Tài liệu Phong cách nghệ thuật Tô Hoài - Mai Thị Nhung (Phần 2)

pdf 54 trang hapham 90
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Phong cách nghệ thuật Tô Hoài - Mai Thị Nhung (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftai_lieu_phong_cach_nghe_thuat_to_hoai_mai_thi_nhung_phan_2.pdf

Nội dung text: Tài liệu Phong cách nghệ thuật Tô Hoài - Mai Thị Nhung (Phần 2)

  1. Chương 3 GIỌNG ĐIỆU DÍ DỎM, SUỒNG SÃ, TRỮ TÌNH VÀ NGÔN NGỮ DUNG DỊ, TỰ NHIÊN, ĐẬM TÍNH KHẨU NGỮ I. GIỌNG ĐIỆU NGHỆ THUẬT DÍ DỎM, SUỒNG SÃ, TRỮ TÌNH Mỗi nhà văn có phong cách đều có một giọng điệu chủ đạo - giọng điệu "trời phải làm nên bản sắc riêng. Nếu giọng điệu nghệ thuật của Nguyễn Công Hoan là giọng châm biếm, hài hước nhằm phê phán sự lố bịch, giả dối của xã hội thực dân phong kiến; giọng điệu nghệ thuật của Nam Cao là giọng đắng cay, chua chát trước những bi kịch của con người; giọng điệu nghệ thuật của Nguyên Hồng là giọng cảm thương thống thiết trước sự thống khổ của kiếp người ; thì ở Tô Hoài, giọng điệu nghệ thuật chủ đạo làm nên bản sắc riêng của nhà văn là giọng dí dỏm hài hước; giọng suồng sã tự nhiên và giọng trữ tình bàng bạc chất thơ bộc lộ thái độ, tình cảm của tác giả trước mọi biểu hiện tự nhiên của cuộc sống. 1. Giọng điệu dí dỏm hài hước Người đầu tiên nhận diện sắc thái giọng điệu "trời phú” này của Tô Hoài là nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan. Theo ông, ngay từ những tác phẩm đầu tay, nhà văn này đã bộc lộ chất giọng riêng độc đáo: "Tập O chuột là tập truyện ngắn đầu tiên của Tô Hoài và cũng là một tác phẩm tiêu biểu cho lối văn đặc biệt của ông, một lối văn dí dỏm, tinh quái, đầy những phong vị và màu sắc của thôn quê, [40,529]. Nhất trí với phát hiện tinh tế ấy, chúng tôi nhận thấy, giọng điệu dí dỏm hài hước của Tô Hoài được thể hiện ở ba sắc thái chủ yếu: sắc thái dí dỏm hài hước, sắc thái dí dỏm xót xa và sắc thái dí dỏm phê phán. Đó chính là thái độ, tình cảm của nhà văn trước muôn mặt của cuộc sống đời thường. Thể hiện ba sắc thái giọng điệu này, Tô Hoài quả là một nhà văn đầy trách nhiệm và tâm huyết với cuộc sống và con người. a. Sắc thái giọng điệu dí dỏm hài hước Khác với tiếng cười trào phúng mang ý nghĩa phê phán những cái xấu xa, giả dối của xã hội phong kiến thực dân như Nguyễn Công Hoan, tiếng cười của Tô Hoài ở sắc thái giọng điệu này nhẹ nhàng, hóm hỉnh không nhằm bộc lộ thái độ mỉa mai hay phê phán. Tiếng cười ở đây toát lên từ những chuyện bất bình thường trong cuộc sống bình thường. Do vậy tiếng cười ở sắc thái giọng điệu này ít nhằm gửi gắm những tầng bậc ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Con mắt tinh nhạy và tấm lòng gắn bó thiết tha với cuộc sống đời thường, khiến ngòi bút của ông chuyển tải mọi chuyện vui - buồn, hay - dở trong cuộc sống sinh hoạt để cảm nhận "vẻ đẹp" tự nhiên đáng yêu của nó. Trong gia tài đồ sộ của Tô Hoài, từ chuyện bà lão Móm giận con đi tự tử (Chớp bể mưa nguồn); chuyện ông Thái 70 tuổi bâng khuâng xúc động trước khi gặp lại người 71
  2. xưa (Hoa bìm biển); chuyện ế chồng của cô Đối (Ra Kẻ Chợ) ; đến chuyện sợ vợ, ở bẩn của ông lý Chi (Quê người); chuyện phòng bệnh "tháo dạ" của Nguyên Hồng, chuyện "tình trai" của Xuân Diệu, chuyện "mê gái" của Nguyễn Bính (Cát bụi chân ai) đều có sắc thái của giọng điệu này trên nhiều trang văn. Tiếng cười nhẹ nhàng được tạo bởi từ một mâu thuẫn khôi hài, một tâm trạng khác thường, một đức tính, thói tật riêng của nhân vật. Tất cả đều được thể hiện cụ thể qua hệ thống từ ngữ, cú pháp, nhịp điệu, ngữ điệu tài tình của câu văn Hãy lắng nghe nhà văn kể chuyện bà lão Móm (Chớp bể mưa nguồn) đi tự tử ở cái ao đầu làng: "Chẳng biết có một điều gì bực dọc, bà Móm giận con trai và nàng dâu. Không giận vừa vừa, mà lại giận quá. Thế là cơn tức bừng bừng lên. Bà xắn hai mép váy, xăm xăm chạy ra ngoài ao giếng. Bà la vang cho bốn bên hàng xóm và cho vợ chồng thằng cả Mí biết rằng bà đương đi đâm đầu xuống ao đây. Không có ai ra can bà. Vậy bà nhảy phóc xuống ao thực. Đánh ùm một cái. Rồi bà bíu hai tay vào cái cọc cầu ao. Bà rúc đầu vào giữa bụi cây cúc tần mọc loà xoà xuống vệ nước. Mồm bà ngoác ra. Không phải vì sặc nước. Không phải để hắt hơi. Bà ngoác mồm ra kêu thực to. Kêu như có nhà ai cháy ở trong xóm ( ). Ai cũng tưởng bà lão chỉ kêu được vài câu thì chối cổ, phải lóp ngóp bò lên. Chẳng ngờ, họng bà lão khoẻ quá Bà lão vẫn kêu rầm rầm. Mãi sau, có người sốt ruột, xuống kẻo bà lão lên, đưa hộ về nhà. Bà lão liền lên ngay. Ở dưới nước một lúc đã thấy chán ?". Tiếng cười được toát lên trước hết từ bản thân hình tượng nhân vật được miêu tả. Hành động đi tự tử của bà lão Móm chứa đầy mâu thuẫn. Mâu thuẫn giữa mục đích và hành động của chủ thể. Từ hành động chạy ra ao và la làng - cất để cho "bốn bên hàng xóm và vợ chồng thằng cả Mí biết bà đương đi đâm đầu xuống ao đây"; hành động nhảy xuống ao - vì "không có ai ra can bà, vậy bà nhảy phốc xuống ao thực, đánh ùm một cái"; đến hành động lên bờ ngay của bà - vì có người xuống kéo bà lên bà liền lên ngay", đều được diễn tả rất sinh động. Thể hiện mâu thuẫn ấy, tác giả kết hợp ngữ điệu diễu nhại khôi hài của câu văn, với hệ thống động từ mạnh đặc thù: "xắn" (hai mép váy), "xăm xăm chạy", "la vang", "nhảy phốc" (xuống ao), rồi "bĩu' (hai tay vào cọc), "rúc đầu" (vào giữa bụi cúc tần), cuối cùng khi có người "xuống kéo", bà "lên ngay", tất cả nhằm diễn tả những hành động hết sức hài hước của chủ thể. Trong muôn chuyện đời thường, cái nhìn tinh quái khiến Tô Hoài không bao giờ vơi cạn mạch nguồn sáng tác. Đây là chuyện tình khôi hài của ông Thái (Hoa bìm biển) khi gặp lại "người xưa": Từ khi nhận được tin, ông "tự thấy khác. Ông thấy ông vẫn sống, mà sống có lửa, ngọn lửa tình đương bừng bừng lên đây", làm ông trăn trở băn khoăn và nghĩ rằng: có lẽ nên đi làm mấy cái răng giả. Bởi răng hàm không còn cái nào. Thế rồi ông lại ái ngại. Ông đặt ra những "tình huống" đặc biệt - đi gặp lại "người xưa", "thế nào ông chẳng phải hôn bà", rồi khi hôn nhỡ "cái răng giả rời ra, rơi vào họng ai thì sao? Lúc ấy chẳng nhẽ phải bảo hãy khoan để tháo răng ra đã?". Rõ ràng là chỉ có giọng điệu ấy, Tô Hoài mới hoàn toàn chủ động đưa vào trang sách những chuyện khôi hài như thế. 72
  3. Còn chuyện ở bẩn và sợ vợ của ông lý Chi (Quê người) lại đặc biệt như thế này: "Thường vợ lão vẫn túm râu lão, nhất vào buồng cầm phết trần đánh chơi luôn luôn, nên khi nghe ông lý Chi ở trong buồng tối, kêu ấm ứ và khóc hu hu chẳng ai ngạc nhiên mấy. Ông khóc rồi ông lại nói, ông có làm sao và có hề gì ai đâu. Còn cái đức ở bẩn của lão thì có lẽ do tính giời phú cho. Lão thường kể rằng từ vua Khai Định ra Hà Nội chơi đến giờ lão chỉ mới tắm có vài bận Hơn mười năm nay lão chừa hẳn tắm Đôi khi ngồi nói chuyện với người ta, buồn tay lão gãi gãi vào người, thường xoe được những viên đất to bằng hạt ngô nếp. Lão có móng tay, gẩy tách đi một cái”. Vấn đề không phải từ những chi tiết rất "đời thường" ấy để nhà văn hạ thấp hay diễu cợt đối tượng, mà là bản thân cuộc sống muôn màu muôn vẻ được nhà văn cảm nhận trong sự tồn tại khách quan, tự nhiên để làm nên sự trọn vẹn của nó. Từ chuyện người đến chuyện mình, chuyện của bản thân và chuyện của bạn bè đồng nghiệp, Tô Hoài đều thể hiện qua giọng điệu dí dỏm "trời phú” này. Làm sao viết về các nhà văn lớn của dân tộc lại có thể viết bằng cái giọng dí dỏm hài hước, nếu nói về sự nghiệp văn chương của họ. Dưới cảm hứng nhân văn đời thường, Tô Hoài đến với cuộc sống sinh hoạt, với những cá tính và thói tật riêng của mỗi người để khắc hoạ những con người bằng xương, bằng thịt, gần gũi và thân thiết với chúng ta. Nào là chuyện "tình trai" của Xuân Diệu, chuyện "mê gái" của Nguyễn Bính, chuyện "tháo dạ" của Nguyên Hồng, và những nhếch nhác đời thường của chính nhà văn trong những năm tuổi thơ, những năm dò dẫm tìm việc làm giọng điệu dí dỏm hài hước là phương tiện hữu hiệu mang lại hiệu quả nhất. b. Sắc thái giọng điệu dí dỏm xót xa Trước những mặt trái của cuộc sống đời thường, Tô Hoài không đao to búa lớn. Nhà văn nhẹ nhàng với giọng điệu "trời" phú để tỏ rõ một thái độ, bộc lộ một nỗi lòng. Cái nhìn tinh quái mà đượm chất nhân văn khiến Tô Hoài không thể làm ngơ trước những thói quen xấu hay những biểu hiện trái với đạo đức văn hoá truyền thống của dân tộc. Từ tục tảo hôn, tục đòi nợ vào ngày ba mươi Tết, tục cho vay nặng lãi, tục mê tín dị đoan chữa bệnh cho người ốm bằng cách cúng bái, tục bêu tếu nói xấu nhau đến những cảnh con cái tệ bạc với cha mẹ, vợ chồng tệ bạc với nhau, cháu chắt tệ bạc với ông bà khiến nhà văn trăn trở suy nghĩ xót xa. Mọi hủ tục lạc hậu ấu trĩ đều đi đến những kết cục đau xót cho con người. Nếu tục tảo hôn khiến không ít những cặp vợ chồng chịu cảnh bất hoà (vợ chồng "cái Ngói" trong Vợ chồng trẻ con, vợ chồng "thằng Toản" trong Quê người, vợ chồng Thào Mỵ trong Thào Mỵ để đời mình ), thì hủ tục cho vay nặng lãi, cưới xin, ma chay, lệ làng, chữa bệnh cũng làm bao gia đình điêu đứng (cuộc đời của Mỵ trong Vợ chồng A Phủ, cuộc sống của vợ chồng Ngây trong Quê người, cuộc đời của ông tổ họ Lê trong Quê nhà, cuộc đời của bác Hối trong Ông cúm bà co ), tất thảy đều được nhà văn quan tâm với niềm xót xa trăn trở. Trách nhiệm của một nhà văn chân chính vì con người, vì cuộc sống trong một cảm quan hiện thực đời thường đem đến dấu ấn riêng 73
  4. cho ngòi bút Tô Hoài. Hãy xem bác Hối (Ông cúm bà co) chữa bệnh cho vợ trong cảnh nhà nghèo: "Nhà nhắm mắt lại để tôi cúng cho ( ) Ông cúm bà co? Ông ở xứ Nghệ, ông dò ra đây, Tín chủ tôi xin biếu món quà này, Mắm tôm, kẹo bột, bỏng nắm, bánh dày, bánh đa, Ăn rồi xịn ông bước ra ". Bệnh tình vợ bác làm sao thuyên giảm được. Và lẽ tất nhiên, người "mụ dần dần như cái que nứa tép. Một cái que nứa tép buộc vào mấy cái cành dong khô để làm chân tay và úp lên trên đầu một cái nồi đất. Mụ ngồi chống hai tay xuống giương, cái đầu lảo đảo như đầu bà đồng" Trông cảnh người vợ đau đớn tiều tuỵ, bác Hối đứng lặng "hai dòng nước mắt bò từ từ qua những gò má gồ ghề của một khuôn mặt già cấc méo mó, xám xịt". Cái chết thê thảm của "mụ Hối" khiến người đọc không thể không động lòng trắc ẩn. Tình thương của bác Hối không thể cứu nổi người vợ hiền. Những bài cúng kia có chăng chỉ để an ủi vong linh người đã khuất. Bởi bác Hối không thể làm gì hơn khi trong nhà bác không có lấy một xu nhỏ. Viết dưới cảm hứng nhân văn đời thường, giọng điệu dí dỏm xót xa không chỉ đắc địa với hậu quả của những hủ tục lạc hậu làng quê mà còn thật hữu hiệu với những số phận xót xa cay đắng của con người. Đó là số phận của "mụ Hối" (Ông cúm bà co), của "cái Gái" (Nhà nghèo), của "cái Mái" (Nước mắt), của "bà lão Vối" (Mẹ già) Từ xưa các cụ ta đã có câu "trẻ cậy cha, già cậy con", vậy mà bà lão Vối được "nhờ cậy" con gái như thế này: "Bà rón rén ngồi vào mép giương. Cái giát tre kêu cót két. Chị trưởng Xuân ngẩng đấu trông thấy mẹ, sa sả: - Bà làm hại nó ! Bà giết nó đi ! Lợn cắn vào tay nó thế, mai nó làm ăn gì được. Bà Vối chán quá. Làm sao mà nó cứ đổ cho bà làm hại chồng nó. Bà liền nói một câu. Cái câu bà đã nghĩ đi nghĩ lại từ chiều tới giờ. - Tự dưng con lợn nó xổ, chứ tao có làm gì? Nhưng con mụ quát lên: - Lợn nó xổ? Lợn nó xổ? Thế tôi nuôi bà để làm gì mà bà lại không trông được con lợn? Và mụ nói nhiều nữa. Bà lão nghe điếc cả tai. Bà nhắm mắt lại thiu thiu. - Bà xuống bếp mà ngủ chứ! Bà vừa định giết nó mà bà lại ngủ giữa nhà nó thì sao 74
  5. cho đang! Bà lão Vối lồm cồm bò dậy đi ra, men xuống bếp ngay. Bà nằm vào đống rơm. Tuy hơi nóng một chút, nhưng xa được tiếng nhe nhé của mụ trưởng Xuân. Bà nghe lơ mơ như ai cãi nhau đâu bên hàng xóm! Sáng hôm sau, hai vợ chồng anh trưởng Xuân và thằng Hạ ngồi ăn cơm, không đả động gì đến bà Vối. Bà lão vẫn ngồi nguyên trong ổ dạ, nhìn chăm chăm lên trên nhà. Để nghe xem vợ chồng nó có gọi mình? Gọi thì bà lên ngay. Có bao giờ bà biết khọng khạnh đâu? Nhưng bà đã thấy lách cách tiếng bát mà không có nghe qua một tiếng gọi. Bà bần thần nhìn mấy ông đồ rau đen xì, bà thở dài". Đoạn văn xuất hiện bốn loại lời với những kiểu câu và giọng điệu khác nhau: lời người kể chuyện chủ yếu được hiện diện qua kiểu câu tường thuật, với giọng điệu trung tính; lời nửa trực tiếp diễn đạt ý nghĩ, nỗi lòng bà lão Vối với sắc điệu xót xa đau đón; lời nhân vật bà lão Vối hiện diện qua câu hỏi tu từ luôn thể hiện thái độ ôn tồn, nhũn nhặn, hoà giải; còn lời của nhân vật chị trưởng Xuân lại được hiện diện qua nhiều kiểu câu đa dạng với nhiều sắc thái giọng điệu. Ở đây, câu cảm thán và câu hỏi tu từ được sử dụng đậm đặc nhằm bộc lộ thái độ vừa đay nghiến trì triết, vừa dóng dả tàn nhẫn, vừa trách móc mỉa mai trước những "tội lỗi" mà bà mẹ đẻ đã gây ra cho chồng chị! Hầu như cả đoạn văn, lời của chị trưởng Xuân không mang sắc thái trung hoà hay tích cực. Sắc thái giọng điệu lời chị trưởng Xuân như một nhát dao cứa vào lòng người mẹ già đáng thương, tội nghiệp. Có lẽ không thể tìm nổi một lời lẽ nào để biện hộ cho sự bạc bẽo đến mất hết tình người của chị. Tuy không bộc lộ trực tiếp bằng lời, nhưng người đọc vẫn cảm nhận rõ thái độ xót xa tận đáy lòng của tác giả được tình cảnh bà lão Vối bất hạnh. Ngòi bút đầy chất nhân văn khiến Tô Hoài không né đánh một sự thật tàn nhẫn nào trong cuộc sống sinh hoạt đời thường, để coi đó là một bài học cảnh tỉnh con người trong cách đối nhân xử thế. Như vậy, nỗi niềm xót xa trăn trở nhiều hơn cả của Tô Hoài là sự xuống cấp về đạo đức của con người. Trước những cảnh ngang tai trái mắt, trước sự đảo lộn trong quy luật của đạo đức tình cảm, nhà văn không thể thờ ơ hay bỏ mặc. Mỗi người có lương tâm đều không thể không suy nghĩ khi con cái ngược đãi cha mẹ, vợ chồng coi thường chửi bới lẫn nhau, con cháu quá hỗn láo với ông bà Người đọc không thể không xót xa trước cảnh chị trưởng Xuân "sa sả" mắng nhiếc bà lão Vối - người mẹ đẻ, cảnh "thằng trưởng" Khiếu "'phết" lại ông Nhiêu Thục - cha đẻ của mình; kỹ sư Trần Hùng điềm nhiên cho các cụ "vào Nam quy tiên cả", khi họ vẫn ngày đêm ngóng đợi tin anh ở quê nhà Và đau đớn hơn có lẽ là cảnh hai đứa cháu (Ông cháu) đối xử quá tàn nhẫn với người ông mù loà tội nghiệp: "- Giả người ta hai xu? ( ) - Thôi đừng có vờ vẫn! 75
  6. ( ) - ông lấy của chúng tôi hai xu rồi. ( ) - Đấy đấy ! Vờ vịt khéo không. Thôi đừng làm điệu nữa. ông giả tôi hai xu đi. ( ) Hoà sừng sộ và buộc tội: - Hai xu tôi để trong hóc cột. Tôi chẳng đánh rơi ở đâu hết. Chính ông lấy của tôi. Tôi biết. ( ) - Tôi biết ông lấy của tôi. Ông lấy để chốc nữa ông mua bánh đúc mua bỏng ông ăn. Tôi biết cả rồi". Thái độ hai đứa cháu nội của ông lão Mo mù loà là không thể tha thứ. Chỉ vì mất hai xu mà chúng mỉa mai, coi thường, ngang nhiên buộc tội người ông và suy diễn đủ điều trái với đạo đức lương tâm của con người. Mặc dù vừa điếc, vừa loà, ông lão vẫn cảm nhận được thái độ của chúng nhưng cũng đành bất lực ngồi "thưỡn mặt ra" chán ngán đau khổ Giọng điệu dí dỏm trong sáng tác của Tô Hoài trước mặt trái đời thường không chỉ là sắc thái xót xa mà nhà văn còn dùng tiếng cười nhẹ nhàng để bộc lộ thái độ ở cấp độ sâu sắc hơn - cấp độ phê phán. c. Sắc thái giọng điệu dí dỏm phê phán Nếu đối tượng phê phán đả kích của Nguyễn Công Hoan là thế giới nhân vật quan trường; của Vũ Trọng Phụng là lũ người dốt nát, văn minh rởm thì Tô Hoài nhằm vào tất cả những thói hư tật xấu, những suy thoái biến chất của con người bình thường trong cuộc sống xã hội đời thường. Nhìn chung đối tượng phê phán của Tô Hoài là tất cả những gì xa lạ với con người theo quan điểm đạo đức văn hoá truyền thống. Vậy nên ông không hề đao to búa lớn, không phủ nhận tất cả, hoặc lật tẩy không thương tiếc đối tượng Tô Hoài lấy giọng diệu nhẹ nhàng dí dỏm khi thì mát mẻ, khi lại mỉa mai làm phương tiện cho sự phê phán. Trước cảnh mợ Phán (Bóng đè) - "con dâu ngoan" của ông bà trưởng Luỹ bị bệnh bóng đè - cứ "vào quãng nửa đêm là lại thấy ngực nặng trình trịnh như đeo đá, chân tay nhược ra, muốn cựa cũng không cựa được, mồm cứng quai hàm không kêu được", khiến ông bà trưởng Luỹ lo lắng lắm. Ông bà làm đủ mọi cách để cứu chữa cho mợ - sai con sen quét sạch gian buồng; bảo con dâu làm vô thiên số thuật - "thuật Mường, thuật Mắn, thuật Tàu, lại cả thuật Nhật Bản trừ bóng đè, mà không khỏi". Rồi bà đích thân đi xem bói, "tức tốc đi sắm sửa đồ vàng mã, mua chuối, mua hoa, đóng oản, thổi xôi, giết gà rồi thiết lập đàn tràng giữa sân cúng cheng cheng suốt đêm". Cũng chỉ yên 76
  7. được một dạo, bệnh của mợ lại đâu vào đấy. Chỉ đến khi ông trưởng Luỹ đích thân kê chõng ngủ ngay cạnh cửa phòng mợ thì đêm đến không thấy rền rĩ lắm nữa. Rồi mấy hôm thì khỏi hẳn. Thật "hạnh phúc cho ông bà trưởng". Còn mợ Phán, thay vì bệnh bóng đè lại là tiếng thở dài não ruột. Không hiểu "mợ Phán buồn gì thế? Mợ khỏi bóng đè rồi kia mà ! ". Giọng điệu mỉa mai châm biếm, nhẹ nhàng vén bức màn bấy lâu nay che đậy việc làm mờ ám của cô "con dâu ngoan" nhà ông bà trưởng Luỹ. Người kể chuyện kín đáo tế nhị không làm mất mặt mợ giữa nhà chồng. Tác giả chỉ hạ một câu tưởng như bâng quơ, tưởng như vô tình nhưng nó lại nặng như một lời buộc tội, như một sự thừa nhận hành động ngoại tình bấy lâu nay của mợ. Còn mợ phán Huề (Mẹ mìn bố mìn) lại lừa chồng, dối con không một chút gượng gạo: "về cậu có hỏi thì nói là con đã bưng quả lễ vào tận án thư như mọi khi nhé. Hôm về mợ mua hồng Lạng, hồng Lạng dạo này đương mùa. Ở nhà cậu phán Huề hay ghen Nhưng cũng chỉ còn mẹo sai con làm mật thám thế thôi.( ). Cậu phán Huề ngóc cổ nhìn ra, giọng khàn khàn hỏi khéo cô con gái vừa về: "Mỹ ơi, mợ con đã đưa lễ đến nhà ông đồng rồi a? Rồi ạ. Con bưng quả vào tận trong điện. Cái nhà ông đồng gầy như con mắm. Chẳng biết có đủ hơi sức theo nổi các bà trảy lên lễ tận mạn ngược không?". Thế là "cậu phán Huề yên chí vu vơ" Đúng là mọi thói hư tật xấu giữa cuộc sống bề bộn này không thể qua nổi con mắt tinh quái của Tô Hoài. Từ những kẻ lừa cha, lừa mẹ, dối chồng, dối con đến những kẻ đứng núi này trông núi nọ, tham vàng bỏ ngài nơi cuộc sống bình yên thầm lặng đầu trở thành "nguồn cảm hứng" cho giọng điệu mỉa mai phê phán của Tô Hoài. Trước dáng vẻ thoả mãn, hãnh diện của cô Mây (Vàng phai) vì lấy được người chồng "sộp và mạnh bạo, và mốt mới", Tô Hoài mai mỉa: "Cô quyền Vực vận cái áo vải rồng mới, đeo trên vai cái tay nải to tướng miệng nhai trầu mủm mỉm, đi ve vẩy nhẹ nhàng bên cạnh chồng - người chồng bảnh bao có đôi giày to mỗi chiếc có nhẽ bằng con lợn con, bước nghe cồm cộp đến vui tai”. Giọng điệu dí dỏm mỉa mai khiến sự phê phán trở nên nhẹ nhàng, "tình cảm". Nó không tạo ra một khoảng cách mang tính đối kháng căng thẳng quyết liệt. Trong muôn ngàn thói tật, tật bẩm sinh có lẽ là tật cố hữu và khó cải tạo nhất. Nhiều khi mất anh mất em, mất họ mất hàng, mất tình làng nghĩa xóm vì cái tật khó cải tạo ấy. Thử hỏi nếu không có giọng điệu dí dỏm "trời phú" với nhiều sắc thái thể hiện, làm sao nhà văn có thể đưa lên trang sách những cảnh đời "sinh động" như thế này: " Đã lâu lắm bây giờ người ta mới được nghe bà Ba rủa con cà con kê, có ngành có ngọn. Bởi vì bà tức quá. Đứa vô phúc đã dán cái giấy kia. Nó quên tài chơi của bà rồi hay sao? Bà có thể trồng cây chuối ngược lên mà chửi suốt tháng. Bà có thể chửi cho đứa nào đứa ấy và cơm vào miệng rồi mà phải nôn tháo cả ra. Bà đi chửi từ đầu làng đến cuối làng khắp các ngã ba ngã tư Đến tận chiều xẩm, khản cả tiếng bà mới chịu vác mõ và dùi trở về nhà. Bà đe rằng ngày mai bà lại chửi nữa. Bà còn chơi mãi tới khi động đến mồ mả nhà đứa nào ấy, 77
  8. khiến nó ăn uống, ngồi đứng không yên, phải đến tận cửa nhà bà mà lạy, bà mới chịu thôi. Kể bà chất cũng hay thực. Hôm nay, có nhiều bà và nhiều cô gái cố gắng nghe học lỏm lấy những câu hóc hiểm để hòng có bận nào chửi nhau với ai chăng" [61, 49-50]. Giọng điệu dí dỏm mỉa mai mang sắc thái phê phán được hiện diện từ ngôn ngữ nửa trực tiếp. Giọng của người kể chuyện diễn tả ý nghĩ, lời đe của bà Ba đem lại sự khôi hài với nhiều cung bậc đa dạng. Đoạn văn còn dùng ngữ điệu khiêu khích, từ ngữ và hình ảnh phóng đại mang ý nghĩa phê phán nhẹ nhàng mà thấm thía. Rõ ràng là giọng điệu dí dỏm mỉa mai với mục đích phê phán tỏ ra có nhiều "ưu thế" trước những thói hư tật xấu trong cuộc sống sinh hoạt đời thường. Sáng tác của Tô Hoài thường nghiêng về những cảnh đời thường, những chuyện đời thường, những con người đời thường với những vui - buồn, hay - dở. Nhưng cũng không ít tác phẩm, nhà văn tỏ ra "thời sự" hơn bất cứ một nhà văn nào viết về thời cuộc. Có điều là khi viết về nó, ông vừa khai thác triệt để những chi tiết của cuộc sống đời thường, vừa phát huy mọi khả năng của chất giọng "trời phú" khiến chuyện khó thành chuyện dễ chẳng có gì là ghê gớm cả. Từ chuyện đấu tranh chống Nhân văn giai phẩm của giới văn nghệ sỹ, chuyện về một thời bao cấp nặng thói ỷ lại, nặng bệnh thành tích đến chuyện đề bạt cán bộ, chuyện lợi dụng chức quyền tranh thủ vun vén cho bản thân, gia đình khiến người đọc nhiều khi tỏ ra ngỡ ngàng trước một cây bút được coi là "hiền lành" này (chữ dùng của Nguyễn Tuân). Hãy chứng kiến cảnh làm ăn qua loa tắc trách của nhiều hợp tác xã trong thời cơ chế bao cấp qua ngòi bút Tô Hoài: "Làm vườn nhà, trẻ con cũng cặm cụi chịu khó cả ngày. Làm rau hợp tác theo kẻng đi kẻng về, xã viên ngồi đầu xóm sắp hàng theo tổ trưởng, tổ phó. Cả tổ cùng đi lúc mặt trời lên bằng con sào mới ra ruộng. Như trò đùa" [l04,154]. Còn cán bộ phụ trách khi "biết người ta gian dối hai mang cũng không góp ý kiến cho rách việc Cứ im lặng mà thong dong, đến đâu thì gà, thì chó, cá chép cứ việc ngả ra". Tệ hại hơn là, cương vị lãnh đạo nhiều khi lại "trao nhầm" vào tay những kẻ dốt nát, vô trách nhiệm. Để rồi chính bản thân người được đề bạt cũng còn "ngớ" người ra, ngỡ ngàng bởi "không biết tại sao trên nhận ra tớ là cán bộ lâu năm, có kinh nghiệm, có năng lực. Được dồn lên một công tác mới toanh, tầm cỡ ra trò" [104, 154]. Anh ta tâm sự: "Tôi bỗng được làm Giám đốc mười hai cái kho dây đồng, dây cáp Hoá ra mình có năng lực thật. Gì cũng làm được, tôi làm chủ mười hai cái kho, Tổng Giám đốc chứ không phải Giám đốc. Chữ đánh máy giấy, trên Bộ bổ nhiệm hẳn hoi, rõ ràng". Khôi hài hơn là "từ ngày xưa chỉ biết đọc chữ in, rồi sau xem được, viết được, mình cũng chẳng đọc sách đọc báo, thật tình không mấy khi dùng đến chữ. Thế mà hoá ra càng ngày càng được việc, càng lên". Từ đó "nhà cửa tôi cứ hay mắt lên lúc nào, không biết. Cơ quan xây hội trường anh em khuân đến chục bao xi măng Con Rồng bảo là còn thừa và rồi gạch lát sân, gạch xây tường hoa. Cơ quan có gì, nhà mình có cái ấy. Mặt tủ ly phòng làm việc đặt lọ cành hoa hồng giấy, mình cầm về mấy cành. Chiếc gạt tàn, cái bô đổ bã chè, gói bột ve xanh quét tường, chiếc cốc, cái chén, đủ thứ - cả chiếc bóng điện trong chuồng xí, một hôm ngẩng lên trông thấy, tiện tay vặt về lại nhổ luôn 78
  9. cả cái rọ sắt. Nhà mình thiếu đèn ngoài cổng, phải đóng cái rọ đèn thế này, trẻ con mới không ăn cắp được. Công nhân làm trong kho uống nước chè tươi. Mình bảo: "chè tươi vừa mát vừa bổ". Thế là mỗi hôm đã thấy gói chè tươi, bọc giấy báo cẩn thận, chị lao công để sẵn đầu bàn, để thủ trưởng mang về" [104, 155 - 156] Cứ như thế, nhà văn để chính người trong cuộc kể lại với giọng điệu dí dỏm hài hước mỉa mai, nhẹ nhàng phơi bày tất cả sự thật - sự thật một thời cán bộ lãnh đạo lợi dụng chức quyền bòn mót đục khoét cơ quan, nhân viên phỉnh nịnh, bợ đỡ coi trọng việc vừa lòng "sếp" hơn tất thảy. Cái nhìn sắc sảo của Tô Hoài còn nhận ra rằng, cảnh làm ăn như thế chẳng riêng gì một cơ quan xí nghiệp nào, mà nó trở thành vấn nạn chung cho toàn xã hội. Đây là "quy trình làm ăn" và "xét" thành tích khen thưởng cho các hợp tác xã thời kỳ bao cấp: hợp tác xã có tổ nuôi ong. Bí thư tỉnh uỷ chủ nhật nào cũng về xã theo dõi điển hình. Ông đã gởi tổ ong của hợp tác xã nuôi hộ ông một chục đõ. Chủ tịch huyện cũng có năm đõ nhờ nuôi. Ong chết dịch, ong bốc bay mất bao nhiêu thì đõ ong của các thủ trưởng vẫn đông đàn và đến vụ quay mật cứ là tố hảo. Mật nhãn, mật hoa ngô sánh như kẹo mạ. Mọi sự được đắp vào, được tiếng tăm nhưng hoạn nạn ở đâu cứ kéo đến. Trước nhất méo mặt vì nạn khách thăm quan. Báo chí càng thổi kèn đu đủ bốc thơm thì các nơi lập đoàn, lập đội kẻo đến tìm hiểu học tập càng nhiều, huyện bạn, tỉnh bạn ba trăm pháo đài huyện cả nước đổ đến. Các xã láng giềng phải nghĩ ra mẹo trốn thành tích. Ở hội nghị tổng kết trên huyện, các hợp tác xã theo nhau báo cáo năng suốt đuối, không đạt mức thi đua, mới vụ trước thì vun vút vượt chỉ tiêu. Cả các điển hình cũng co lại. Chẳng biết đâu thật, đâu vờ, mà cái cớ chính thì cũng dễ hiểu. Tôi không nhất, nhưng tôi không bét, tôi cứ tà tà cả làng không lên mâm, không có cỗ với ai cả" [l05,175]. Cứ cái giọng điệu mỉa mai nhẹ nhàng mà không nhẹ nhàng ấy, chuyện của Tô Hoài có một sức lôi cuốn kỳ lạ. Sức lôi cuốn không phải ở các sự kiện lớn lao hay những chi tiết ly kỳ hấp dẫn, mà ở chính những sự thật khách quan trong cuộc sống đời thường. Viết về sự thật ấy, Tô Hoài không có ý miệt thị hay nhạo báng một thời lịch sử tất yếu đã qua, mà nhà văn muốn mỗi chúng ta hãy dũng cảm mà nhìn thẳng vào sự thật để sống, làm việc có ý thức và trách nhiệm hơn trong một cơ chế mới của một giai đoạn lịch sử xã hội mới. Giọng điệu dí dỏm với ba sắc thái tiêu biểu trong sáng tác của Tô Hoài được hiện diện qua hệ thống từ ngữ đặc sắc, câu văn giàu ngữ điệu, hình ảnh sinh động, gần gũi Giọng điệu ấy vừa là phương tiện thẩm mỹ quan trọng cấu thành tác phẩm văn chương Tô Hoài, vừa bày tỏ trách nhiệm của tác giả trước con người và cuộc sống. Ngoài giọng điệu dí dỏm với ba sắc thái tiêu biểu, giọng điệu "trời phú" của Tô Hoài còn là giọng điệu thân mật suồng sã, giọng điệu trữ tình bàng bạc chất thơ của đời sống tạo môi trường giao tiếp bình dị và âm hưởng nhẹ nhàng. 79
  10. 2. Giọng điệu suồng sã tự nhiên Sáng tác dưới cảm hứng sử thì, giọng điệu suồng sã thân mật bông đùa hầu như ít xuất hiện. Bởi ở cảm hứng ấy, người cầm bút trào dâng một tâm trạng, một ham muốn ngợi ca vẻ đẹp của quê hương xứ sở và con người Việt Nam anh hùng. Chính vì thế, giọng diệu trữ tình ngợi ca mang âm hưởng hào hùng trở thành giọng điệu chủ đạo của các tác phẩm văn học viết dưới cảm hứng này. Đó là giọng điệu hào sảng trong một loạt các tác phẩm văn học giai đoạn 1945 - 1975: Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu, Vùng trời của Hữu Mai, Chiến sỹ của Nguyễn Khải, Hòn đất của Anh Đức, Dưới đám mây màu cánh vạc của Thu Bồn, Đất Quảng của Nguyễn Trung Thành, Hãy lắng nghe giọng của người kể chuyện kể về những giây phút cuối cùng của người chiến sỹ điện thanh Lữ (Dấu chân người lính - Nguyễn Minh Châu): "Người chiến sỹ điện thanh ấy trước khi hy sinh còn ngẩng cao đầu lên một lần cuối cùng: Trên nền trời cao, rất cao và xanh, lá cờ đỏ mỗi lúc một thắm tươi đang bay, lá cờ mỗi lúc càng tiến dần đến trước mặt. Rồi anh nhắm mắt hẳn. Những món tóc rất xanh rối bù dính bết máu phủ kín cả vầng trán lấm tấm mồ hôi đã trắng nhợt. Dường như từ trong ngực anh, chiếc đài vẫn đang nói sang sảng". Hình ảnh người chiến sỹ anh hùng trước giờ phút vĩnh biệt cuộc đời được miêu tả bằng ngôn ngữ sử thi trang trọng. Tư thế bình thản ngắm nhìn không gian cao rộng khôn cùng với màu xanh của bầu trời, màu đỏ của lá cờ đưa người đọc tới chiêm ngưỡng một tượng đài bi hùng của vẻ đẹp người chiến sỹ Việt Nam. Ngược lại, sáng tác dưới cảm hứng nhân văn đời thường, giọng điệu sử thi hầu như ít xuất hiện. Thích hợp với nó là giọng điệu suồng sã thân mật tự nhiên đem lại một giá trị thẩm mỹ mới. Trong sáng tác của mình, Tô Hoài thường đặt nhân vật vào môi trường thế sự. Ở đó, có những mối quan hệ đời thường: quan hệ tình cảm (tình cảm gia đình, tình làng nghĩa xóm, tình yêu, tình bạn bè); quan hệ công việc làm ăn sinh sống Những mối quan hệ đó gần gũi thân tình khiến họ có thể tự nhiên bộc lộ bản tính. Đây là cuộc trò chuyện của đôi bạn trẻ yêu nhau - Ngây và Hời (Quê người): "Ngây bảo Hời: - Hai cậu mợ còn vờ vịt mãi. - Bướm ra phết đấy. - Lúc nãy sợ quá, mà sao suốt đám không thấy anh đâu. - Tôi nấp một chỗ. Thằng Khói làm gì đằng ấy, tôi cũng biết. Ngây chạnh lòng, đấm vào lưng Hời một cái. Nếu ban ngày, chắc đã nhìn thấy nàng đỏ mặt. Nàng nói khẽ: - Thằng tồi quá! - Thế mới định đả cho một trận. 80
  11. - Nó biết mặt các anh không? - Biết. - Nó thù thì chết. Hời vung gậy lên: - Cho thù. Ngữ ấy làm gì nổi ai? - Em sợ lắm. hời cười: - Sợ đếch gì". Giọng điệu của đoạn văn cơ bản được tạo bởi ngữ điệu lời nói của hai nhân vật và hệ thống từ ngữ thông tục: vờ vịt, ra phết, tồi, đả, ngữ ấy, đếch. Hệ thống từ ngữ này tạo không khí dân dã trong cuộc trò chuyện. Và ngữ điệu lời nói của hai nhân vật trực tiếp bộc lộ tính cách của họ. Ngữ điệu lời nói của Ngây luôn ở âm vực thấp như một lời giãi bày, thể hiện tính cách cô gái thẳng thắn, chân tình và nhát sợ. Ngữ điệu lời nói của Hời ở âm vực cao - "Thế mới định đả cho một trận", "Ngữ ấy làm gì nổi ai?", "Sợ đếch gì", trọng âm câu nói lại rơi vào chính từ thông tục, mang đậm phong cách khẩu ngữ tự nhiên, hàm chứa thói "sĩ diện", "ra oai" thường tình của các chàng trai trước mặt người yêu. Phản ánh muôn mặt của cuộc sống đời thường, giọng điệu xuồng sã của Tô Hoài tỏ ra đắc địa hơn bất kỳ một yếu tố nghệ luật nào khác. Ngay cả khi nhà văn viết về thế giới cá tính, thói tật ông của mỗi người, thậm chí cả của bạn bè đồng nghiệp - những nhà văn tên tuổi. Phải là người đồng cảm và trân trọng cá tính bạn bè nhiều lắm, nhà văn mới khắc hoạ chân dung một người bạn từ những chuyện như thế này: "Nguyên Hồng buông tờ báo xuống. Rồi Nguyên Hồng xua tay nói như thét vào mặt tôi: Tiên sư mày, thằng câu tiễn! Ông thì không, Nguyên Hồng thì không. ( ) Nguyên Hồng nói khẽ: - Tao tính cả rồi. Trông đây này. ( ) - Tao về Nhã Nam - Tao về Nhã Nam. - Ừ Nhã Nam. Đủ lắm rồi. Ông đi chơi với chúng mày nữa. Ông về Nhã Nam"[100, 471]. Tính cách Nguyên Hồng là thế, buồn vui đột nhiên khó hiểu, chẳng vừa lòng bốp 81
  12. chát ngay, nhưng đằng sau cái góc cạnh sỗ sàng ấy là cả một tấm lòng: chân tình, thẳng thắn và giàu lòng tự trọng. Và cả những chuyện dễ gặp ngoài đời, nhưng khó có thể gặp trong trang sách mà Tô Hoài vẫn bình thản kể nhờ giọng điệu "trời phú" của mình: "Nguyễn Tuân vốn mến và chơi với hoạ sỹ Nguyễn Sáng. Nguyễn Sáng đã vẽ Nguyễn Tuân những chân dung đặc sắc. Nhưng mà cái hợm trong sáng tác, không coi ai ra gì, ai cũng không bằng mình của Nguyễn Sáng thì Nguyễn Tuân không chịu được. Nguyễn Sáng đến chơi mùng ba Tết. Hai người uống vui, câu chuyện xoay quanh nghệ thuật. Bốc lên, Nguyễn Sáng hét: "Chỉ có một thằng Sáng thôi. Còn thì cứt hết!" Nguyễn Tuân giơ tay ra cửa: "Đi ngay?". Nguyễn Sáng vẫn hăng: "Nguyễn Tuân à, đừng tưởng bở? ông không biết viết tiểu thuyết. Truyện không có nhân vật, vứt đi!, "Anh ra khỏi đây ngay". Nguyễn Sáng lập cập xuống thang: Gặp tôi, Nguyễn Sáng nước mắt đầm đìa. Nguyễn Sáng bảo con gái tôi: "Người ta vừa đuổi chứ". Ngồi một lúc tỉ tê hỏi mới ra câu chuyện những cái tài cái tay gặp nhau. Nguyễn Sáng nói một câu sắc rợn: "Nó cũng khinh người bỏ mẹ, lại bảo mình khinh người!". "Lúc nãy có nói thế với Nguyễn Tuân không?". "Chưa nói hết câu, nó đã tống mình đi rồi. Tức quá, đi luôn" [100, 508]. Như vậy là, trong muôn chuyện đời thường, chuyện gì, với ai, ở đâu Tô Hoài cũng có thể đưa lên trang sách nhờ giọng điệu "trời phú" này. Từng chi tiết, từng hình ảnh cụ thể trong cuộc sống sinh hoạt, từng cá tính thói tật riêng đều được diễn tả bằng một hệ thống ngữ điệu và từ ngữ thông tục gần với lời nói thông thường, khiến chuyện của Tô Hoài cứ hồn nhiên như dòng chảy của cuộc sống. Có một thời, không ít sáng tác của Tô Hoài, vì những "thói tật", riêng đã bị nhìn nhận thiếu thiện cảm. Nhất là những sáng tác giai đoạn 1945 - 1975, trong khi âm hưởng sử thi bao trùm không khí thơ văn của thời đại, các cây bút đều sảng khoái cất lên giọng ngợi ca, ca ngợi con người, dân tộc Việt Nam anh hùng, thì Tô Hoài lại có con đường thể hiện riêng. Sáng tác của ông không tách khỏi dòng chảy chung của thời đại. Cũng viết về đề tài cách mạng, cũng đưa những sự kiện lịch sử không thể nào quên lên trang sách, nhưng người đọc ít được chiêm ngưỡng hình tượng nhân vật sử thi, ít được nghiêng mình trước những tượng đài bi hùng của con người Việt Nam anh hùng, ít được chứng kiến làn sóng cách mạng trào dâng như vũ bão mà nhiều cây bút thời kỳ này thể hiện rất thành công. Tô Hoài viết về chủ đề cách mạng trên cái nền của những bức tranh phong tục, bức tranh sinh hoạt "vụn vặt" đời thường. Tô Hoài là nhà văn của con người và cuộc sống bình thường, từ cảm quan hiện thực đến cảm hứng sáng tác, Tô Hoài đều hướng về hiện thực cuộc sống bình dị trong dòng chảy tự nhiên của nó. Tô Hoài không phải là người đầu tiên và cũng không phải là người cuối cùng đến với mảnh đất rộng lớn này, thế nhưng ông luôn có cái nhìn riêng, cái cảm riêng, cái hứng khởi riêng không hề trùng với bất kỳ ai. Chuyện của Tô Hoài ít thấy dấu hiệu vơi cạn cũng như cuộc sống không bao giờ ngừng nghỉ. Nó cứ tồn tại tự thân vĩnh hằng cung cấp nguồn cảm hứng sáng 82
  13. tác vô tận cho nhà văn. Trở lại vấn đề đã nêu, Mười năm là tác phẩm tiêu biểu trong giai đoạn 1945 - 1975 của Tô Hoài. Tác phẩm viết về đề tài cách mạng, tham vọng của nhà văn muốn dựng lại quãng thời gian mười năm lịch sử (1935 - 1945) với bao sự kiện thăng trầm không thể bao giờ quên. Khi mới ra mắt bạn đọc, Mười năm bị nhìn nhận khá khắt khe, có ý kiến cho rằng: "Mười năm chính là vấn đề của một chủ trương sáng tác sai lầm, một khuynh hướng nghệ thuật lệch lạc" (Như Phong). Mặc dù còn có những hạn chế, nhưng trên góc độ phong cách, đúng như Giáo sư Hà Minh Đức đã khẳng định: "Mười năm là một bước phát triển mới của phong cách Tô Hoài". Ở tác phẩm này, những nét phong cách đặc sắc Tô Hoài có từ trước cách mạng đã trở lại, nhưng được thể hiện ở mức độ cao hơn, đậm nét hơn. Một trong những phương diện thể hiện sự trở lại rõ nhất phong cách Tô Hoài ở tác phẩm này là giọng điệu nghệ thuật. Giọng điệu suồng sã tự nhiên là giọng điệu chủ đạo của tác phẩm. Ngay cả khi nhà văn thiêu tả cảnh những thanh niên tích cực ở làng Nha: Lê, Lạp, Trung, Ba, họp bàn công việc đình công chống thuế, giọng điệu sướng sã vẫn là chất giọng chủ đạo: "Lê đã tức lắm, miệng bầm bập chực nói từ nãy. Cố nén, nghe đến đây thì khó chịu quá rồi, Lê nhổm dậy, sấn sổ: Mày nói vậy thì chó nó cũng không ngửi được. Thế u mày vào nhà Lý Dĩ đóng, thì đóng cho ai, cho con chó à? ( ) Trong lúc Lê nói, cả lũ Lạp, Trung, Ba đã ngồi chồm hỗm lên nhìn Lê, như đợi Lê bật ra một câu gì nặng nữa cho hả. Chưa thấy Lê nói, anh nào cũng liếm mép mấy lượt. Rồi có anh đánh một câu: - Tiên sư những đứa khốn nạn thậm thọt vào nhà Lý Dĩ! An chạm phải gai, nhổm dậy: - Nếu không đi với chúng mày thì tao đến đây làm gì? Đứa nào thậm thọt? Thằng nào chửi mẹ ông thế? Im lặng. - Trước sau tao vẫn bảo tao với chúng mày là một thì chúng mày lại chửi tao nhem nhẻm. Thế là thế nào? Khối đứa kia kìa, cũng ký đơn hăng lắm, mà bây giờ nó theo phe Lý Dĩ, nó đóng có sản, nó phản thùng chơi lại thì chúng mày lại câm họng. Cánh nhà Lý Dĩ, lại chi tóp những họ Nguyễn, họ Bùi đấy, làm gì được chúng nó thì làm nào? - Thế nào cũng có thằng bỏ mẹ với ông! - Không nói thăng thiên đấy chứ - À mày láo hả ". Đoạn văn với giọng điệu suồng sã được tạo bởi từ một hệ thống dày đặc từ ngữ 83
  14. thông tục thậm chí thô tục, khiến người đọc cảm thấy mất đi tính chất nghiêm túc cần thiết của công việc. Nhưng chính nó lại mang hơi thở của cuộc sống vào văn chương, khẳng định mối quan hệ máu thịt giữa văn chương với cuộc đời. Xét trên phương diện phong cách, giọng điệu suồng sã tự nhiên đem lại tiếng nói ổn định trong sáng tác của Tô Hoài. Chính nó đã góp phần tạo thế cân bằng cho một giai đoạn văn học (1945- 1975), khi mà giọng điệu hào hùng sảng khoái bao trùm hầu hết các tác phẩm. Giọng điệu suồng sã của Tô Hoài tạo mọi điều kiện thuận lợi cho những yếu tố đời thường đi vào trang sách. Từ nhân vật - chị Hai Tâm bỡn cợt, lẳng lơ; An nhút nhát, dễ dao động; Chúc dựa dẫm, cơ hội; Gạch thật thà, "nịnh tính" , đến mọi cảnh đời - cảnh khốn cùng của gia đình Nhàn, nỗi gian truân của Trung, của Lê, của Lạp, đều được hiện diện bởi giọng điệu suồng sã tạo những màu sắc thẩm mỹ độc đáo. Hãy nghe cuộc trò chuyện giữa anh Trung và cô Gạch: "Nhiều lúc Gạch hỏi Trung: - Anh quê ở đâu, nói thật nào? - Ai nói dối cô phải tội, tôi dân Thái Lọ đấy. Thôi đi nói cái đầu gối cũng không nghe được. Dân Thái Bình đâu lại răng trắng như răng lợn luộc thế kia. - Tôi thề nào. - Thề bồi gì rồi nó vận vào người mà vợ con lại mất nhờ. Em đoán tướng cho anh nhé. - Đoán đi. - Đoán anh lại chỉ bố đánh rồi trốn nhà đi lêu bêu, chứ ngữ anh thì ăn đời ở kiếp gì cái nghề vác đất lò này. Hôm nào đàn em về chơi cho biết nhà anh nhé? - Nhà tôi xa lắm. - Xa với gần thì cũng một công đường đi thôi. - Cô chẳng tin thì thôi không nói chuyện nữa. - Này anh Trung dở hơi à? Hay dỗi thế!". Đoạn văn chỉ có một câu là lời của người kể chuyện với giọng điệu trung tính. Lời đối đáp của hai nhân vật mang sắc thái suồng sã tự nhiên, được tạo bởi chủ yếu từ hệ thống từ ngữ thông tục và thành ngữ: Thái Lọ, lêu bêu, ngữ anh, dở hơi, như răng lợn luộc, ăn đời ở kiếp. Sự xuất hiện hệ thống từ ngữ thông tục khiến câu chuyện mang sắc thái của cuộc sống thường nhật. Không những thế nó còn đem lại cho người đọc cảm giác cách nói suồng sã ngoài đời không những không xa lạ với văn chương mà còn gắn bó với tác phẩm nghệ thuật hơn bao giờ hết. 84
  15. Sẽ là chưa trọn vẹn nếu chưa đề cập đến mảng đề tài viết về miền núi của Tô Hoài. Do đặc điểm ngôn ngữ và tính cách con người miền núi, giọng điệu suồng sã mang một sắc thái riêng. Nếu hệ thống từ ngữ thông tục là yếu tố quan trọng tạo bởi giọng điệu suồng sã ở những tác phẩm viết về đề tài Hà Nội, thì cách nói hồn nhiên, tự nhiên lại là nhân tố làm nên giọng điệu "suồng sã" trong những tác phẩm viết về đề tài miền núi của ông. Hãy nghe Thào Mỹ (Thào Mỹ kể đời mình) kể về cuộc đời cũ khổ đau tăm tối của cô: - "Em lại thêm cái khổ khác. Em đi làm nương một mình, bố mẹ chồng chửi là đi chơi với trai. Có lần em ở nhà, bố chồng đi làm về, thấy có anh họ bên Tà Đú lấy măng về cho. Bố chồng chửi ngay: "Chúng mày xấu lắm. Sao lúc tao ở nhà không đến". Tới mùa thu ngô, khi ấy nhà ai cũng nấu rượu, có rượu cả bố cả mẹ chửi càng nhiều. Ai đi qua ngõ nhà em, lúc nào cũng nghe thấy tiếng quát: "Con dâu à con dâu thế à " Sắp Tết, em xuống chợ. Tiện đường xin phép về Nhá Súa thăm bố mẹ. Bố chồng trợn mắt: - Mày trốn việc Tết nhà này à? Mẹ chồng chép miệng: - Biết con này lười thế thì ngày trước chẳng lấy về! Chồng em đã được hơn mười tuổi. Nó bắt đầu biết nó có quyền với em. Nó cũng chửi: - Con hổ vồ". Câu chuyện do chính người trong cuộc kể với những chi tiết cụ thể, chính xác, chân thực được diễn đạt qua hàng loạt những câu văn ngắn phù hợp với lối tư duy của người dân lao động miền núi, khiến câu chuyện kể gần với phong cách khẩu ngữ tự nhiên. Lời kể khách quan chân thật của nhân vật Mỹ cũng như lời nói của từng nhân vật không hàm chứa ẩn ý sâu xa, rất gần với lời nói thường trong phong cách giao tiếp ngoài đời. Viết về đề tài miền núi, Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn xuất sắc nhất của Tô Hoài. Cuộc sống khổ đau của Mỹ trong nhà thống lý Pa Tra được kể bằng giọng điệu dung dị điềm nhiên của người kể chuyện. Giọng điệu ấy hiện diện ngay từ những dòng mở đầu câu chuyện: "Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi". Giọng điệu điềm nhiên đượm vẻ khách quan hướng sự chú ý của độc giả vào hình ảnh trung tâm của bức tranh hiện thực – hình ảnh một cô gái lúc nào cũng "cúi mặt, mặt buồn rười rượi". Thực ra ở đây có sự đối nghịch giữa "vẻ mặt" điềm nhiên qua giọng điệu với sự tập trung chú ý của người kể chuyện. Từ đó, sự thật về cuộc đời cô 85
  16. gái trẻ dần dần hiện diện, từ món nợ định mệnh đến cảnh làm ăn, sinh sống với những nỗi khổ đau chồng chất cứ thấm dần vào tâm can và suy nghĩ của bạn đọc. Đến với cách mạng, cuộc đời của họ như sang một trang mới. Những chàng trai cô gái trẻ tự tin vào cuộc đời hơn, biết lo lắng cho công việc và lo lắng cho mọi người. A Phủ tự tin nói: "Đây không phải Hồng Ngài, A Phủ là tiểu đội trưởng du kích mà". Còn Mỹ sau bao nhiêu lo lắng băn khoăn, bây giờ cũng chủ động nghĩ rằng: "Không biết các người ở nhà thống lý bây giờ ra sao? Có theo du kích vào rừng không, có thoát được không?". Thể hiện chủ đề tư tưởng của nhiều tác phẩm viết về miền núi (Truyện Tây Bắc, Miền Tây, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ ), giọng điệu nghệ thuật của Tô Hoài khá nhất quán nhưng cũng có những biến đổi phù hợp. Chất giọng hóm hỉnh, suồng sã ít đi mà xen vào đó là những giọng điệu nghệ thuật khác. Giọng điệu suồng sã tự nhiên trong sáng tác của Tô Hoài thể hiện sự gắn bó chặt chẽ hữu cơ giữa văn chương với cuộc đời; tấm lòng yêu mến thiết tha cuộc sống của tác giả cho dù cuộc sống còn không ít gian truân vất vả, là dấu ấn đích thực của văn xuôi chân chính (theo quan niệm của Bakhtin). 3. Giọng điệu trữ tình bàng bạc chất thơ Bày tỏ thái độ trước cuộc sống hiện thực muôn màu muôn vẻ, Tô Hoài "không tự thu lại theo một giọng điệu văn chương nào"(Hà Minh Đức). Ngoài giọng điệu dí dỏm hài hước, giọng điệu suồng sã tự nhiên, giọng điệu chủ đạo "trời phú" của Tô Hoài còn là giọng trữ tình bàng bạc chất thơ - chất thơ của đời sống. Nếu giọng điệu chủ đạo của Nguyên Hồng là giọng trữ tình thống thiết bộc lộ tình thương vô hạn của tác giả trước những con người cùng khổ, thì giọng điệu trữ tình trong văn phong Tô Hoài đưa người đọc đến chiêm ngưỡng bức tranh sinh động, giàu chất thơ của đời sống thực. Cảm nhận trọn vẹn vẻ đẹp tự thân của hiện thực đời thường, không bay bổng du dương, giọng điệu trữ tình của Tô Hoài thể hiện tình cảm thiết tha với cuộc sống, với con người, với thiên nhiên của tác giả. Giọng điệu trữ tình trong sáng tác của ông bộc lộ hai sắc thái tình cảm chủ yếu: sắc thái hồn nhiên trong sáng và sắc thái bùi ngùi man mác. a. Sắc thái giọng điệu trữ tình hồn nhiên trong sáng Viết dưới cảm hứng sử thi, giọng điệu trữ tình mang âm hưởng ngợi ca trở thành phương tiện khẳng định vẻ đẹp lý tưởng của con người Việt Nam anh hùng. Nhà văn Anh Đức đưa người đọc đến chiêm ngưỡng vẻ đẹp lý tưởng của người con gái xứ Hòn - chị Sứ (Hòn Đất), trong hoàn cảnh khắc nghiệt - chị bị trói bên bờ suối, bằng giọng điệu trữ tình trang trọng, ngợi ca: "Đêm ấy trời lặng. Sóng biển rì rầm như kể những chuyện không bao giờ hết. Thỉnh thoảng, gió biển từ ngoài khơi lùa qua bờ bãi, thổi vào hơi thở ấm ấm mang vị muối. Tấm áo lụa mỏng ngắn tay của Sứ se se khô lại. Tóc chị rối cũng dần dần được 86
  17. gió biển vuốt cho ráo đi. Ánh trăng đổ tràn trên bờ suối, làm nổi rõ bóng Sứ đang quỳ, nổi rõ cây cọc nhú lên quá đầu chị độ một gang tay. Lát sau, tóc Sứ chợt vờn nhẹ. Thế rồi mái tóc ấy bồng lên, bay xoã theo chiều gió. Chẳng còn thấy đầu cây cọc kia đâu nữa. Chỉ có áng tóc tắm ánh trăng của Sứ đang bay lượn" Rõ ràng là, trước vẻ đẹp đượm chất sử thi của hình tượng nghệ thuật, giọng điệu của người kể chuyện mang âm hưởng trữ tình ngợi ca hào sảng. Viết dưới cảm hứng nhân văn đời thường, Tô Hoài ít đưa người đọc chiêm ngưỡng vẻ đẹp lý tưởng của con người Việt Nam từ giọng điệu trữ tình ngợi ca như thế. Giọng điệu trữ tình của Tô Hoài thường hồn nhiên trong trẻo trước vẻ đẹp tự thân của cuộc sống. Đó là vẻ đẹp của bức tranh sinh hoạt phong tục, vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên. Mấy ai đã quên bức tranh sinh hoạt thanh bình cùng cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp trong truyện ngắn Mường Giơn: "Một lúc, ba người đã hái được một ôm lá hương nhu. Trở ra, họ ngồi trên tảng đá lấy lẵng cơm nếp, gói thịt rồi sấy ra ăn trưa. Giữa trưa nắng hanh đọng vàng từng vũng trong rừng trám cao vút, im lặng. Một chiếc cuống lá gẫy cũng nghe tiếng. Bó lá hương nhu trên tảng đá thoảng mùi thơm dịu dịu trong nắng". Bức tranh thiên nhiên gợi vẻ đẹp nồng nàn say đắm của núi rừng được hiện diện từ chính những hình ảnh, màu sắc, mùi vị của nó. Chất thơ của cuộc sống được nhà văn cảm nhận trong khung cảnh thiên nhiên đậm màu sắc khách quan. Mùi hương thơm dịu dịu của cây lá hương nhu đưa người đọc trở về với cảnh sinh hoạt của con người. Trong sáng tác của Tô Hoài, mùi hương của cỏ cây hoa lá tạo chất thơ cho cuộc sống không chỉ gặp một lần trong truyện ngắn Mường Giơn. Ấn tượng khó quên trong Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ là mùi thơm của hương hồi trên mảnh đất xứ Lạng tươi đẹp. Mùi thơm đặc biệt ấy được nhà văn miêu tả qua giọng điệu trữ tình hồn nhiên trong trẻo: "Những cơn gió sớm đầu mùa hè, từ các đồi trọc Lộc Bình xôn xao xuống, tràn vào cánh đồng Thất Khê, lùa lên những hang đất Văn Uyên, Thoát Lãng trên biên giới xuống Cao Lộc, Chi Lăng, qua những vùng hồi mà một mảnh lá gãy cũng dậy mùi thơm, gió càng thơm ngát. Sông Kỳ Cùng đã nhạt hết màu đục đỏ bối rối suốt mùa lũ, bây giờ con sông bỗng ủ mùi thơm trong vắt lượn quanh co khắp đất Lạng Sơn vào mùa hồi chín". Cảm quan hiện thực đời thường khiến Tô Hoài cảm nhận thiên nhiên trong mọi "trạng thái" tồn tại tự nhiên của nó. Thiên nhiên miền núi đâu chỉ dữ dằn khắc nghiệt mà còn nồng nàn vẻ đẹp nên thơ. Chỉ một tín hiệu thẩm mỹ đặc sắc, bức tranh thiên nhiên ấy đã đem lại cảm giác nồng nàn say đắm cho con người. Tô Hoài "bao giờ cũng chắt chiu trân trọng những vẻ đẹp và chất thơ của đời sống" như thế (Phan Cự Đệ). ông "có khả năng quan sát tinh tế và nghệ thuật miêu tả linh động. Người, vật, thiên nhiên, cảnh sinh hoạt tất cả đều hiện lên lung linh, sống động, nổi rõ cái thần của đối tượng và thường bàng bạc một chất thơ (Trần Hữu Tá). Vậy nên khi miêu tả, những 87
  18. trang văn của Tô Hoài luôn đem đến một khoái cảm trực giác cho người đọc, khi từ mùi hương thơm của cỏ cây hoa lá, khi từ vẻ đẹp huyền ảo của ánh trăng trên đất Phìn Sa: "Đêm ấy, trăng sáng trên Phìn Sa. Những đêm đầu mùa hè, mây dày từng mớ, từng lớp vàng đẫm ánh trăng ủ khắp trên những cánh rừng tít tắp, những thung lũng làng mạc xa lạ, những cánh đồng rải rác đâu trong hóc núi không ai biết. Tất cả im lìm dưới kia. Tưởng trên mặt đất chỉ có Phìn Sa thức ở cao gần trời. Tiếng sáo người trai đi chơi khuya thấp thoáng ánh trăng. Khi trăng ngang đỉnh đầu, ngỡ có thể với tay tới như trong cổ tích người già thường kể" [82, 100]. Giọng điệu trữ tình trong trẻo được tạo bởi từ chính bản thân: đối tượng thẩm mỹ. Cảnh sắc thiên nhiên trong trường nhìn của Tô Hoài không bao giờ "chết". Bức tranh mỹ lệ trên đất Phìn Sa có màu vàng huyền ảo của ánh trăng thấm đẫm các cánh rừng, làng mạc, cánh đồng; có âm thanh tiếng sáo của người trai đi chơi khuya; có hình ảnh ánh trăng thức cao gần trời gợi vẻ đẹp tự thân của hiện thực. Khi viết cho các em thiếu niên nhi đồng, giọng điệu trữ tình trong trẻo của Tô Hoài tỏ ra đắc địa hơn bao giờ hết. Am hiểu đối tượng độc giả "nhí", giọng điệu này vừa tạo sự thích thú cho các em, vừa đạt tới mục đích giáo dục nhẹ nhàng thấm thía. Giọng điệu trữ tình trong trang văn Tô Hoài ít được tạo bởi từ hệ thống ngôn ngữ sử thi hay ngôn từ cầu kỳ mỹ lệ. Chất trữ tình bàng bạc trong nhiều trang văn của ông chủ yếu được hiện diện từ chính vẻ đẹp của cuộc sống. Con mắt quan sát tinh tế khiến nhà văn chọn lọc những yếu tố thẩm mỹ tự thân, đem lại vẻ đẹp mộc mạc bình dị trên từng trang văn của mình. b. Sắc thái giọng điệu bùi ngùi man mác Cùng với giọng điệu trữ tình hồn nhiên trong trẻo trước vẻ đẹp thi vị của cuộc sống và vẻ đẹp nên thơ của thiên nhiên, giọng điệu trữ tình của Tô Hoài còn mang sắc thái bùi ngùi cảm động. Sắc thái giọng điệu này bộc lộ rõ khi nhà văn viết về những gian truân trong cuộc sống sinh hoạt đời thường và hiện thực mà bản thân mỗi con người phải đối mặt, bởi đó là quy luật của cuộc sống. Miêu tả cuộc phiêu lưu của Dế Mèn và Dế Trũi (Dế mèn phiêu lưu ký), trước tình cảnh tuyệt vọng trên sông nước, qua mười ngày "cái đói ghê gớm cứ đánh liệt dần từng bộ phận trong người", Dế Trũi bộc lộ suy nghĩ với Mèn: "Em trộm nghĩ chết thì chết. Nhưng không nên chết cả, vô ích, ta phải tìm cách. Trũi cứ khẩn khoản rồi chìa càng lên mời tôi ăn. Trũi gượng cười bảo rằng: Trũi có cụt cả hai càng cũng không sao, không thể chết, vẫn khoẻ như thường. Trũi đã thấy có anh Dế cụt càng như thế. Tôi gạt phắt đi mà mắng Trũi. Sau cùng anh em tôi ôm lấy nhau mà khóc. Những giọt nước mắt thương nhau ấy đã làm Trũi yên tâm và bình tĩnh 88
  19. trở lại". Lời nói bùi ngùi và hành động của Trũi chứng tỏ "đức hy sinh" cao cả. Trong hiểm nguy, Trũi không nghĩ tới bản thân, sẵn sàng hy sinh "thân mình" cho "bạn". "Tình cảm" và "nghĩa cử" cao đẹp ấy là bài học giáo dục mang tính nhân văn sâu sắc. Trong dòng hồi ký "Cỏ dại ", nhân vật "Tôi" triền miên trong những kỷ niệm buồn buồn thời thơ ấu. Giọng điệu bùi ngùi trở nên hữu hiệu nhất để đưa người đọc trở về với những kỷ niệm xưa. Ở đó có cảnh "ông tôi hay đánh bà tôi, các dì tôi hay cãi nhau"; có cảnh bản thân "Tôi" những ngày ra Kẻ Chợ lủi thủi cọ chai và vần cái lốp ô tô hàng to tướng, rồi ngồi "nhổ ria cho chú Tưởng. Những hôm nắng ráo tắm xong, chú cởi trần ngồi giơ một tay lên đầu. Tôi cầm dịp nhổ lông nách cho chú. Nhổ đến trắng nhễ nhại, chẳng còn một bợn", để ngày tháng lặng lẽ qua; có cảnh trở về làng cõng em thơ thẩn đi chơi; cảnh suốt ngày giả làm ngựa cõng em, chạy thi với những đứa khác cũng đem em ra tụ họp đầy đàn ngoài sân đình thả cửa chơi nhông suốt ngày ; cảnh đúc dế, vào khung cửi tập dệt, nhặt lá đa, lá muỗm ở sân đình, ở cửa quán về cho bà đun bếp Rồi những ngày cắp sách đi học, thương thầy giáo nghèo, cả lũ bắn chim làm thịt mời thầy khi thầy ốm: "Thầy giáo tôi đã dậy, ngồi tựa lưng vào cái hòm phản, tôi ngắm nghía thấy thầy tôi già quá Ngày nào tôi cũng nhìn thấy giáo, thế mà hôm nay càng nhìn thì lại không nhận ra thầy mình mọi khi. Thầy tôi bỏ cái khăn lượt xuống, tóc thầy đã ngả màu muối tiêu hết. Hàng ria vểnh cứ chênh vênh vàng ám khói như ai dính vào đấy. Thầy nhom nhem gầy rộc, thầy chỉ còn hơi giống thầy mọi khi". Giọng điệu bùi ngùi xúc động không phải được tạo bởi từ sự gia công của câu chữ, mà xuất phát từ tình cảm chân thành của tác giả. Và những ngày thất nghiệp lang thang tìm kiếm việc làm ở đồng đất Hải Phòng, khiến nhà văn không khỏi thấm thía cảnh khổ đau của cái nghèo. Giọng điệu văn chương Tô Hoài thật da diết: "Cần bâng khuâng hỏi tôi trong bóng tối: - Không biết đời chúng mình cứ thế này đến bao giờ? Tôi không hiểu Cần băn khoăn về cuộc đời theo nghĩa đen hay nghĩa bóng, còn tôi thì tôi đương nghĩ đến một cái gì mơ hồ buồn lắm. Ngoài bến Sáu kho, đậu những con tàu trắng toát, những con tàu xám ngắt, thỉnh thoảng những con tàu ấy từ ngoài biển vào đỗ giữa những đám thuyền tam bản rách nát, đen xỉn, lờ đờ bơi quanh bờ nước. Vài hôm, con tàu đại dương lại rời cảng ra khơi. Tôi đứng trông theo ước cái thân được như tàu. Viển vông thế thôi chứ mình đương khác nào đám thuyền buồm rách, đời ngập luẩn quẩn trong vũng nước cửa bến sương mù buổi sáng từ mặt đất bốc lên, không xa quá vài bước". Âm hưởng bùi ngùi da diết trải dài trong nhiều tác phẩm của Tô Hoài bắt nguồn từ hiện thực của cuộc sống. Những năm trước cách mạng, cuộc sống quẩn quanh tù túng khiến con người bế tắc trong mưu kế sinh nhai. Họ lâm vào cảnh cùng đường tuyệt 89
  20. vọng. Sau cách mạng, giọng điệu văn chương Tô Hoài vẫn phảng phất bùi ngùi. Nhưng khác với giai đoạn trước, âm hưởng da diết bùi ngùi ấy chỉ xuất hiện khi nhà văn hoặc nhớ về những kỷ niệm buồn xưa hoặc bản thân phải đối diện với quy luật tất yếu (sinh, lão, bệnh, tử) của một đời người. Nhớ chuyến đi Viêng chăn, "bên cửa sổ buồng khách sạn Apôlô bên bờ sông Mêkông trông sang lưng phố bến Nông Khai bên kia. Rặng cây “mạy sặc” những chòm hoa đùn lên như dải mây vàng phủ dài. Chúng tôi trầm ngâm cả giờ nhìn sang sông lũ đỏ ngầu cách một mảng nước đã là Thái Lan Tự dưng, Xuân Diệu nắm tay tôi: - Chúng mình già rồi. Nhớ những đêm man dại ở Yên Dã, nhớ như in hơn bốn mươi năm trước, cũng tay tôi đây, Xuân Diệu vuốt lên, đắm đuối. Bây giờ nhìn nhau lặng yên. Tôi chợt buồn hơn cả câu Xuân Diệu nói. Xuân Diệu không già mà tôi mới là ông lão ". Giọng điệu buồn buồn còn hiện diện mỗi lần nhà văn xót xa cho cảnh đời của những số phận. Đây là nỗi lòng của Tô Hoài với đứa con gái nuôi và những người bạn một thời "để thương để nhớ": "Bây giờ Ly Chờ đã có bốn con. Cháu gái ngày nào theo mẹ xuống Hà Nội đã hai mươi tuổi, hơn mẹ những năm tuổi, khi mẹ đi làm giáo sinh chống mù chữ trên Văn Chải. Vợ chồng và hai đứa con nhỏ trở về Sà Phìn. Hai đứa lớn không về, thích ở xuôi và phố xá. Mỗi lần được thư chỉ thấy buồn và buồn. Lại được thư "bác Vù Mí Kẻ" đã về hưu, cũng về Sà Phìn. Bây giờ "bác ấy cũng gay lắm". Chua chát, nhớ Vù Mí Kẻ đã có nhiệm kỳ đại biểu Quốc hội được sang tận nước Nicaragoa bên nách nước Mỹ. Làm sao không buồn, bao nhiêu hy vọng rồi như thế. Con người hay xã hội, hay còn lại những gì. Ảo não thê lương, mỗi khi nhớ lại những miền hoang vắng ấy mà trong kháng chiến đã như nhà mình quê mình, chỉ thấy bóng người địu củi, vác nước và tiếng gọi lợn, gọi trâu ời ợi trong ráng chiều". Rõ ràng là, bên cạnh giọng điệu dí dỏm hài hước, suồng sã tự nhiên, giọng điệu chủ đạo của Tô Hoài còn là giọng trữ tình với nhiều sắc thái tình cảm. Chất giọng chủ đạo của Tô Hoài không bó gọn trong một giọng điệu văn chương nào. Tô Hoài là nhà văn của con người và cuộc sống đời thường, ở đó ông bộc lộ thái độ trước muôn màu muôn vẻ của cuộc sống. Các sắc thái làm nên giọng điệu chủ đạo của Tô Hoài chứng tỏ nhà văn sống trọn vẹn với con người và cuộc đời cả lúc vui cũng như lúc buồn, cả lúc khổ đau cũng như lúc sung sướng hạnh phúc. Trên hành trình hơn sáu mươi lăm năm sáng tạo nghệ thuật, viết về đề tài gì, đối tượng thẩm mỹ và thể loại nào, Tô Hoài cũng sáng tác chủ yếu trên một cảm hứng nhân văn đời thường. Chính cảm hứng ấy quy chiếu giọng điệu nghệ thuật chủ đạo của tác giả. Cảm nhận thú vị đầu tiên khi tiếp xúc với sáng tác của Tô Hoài có lẽ là giọng điệu. Tuy không phải là giọng trang trọng, thống thiết hay ngợi ca hào sảng mà người đọc vẫn thật khó quên. Giọng điệu dí dỏm, suồng sã, trữ tình của Tô Hoài trong nhiều 90
  21. tác phẩm viết về loài vật viết về cuộc sống quanh ta khiến người đọc cảm thấy gần gũi, nồng ấm, tươi nguyên sự sống. Không thể đến với nhà văn Tô Hoài khi không cảm nhận được những chất giọng "trời phú" ấy của tác giả. Từ chuyện sinh hoạt đến chuyện chính trị, từ chuyện mình đến chuyện người, từ chuyện cũ đến chuyện mới , chuyện gì Tô Hoài cũng có thể kể bằng cái chất giọng đặc biệt ấy. Giọng điệu nghệ thuật chủ đạo của Tô Hoài góp phần quan trọng khẳng định phong cách nghệ thuật tác giả. Bằng giọng điệu này, Tô Hoài cứ điềm nhiên chuyển tải mọi chuyện dở - hay trong cuộc sống sinh hoạt đời thường. Lâu nay giọng điệu suồng sã của Tô Hoài chưa được phát hiện nhận diện. Chúng tôi thấy rằng cùng. với giọng điệu dí dỏm, giọng điệu trữ tình, giọng điệu sướng sã mới làm nên sự trọn vẹn chất giọng "trời phú" của Tô Hoài. Nhờ giọng điệu này mà chúng ta có thể nhận ra rằng, từ những sự việc vốn bình thường trong cuộc sống cũng có thể trở thành chất liệu muôn đời cho văn chương. II. NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT DUNG DỊ, TỰ NHIÊN, ĐẬM TÍNH KHẨU NGỮ Tô Hoài vào nghề chủ yếu bằng tài năng bẩm sinh và con đường tự học, tự tìm tòi khổ luyện. Ông học trong sách, học ngoài đời, học ngay trong chính bản thân cuộc sống. Nhà văn không ngần ngại mà tâm sự rằng: "Ảnh hưởng đầu tiên đối với tôi, không nói về tư tưởng, lập trường chính trị, chính là người làng Nghĩa Đô của tôi Người ta nói thế nào, tôi cứ theo thế mà xào xáo thành văn" [132, 523]. Vậy là lời ăn tiếng nói của người dân làng Nghĩa Đô - nơi chôn rau cắt rốn của nhà văn đã là ngọn nguồn tạo nên ngôn ngữ và văn phong Tô Hoài. Ngôn ngữ ấy ngày ngày được bồi đắp và trở thành một hệ thống tín hiệu thẩm mỹ mang dấu ấn sáng tạo riêng. Tô Hoài rất thấm thía lời Mao Trạch Đông: "Phải học ngôn ngữ của quần chúng. Ngôn ngữ của quần chúng nhân dân vốn rất phong phú, sinh động, hoạt bát, nó biểu hiện cuộc sống thực tế. Có rất nhiều người chưa học ngôn ngữ nên khi viết văn và diễn thuyết không có được những lời lẽ sinh động, thiết thực, mạnh mẽ, chỉ ngay đơ như một cái thừng, lại gầy gò như người ốm đói, không thể được như một người tráng kiện, khoẻ mạnh" [97, 36]. Từ đó ông coi trọng việc học tập lời ăn tiếng nói của quần chúng nhân dân. Càng đi sâu tìm hiểu, tích luỹ ngôn ngữ quần chúng, Tô Hoài càng nhận thấy: "ngôn ngữ quần chúng là kho của cải vô giá, là nguồn bổ sung vô tận cho nhà viết tiểu thuyết". ông "trọng cái tinh hoa ngôn ngữ, trọng đến mức bái phục. Nhân dân chính là ông thầy lớn của mình về tiếng nói" [132, 528]. Ông còn nhận thấy, chính những người lao động trực tiếp là những người có lối nói rất sáng tạo. Bởi trong mưu kế sinh nhai, trong công việc làm ăn vật lộn với đất với trời, "ngôn ngữ của họ cũng sinh động theo công việc, biến đổi và luôn luôn sáng tạo". Thậm chí khi học lời ăn tiếng nói hằng ngày của quần chúng, Tô Hoài còn lắng nghe cách nói của mỗi người. Ông cho rằng "học tập cho biết được cách thức tiếng nói vận động không phải chỉ là đọc đối thoại và lối kiến trúc câu văn trong sách, hoặc đi xem kịch, chèo, cải lương, mà là nghe mọi người đối đáp, trò chuyện trong đời sống hằng ngày" [97, 38]. Từ quan niệm như thế, trong sáng tác của Tô Hoài, chúng tôi thấy tác giả sử dụng có ý thức lời ăn tiếng nói hằng ngày của quần chúng vào tác phẩm. Mỗi nhà văn, để phản ánh hiện thực cuộc sống, họ phải tìm cho mình một con đường phù hợp và sáng tạo nhất. Nếu Nam Cao chọn cái bi 91
  22. kịch của con người, Vũ Trọng Phụng tìm đến cái sắc lạnh của tiếng cười, Nguyên Hồng lấy trái tim nồng nàn nhiệt huyết đến với thế giới con người cùng khổ thì Tô Hoài tìm đến cái dung dị trong cuộc sống sinh hoạt đời thường. Chính nó đã tạo môi trường thuận lợi để ngôn ngữ quần chúng đi vào sáng tác của nhà văn một cách tự nhiên. Lời ăn tiếng nói của nhân dân lao động hiện diện trong sáng tác của Tô Hoài chủ yếu trên hai cấp độ: Từ ngữ (từ nghề nghiệp, từ thông tục, thành ngữ, quán ngữ) và câu văn (trong lời đối thoại - sử dụng câu văn đối thoại gần với phong cách khẩu ngữ tự nhiên). 1. Từ ngữ dung dị, tự nhiên như hơi thở của cuộc sống Theo M. Bakhtin thì người viết tiểu thuyết phải "tiếp thu vào trong tác phẩm của mình những tiếng nói và ngôn ngữ khác nhau trong ngôn ngữ văn học và phi văn học, nhưng không làm chúng suy yếu đi mà thậm chí còn khơi động thêm chúng" [5, 113]. Chính vì vậy, mỗi nhà văn, tuỳ theo "cái tạng" của mình mà lựa chọn hệ thống ngôn ngữ cho phù hợp. Nếu Nguyên Hồng luôn có nhu cầu thể hiện cảm xúc ở cường độ cao, nhà văn lựa chọn hệ thống ngôn ngữ giàu sức biểu cảm, thì Tô Hoài xuất phát từ cảm quan hiện thực, cảm hứng nhân văn đời thường, nhà văn có ý thức học tập lời ăn tiếng nói của quần chúng nhân dân lao động, vận dụng một cách sáng tạo, ghi dấu ấn riêng đặc sắc trong quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc mang tính chuyên nghiệp của mình. Vì thế, trên từng trang văn của ông, người ta ít thấy ngôn ngữ cầu kỳ mang tính quan phương. Hệ thống ngôn ngữ được nhà văn sử dụng thường rất dung dị, tự nhiên mang hơi thở của cuộc sống bình dị. Hệ thống ấy bao gồm từ ngữ nghề nghiệp, từ ngữ thông tục và những thành ngữ, quán ngữ. Khảo sát hệ thống từ ngữ của Tô Hoài trong một số tác phẩm tiêu biểu chúng tôi thấy (xem bảng 3.1): Bảng 3.1. Tỷ lệ Từ ngừ nghề Từ ngữ thông Thành ngũ, tính số nghiệp tục quán ngữ trên Tác Phầm Tác em tranh trang số số số số số số văn lượng lần lượng lần lượng lần bản Quê người Tô Hoài 293 63 157 1 65 191 130 134 1,64 Mười năm Tô Hoài 379 39 59 168 186 148 153 1 ,05 Quê nhà Tô Hoài 290 57 113 96 112 111 131 1 23 Tắt đèn Ngô Tất 165 10 18 38 43 33 33 0,57 Tố Truyện Nam người hàng Cao 134 5 6 37 42 32 34 0,61 xóm 92
  23. Tô Hoài sử dụng hệ thống từ ngữ bình dân với tần số cao. Xét trên những tác phẩm mà chúng tôi khảo sát, nếu Ngô Tất Tố cứ hơn 175 trang văn bản có một lần xuất hiện từ ngữ bình dân; Nam Cao cứ gần 1,64 trang văn bản có một lần xuất hiện từ ngữ bình dân, thì Tô Hoài tần số xuất hiện lớn hơn hẳn, trung bình cứ 1 trang văn bản có 1,3 lần xuất hiện từ ngữ bình dân. Có nhiều lý do khiến từ ngữ bình dân được nhà văn sử dựng với tần số cao: Thứ nhất là, hơn sáu mươi lăm năm sáng tạo nghệ thuật, Tô Hoài sáng tác chủ yếu trên cảm quan hiện thực và cảm hứng nhân văn đời thường. Thứ hai là, hoàn cảnh xuất thân và ý thức nghề nghiệp khiến Tô Hoài luôn gắn bó thiết tha với những con người bình dị. Ở đó ông có ý thức học hỏi lời ăn tiếng nói của nhân dân lao động. Thứ ba là, từ trong tiềm thức, Tô Hoài luôn quan niệm mỗi người đều phải sông trong những mối quan hệ cụ thể - quan hệ tình cảm, quan hệ công việc. Môi trường sinh hoạt đặc thù ấy đưa lời ăn tiếng nói hằng ngày của quần chúng nhân dân vào tác phẩm văn chương. a. Từ ngữ nghề nghiệp Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn Từ vựng tiếng Việt quan niệm: "Từ nghề nghiệp là những từ biểu thị công cụ lao động, sản phẩm lao động, và quá trình sản xuất của một nghề nào đó, thường chỉ được những người trong ngành đó biết và sử dụng". Nhất trí với ý kiến đó, Đinh Trọng Lạc trong cuốn 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt đã nhấn mạnh: "Từ nghề nghiệp nằm trong từ vựng của ngôn ngữ văn hoá. Từ nghề nghiệp thường được dùng trong khẩu ngữ của những người cùng nghề nghiệp". Từ những tiêu chí coi từ ngữ nghề nghiệp là những từ biểu thị công cụ lao động, sản phẩm lao động và quá trình sản xuất của một nghề nhất định, thường chỉ những người trong một nghề mới biết rõ và sử dụng, chúng tôi khảo sát một số tác phẩm tiêu biểu của Tô Hoài và nhận thấy (xem bảng 3.2): Bảng 3.2. số Từ ngữ nghề nhiệp Tỷ lệ tính trên Tác phẩm Tác giả trang trang văn bản Số lượng Số lần Quê người Tô Hoài 293 63 157 0,54 Mười năm Tô Hoài 379 39 59 0 16 Quê nhà Tô Hoài 290 57 113 0,39 Tắt đèn Ngô Tất Tố 165 10 18 0,11 Truyện người Nam Cao 134 5 6 0,05 hàng xóm 93
  24. Nhà văn sử dụng từ ngữ nghề nghiệp khá đa dạng và phong phú (so với những tác giả mà chúng tôi so sánh). Trong đó có cả nghề thủ công, nghề sông nước và nghề nông nghiệp. Khi Ngô Tất Tố cứ 9 trang văn bản có một từ ngữ nghề nghiệp; Nam Cao cứ hơn 20 trang văn bản mới có một từ ngữ nghề nghiệp; thì Tô Hoài, tỷ lệ trung bình là cứ 2,7 trang văn bản xuất hiện một từ ngữ nghề nghiệp. Hơn thế, nghệ thuật sử dụng từ ngữ nghề nghiệp của Tô Hoài đem lại một sắc thái mới trong văn chương. Ngay từ những trang văn đầu tay, như một sự lựa chọn định mệnh, nơi chôn rau cắt rốn với làng nghề truyền thống mang giá trị văn hoá lâu đời trở thành cái nôi nghệ thuật trong cuộc đời sáng tạo của Tô Hoài. Từ đó đến nay, nhà văn vẫn gắn bó thuỷ chung và ngày càng sâu sắc. Sau cách mạng, mảnh đất và con người miền Tây đã "để thương để nhớ" với Tô Hoài nhiều quá, khiến ông "không thể bao giờ quên" và nó đã trở nên máu thịt với ông trên con dường sáng tạo văn chương. Hai vùng quê nghệ thuật với từng nghề nghiệp đặc trưng đã đi vào trang văn của Tô Hoài. Từ ngữ nghề nghiệp ở từng vùng quê thấm vào lời ăn tiếng nói của từng nhân vật. Bởi trong tiềm thức, Tô Hoài quan niệm, mỗi con người đều gắn với một nghề nhất định: nghề lĩnh, nghề lụa, nghề canh cửi nghề giấy, nghề sông nước, nghề cày cấy với chủ nhân của nó là những thợ hồ, thợ tơ, thợ cửi, thợ cày, thợ bừa trong từng công việc: đưa thoi, dệt lụa, quay tơ, đánh suốt, làm hồ, dệt cửi, vầy tơ chèo thuyền, đẩy thuyền Gắn bó với quê hương, nhà văn hoà trong những vui buồn cùng người dân làng nghề. ông vui với niềm vui chung và buồn cùng với những gian truân nhọc nhằn trong mưu kế sinh nhai của họ. Đó là cảnh miệt mài với công việc trong những ngày mới sắm được khung cửi của vợ chồng anh Hời (Quê người): "Ở một nếp nhà ba gian, hai chái, giữa một khoảng vườn nhỏ vẫn còn thấp thoáng ánh đèn và có tiếng dệt cửi, có tiếng quay tơ. Ngó qua khe cửa liếp, người ta thấy một người đàn ông ngồi trên khung cửi cắm cúi đưa thoi, thoi đưa liền liền, thoăn thoắt qua mặt chỉ vàng mua. Chiếc đèn ba dây treo cạnh đấy đủ sáng cho một người đàn bà ngồi quay tơ. Người đàn bà ngồi duỗi chân trên phản, tựa lưng vào cột, một tay giữ môi tơ, một tay xoe đều đều chiếc lồng. Cái lồng cuốn tơ vào ống, chiếc vầy ở dưới tháo tơ ra. Tiếng lóc cóc lóc cóc ròn rã và nhịp nhàng. Đôi khi người đàn bà ngừng tay quay, đặt ống xuống gỡ một cát ghẻ tơ, hoặc nối một đoạn tơ xâu Không có sự am hiểu thấu đáo và kho từ ngữ nghề nghiệp phong phú, làm sao nhà văn có thể miêu tả từng công việc, từng động tác, một cách chính xác đến vậy? Những động tác nhanh nhẹn dứt khoát của anh Hời, những thao tác nhẹ nhàng đẹp mắt của cô Ngây khiến bức tranh vừa sinh động, vừa in đậm dấu ấn nghề nghiệp của một làng nghề truyền thống. Là cảnh nghề lĩnh và nghề tơ tằm khi không còn ngóc dậy được nữa, ống xót xa, trăn trở. Mỗi phiên chợ, nhìn thấy cảnh "cuộn hàng ế nguyên như phiên trước, những góc gấp vì mở ra mở vào nhiều đã gãy nếp, nát nhừ", nhà văn không khỏi lo lắng. Rõ 94
  25. ràng là, trách nhiệm với con người và cuộc đời trong mưu kế sinh nhai khiến trang văn của Tô Hoài đậm tính nhân văn truyền thống. Không những làng nghề thủ công với những từ ngữ nghề nghiệp mang lại vẻ đẹp mộc mạc, bình dị trên trang sách của Tô Hoài, mà nghề sông nước, nghề nông nghiệp cùng với những dấu ấn công việc đặc thù cũng trở thành tín hiệu thẩm mỹ trong sáng tác của ông. Viết Nhà Chử, nhà văn đã vận dụng từ ngữ của vùng sông nước, nghề sông nước thể hiện sức mạnh, vẻ đẹp của con người và thiên nhiên. Những từ nghề nghiệp như: úp mai, lật mai, chống sào, đẩy thuyền, đốc sào, mái chèo cắt nước, vặn chão, bẻ lái vừa chống vừa chèo thậm chí cả những thành ngữ, tục ngữ: Sóng mùa nước mát, Lặn ngòi ngoi nước, Sóng gầm con bú, Sóng hú mẹ ăn được vận dụng đúng lúc, đúng chỗ và rất sáng tạo mang lại hiệu quả thẩm mỹ cao. Hãy xem Tô Hoài miêu tả nỗi gian truân và ý nguyện của chàng Cho (Nhà Chử) từ khi mới lọt lòng mẹ: "Cha mẹ sinh ra Chủ trên sông nước. Sóng gầm con bú. Sóng hú mẹ ăn. Chử lặn ngòi ngoi nước từ lọt lòng. Chứ chưa được biết bến Tự Nhiên ở phương trời, nhưng từ thuở bé, câu chuyện về nơi bến quê xa xôi kia đã ghi tạc như một khắc khoải, một nhắc nhở vào lòng Chủ". Đoạn văn với những thành ngữ, tục ngữ nghề nghiệp hàm súc diễn tả súc tích những gian truân thử thách của người làm nghề sông nước. Chính những gian truân, nhọc nhằn ấy đã hun đúc ý chí và làm nên sự thoáng đạt ở họ. Trong gia tài đồ sộ của mình, Tô Hoài có một số lượng tác phẩm đáng kể viết về đề tài miền núi. Với sự gắn bó sâu sắc và thông hiểu cuộc sống, phong tục của đồng bào các dân tộc, nhà văn đã ghi lại công việc mang tính đặc thù. Từ những việc "bếp núc": quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ cửi, cõng nước, khía nhựa quả thuốc phiện, giặt đay, xe đay, bẻ bắp, hái củi, bung ngô , đến những công việc nặng nhọc: làm nương, phát nương, cày nương, cày ruộng, bừa ruộng, làm cỏ, trồng sắn, cấy, gặt, được nhà văn miêu tả đầy ấn tượng qua ngôn ngữ nghề nghiệp. Hãy xem cảnh cày nương của cán bộ Trở Ký (Lên Sùng Đô) với một niên tin "bây giờ mà làm nương cày được thì không phải đi đâu nữa": "Trở Ký đặt cày, lừa trâu vào vai. Không mỗi lúc đã cày được dễ. Cái cày Mèo to tướng, cày khó như nắm hai chân sau con dê mà lôi đi. Loay hoay một lúc mới đóng nổi trâu vào vai cày, đến khi đi được mấy đường đã choãi tay, chỉ muốn đứng. Nương dốc, con trâu bước nghiêng cả chân, người phải cúi gầm lấy sức, người ấn cày dữ dội như xả, như thúc đất ra. Chẳng bao lâu, những luống đất xám đỏ đã lần lần lượn lổm ngòm khắp sườn núi". Hệ thống từ nghề nghiệp đã tham gia đặc tả thành công công việc mang tính đặc thù của mảnh đất vùng cao. Nỗi nhọc nhằn gian truân cùng ý chí quyết tâm bám đất bám đồi khiến việc làm của họ càng thêm ý nghĩa. Rõ ràng, từ ngữ nghề nghiệp ở mỗi vùng quê mang đặc thù riêng đã in đậm trên nhiều trang văn của Tô Hoài. Viết về đề tài Hà Nội, từ ngữ nghề dệt lĩnh, nghề làm 95
  26. giấy; viết về đề tài miền núi, từ ngữ nghề nông, công việc đặc thù góp phần làm nên vẻ đẹp mộc mạc, bình dị và bức tranh hiện thực nồng ấm trong sáng tác của Tô Hoài. Hệ thống từ ngữ nghề nghiệp mang dấu ấn đặc thù thể hiện tấm lòng gắn bó thiết tha với quê hương, đất nước và sự trân trọng, tự hào với truyền thống văn hoá dân tộc của Tô Hoài. b. Từ ngữ thông tục Theo Từ điển tiếng Việt, từ thông tục là từ khi phát ngôn "phù hợp với trình độ của quần chúng đông đảo, quần chúng dễ hiểu, dễ tiếp thu. Trong đó có những từ được dùng "quá thông thường, tự nhiên, thuộc từ ngữ chỉ quen dùng trong lớp gọi là kém văn hoá" mà người ta có thể gọi là từ thô tục. Cùng với ý kiến đó, Đinh Trọng Lạc trong cuốn 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt cũng quan niệm, "từ thông tục là những từ chỉ được dùng trong lời nói miệng thoải mái, thậm chí thô lỗ, tục tằn". Như vậy từ thông tục có hai cấp độ, một là những từ sử dụng thông thường mà quần chúng dễ hiểu, dễ tiếp thu; hai là những từ thô lỗ tục tằn chỉ dùng trong lời nói miệng thoải mái. Cả hai cấp độ này thường xuất hiện trong môi trường giao tiếp dân dã đời thường. Khảo sát từ ngữ thông tục trong một số tác phẩm tiêu biểu của Tô Hoài và một số tác phẩm của các nhà văn khác chúng tôi thấy (xem bảng 3.3): Bảng 3.3. số Từ ngữ nghề nhiệp Tỷ lệ tính trên Tác phẩm Tác giả trang trang văn bản Số lượng Số lần Quê người Tô Hoài 293 165 191 0,65 Mười năm Tô Hoài 379 1 68 186 0,49 Quê nhà Tô Hoài 290 96 1 12 0,39 Tắt đèn Ngô Tất Tố 265 38 43 0,16 Truyện người Nam Cao 134 37 42 0,3 hàng xóm Từ ngữ thông tục đã được khá nhiều nhà văn dùng làm phương tiện sáng tạo nghệ thuật, đặc biệt là các nhà văn thuộc dòng văn học hiện thực phê phán. Thế nhưng, hệ thống từ ngữ thông tục của Tô Hoài có những đặc sắc riêng. Thứ nhất là tần số xuất hiện từ ngữ thông tục của Tô Hoài chiếm tỷ lệ khá cao (so với tác giả mà chúng tôi so sánh). Nếu Ngô Tất Tố cứ hơn 6,2 trang văn bản mới xuất hiện một từ ngữ thông tục; Nam Cao cứ 3,3 trang văn bản có một từ ngữ thông tục; thì Tô Hoài trung bình cứ gần 2 trang văn bản có một từ ngữ thông tục. Thứ hai là, hệ thống từ ngữ ấy lại được tạo bởi rất đa dạng, có thể từ những từ ngữ thông tục có trong tiếng phổ thông, có thể từ 96
  27. ngữ có trong tiếng phổ thông nhưng được người dân dùng với nghĩa khác và những từ chỉ có trong tiếng nói của người dân làng Nghĩa Đô. Vấn đề này đã được Võ Xuân Quế bước đầu đề cập trong bài viết Ngôn ngữ một vùng quê trong các tác phẩm đầu tay của Tô Hoài. Thứ ba là, nhà văn sử dụng chúng một cách sáng tạo và rộng rãi, hoặc để tạo mối quan hệ thân mật suồng sã trong giao tiếp, hoặc để tham gia khắc hoạ tính cách, phẩm chất, thói tật của nhân vật, hoặc để tạo ấn tượng khó quên trong lòng người đọc trước bức tranh hiện thực cuộc sống muôn màu muôn vẻ Như vậy là, hệ thống từ ngữ thông tục trong sáng tác của Tô Hoài có tính ổn định, có nét sáng tạo độc đáo góp phần thể hiện phong cách nhà văn. Khác với từ ngữ trau chuốt, mỹ lệ của Nguyễn Tuân, từ ngữ của Tô Hoài dân dã, bình dị gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân lao động. Chỉ kể đến nghệ thuật sử dụng đại từ nhân xưng của Tô Hoài, chúng ta đã có thể cảm nhận rành rõ và sâu sắc điều này. Khi thân mật, thì gọi nhân vật là bác, thím, chị, chú, cô, cập, Khi bực bội, giận dữ thì gọi bằng con đĩ dại, thằng mất dạy, thằng khốn nạn, Khi tỏ ý coi thường thì gọi là con ranh, thằng trẻ ranh, nứt mắt, ngữ ấy Như vậy là, ở bình diện nào, trong cung bậc tình cảm nào, Tô Hoài cũng thể hiện thái độ của mình một phần nhờ đại từ gọi tên như thế. Hãy lắng nghe cuộc bàn chuyện đại sự của anh Hời (Quê người) - con trai bà Vạng, cháu ruột ông Nhượng (chúng tôi chú thích): "Ông Nhượng rít một hơi thuốc lào, đờ đẫn nhìn khói thuốc, rồi chiêu một ngụm nước. Đoạn ông mới nói: - Cũng được đấy. Món ấy kháu. Làng ta, tìm cô con gái nhà giàu đỏng đà đỏng đảnh, thì món ấy vào bậc khớ rồi. Nhưng chỉ hiềm nỗi thằng trưởng Khiếu hư. - Ấy tôi cũng đã nghĩ đến chỗ ấy. Nhưng nó cũng đã có vợ con, ở riêng ra rồi. Vả lại, nó còn ít tuổi, ngông ngáo. - Cái ấy cũng được. Cái giấy "cáo bạch" hôm nọ cũng của nó dán. - Giấy gì? - Cái giấy nói xấu ông Nhiêu Thục. - Chết chửa! Tôi chẳng biết gì. - Ông Ba Cần bảo với tôi rằng chính thằng trưởng Khiếu dán cái giấy ấy. - Con nhà giời đánh nhỉ? - Tôi nghĩ nên hỏi cái Ngây cho nó là phải. Những điều kia khác thì cũng nên bỏ đi Bà Vạng tủm tỉm: Xem ý cu cậu thích mê". Đoạn văn bàn về chuyện vợ con cho anh Hời. Câu chuyện có hai nhân vật trực tiếp tham gia (bà Vạng và ông Nhượng) và năm nhân vật gián tiếp được nhắc đến (cô 97
  28. Ngây, anh Hời, "thằng trưởng Khiếu", ông Nhiêu Thục, ông Ba Cần). Hai nhân vật tham gia trực tiếp vào câu chuyện được người kể chuyện gọi bằng đại từ trung tính - ông (Nhượng), bà (Vạng). Đối tượng chính được cả bà Vạng và ông Nhượng quan tâm là cô Ngây. Trong câu chuyện, cô Ngây được ông Nhượng gọi bằng "món ấy" (hai lần) -"món ấy kháu', "món ấy vào bậc khó". Cách gọi này tuyệt nhiên không hàm ý mỉa mai, chê trách, ngược lại còn là một lời khen, một sự đồng ý. Anh trưởng Khiếu hư hỏng, bà Vạng gọi là "con nhà giời đánh". Cụm từ này đặt trong một câu hỏi tu từ mang nghĩa khẳng định - khẳng định sự hư hỏng của anh trưởng Khiếu (khi nghe ông Nhượng kể về tờ giấy cáo bạch), đồng thời còn tỏ ý chê bai, bất bình. Cách gọi nhân vật như thế mang màu sắc giao tiếp khẩu ngữ tự nhiên thông thường, gợi không khí thân mật, suồng sã. Thế giới nhân vật của Tô Hoài là thế giới nhân vật bình dị. Mọi phẩm chất, thói tật đều hiện diện tự nhiên trong môi trường sinh hoạt và lao động nghề nghiệp của họ. Bàn về công việc làm ăn trong những ngày khó khăn, Ngây đã chủ động nói với chồng: "- Hay là nghe bầm, nhà ạ. Hời đáp: - Tôi cũng định bảo nhà thế. Ngây chép miệng: - Mà phải. Ta nghỉ quách. Nhà lại đi dệt cửi như năm ngoái. Tôi vơ váo con tơ về quay hay là đi làm hồ". Trong Từ điển tiếng Việt, "vơ váo" thường dùng chỉ sự tham lam "lấy về cho mình một cách vội vàng" tỏ thái độ chê bai (thấy cái gì cũng muốn vơ váo). Ở văn cảnh này, từ "vơ váo" không được dùng với nghĩa gốc, mà để chỉ phẩm chất của cô Ngây, cần cù, chịu khó, biết tính toán, tự lực cánh sinh, không muốn dựa dẫm ỷ lại vào người khác. Miêu tả đức tính của Hời, tác giả viết: "Người ta cố kỉnh làm ăn cho người ta cũng có khác. Trước kia, Hời ít đầu tắt mặt tối như thế. ăn cơm ngữ, dệt lĩnh lấy tiền tấm, anh làm phải khoảng, có chừng. Cuộc đời đứng đắn lên từ khi có vợ. Từ cố kinh không có trong Từ điển tiếng Việt. Đây là từ được dùng trong phạm vi làng Nghĩa Đô, nhà văn chỉ đức tính chịu thương chịu khó của anh Hời từ khi có vợ và sắm được một khung cửi làm riêng. Đoạn văn có bốn câu tác giả sử dụng một thành ngữ (đầu tắt mặt tối) và ba từ thông tục (cố kinh, cơm ngữ, phải khoảng). Tất thảy đều hướng tới công việc làm ăn trong mưu kế sinh nhai của người thợ thủ công nghèo và bản chất thu vén, tính toán nhỏ nhặt cố hữu của họ. Đặc tả thói hư tật xấu tiềm ẩn trong mỗi con người, hệ thống từ ngữ thông tục cũng tỏ ra rất có hiệu quả. Tính cách của Chính (Mười năm) được tác giả gói gọn trong một từ thô tục như thế này: 98
  29. " Chính có nhiều nhân tình. Quần áo đưa giặt là, mỗi cái Chính đánh dấu số nhà của một người yêu, thỉnh thoảng, Chính lại viết một dãy tên người yêu, rồi cộng lại ngắm nghía, thú vị. Chính rất chịu khó chim gái. Cô con gái ông phán kho bạc đi xe nhà, Chính ném thư vào xe, cô ấy cau mặt, xé thư, nhổ một đống nước bọt. Lần sau, Chính vẫn đuổi theo, cười, ném cái thư khác". Gói gọn trong một từ thô tục - chim gái, tính cách của nhân vật Chính bộc lộ rõ - một con người lười nhác, bệnh hoạn và thiếu lòng tự trọng. Đặc tả tính cách của các cô gái mới lớn, nhà văn dùng từ "đoảng": + "Cái Lụa phải lòng thằng Nguyên, mê nhau như ăn phải bùa. Nó xui gì mà chẳng nghe. Cũng có nhẽ. Nom thằng Nguyên có mã người hơn thằng này. Nhưng con gái thế thì đoảng rồi" [92, 160] . + "Dáng hẳn cũng có thế nào? - Đâu như có thế. Tay đôi đã dan díu khiếp lắm rồi. - Con gái bây giờ đoảng cả" [92, 396]. + "Chết thật! Chết thật! Con bé đoảng đến điều là đoảng. Nó ăn no rồi nó đi chơi. Cái nước này là nó lại muốn người ta réo mả bố nó lên đấy thôi. Cô cứ về đi, chốc nữa tôi xin lôi nó lên tận nơi" [61, 156]. + "Con bé thế mà đốn. Hừm, thời buổi này, ai biết đâu được. Mới nứt mắt ra. - Con gái không có mẹ là chúa đoảng" [61, 44] . Từ "đoảng" trong Từ điển tiếng Việt nghĩa là "vụng về lơ đênh", nhưng ở đây Tô Hoài dùng với nghĩa phê phán - phê phán thói hư của các cô gái mới lớn. Cả bốn ví dụ trên đều được dùng với nghĩa này. Như vậy từ "đoảng" đã được thông tục hoá với nét nghĩa mới đặc tả thói tật nhân vật. Trong hệ thống từ ngữ thông tục của Tô Hoài, chúng tôi thấy nhà văn hay đưa tiếng "chửi" vào những văn cảnh cụ thể, thể hiện nhiều trạng thái khác nhau trong cuộc sống sinh hoạt. * Hoặc như một câu nói cửa miệng do thói quen, một câu chửi + Bà Ba chửi yêu đứa cháu gái: "- Cha con đẻ mẹ mày, giữ đá giữ nộm vừa vừa chứ" [61, 22]. + Bà Xuất chửi yêu đứa con gái: " Cha mẹ đẻ mày" [100, 247]. * Hoặc bộc lộ một cá tính xấu, một thói tật khó kìm chế: 99
  30. + Anh Thoại chửi vợ: " Mày muốn kêu giời phỏng? Mả mẹ mày!" [61, 236]. + Bà Thủ Dân chửi "đứa nào ăn nói hàm hồ": "Úi giời ơi Đẻ mẹ đứa nào ăn nói hàm hồ " [61, 168]. + Trần Hùng chửi vợ "- Tiên sư mày! Thế này thì quẳng cho chó cũng không nuốt được ông đã dặn thế. ông đưa bao nhiêu tiền" [l04, 252]. v.v Dù được dùng với hàm nghĩa nào, người nói và người nghe đều cảm nhận theo đúng nghĩa mà văn cảnh của nó đem lại. Viết về đề tài miền núi, nhờ thông hiểu lời ăn tiếng nói của người dân, Tô Hoài có cách thể hiện riêng. Nhớ lại những ngày đầu thất bại ở tập Nút cứu quốc, Tô Hoài tự rút ra bài học: "Nét đặc biệt trong tiếng nói các dân tộc anh em là ở những thành ngữ, những lời nói, nhưng hình ảnh, không phải ở mấy tiếng ngẩn ngơ kia" [97, 44]. Bài học kinh nghiệm ấy được nhà văn hoàn thiện ở tập Truyện Tây Bắc, tiểu thuyết Miền Tây, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, Nhớ Mai Châu, Họ Giống ở Phía Sa, Lời nói thông tục" của người dân miền núi là lời nói ngắn gọn, cụ thể, giàu hình ảnh. Đây là lời nói của A Phủ (Vợ chồng A Phủ) trong buổi đầu gặp cán bộ A Châu: "- Ăn cơm chưa? ăn cơm nhà ta đi. ( ) - Ở đâu về đây? ( ) Ngoài nào? ( ) - Có phải là cán bộ? ( ) - Nó là cán bộ! ( ) - Pa chính! ( ) - Tao thù mày? ( ) - Một đời tao chưa thấy cán bộ mà thằng Tây đồn Bản Pê bảo tao nuôi cán bộ, nó 100
  31. đánh tao, cắt tóc tao". Lời A Phủ ngắn gọn mộc mạc thể hiện tính tình bộc trực thẳng thắn, đem lại vẻ đẹp giản dị, chân thật, đáng yêu, khẳng định giá trị thẩm mỹ mới trong văn chương Tô Hoài. Không những thế cách diễn đạt của họ còn rất giàu hình ảnh, sinh động, cụ thể. Nhớ về cuộc đời cũ khổ đau tăm tối, bà Giàng Sùa (Miền Tây) nghĩ: "Dù sao thì ngày hôm qua còn tốt tươi hơn ngày hôm nay và đời người thì ngày càng tàn, tàn rụi như cái củi nào rồi cũng cháy thành than". Hình ảnh cái củi cháy thành than là kết quả của lối tư duy hình ảnh hoá của người dân miền núi. Cụ thể hoá hình ảnh như thế chứng tỏ tác giả rất am hiểu lối tư duy, cách diễn đạt của họ. Sẽ là không đầy đủ nếu nghiên cứu hệ thống từ ngữ thông tục của Tô Hoài mà không nhận thấy những đóng góp đáng kể của tư ngữ mang tính tạo hình trong văn phong tác giả. Từ ngữ mang tính tạo hình có giá trị khắc hoạ hình dáng, đường nét, màu sắc đối tượng. Lối nói giàu hình tượng của ngôn ngữ quần chúng được nhà văn vận dụng sáng tạo mang lại hiệu quả thể hiện cao. Có những từ chỉ gặp một lần mà người ta nhớ mãi bởi nó ghi lại hình ảnh bằng ngôn từ thông tục giàu tính tạo hình. Ví dụ 1: Từ cung cúc Trong Từ điển tiếng Việt, từ cung cúc "chỉ dáng đi cắm cúi và nhanh vội". Tô Hoài đã sử dụng triệt để ý nghĩa tự thân của nó, đặc biệt là giá trị tạo hình. - Trong tiểu thuyết Quê người, hình ảnh anh Hời: "Hễ có việc phải đi đâu, anh chạy cung cúc để về cho chóng. Dễ đến hàng phiên chợ, anh không bước ra tới đầu xóm". - Trong tiểu thuyết Mười năm, hình ảnh người đi chợ về: "Đôi lúc có một người về, cung cúc đi như chạy, cái đẫy vẫn trĩu trên lưng, cô lên mấy chục thước lụa ế đeo về". - Trong tiểu thuyết Quê nhà, hình ảnh ông Vạn: "Lão Vạn cười giơ tay tạt đám râu ria sang mang tai rồi cung cúc chạy gọi thằng con" ". - Trong tiểu thuyết Đảo hoang, miêu tả hai anh em Gấu: "Mon cầm lao đi trước. Gấu anh và Gấu em, mỗi thằng đeo cổ một cái giỏ, bước cung cúc, lưng gấu càng gù xuống hơn". - Trong hồi ký Cát bụi chân ai, hình ảnh Nguyên Hồng: "Nguyên Hồng cung cúc bước ra, lấy xe đạp, cũng chẳng ai buồn gọi lại. Đã biết tính nhau nhiều” Từ cung cúc gợi dáng vẻ tất bật, vất vả rất phù hợp với cuộc sống vốn không ít gian truân của người dân lao động Việt Nam. Ví dụ 2: Từ hủn hoẳn Trong Từ điển tiếng Việt, từ hủn hoẳn mang nghĩa "ngắn quá đến mức khó coi", 101
  32. Tô Hoài sử dụng khi miêu tả đối tượng với nghĩa thực như thế. - Truyện ngắn Dế mèn phiêu lưu ký: "Đôi cánh tôi trước kia ngắn hủn hoẳn bây giờ thành cái áo dài kín xuống tận chấm đuôi” - Trong tiểu thuyết Mười năm: "Chúc xô mọi người đứng lên. Nhưng Chúc thấp bé hủn hoẳn, mà Lạp chỉ vươn qua cái bàn đã cao gấp đôi Chúc" Trong hồi ký Cát bụi chân ai: "Chiếc đầu máy kéo vài toa hủn hoẳn, như con chuồn chuồn bị cụt đuôi" Bên cạnh hệ thống từ ngữ thông tục có trong từ điển được Tô Hoài sử dụng rất hiệu quả, nhà văn còn có ý thức sáng tạo hệ thống từ ngữ để làm giàu cho kho từ vựng của mình. Ví dụ 3: Từ âm xâm “Mỵ bàng hoàng tỉnh. Buổi sáng âm xâm trong cái nhà gỗ rộng" [106, 444]. Từ âm xâm không có trong Từ điển tiếng Việt. Sáng tạo từ này, nhà văn vừa gợi vẻ âm u gây cảm giác nặng nề, vừa gợi sự lạnh lẽo trống trải rất phù hợp với hoàn cảnh Mỹ bị trói đứng trong nhà thống lý Pa Tra. Ví dụ 4: Từ gối Trong Từ điển tiếng Việt, từ gối có nhiều nét nghĩa, trong đó có nghĩa: "gối một đầu lên một vật khác". Vận dụng nét nghĩa này, Tô Hoài sử dụng sáng tạo trong một văn cảnh mới - nhà văn miêu tả cơn lũ dữ ở đất Phìn Sa (Miền Tây): "Những cơn lũ gối lên nhau, gầm thét đuổi theo nhau. Chân lũ này chưa dứt, đỉnh lũ khác đã tràn lên, mấp mé doạ lôi đi, xoá đi cả xóm, cả những cánh rừng gỗ mục". Để sử dụng sáng tạo nét nghĩa này, nhà văn đã phải rất công phu học cách nói, cách vận dụng của người nông dân: "đặt dây khoai thì đặt thưa, dây nọ gối đầu vào dây kia", từ đó nhà văn đã dùng tiếng ấy để tả cơn lũ đương hung hăng. Và khi từ ngữ thông tục mang tính tạo hình được nhà văn sử dụng đậm đặc, bức tranh hiện thực hiện diện thật sinh động, mang màu sắc tươi nguyên sự sống. Ví dụ 5: "Bà lão bỏ bát cơm xuống, vỗ hai tay, làm hiệu cho thằng bé chạy lại. Bà vội quờ tay ra, thì mó thấy nó vẫn ngồi chồm chỗm ở bên cạnh. Miệng nó còn đầy ứ những cơm nhão. Nó không nua, mà đầy phè cả sang hai bên mép. Bà lão lẩm bẩm: "Ngậm bung búng thế này. No rồi đây!" Bà nuốt ực miếng cơm bà đương nhai trong miệng. Xong bà cúi xuống, chúm nheo mồm lại, hút đánh chụt một cái thật mạnh vào mũi thằng bé. Bao nhiêu nhớt dãi nhoe nhoét ở mũi thằng Kê tuột vào cả mồm bà Vạng, bà nhổ toẹt xuống đất. Con mực chạy đến liếm ngồm ngồm. Thằng bé bị bà nó liếm rát cả mũi, khóc tru lên. Nhưng chỉ tru lên một tiếng như tiếng còi rồi lại nín ngay" [61, 246]. Đoạn văn có 11 câu, tác giả đã dùng đến 10 từ ngữ thông tục mang tính tạo hình. 102
  33. Hệ thống từ ngữ thông tục lại hầu hết là động từ (7/10), miêu tả từng động tác của bà Vạng cho cháu ăn và "chăm sóc" cháu. Vì không cảm nhận được bằng thị giác, bà Vạng phải cảm nhận bằng thính giác và xúc giác, tạo bức tranh trần trụi, khách quan rất phù hợp với đối tượng phản ánh. Hệ thống từ ngữ thông tục đã tạo nên một sắc thái mới ổn định có giá trị thẩm mỹ thể hiện cảm quan hiện thực Tô Hoài. Hệ thống từ ngữ thông tục có mặt thường xuyên trong sáng tác của ông mang đến một hơi thở mới nồng ấm tươi nguyên sự sống. Nhưng nhiều khi nhà văn còn tỏ ra dễ dãi khi sử dụng từ ngữ thông tục, vì thế có những câu văn kém sự trau chuốt thường thấy trong văn phong nghệ thuật. Cùng với hệ thống từ ngữ thông tục, Tô Hoài còn có ý thức đưa vào trang sách những thành ngữ, quán ngữ quen thuộc. c. Thành ngữ, quán ngữ (xem bảng 3.4): Bảng 3.4: Thành ngữ, Tỷ lệ quán ngữ tính trên Tác phẩm Tác giả số trang Số trang Số lần lượng văn bản Quê người Tô Hoài 293 130 134 0,46 Mười năm Tô Hoài 379 148 153 0,4 Quê nhà Tô Hoài 290 111 131 0,45 Tắt đến Ngô Tất Tố 165 33 33 0,25 Nhìn vào bảng thống kê, chúng tôi thấy tần số xuất hiện hệ thống thành ngữ của Tô Hoài nổi trội hơn (so với những tác giả mà chúng tôi so sánh). Trong khi Ngô Tất Tố cứ 5 trang văn bản xuất hiện một thành ngữ; Nam Cao cứ 4 trang văn bản xuất hiện một thành ngữ; thì Tô Hoài, trung bình cứ 2,3 trang văn bản xuất hiện một thành ngữ. Vấn đề để chúng tôi quan tâm chưa hẳn là tần số xuất hiện, bởi ý nghĩa của thành ngữ với phong cách nhà văn là sự ổn định, giá trị thẩm mỹ và giá trị sử dụng phù hợp với cảm quan hiện thực, cảm hứng sáng tác của nhà văn. Trước hết là ở sự ổn định tần số xuất hiện của thành ngữ trên văn bản. Chọn ba tiểu thuyết viết về đề tài Hà Nội ở ba giai đoạn sáng tác khác nhau (tiểu thuyết Quê người - 1941; tiểu thuyết Mười năm -1958; tiểu thuyết Quê nhà - 1980), chúng tôi thấy tần số xuất hiện thành ngữ ở Tô Hoài tương đối ổn định. Tỷ lệ tính trên trang văn bản ở tiểu thuyết Quê người là 0,46; ở tiểu thuyết Mười năm là 0,4; Ở tiểu thuyết Quê nhà là 0,45. Sự ổn định ấy chứng tỏ sử dụng thành ngữ ở Tô Hoài không phải là tuỳ tiện, hứng khởi bất chợt của nhà văn, mà nó là một tín hiệu ổn định trong quá trình sáng tạo nghệ thuật của tác giả. Khác với hệ thống thành ngữ của Nguyên Hồng, nhà văn đã "cố gắng khai thác 103
  34. mọi khả năng biểu đạt có giá trị biểu cảm và gợi cảm cao để nói về thân phận những kiếp người cùng khổ" [114, 133], Tô Hoài sử dụng thành ngữ làm một trong những phương tiện thể hiện bức tranh hiện thực muôn màu muôn vẻ của cuộc sống sinh hoạt, tạo ngữ cảnh cho câu chuyện kể và tham gia khắc hoạ tính cách nhân vật. Trong cuộc sống gian truân vất vả và muôn nỗi lo lắng đời thường, mưu kế sinh nhai và nỗi lo cơm áo có lẽ là nỗi lo muôn đời của người nông dân lao động Việt Nam. Ở bất kỳ thời điểm nào, nó cũng thường trực trong cuộc sống của họ. Những ngày Lạp và các bạn hữu (Mười năm) tích cực tham gia phong trào đình công chống thuế, tuyên truyền ái hữu là những ngày có ý nghĩa lớn đối với cuộc đời họ. Vậy mà họ cũng không thể trốn chạy một thực tế đói nghèo. Cuộc sống của họ gần như là "tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ", nên không tránh khỏi sự nhếch nhác thường tình. Chẳng thế mà "Mấy hôm nay bỏ cởi không có tiền, Lạp ăn vạ ăn vật. Động đi đâu thì anh nọ lại vay cào vay cấu anh kia. Ngày mai còn chưa biết trông vào đâu. Hai thành ngữ ăn vạ ăn vật, vay cào vay cấu diễn tả cuộc sống bấp bênh của người dân nghèo thợ cửi. Trên nhiều trang sách của mình, Tô Hoài còn đưa hệ thống thành ngữ vào lời ăn tiếng nói của từng nhân vật để họ có thể tự giãi bày hoàn cảnh và tâm tư tình cảm. Khi bà Xuất (Quê nhà) ở vào tình cảnh éo le - chồng, con đều chết trận, một mình đứng mũi chịu sào đảm đang công việc nuôi con, nuôi cháu, tiếp tục sự nghiệp chồng con để lại, bà không khỏi lo lắng, trăn trở. Bà giãi bày tâm sự với ông Tư: "Dưới này tôi bây giờ ngổn ngang quá ông ạ. Bố con ông nó thế là đi việc nước cả rồi. Trong nhà chỉ còn hai mẹ con với thím nó và một lũ cháu dại, có nhớn chưa có khôn. Nhà thì vừa việc ruộng, vườn vừa canh cửi, đằng nào cũng phải có người chạy chợ, người hồ cháo. Việc trong nhà không như việc đồng còn mùa bận mùa nhàn, lúc nào cũng tối mặt tối ngày. Từ khi thằng cả nó đi việc nước với bố nó, khung cửi đành để trống đấy. Buổi đực buổi cái, nhà đã neo càng neo. Mà trời còn làm tao loạn thế này ". Đoạn văn có 8 câu mà tác giả sử dụng đến 4 thành ngữ. Các thành ngữ đều dễ hiểu và hướng về cuộc sống sinh hoạt, làm ăn trong mưu kế sinh nhai. Nỗi lo lắng, trăn trở của bà Xuất được cụ thể hoá trong từng thành ngữ, từ một lũ cháu còn nhỏ dại - có nhớn mà chưa có khôn, đến công việc làm ăn vất vả - tối mặt tối ngày, buổi đực buổi cái khiến lời tâm sự của nhân vật trở nên gần gũi, chân tình. Trong muôn nỗi lo lắng đời thường, ngoài nỗi vất vả gian truân trong công việc làm ăn, nhân vật của Tô Hoài còn được đặt trong những hoàn cảnh số phận khác nhau. Bà Xuất khi chồng chết, con chết, nỗi lo duy nhất của bà là nuôi con nuôi cháu và trả thù cho chồng cho con. Còn chị Hai Tâm (Mười năm) khi chồng chết, lại là việc bước đi bước nữa. Người ta không khỏi bàn tán và đặt ra không ít tình huống: "Liệu chị có bước đi bước nữa không? Đứa nào mà lấy được chị bây giờ bằng mả táng hàm rồng, chỉ việc nằm dài cho vợ đảm phục dịch. Gái goá mà lại không bằng mấy gái tơ ấy à! Nhiều người bảo: chị ta cố chịu khó ăn rau răm một tý, nhịn đi thì sẽ 104
  35. thảnh thơi suốt đời, hơn là bước đi bước nữa, biết bước lên mâm cao cỗ đầy hay bước xuống hố? Mà có lấy chồng bây giờ, trai tơ nào ghé đến? Lại chỉ dễ sa vào cảnh vợ lẽ con thêm. Nếu phúc được con vợ cả không Hoạn Thư thì cũng đến trải cái đận con anh con tôi, khúc rồng khúc rắn, và tám mươi nhăm cái tròng lọng thắt vào cổ, cay đắng hơn con chó, chắc đâu được trơn lông đỏ da thế này". Sự hàm súc của thành ngữ tiếng Việt đã diễn tả súc tích, ấn tượng mọi tình huống có thể xảy ra với cuộc đời chị Hai Tâm khi chị bước đi bước nữa. Đoạn văn ngắn gọn với sự tham gia của nhiều thành ngữ đem tới những thông điệp nhiều chiều khiến người trong cuộc không thể không quan tâm. Cùng với nỗi lo cơm áo và số phận con người, hệ thống thành ngữ của Tô Hoài còn miêu tả sinh động những hủ tục lạc hậu làng quê. Lời ăn tiếng nói trong vùng đất Nghĩa Đô được nhà văn vận dụng khéo léo. Từ tục ma chay, cưới xin đến tục chửi bới, trộm cắp tất thảy đều được tác giả thể hiện một cách khá "ấn tượng" với sự tham gia của thành ngữ. Đây là cảnh ăn uống trong đám cưới anh Hời (Quê người) - con trai bà Vạng: "Ngoài hiên suốt dọc, các bác đến làm giúp lúc nãy bây giờ ăn đỡ Ngoài sân một dãy dài những đàn bà và trẻ bé. Có mụ ngồi xềm xệp, đứa con ngủ lắc lư trong lòng, mà cũng và lấy và để. Đàn bà, trẻ con cả xóm kẻo đến, ăn như trống đánh ăn xong, chúng ra vườn tước lá chuối. Ở mâm còn lại gì, chúng chia nhau, bọc lại, lấy phần đem về". Còn đây là cảnh ăn uống trong đám ma bà Vạng - mẹ đẻ anh Hời: "Cái đám cãi nhau tự nhiên tan. Người ta lại tiếp tục ăn uống rào rào từ trong nhà ra ngoài hiên". Những thành ngữ được đưa vào đúng ngữ cảnh khiến bức tranh miêu tả có "sức sống" mới. "Sức sống" ấy được tạo bởi từ những hình ảnh và âm thanh cụ thể. Hình ảnh và lấy và để, âm thanh ăn như trông đánh, ăn uống rào rào quả là chỉ có thể thấy trong ngữ cảnh hết sức đời thường như thế. Một tục lệ khá đặc biệt ở làng Nghĩa Đô là trai gái nên duyên phải có người mối lái. Công việc ấy được gói gọn trong thành ngữ nối đuôi thằn lằn. Võ Xuân Quế trong bài "Ngôn ngữ một vùng quê trong các tác phẩm đầu tay của Tô Hoài" - Tạp chí văn học số 5 - 1990, nhấn mạnh: "Nối đuôi thằn lằn là tổ hợp từ xuất phát từ một hình ảnh hơi tục tĩu trong thực tế". Trong lời nói thông tục, người dân Nghĩa Đô dùng nối đuôi thằn lằn để chỉ việc mối lái cho các đôi trai gái. Tô Hoài đã đưa thành ngữ này vào một ngữ cảnh rất thích hợp: "Rượu đã ngà ngà, ông Ba Cần khơi mào: - Cái Ngây năm nay nhớn rồi. - Còn gì nữa! Hai mươi đấy. Ông xem có đám nào, tôi tống khứ. 105
  36. - Được rồi. Tôi đương định nối đuôi thằn lằn đây. - Rồi ông nói chuyện về ông Nhượng, về bà Vang, về Hời"[61, 96]. Thành ngữ nối đuôi thằn lằn dùng trong lời nói của ông Ba Cần. Rất khéo léo "khơi mào", khi rượu đã ngà ngà say, ông hỏi tuổi Ngây, đánh đúng vào nỗi lo của ông Nhiêu Thục khi đứa con gái đang bị "mang tiếng" vì tờ cáo bạch. Câu chuyện cứ diễn ra theo chiều hướng tự nhiên, đúng mục đích và ý đồ của người nói. Thành ngữ trên trang văn của Tô Hoài không những góp phần thể hiện cuộc sống muôn màu muôn vẻ, mà còn tham gia tích cực vào quá trình bộc lộ tính cách nhân vật. Cô Ngây (Quê người) vừa chịu thương chịu khó, sống trách nhiệm với mọi người cũng vừa có thói sĩ diện thường tình, có tính rụt rè e thẹn như mọi cô gái mới lớn khác, vậy nên đôi khi cô cũng tỏ ra "bướng bỉnh" đáng yêu: "Bà lại hỏi: Mang gậy đi chưa. Ngây cười khúc khích: "con gái đi xem hội, ai lại cầm gậy bao giờ. