Tài liệu Kinh tế thị trường
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Kinh tế thị trường", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
tai_lieu_kinh_te_thi_truong.doc
Nội dung text: Tài liệu Kinh tế thị trường
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại Kinh tế thị trường 1
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại Câu hỏi của bài tiểu luận : ”trình bày những hiểu biết về kinh tế th ị trường? ưu và những khuyết tật c ủa nền kinh t ế thị trường?” Năm 1986 trở về trước nền kinh tế nước ta là nền kinh tế sản xuất nhỏ, mang tính tự cung tự cấp vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Mặt khác do những sai lầm trong nhận thức về mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế nước ta ngày càng tụt hậu, khủng hoảng trầm trọng kéo dài, đời sống nhân dân thấp. Muốn thoát khỏi tình trạng đó con đường duy nhất là phải đổi mới kinh tế . Sau đại hôị Đảng VI năm 1986 nền kinh tế nước ta chuyển sang một hướng đi mới :phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa- đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việc nghiên cứu về kinh tế thị trường-sự hình thành và phát triển có ý nghĩa vô cùng to lớn cả về lý thuyết lẫn thực tế. Một mặt, cho ta thấy được tính khách quan của nền kinh tế thị trường, và sự cần thiết phải phát triển kinh tế Thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước ở nước ta hiện nay, thấy được những gì đã đạt được và chưa đạt được của Việt nam . Mặt khác, giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan về nền kinh tế nước nhà, đồng thời thấy được vai trò to lớn của quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường, những giải pháp nhằm đưa nước ta tiến nhanh lên nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở Việt Nam, phát triển kinh tế thị trường trong thực tế không những là nội dung của công cuộc đổi mới mà lớn hơn thế còn là công cụ, là phương thức để nước ta đi tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng vấn đề đặt ra là: Thực hiện mô hình này bằng cách nào để hạn chế tiêu cực, tăng tích cực giúp cho kinh tế nước ta ngày càng phát triển sánh vai cùng các cường quốc năm châu khác? để hi ểu r õ h ơn v ề n ền kinh tế thi tr ư ờng là g ì s ự ảnh hư ởng c ủa chúng ra sao th ì ch úng ta đi v ào n ội dung c ủa b ài. B. NỘI DUNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG I.1. Khái niệm kinh tế thị trường là gì? Nền kinh tế được coi như một hệ thống các quan hệ kinh tế. Khi các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể đều biểu hiện qua mua - bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường( người bán cần tiền, người mua cần hàng và họ phải gặp nhau trên thị trường) thì nền kinh tế đó là nền kinh tế thị trường Kinh tế thị trường là cách tổ chức nền kinh tế - xã hội trong đó, các quan hệ kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp đều biểu hiện qua mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường và thái độ cư xử của từng thành viên chủ thể kinh tế là hướng vào việc kiếm lợi ích của chính mình theo sự dẫn dắt của thị trường Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao, khi tất cả các quan hệ kinh tế trong quá trình phát triển sản xuất xuất hiện đều được tiền tệ hoá, các yếu tố của sản xuất như: đất đai và tài nguyên, vốn bằng tiền và vốn vật chất, sức lao động, công nghệ và quản lý, các sản phẩm và dịch vụ tạo ra, chất xám đều là đối tượng mua bán, là hàng hóa Ngoài ra khi nói về khái niệm về kinh tế thị trường thì chúng ta còn có thêm hai quan điểm khác nhau nữa được đưa ra trong hội thảo về "kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa" do hội đồng lý luận trung ưng tổ chức: 2
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại Một là, xem "Kinh tế thị trường là phương thức vận hành kinh tế lấy thị trường hình thành do trao đổi và lưu thông hàng hóa Ilàm người phân phối các nguồn lực chủ yếu; lấy lợi ích vật chất, cung cầu thị trường và mua bán giữa hai bên làm cơ chế khuyến khích hoạt động kinh tế. Nó là phương thức tổ chức vận hành kinh tế - xã hội, không tốt mà cũng không xấu. Tốt hay xấu là do người sử dụng nó. Theo quan điểm này, kinh tế thị trường là vật "trung tính", là "công nghệ sản xuất" ai sử dụng cũng được Hai là, xem "Kinh tế thị trường " là một loại kinh tế - xã hội - chính trị, nó in đậm dấu ấn của lực lượng xã hội làm chủ thị trường. Kinh tế thị trường là một phạm trù hoạt động, có chủ thể của quá trình hoạt động đó, có sự tác động lẫn nhau của các chủ thể hoạt động. Trong xã hội có giai cấp, chủ thể hoạt động trong kinh tế thị trường không chỉ phải cá nhân riêng lẻ, đó còn là những tập đoàn xã hội, những giai cấp. Sự tác động qua lại của các chủ thể hoạt động đó có thể có lợi cho người này, tầng lớp hay giai cấp này; có hại cho tầng lớp, giai cấp khác Tóm lại: Kinh tế thị trường là một trong những phương thức tồn tại (phương thức hoạt động) của nền kinh tế mà trong đó các quan hệ kinh tế đều được biểu hiện thông qua quan hệ hàng hoá - thị trường (tức là mọi vấn đề của sản xuất và tiêu dùng đều được thông qua việc mua bán trên thị trường). Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá và vì thế nó hoàn toàn khác với kinh tế tự nhiên - là nền kinh tế quan hệ dưới dạng hiện vật, chưa có trao đổi. I.2. Tính quy luật và sự hình thành kinh tế thị trường Quá trình hình thành và phát triển của kinh tế thị trường gắn liền với quá trình xã hội hoá sản xuất thông qua các quá trình sau: I.2.1. Tổ chức phân công và phân công lại lao động xã hội Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội ra các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hoá lao động và theo đó là chuyên môn hóa sản xuất thành những ngành nghề khác nhau Do có phân công lao động xã hội, mỗi người chỉ sản xuất một thứ hoặc một vài thứ sản phẩm. Song nhu cầu của họ lại bao hàm nhiều thứ khác nhau, để thỏa mãn nhu cầu đòi hỏi cần có sự trao đổi sản phẩm giữa họ với nhau Tổ chức xã hội hoá của sản xuất thể hiện ở chỗ do phân công lao động xã hội, nên sản phẩm của người này trở nên cần thiết cho người khác, cầu cho xã hội Phân công xã hội ngày càng sâu sắc, chuyên môn hoá, hiệp tác hoá ngày càng tăng, mối quan hệ giữa các ngành,các vùng ngày càng chặt chẽ. Từ đó xoá bỏ tính tự túc, tự cấp, bảo thủ, trì trệ của nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình xã hội hoá sản xuất và lao động Sự phân công lao động diễn ra trong nội bộ ngành; trong các ngành với nhau Do sự phát triển như vũ bão của khoa học - công nghệ, mối liên hệ giữa các phân xưởng, giữa các công đoạn trong nội bộ xí nghiệp ngày càng mật thiết, tinh vi hơn; hàng vạn công nhân, công trình sư, các nhà khoa học phải hiệp đồng thống nhất, cùng nhau nỗ lực mới làm cho hoạt động sản xuất tiến hành trôi chảy được, phạm vi phân công hợp tác đã vượt xa quá trình gia công trực tiếp đối tượng lao động, và trở thành quá trình toàn bộ bao gồm nghiên cứu khoa học phát minh sáng chế, thiết kế lập chương trình, tự động điều khiển, sử lý thông tin, chế tạo, bảo dưỡng thiết bị .Đồng thời tình hình đòi hỏi ngày càng nhiều những xí nghiệp khác nhau cung cấp máy móc thiết bị, linh kiện, nguyên liệu, còn sản phẩm sản xuất ra phải chuyển nhanh ngay đến những thị trường có lợi ngày càng xa hơn. Điều đó cho thấy tích tụ và tập trung tư bản càng lớn thì sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng xã hội hoá Cách mạng khoa học - công nghệ sau chiến tranh đã đẩy quá trình phân công xã hội tư bản và chuyên môn hoá lên đến trình độ sâu rộng chưa từng thấy. Hình 3
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại thành sự phân công giữa các bộ phận lấy thành quả khoa học làm cơ sở, làm cho chuyên môn hoá sản phẩm ngày càng sâu sắc, hình thành chuyên môn hoá linh kiện, chuyên môn hoá công nghệ, chuyên môn hoá kỹ thuật, bảo dưỡng thiết bị và hậu cần sản xuất. Liên hệ kinh tế giữa các xí nghiệp ngày càng mật thiết, làm tăng cường tính phụ thuộc lẫn nhau, quá trình sản xuất của xí nghiệp cá biệt hoàn toàn dung hợp thành một quá trình sản xuất thống nhất Chuyên môn hoá ngày càng phát triển thì quan hệ hợp tác giữa các xí nghiệp, các khu vực ngày càng mật thiết, hiệp tác trao đổi thương phẩm trên thị trường phát triển thành quan hệ hiệp tác ngày càng bền vững Phân công lao động quốc tế và chuyên môn hoá sản xuất trên thế giới cũng mở rộng nhanh. Trong quá trình tái sản xuất xã hội, các nước ngày càng liên hệ chặt chẽ với nhau, lệ thuộc vào nhau, sự giao lưu tư bản, trao đổi mậu dịch ngày càng phong phú. I.2.2. Đa dạng hoá các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất Sở hữu là hình thức xã hội lịch sử nhất định của sự chiếm hữu Các hình thức sở hữu: Hình thức đầu tiên là công hữu, sau đó do sự phát triển của lực lượng sản xuất, có sản phẩm dư thừa, có kẻ chiếm làm của riêng, xuất hiện tư hữu. Đó là hai hình thức sở hữu cơ bản thể hiện ở mức độ, quy mô và phạm vi sở hữu khác nhau, phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và lợi ích của chủ sở hữu chi phối. Chẳng hạn, công hữu thể hiện thông qua sở hữu của nhà nước, sở hữu toàn dân, sở hữu tư nhân thể hiện ở tư bản tư hữu lớn, tư hữu nhỏ. Ngoài ra còn có hình thức sở hữu hỗn hợp. Nó phát sinh tất yếu do yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất cũng như quá trình xã hội hoá nói chung đòi hỏi. Đồng thời, nhằm thoả mãn nhu cầu, lợi ích ngày càng tăng và khắc phục sự bất lực, yếu kém của chủ thể kinh tế trong quá trình sản xuất kinh doanh. Sở hữu hỗn hợp hình thành thông qua hợp tác, liên doanh, liên kết tự nguyện, phát hành mua bán cổ phiếu Sở hữu nhà nước: là hình thức sở hữu mà nhà nước là đại diện cho nhân dân sở hữu những tài nguyên, tài sản, những tư liệu sản xuất chủ yếu và những của cải của đất nước. Sở hữu nhà nước nghĩa là nhà nước là chủ sở hữu, còn quyền sử dụng giao cho các tổ chức, đơn vị kinh tế và các cá nhân để phát triển một cách hiệu quả nhất Sở hữu tập thể: là sở hữu của những chủ thể kinh tế (cá nhân người lao động) tự nguyện tham gia. Sở hữu tập thể biểu hiện ở sở hữu tập thể các hợp tác xã trong nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, vận tải, . ở các nhóm, tổ, đội và các công ty cổ phần Sở hữu hỗn hợp: là hình thức phù hợp, linh hoạt và hiệu quả trong thời kì quá độ. Mỗi chủ thể có thể tham gia một hoặc nhiều đơn vị tổ chức kinh tế, khi thấy có lợi Sở hữu tư nhân của sản xuất nhỏ: là sở hữu về tư liệu sản xuất của bản thân người lao động. Chủ thể của sở hữu này là nông dân, cá thể, thợ thủ công, tiểu thương. Họ vừa là chủ sở hữu đồng thời là người lao động. ở quy mô và phạm vi rộng hơn là tư hữu của tiểu chủ, chủ trang trại có lao động Sở hữu tư nhân tư bản: là hình thức sở hữu của các nhà tư bản vào các ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh của nền kinh tế I.2.3. Quá trình tiến hành cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ làm xuất hiện các thị trường mới Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất là cuộc cách mạng kỹ thuật diễn ra vào nửa sau của thế kỉ XVIII. Cuộc cách mạng làm xuất hiện công cụ máy móc để thaythế công cụ thủ công. Đại công nghiệp máy móc đã dẫn đến sự biến đổi to lớn trong cơ cấu ngành nghề thúc đẩy sự phát triển to lớn của lực lượng sản xuất xã hội cũng như nền chính trị xã hội đã dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa tư bản trên phạm vi thế giới 4
