tham gia: hiểu mục tiêu của cuộc nghiên cứu, những nguy hiểm - Tính riêng tư: quyền rút lui, tính vơ danh, tính bảo mật. 2. Khơng làm hại cho đối tượng được nghiên cứu: - Nếu làm được điều gì ích lợi thì tốt. 25
  26. 3. Tơn trọng sự cơng bằng: - Những người được nghiên cứu được lợi gì từ cuộc nghiên cứu? - Họ cĩ muốn tiếp tục tham gia các cuộc nghiên cứu cùng loại? 4. Đĩng gĩp tích cực cho tri thức của xã hội: những tiêu chuẩn cĩ tính nghề nghiệp: - Mục tiêu của cuộc nghiên cứu cĩ giá trị? - Tính trung thực trong việc sử dụng tư liệu của người khác. - Thu thập thơng tin cĩ cẩn thận, nghiêm túc? - Mơ hình phân tích, phương pháp, xử lý thơng tin cĩ thích hợp? Cơng bố kết quả cĩ trung thực? Tĩm lược và một số điểm cần lưu ý, ghi nhớ: Trong chương này, chúng ta đã định nghĩa và nêu lên đặc điểm của nghiên cứu xã hội. Cũng đã nêu lên sự khác biết giữa ba loại hình nghiên cứu: định lượng, định tính và phê phán; đồng thời cho thấy ba loại hình này cĩ những lối nhìn khác nhau về thực tại xã hội; chính những lối nhìn này chi phối sự khác biệt trong việc sử dụng các phương pháp và các kỹ thuật. Cần lưu ý, ba loại hình nghiên cứu trên chỉ là những “mơ hình lý tưởng”, trong thực tế người nghiên cứu cĩ thể phối hợp ba loại hình trên ở mức độ đậm nhạt khác nhau. Cũng cần lưu ý, nghiên cứu khoa học khơng hồn tồn cĩ tính “trung lập” mà cĩ những khía cạnh thực tiễn và đạo đức cần quan 26
  27. tâm. Câu hỏi ơn tập: 1. So sánh các ưu điểm và hạn chế của các loại hình nghiên cứu định lượng, định tính và phê phán. 2. Trong chọn lựa riêng của anh chị, loại hình nào anh chị thích nhất, tại sao? 3. Tại sao cĩ những vấn đề đạo đức và thực tiễn cần quan tâm khi thiết kế một cuộc nghiên cứu? Bài tập: Vào thư viện, tìm một cơng trình nghiên cứu xã hội (sách, các nghiên cứu của các tổ chức xã hội, các luận văn, bài báo ) và trả lời các câu hỏi sau: Nghiên cứu này cĩ thể được liệt kê vào một loại hình chủ yếu nào khơng? Cĩ chịu ảnh hưởng của lý thuyết nào? Nghiên cứu đĩ nhằm mục đích gì? Ai tài trợ? Ai là những người tham gia vào cơng trình nghiên cứu, ai được hưởng lợi từ nghiên cứu.? Bài đọc thêm: - Therese Baker, Thực hành nghiên cứu xã hội (Bản dịch), NXB Chính trị, Hà nội, 1998, tr. 8-127. - Nguyễn Xuân Nghĩa, “Vài suy nghĩ về khuynh hướng và những giả định trong các loại hình nghiên cứu xã hội”, Tập san Khoa học ĐHM-BCTPHCM, 2-2005. - Phạm Văn Quyết, Nguyễn Quý Thanh, Phương pháp nghiên cứu xã hội học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tr. 11-65. 27
  28. CHƯƠNG 2: CÁC BƯỚC ĐI TRONG NGHIÊN CỨU XÃ HỘI 1.Giới thiệu khái quát. Chương 2 nêu ra các bước đi để thực hiện một nghiên cứu xã hội. Sau đĩ đi sâu vào các bước trong giai đoạn chuẩn bị thực hiện một nghiên cứu. 2.Mục tiêu của chương này. Giúp người học thực hiện ba bước đi trong giai đoạn chuẩn bị một nghiên cứu: 1) xác định vấn đề nghiên cứu 2) xây dựng khung lý thuyết 3) thiết kế cuộc nghiên cứu. 2.1 Tổng Quan: Nghiên cứu xã hội dù theo lối tiếp cận nào cũng đều cĩ thể phải đi qua các bước: 1) Xác định vấn đề 2) Xây dựng mơ hình phân tích hay cịn gọi xây dựng khung lý thuyết, 3) Thiết kế cuộc nghiên cứu. 4) Thu thập dữ kiện, thơng tin. 5) Phân tích dữ kiện 28
  29. 6) Giải thích các dữ kiện thu thập và đưa ra các kết luận 7) Cơng bố kết quả (xem bảng 2.1). Bảng 2.1: CÁC BƯỚC THỰC HIỆN MỘT CUỘC NGHIÊN CỨU XÃ HỘI 1.XÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 2.XÂY DỰNG MƠ HÌNH PHÂN TÍCH (xây dựng khung lý thuyết) 3.THIẾT KẾ CUỘC NGHIÊN CỨU 4.THÂU THẬP DỮ KIỆN, THƠNG TIN 5.PHÂN TÍCH DỮ KIỆN, THƠNG TIN 6.GIẢI THÍCH CÁC DỮ KIỆN, ĐƯA RA KẾT LUẬN 7.CƠNG BỐ KẾT QUẢ Số lượng các bước đi cĩ thể khác nhau tuỳ tác giả, tuy nhiên một cách tổng quát chúng ta cĩ thể chia các bước đi trong một cuộc nghiên cứu thành ba giai đoạn chính yếu: - Giai đoạn chuẩn bị cuộc nghiên cứu (bước 1, 2, 3) 29
  30. - Giai đoạn tiến hành nghiên cứu, (bước 4) - Giai đoạn xử lý và phân tích thơng tin và cơng bố kết quả (bước 5, 6, 7) Cả ba giai đoạn nghiên cứu trên đều quan trọng, tuy nhiên giai đoạn chuẩn bị nghiên cứu địi hỏi nhiều đầu tư về mặt trí tuệ, cơng sức cũng như thời gian. Đây là giai đoạn khoa học chủ yếu quyết định sự thành cơng hay thất bại của hai giai đoạn sau. Trong giai đoạn chuẩn bị này ta phải trả lời các câu hỏi sau đây: - Ta tìm hiểu cái gì (vấn đề), dưới gĩc độ nào, liên quan đến ai (đối tượng khảo sát), trong qui mơ thế nào? - Sẽ tiến hành nghiên cứu bằng những phương pháp, kỹ thuật nào để thu thập dữ kiện? - Sẽ sử dụng những kỹ thuật nào để phân tích, xử lý những thơng tin thu thập được. Trước hết người nghiên cứu cần xác định nội dung muốn tìm hiểu, muốn nghiên cứu gì, hay nĩi cách khác là xác định vấn đề nghiên cứu (problem identification). 2.2. Xác định vấn đề nghiên cứu: Quá trình nghiên cứu bắt đầu khi nhà nghiên cứu chọn một đề tài. Điều này thường địi hỏi phải xác định vấn đề nghiên cứu (research problem). Một vấn đề nghiên cứu cĩ thể là câu hỏi lý thuyết tổng quát hay là một vấn đề cụ thể (như sự nghèo đĩi, tội ác, vơ gia cư, AIDS.) nhưng chưa được tìm hiểu đầy đủ, cịn cĩ lỗ hổng về kiến thức hay khơng cĩ sự thống nhất trong các giải thích về vấn đề được đặt ra. 30
  31. Việc xác định vấn đề và thuyết minh cho việc chọn lựa vấn đề nghiên cứu (problem justification) là những bước đi cần thiết mà các nhà nghiên cứu đều thừa nhận, bởi lẽ, cần tập trung thời gian, năng lực và tiền bạc vào việc giải quyết những vấn đề cĩ thực và cấp bách. Các nhà nghiên cứu cũng cần làm rõ việc họ nghiên cứu một vấn đề cụ thể sẽ trả lời những vấn đề kỹ thuật nào của nghiên cứu cơ bản. Và cuối cùng, đối với các nghiên cứu ứng dụng việc xác định vấn đề càng quan trọng hơn, bởi lẽ vấn đề khơng những phải được thuyết minh trên cơ sở khoa học mà, hơn nữa, qua việc giải quyết vấn đề nêu ra, các giải pháp thực tiễn (chính sách, chương trình, dự án ) sẽ được phác thảo ra. 2.2.1. Các loại đề tài nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu cĩ thể phân ra nhiều thể loại tuỳ thuộc các tiêu chí: tính ứng dụng, mục tiêu nghiên cứu hay loại thơng tin mà cuộc nghiên cứu nhắm tới. Nếu dựa trên tính ứng dụng, cĩ thể phân các vấn đề nghiên cứu thành hai loại chính: các đề tài nghiên cứu cơ bản (basic research), nghiên cứu lý thuyết (pure research) và các đề tài thực tiễn: nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu để làm chính sách, nghiên cứu hành động (applied research, policy-oriented research, hay action research). Các đề tài nghiên cứu cơ bản thường xuất phát từ động cơ của con người muốn tìm hiểu thực tại xã hội, giải thích thực tại, để rồi cĩ thể tiên đốn các dữ kiện xảy ra. Nghiên cứu lý thuyết do tính chất thuần tuý học thuật cĩ thể chưa được ứng dụng trong tương lai gần. Nghiên cứu lý thuyết được đề ra để: - Bổ sung cho kiến thức của con người trên một số lãnh 31
  32. vực cịn thiếu sĩt. Thí dụ: nghiên cứu xem sự cư trú chật chội cĩ ảnh hưởng gì trên hành vi gây hấn của con người khơng? - Để kiểm chứng các hệ luận suy diễn ra từ các lý thuyết. Thí dụ, một lý thuyết của bộ mơn tâm lý học xã hội là những người cực đoan thường là người mà vị trí xã hội cịn bấp bênh. Ta cĩ thể kiểm chứng lý thuyết này qua nghiên cứu các ứng xử của các thành viên trong các phong trào tranh đấu, các nghiệp đồn, các đảng phái chính trị cực đoan Nhưng phần lớn các đề tài trong khoa học xã hội là các đề tài thực tiễn, xuất phát từ những lý do thực tế, chúng cĩ thể mang các hình thức: - Một hiện tượng xã hội cần được mơ tả thực trạng. Ví dụ mơ tả các đặc điểm của dân số Việt Nam, mơ tả hiện trạng sinh sống và học tập của sinh viên Việt Nam. Tuy nhiên, các nghiên cứu mơ tả này đơi khi khơng dừng ở hiện trạng, mà cịn cĩ thể đi tìm nguyên nhân của vấn đề hoặc dự báo về tương lai. - Hoặc nghiên cứu thực tiễn này liên quan đến việc đánh giá các biện pháp, các chính sách đang được áp dụng. Thí dụ, nghiên cứu đánh giá các hậu quả của chính sách định cư ở vùng kinh tế mới, đánh giá hiệu quả của chương trình xố đĩi giảm nghèo, các chương trình tín dụng Cũng cĩ những nghiên cứu để đánh giá các biện pháp, các chính sách đang thi hành xem cái nào hữu hiệu hơn. Tuy được phân ra hai loại đề tài như trên, nhưng trong thực tế giữa chúng vẫn cĩ thể cĩ ảnh hưởng hỗ tương, và cĩ thể là hai giai đoạn của một cơng trình nghiên cứu. 32
  33. Sơ đồ 2.1: Các loại hình nghiên cứu Các loại hình nghiên cứu Ứng dụng: Mục tiêu: Thông tin: Nghiên cứu lý Nghiên cứu thăm Nghiên cứu mô tả Định lượng thuyết dò Định tính Nghiên cứu ứng Nghiên cứu Nghiên cứu giải dụng tương quan thích Xét về mục tiêu, một nghiên cứu cĩ thể nhắm đến một trong những mục tiêu sau đây: để tìm hiểu tính khả thi khi thực hiện một cuộc nghiên cứu (nghiên cứu thăm dị); để mơ tả một tình huống, hiện tượng, vấn đề nào đĩ (nghiên cứu mơ tả): mơ tả những dịch vụ mà một tổ chức xã hội cung cấp, những điều kiện sống của phụ nữ nhập cư; để tìm tương quan giữa hai hay nhiều biến (nghiên cứu tương quan): ví dụ, chiến dịch quảng cáo đã ảnh hưởng việc bán sản phẩm như thế nào, đâu là mối liên hệ giữa việc ứng dụng cơng nghệ mới và việc làm; để giải thích tại sao một vài tình huống đã xảy ra như chúng đã xảy ra (nghiên cứu giải thích): ví dụ, mơi trường gia đình ảnh hưởng kết quả học tập của trẻ em như thế nào, tại sao tử suất giảm kéo 34
  34. theo sinh suất giảm. Từ gĩc độ loại thơng tin tìm kiếm, ta cĩ thể phân ra các đề tài nghiên cứu định lượng, định tính. Nghiên cứu định tính nhằm tìm hiểu những biến đổi của một hiện tượng, một tình huống hay thái độ, trong khi nghiên cứu định lượng nhằm định lượng hố những đặc điểm, biến đổi của vấn đề tìm hiểu. 2.2.2. Các nguyên tắc chọn lựa đề tài: Chúng ta khơng đề cập đến trường hợp các đề tài được người khác hay cơ quan khác đặt hàng nghiên cứu. Nhưng khi tự người nghiên cứu chọn đề tài - nhất là các đề tài cĩ tính cách thực tiễn - cần lưu ý các nguyên tắc, tiêu chuẩn sau đây: 1/ Trước hết là mối quan tâm (interest). Đề tài là mối quan tâm của ai? - của người nghiên cứu, của cơ quan đang cơng tác, của cấp trên, hay của cơ quan tài trợ. 2/ Tính cấp bách (urgency) của vấn đề: Cĩ những vấn đề phù hợp với sở thích của người nghiên cứu, nhưng đi tìm câu trả lời cho những vấn đề này đơi khi khơng hữu ích bằng nghiên cứu các vấn đề khác. 3/ Tính hữu dụng (usefulness) của vấn đề: Nghiên cứu tỏ ra hữu ích trên hai mặt: gia tăng, phát triển kiến thức và thơng tin, hoặc tìm ra các giải đáp cho các vấn đề 4/ Khả năng của người nghiên cứu: 35
  35. Được hiểu là quá trình đào tạo, các khả năng kỹ thuật, kiến thức về phương pháp nghiên cứu cũng như khả năng của người nghiên cứu trong việc tham khảo thư tịch và tổng hợp tư liệu. Đồng thời người nghiên cứu phải nhận biết những quan điểm, chọn lựa của chính mình vì điều này sẽ ảnh hưởng đến quá trình thu thập và giải thích sự kiện xã hội. 5/ Tính khả thi của đề tài (feasibility): Một kinh nghiệm được rút ra là người nghiên cứu trẻ nên chọn những đề tài nào nằm ở biên giới của khối kiến thức hiện tại cĩ được về lãnh vực này. Làm như vậy người nghiên cứu tránh được những đề tài đã được nhiều người đề cập - và trong trường hợp này người nghiên cứu cũng khĩ đĩng gĩp được gì mới mẻ - đồng thời cũng tránh được những đề tài chưa ai đề cập đến, địi hỏi nhiều cơng phu, kỹ năng và đầu tư lớn lao Tĩm lại, nên chọn những đề tài đã cĩ vài cuộc nghiên cứu sơ bộ, nhưng kiến thức về đề tài này cịn thiếu sĩt cần bổ sung. 6/ Tính độc đáo: Cuộc nghiên cứu phải cĩ đĩng gĩp mới, như vậy là để tránh lập lại những kết luận đã cĩ, tránh phí phạm tài nguyên dành cho việc nghiên cứu và cũng khơng làm hại đến uy tín của người nghiên cứu. 7/ Những giới hạn trong thực tiễn: Việc chọn lựa một vấn đề, hình thành nên câu hỏi cụ thể của cuộc nghiên cứu và sau đĩ phác hoạ kế hoạch nghiên cứu, tất cả những điều này địi hỏi xem xét những hạn chế trong thực tế như thời gian, chi phí, sự chấp thuận của người cĩ thẩm quyền, những vấn đề đạo đức Những hạn chế này cĩ thể ảnh hưởng một cách sâu sắc cuộc nghiên cứu. 36
  36. 2.2.3. Các bước cụ thể để xác định vấn đề nghiên cứu: Các bước sau đây dựa trên nguyên tắc thu hẹp dần vấn đề. Nếu đã chọn được một lãnh vực nhỏ để nghiên cứu thì khơng cần đi qua bước 1 và 2. Bảng 2.2.3: Các bước cụ thể để xác định vấn đề nghiên cứu Bước 1: Bước 2: Bước 3: Bước 4: Bước 5: Xác định Liệt kê các Chọn một Đưa ra Hình thành lãnh vực lãnh vực lãnh vực những câu mục tiêu tổng quan tâm nhỏ (bằng nhỏ làm hỏi nghiên quát và những (area) phương vấn đề cứu mục tiêu cụ thể pháp động nghiên (research của cuộc não, đọc tài cứu questions) nghiên cứu: liệu ) (sub (research area) problem) Ví dụ: Nghiện Chân dung Ảnh ảnh hưởng Mục tiêu tổng ma tuý người hưởng của của việc quát: Nhằm tìm nghiện nghiện ma nghiện đ/v hiểu ảnh hưởng tuý đối quan hệ của nghiện ma Nguyên với gia trong gia tuý đối với gia nhân đình đình đình Quá trình ảnh hưởng Mục tiêu cụ trở thành đối với kinh thể: người tế gia đình nghiện tìm hiểu ảnh - ảnh hưởng hưởng của việc Ảnh hưởng 37
  37. của nghiện trên các khía nghiện đ/v ma tuý đối cạnh khác: quan hệ trong với gia đình giáo dục con gia đình cái 5)Thái độ xác định ảnh của cộng hưởng đối với đồng đ/v kinh tế gia đình người - tìm ra ảnh nghiện hưởng trên các 6) Các mơ khía cạnh khác: hình chữa giáo dục con trị cái 2.2.4.Chức năng của tựa đề và nguyên tắc đặt tựa đề đề tài nghiên cứu. Tựa đề của đề tài nghiên cứu cần được xác định một cách vắn tắt và cho thấy được nội dung của cuộc nghiên cứu. Tựa đề phải được hình thành như một khuơn khổ tham chiếu cho tồn cơng trình nghiên cứu, nĩ cũng phải cĩ tính độc đáo để phân biệt với các cơng trình nghiên cứu khác. Như vậy khi đặt tựa đề phải theo một số nguyên tắc sau đây: - Rõ ràng, khơng dị nghĩa: cĩ thể thực hiện nguyên tắc này bằng cách hỏi ý kiến của nhiều người khác nhau trước tựa đề này xem họ cĩ cùng suy nghĩ khơng. - Thích hợp, đi thẳng vào vấn đề. 38
  38. - Tựa đề cĩ tính cách tìm hiểu hơn là thuyết minh. - Khơng cĩ tính cách tuyên truyền, quảng cáo. - Chọn đề tài về những sự kiện đang xảy ra. Nguyên tắc này nên được những người mới đi vào lãnh vực nghiên cứu quan tâm. - Các khái niệm chính nên được bao gồm trong tựa đề, và cho thấy tương quan giữa chúng. - Tựa đề khơng những cho thấy vấn đề nghiên cứu mà nếu được nên cho thấy cả đối tượng khảo sát. - Nếu cần thiết, phải giới hạn mặt khơng gian và thời gian của vấn đề nghiên cứu (cĩ thể trình bày trong phần dẫn nhập) 2.2.5.Xây dựng mơ hình phân tích: Sau khi đã xác định đề tài, chọn lựa gĩc độ nghiên cứu vấn đề, đặt ra những câu hỏi nghiên cứu, người nghiên cứu phải xây dựng mơ hình phân tích hay cịn gọi là xây dựng khung khái niệm, khung lý thuyết (conceptual framework). Đây là bước bắt buộc trong các nghiên cứu định lượng, riêng đối với nghiên cứu định tính cĩ thể linh động hơn và là bước trung gian giữa việc xác định đề tài và cơng tác thu thập dữ kiện. Cơng việc này bao gồm việc thao tác hố các khái niệm và đưa ra các giả thiết nghiên cứu: Thao tác hố các khái niệm chính: Định nghĩa các khái niệm, thao tác hố các khái niệm: Việc xây dựng các khái niệm (concept) để triển khai đề tài đã chọn lựa là nhằm nắm bắt thực tại muốn nghiên cứu. Nhưng để thực hiện mục tiêu này, người nghiên cứu chỉ quan tâm đến những chiều kích (dimensions) 39
  39. của thực tại được cho là quan trọng, chủ yếu. Các chiều kích là các khía cạnh đi với nhau, cấu thành nên khái niệm. Kế tiếp, nêu ra các chỉ báo (indicators) để đo lường các khía cạnh, các chiều kích trên. Như đã đề cập, cơng việc kế tiếp là đưa ra các chỉ báo nhằm đo lường khái niệm. Trong lãnh vực xã hội, các hiện tượng khơng phải bao giờ cũng biểu hiện bằng những chiều kích cĩ thể quan sát, do đĩ cần thao tác hố thành các chỉ báo. Các chỉ báo - cĩ tác giả sử dụng các thuật ngữ khác như "thuộc tính", "đặc tính" - là những biểu hiện khách quan cĩ thể nhận thấy, cĩ thể đo lường của các chiều kích khái niệm. Ví như, tĩc bạc, răng long, da nhăn - và chính xác hơn - ngày tháng sinh là những chỉ báo cho phép đo lường tuổi già. Cĩ những khái niệm mà chỉ báo ít rõ ràng hơn, đơi lúc chỉ là một dấu hiệu, một ý kiến, một hiện tượng. Cĩ những khái niệm chỉ cĩ một chiều kích hay một chỉ báo chính xác. Nhưng cũng cĩ các khái niệm phức tạp hơn, phải tách thành các thành tố (composants) trước khi đi đến các chỉ báo. (Ví dụ về khái niệm "tính tơn giáo", khái niệm "tác nhân") (Quivy, Campenhoudt, 1995).(Xem bảng 2.3) Cĩ hai phương cách để xây dựng các khái niệm: qui nạp và diễn dịch. Phương pháp qui nạp cho ta những khái niệm thao tác (concept opératoire), là những khái niệm được xây dựng từ những sự quan sát trực tiếp hay từ thơng tin do kẻ khác thu thập. Ví như khái niệm "cố kết xã hội " của E. Durkheim, khái niệm "tính tơn giáo", khái niệm "hiện trạng sinh viên Việt Nam". Phương pháp diễn dịch cho ta những khái niệm hệ thống (concept systématique), được xây dựng trên lý luận về mối quan hệ giữa các thành phần của một hệ thống. Đây là một lối lý luận cĩ tính trừu tượng hơn, dựa trên sự diễn dịch sự tương đồng, tương phản Lấy thí dụ, khái niệm "tác nhân xã hội" trong lý 40
  40. thuyết xã hội học hành động (sociologie de l’action) của A. Tourraine. Khái niệm tác nhân xã hội được diễn dịch từ khái niệm quan hệ xã hội, thể hiện qua hai chiều kích: hợp tác hoặc xung đột. Hai chiều kích này đến lượt chúng lại phân ra thành các thành tố, rồi các chỉ báo (Quivy, Campenhoudt, 1995). Nhìn chung, nghiên cứu định lượng thường đi theo phương pháo diễn dịch, trong khi nghiên cứu định tính thường áp dụng phương pháp qui nạp. Bảng 2.3: Thao tác hố các khái niệm Định Cụ thể hố các Cụ thể hố các chiều kích thành nghĩa khái niệm thành các chỉ báo các các chiều kích khái niệm Ví dụ: Tính 1) Lễ thức - nhà cĩ bàn thờ tổ tiên khơng? tơn - cĩ thắp nhan? (tần số) giáo: - cĩ đi lễ các cơ sở tơn giáo khơng? (chùa, nhà thờ, thánh thất, đình miếu ) (tần số) - nếu đi vào một tơn giáo cụ thể thì cĩ những lễ thức cụ thể khác nữa (ví dụ: PG: qui y, ăn chay các ngày sĩc, vọng TCG: xưng tội, rước lễ, đọc kinh ) 2) Chiều kích hệ - tin cĩ Trời? tự tưởng - tin cĩ kiếp sau? - nếu đi vào từng tơn giáo cụ thể: 3) Chiều kích tri - tri thức về tơn giáo tổng quát: thức Tam giáo? - tri thức về các tơn giáo cụ thể: 4) Chiều kích - cĩ bao giờ cảm nghiệm về cái kinh nghiệm “siêu vượt”, cái “tuyệt đối”? 5) Chiều kích ảnh - cĩ bố thí? hưởng xã hội - cĩ tham gia cơng tác từ thiện? - ảnh hưởng của các chuẩn mực đạo đức lên đời sống hàng ngày? (ví dụ trốn thuế?, quan niệm về phá thai? quan hệ tình dục trước hơn nhân ) 41
  41. 2.3.2. Xây dựng các giả thiết: Giả thiết là một mệnh đề nêu ra tương quan giữa hai khái niệm, hay hai hiện tượng. Giả thiết chỉ là một mệnh đề tạm thời, là một câu trả lời tạm thời cho vấn đề được nêu ra, cịn địi hỏi phải được kiểm tra, chứng minh bằng cách so sánh, đối chiếu với các sự kiện quan sát được trong thực tế và đơi lúc người ta cũng cĩ thể dùng các thử nghiệm để chứng minh, để kiểm tra giả thiết (ví dụ thí nghiệm của Solomon Ash về áp lực dư luận xã hội lên trên quan điểm của cá nhân). Giả thiết cĩ thể mang nhiều hình thức: là một mệnh đề nêu lên một tương quan giữa một hiện tượng xã hội và một khái niệm (tương quan giữa phong trào tranh đấu sinh viên 1968 ở Pháp và các phong trào xã hội), hay là một mệnh đề nêu lên tương quan giữa hai hiện tượng. Giả thiết cũng cĩ thể cĩ tính cách miêu tả (trong một trường hợp nào phải cĩ một sự kiện nào đĩ); giả thiết xuất hiện theo tần số (mật độ dân cư và nạn thiếu nhi phạm pháp; tương quan giữa tăng lương và tăng giá cả sinh hoạt; giả thiết liên hệ nhân quả (tương quan giữa nhân cách và kinh nghiệm trong tuổi thơ). Cơng dụng của giả thiết là giúp người nghiên cứu tìm ra những dữ kiện cĩ liên quan đến đề tài, để sau đĩ thu thập và phân tích. Giả thiết cĩ thể xuất phát từ trực giác hoặc suy diễn từ một lý thuyết tổng quát. Nếu vừa cĩ những sự kiện cĩ ý nghĩa, vừa cĩ thể nối kết với một lý thuyết tổng quát thì việc đặt ra các giả thiết sẽ dễ dàng hơn và việc lên kế hoạch thu thập các dữ kiện sẽ rõ ràng hơn. Thời điểm đưa ra giả thiết tuỳ thuộc tính chất đề tài nghiên cứu 42
  42. và tình trạng kiến thức hiện cĩ về vấn đề. Nhưng thơng thường người ta phải xác định giả thiết trong giai đoạn nghiên cứu thăm dị. 2.3.3. Giả thiết và mơ hình phân tích. Việc xây dựng giả thiết khơng chỉ đơn giản là hình dung ra một mối tương quan giữa hai biến, nhưng là một động tác phức tạp hơn: làm thế nào làm bật ra cái lơ-gích của những tương quan giữa những hiện tượng, những khái niệm được nêu ra trong vấn đề nghiên cứu. Trong một đề tài nghiên cứu ít khi chỉ cĩ một giả thiết, mà thường cĩ một hệ thống các giả thiết. Các giả thiết này đan cài nhau, vận hành một cách lơ-gích, do đĩ khĩ cĩ thể nĩi đến giả thiết mà khơng đề cập đến một mơ hình phân tích. Mơ hình là một hệ thống các giả thiết cĩ quan hệ hữu cơ với nhau. Cĩ thể tĩm tắt, gĩc độ của vấn đề đặt ra (problématique), các khái niệm, các giả thiết, mơ hình phân tích đều gắn bĩ chặt chẽ với nhau. Xây dựng một mơ hình phân tích cho dù phức tạp hay đơn giản địi hỏi tối thiểu hai điều kiện: phải xây dựng được một hệ thống các tương quan và hệ thống này phải hợp lý và lơ-gích. Cuối cùng, một giả thiết để là đối tượng của kiểm tra thực nghiệm phải mang đặc tính "cĩ thể sai" (falsifiable). Điều này cĩ nghĩa là ta luơn luơn cĩ thể kiểm định, thử nghiệm chúng. 2.4 Thiết kế nghiên cứu. Sau khi đã xác định vấn đề nghiên cứu, đã phác thảo mơ hình phân tích, người nghiên cứu phải quyết định thiết kế dự án nghiên cứu (research design) như thế nào. Mục tiêu của việc thiết kế nghiên cứu là giúp người nghiên cứu tìm ra đầy đủ các dữ kiện chính xác về đề tài với một phí tổn tối thiểu về nhân lực, thời gian, tiền bạc. 43
  43. Thiết kế nghiên cứu liên quan đến nhiều quyết định quan trọng, như: 1. Chiến lược nghiên cứu. 2. Phải chọn mẫu như thế nào. 3. Những cơng cụ để thu thập tài liệu (kê ra các dữ kiện phục vụ đề tài: tài liệu thư tịch, tài liệu phỏng vấn thăm dị, tài liệu thực hiện trên điền dã ), chọn các phương pháp nghiên cứu cụ thể như thế nào, xây dựng các cơng cụ để thu thập dữ kiện như làm bản hỏi, bản hướng dẫn phỏng vấn 4. Dự kiến xử lý thơng tin thu thập được như thế nào. 2.4.1 Chọn lựa chiến lược nghiên cứu. Cĩ nghĩa là nêu lên được cách thức, lý do, lập luận mà nghiên cứu định tiến hành nhằm trả lời những câu hỏi nghiên cứu đã đưa ra. Lấy thí dụ trong nghiên cứu định lượng, để hiểu được vấn đề nghiên cứu ta cĩ thể chọn những nhĩm để so sánh bằng cách sử dụng thí nghiệm (thực nghiệm, bán thực nghiệm, phi thực nghiệm), hay đi tìm tương quan giữa những vấn đề đặt tra bằng điều tra tương quan (correlational survey). Trong nghiên cứu định tính, cĩ thể chọn nghiên cứu điển hình, mơ tả dân tộc học, mơ hình lý thuyết cơ sở (grounded theory) như là những chiến lược nghiên cứu. Đơi lúc cĩ thể phối hợp nhiều chiến lược. 2.4.2 Chọn mẫu nghiên cứu: Cho dù sử dụng loại hình nghiên cứu nào: định lượng, định tính hay phê phán, người nghiên cứu đều dùng các kỹ thuật chọn mẫu mà ta sẽ đề cập kỹ trong bài ba. Dĩ nhiên giữa các loại hình nghiên cứu cĩ 44
  44. những xu hướng chọn mẫu khác nhau. 2.4.3 Chọn lựa phương pháp thu thập thơng tin cụ thể: Hiện nay các nghiên cứu xã hội thường sử dụng các phương pháp thu thập thơng tin sau đây: sử dụng tài liệu cĩ sẵn, quan sát, điều tra và thử nghiệm (tạo tình huống). Mỗi phương pháp đều cĩ các ưu điểm và hạn chế, do đĩ việc chọn lựa phương pháp nào tuỳ thuộc những điều kiện cụ thể. Thơng thường trong một cuộc nghiên cứu khơng nên sử dụng một phương pháp duy nhất mà phải phối hợp một vài phương pháp. Tuy nhiên nên chọn một phương pháp chủ đạo và chính phương pháp này sẽ quyết định cuộc nghiên cứu thiên về khuynh hướng định tính hay định lượng. Việc chọn lựa phương pháp cụ thể tuỳ thuộc nhiều yếu tố: a) Mục đích cuộc nghiên cứu (mức độ khái quát, độ chính xác, sâu rộng của nội dung nghiên cứu); b) Đối tượng khảo sát; c) Nội dung nghiên cứu; d) Khả năng của người nghiên cứu; e) Và những hồn cảnh cụ thể, những yếu tố của thực tế. 2.4.4 Dự kiến xử lý thơng tin: Đây cũng là khâu quan trọng trong việc lên kế hoạch nghiên cứu. Người nghiên cứu phải dự kiến xử lý thơng tin bằng các phương tiện, kỹ thuật nào? Xử lý bằng máy tính hay xử lý thủ cơng, chọn kỹ thuật phân tích định tính hay định lượng? Người nghiên cứu cần được trang 45
  45. bị ít nhiều những kiến thức các nguyên tắc thống kê, một số cơng cụ tốn học. Kiến thức và khả năng xử lý thơng tin của người nghiên cứu đơi khi ảnh hưởng đến các phương pháp, các kỹ thuật nghiên cứu được chọn lựa. Ngày nay các cuộc nghiên cứu thường được tiến hành tập thể hay cĩ thể nhờ sự giúp đỡ của các bộ phận chuyên mơn, nên người nghiên cứu cũng cĩ thể khơng hồn tồn cần thiết được đào tạo những kỹ thuật quá chuyên mơn. Nhưng nắm vững những nguyên tắc xử lý dữ kiện sẽ giúp người nghiên cứu đi sâu vào việc phân tích hơn. Ví như, trong phân tích định lượng, khi nào thì dùng những kỹ thuật thống kê mơ tả một biến, khi nào thì tìm tương quan, kiểm định trung bình giữa hai hay nhiều biến, khi nào thì dùng hồi qui, khi nào thì áp dụng phân tích nhân tố. Trong phân tích định tính cũng vậy, với những loại dữ kiện nào thì dùng phân tích nội dung định lượng theo chủ đề, khi nào thì dùng phân tích nội dung định tính. Tĩm lược và một số điểm cần lưu ý và ghi nhớ: Chương này, sau khi liệt kê ra bảy bước chính của quá trình thực hiện một nghiên cứu, đi sâu vào ba bước của giai đoạn chuẩn bị: xác định vấn đề nghiên cứu, xây dựng khung lý thuyết (định nghĩa các khái niệm chính, cụ thể hố bằng các chiều kích, các chỉ báo và đưa ra giả thiết), thiết kế cuộc nghiên cứu. Đây là ba bước quan trọng, quyết định sự thành cơng và tính khoa học của một cơng trình nghiên cứu. Cần lưu ý, ba bước này kế tiếp nhau, nhưng bước sau cĩ thể bổ sung, hồn chỉnh bước trước. Bước xác định vấn đề nghiên cứu đưa ra các bước nhỏ để giúp những người mới đi vào con đường nghiên cứu. Bước xây dựng khung lý thuyết hay cịn gọi là thao tác hố vấn đề nghiên cứu là cực kỳ quan trọng và khĩ, tương tự việc ta phác hoạ 46
  46. khung sườn, diện mạo của một cơng trình kiến trúc. Bước thiết kế cuộc nghiên cứu là bước trung gian giữa giai đoạn chuẩn bị và giai đoạn thực hiện cuộc nghiên cứu. Câu hỏi ơn tập: 1. Làm thế nào để xác định được vấn đề nghiên cứu ? Một vấn đề nghiên cứu để cĩ thể thực hiện được cần cĩ những đặc điểm chính nào? 2. Thao tác hố một vấn đề nghiên cứu bao gồm những cơng việc chính nào? 3. Bước thiết kế cuộc nghiên cứu bao gồm những cơng việc chính nào? Bài tập: 1. Người học tự xác định một đề tài nghiên cứu và thử thao tác hố đề tài đã chọn. 2. Hãy thao tác hố và thiết kế nghiên cứu với các đề tài sau: a) « Tìm hiểu quá trình xã hội hố về giới ở trẻ em TPHCM »; b) «Tính tơn giáo ở các tầng lớp xã hội tại TPHCM »; c) “Tìm hiểu nghèo đĩi ở nơng thơn từ lối tiếp cận văn hố”. Bài đọc thêm: - Therese Baker, Thực hành nghiên cứu xã hội (Bản dịch), NXB Chính trị, Hà nội, 1998, tr. 155-240 - Phạm Văn Quyết, Nguyễn Quý Thanh, Phương pháp nghiên cứu xã hội học, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2001, tr. 65-84. 47
  47. CHƯƠNG 3: CHỌN MẪU 1.Giới thiệu khái quát Chương 3 chủ yếu trình bày các kỹ thuật chọn mẫu. 2. Mục tiêu của chương này Giúp người học nắm được các đặc điểm của các loại chọn mẫu xác suất và khơng xác suất để ứng dụng trong các nghiên cứu định lượng và định tính. Do những hạn chế về thời gian, tiền bạc, phương tiện vật chất, và cả những lý do kỹ thuật, trong rất nhiều trường hợp khơng thể nghiên cứu tất cả các đối tượng mà cuộc nghiên cứu nhắm tới, ví như khơng thể hỏi tất cả ý kiến của cử tri trong một cuộc bầu cử, tất cả những người tham gia bảo hiểm xã hội. Trong các trường hợp trên người nghiên cứu phải sử dụng các kỹ thuật chọn mẫu. 2.1. Một số thuật ngữ liên quan đến chọn mẫu: Những đối tượng của cuộc nghiên cứu được gọi là các đơn vị phân tích (units of analysis). Các đơn vị phân tích thường là các cá nhân, nhưng cũng cĩ thể là những cặp vợ chồng, một câu lạc bộ, một xí nghiệp, một quận huyện hay một nhà nước, tuỳ theo tính chất và nội dung của cuộc nghiên cứu. Tổng số tồn thể các đơn vị nghiên cứu được gọi là dân số (population hay universe mà một số tác giả cịn sử dụng thuật ngữ tồn số, hay tổng thể nghiên cứu). Dân số ở đây được hiểu là tập hợp các yếu tố cấu tạo nên một tồn thể, là tập hợp các đối tượng mà người nghiên cứu nhắm tới. Tập hợp các phân xưởng của một xí 49
  48. nghiệp, các sách trong một thư viện, học sinh của một trường, các bài báo đăng trên một tạp chí, các câu lạc bộ trong một thành phố đều là những dân số khác nhau và cĩ thể là đối tượng của các cuộc nghiên cứu. Mẫu (sample, échantillon): mẫu là một tập hợp được chọn lựa, cĩ tính cách tiêu biểu và được rút ra từ tồn thể dân số mà người ta muốn nghiên cứu. Yếu tố mẫu (sampling element): là trường hợp hay là đối tượng cuối cùng được chọn trong một mẫu, thí dụ, những người phụ nữ theo đạo Phật tuổi từ 21 đến 50, một nam giảng viên đại học tuổi dưới 40. Đơn vị mẫu (sampling unit): đĩ cĩ thể là một yếu tố duy nhất của mẫu hoặc là một chùm (cluster) của mẫu, nghĩa là một tập hợp các yếu tố của mẫu. Khung mẫu (sampling frame) là một danh sách đầy đủ tất cả các đơn vị từ đĩ mẫu sẽ được rút ra. 2.2. Các loại mẫu: Một cách tổng quát cĩ thể phân ra các loại mẫu cĩ tính cách xác suất và các loại mẫu khơng cĩ tính xác suất. 2.2.1. Các loại mẫu xác suất: Chọn mẫu theo phương pháp xác suất (probability sampling) cĩ nghĩa là sự chọn lựa hồn tồn do sự ngẫu nhiên của việc rút thăm định đoạt và do đĩ khơng cĩ sự thiên lệch do ý định chủ quan của con người. Ngẫu nhiên ở đây khơng cĩ tính cách tình cờ. Một mẫu xác suất là mẫu trong đĩ cĩ thể biết tính xác suất của việc chọn lựa từng trường hợp. 1/ Mẫu ngẫu nhiên (random sampling): Đây là loại mẫu xác suất ta thường biết nhất. Trong loại mẫu 50
  49. ngẫu nhiên, mỗi một đơn vị trong tồn thể dân số đều cĩ cơ hội ngang nhau để được chọn vào mẫu. Trong quá trình chọn mẫu ngẫu nhiên, người ta thường chỉ định mỗi trường hợp bằng một con số để sau đĩ cĩ thể rút thăm một cách ngẫu nhiên, hay người ta cịn cĩ thể căn cứ trên các bảng số ngẫu nhiên (table of random numbers). • 48461 12952 72619 73689 52059 37086 • 76534 38146 49692 31366 52093 15422 • 70437 25861 38504 14752 23757 29660 • 59584 03370 42806 11393 71722 93804 • 04285 58554 16085 51555 27501 73883 Bảng 3.1: Ví dụ về bảng số ngẫu nhiên Việc chọn mẫu ngẫu nhiên cĩ ưu điểm là tránh được thiên lệch và cung cấp cho ta các phương tiện thống kê để đánh giá các sai lệch của việc chọn mẫu. Tuy nhiên, với các mẫu lớn, việc chọn mẫu ngẫu nhiên là một cơng việc rất nặng nhọc, địi hỏi nhiều cơng sức nếu khơng được máy tính giúp đỡ. 2/ Mẫu hệ thống (systematic sample): Đĩ là mẫu trong đĩ các trường hợp được chọn theo một khoảng cách nhất định, và thơng thường trường hợp đầu tiên được chọn ngẫu nhiên. So sánh với mẫu ngẫu nhiên, mẫu hệ thống lệ thuộc nhiều hơn vào sự chính xác của khung mẫu. Trong việc chọn mẫu hệ thống, nếu duy trì trật tự của khung mẫu cĩ thể đưa đến các mẫu khơng cĩ tính cách tiêu biểu. Babbie đã đưa ra ví dụ về một cuộc nghiên cứu theo mẫu hệ thống các binh lính đồng minh trong thế chiến thứ hai dựa trên một khoảng cách 1/10, cuối cùng đã cho một mẫu gồm tồn các ơng trung sĩ, bởi lẽ khung mẫu đã dựa trên việc liệt kê các tiểu đội với 10 binh lính và một tiểu đội được sắp xếp theo cấp bậc, tiểu đội trưởng đứng đầu. Các danh bạ điện thoại thường được sắp xếp theo mẫu chữ 51
  50. cái, do đĩ cĩ trường hợp các nhĩm thiểu số thường tập trung lại thay vì phân tán một cách ngẫu nhiên nên dễ bị loại ra trong việc chọn mẫu. Tĩm lại, việc chọn mẫu hệ thống địi hỏi khung mẫu phải cĩ tính cách ngẫu nhiên. 3/ Mẫu rút thăm tập trung từng chùm, từng nhĩm (cluster sampling): Cĩ nghĩa là thay vì rút thăm từng đơn vị người ta rút thăm từng nhĩm đơn vị, hay nĩi cách khác đơn vị mẫu là tập hợp các yếu tố. Người nghiên cứu sử dụng loại mẫu này khi chỉ cĩ bản liệt kê từng nhĩm đơn vị chứ khơng cĩ bản liệt kê từng đơn vị. Lấy thí dụ, điều tra về học sinh mà khơng cĩ bảng danh sách học sinh nhưng chỉ cĩ danh sách các lớp, do đĩ sẽ chọn một số lớp rồi hỏi tất cả học sinh trong số lớp đã chọn. Mẫu rút thăm từng chùm đơi khi cịn được gọi là mẫu rút thăm khu vực (area sampling). Ví dụ, nghiên cứu trình độ văn hố trung bình của phụ nữ quận Phú nhuận, người nghiên cứu cĩ thể chọn mẫu qua nhiều giai đoạn: rút mẫu ngẫu nhiên về các khu vực trong quận (cĩ thể theo tiêu chí giàu nghèo), rồi rút thăm các phường, khu phố, hộ, rồi mới đến những người phụ nữ cần nghiên cứu. Phương pháp chọn mẫu này cho phép tiết kiệm thời gian và tiền bạc, nhưng vì phải qua nhiều giai đoạn nên sai lệch của mẫu sẽ cao lên. Do đĩ người nghiên cứu phải quan tâm đến qui mơ của mẫu và tính chính xác của mẫu khơng chỉ một lần mà qua các giai đoạn của việc chọn mẫu từng chùm. 4/ Mẫu ngẫu nhiên theo phân lớp (stratified random sampling): 52
  51. Đây là cách chọn mẫu theo đĩ giai đoạn đầu phải chia các đối tượng khảo sát ra thành các phân lớp, ví dụ: phân các sinh viên theo các khoa, hay sinh viên một lớp theo giới tính, theo lứa tuổi Trong giai đoạn thứ hai, người ta sẽ dùng phương pháp rút thăm để chọn mẫu nghiên cứu. Khơng nên nhầm lẫn phương pháp này với phương pháp phân suất (quota sample) sẽ được trình bày sau. Sự phân chia ra các phân lớp là một yếu tố khơng cĩ tính cách ngẫu nhiên, nhưng trong giai đoạn rút thăm các đơn vị nghiên cứu thì sự chọn lựa này theo phương pháp ngẫu nhiên chứ khơng do điều tra viên tự quyết định. Người ta dùng phương pháp này khi nào sự phân chia thành các phân lớp làm cho trong mỗi phân lớp các đơn vị đối tượng thuần nhất hơn. Điều này cĩ nghĩa là sự khác biệt giữa các đơn vị trong một phân lớp thì nhỏ hơn so với sự khác biệt giữa các phân lớp. Việc chọn lựa các phân lớp là tuỳ mục tiêu của người nghiên cứu, hay cũng cĩ thể dựa trên các phân lớp cĩ sẵn trong các tư liệu thống kê (ví dụ qui mơ dân số trong một tỉnh), hay dựa trên các phân lớp do các cuộc nghiên cứu thăm dị đem lại. Với phương pháp chọn mẫu này, ta khơng chỉ cĩ thể phân lớp trên một biến số mà cĩ thể hai hay ba biến số, lấy thí dụ trong việc nghiên cứu các cán bộ tại một viện nghiên cứu, ta cĩ thể chọn các phân lớp sau: phân lớp thứ nhất: giáo sư, phĩ giáo sư, nghiên cứu viên, trợ lý nghiên cứu, phân lớp thứ hai theo giới tính: nam nữ Mẫu ngẫu nhiên theo phân lớp này đơi lúc cho phép ta tiết kiệm được thời gian và tiền bạc, nếu biến số được phân lớp (ví dụ cấp bậc trong quân đội, trong một viện nghiên cứu, hay nghề nghiệp) cĩ tương quan với các biến số khác (tuổi, giới tính, lợi tức) mà ta muốn tìm 53
  52. hiểu. Tĩm lại, như vừa trình bày, các loại chọn mẫu này khơng loại trừ nhau, người nghiên cứu cĩ thể phối hợp, ví như ta cĩ thể phối hợp chọn mẫu theo phân lớp và chọn mẫu theo chùm. Trong trường hợp này, ta chọn các phân lớp trước rồi sau đĩ tiến hành chọn mẫu từng chùm với từng phân lớp. 2.2.2. Chọn mẫu khơng cĩ tính xác suất: Bên cạnh những phương pháp chọn mẫu xác suất, ta cịn cĩ thể sử dụng các phương pháp chọn mẫu khơng cĩ xác suất (no probability sampling). Các phương pháp này thường được sử dụng trong các cuộc nghiên cứu định tính, cĩ qui mơ nhỏ. Điểm hạn chế của phương pháp này là người nghiên cứu khơng thể cho rằng đối tượng được chọn là thật sự tiêu biểu cho dân số, do đĩ khơng thể tổng quát hố những kết luận nghiên cứu ra khỏi phạm vi đã chọn lựa. Người nghiên cứu cũng khơng thể tính được chính xác độ sai lệch của mẫu. Bên cạnh những hạn chế này, phương pháp chọn mẫu khơng xác suất cũng cĩ các ưu điểm: ít phức tạp, ít tốn kém, tiện lợi, nhanh gọn và cĩ thể lập lại, bổ sung cuộc nghiên cứu dễ dàng hơn phương pháp chọn mẫu xác suất. 1/ Chọn mẫu tình cờ, tiện lợi (convenience, accidental sampling): Người nghiên cứu cĩ thể chọn những người gần gũi, thích hợp để hỏi. Mẫu sẽ khơng cĩ tính cách chính xác, nhưng ngược lại ta tiết kiệm được thời gian và tiền bạc. Cách chọn mẫu này thường gặp ở những trường hợp thực tập của sinh viên với những "đối tượng bị bắt cĩc" để phỏng vấn, hay trường hợp điều tra tiếp thị trên đường phố 54
  53. 2/ Chọn mẫu phân suất, chọn mẫu định ngạch (quota sampling): Trong kỹ thuật này, trước tiên người nghiên cứu phải xác định đâu là những phân lớp quan trọng, thích hợp cho việc nghiên cứu, ví như các bang trong người Hoa, dân cư theo tơn giáo, tuổi tác và giới tính của một nhĩm đối tượng Sau đĩ người nghiên cứu chọn một phân suất cho các phân lớp này, tỷ lệ tương ứng với thực tế của tồn dân số. Sau khi phân suất đã được ấn định vấn đề kế tiếp là tìm ra những đối tượng, những người mang những đặc tính trên. Điều này hồn tồn do người điều tra quyết định. Mặc dù kỹ thuật chọn mẫu phân suất khơng cĩ tính cách ngẫu nhiên, nhưng người nghiên cứu cố gắng tránh định kiến trong việc chọn lựa các đối tượng và bảo đảm cho mẫu càng cĩ tính cách tượng trưng và tổng quát càng tốt. Một yếu tố thường làm lệch mẫu là người phỏng vấn cĩ xu hướng chọn những đối tượng ít trở ngại, chọn những người quen biết và đơi lúc cĩ thành kiến với một tầng lớp xã hội nào đĩ. 3/ Chọn mẫu dựa trên sự phán đốn (purposive hay judgmental sampling): Khác với mẫu phân suất, trong kỹ thuật chọn mẫu này người nghiên cứu khơng cần thiết phải chọn các tỉ lệ theo các phân lớp, cũng khơng phải chọn theo sự tiện lợi như trong việc chọn mẫu tình cờ, mà dựa theo sự phán đốn của người nghiên cứu để tìm những người trả lời nào đáp ứng nhất những mục tiêu của cuộc nghiên cứu, những người nào cĩ thể cung cấp nhiều thơng tin nhất cho vấn đề cần tìm hiểu. Ưu điểm của kỹ thuật này là người nghiên cứu cĩ thể chọn những 55
  54. người trả lời dựa trên những kỹ năng nghiên cứu và trên hiểu biết của mình. Ví như người nghiên cứu cĩ thể biết thế nào là một người phụ nữ Việt nam điển hình, một người trí thức Việt nam tiêu biểu. Kỹ thuật này thường được áp dụng trong việc tiên đốn kết quả các cuộc bầu cử, cĩ những địa phương thường chọn đúng các ứng viên tổng thống được bầu. Một đặc trưng khác của kỹ thuật này là tìm ra những trường hợp đặc biệt (những trường hợp lệch lạc) hơn là tìm ra những mẫu người trả lời bình thường và để tìm xem cái gì đã làm cho họ tách khỏi những chuẩn mực đã qui định. 4/ Chọn mẫu tích luỹ (snowball sampling): Các năm gần đây, kỹ thuật này càng ngày càng được sử dụng rộng rãi, đặc biệt đối với các nhà nghiên cứu dùng phương pháp quan sát, hay nghiên cứu các cộng đồng. Mặc dù kỹ thuật này thường được xem là cách chọn mẫu khơng cĩ tính xác suất, nhưng cũng cĩ những nhà nghiên cứu sử dụng thêm cách rút thăm để tăng cường độ tin cậy của mẫu. Kỹ thuật này thường được tiến hành qua các giai đoạn sau: Trong giai đoạn đầu người nghiên cứu cố tìm ra và phỏng vấn một số người cĩ những đặc tính theo yêu cầu. Những người này được sử dụng như những thơng tín viên (informants) để tìm ra những người khác sẽ được đưa vào mẫu. Những người này đến lượt họ sẽ được phỏng vấn và họ gợi ý phỏng vấn những người khác nữa. Như vậy mẫu càng lúc càng lớn dần như một "tảng tuyết lăn". Nếu muốn cĩ một mẫu cĩ tính cách xác suất, phải rút thăm ở mỗi giai đoạn hay cũng cĩ thể sử dụng thêm kỹ thuật chọn mẫu ngẫu nhiên ở mỗi giai đoạn. 56
  55. 3.3. Qui mơ của mẫu: Qui mơ của mẫu tuỳ thuộc tính chất của dân số, mục tiêu và qui mơ của việc nghiên cứu. Cĩ nhiều cuộc nghiên cứu cĩ dân số rất nhỏ nên ta cĩ thể nghiên cứu luơn tồn thể dân số. Thơng thường qui mơ của mẫu tuỳ thuộc qui mơ của dân số để chọn mẫu. Để xác định qui mơ của mẫu rút ra từ dân số cĩ rất nhiều cơng thức của nhiều tác giả khác nhau. Cơng thức sau chỉ cĩ tính tham khảo. Slovin (1960) đã đưa ra cơng thức như sau: n = N/ (1+ N.e2) Theo đĩ, n = qui mơ của mẫu N = qui mơ của dân số e = mức sai lệch mong muốn (tỷ lệ phần trăm sai lệch do việc sử dụng mẫu chứ khơng phải nghiên cứu tồn mẫu). Lấy thí dụ, trong một cuộc nghiên cứu ta cĩ dân số là 9000 đơn vị và chúng ta muốn cĩ một mức sai lệch là 2%, thì mẫu được chọn lựa sẽ là: n = 9.000/ 1+ 9.000(.02)2 n = 9.000/ 1+ 9.000(.0004) n = 9.000/ 1+ 3.6 n = 1.957 Với cơng thức tính trên ta giả định cĩ một dân số phân bố bình thường. Khi mà dân số ước tính nhỏ quá thì khơng được ứng dụng 57
  56. cơng thức này. Các tác giả Pagoso, Garcia và Guerrero de Leon (1978) cho ta một bảng để tính qui mơ của mẫu trong tương quan với dân số và các mức độ sai lệch: Bảng 3.2: Qui mơ của mẫu với dân số và mức độ sai lệch MỨC ĐỘ SAI LỆCH Dân số: + 1% + 2% + 3% + 4 % + 5% +10% 500 * * * * 222 83 1.500 * * 638 441 316 94 2.500 * 1250 769 500 345 96 3.000 * 1364 811 517 353 97 4.000 * 1538 870 541 364 98 5.000 * 1667 909 556 370 98 6.000 * 1765 938 566 375 98 7.000 * 1842 959 574 378 99 8.000 * 1905 976 580 381 99 9.000 * 1957 989 584 383 99 10.000 5.000 2000 1000 588 385 99 50.000 8.333 2381 1087 617 387 100 (Dấu * cho thấy là giả định về phân bố bình thường (normal distribution) thấp, do đĩ khơng thể ứng dụng cơng thức tính qui mơ của mẫu). Nếu khơng biết được dân số cụ thể thì rất khĩ chọn mẫu, tuy nhiên để cĩ thể thực hiện các phân tích thống kê, tối thiểu phải cĩ 30 trường hợp (Alston Bowles, 1998, tr. 95). Nhưng cũng cĩ các kỹ thuật 58
  57. cĩ thể sử dụng với mẫu ít hơn 30 trường hợp. Cũng cĩ nhà nghiên cứu địi tối thiểu là phải 100 trường hợp, bởi lẽ cĩ nhiều phân tổ mà người nghiên cứu muốn nghiên cứu riêng biệt, hoặc cĩ nhiều biến số phải kiểm sốt. Ví dụ với một cuộc nghiên cứu 30 trường hợp với hai biến lợi tức và học vấn, ta sẽ gặp khĩ khăn nếu muốn tìm thêm ảnh hưởng của các biến khác, như giới tính, dân tộc Vì vậy khi chọn qui mơ mẫu, phải tính trước mẫu này sẽ được phân tổ bao nhiêu lần nữa trong khi phân tích các dữ kiện. Gay cũng đưa ra những qui mơ tối thiểu cĩ thể chấp nhận được tuỳ theo những loại hình nghiên cứu: - Đối với nghiên cứu mơ tả: 10% dân số. Với những dân số nhỏ hơn, tối thiểu phải 20% dân số. - Đối với nghiên cứu tương quan: tối thiểu 30% đối tượng khảo sát - Đối với những nghiên cứu thực nghiệm: tối thiểu mỗi nhĩm phải 15 đối tượng. Một vài tác giả khác cho rằng phải 30 đối tượng. Thật ra việc chọn qui mơ mẫu cịn tuỳ thuộc tính đồng nhất hay đa dạng của dân số nghiên cứu. Người nghiên cứu, ngồi việc tính tốn qui mơ lý thuyết của mẫu, cịn phải dự kiến trong thực tế số trường hợp thu thập lại được và cĩ thể sử dụng, do nhiều lý do, sẽ khơng như dự định. 3.4. Nghiên cứu định lượng và định tính với việc chọn mẫu: Cần lưu ý, nĩi chung những nhà nghiên cứu định lượng, do đề cao tính khách quan trong nghiên cứu, cĩ xu hướng sử dụng mẫu xác 59
  58. suất, trong khi nhà nghiên cứu định tính, do tính chất của nghiên cứu cĩ tính thăm dị và khơng loại trừ sự chọn lựa của người nghiên cứu về các đối tượng khảo sát thường chọn mẫu khơng xác suất. Nhà nghiên cứu định tính cũng chọn nghiên cứu những trường hợp điển hình, nhưng cịn chọn cả những trường hợp ngoại lệ, “lệch chuẩn” để hiểu rõ hơn cái điển hình hay để hiểu rõ hơn các thái cực. Thơng thường việc chọn mẫu trong nghiên cứu định tính ít bị chi phối bởi những nguyên tắc chặt chẽ của thống kê, mà bị chi phối bởi những ý đồ lý thuyết, hay nĩi cách khác việc chọn mẫu nhằm hiểu rõ hơn hiện tượng khảo sát và nhằm làm rõ những quan điểm, những lý thuyết đang hình thành của người nghiên cứu. Vì tính chất của hai loại nghiên cứu khác nhau, ta khơng thể nĩi loại chọn mẫu nào – xác suất hay khơng xác suất – cĩ ưu điểm hơn hay hiệu quả hơn (xem bảng 3.3) Bảng 3.3: So sánh chọn mẫu trong nghiên cứu định lượng và định tính Nghiên cứu định lượng: Nghiên cứu định tính: - chọn mẫu xác suất - chọn mẫu khơng xác suất - tính khách quan - tính chủ quan - tính đại diện - tính khơng đại diện - kết quả cĩ thể tổng quát hố - kết quả khơng thể tổng quát hố - tính chặt chẽ thống kê - khơng tính chặt chẽ thống kê - mẫu ngẫu nhiên - mẫu bị chi phối bởi lý thuyết - người nghiên cứu khơng can thiệp - người nghiên cứu tham dự vào việc chọn mẫu vào việc chọn mẫu - các đơn vị của khung mẫu đều cĩ - các đơn vị khơng cĩ cơ hội 60
  59. cơ hội được chọn lựa ngang nhau được chọn lựa ngang nhau. Tĩm lược và một số điểm cần ghi nhớ, lưu ý: Việc chọn mẫu được đặt ra khi người nghiên cứu khơng thể nghiên cứu tồn thể dân số. Phải phân biệt các loại chọn mẫu xác suất và khơng xác suất. Mẫu xác suất bao gồm 4 loại hình chính: mẫu ngẫu nhiên, mẫu hệ thống, mẫu rút thăm theo chùm, mẫu ngẫu nhiên theo phân lớp. Mẫu khơng ngẫu nhiên bao gồm 4 loại hình: mẫu tình cờ, mẫu định ngạch, mẫu phán đốn, mẫu tích luỹ. Qui mơ của mẫu tuỳ thuộc loại hình nghiên cứu, mức độ chính xác mong muốn và tính thuần nhất của tổng thể nghiên cứu. Cần lưu ý, cách chọn mẫu tuỳ thuộc loại hình nghiên cứu định lượng hay định tính. Và các loại mẫu cĩ thể được phối hợp với nhau. Câu hỏi ơn tập: 1. Trình bày các ưu điểm và hạn chế của các loại chọn mẫu xác suất và khơng xác suất. 2. Qui mơ của mẫu tuỳ thuộc những yếu tố nào? Bài tập: 1. Chọn mẫu 200 sinh viên khoa Xã Hội Học để nghiên cứu đề tài “Hệ thống giá trị của sinh viên Khoa Xã hội học, ĐHM-BC” 2. Chọn mẫu 600 nữ cơng nhân ngành may để thực hiện đề tài: “Điều kiện làm việc và sinh hoạt của nữ cơng nhân may TPHCM”. 3. Tìm hiểu cách nuơi chim cảnh bằng cách phỏng vấn sâu 10 nghệ nhân nuơi chim. Nên chọn mẫu như thế nào? 61
  60. Bài đọc thêm: - Therese Baker, Thực hành nghiên cứu xã hội (Bản dịch), NXB Chính trị, Hà nội, 1998, 241-278 - Phạm Văn Quyết, Nguyễn Quý Thanh, Phương pháp nghiên cứu xã hội học, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2001, tr. 185-233. 62
  61. CHƯƠNG 4 KỸ THUẬT XÂY DỰNG BẢN CÂU HỎI 1.Giới thiệu khái quát. Chương 4 trình bày những nét cơ bản để thiết kế bản hỏi (questionnaire). 2.Mục tiêu của chương này. Giúp người học phân biệt các loại bản hỏi, các hình thức câu hỏi, câu trả lời và bố cục mà một bản hỏi cần tuân thủ. Khi đã xây dựng khung lý thuyết, hình thành các giả thiết, bước kế tiếp là xây dựng những cơng cụ để thu thập các dữ kiện như bản câu hỏi (hay đơn giản bản hỏi), bản hướng dẫn phỏng vấn, bản các đề mục để quan sát Bản hỏi là danh sách các câu hỏi mà người được điều tra được đề nghị trả lời. Thuật ngữ "bản hỏi" trong một ý nghĩa khác thường dùng để chỉ bản hỏi mà đối tượng tự trả lời, để phân biệt với hình thức đối tượng được người phỏng vấn trực tiếp hỏi. Nhưng ở đây chúng tơi sử dụng thuật ngữ này để chỉ các loại danh sách các câu hỏi để điều tra, cho dù là chính đối tượng tự trả lời hay chính người phỏng vấn sẽ trực tiếp hỏi. 4.1. Chọn loại hình bản hỏi thích hợp: Việc xây dựng bản hỏi tuỳ thuộc việc chọn lựa kỹ thuật nào để thu thập dữ kiện: điều tra bằng thư tín, bằng điện thoại, điều tra ở cấp độ cá nhân hay nhĩm. Chọn loại hình bản hỏi nào tuỳ thuộc mục tiêu, tài nguyên, đối tượng khảo sát của cuộc nghiên cứu. 63
  62. Trong trường hợp điều tra bằng thư tín, các câu hỏi phải dễ đọc, dễ hiểu vì người trả lời sẽ khơng cĩ được sự giải thích nào thêm. Với điều tra bằng điện thoại, khơng thể cĩ các câu hỏi với quá nhiều biến thể trả lời, bởi lẽ người trả lời khơng thể nhớ được tất cả. Các câu hỏi cho nhĩm phải rõ ràng và dễ hiểu cho người trả lời. Trong bản hỏi áp dụng cho các cá nhân, người phỏng vấn phải quan tâm đến những câu hỏi nhạy cảm và cĩ tính riêng tư vì sự hiện diện của người điều tra sẽ làm cho người trả lời e ngại. Ta cĩ thể tĩm tắt một số khác biệt, ưu điểm, khuyết điểm giữa các loại hình điều tra bằng bản hỏi (Alston, Bowles,1998, tr. 112) (bảng 4.1). Bảng 4.1: So sánh ba loại hình điều tra bằng bản hỏi Bản hỏi gởi Điều tra qua Điều tra trực bằng thư điện thoại tiếp * Chi phí: - thấp - trung bình - cao * Tỷ lệ trả - thấp - trung bình - cao nhất lời: * tầm bao - lớn, những - lớn, cĩ thể với - nhỏ, nhưng đa quát đối người cĩ khả những người cĩ dạng với cả tượng khảo năng đọc, viết trình độ học người khơng sát: và động cơ trả vấn thấp, biết chữ, lời cao nhưng phải cĩ nghèo, khơng điện thoại cĩ điện thoại * thuận - người trả lời - cĩ thể kết - tốn thời gian lợi/bất lợi: cĩ thời gian và thúc nhanh cho người địa điểm thuận phỏng vấn và lợi người trả lời. 64
  63. - kết quả - địi thời gian nhanh, dễ nhập mã hố và nhập - cĩ thể nhập máy tính dữ kiện trực tiếp kết quả vào máy tính * tính chính - các hình minh - cĩ thể làm rõ - cĩ thể sử dụng xác và loại hoạ giúp dễ câu hỏi các cơng cụ hỗ dữ kiện: hiểu hơn trợ - khơng thể gợi - cĩ thể làm rõ - ít cơ hội gợi chuyện, làm rõ câu hỏi, gợi chuyện những điều mơ chuyện hồ - khơng kiểm - cĩ thể ghi tra được cĩ nhận ứng xử đúng đối tượng - khơng ghi khơng lời và khảo sát nhận được những ứng xử các phản ứng khơng lời khác, đúng đối tượng - trả lời theo thứ - khơng kiểm tự tra các câu trả lời cĩ theo thứ - cĩ thể bảo tự đảm thứ tự của câu trả lời 65
  64. - cĩ thể khơng - được trả lời tiếp tục trả lời đầy đủ - cĩ thể chỉ trả lời một phần - cần dùng câu hỏi đơn giản - cĩ thể dùng câu hỏi mở, trả - cần ngắn gọn - “tính phản lời dài để bảo đảm tỷ ứng” ở mức lệ trả lời cao - “tính phản trung bình ứng” ở mức độ - ít “tính phản cao ứng” với người trả lời * tính khuyết - cao - ít - ít danh: Sau đây chúng tơi trình bày các nguyên tắc tổng quát áp dụng cho việc xây dựng các loại bản hỏi. 4.2. Những sai lầm thường mắc phải khi xây dựng bản hỏi: * Câu hỏi kép: Khơng nên bao gồm hai hay nhiều câu hỏi trong một câu. Lấy thí dụ làm thế nào cĩ thể trả lời câu hỏi: "Trong quận, huyện của anh (chị) cĩ những chương trình đào tạo tay nghề cho phụ nữ và thanh niên khơng?", nếu ở quận huyện đĩ chỉ cĩ chương trình đào tạo tay nghề cho phụ nữ nhưng khơng cĩ chương trình đào tạo cho thanh niên. * Các câu hỏi gợi ý: 66
  65. Các câu hỏi phải được hỏi dưới dạng trung lập nhất. Lấy thí dụ thay vì hỏi: "anh khơng hút thuốc phải khơng?" thì nên hỏi: "anh cĩ hút thuốc hay khơng hút thuốc?". Một cách làm lệch câu trả lời là dựa vào một quyền lực nào đĩ, ví dụ: "các nhà bác học đều cho rằng hút thuốc là cĩ hại, anh/chị cĩ đồng ý khơng?". * Các câu hỏi dị nghĩa, mơ hồ: Ví như: “Trong tháng qua anh chị cĩ bao nhiêu bạn tình?” Hay “Anh chị cĩ bằng lịng khơng với căng tin của nhà trường?” * Các câu hỏi địi hỏi quá nhiều chi tiết: Ví như “Trong 30 ngày qua anh/chị đã dành bao nhiêu tiếng đồng hồ để xem tivi?” Thực tế hơn cĩ lẽ chúng ta chỉ cần hỏi thời gian dành cho việc xem tivi trong một hai ngày trước. * Các câu hỏi dựa trên những giả định: “Trung bình mỗi ngày anh hút khoảng bao nhiêu điếu thuốc?”, hay “Chị dùng phương pháp ngừa thai nào?”. Trong trường hợp này phải dùng các câu hỏi lọc (filter question) để xem người trả lời cĩ thuộc nhĩm người mà câu hỏi đặt ra khơng. 4.3. Các điểm cần lưu ý khi đặt các câu hỏi: Cấp độ dùng chữ: Một nguyên tắc tổng quát trong việc xây dựng bản hỏi là một câu hỏi tốt là một câu hỏi ngắn gọn nhưng diễn tả đầy đủ ý mong muốn. Các bản hỏi gởi bằng thư hay các bản hỏi chính đối tượng tự trả lời (self-administered) càng cần ngắn gọn, rõ ràng vì chính người trả lời sẽ tự đọc và trả lời các câu hỏi này mà khơng cĩ người giải thích. 67
  66. Việc dùng chữ trong các bản hỏi khơng được vượt quá trình độ của các đối tượng được nghiên cứu, khơng nên dùng các từ lĩng, hay các từ mang ý nghĩa phê phán khơng tốt. Ví như tránh dùng từ “thu nhập” đối với nơng dân, “hội nhập xã hội” với người bình dân. Câu hỏi sự kiện và câu hỏi trừu tượng: Đối với các câu hỏi về sự kiện như tuổi tác, giới tính và ngay cả các câu hỏi về sự kiện lịch sử, người trả lời cảm thấy quen thuộc và dễ trả lời. Trong khi các câu hỏi về các khái niệm trừu tượng như hạnh phúc, tình yêu hay cơng bằng là những khái niệm khĩ trả lời hơn. Cho dù đối tượng cĩ thể quen thuộc với các khái niệm như hạnh phúc, thoả mãn nhưng họ sẽ khĩ trả lời với những câu hỏi về "mức độ hạnh phúc" (rất hạnh phúc, hạnh phúc, khơng hạnh phúc) hay về “mức độ thoả mãn” (trong cơng việc chẳng hạn). Các câu hỏi về ý kiến rất khĩ trả lời. Đối tượng thường khơng cĩ ý kiến bởi lẽ hoặc là họ khơng bao giờ suy nghĩ về vấn đề này, hoặc là sợ tỏ ra ngây ngơ, khơng am hiểu vấn đề. Với loại câu hỏi này, người ta thường dùng hình thức trả lời đồng ý hay khơng đồng ý với những ý kiến, với những nhận định nào đĩ. Các câu hỏi nhạy cảm: Các chủ đề nhạy cảm như vấn đề tình dục hay các vấn đề lệch lạc xã hội như ý kiến về tự tử, mại dâm thường làm người trả lời do dự. Họ cảm thấy một áp lực rất lớn để khơng thừa nhận các hành vi bị cấm đốn (ví dụ, hỏi về việc quay cĩp của sinh viên, quan hệ tình dục trước hơn nhân ). Trước những câu hỏi nhạy cảm, cần làm cho người trả lời khơng 68
  67. phải mặc cảm khi thừa nhận hành vi của mình bằng cách dùng từ ngữ như thế nào để người ta hiểu rằng khơng cĩ sự đồng quan điểm hồn tồn về chuẩn mực này ("Một vài bác sĩ cho rằng việc uống rượu là cĩ hại trong khi một vài bác sĩ khác cho là khơng hại, anh nghĩ gì về điều này?"). Trong những vấn đề nhạy cảm ta cũng cĩ thể dùng các mỹ từ: "cơng nhân vệ sinh" thay cho "cơng nhân hốt rác", "người thu gom phế liệu" thay cho "người làm nghề ve chai". Về những câu hỏi địi hỏi người trả lời phải phê phán người khác, hay một chính sách nào đĩ thì đồng thời cũng để người ta nhận định thêm những ưu điểm. Trong hình thức trả lời, người ta dùng các ký tự A, B,C thay cho các con số định lượng Cũng cĩ trường hợp người trả lời khơng biết gì về nội dung câu hỏi, hay khơng cĩ ý kiến. Họ sẽ cảm thấy khơng thoải mái vì khơng trả lời được, và sợ bị đánh giá tiêu cực. Trong trường hợp trên, người phỏng vấn nên nêu thêm khả năng trả lời: "Tơi khơng biết". Cĩ những nhà xã hội học nghiên cứu vai trị của cơ cấu câu hỏi (đĩng hay mở), độ dài của câu hỏi, vị trí của câu hỏi trong bản hỏi đối với những câu hỏi nhạy cảm. Đối với những câu hỏi khơng cĩ tính cách nhạy cảm thì khơng cĩ sự khác biệt giữa những yếu tố này. Nhưng đối với những câu hỏi nhạy cảm, các yếu tố này cĩ ảnh hưởng. Sudman và Bradburn rút ra kết luận những câu hỏi ngắn từ 12 từ trở xuống làm người ta sợ hơn những câu hỏi từ 33 từ trở lên. Câu hỏi càng khĩ càng ít cĩ được câu trả lời, và nếu được đặt vào đầu bản hỏi thì dễ cĩ những câu trả lời khơng trung thực. 4.4.Câu hỏi mở và câu hỏi đĩng: Ngồi việc dùng từ ngữ trong các câu hỏi, người nghiên cứu phải cẩn thận, chú trọng đến các loại hình câu trả lời. Người ta thường phân 69
  68. biệt câu hỏi mở và câu hỏi đĩng. Câu hỏi đĩng là câu hỏi mà người trả lời sẽ chọn một hay nhiều biến thể được người nghiên cứu đưa ra, trong khi câu hỏi mở là câu hỏi mà câu trả lời khơng được xác định trước. Câu hỏi đĩng cĩ các ưu điểm sau đây: 1/ Các câu trả lời được chuẩn hố và cĩ thể so sánh với nhau. 2/ Các câu trả lời thường dễ được mã hố và phân tích. 3/ Người trả lời thường dễ dàng hiểu được ý nghĩa câu hỏi, bởi lẽ nếu khơng hiểu rõ ý nghĩa của câu hỏi họ cũng đốn được qua các phương án mà câu trả lời đưa ra. 4/ Các câu trả lời thường khá đầy đủ và do đĩ người nghiên cứu ít nhận được các câu trả lời khơng thích hợp. Ví dụ: nếu ta dùng một câu hỏi mở như sau để hỏi một người nơng dân:"anh thường đi về thành phố hay khơng?" ta cĩ thể nhận được những câu trả lời khơng thích hợp như:" Bất cứ khi nào tơi muốn " hay "khi nào cĩ dịp thuận tiện" nhưng ý người hỏi là muốn biết bao nhiêu lần, mức độ thường xuyên hay khơng. Trong trường hợp này một câu hỏi đĩng với các khả năng như:" mỗi ngày/ vài lần mỗi tuần/ mỗi tuần một lần " sẽ cho ta những dữ kiện thích hợp hơn. 5/ Đơi lúc câu hỏi đĩng dễ được trả lời hơn các câu hỏi mở khi các biến cĩ liên quan đến một vài chủ đề nhạy cảm như lợi tức, số năm học đã hồn thành, hay tuổi tác, vấn đề tình dục 6/ Câu hỏi đĩng thường dễ được trả lời bởi lẽ người trả lời chỉ việc chọn một hay nhiều khả năng đã được đưa ra. 70
  69. Một vài hạn chế của câu hỏi đĩng: 1/ Đối với một người trả lời khơng cĩ ý kiến hay khơng biết trả lời thế nào thì cũng dễ cĩ trường hợp họ chọn một phương án trả lời đã cĩ sẵn nào đĩ. 2/ Đơi lúc người trả lời cảm thấy gị bĩ vì khơng cĩ câu trả lời thích hợp. 3/ Cĩ thể cĩ quá nhiều khả năng trả lời do đĩ người trả lời khơng thể nhớ được mặc dầu người phỏng vấn đã đọc to. Một phương cách để giải quyết vấn đề này là người phỏng vấn đưa ra một bản kê ra các câu trả lời (showcard). 4/ Khơng dễ khám phá ra các lối giải thích khác nhau về câu hỏi, trong khi với một câu hỏi mở cĩ thể biết người trả lời cĩ hiểu câu hỏi hay khơng. 5/ Những dị biệt trong các câu trả lời của những người trả lời khác nhau đơi lúc được che giấu một cách giả tạo bởi lẽ họ phải chọn một phương án trả lời nào đĩ. 6/ Cũng cĩ trường hợp người trả lời khoanh số hay đánh dấu sai. Câu hỏi mở cĩ thể cĩ các ưu điểm sau đây: 1/ Người ta sử dụng câu hỏi mở khi khơng biết tất cả các khả năng của câu trả lời. Ví dụ câu hỏi mở: "Đâu là những vấn đề quan trọng nhất mà thành phố Hồ Chí Minh đang phải đối phĩ?" Câu hỏi này sẽ cho ta một số khám phá mới mà người nghiên cứu đã khơng tiên liệu được. 2/ Loại câu hỏi này cho phép trả lời một cách thích đáng với 71
  70. những tình tiết mong muốn và cĩ thể giải thích rõ câu trả lời. 3/ Chúng cũng thích hợp với các vấn đề phức tạp khơng thể gĩi gọn vào một số trả lời nhất định. 4/ Chúng cho phép người trả lời cĩ thể tự biểu lộ một cách sáng tạo. Những hạn chế của câu hỏi mở: 1/ Câu hỏi mở cĩ thể đưa đến việc tập hợp một số thơng tin khơng thích hợp. 2/ Các dữ kiện thu thập được thường khĩ chuẩn hố, làm cho việc so sánh và phân tích thống kê rất khĩ. 3/ Việc mã hố thường khĩ và chủ quan. 4/ Câu hỏi mở địi hỏi người trả lời cĩ khả năng diễn đạt bằng lời nĩi hay bằng văn viết, và một cách tổng quát địi hỏi một trình độ học vấn cao. 5/ Câu hỏi mở thường cĩ tính cách tổng quát nhằm khám phá các khía cạnh của vấn đề, do đĩ cĩ thể mơ hồ với người trả lời. 6/ Câu hỏi mở cĩ thể địi hỏi nhiều thời gian và nỗ lực của người trả lời do đĩ cĩ thể cĩ tỉ lệ bị từ chối cao. 7/ Câu hỏi mở chiếm nhiều giấy và do đĩ cĩ thể làm cho bản hỏi dài ra hơn, làm thối chí một số người khơng muốn trả lời bản hỏi. Nhiều bản hỏi bao gồm cả hai loại câu hỏi trên hoặc thêm vào một loại câu hỏi hỗn hợp. Một bản hỏi chủ yếu dựa trên các câu hỏi 72
  71. đĩng cũng nên bao gồm tối thiểu một vài câu hỏi mở để thay đổi dạng câu hỏi, hoặc thường được bố trí vào cuối bản hỏi, để xác định xem cĩ cái gì quan trọng đối với người trả lời nhưng đã bị bỏ quên. 4.5. Thứ tự các câu hỏi: Để hồn thành bản hỏi, người nghiên cứu phải quyết định phối hợp các câu hỏi như thế nào, xếp đặt các câu hỏi này theo trật tự nào. Sau đây là một vài nguyên tắc: 1/ Đặt các câu hỏi nhạy cảm và các câu hỏi mở (dài) vào phần cuối bản hỏi. 2/ Hỏi các câu dễ trả lời trước: Những câu hỏi đầu tiên trong bản hỏi phải là những câu dễ trả lời, rõ ràng. Câu hỏi đầu tiên thường là những câu hỏi sự kiện hơn là những câu hỏi về thái độ hay một đánh giá nào đĩ 3/ Các câu hỏi về một loạt thơng tin nào đĩ cần phải liên tục nhau, theo một thứ tự để dễ gợi lại trí nhớ của người trả lời. Ví như việc hỏi về các loại hình phương pháp ngừa thai đã sử dụng qua thời gian, với các lần đã sinh con; hỏi lần lượt các năm học và các tín chỉ đã học 4/ Đặt các câu hỏi trong một thứ tự hợp lý: thơng thường người trả lời dễ trả lời theo thứ tự thời gian, ví như người ta cĩ thể bắt đầu trả lời về cơng việc hiện tại và lần trở lên những cơng việc đã làm. Ngồi diễn tiến theo thời gian, hầu hết các bản hỏi nên được sắp xếp theo từng cụm vấn đề: ví như trong một bản hỏi về kế hoạch hố gia đình, các câu hỏi cĩ thể sắp xếp theo từng cụm về nghề nghiệp, về gia đình, về năm sinh của con, về các phương pháp sử dụng; một 73
  72. nghiên cứu về hiện tượng tơn giáo cĩ thể cĩ các câu hỏi bố trí theo vấn đề thực hành các lễ nghi, các tín điều, các ảnh hưởng của tơn giáo đối với đời sống xã hội Trong từng cụm vấn đề, đối tượng khơng bị cắt đứt dịng tư tưởng của mình. Trình tự hợp lý cịn được hiểu là trình tự về mặt tâm lý. Chỉ khi người phỏng vấn đã đặt được mối quan hệ tốt và tự nhiên với đối tượng thì những câu hỏi tế nhị, những câu hỏi nhạy cảm mới nên được đặt ra. 5/ Tránh việc trả lời một cách tương tự nhau. Xây dựng các câu hỏi theo một trình tự lơ gích về một chủ đề cĩ thể làm cho đối tượng trả lời theo một quán tính nào đĩ. Loại quán tính khác thường gặp là xu hướng trả lời theo điều mà xã hội mong muốn, hay nĩi cách khác theo các chuẩn mực của xã hội. Một loại quán tính khác nữa là xu hướng trả lời cĩ hơn là khơng, trả lời đồng ý hơn là khơng đồng ý. Một xu hướng khác là thích những lập luận khẳng định một cách mạnh mẽ hơn là những khẳng định ơn hồ hay cịn ngập ngừng. Những câu hỏi liên tục nhau với một hình thức tương tự nhau cĩ thể đưa đến những câu trả lời rập khuơn. 6/Để tránh quán tính trong các câu trả lời cĩ thể xáo trộn trật tự các câu hỏi hay đổi các hình thức trả lời từ câu hỏi này đến câu hỏi khác. Điều này làm cho bản hỏi ít nhàm chán. 7/ Thay đổi độ dài và loại hình của câu hỏi. 8/ Xác định nguyên tắc "hình phễu": đi từ tổng quát đến cụ thể. Chẳng hạn, trước khi hỏi người phụ nữ về các phương pháp kế hoạch hố gia đình đang sử dụng, phải hỏi số năm từ khi kết hơn, số con, con trai con gái 74
  73. 4.6. Hình thức của câu trả lời: - Hồn tồn đồng ý Đối với các câu hỏi mở, thường chỉ cần dành một số hàng trống, hay chỉ một khoảng trống phù hợp để người trả lời điền vào hay viết vào. Các khả năng trả lời dành cho câu hỏi đĩng phức tạp hơn. Các câu trả lời cĩ thể mang dạng đối nghịch (cĩ/khơng), chọn lựa một khả năng hay nhiều khả năng (đa tuyển - à choix multiple) hay trả lời thứ bậc (ordinal), hay chọn lựa các thang khoảng cách (interval scales). Loại câu trả lời cĩ/khơng thường được dùng để nghiên cứu các sự kiện, các quan điểm đã rõ ràng. Tuy nhiên, đơi khi người ta cũng thêm vào khả năng thứ ba cĩ tính cách trung lập:"khơng nhất thiết", "cả hai". Với khả năng thứ ba này, cĩ nguy cơ người trả lời lẩn tránh khơng đưa ra một chọn lựa dứt khốt Đối với các câu trả lời với một phương án chọn lựa, thì các phương án chọn lựa phải đầy đủ và loại trừ lẫn nhau. Về các câu trả lời theo thứ bậc, hay theo thang điểm (rating scales), cĩ thể được trình bày theo hàng ngang hay hàng dọc, ví dụ: “Xin anh/chị cho biết cĩ đồng ý hay khơng đồng ý với ý kiến cho rằng cĩ quá nhiều chương trình quảng cáo trên kênh 7 đài truyền hình TPHCM? - Đồng ý - Chưa chắc - Khơng đồng ý - Hồn tồn khơng đồng ý 75
  74. Trong trường hợp trên ta cĩ thể cho thang điểm từ 5 đến 1 (5 = hồn tồn đồng ý; 1 = hồn tồn khơng đồng ý). Hay, “Anh/chị nghĩ thế nào về chương trình thời sự quốc tế trên kênh 7 TPHCM”: Rất Rất hứng (5) (4) (3) (2) (1) nhàm thú chán Trong loại trả lời theo thang điểm cịn phải kể đến thang điểm sai biệt về ngữ nghĩa (semantic differential scales), thường được sử dụng để cho điểm về một người, về một khái niệm hay về một đồ vật. Các thang điểm này thường sử dụng các tính từ cĩ hai cực với 5,7 bậc, ví dụ: “Nền kinh tế thị trường đem lại cho bạn những cảm nghĩ thế nào?” Tốt (7) (6) (5) (4) (3) (2) (1) Xấu Cơng bằng (7) (6) (5) (4) (3) (2) (1) Bất cơng Đáng tin cậy (7) (6) (5) (4) (3) (2) (1) Khơng đáng tin Trong nhiều trường hợp người nghiên cứu muốn tìm hiểu nhận thức, đánh giá của đối tượng về một số khái niệm hay một số vấn đề, 76
  75. sử dụng kỹ thuật sắp hạng theo thứ tự (rank ordering) cĩ thể thích hợp, thí dụ: “Sau đây là một số nghề nghiệp trong xã hội. Xin anh/chị sắp xếp chúng theo mức độ uy tín của nghề nghiệp này đối với xã hội. (1) cho nghề nghiệp mà theo anh chị cĩ uy tín xã hội nhất, (2) cho nghề nghiệp cĩ uy tín thứ hai . Phĩng viên Nha sĩ . Luật sư Đại biểu quốc hội . Bác sĩ Làm ngân hàng . Giảng viên đại học Sĩ quan quân đội . Quản lý xí nghiệp Kỹ sư Cách thức trả lời cĩ thể là điền vào, đánh dấu vào ơ, vào khoảng trắng hay khoanh số chọn lựa thích hợp. Cĩ thể bố trí các khả năng trả lời theo hàng ngang hay hàng dọc hay phối hợp ngang/dọc. Vấn đề là đừng tạo cho bản trả lời cảm giác dài quá. Cũng cĩ thể xây dựng các câu trả lời theo kiểu trả lời hàng loạt, hay xây dựng các bảng, các hộp trả lời (grid). Bảng biểu, đồ thị và hình ảnh cũng được sử dụng để diễn tả các hình thức trả lời. Ví như Trung tâm nghiên cứu điều tra Đại học Michigan dùng thang điểm kiểu nhiệt kế để đo việc cảm nhận đánh giá một sự kiện nào đĩ. Hai nhà xã hội học Zillmann và Bryant dùng hình khuơn mặt (tươi cười, dửng dưng và mếu máo) để tìm hiểu sự đánh giá của trẻ em về một vấn đề, một tình huống. 77
  76. 4.7. Bố cục của bản hỏi: Bản hỏi thường bao gồm các phần chính như sau: * Phần thứ nhất: Bao gồm phần giới thiệu (hay thư giới thiệu) với nội dung như trình bày sau đây. Trong phần này cĩ thể đưa ra hướng dẫn cách ghi các câu trả lời. Với các bản hỏi gởi bằng thư, thường bắt buộc phải cĩ thư giới thiệu, trong khi với các bản hỏi được hỏi trực tiếp, chỉ cần một phần giới thiệu ngắn mà người phỏng vấn sẽ đọc cho đối tượng nghe. Phần giới thiệu cĩ các thơng tin sau đây: a) xác định rõ người hay cơ quan đang tiến hành cuộc nghiên cứu b) nĩi lên tầm quan trọng của cuộc nghiên cứu bằng cách mơ tả một cách vắn tắt các mục đích, mục tiêu của cuộc nghiên cứu. c) nĩi lên tầm quan trọng cần đối tượng phải trả lời. Cho đối tượng được chọn thấy rằng họ là người tiêu biểu vì vậy ý kiến của họ rất quan trọng. d) bảo đảm với người trả lời rằng khơng cĩ câu trả lời đúng hay sai, nguyên tắc khuyết danh sẽ được tơn trọng và các thơng tin cung cấp sẽ khơng được sử dụng vào mục đích nào khác ngồi mục đích khoa học của cuộc nghiên cứu. Trong phần giới thiệu đơi lúc cũng kèm luơn phần hướng dẫn người trả lời cách ghi các câu trả lời như thế nào. Thí dụ, phải đánh dấu, phải khoanh các câu trả lời được chọn lựa, hay phải điền khuyết vào các khoảng trống, dịng trống như thế nào 78
  77. * Phần thứ hai Là nội dung chính yếu của bản hỏi. Phần này bao gồm hai bộ phận chính yếu: (i) một bộ phận liên quan đến các câu hỏi - nội dung trực tiếp, chính yếu của cuộc nghiên cứu. Các câu hỏi này thường được bố trí theo cụm vấn đề. (ii) và một bộ phận liên quan đến những chỉ báo tác động (déterminants sociaux) liên quan đến đối tượng khảo sát. Đĩ là những biến liên quan đến giới tính, tuổi tác, vị thế xã hội, nghề nghiệp của cá nhân và gia đình, các biến liên quan đến trình độ học vấn của cá nhân và những người cĩ liên quan, liên quan đến thu nhập hay tài sản cá nhân hay gia đình, các biến về tình trạng gia đình, về điều kiện hoạt động của những thành viên trong gia đình; các chỉ báo liên quan đến quan điểm về xã hội: tơn giáo, khuynh hướng chính trị, và những biến khác liên quan đến những bối cảnh xã hội cụ thể của những tầng lớp được nghiên cứu Tuỳ nội dung cuộc nghiên cứu, các yếu tố cơ bản liên quan đến đối tượng được đưa vào bản hỏi một cách đầy đủ, khơng thừa mà cũng khơng thiếu. Tĩm lại, khi thiết kế bản hỏi phải lưu ý các câu hỏi liên quan bốn khía cạnh sau: các biến độc lập, các biến phụ thuộc các biến trung gian, kiểm định các biến thuộc bối cảnh 79
  78. 4.8. Phỏng vấn thử và tập huấn điều tra viên: Trước khi sử dụng bản hỏi một cách chính thức, phải đem hỏi thử để xem cĩ phải thay đổi gì khơng về phương diện cách đặt câu, dùng từ, thứ tự các câu hỏi, bỏ những câu thừa, thêm những câu hỏi mới Trong giai đoạn hỏi thử, cũng phải nắm bắt những sự kiện liên quan đến việc tiếp cận đối tượng, phản ứng của đối tượng được hỏi đối với từng câu hỏi. Cũng nên hỏi xem đối tượng cĩ muốn gĩp ý thêm cho bản hỏi ở những điểm nào, cịn cĩ những vấn đề gì chưa được đề cập đến. Các điều tra viên phải qua một buổi tập huấn, qua đĩ họ sẽ được trình bày các mục tiêu của cuộc nghiên cứu, việc chọn mẫu như thế nào, những tỷ lệ các đối tượng mà các điều tra viên phải đạt được. Trong buổi tập huấn này, đối với các cuộc nghiên cứu phức tạp, điều tra viên sẽ nhận các bản hướng dẫn điều tra. Bản hỏi sẽ được đọc chậm rãi và giải thích cặn kẽ, và nếu cần thiết các điều tra viên sẽ thực tập, nhất là đối với các câu hỏi cĩ tính quyết định, các câu hỏi khĩ. Tĩm lược và một số điểm cần lưu ý, ghi nhớ: Sau khi nêu lên một số đặc điểm ba loại bản hỏi: bản hỏi gởi bằng thư, bản hỏi điều tra bằng điện thoại, và bản hỏi điều tra trực tiếp, chương này đã nêu lên các ưu điểm và hạn chế của câu hỏi đĩng và câu hỏi mở, các dạng và thứ tự các câu hỏi, các dạng câu trả lời và cuối cùng bố cục bản hỏi. Cần lưu ý, bản hỏi phải theo sát khung lý thuyết của đ ề tài. Những người mới học hỏi xây dựng bản hỏi cần quan tâm bố trí các câu hỏi theo trình tự hợp lý, sử dụng các hình thức đa dạng của câu hỏi và câu trả lời để tránh tạo ra nhàm chán cho người trả lời. 80