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ hai nổ ra vào nửa sau thế kỉ XIX. Cuộc cách mạng lần này có tiêu chí chủ yếu là vận dụng rộng rãi sức điện và sự phát minh ra động cơ đốt trong, khiến cho loài người bước vào thời đại điện khí hoá. Mở ra con đường tự động hoá sản xuất. Cuộc cách mạng đẩy quá trình xã hội hoá sản xuất của các nước tư bản chủ nghĩa lên trình độ cao hơn, quan hệ kinh tế quốc tế mở rộng nhanh chóng Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ ba nổ ra sau chiến tranh thế giới II. Tiêu chí chủ yếu của cuộc cách mạng nàylà sự phát triển và áp dụng rộng rãi kỹ thuật nguyên tử và điện tử. Khoa học - công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, mở đầu thời đại tự động hoá toàn bộ Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ thúc đẩy sự xã hội hàng loạt ngành nghề mới và làm cho những ngành nghề cũ được cải tạo. Cuộc cách mạng làm cho cơ cấu ngành nghề của các nước có sự thay đổi lớn. Trong thời kì kinh tế tăng trưởng nhanh sau chiến tranh, công nghiệp hoá dầu là tổ hợp ngành nghề mới, có tác dụng quan trọng. Ngày nay những ngành nghề mới xuất hiện nhờ có sự phát triển sâu sắc của cách mạng khoa học - công nghệ đã không chỉ có một hai ngành mà xuất hiện hàng loạt ngành công nghiệp mới như công nghiệp điện tử, công nghiệp quang học, công nghiệp nguyên tử, công nghiệp sinh vật, công nghiệp chế biến, công nghiệp tầu vũ trụ phát triển mạnh mẽ. Sự xuất hiện các tổ hợp ngành nghề mới, các ngành nghề cũ không bị xoá bỏ, mà được cải tạo một cách triệt để. Việc sử dụng rộng rãi máy dệt không có thoi, đầu máy hơi nước, sự phát triển rộng rãi của lò luyện thép điện và đúc gang thép liên hoàn, sự tăng vọt của hệ thống máy công cụ điều khiển và người máy công nghiệp .Tất cả những cái đó khiến cho các ngành công nghiệp cũ như: dệt, xe lửa, gang thép, máy công cụ đều đổi mới về chất lượng. Sự phát triển của cách mạng khoa học - công nghệ giúp cho các ngành nghề mới và các ngành nghề cũ ngày càng kết hợp chặt chẽ với nhau. Các ngành mới lấy công nghiệp truyền thống làm chỗ dựa và thị trường chủ yếu cho sự phát triển của mình, các ngành cũ thì dựa vào các ngành cải tạo kỹ thuật mà tăng thêm sức mạnh mới Mặt khác cách mạng khoa học - công nghệ còn tạo ra một loạt thị trường mới như: thị trường công nghệ, thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường tài chính tiền tệ Tất cả những thị trường này đều có mối quan hệ mật thiết với nhau, và sự phát triển của chúng đều phụ thuộc vào sự phát triển của khoa học - công nghệ I.2.4. Sự phát triển phân công và trao đổi ở phạm vi quốc tế Do phân công lao động nên mỗi người chỉ sản xuất một hay một vài sản phẩm nhất định. Song nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của mỗi người cần có nhiều loại sản phẩm. Vì vậy, đòi hỏi họ phải có mối liên hệ trao đổi sản phẩm cho nhau, phụ thuộc vào nhau. Khi lực lượng sản xuất phát triển cao, phân công lao động được mở rộng thì dần dần xuất hiện trao đổi hàng hoá Quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã chia rẽ người sản xuất, làm cho họ tách biệt với nhau về mặt kinh tế. Trong điều kiện đó, người sản xuất này muốn sử dụng sản phẩm của người sản xuất khác thì phải trao đổi sản phẩm lao động cho nhau Từ 1980 đến nay, xu hướng toàn cầu hoá phát triển mạnh mẽ, lôi cuốn nhiều nước ở khắp các châu lục trên thế giới vào thị trường quốc tế. Đặc trưng của hiện tượng này là sự chuyển động nguồn tư bản quốc tế khổng lồ, sự hình thành các công ty xuyên quốc gia và làn sóng người di cư. Sự tác động của toàn cầu hoá sẽ tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị, xã hội, tư pháp hoạt động mang tính khu vực và quốc tế ra đời Khi cách mạng công cụ sản xuất và lực lượng sản xuất phát triển thì sẽ tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp mới ra đời thúc đẩy các ngành, lĩnh vực kinh tế 5
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại và hệ thống giao thông vận tải phát triển đồng bộ. Sự phát triển đó phá vỡ tính tự cấp,tự túc, mở rộng thị trường giao lưu, trao đổi hàng hoá không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn diễn ra trên thị trường khu vực và thế giới. Lúc này nhu cầu tiêu dùng của dân cư không chỉ được đáp ứng bằng năng lực sản xuất của từng quốc gia riêng lẻ, mà còn được cung cấp từ các nước khác trên thế giới và khu vực Sự phân bố không đều về tài nguyên, khí hậu và môi trường dẫn đến sự khác nhau về trình độ phát triển, thu nhập, mức sống vật chất và tinh thần. Đây là nguyên nhân của những làn sóng di dân từ vùng có mật độ dân số cao, điều kiện kiếm việc làm khó khăn, thu nhập thấp, đời sống khó khăn đến nơi có dân cư thưa thớt, dễ kiếm việc làm, thu nhập cao, môi trường sống tốt hơn. Điều đó diễn ra thường xuyên trong quá trình phát triển của xã hội loài người Mặt khác con người phải tìm các biện pháp khắc phục tình trạng khan hiếm tài nguyên bằng cách giao thương, trao đổi, mua bán hàng hoá tiêu dùng và các loại tài nguyên khoáng sản nhằm khai thác nguồn lực dư thừa của các nước để khắc phục tình trạng khan hiếm, thiếu hụt nguồn lực của nước mình. Những yếu tố này tạo nên xu thế tất yếu phục vụ cho nhu cầu phát triển của tất cả các quốc gia trên thế giới. Bởi vì trên thế giới không có một quốc gia nào có đầy đủ các yếu tố nguồn lực để tự mình xây dựng một nền kinh tế phát triển bền vững Như vậy toàn cầu hoá kinh tế nhằm khắc phục tình trạng khan hiếm và phân bố tài nguyên không đều, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của con người ngày càng cao và số lượng dân cư ngày một nhiều. Nhưng nhiệm vụ đó chỉ được diễn ra khi mà khoa học - công nghệ và lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ cao Do thành tựu của cách mạng khoa học - kỹ thuật, sự bùng nổ thông tin và tự động hoá ở trình độ cao, xu thế quốc tế hoá lực lượng sản xuất đã tạo điều kiện hình thành các công ty xuyên quốc gia và xu hướng sáp nhập các công ty nhỏ thành các công ty có quy mô khổng lồ để tăng khả năng cạnh tranh, nhằm độc chiếm vai trò chi phối thị trường quốc tế và khu vực đang ngày một tăng nhanh I.3. Các bước phát triển của kinh tế thị trường I.3.1. Từ nền kinh tế tự nhiên chuyển sang nền kinh tế hàng hoá giản đơn Mặc dù có những đặc điểm riêng, nhưng tất cả các phương thức sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa đều có nét chung là nền kinh tế tự nhiên. Trong nền kinh tế tự nhiên, sản xuất nhỏ chiếm ưu thế. Nền kinh tế tự nhiên do nhiều đơn vị kinh tế thuần nhất hợp thành và mỗi đơn vị kinh tế ấy làm đủ việc để tạo ra những sản phẩm cuối cùng Trong các nền kinh tế tự nhiên, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu, nông nghiệp là ngành sản xuất cơ bản, công cụ và kỹ thuật canh tác lạc hậu, dựa vào lao động chân tay là chủ yếu, chỉ có trong một số trang trại của địa chủ hoặc phường hội mới có hiệp tác lao động giản đơn. Trong nền kinh tế dưới chế độ phong kiến, phân công lao động kém phát triển, cơ cấu ngành đơn điệu, mới chỉ có một số ngành nghề thủ công tách khỏi nông nghiệp, sản xuất chủ yếu hướng vào giá trị sử dụng, có tính chất tự cung, tự cấp Bước đi tất yếu của sản xuất tự cung, tự cấp là tiến lên sản xuất hàng giản đơn. điều kiện cho quá trình chuyển hoá này là sự phát triển của phân công xã hội. Phân công xã hội là cơ sở của kinh tế hàng hoá. Xu hướng phát triển của phân công xã hội là biến việc sản xuất không những từng sản phẩm riêng biệt, mà việc sản xuất từng bộ phận của sản phẩm, từng thao tác trong chế biến sản phẩm thành những ngành công nghiệp riêng biệt. Công nghiệp chế biến tách khỏi công nghiệp khai thác và mỗi ngành công nghiệp đó lại chia thành nhiều loại và phân loại nhỏ. Chúng sản xuất ra dưới hình thức hàng hoá - những sản phẩm riêng biệt và đem trao đổi với những sản phẩm của các ngành sản xuất khác. Chính sự phát triển ngày càng sâu rộng đó của phân công xã hội là nhân tố chủ yếu dẫn đến hình thành thị trường trong nước. Hình 6
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại thành nên những khu vực nhà nước chuyên môn hoá và dẫn đến sự trao đổi không những giữa sản phẩm với sản phẩm công nghệ, mà cả giữa các sản phẩm nhà nước với nhau Sự phát triển của công nghiệp và nông nghiệp, sự hình thành trung tâm công nghiệp, sức hút của chúng đối với dân cư ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống nông thôn, thúc đẩy nông nghiệp hàng hoá phát triển Những người sản xuất ở những vùng khác nhau có những điều kiện tự nhiên khác nhau, có khả năng và ưu thế trong sản xuất những sản phẩm khác nhau có hiệu quả hơn. ngay trong một vùng, một địa phương, những người sản xuất cũng có những khả năng, điều kiện và kinh nghiệm sản xuất khác nhau. Mỗi người sản xuất chỉ tập trung sản xuất sản phẩm nào mà mình có ưu thế, đem sản phẩm của mình trao đổi (mua và bán) lấy những sản phẩm cần thiết cho sản xuất và đời sống của mình. Họ trở thành những người sản xuất hàng hoá. Trao đổi, mua bán, thị trường, tiền tệ ra đời và phát triển Sản xuất hàng hoá ra đời, lúc đầu dưới hình thức sản xuất hàng hoá nhỏ, giản đơn, nhưng là một bước tiến lớn trong lịch sử phát triển của nhân loại I.3.2. Từ nền kinh tế hàng hoá giản đơn chuyển sang nền kinh tế tự do cổ điển Quá trình chuyển từ nền kinh tế giản đơn sang nền kinh tế tự do cổ điển được thực hiện qua ba giai đoạn phát triển cả về lực lượng sản xuất, cả về quan hệ sản xuất mới thích ứng với từng bước phát triển của lực lượng sản xuất Kỹ thuật thủ công dựa trên lao động hiệp tác giản đơn: Hiệp tác giản đơn tư bản chủ nghĩa dựa trên cơ sở kỹ thuật thủ công, với quy mô lớn hơn so với tổ chức sản xuất phường hội và sản xuất nhỏ cá thể. Trong giai đoạn hiệp tác giản đơn, công nhân phụ thuộc vào nhà tư bản về kinh tế nhưng vẫn còn độc lập về mặt kỹ thuật. Để tổ chức hiệp tác lao động, bước đầu tiên phải tập trung tư liệu sản xuất, trên cơ sở đó tập trung sức lao động.Tập trung hiệp tác lao động đòi hỏi phải có sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân, bảo đảm sự nhịp nhàng trong hoạt động sản xuất đạt đến mục đích chung. Với sản xuất quy mô lớn, trong hiệp tác giản đơn, phải mua cả đống nguyên liệu và buôn bán hàng hoá, do đó đã làm xuất hiện một mạng lưới mua gom nguyên liệu và bán lẻ hàng hoá, từ đó thúc đẩy việc sản xuất và trao đổi sâu rộng trong xã hội. Hiệp tác giản đơn đã bước đầu làm xuất hiện sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa, nâng cao năng suất lao động xã hội lên rất nhiều. Việc hiệp tác giản đơn làm xuất hiện sản xuất lớn về mặt quy mô là một bước ngoặt rất quan trọng từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn Phân công công trường thủ công Tư bản chủ nghĩa: Sự phát triển của hiệp tác giản đơn tư bản chủ nghĩa tất yếu dẫn tới hiệp tác có phân công, làm xuất hiện các công trường thủ công tư bản chủ nghĩa. Công trường thủ công là hình thức xí nghiệp tư bản thực hiện sự hiệp tác có phân công dựa trên cơ sở kỹ thuật thủ công. Công trường thủ công hình thành bằng cách tập hợp những thợ thủ công khác nghề, hoặc những thợ thủ công cùng nghề vào trong một xưởng để cùng sản xuất ra một loại hàng hoá Đặc điểm về tổ chức và kỹ thuật của công trường thủ công là: Quá trình sản xuất được phân chia thành những giai đoạn, những công việc bộ phận để có sản phẩm hoàn chỉnh, trên cơ sở đó mỗi công nhân chỉ chuyên làm một công việc bộ phận. Đặc điểm của sự phân công này là chuyên môn hoá hẹp. Cơ sở kỹ thuật vẫn là thủ công với công cụ chuyên dùng, phân phối sản xuất theo kinh nghiệm cổ truyền nên chủ yếu dựa vào tay nghề khéo léo của công nhân. Cơ cấu tổ chức của công trường thủ công là những người lao động bộ phận, sử dụng công cụ chuyên dùng thích ứng, hợp thành lao động tập thể Đại công nghiệp cơ khí: 7
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại Trên cơ sở kỹ thuật thủ công, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không thể được xác lập một cách hoàn chỉnh và phát triển vững chắc. Do đó, trong quá trình phát triển, chủ nghĩa tư bản tự tạo cho nó một cơ sở kỹ thuật tương ứng là máy móc, đưa chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn công trường thủ công lên giai đoạn đại công nghiệp cơ khí. Máy móc được sử dụng phổ biến trong xã hội thông qua cuộc cách mạng công nghiệp. Đó là cuộc các mạng kỹ thuật thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Công cuộc cơ khí hoá ở một ngành dẫn đến việc thúc đẩy quá trình cơ khí hoá ở một ngành có liên quan. Cơ khí hoá trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp thúc đẩy cơ khí hoá ở các ngành liên quan. Cơ khí hoá trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp thúc đẩy cơ khí hoá ngành giao thông vận tải cơ khí hoá bắt đầu từ ngành công nghiệp nhẹ đến các ngành công nghiệp nặng. Máy móc và đại công nghiệp có tác dụng chủ yếu làm năng suất lao động xã hội tăng vọt, xã hội hoá lao động và sản xuất ngày càng cao, mở rộng thị trường, thúc đẩy sự ra đời của các trung tâm công nghiệp và những thành thị lớn; đồng thời, tạo ra những tiền đề vật chất kỹ thuật 8
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại I.3.3. Từ nền kinh tế thị trường tự do chuyển sang nền kinh tế thị trường hỗn hợp Xuất phát từ những khuyết tật của cơ chế thị trường: Do chạy theo lợi nhuận cho nên các doanh nghiệp thường gây ô nhiễm môi trường, thường khai thác tài nguyên một cách bừa bãi dẫn tới làm mất cân bằng sinh thái mà doanh nghiệp không phải đền bù một khoản thiệt hại nào Cơ chế thị trường dễ làm xuất hiện căn bệnh: khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, lạm phát và suy thoái Cơ chế thị trường dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo, dễ phát sinh những tiêu cực xã hội Kinh tế thị trường là một bước phát triển sau của kinh tế tự nhiên và khi kinh tế hàng hoá phát triển tới trình độ cao thì đó chính là kinh tế thị trường. Trong cơ chế thị trường thì do những khuyết tật của nó dẫn đến phá vỡ cân đối của nền kinh tế, gây lãng phí nhiều nguồn lực: tư liệu sản xuất, lao động, tạo ra sự phân hóa xã hội. Vì vậy nhà nước phải có vai trò nhất định để khắc phục những nhược điểm trên Trong lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản thời kì tự do cạnh tranh thì kinh tế thị trường phát triển theo tư tưởng lý thuyết bàn tay vô hình thì nhà nước không can thiệp kinh tế. điều đó dẫn đến việc khủng hoảng kinh tế sau này (1929 - 1933). Vì vậy đã xuất hiện lý thuyết kinh tế của Keyes yêu cầu nhà nước phải can thiệp kinh tế và đến năm 1948 đã xuất hiện lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp trong đó có sự kết hợp của hai nhân tố: sự điều tiết của thị trường (Bàn tay vô hình) và sự can thiệp của chính phủ (Bàn tay hữu hình) và cả hai nhân tố này đều tác động vào nền kinh tế Nhà nước có chức năng: Định hướng sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật Thiết lập về một khuôn khổ về pháp luật, xây dựng hệ thống cơ sở nhất quán tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho kinh tế phát triển Hạn chế và khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường Trực tiếp đầu tư một số lĩnh vực của nền kinh tế: những ngành kinh tế công cộng, năng lượng, cầu nhiều vốn . Quản lý và bảo vệ tài sản công, kiểm kê, kiểm soát hoạt động kinh tế - xã hội Phân phối hợp lý các nguồn lực sản xuất I.4. Các nhân tố của cơ chế thị trường Một nền kinh tế muốn vận hành được thì trước tiên phải dựa vào cơ chế thị trường có nghĩa là phải dựa vào bộ máy tự động của cả cung, cầu, giá cả hàng hoá, với môi trường cạnh tranh, động lực là lợi nhuận. Các bộ phận hợp thành cơ chế thị trường này có mối quan hệ mật thiết với nhau, như là những khâu trong guồng máy. Giá cả là cái nhân của thị trường, cung cầu là trung tâm và cạnh tranh là linh hồn là sức mạnh của thị trường I.4.1. Cung - cầu hàng hoá: Cầu hàng hóa: là số lượng hàng hoá hay dịch vụ mà người mua có khả năng và sẵn sàng mua ở các mức giá khác nhau trong cùng một thời gian Cung hàng hoá: là số lượng hàng hoá hoặc dịch vụ mà người bán có khả năng và sẵn sàng bán ở các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định Như vậy để có cầu hàng hoá phải có ba điều kiện: mong muốn mua, có khả năng mua và mức giá Để có cung hàng hoá cũng phải có ba điều kiện: mong muốn sản xuất, có khả năng sản xuất và mức giá Khi cung lớn hơn cầu thì giá cả của hàng hoá giảm. Và ngược lại khi cầu lớn hơn cung thì giá cả của hàng hóa sẽ tăng. Và đến khi cung về hàng hoá nào đó trên thị trường vừa đúng bằng cầu của hàng hoá thì lúc đó cung - cầu ở trạng thái cân bằng, 9
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại xác định mức giá cả là giá cả cân bằng. Song vì cung và cầu luôn biến động nên cân bằng cung - cầu luôn biến động theo. Giá cả thị trường của hàng hoá là do tương quan của cung và cầu trên thị trường quyết định. Nhưng đồng thời khi giá cả biến động thì nó cũng tác động tới việc thu hẹp hay mở rộng quy mô sản xuất. Những tác động của cung - cầu đối với thị trường: Quan hệ cung cầu góp phần đính chính giá cả thị trường và lập lại, khôi phục lại sự cân đối của nền kinh tế Quan hệ cung - cầu còn trực tiếp làm ảnh hưởng tới lợi ích kinh tế của người sản xuất và người tiêu dùng; người bán và người mua I.4.2. Giá cả Giá cả trên thị trường phản ánh quan hệ cung cầu về một loại hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó, sự biến động của giá cả sẽ tác động đến người bán và người mua: Cụ thể khi cầu cao hơn cung thì người bán sẽ tăng giá, điều đó sẽ thúc đẩy cho người sản xuất mở rộng quy mô để làm tăng cung. Trong trường hợp ngược lại cung lớn hơn cầu thì người bán phải giảm giá xuống. Khi đó người sản xuất sẽ giảm quy mô để giảm cung và cuối cùng cân đối giữa quan hệ cung - cầu được tái lập để lập lại cân bằng mới Chức năng của giá cả: Giá cả có chức năng thông tin (nghĩa là các tin tức về giá cả trên thị trường sẽ giúp cho các đơn vị kinh tế, các cá nhân người lao động đưa ra những quyết định về sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của mình Giá cả có chức năng phân bố các nguồn lực: khi giá biến động tăng giảm thì các nguồn lực của sản xuất sẽ dịch chuyển giữa các ngành Giá cả có chức năng thúc đẩy đổi mới những tiến bộ kỹ thuật công nghệ. Trong sản xuất, người ta luôn luôn tìm cách giảm bớt hao phí lao động xã hội cần thiết. Để từ đó dẫn tới giảm giá thành để thu được lợi nhuận siêu ngạch (là phần giá người sản xuất thu được nhiều hơn người sản xuất khác nhờ tiến bộ khoa học - kỹ thuật) Giá cả có chức năng thực hiện phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân cũng như thu nhập cá nhân thông qua chính sách giá cả Giá cả có chức năng thực hiện việc lưu thông hàng hoá. Khi giá cả biến động thì sẽ tác động tới hành vi người tiêu dùng và qua đó tác động vào lưu thông hàng hoá làm thay đổi nhu cầu người tiêu dùng I.4.3. Cạnh tranh Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các xí nghiệp, các tổ chức kinh tế trong việc tiêu thụ hàng hoá nhằm thu lợi nhuận cao nhất. Cạnh tranh là một tất yếu của nền kinh tế thị trường Các chức năng của cạnh tranh: Cạnh tranh có thể điều chỉnh một cách nhanh chóng các hành vi sản xuất tiêu dùng của xã hội Cạnh tranh thúc đẩy sự tiến bộ của kỹ thuật Cạnh tranh thoả mãn tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng Cạnh tranh tạo chính sách cho việc phân phối thu nhập ban đầu nghĩa là các doanh nghiệp nào thắng trong cạnh tranh thì sẽ thu được lợi nhuận hơn đối phương Các loại cạnh tranh gồm có: Cạnh tranh trong nước và cạnh tranh trên thị trường nước ngoài Cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá với nhau theo ba hướng: giá cả, chất lượng hàng hoá và thực hiện các dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng Cạnh tranh giữa một bên là những người bán và một bên là những người mua 10
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại Cạnh tranh giữa những người mua với nhau. Trên thương trường không có chuyện "đơn phương độc mã" mà là "buôn có bạn, bán có phường" Cạnh tranh kích thích tính năng động, tính tự chủ của các doanh nghiệp, vì thế nó làm cho kinh tế thị trường phát triển rất năng động (hoàn toàn khác với nền kinh tế tự nhiên, nền kinh tế trong thời kì bao cấp) Cạnh tranh huy động được mọi nguồn lực của xã hội vào việc phát triển kinh tế Cạnh tranh thúc đẩy được cải tiến kỹ thuật và sử dụng công nghệ mới Cạnh tranh hiệu quả là công cụ hữu hiệu nhất để đảm bảo sự phân bổ tối ưu các nguồn lực và hệ quả mà nó mang lại là năng suất tối ưu.Cạnh tranh thúc đẩy các nguồn lực di chuyển tới nơi nào có hiệu quả nhất bởi người sản xuất muốn sử dụng chúng để đem lại lợi nhuận càng nhiều, càng tốt I.4.4. Tiền tệ Tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho các loại hàng hóa khác. Nó biểu hiện chung của giá trị, nó biểu hiện tính chất xã hội của lao động và là quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá Chức năng của tiền tệ: Là thước đo giá trị (đây là chức năng cơ bản của tiền tệ): tiền dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của hàng hoá, mọi hàng hoá đều được biểu hiện giá trị của nó bằng tiền. Tiền tệ được coi như là sản phẩm của lao động Là phương tiện lưu thông: tiền là vật môi giới trong quan hệ lưu thông hàng hoá Là phương tịên cất giữ giá trị: tiền được rút khỏi lĩnh vực lưu thông và mang vào cất trữ. Khi cần lại đem mua hàng và tiền được xem như một thứ của cải của xã hội Là phương tiện thanh toán: tiền được dùng để chi trả sau khi một công việc đã hoàn thành hoặc dùng để trả nợ Chức năng tiền tệ thế giới: trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia với nhau và tiền lúc này phải là vàng, bạc, ngoại tệ mạnh I.4.5. Lợi nhuận Trong kinh tế thị trường, lợi nhuận là động lực chi phối hoạt động của người kinh doanh. Lợi nhuận đưa các doanh nghiệp đến các khu vực sản xuất các hàng hoá mà người tiêu dùng cần nhiều hơn, bỏ qua các khu vực có ít người tiêu dùng. Lợi nhuận cũng đưa các nhà doanh nghiệp đến việc sử dụng kỹ thuật sản xuất hiệu quả nhất. Như vậy, hệ thống thị trường luôn phải dùng lãi và lỗ để quyết định ba vấn để: sản xuất cái gì?, sản xuất như thế nào?, sản xuất cho ai? Lợi nhuận chính là mục tiêu kinh tế cao nhất, là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. để cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho thị trường, các nhà sản xuất phải bỏ tiền vốn trong quá trình sản xuất và kinh doanh. Họ mong muốn chi phí cho các đầu vào ít nhất và bán hàng hoá với giá cao nhất để sau khi trừ đi các chi phí còn số dư dôi để không chỉ sản xuất giản đơn mà còn tái sản xuất mở rộng, không ngừng tích luỹ phát triển sản xuất, củng cố và tăng cường vị trí của mình trên thị trường Lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh toàn bộ kết quả và hiệu quả của quá trình kinh doanh kể từ lúc bắt đầu tìm kiếm nhu cầu thị trường, chuẩn bị và tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh, đến khâu tổ chức bán hàng và dịch vụ cho thị trường. Nó phản ánh cả về mặt lượng và mặt chất của quá trình kinh doanh Lợi nhuận là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí Như vậy, lợi nhuận là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh I.5. Các quy luật của kinh tế thị trường 11
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại I.5.1. Quy luật giá trị Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá. ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị Quy luật giá trị là quy luật chi phối cơ chế thị trường và chi phối các quy luật kinh tế khác, các quy luật kinh tế khác là biểu hiện yêu cầu của quy luật giá trị mà thôi Quy luật giá trị quyết định giá cả hàng hoá, dịch vụ, mà giá cả là tín hiệu nhạy bén nhất của cơ chế thị trường Quy luật giá trị yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải được tiến hành trên cơ sở của việc hao phí lao động xã hội cần thiết: Trong sản xuất nó đòi hỏi người sản xuất luôn luôn có ý thức tìm cách hạ thấp hao phí lao động cá biệt xuống nhỏ hơn hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết Trong lĩnh vực sản xuất :Đối với việc sản xuất một thứ hàng hóa riêng biệt thì yêu cầu của quy luật giá trị được biểu hiện ở chỗ: hàng hoá của người sản xuất muốn bán được trên thị trường, muốn được xã hội thừa nhận thì lượng giá trị của một hàng hoá cá biệt phải phù hợp với thời gian lao động xã hội cần thiết. Đối với một loại hàng hoá thì yêu cầu quy luật giá trị thể hiện là tổng giá trị của hàng hóa phải phù hợp với nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội Trong lĩnh vực trao đổi : Việc trao đổi phải tiến hành theo nguyên tắc ngang giá. Quy luật giá trị biểu hiện sự hoạt động của mình thông qua sự vận động của giá cả xung quanh giá trị. Giá cả phụ thuộc vào giá trị, giá trị là cơ sở của giá cả, những hàng hoá có hao phí lao động lớn thì giá trị của nó lớn dẫn đến giá cả cao và ngược lại. Đối với mỗi hàng hoá thì giá cả hàng hoá có thể bằng hoặc nhỏ hơn hoặc lớn hơn giá trị nhưng đối với toàn bộ hàng hóa của xã hội thì chúng ta luôn luôn có tổng giá cả hàng hóa bằng tổng giá trị Tác dụng của quy luật giá trị: quy luật giá trị tự phát điều tiết việc sản xuất và lưu thông hàng hóa thông qua sự biến động của cung - cầu thể hiện qua giá cả trên thị trường I.5.2. Quy luật cung cầu Cung phản ánh khối lượng sản phẩm hàng hoá được sản xuất và đưa ra thị trường để thực hiện (để bán). cung do sản xuất quyết định, nó không đồng nhất với sản xuất Cầu phản ánh nhu cầu tiêu dùng có khả năng thanh toán của xã hội. Do đó, cầu không đồng nhất với tiêu dùng, vì nó không phải là nhu cầu tự nhiên, nhu cầu bất kì theo nguyện vọng tiêu dùng chủ quan của con người, mà phụ thuộc vào khả năng thanh toán Cung - Cầu có mối quan hệ hữu cơ với nhau, thường xuyên tác động lẫn nhau trên thị trường, ở đâu có thị trường thì ở đó có quy luật cung - cầu tồn tại và hoạt động một cách khách quan. Cung - cầu tác động lẫn nhau: Cầu xác định cung và ngược lại cung xác định cầu. Cầu xác định khối lượng, chất lượng và chủng loại cung về hàng hoá. những hàng hoá nào được tiêu thụ thì mới được tái sản xuất. Ngược lại, cung tạo ra cầu, kích thích tăng cầu thông qua phát triển số lượng, chất lượng, chủng loại hàng hoá, hình thức, quy cách và giá cả của nó Cung - cầu tác động lẫn nhau và ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả. Đây là sự tác động phức tạp theo nhiều hướng và nhiều mức độ khác nhau Quy luật cung - cầu tác động khách quan và rất quan trọng. Nếu nhận thức được chúng thì chúng ta vận dụng để tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh theo chiều hướng có lợi cho quá trình tái sản xuất xã hội. Nhà nước có thể vận dụng quy luật cung - cầu thông qua các chính sách, các biện pháp kinh tế như: giá cả, lợi nhuận, tín dụng, hợp đồng kinh tế, thuế, thay đổi cơ cấu tiêu dùng. Để tác động vào 12
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại các hoạt động kinh tế theo quy luật cung - cầu, duy trì những tỷ lệ cân đối cung - cầu một cách lành mạnh và hợp lý I.5.3. Quy luật canh tranh Cạnh tranh là sự tác động lẫn nhau giữa các nhóm người, giữa người mua và người bán hay giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Hai nhóm này tác động lẫn nhau với tư cách là một thể thống nhất, một hợp lực. ở đây cá nhân chỉ tác động với tư cách là một bộ phận, một lực lượng xã hội, là một nguyên tử của một khối. Chính dưới hình thái đó mà cạnh tranh đã vạch rõ cái tính chất xã hội của sản xuất và tiêu dùng Bên canh tranh yếu hơn cả cũng đồng thời là cái bên mà ở đó mỗi cá nhân đều hoạt động một cách độc lập với đông đảo những người cạnh tranh với mình và thường thường là trực tiếp chống lại những người đó. Chính vì sự phụ thuộc lẫn nhau giữa một người cạnh tranh cá biệt với những người khác lại càng thêm rõ ràng. Trái lại bên mạnh hơn bao giờ cũng đương đầu với đối phương với tư cách là một chỉnh thể ít nhiều thống nhất Người mua làm cho giá thị trường càng thấp, càng tốt. Mỗi người chỉ quan tâm đến đồng nghiệp trong chừng mực thấy đi với họ có lợi hơn việc chống lại họ Khi một bên yếu hơn bên kia thì hành động chung sẽ chấm dứt, mỗi người sẽ tự lực xoay sở lấy. Nếu một bên chiếm ưu thế thì mỗi người bên đó đều sẽ được lợi, tất cả diễn ra như là họ cùng nhau thực hiện độc quyền chung vậy Cạnh tranh như một tất yếu trong nền kinh tế hàng hoá. Cạnh tranh có tác dụng san bằng các giá cả mấp mô để có giá cả trung bình, giá trị thị trường và giá cả sản xuất đều hình thành từ cạnh tranh trong nội bộ ngành và giữa các ngành Tóm lại: Trong cơ chế thị trường, quy luật cạnh tranh như một công cụ, phương tiện gây áp lực cực mạnh thực hiện yêu cầu của quy luật giá trị, cạnh tranh trong một cơ chế vận động chứ không phải cạnh tranh nói chung I.5.4. Quy luật lưu thông tiền tệ Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật xác định lượng tiền cần cho lưu thông. Lượng tiền cần cho lưu thông chính bằng tỷ số giữa tổng giá cả hàng hoá với tốc độ lưu thông tư bản Trong thực tế: lượng tiền cần cho lưu thông bằng tỷ số giữa tổng giá cả hàng hóa trừ đi tổng tiền khấu trừ, trừ đi tổng giá cả bán chịu cộng với tổng tiền thanh toán với tốc độ lưu thông tư bản Quy luật lưu thông tiền tệ tuân theo các nguyên lý sau: Lưu thông tiền tệ và cơ chế lưu thông tiền tệ do cơ chế lưu thông hàng hoá quyết định Tiền đại diện cho người mua, hàng đại diện cho người bán. Lưu thông tiền tệ có quan hệ chặt chẽ với tiền - hàng, mua - bán, giá cả - tiền tệ Kinh tế hàng hoá trên một ý nghĩa nhất định có thể gọi là kinh tế tiền tệ, quyết định cơ chế lưu thông tiền tệ Mặt khác cơ chế lưu thông tiền tệ còn phụ thuộc vào cơ chế xuất nhập khẩu, cơ chế quản lý kim loại quý, cơ chế kinh doanh tiền của ngân hàng Nếu quy luật canh tranh, quy luật cung - cầu làm giá hàng hoá vận động, san bằng thì quy luật lưu thông tiền tệ giữa mối liên hệ cân bằng giữa hàng và tiền Ngoài ra còn một số loại quy luật khác như: quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm, quy luật khủng hoảng kinh tế , quy luật tâm lý cũng ảnh hưởng đến cơ chế thị trường II.Phân tích những yếu tố trong nền kinh tế thị trường II.1Người tiêu dùng trong nền kinh tế thị trường 13
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại Người tiêu dùng trong nền kinh tế thị trường và kinh tế chỉ huy phải đưa ra nhiều loại quyết định giống nhau: họ mua thực phẩm, quần áo, nhà cửa, phương tiện đi lại và giải trí trong giới hạn khả năng tài chính của mình, và họ mong muốn có khả năng mua nhiều hơn nữa. Tuy nhiên, người tiêu dùng có vai trò quan trọng hơn trong cơ chế hoạt động tổng quát của nền kinh tế thị trường so với vai trò của họ trong nền kinh tế chỉ huy. Thực tế là các nền kinh tế thị trường đôi khi được miêu tả như là các hệ thống thuộc “chủ quyền của người tiêu dùng” vì các quyết định chi tiêu hàng ngày theo sự lựa chọn của người tiêu dùng sẽ quyết định một phần lớn đến việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ gì trong nền kinh tế. Điều này xảy ra như thế nào? Giá cả và thu nhập của người tiêu dùng Một yếu tố kinh tế khác mà người tiêu dùng phải xem xét cẩn thận khi mua hàng hóa và dịch vụ chính là mức thu nhập của họ. Hầu hết mọi người đều có thu nhập từ công việc mà họ thực hiện dù họ là bác sĩ, thợ mộc, giáo viên, thợ sửa ống nước, công nhân lắp ráp hay thư ký trong các cửa hàng bán lẻ. Một số người cũng nhận được thu nhập từ việc cho thuê hoặc bán đất và các tài nguyên thiên nhiên khác mà họ sở hữu dưới hình thức lợi nhuận từ một công việc kinh doanh hoặc một doanh nghiệp, hoặc từ lãi tiền gửi tiết kiệm hoặc từ các khoản đầu tư khác. Sau này chúng ta sẽ mô tả về cách xác định những khoản thu nhập đó; nhưng những điểm quan trọng là: 1) trong một nền kinh tế thị trường, các tài nguyên cơ bản được dùng để tạo ra các hàng hóa và dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng do các cá nhân và gia đình sở hữu; 2) các khoản tiền nhận được, hay thu nhập, mà các gia đình thu được từ các nguồn lực sản xuất đó, tăng hay giảm – và sự biến động đó có tác động trực tiếp đến số tiền mà người tiêu dùng sẵn sàng chi tiêu cho những hàng hóa và dịch vụ mà họ cần, và tiếp theo là đến mức sản lượng của công ty bán ra những sản phẩm đó. Ví dụ, hãy xem xét một nhân viên vừa mới nghỉ hưu và vì vậy chỉ có thu nhập bằng khoảng 60% số tiền mà bà ta nhận được khi còn đi làm. Bà ta sẽ giảm bớt việc mua nhiều hàng hóa và dịch vụ – đặc biệt là những thứ liên quan đến công việc như trả tiền đi lại và quần áo tại nơi làm việc – nhưng bà có thể tăng chi tiêu cho một vài sản phẩm khác như báo chí và giải trí vốn đòi hỏi phải có thêm thời gian rảnh rỗi mới dùng được, có lẽ bao gồm cả đi du lịch để tham quan những thắng cảnh mới và thăm bạn bè cũ. Giống như ở nhiều nước hiện nay, nếu số lượng người đến tuổi về hưu tăng lên nhanh chóng, những cách thức chi tiêu thay đổi nói trên sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ giá cả thị trường và mức sản xuất đối với những sản phẩm này, và nhiều sản phẩm khác mà người nghỉ hưu có xu hướng sử dụng nhiều hơn những người khác, như dịch vụ y tế. Để đáp ứng, một số doanh nghiệp sẽ quyết định sản xuất thêm các sản phẩm và dịch vụ theo hướng đáp ứng nhu cầu của người nghỉ hưu – chừng nào việc đó vẫn còn đem lại lợi nhuận cho các công ty sản xuất ra chúng. Tóm lại, dù người tiêu dùng già hay trẻ; nam hay nữ; giàu, nghèo hay trung lưu; mỗi đồng đô-la, pê-xô, bảng, ơ-rô, ru-pi, đi-na hoặc yên mà họ chi tiêu chính là tín hiệu – một kiểu bỏ phiếu về phương diện kinh tế, nói cho người sản xuất biết họ cần phải sản xuất loại hàng hóa và dịch vụ gì. Chi tiêu của người tiêu dùng đại diện cho nguồn cầu căn bản đối với các sản phẩm được bán trên thị trường, ảnh hưởng phân nửa đến việc xác định giả cả thị trường của 14
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại hàng hóa và dịch vụ. Nửa còn lại dựa trên quyết định của các doanh nghiệp về việc sản xuất cái gì và như thế nào. LẠM PHÁT VÀ CHUYỂN ĐỔI SANG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG: Một trong những vấn đề hóc búa nhất mà các xã hội phải đối mặt trong quá trình chuyển từ một nền kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường là lạm phát. Tuy nhiên, đó là thách thức mà các xã hội đó phải vượt qua nếu muốn được hưởng những lợi ích vật chất mà nền kinh tế thị trường có thể mang lại. Chính xác thì lạm phát là gì? Đó là sự tăng lên của mức giá trung bình của hàng hóa và dịch vụ được sản xuất và tiêu thụ trong một nền kinh tế. Lạm phát thường xảy ra trong một nền kinh tế thị trường vì một trong hai lý do sau: hoặc là người dân tăng chi tiêu nhanh hơn mức người sản xuất có thể tăng sản lượng hàng hóa và dịch vụ, hoặc có một sự sụt giảm về lượng cung hàng hóa và dịch vụ cho người tiêu dùng và/hoặc người sản xuất, do đó làm giá cả tăng lên. Lạm phát đôi khi được mô tả là sự tăng lên về lượng tiền so với sự giảm đi về số lượng hàng hóa. Lạm phát gây ra khó khăn đối với các nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, bởi vì sự tự do hóa giá cả – xóa bỏ sự quản lý của chính phủ về giá cả – là một bước đi căn bản để tiến tới một nền kinh tế thị trường. Kết quả đầu tiên của sự tự do hóa giá cả là có thể tiên đoán – một đợt tăng giá đối với các hàng loạt hàng hóa vẫn bị thiếu hụt kinh niên. Vì sao? Bởi vì chính phủ cố ý giữ giá những sản phẩm này ở mức thấp nên cầu luôn vượt quá cung, hoặc do các sai lệch về kinh tế khác và những sự không hiệu quả gây ra bởi những người ra quyết định trong chính phủ. Ngoài ra, nếu người dân đang giữ một lượng tiền lớn vào thời điểm nền kinh tế chuyển đổi (vì lượng tiền cần để mua hàng rất ít) thì áp lực của lạm phát thậm chí lại càng gia tăng. Tuy nhiên, phần thưởng cho việc trải qua cuộc lạm phát tất yếu này trong giai đoạn chuyển đổi lại rất lớn. Không bị kìm hãm bởi chính phủ, cơ chế thị trường về cung và cầu có thể bắt đầu hoạt động. Giá cả cao phát tín hiệu về nhu cầu cao và thị trường, thay vì chậm chạp như lúc đầu, đã có phản ứng bằng việc tăng sản xuất. Tiền của người dân có thể đã mất giá trị, nhưng số tiền mà họ có lúc này có giá trị thật và người tiêu dùng có thể mua các hàng hóa đang bắt đầu xuất hiện trong các cửa hàng. Cùng với cung hàng hóa tăng lên, giá cả trở nên ổn định và không còn thấy những dòng người xếp hàng vì người tiêu dùng nhận ra rằng sẽ ngày càng có thêm nhiều loại hàng hóa phong phú tiếp tục được bán ra. Các doanh nghiệp và nhà đầu tư phản ứng trước sự tự do kinh tế mới bằng việc khởi sự công việc kinh doanh mới và cạnh tranh với nhau trong việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ, do đó tạo ra công việc, mở rộng lượng cung và làm giá cả ổn định hơn. Yếu tố then chốt trong sự chuyển đổi này là chính phủ từ bỏ vai trò của mình trong việc áp đặt giá cả và cho phép các lực lượng thị trường là cung và cầu xác lập giá cả đối với hầu hết các loại hàng hóa và dịch vụ. Khi một thị trường tự do như vậy hình thành, lạm phát có thể vẫn kéo dài nhưng vấn đề này dễ quản lý hơn nhiều và bớt đi tính đe dọa so với những ngày đầu khó khăn của quá trình chuyển đổi. Sự tàn phá và đau khổ do một cơn bùng nổ tăng giá gây ra trong một nền kinh tế chuyển đổi (được gọi là siêu lạm phát) rất rõ ràng đối với tất cả mọi người. Tuy nhiên, 15
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại mức lạm phát thấp hơn điển hình trong nền kinh tế thị trường có thể trở thành vấn đề hay không? Liệu mọi người có giàu lên chăng khi không có lạm phát và giá cả cũng như thu nhập vẫn thấp như cách đây 100 năm? Chưa chắc. Nếu thu nhập của Robert và Maria tăng gấp 10 lần và giá cả của mọi thứ cũng tăng lên như vậy thì họ chẳng khấm khá hơn so với trước đó. Lý do mà người dân trong nền kinh tế thị trường quan tâm đến lạm phát trong những khoảng thời gian ngắn hơn là vì khi giá cả tăng lên, thu nhập và sự giàu có được phân phối lại theo một cách tùy ý không liên quan đến sản lượng hoặc năng suất của công nhân và các công ty. Ví dụ, giả sử Robert và Maria đã mua một ngôi nhà và vay tiền để trả với lãi suất là 10%. Sau đó, tỷ lệ lạm phát tăng từ 5% lên 15%. Họ sẽ có lợi từ những sự thay đổi này vì số tiền mà họ trả nợ sẽ không có giá trị bằng số tiền khi họ vay ban đầu để mua ngôi nhà. Nói cách khác, số tiền đó không đủ để mua được số hàng hóa và dịch vụ như lúc ban đầu. Đó là tin vui cho Robert và Maria nhưng lại là tin xấu đối với những người cho họ vay tiền. Cũng tương tự như vậy, những ai có lương hưu cố định (hoặc nhận được các khoản tiền cố định khác theo một hợp đồng dài hạn) sẽ bị ảnh hưởng bởi lạm phát, trong khi những người phải thanh toán theo yêu cầu của những hợp đồng đó lại có lợi. Những người để dành tiền và các nhà đầu tư cũng bị ảnh hưởng vì lạm phát làm giảm giá trị của số tiền của họ. Ngược lại, những người có thể phải trả nợ hoặc thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng khác bằng đồng tiền bị lạm phát thì thường có lợi, trừ khi lãi suất và các khoản thanh toán khác được phép điều chỉnh theo mức lạm phát. Các quốc gia cần tiền tiết kiệm và các khoản tiền vay để đầu tư thêm cho tư liệu sản xuất – nhà xưởng, nhà máy và công nghệ mới. Do đó, bằng việc làm ảnh hưởng đến người tiết kiệm, lạm phát có thể làm giảm tăng trưởng kinh tế và sự thịnh vượng về lâu dài của một quốc gia. Và thậm chí nhìn rộng ra, lạm phát làm cho hoạt động kinh doanh và kinh tế khó dự đoán hơn, do đó khiến cho đầu tư vào các nước khác có lạm phát thấp hoặc không có lạm phát trở nên hấp dẫn hơn. Liệu một công ty sẽ xây dựng một nhà máy ở một nước có tỷ lệ lạm phát không dự đoán được thay đổi trong khoảng từ 10% đến 15%, hay ở một địa điểm có tỷ lệ lạm phát trước đây ổn định trong khoảng từ 2% đến 5%? Câu trả lời là ở địa điểm sau. Như vậy, lạm phát làm cho số người bị thua thiệt trở nên nhiều hơn so với số người được lợi bằng cách phá hủy môi trường kinh tế đối với tất cả các cá nhân và doanh nghiệp. Vì tất cả những lý do này, chính sách ổn định giá của chính phủ phải cân bằng được giữa nhu cầu khuyến khích tăng trưởng kinh tế và sự đòi hỏi phải kiểm soát được lạm phát. II.2Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường: Như chúng ta đã thấy, sự thành công của một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phụ thuộc vào việc thỏa mãn khách hàng bằng cách sản xuất những sản phẩm mà họ muốn, và bán các hàng hóa và dịch vụ với giá cả có thể cạnh trạnh được với các doanh nghiệp khác. Để làm được điều này các doanh nghiệp cần phải giải đáp một cách cẩn thận một trong những vấn đề quan trọng nhất mà mọi cơ chế kinh tế phải đối mặt: đó là làm thế nào để một xã hội có thể sản xuất hàng hóa và dịch vụ một cách hiệu quả nhất? Trong nền kinh tế thị trường, điều đó có nghĩa là làm sao đạt được giá trị đầu ra tối đa từ các yếu tố đầu vào mà các nhà sản xuất sử dụng 16
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại Ví dụ :Sản xuất xe đạp:Hãy xét trường hợp một công ty đang nghiên cứu sản xuất và bán xe đạp. Trước khi bắt đầu một công việc kinh doanh như vậy, bất kỳ doanh nghiệp hoặc công ty nào cũng phải cân nhắc hàng loạt các vấn đề. Trước tiên, tiềm năng và bản chất nhu cầu của khách hàng đối với loại xe đạp mới này là gì? Liệu có một thị trường lớn, duy nhất cho các xe đạp thông thường không? Hay là thị trường xe đạp được chia thành nhiều thị trường nhỏ hơn, hay thị trường ngách, cho các loại xe đạp đặc biệt dành cho trẻ em, các loại xe đạp đua hoặc xe đạp leo núi chuyên dụng? Một xu hướng mới, như sự xuất hiện xu hướng bất ngờ của cái gọi là “xe đạp biểu diễn” mà những người khéo léo có thể dùng để biểu diễn nhào lộn, cũng có thể hấp dẫn các nhà sản xuất mới – những người thấy có cơ hội để kiếm lợi nhuận. Mặt khác, các nhà cung cấp tiềm năng có thể đơn giản cảm thấy rằng họ chỉ cần phát triển những kỹ thuật sản xuất cải tiến đối với loại xe đạp thông thường, hoặc sản xuất với giá nhân công thấp hơn là các công ty có thể bán với giá thấp hơn các đối thủ cạnh tranh trên thị trường mà vẫn có lợi nhuận. Không chỉ có rất nhiều loại xe đạp để sản xuất, mà còn có rất nhiều cách để sản xuất ra chúng – từ việc sử dụng một dây chuyền lắp ráp tự động hiện đại để sắp xếp hàng ngàn các bộ phận giống nhau và lắp thành xe đạp, tới việc sử dụng nhiều lao động hơn và ít máy móc hơn để thiết kế và sản xuất các loại xe đạp chuyên dụng. Một lần nữa, công ty đưa ra các quyết định trong cơ chế thị trường phải cân nhắc một số loại giá khác nhau để có thể tăng hay giảm tùy theo phản ứng của người mua và bán sản phẩm đó. Ví dụ, giá cả của các yếu tố đầu vào mà các công ty phải trả tất nhiên là đóng một vai trò lớn trong việc xác định bao nhiêu thép, nhôm, lao động, máy móc và các nguyên liệu khác mà công ty sẽ sử dụng để sản xuất xe đạp của mình. Nếu giá thép tăng lên và giá nhôm giảm xuống, rất nhiều công ty xe đạp sẽ tìm cách sử dụng nhiều nhôm hơn và ít thép đi. Tương tự, nếu lương của công nhân tăng mạnh, các công ty sẽ thấy nên tìm cách sử dụng máy hoặc vốn nhiều hơn và sử dụng ít lao động hơn. Ví dụ, công ty có thể quyết định mua nhiều máy nâng hàng hơn và giảm nhân công trong việc vận chuyển nguyên vật liệu trong các nhà kho. Hoặc công ty có thể sử dụng nhiều máy móc hơn để hàn những mối hàn thông thường và lặp lại ở xe đạp của mình và do đó thuê ít công nhân hàn hơn. (Kết quả là số công nhân trong các nhà máy sản xuất máy hàn để sử dụng trong các nhà máy sản xuất xe đạp sẽ tăng lên). Bất kỳ công việc kinh doanh mạo hiểm nào như vậy đều kéo theo nhiều yếu tố may rủi: mẫu thiết kế xe đạp mới có thể thất bại trong việc hấp dẫn khách hàng, hoặc chi phí sản xuất có thể cao đến mức không ngờ, khiến giá các mặt hàng xe đạp của công ty đó không được thị trường chấp nhận. Các công ty phải hoàn toàn lãnh chịu các rủi ro thất bại – và thu được những thành quả kinh tế nếu họ có kế hoạch tốt và công việc kinh doanh xe đạp của họ thành công. Sự cân nhắc giữa rủi ro và thắng lợi của các cá nhân và các công ty tư nhân cho thấy vai trò quan trọng của chính phủ trong mọi nền kinh tế thị trường, đó là bảo vệ quyền sở hữu tài sản tư nhân và thực thi luật pháp về hợp đồng. Quyền sở hữu phải được xác định rõ trong luật pháp, và các chủ doanh nghiệp và các nhà đầu tư phải được đối xử như nhau theo luật và các quy định thương mại dù họ là công dân của nước đó hay người nước ngoài. Chỉ khi nào quyền tự do sở hữu không sợ bị chính quyền đe dọa tước đoạt, hay bị các nhóm thế lực bóc lột, thì các cá nhân và các công ty mới sẵn sàng chịu rủi ro về tiền bạc để đầu tư vào việc kinh doanh mới hoặc mở rộng kinh doanh. Ngoài ra, họ cũng phải chắc chắn rằng hệ thống luật pháp của nhà nước sẽ giải quyết mọi tranh chấp hợp đồng trên một cách công bằng và nhất quán. 17
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại Tóm lại, mọi doanh nghiệp, dù là trong nước hay của nước ngoài, đều phải sẵn sàng đương đầu với những bất ổn của nền kinh tế trong việc kinh doanh của mình – nhưng không thể bị đương đầu với sự bất trắc về luật pháp hoặc chính trị đối với tính hợp pháp của doanh nghiệp của họ. Cạnh tranh và năng suất Việc một công ty thực hiện các điều chỉnh khi giá cả các yếu tố đầu vào thay đổi là một phần quan trọng trong việc đảm bảo sản xuất có hiệu quả và cạnh tranh với các công ty khác sản xuất các sản phẩm tương tự. Các công ty không giảm được chi phí sản xuất của mình có thể cố gắng tính giá cao hơn cho các sản phẩm của mình; nhưng điều này sẽ không thực hiện được nếu các công ty khác có thể sản xuất hàng hóa với chất lượng tương tự với chi phí lại thấp hơn và bán chúng với giá thấp hơn. Người tiêu dùng sẽ có lợi từ sự cạnh tranh giữa các công ty vì họ mua được sản phẩm tốt hơn với giá thấp hơn. Và nếu phần lớn các hàng hóa và dịch vụ mà họ mua đều được làm ra trong các thị trường mang tính cạnh tranh ở mức độ cao, thì ngân sách của họ sẽ cho phép họ mua nhiều sản phẩm hơn với cùng một khoản thu nhập mà họ kiếm được. Tuy nhiên, thậm chí trong các thị trường cạnh tranh, không phải tất cả các công ty đều chọn sử dụng những nguyên liệu hoặc phương thức sản xuất hoàn toàn giống nhau. Trong rất nhiều trường hợp, các phương thức sản xuất phản ánh những loại xe đạp khác nhau hoặc các sản phẩm khác mà họ lựa chọn sản xuất. Ví dụ, công ty sản xuất xe đạp trẻ em đơn giản hoặc xe đạp cho người lớn để đi làm hàng ngày sẽ có nhiều khả năng muốn sản xuất một số lượng lớn các xe đạp giống nhau và lắp ráp chúng với những nguyên vật liệu được tiêu chuẩn hóa và bằng phương pháp lắp ráp theo dây chuyền. Bằng cách này, họ có thể giữ chi phí sản xuất và giá cả ở mức rất thấp. Mặt khác, các công ty chuyên sản xuất xe đạp đua chuyên dụng có nhiều khả năng sử dụng nhân công và các dụng cụ thiết kế đặc biệt nhiều hơn và các kim loại đắt tiền hơn, nhưng ít sử dụng máy dập và dây chuyền lắp ráp để làm các bộ phận giống nhau. Không có gì ngạc nhiên khi giá của xe đạp chuyên dụng luôn cao hơn giá của xe được sản xuất hàng loạt ở các nhà máy lớn. Tất nhiên, lý tưởng nhất là mọi người đều muốn thấy tất cả những thứ mà họ mua đều phải trải qua cạnh tranh gay gắt – do đó giá bán giảm xuống – nhưng lại không muốn có nhiều cạnh tranh của những người khác trong công việc mà họ làm để có được thu nhập – do đó lương bổng của họ vẫn giữ ở mức cao. Nói một cách tổng quát hơn thì mọi người dường như đều thích tiền lương cao và chi phí sản xuất thấp (kể cả chi phí lao động là phần lớn nhất trong chi tiêu của hầu hết các công ty), bởi điều này có nghĩa là mọi người sẽ có thể mua được nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn. Nhưng không một cơ chế kinh tế nào có thể đảm bảo cùng lúc tiền lương cao và giá cả thấp vì tiền lương của công nhân đại diện cho phần chi phí lao động của công ty trong việc sản xuất và tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ mà nó sản xuất ra. Nói cách khác chừng nào các chi phí khác và số cầu không thay đổi thì việc nâng tiền lương của mọi người chỉ đơn thuần làm tăng chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, theo thời gian, có nhiều cách để người lao động và các công ty vượt qua sự bế tắc này – đó là, có thu nhập và lợi nhuận cao hơn mà không phải tăng giá bán sản phẩm cho người tiêu dùng và do đó tránh nguy cơ bị đối thủ cạnh tranh loại ra khỏi thị trường. Câu trả lời là tăng năng suất, hay mức sản lượng mà một ngành công nghiệp hoặc một công ty có được từ mỗi công nhân hoặc mỗi đơn vị yếu tố đầu vào được sử dụng để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ. Để tăng năng suất, người lao động và các công ty phải phát triển các sản phẩm mới cho thị trường, hoặc sản xuất hàng hóa và dịch vụ một cách hiệu quả hơn đối thủ cạnh tranh với chi phí thấp 18
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại hơn hoặc với chất lượng tốt hơn. Tóm lại, các sản phẩm của họ phải mới hơn, tốt hơn và rẻ hơn. Mức sản xuất cao hơn biện minh được cho mức lương và mức sống cao hơn. Năng suất cao hơn có nghĩa là sản lượng của mỗi công nhân sẽ cao hơn, từ đó biến thành sự thịnh vượng hơn, điều này có thể được chia thành tiền lương cao hơn và mức sống tốt hơn. Cắt giảm chi phí và sản xuất hiệu quả hơn là những cách để làm tăng năng suất; nhưng trong các nền kinh tế dựa trên công nghệ hiện đại, nghiên cứu và đổi mới lại mang tính quyết định đối với sự ổn định về năng suất và tăng trưởng của nền kinh tế quốc gia và thế giới. Những công nghệ tiến bộ trong máy tính, viễn thông và mã di truyền sinh học là kết quả của các nghiên cứu, thí nghiệm và thử nghiệm khoa học. Những tiến bộ này diễn ra liên tục trong nền kinh tế thị trường khi các công ty muốn tìm cách phát triển những sản phẩm và dịch vụ mới, hoặc sản xuất ra những sản phẩm hiện tại một cách hiệu quả hơn. Kết quả là các công việc mới đem lại nhiều cơ hội và mang lại sự thịnh vượng cho tất cả mọi người. Đây cũng là cách mà tất cả những người lao động và các doanh nghiệp trong một quốc gia có thể nâng cao vị thế cạnh tranh của họ trong nền kinh tế thế giới, để nâng cao mức sống vật chất của họ qua thời gian. NĂNG SUẤT: YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH ĐỂ NÂNG CAO MỨC SỐNG Mức sống vật chất trong một quốc gia chủ yếu được xác định bằng lượng hàng hóa và dịch vụ mà người dân trong nước đó có thể sản xuất và tiêu dùng. Đó là lý do vì sao các thước đo năng suất lao động cơ bản trong một quốc gia – sản lượng hàng hóa và dịch vụ do một người lao động tạo ra – rất quan trọng: năng suất càng tăng nhanh thì mức sống vật chất cũng tăng nhanh hơn. Bảng dưới đây cho thấy tỷ lệ tăng năng suất hàng năm ở một số quốc gia công nghiệp hàng đầu trong nửa thế kỷ qua. Khi thoáng nhìn các con số có vẻ bé nhỏ nhưng sự khác biệt có thể rất quan trọng qua thời gian. Ví dụ, tỷ lệ tăng ổn định hàng năm ở mức 3% sẽ làm tăng gấp đôi lượng hàng hóa và dịch vụ đối với người tiêu dùng (tính trên đầu người) trong khoảng 24 năm, trong khi tỷ lệ tăng năng suất ở mức 2% đòi hỏi phải mất 36 năm để làm tăng gấp đôi mức sản lượng nói trên, và với mức tăng năng suất 4% chỉ cần 18 năm để làm việc đó. Đó là những sự khác biệt đủ lớn để người dân nhận biết được, đặc biệt khi mức tăng trưởng ở một số nước lại nhanh so với các nước khác. Năm 2002, Hoa Kỳ ghi nhận mức tăng năng suất cao nhất trong 15 năm là 6,4% trong khi mức sống của người dân Hoa Kỳ vẫn cao hơn ở các nước khác được nêu trong bảng dưới đây. Sự thật là các nước khác đã và đang tăng trưởng nhanh hơn và sắp bắt kịp mức năng suất trung bình ở Hoa Kỳ. Cách thức đuổi kịp, hay hội tụ, không có gì khác thường. Trên thực tế, Hoa Kỳ đã tự bắt kịp và vượt qua các nước giàu hơn trong các thế kỷ trước, mặc dù năng suất và mức sống tiếp tục tăng lên ở các quốc gia như Anh và Pháp. Nói khái quát hơn thì các nước nghèo thường có thể bắt kịp với các nước giàu bằng cách bắt chước các sản phẩm và công nghệ được phát triển ở các nước công nghiệp hóa cao hơn, đôi khi sử dụng chính những sản phẩm và hàng hóa đó mà có lợi hơn vì giá nhân công rẻ hơn hoặc có phương thức sản xuất hiệu quả hơn. 19
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại Trong một vài thập kỷ, những hoàn cảnh đặc biệt có thể ảnh hưởng đến năng suất. Ví dụ, trong những năm 1950, nhiều quốc gia có tên trong bảng dưới đây nhanh chóng tái thiết nền kinh tế của mình từ đống đổ nát sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai, tuy rằng sự tăng trưởng kinh tế mau chóng đó không phải toàn diện. Có nhiều nhân tố khác dẫn đến sự sụt giảm mức tăng trưởng trong giai đoạn sau năm 1973 ở tất cả các nước trong bảng dưới đây cũng như ở hầu hết các nước công nghiệp khác. Một lý do là sự tăng giá dầu thô đột ngột bởi các thành viên trong Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) – đặc biệt là vào năm 1973 và 1979 – làm cho nhiều nhà máy và công nghệ sử dụng các nhiên liệu từ dầu mỏ trở thành lỗi thời hoặc ít nhất là kém hiệu quả. Với số thiết bị có hiệu quả giảm xuống, công nhân không thể sản xuất nhiều hàng hóa và dịch vụ – dẫn đến giảm năng suất lao động và tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Những năm 1970 cũng là khoảng thời gian khi hai bộ phận dân cư – thanh thiếu niên và phụ nữ vốn trước đây ít khi hoặc không bao giờ phải lao động – bắt đầu tìm việc làm với số lượng chưa từng thấy ở rất nhiều nước trong số này. Giống như phần lớn những người lần đầu tiên đi làm, mức năng suất của hai nhóm này lúc đầu thấp hơn những người lao động có kinh nghiệm, làm cho năng suất lao động và tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tạm thời giảm xuống. Vấn đề quan trọng nhất vẫn bỏ ngỏ, làm thế nào để năng suất tăng nhanh hơn? Các nhà nghiên cứu đã xác định một vài điều quan trọng cần phải làm, bao gồm đầu tư tốt hơn cho giáo dục và đào tạo công nhân, và tư liệu sản xuất để làm tăng sản lượng và hiệu quả. Nhưng lịch sử cho thấy, nhân tố lớn nhất giúp tăng năng suất trong thế kỷ qua chính là tiến bộ công nghệ. Sự đột phá đó diễn ra cùng với chi tiêu của tư nhân và chính phủ dành cho nghiên cứu và phát triển và thông qua các khoản đầu tư để ứng dụng những phát minh mới trong các phòng thí nghiệm vào sản xuất. Do đó, chi tiêu cho đầu tư và các khoản tiết kiệm cá nhân cần thiết để hỗ trợ nghiên cứu công nghệ có ý nghĩa căn bản đối với vấn đề tăng năng suất. Chi tiêu nhiều hơn cho các dự án nghiên cứu và phát triển không đảm bảo sẽ có những bước đột phá mới có tính cách mạng như những gì đã tạo ra các sản phẩm và ngành công nghiệp mới trong khoảng thời gian từ 100 đến 150 năm qua, bao gồm ô-tô, máy bay, điện thoại, vệ tinh truyền thông, tia la-de, máy tính, chất dẻo và các vật liệu tổng hợp khác, chất kháng sinh và kỹ thuật tách gien. Tuy nhiên, các cơ chế kinh tế nuôi dưỡng một môi trường thuận lợi cho việc phát triển các công nghệ mới và nhanh chóng ứng dụng các công nghệ này vào sản xuất sẽ có lợi thế lớn trong cuộc chạy đua tăng năng suất trên toàn cầu. TỶ LỆ TĂNG TRƯỞNG BÌNH QUÂN HÀNG NĂM SẢN LƯỢNG CÔNG NGHIỆP TÍNH THEO GIỜ CÔNG LAO ĐỘNG Nước 1950 - 1960 - 1973 - 1979 - 1985 – 1990 - 1995 – 2000 - 2001 - 20
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại 1960 1973 1979 1985 1990 1995 2000 2001 2002 Hoa Kỳ 2,0 3,2 1,4 3,5 2,4 3,3 4,5 0,4r 6,4 Canada 3,8 4,5 2,1 3,6 0,5 3,8 1,1 -2,0 1,5 Nhật 9,5 10,3 5,5 3,5 4,3 3,3 4,1 -1,6 5,2 Bản Bỉ – 6,9 6,2 6,9 2,2 3,2 3,3 1,2 6,3 Đan 2,8 6,4 4,2 2,4 0,7 – – – – Mạch Pháp 2,8 6,5 5,0 5,1 3,3r 4,0 4,7r 4,1r 2,7 Đức1 7,4 5,8 4,3 2,1 2,1 3,3 2,4 1,4 2,3 Italia 5,7 7,3 3,3 3,5 1,9 2,4 0,9 1,7 -1,4 Hàn – – – – 8,2 9,7 11,0r -0,8r 7,2 Quốc Hà Lan 4,7 7,4 5,5 4,6r 2,2r 3,5r 2,5r -0,3r 0,5 Thụy 3,4 6,4 2,6 3,1 1,9 5,7 7,8 0,9r 7,6 Điển Anh 2,1 4,3 1,1 4,4 4,6 3,6r 2,5r 2,6r 0,4 r: đã cập nhật –: không có thông tin 1: số liệu cho các năm trước 1991 là của Tây Đức cũ Nguồn: - Số liệu cho các năm từ 1950 đến 1970: "Bảng so sánh quốc tế về xu hướng của giá nhân công và hiệu quả sản xuất, năm 1986", ấn phẩm của Bộ Lao động Hoa Kỳ, trang 87-237. - Số liệu cho các năm từ 1979 đến 2002: "Bảng so sánh quốc tế về xu hướng của giá nhân công và hiệu quả sản xuất, năm 2002", Cơ quan Thống kê về Lao động của Hoa Kỳ, http:// www.bls.gov/news.release/prod4.toc.htm. II.3Người lao động trong nền kinh tế thị trường Ở hai nền kinh tế thị trường và kinh tế chỉ huy mà có mức độ công nghiệp hóa như nhau thì dòng người lao động trong bất kỳ ngày làm việc nào cũng rất giống nhau. Nhưng một lần nữa, lại có những sự khác biệt ẩn chứa sau cơ chế hoạt động của hai nền kinh tế này và chúng có ý nghĩa quan trọng hơn nhiều so với sự giống nhau bên ngoài. II.3.1 Người lao động và người sử dụng lao động Để giữ cho người lao động làm việc cho mình, các công ty phải dành những mức lương và điều kiện lao động có thể cạnh tranh với các công ty khác. Sự cạnh tranh giữa những người lao động đi tìm việc làm tốt và các công ty đi tìm người lao động giỏi là một hoạt động không ngừng trong hầu hết các thị trường lao động. Mức lương mà các công ty trả cho người lao động chủ yếu được xác định bằng năng suất của họ và bằng sự khan hiếm hoặc dư thừa tương đối về người lao động có những kỹ năng đó. Nói chung, những người lao động có thể tạo ra hoặc làm được những thứ mà nhiều người tiêu dùng ưa thích, và nếu chỉ có một số ít những người như vậy, sẽ được hưởng mức lương cao nhất. 21
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại II.3.2Giáo dục và đào tạo Những công việc đòi hỏi phải có thêm đào tạo và giáo dục cũng thường được trả lương cao hơn, dù cho các điều kiện khác là như nhau, vì như Robert đã biết, những người lao động này sẽ phải bỏ nhiều năm làm việc để có được các kỹ năng cần thiết hầu mong kiếm được công việc có lương cao hơn – và bởi vì giáo dục tự nó đòi hỏi phải có sự thông minh và lao động chăm chỉ. Các kỹ sư và kiến trúc sư nói chung được trả lương cao trong hầu hết các nền kinh tế thị trường – phần lớn là vì những lý do này. Đào tạo, giáo dục và mức độ cố gắng đều có ảnh hưởng đến thu nhập nhưng một nhân tố rất quan trọng là nhu cầu của xã hội đối với một kỹ năng hoặc một ngành lao động đặc biệt. Những người thợ sửa ống nước hoặc thợ điện thường đòi mức phí cao hơn thợ mộc hoặc thợ cơ khí ô-tô; nhưng một người thợ mộc giỏi làm nội thất hoặc một thợ cơ khí bậc cao có thể rất được cần đến và thường đòi hỏi mức tiền công cao phản ánh đúng giá trị của những kỹ năng mà họ có. II.3.3Giá cả và tiền công Vấn đề giáo dục và đào tạo cũng cho thấy những quyết định của người lao động trong thị trường lao động lại một lần nữa chịu ảnh hưởng lớn bởi nhiều loại mức giá, và đặc biệt là mức tiền công. Các mức giá cho nhân công thì lại phụ thuộc vào nhu cầu về sản phẩm và dịch vụ do người lao động được thuê sản xuất ra. Kết quả là, tiền công trong những công việc khác nhau tăng lên và hạ xuống qua thời gian phần lớn là do những thay đổi về giá cả của những hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ đó. Ví dụ, khi ô-tô thay thế xe ngựa trong nửa đầu của thế kỷ trước, tiền công của thợ đúc móng ngựa và thợ làm yên cương sụt giảm nhiều trong khi tiền công của thợ cơ khí ô-tô lại tăng lên. Tương tự, chỉ trong vài năm qua, nhu cầu về lao động có bằng đại học đã tăng vọt tại hầu hết các nền kinh tế thị trường, phần lớn là do hầu hết các doanh nghiệp hiện phải sử dụng các công nghệ phức tạp hơn trước đây. Robert bị hấp dẫn bởi máy tính một phần vì anh thấy đó là lĩnh vực đang phát triển với cầu về lao động tương đối cao và tất nhiên là lương cao. Thương mại quốc tế cũng có thể là một nhân tố quan trọng trong việc quyết định tổng cầu. Các ngành công nghiệp và công ty có thể cạnh tranh thành công và xuất khẩu ra thị trường nước ngoài thường đem lại nhiều hơn các cơ hội công việc và nghề nghiệp cho người lao động – cũng như hàng hóa nhập khẩu từ những nước này mang lại cho họ, với tư cách là người tiêu dùng, sự lựa chọn lớn hơn về hàng hóa với mức giá cạnh tranh. Những người lao động đang chuẩn bị cho nghề nghiệp trong các lĩnh vực đang phát triển mạnh sẽ có lợi thế từ sự nhìn xa trông rộng của họ trong khi những người vẫn bám vào các thị trường đang suy giảm (thường sử dụng các kỹ năng truyền thống) có thể phải đối mặt với vấn đề thất nghiệp. Họ sẽ cần được đào tạo, dù bằng tiền của bản thân, của chính phủ hay của người sử dụng lao động. Nhưng điều đó cũng là một phần của cơ chế khuyến khích mạnh có tác dụng định hướng các nguồn lực – cụ thể là nguồn lực lao động – vào việc sản xuất các hàng hóa và dịch vụ mà người tiêu dùng cần nhất và không vào những lĩnh vực mà không còn nhu cầu. 22
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại Sự nhấn mạnh liên tục vào việc sản xuất những gì mà người tiêu dùng cần đã chứng tỏ qua thời gian là lý do căn bản nhất giải thích vì sao lao động và các nguồn lực khác lại tạo ra nhiều của cải vật chất đến vậy trong các nền kinh tế thị trường. Bài học rất rõ ràng: để thịnh vượng, hãy sản xuất những gì mọi người muốn và cần dùng. THẤT NGHIỆP VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ SANG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Vào lúc này hay lúc khác, tất cả các nền kinh tế thị trường đều phải đối mặt với vấn đề thất nghiệp, nhưng vấn đề này có thể trở nên đặc biệt gay gắt trong các xã hội đang trải qua thời kỳ quá độ khó khăn từ một nền kinh tế tập trung chịu sự kiểm soát của chính phủ sang một hệ thống thị trường tự do. Mặc dù việc chính phủ dỡ bỏ kiểm soát giá cả đã cho phép cung và cầu – hai động lực chính của tất cả các nền kinh tế thị trường – có thể thực hiện chức năng của chúng mà không bị cản trở, nhưng điều này cũng đồng thời gây ra tình trạng thất nghiệp ngắn hạn. Do không còn kiểm soát giá cả, chính cầu tiêu dùng chứ không phải sự phân phối của chính phủ sẽ tạo ra tính đa dạng của hàng hóa chào bán. Khi ngọn gió cạnh tranh bắt đầu thổi khắp nền kinh tế, chúng khiến cho các doanh nghiệp không hiệu quả phải đóng cửa hoặc cắt giảm nhân công để có thể tồn tại. Kết quả là thất nghiệp tăng lên do các công ty phải cố gắng để hạn chế chi phí của họ. Do trợ cấp của chính phủ bị cắt giảm nên nhiều doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp lớn của nhà nước vốn thuê rất nhiều nhân công sẽ không thể tồn tại trong một môi trường kinh tế mới. Tuy nhiên, bên cạnh những thiệt hại về thất nghiệp lại là các lợi ích về tự do giá cả và sự thiết lập quyền sở hữu tài sản và hình thành các doanh nghiệp làm nền tảng kinh tế của xã hội. Các doanh nhân, nhìn thấy các cơ hội kinh doanh mới, đã thuê công nhân và sản xuất các hàng hóa và dịch vụ mới. Các doanh nghiệp trong và ngoài nước sẽ tìm kiếm các cơ hội để đầu tư thu lợi. Không chỉ có số lượng cơ hội việc làm tăng lên, mà khi các doanh nghiệp mới sinh sôi, khiến tính đa dạng của chúng cũng tăng theo, làm nâng cao tính linh hoạt và các lựa chọn việc làm cho người lao động. Trong nhiều trường hợp, sự khác biệt giữa người lao động và chủ doanh nghiệp có thể không rõ ràng, do một cá nhân học hỏi được các kỹ năng từ một công ty và sau đó tách ra để thành lập công ty riêng của họ để cung cấp các sản phẩm mới, tốt hơn hoặc rẻ hơn trong cùng một lĩnh vực. Tỉ lệ thất nghiệp cũng như tỉ lệ lạm phát ngày càng giảm khi nền kinh tế thị trường linh hoạt và năng động được thiết lập. Tuy nhiên, thất nghiệp không thể biến mất, thậm chí cả trong các nền kinh tế thị trường đã phát triển thành công. Trong một nền kinh tế thị trường, một số người lao động thường xuyên thay đổi công việc hoặc chờ đợi công việc đầu tiên sau khi gia nhập thị trường lao động. Điều này được gọi là thất nghiệp tạm thời, và xét về nhiều mặt, nó chỉ đơn giản phản ánh tính tự do và linh hoạt của người lao động trong việc tìm kiếm các công việc có lương tốt nhất và đưa lại sự hài lòng nghề nghiệp cao nhất. Thực vậy, nếu người lao động không tự do lưu chuyển theo cách này – dẫn đến việc tạo ra một mức thất nghiệp nhất định – thì cả tính cạnh tranh và sản lượng đều sẽ giảm đi. Do người lao động thất nghiệp tạm thời thường không phải chịu tình trạng mất việc lâu, và do họ tự nguyện chọn lựa cách thay đổi công việc hoặc tham gia đào tạo, 23
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại nên thất nghiệp tạm thời nhìn chung không phải là một vấn đề nghiêm trọng đối với một nền kinh tế thị trường. Trên thực tế, tại hầu hết các quốc gia, một tỉ lệ lao động nhất định trong một lực lượng lao động năng động sẽ bị thất nghiệp tạm thời vào bất cứ thời điểm nào, và các nhà kinh tế học nhìn chung xếp các nền kinh tế như vậy vào loại “đầy đủ việc làm”. Thật không may là có hai loại thất nghiệp khác không dễ chịu như vậy: thất nghiệp chu kỳ và thất nghiệp cơ cấu. Thất nghiệp chu kỳ xuất hiện khi mức chi tiêu và sản lượng trong nền kinh tế giảm sút và các quốc gia bước vào một thời kỳ đình trệ hoặc khủng hoảng. Trên thực tế, mức thất nghiệp cao là một trong những thước đo chính cho thấy tính nghiêm trọng của sự suy sụp kinh tế. Ví dụ, khi cuộc Đại Khủng hoảng ở trong tình trạng tồi tệ nhất thì có 25% lực lượng lao động ở châu Âu và Hoa Kỳ bị thất nghiệp. Đây là một dạng thất nghiệp sẽ được giải quyết bằng các chính sách tài khóa và tiền tệ quốc gia được thiết kế đặc biệt. (Xem “Chính phủ trong một nền kinh tế thị trường”). Thất nghiệp cơ cấu ảnh hưởng đến những công nhân không có học vấn, không được đào tạo hay không có kinh nghiệm nghề nghiệp cần thiết để duy trì công việc trong nền kinh tế ngày nay. Ví dụ, nhiều công việc đòi hỏi kỹ năng cao hoặc khả năng học hỏi nhanh chóng các qui trình và các kỹ thuật mới từ các sổ tay kỹ thuật và các khóa đào tạo ngắn hạn. Tương tự, các cơ hội nghề nghiệp trong thời đại thông tin cũng đòi hỏi một mức độ học vấn và chuyên môn nhất định về giao tiếp, ngôn ngữ, khoa học và quản lý. Mặc dù thất nghiệp cơ cấu thường chỉ ảnh hưởng đến một tỉ lệ nhỏ công nhân trong một nền kinh tế vào một thời điểm nhất định, nhưng việc giải quyết vấn đề này có thể rất chậm và tốn kém – và đó là một lý do nữa để giải thích vì sao chương trình giáo dục quốc gia lại quan trọng đối với tăng trưởng và cơ hội kinh tế. Tổn thất do thất nghiệp gây ra cho xã hội thường được tính bằng sản lượng hàng hóa và dịch vụ không được sản xuất ra khi một số lượng người lao động không có việc làm. Đó là một thiệt hại lớn do mất mát về sản lượng, thường là mất mát vĩnh viễn và không thể bù đắp được. Tuy nhiên thiệt hại cho cá nhân do thất nghiệp thậm chí có thể nghiêm trọng hơn và gây thiệt hại cho người lao động và gia đình họ: mất thu nhập và các khoản tiết kiệm là điều chắn chắn, và trong một số trường hợp họ còn mất cả ô-tô và nhà ở, dẫn đến sự lo lắng và suy nhược về tinh thần, mâu thuẫn gia đình và đôi khi thậm chí còn phạm tội. Do vậy, chính phủ trong tất cả các nền kinh tế thị trường thực sự thường có trợ cấp thất nghiệp cho những người lao động thất nghiệp trong một thời gian, cũng như nhiều chương trình đào tạo việc làm khác. Mặc dù đó là những vấn đề nghiêm trọng không thể phủ nhận, nhưng sẽ là sai lầm nếu nghĩ rằng thất nghiệp là một vấn đề khiến hầu hết người lao động thường xuyên lo lắng trong nền kinh tế thị trường. Thực tế, kể từ những năm 1930, hàng năm phần lớn số người thất nghiệp ở các quốc gia như Hoa Kỳ là thất nghiệp tạm thời chứ không phải là thất nghiệp chu kỳ hay cơ cấu. Và hầu hết người thất nghiệp đều không phải chịu đựng tình trạng này lâu dài. Ví dụ, ở Hoa Kỳ, mặc dù có những khó khăn về kinh tế gần đây nhưng chỉ có một tỉ lệ nhỏ người tạm nghỉ việc được báo cáo là không có công việc trong thời gian hơn một năm. Trong thị trường lao động cạnh tranh, những công nhân tạm nghỉ việc 24
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại có các cơ hội việc làm khác hoặc có thể theo đuổi những khóa đào tạo bổ sung. Trên thực tế, một nghiên cứu gần đây cho thấy có 69% số công nhân Mỹ tìm được việc làm mới cho rằng học vấn hoặc các khóa dạy nghề rất hữu ích đối với họ. Nhiều công ty trong các nền kinh tế thị trường cố gắng giữ người lao động của họ thậm chí ngay cả khi sản lượng và doanh số đạt thấp, bởi vì họ không muốn mất công nhân cho các công ty cạnh tranh khác hoặc phải đào tạo những công nhân mới khi nhu cầu lại tiếp tục tăng lên. II.4Hệ thống các thị trường II.4.1Bàn tay vô hình Smith cho rằng nếu con người có tính bản thiện tự nhiên thì một nền kinh tế thị trường sẽ đưa lại cho họ rất nhiều tự do về kinh tế để có thể thực hiện các hành vi tốt đẹp của mình với sự hỗ trợ của một hệ thống sản xuất hiệu quả, cung cấp nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn cho họ để sử dụng cho các công việc tốt đó. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu con người ích kỷ, tham lam hoặc lười biếng? Bất cứ ai muốn hưởng thụ nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn trong một nền kinh tế thị trường đều phải đối mặt với các động cơ kinh tế mạnh mẽ buộc phải làm việc chăm chỉ, chi tiêu cẩn thận, tiết kiệm và đầu tư. Và hầu hết các doanh nghiệp thành công nhất đều phải sản xuất các hàng hóa chất lượng tốt, bán chúng với giá thị trường, trả lương cho nhân công theo giá thị trường và đối xử nhã nhặn với khách hàng - thậm chí ngay cả khi đó không phải là bản chất hành xử tự nhiên của họ. Lý do cơ bản khiến những người đó thay đổi cách cư xử của mình chính là sự cạnh tranh. Như Adam Smith đã chỉ ra, khi có một số cửa hàng thịt trong cùng một cộng đồng thì bất cứ cửa hàng thịt nào thô lỗ hoặc cố gắng bán thứ thịt không ngon với giá cả không hợp lý thì sẽ sớm bị thua lỗ và mất thu nhập cho các hàng thịt khác. Nếu cửa hàng thịt bên cạnh vốn thân thiện và rộng lượng thì họ sẽ có kết quả tốt hơn nhiều. Nhưng thậm chí khi khách hàng không biết gì về người chủ cửa hàng thịt thì cũng không cần phải phụ thuộc vào đặc tính vị tha đó để có được hàng hóa và sản phẩm tốt. Một chủ hàng thịt tham lam, ích kỷ hay lười biếng càng muốn hưởng mức sống cao hơn bao nhiêu thì ông ta/bà ta càng phải cố gắng để thắng trong cạnh tranh và gây dựng được một lượng khách hàng mãn nguyện. Hoặc như Smith đã mô tả đặc tính này của các nền kinh tế thị trường, con người thường như thể được dẫn dắt bởi “một bàn tay vô hình” để làm việc và cư xử theo cách mà họ có thể sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả, dưới dạng sản xuất các hàng hóa người khác muốn và sẵn sàng thanh toán, mặc dù đó “không phải là một phần ý nguyện ban đầu của họ”. Một nhân tố khác là yếu tố cần thiết để bàn tay vô hình của Smith có thể hoạt động hoàn hảo: người bán thịt phải sở hữu hoặc thuê cửa hàng để ông ta/bà ta có quyền sử dụng lợi nhuận của cửa hàng đó. Nếu không có quyền sở hữu tài sản cá nhân này cũng như đối với lợi nhuận mà tài sản đó mang lại thì bàn tay vô hình của sự cạnh tranh sẽ không thúc đẩy các doanh nghiệp cung cấp sản phẩm tốt nhất và đa dạng nhất với giá cả hợp lý. Những chủ hàng thịt là người làm thuê cho nhà nước sẽ coi công việc của họ khác với những người tự kinh doanh. Điều này đúng trong tất cả nền kinh tế, dù người đó là một người bán thịt, một thợ mộc, một hệ thống nhà hàng hay một công ty bảo hiểm đa quốc gia. 25
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại Tất nhiên, nếu không có cạnh tranh – nếu chỉ có một nơi để mua thịt trong một vài khu chợ – thì mọi thứ không còn dễ chịu đối với người tiêu dùng nữa. Và điều này cũng đúng, thậm chí khi cửa hàng thịt do nhà nước sở hữu và vận hành. Chắc chắn là việc loại bỏ cạnh tranh cũng đồng thời loại bỏ rất nhiều các động cơ thúc đẩy mạnh mẽ thị trường để cung cấp dịch vụ tốt, các sản phẩm chất lượng cao và giá cả thấp. Đó là nguyên nhân tại sao, trừ một số trường hợp đặc biệt sẽ thảo luận sau đây, hầu hết các nhà kinh tế học đều xem cạnh tranh giữa các nhà sản xuất là người bạn tốt nhất của người tiêu dùng. Nói chung, bằng cách phân tán sự kiểm soát các nguồn lực kinh tế - để cho các nhà sản xuất tư nhân có thể tự quyết định sản phẩm và cách sản xuất nhằm thỏa mãn khách hàng của họ - cạnh tranh và lợi ích bản thân sẽ đảm bảo rằng hầu hết các nguồn lực có sẵn trong một nền kinh tế thị trường sẽ được sử dụng một cách hiệu quả, có thể nói là sử dụng với giá trị lớn nhất của chúng theo sự dẫn dắt của cầu tiêu dùng. II.4.2Mắt xích kinh tế Một hệ thống chủ nghĩa cá nhân về mặt kinh tế như vậy cũng được xây dựng trên ý tưởng rằng cá nhân các nhà sản xuất và cá nhân người tiêu dùng đang có ưu thế để hiểu tốt hơn về những gì họ muốn, và điều gì đang xảy ra với giá cả thị trường của sản phẩm họ mua và bán hơn là với một ủy ban kế hoạch trung ương ở thủ đô một quốc gia. Ví dụ, hàng triệu người dân Thành phố New York và các khu đô thị khác trên khắp thế giới hàng ngày đang tiêu dùng thực phẩm mà không cần có bất cứ cơ quan kế hoạch nào thiết lập hạn ngạch cho số lượng bánh mì, thịt, rau và nước giải khát sẽ được chuyên chở đến thành phố hàng ngày, hàng tháng và hàng năm. Trên thực tế, không ai thực sự biết được tổng số lượng các sản phẩm đó được tiêu thụ ở thị trường này, hoặc thậm chí không cần phải biết đến điều đó. Thay vào đó, các tiệm ăn và các cửa hàng bánh ngọt do các chủ tư nhân điều hành, những người này tạo thành một nhóm, sẽ cung cấp thực phẩm đa dạng về chủng loại với giá cả cạnh tranh. Người tiêu dùng thường xuyên lui tới các cửa hàng mà họ thích nhất, và trả giá đủ cao để các chủ cửa hàng kinh doanh hiệu quả có thể kiếm được lợi nhuận và duy trì kinh doanh. Những người bán hàng cung cấp các mặt hàng không phổ biến, đòi giá quá cao hoặc cung cấp dịch vụ kém thì sẽ không thể tồn tại được với tư cách là chủ hay người quản lý doanh nghiệp. Một tiến trình tương tự cũng xảy ra với các tiệm bánh cạnh tranh để bán bánh mì cho các tiệm ăn và cửa hàng đó, với các công ty cạnh tranh để bán lò nướng cho các tiệm bánh, cũng như với các công ty cạnh tranh để bán thép và các vật liệu khác cho các công ty sản xuất lò nướng. Tại mỗi mắt xích trong quá trình này, có những người mua và người bán hiểu rất rõ đối tác của mình trong toàn bộ quá trình sản xuất này, nhưng họ lại biết rất ít hoặc không hiểu gì về các mối liên hệ khác trong chuỗi các sự kiện kinh tế này. Theo cách này, với một hệ thống phân tán các thị trường tư nhân, các nguồn lực được phân bổ hiệu quả nhằm thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Bởi vì đây là một quá trình phân tán nên nhiều nhà sản xuất và người tiêu dùng có thể không hiểu cách thức vận hành của nó, hay thậm chí không biết rằng các thị trường riêng biệt thường tương tác với nhau một cách hiệu quả và có hệ thống. Nhưng có thể thấy ngay 26
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại chính sự phân tán này là nguyên nhân tạo ra phần lớn tính hiệu quả cho nền kinh tế thị trường. II.5 Tài chính trong kinh tế thị trường Trong các Tài thị trường hàng hóa, dịch vụ và lao động, giá cả được thể hiện dưới hình thái tiền tệ nào đó, hay gọi là đồng tiền. Nhưng chính tiền tệ cũng được mua bán trong các nền kinh tế thị trường, bởi vì một số người muốn dành tiền để sử dụng trong tương lai, trong khi một số người khác – bao gồm cả các nhà doanh nghiệp – muốn vay tiền để sử dụng ngay. Cái giá để được quyền sử dụng số tiền đó – gọi là lãi suất – được xác định trong các thị trường trao đổi tài chính. Nhìn rộng ra, các ngân hàng và các công ty khác trong lĩnh vực tài chính của nền kinh tế thị trường là những nhân tố quan trọng nhất nối kết những người có các nguồn lực cần tiết kiệm với những người có cách sử dụng có lợi nhất các nguồn quỹ đó, và do đó sẵn sàng trả lãi để được sử dụng khoản tiền đó. Trong các thị trường này, các quyết định về cách thức và địa điểm đầu tư tài chính là không tập trung, cũng giống như các quyết định về sản xuất và tiêu dùng là phân tán trong thị trường hàng hóa và dịch vụ. Vay mượn và đầu tư Một quá trình tương tự như vậy cũng xảy ra khi các doanh nghiệp tìm kiếm nguồn vốn đầu tư cho các nhà máy, cửa hàng và trang thiết bị mới. Và cũng như các ngành khác trong một nền kinh tế thị trường, cạnh tranh giữa các ngân hàng cũng giúp đảm bảo rằng lãi suất sẽ thấp hết mức có thể mà vẫn mang lại cho ngân hàng một mức thu nhập thỏa đáng để họ có thể hoạt động tốt và hiệu quả. Hơn nữa, do dự trữ tiền cho các khoản vay là có hạn nên những người đi vay – các cá nhân hoặc công ty – sẽ cạnh tranh với nhau để được ngân hàng chấp thuận. Sự cạnh tranh này sẽ giúp đảm bảo các khoản vay ngân hàng sẽ được phân bổ cho các khoản đầu tư có doanh thu tiềm năng cao nhất theo một phương thức hiệu quả hơn nhiều so với trường hợp chính phủ tự mình quyết định cho vay. Các doanh nghiệp tìm cách vay các khoản đầu tư này để trang bị các cơ sở vật chất hoặc trang thiết bị mới để tăng sản lượng và doanh số. Các công ty trông đợi sẽ thu được lợi nhuận từ các khoản đầu tư mới này trong nhiều năm, vì vậy họ sẵn sàng trả tiền lãi cho nguồn quỹ mà họ sử dụng để mua các thiết bị đó và bắt đầu sản xuất ngay lập tức. Tất nhiên nếu lãi suất họ phải trả cao hơn tỉ suất lợi nhuận họ có thể thu được thì doanh nghiệp sẽ không vay vốn nữa. Và thực tế, nếu một công ty không có những dự định đầu tư có lợi nhuận cao hơn mức lãi suất tiền vay hiện tại thì họ sẽ tiết kiệm tiền còn hơn là cố gắng vay mượn thêm. Hoặc, một điều chắc chắn hơn là doanh nghiệp sẽ cố gắng chuyển các nguồn lực của mình sang một lĩnh vực kinh doanh khác có tỉ suất lợi nhuận dự tính cao hơn mức lãi suất tiền vay. Điều đó đơn giản chỉ là một cách lựa chọn khác, theo đó các nguồn lực đã được chuyển sang cho các công ty xác định được cách thức sử dụng nguồn lực có lợi nhất, và như chúng ta đã thấy ở trên, nó dựa vào việc cung cấp những sản phẩm mà người tiêu dùng có nhu cầu nhất, với giá cả bằng hoặc thấp hơn giá cả của các sản phẩm tương tự đang được các công ty cạnh tranh chào bán. 27
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại Ở đây, thương mại quốc tế cũng có vai trò quan trọng. Các quốc gia có thể trao đổi hàng hóa thì họ cũng có thể trao đổi các dịch vụ tài chính và các nguồn quỹ đầu tư. Đầu tư nước ngoài có thể làm tăng nguồn quỹ hoặc vốn cho các doanh nghiệp đang tìm kiếm nguồn vay vốn để đầu tư. Bằng cách cạnh tranh với các ngân hàng và các tổ chức tài chính trong nước, đầu tư nước ngoài cũng có thể góp phần đảm bảo mức lãi suất - chi phí sử dụng tiền - thấp hơn. Đầu tư nước ngoài, nếu bị coi là quá mở rộng, có thể khiến người ta lo lắng rằng một phần của nền kinh tế không còn thuộc quyền kiểm soát của quốc gia nữa. Những mối lo này thường là không có cơ sở, phần lớn vì một nền kinh tế thị trường năng động sẽ đưa lại các cơ hội công bằng cho tất cả các khoản đầu tư và các hoat động kinh doanh quốc tế cũng như trong nước. Đầu tư trực tiếp nước ngoài, cũng giống như các loại hình đầu tư khác, là một lá phiếu tín nhiệm cho tăng trưởng kinh tế. Bằng cách đưa vào các nguồn quỹ mới, đầu tư nước ngoài luôn luôn cải thiện tính hiệu quả, bổ sung các chuyên gia quản lý và giúp cho mức lãi suất hạ thấp hơn. Giống như ngành ngân hàng, các thị trường chứng khoán này dần đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc gia và trong thương mại quốc tế. Họ giúp những cổ đông và những người khác thực hiện các quyết định đầu tư, đánh giá tính hiệu quả của các doanh nghiệp đang hoạt động và phân tích tình hình kinh doanh nói chung. Điều này được thực hiện thông qua giá cả của hàng ngàn cổ phiếu công ty đang được trao đổi hàng ngày trên các sàn giao dịch này, đang tăng lên hoặc giảm xuống tùy theo tình hình kinh doanh thay đổi không ngừng của các công ty tư nhân, các đối thủ cạnh tranh và toàn bộ nền kinh tế. Quá trình đầu tư đưa lại cho những người tiết kiệm tiền và các nhà đầu tư sự tự do và cơ hội quyết định về những rủi ro và công việc kinh doanh mới. Họ sẽ tiếp tục thu lợi lớn nếu họ tiết kiệm và đầu tư khôn ngoan, nhưng họ cũng có thể mất rất nhiều nếu họ đầu tư không hợp lý. Đó là lý do vì sao hầu hết các nhà đầu tư đều không chọn cách đầu tư tất cả tiền của vào một dự án hay một công ty, thay vào đó họ vẫn giữ một phần tài sản của mình trong các công ty hoặc tài khoản rất an toàn, “đáng tin cậy và trung thực”. Chỉ những người chọn cách đặt một canh bạc lớn và đầu tư toàn bộ tài sản của họ vào một số ít công việc kinh doanh rủi ro cao có khả năng sẽ mất cả cơ nghiệp – hoặc ngược lại, sẽ được cả một cơ nghiệp từ thị trường tài chính. Trong thế kỷ vừa qua người ta đã thực hiện một sự so sánh giữa các khoản đầu tư tư nhân với các khoản đầu tư của chính phủ vào việc phát triển các sản phẩm và công nghệ mới, đặc biệt là ở các nước có nền kinh tế kế hoạch tập trung. Mặc dù có nhiều thời kỳ thua lỗ nhưng những khoản đầu tư tư nhân rõ ràng đã có kết quả vượt trội. Vì sao? Một lần nữa nguyên nhân chính là bản chất của nền kinh tế thị trường: một quá trình phân tán trong đó nhiều người thực hiện các quyết định vay mượn và đầu tư phản ứng với các điều kiện kinh tế thay đổi chứ không phải là một nhóm nhỏ trong một chính phủ tập trung. Hơn nữa, các quyết định này là do các cá nhân thực hiện - những người mà tài sản của chính họ phải hứng chịu rủi ro chắc chắn sẽ là động lực mạnh mẽ khiến họ thực hiện các lựa chọn một cách cẩn thận và khôn ngoan. II.6 Chính phủ trong nền kinh tế thị trường Nếu các thị trường và hệ thống thị trường là hiệu quả, tại sao lại để cho chính phủ nhúng tay vào hoạt động của họ? Tại sao họ không áp dụng một chính sách gọi là laissez-faire (chính sách để mặc tư nhân tự kinh doanh- thị trường tự do) và cho phép các thị trường tư nhân hoạt động không chịu bất cứ sự can thiệp nào của nhà nước? 28
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại Có một vài lý do mà các nhà kinh tế và các nhà quan sát xã hội khác đã xác định có thể được minh họa với một vài ví dụ dưới đây. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, vai trò của chính phủ không phải là thay thế thị trường, mà là cải thiện các chức năng của nền kinh tế thị trường. Hơn nữa, bất cứ quyết định nào nhằm quy định hoặc can thiệp vào hoạt động của các lực lượng thị trường (cung và cầu) đều phải được cân nhắc cẩn thận giữa cái hại do các quy định đó đưa ra với lợi ích mà các can thiệp đó đem lại. II.6.1Quốc phòng và hàng hóa công cộng Quốc phòng là một ví dụ về vai trò không thể loại bỏ được của chính phủ. Tại sao? Bởi vì việc phòng thủ cho một quốc gia là một dạng hàng hóa hoàn toàn khác biệt so với cam, máy vi tính hay nhà ở: con người không thể thanh toán cho từng đơn vị hàng hóa mà họ sử dụng mà phải mua một tổng thể cho toàn bộ quốc gia. Cung cấp dịch vụ quốc phòng cho một cá nhân không có nghĩa là những người khác ít được bảo vệ hơn, bởi vì trên thực tế tất cả mọi người đều tiêu thụ các dịch vụ quốc phòng này cùng nhau. Trên thực tế thì dịch vụ quốc phòng được cung cấp cho tất cả dân chúng trong một quốc gia kể cả những người không muốn dịch vụ này, bởi vì không có một cách làm hiệu quả nào khác. Chỉ có các quốc gia chứ không phải là các làng xã hay các cá nhân có thể có đủ nguồn lực để sản xuất máy bay chiến đấu phản lực. Loại hình hàng hóa này gọi là hàng hóa công cộng, bởi vì không một doanh nghiệp tư nhân nào có thể bán dịch vụ quốc phòng cho các công dân của một quốc gia mà vẫn duy trì được hoạt động kinh doanh. Nó chỉ đơn giản là không thể bán dịch vụ quốc phòng cho những người cần và không bảo vệ những người từ chối thanh toán dịch vụ đó. Và nếu những người này vẫn được bảo vệ mà không phải trả tiền thì tại sao họ phải chọn cách thanh toán? Điều này được coi là vấn đề “kẻ ăn không”, và đó là lý do chính giải thích vì sao chính phủ phải điều hành quốc phòng và dùng thuế để chi cho quốc phòng. Không có nhiều hàng hóa công cộng thực sự - những hàng hóa nhiều người có thể cùng sử dụng và là đối tượng của vấn đề kẻ ăn không - do đó hầu hết các hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế thị trường đều có thể được các công ty tư nhân sản xuất và bán trong các thị trường tư nhân. Các ví dụ khác về hàng hóa công cộng có thể kể đến là chương trình kiểm soát lũ lụt và sâu bọ, và thậm chí cả băng tần sóng phát thanh và truyền hình được phát sóng rộng rãi trong không trung. Mỗi hàng hóa này đều có thể được nhiều người tiêu dùng sử dụng cùng lúc, và cũng là đối tượng để những kẻ ăn không hưởng thụ, ít nhất ở một mức độ nào đó. Tuy nhiên, với sóng phát thanh và truyền hình, các chương trình có thể được các cá nhân sản xuất và thu lợi bằng cách bán thời gian phát sóng cho quảng cáo. Hoặc trong một vài trường hợp khác, các tín hiệu phát sóng hiện đã được đổi tần số điện tử để các công ty tư nhân có thể kiếm tiền bằng cách cho thuê các thiết bị giải mã cho những người muốn xem các chương trình này. II.6.2 Ô nhiễm và chi phí ngoại sinh Hãy lấy một ví dụ về một công ty sản xuất các sản phẩm giấy – từ giấy viết đến thùng các-tông – tại một nhà máy bên cạnh một con sông. Vấn đề là nhà máy đã đổ xuống sông các hóa chất ô nhiễm là sản phẩm phụ từ quá trình sản xuất. Nhưng không có một cá nhân hay một pháp nhân nào sở hữu nước sông nên không có ai buộc 29
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại nhà máy phải ngừng gây ô nhiễm. Hơn nữa, do việc làm sạch dòng sông sẽ tốn tiền, nên công ty có thể bán các sản phẩm giấy rẻ hơn trường hợp họ phải chịu các chi phí kiểm soát ô nhiễm như vậy. Kết quả là, công ty giấy có thể tăng sản lượng do cầu tương đối cao hơn tại mức giá thấp hơn, và nhà máy càng có nhiều chất thải và ô nhiễm hơn. Bằng cách gây ô nhiễm mà không chịu một hình phạt nào, công ty cũng có thể có lợi thế không công bằng so với các đối thủ cạnh tranh, những người mà sản phẩm giấy của họ bao gồm cả chi phí lắp đặt các thiết bị kiểm soát ô nhiễm. Đây là một ví dụ cổ điển về cái gọi là chi phí ngoại sinh không được phản ánh trong giá cả thông qua hoạt động bình thường của thị trường. Cả công ty giấy lẫn các khách hàng của họ đều không chịu chi phí thực sự của việc sản xuất giấy; thay vào đó một phần chi phí – yếu tố ô nhiễm – được chuyển sang những người sống hoặc làm việc dọc dòng sông, và những người trả thuế là những người thực tế phải thanh toán các hóa đơn vệ sinh. Giống như những yếu tố ngoại sinh khác, ô nhiễm cũng thường xuất hiện ở những nơi mà quyền sở hữu một nguồn lực – trong trường hợp này là dòng sông – không do một cá nhân hoặc một tổ chức tư nhân nắm giữ. Ví dụ, đất công và lề đường thường bị xả rác nhiều hơn là bãi cỏ trước cửa nhà riêng, bởi vì không ai sở hữu những khoảng đất công này và chịu trách nhiệm giữ vệ sinh cho chúng, hay buộc tội những người chiếm đoạt chúng. Trên thực tế, hầu hết ô nhiễm đều bị thải vào không khí, đại dương và các dòng sông bởi vì không có cá nhân nào sở hữu các nguồn lực đó có đủ động cơ cá nhân để bắt những người gây ô nhiễm chịu trách nhiệm về những thiệt hại họ gây ra. Mặc dù có một số người bỏ thời gian và chịu rắc rối để khởi kiện những người gây ô nhiễm, thì hầu hết những người khác có rất ít động lực kinh tế để làm điều đó. Vai trò của chính phủ trong vấn đề này là cố gắng hiệu chỉnh sự mất cân bằng đó. Bằng cách can thiệp, chính phủ buộc những người sản xuất và tiêu dùng sản phẩm đó phải thanh toán cho những chi phí vệ sinh này. Thực chất, vai trò kinh tế này của chính phủ chỉ đơn giản là khiến những người hưởng lợi từ việc bán và tiêu dùng sản phẩm phải trả cho tất cả các chi phí sản xuất và tiêu dùng chúng. Thật không may là hiếm khi chính phủ có thể dễ dàng xác định số tiền cần phạt là bao nhiêu trong những trường hợp này. Một lý do là rất khó và rất tốn kém để có thể xác định chính xác nguồn ô nhiễm hay xác định chính xác trị giá những thiệt hại mà ô nhiễm gây ra cho xã hội. Do những khó khăn này nên chính phủ phải chắc chắn rằng họ không lấy mức chi phí để giảm ô nhiễm cao hơn thiệt hại mà ô nhiễm gây ra cho xã hội. Để làm được như vậy rõ ràng là không hiệu quả và lãng phí các nguồn lực giá trị. Một khi chính phủ đã xác định được một mức ô nhiễm có thể chấp nhận được, hoặc ít nhất là có thể chịu đựng được, họ có thể sử dụng luật pháp, các quy định, tiền phạt, kết án tù, thậm chí cả những khoản thuế đặc biệt để làm giảm ô nhiễm. Hoặc thậm chí về cơ bản, họ có thể cố gắng thiết lập quyền sở hữu rõ ràng hơn đối với các nguồn lực đang bị ô nhiễm, điều này sẽ dẫn đến tính giá cho việc sử dụng các nguồn lực với mức giá dựa trên thị trường, và buộc những người gây ô nhiễm chi trả các chi phí đó. Giữa những lựa chọn này, điểm mấu chốt là hiểu được vai trò cơ bản của chính phủ - khắc phục tình trạng sản xuất quá mức và tiêu dùng quá mức các hàng hóa và dịch vụ làm nảy sinh các chi phí ngoại sinh. 30
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại II.6.3 Khuôn khổ pháp lý và xã hội Các nền kinh tế thị trường không phải giấy phép cho sự bóc lột hay trộm cắp, mặc dù có những ví dụ rõ ràng về sự lạm dụng. Trên thực tế, có rất ít các trao đổi trên thị trường được thực hiện trong xã hội nơi không thừa nhận và bảo vệ rõ ràng quyền hợp pháp của người tiêu dùng và người sản xuất được sở hữu và kinh doanh các nguồn lực kinh tế. Điều này giải thích vì sao chính phủ trong các nền kinh tế thị trường lưu hồ sơ về các cuộc trao đổi đất đai và nhà cửa và buộc thực hiện các hợp đồng giữa người mua và người bán của tất cả các loại hàng hóa. Người mua muốn biết rõ ràng hàng hóa họ mua thực sự thuộc sở hữu của người bán, và cả người mua lẫn người bán đều muốn biết rõ rằng khi họ đồng ý trao đổi một số sản phẩm thì chắc chắn hợp đồng sẽ được thực hiện. Điều này cũng đúng đối với công nhân, dù người đó là công nhân độc lập hay trong một công đoàn, đồng ý với mức lương và điều kiện làm việc với chủ lao động. Nếu các đảm bảo này không được thực hiện thường xuyên và hiệu quả, và nếu không có một hệ thống xét xử tội phạm công bằng và hợp lý thì việc hoàn thành các giao dịch thị trường trở nên tốn kém và khó khăn hơn. Chính phủ trong các nền kinh tế thị trường phải thiết lập và bảo vệ quyền sở hữu cá nhân và các khoản thu kinh tế từ việc sử dụng các tài sản đó. Nếu không có các đảm bảo như vậy, sẽ không có ai mạo hiểm thời gian và tiền bạc của mình vào các doanh nghiệp mà thành quả của nó có thể bị nhà nước hoặc một số nhóm khác chiếm hữu KIỂM SOÁT Ô NHIỄM DỰA TRÊN THỊ TRƯỜNG Vấn đề kiểm soát ô nhiễm là một ví dụ nổi bật về cách chính phủ trong một nền kinh tế thị trường có thể khai thác cơ chế cung-cầu để giải quyết một vấn đề quan trọng mà toàn bộ xã hội phải đương đầu. Khi đối mặt với vấn đề ô nhiễm không khí, nước hoặc đất đai, chính phủ có một số lựa chọn để cân nhắc nhằm cân bằng giữa nhu cầu có một môi trường sạch hơn với các chi phí kinh tế của việc làm sạch môi trường. Trường hợp đầu tiên, giả sử người ta phát hiện ra một chất ô nhiễm nhất định rất độc hại và không thể khử độc được bằng cách áp dụng các quá trình sản xuất hoặc bảo vệ mới. Trong điều kiện này, chính phủ có thể hành động đúng đắn khi ban hành các quy định trực tiếp đòi hỏi phải loại bỏ hoàn toàn hoặc giảm mạnh lượng chất thải sao cho nó không còn là mối đe dọa đối với sức khỏe con người hoặc môi trường nữa. Tuy nhiên, một chương trình như vậy đòi hỏi chi phí xã hội rất cao. Đối với các chất ít nguy hiểm hơn, mặc dù mức độ ô nhiễm sẽ được cắt giảm nhưng việc triệt bỏ hoàn toàn có thể khiến phát sinh mức chi phí cao không hợp lý dưới dạng mất mát sản xuất, tiêu dùng và việc làm. Trong hoàn cảnh này, cách làm hiệu quả hơn là đánh thuế đối với việc gây ô nhiễm thay vì đòi hỏi giảm ô nhiễm cụ thể ở tất cả các địa điểm sản xuất. Lý do đơn giản là chi phí làm sạch môi trường sẽ biến đổi rất lớn tùy theo các địa điểm sản xuất khác nhau và các công ty khác nhau. Bằng cách đánh thuế 31
- Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại những người gây ô nhiễm, chính phủ sẽ khiến các hãng có khả năng giảm thải ô nhiễm với chi phí tương đối thấp sẽ thực hiện điều đó và do vậy họ sẽ không phải trả thuế ô nhiễm. Những hãng nào thấy việc giảm bớt ô nhiễm sẽ quá tốn kém (thường là những hãng có nhà máy và trang thiết bị cũ kỹ) sẽ thấy hợp lý hơn khi chọn cách tiếp tục gây ô nhiễm và trả thuế cho những gì họ thải ra. Chính phủ cũng có thể có ảnh hưởng đến các thay đổi này bằng cách khuyến khích người tiêu dùng sử dụng những sản phẩm không gây ô nhiễm. Hỗ trợ thuế cho những người mua các phương tiện kết hợp sử dụng gas và điện và các hệ thống lò sưởi nhà riêng sử dụng năng lượng mặt trời chỉ là hai ví dụ ở Hoa Kỳ. Có một số sáng kiến khác đang được triển khai ở Mỹ nhằm khuyến khích các doanh nghiệp và các nhà máy giảm phế thải một cách tự nguyện. Có lẽ cách thức tiếp cận sáng tạo nhất đối với thách thức giảm ô nhiễm lại hoàn toàn không liên quan đến chính phủ mà nằm trong chính thị trường. Những chương trình được gọi là “cap and trade” (mua bán hạn ngạch ô nhiễm) đã được chứng minh là rất thành công ở Mỹ, tạo ra mức giảm rất đáng kể các chất ô nhiễm như điôxit sunphua (SO2, một thành phần tạo nên mưa axít). Theo hệ thống này, Chính phủ chỉ phải xác định tổng mức ô nhiễm cho phép ở từng khu vực, sau đó bán đủ giấy phép chỉ trong mức phế thải cho phép. Bất cứ kế hoạch thuế nào cũng trở nên không cần thiết. Những giấy phép này có thể được trao đổi với giá cả tự do lên xuống phản ánh các điều kiện kinh tế và môi trường khác nhau. Cơ quan Bảo vệ Môi trường, hoạt động theo hướng dẫn quy định của Chương trình Mưa Axít, đã đặt giới hạn cho việc giảm phóng thải chất SO2. Đối với những công ty có thể giảm phế thải đến mức giới hạn và thấp hơn thì sẽ được “thưởng hạn ngạch ô nhiễm”. Các công ty này sau đó có thể bán hạn ngạch thưởng này cho các công ty khác không có đủ khả năng thực hiện mức giảm như vậy. Kết quả là việc phóng thải chất SO2 ở Mỹ đã giảm hơn 6,5 triệu tấn kể từ năm 1980 mặc dù vẫn còn khoảng hai triệu đô-la Mỹ dưới dạng thưởng hạn ngạch SO2 trên thị trường. Một lợi ích tương đương là chi phí cho các ngành công nghiệp thực hiện chương trình này đã giảm thấp hơn mức dự tính ban đầu của Chính phủ. Tuy nhiên hệ thống hạn ngạch này vẫn phải phụ thuộc vào sự can thiệp của Chính phủ. Hiện tại thế hệ tiếp theo của các giải pháp dựa trên thị trường đã bắt đầu - một hệ thống “cap and trade” tự nguyện nhằm giải quyết vấn đề của sáu “khí gas nhà kính” như điôxit cacbon (CO2). Thị trường này đặt trụ sở tại Chicago và do 14 công ty đầu ngành của Mỹ thành lập như Ford Motor và Motorola. Những công ty này thỏa thuận sẽ tự nguyện giảm phế thải và bắt đầu quá trình trao đổi thưởng hạn ngạch. Nói về động cơ của Chương trình Trao đổi Khí hậu Chicago, Tổng Giám đốc Điều hành Richard Sandor cho rằng - “người ta ngày càng mong muốn thị trường cho phép họ được giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường tất cả chúng tôi đều tin rằng sử dụng hiệu quả năng lượng là rất tốt cho kinh doanh”. PHÂN PHỐI THU NHẬP VÀ HUY ĐỘNG VỐN Tại tất cả các quốc gia công nghiệp có nền kinh tế thị trường như Hoa Kỳ, nguyên 32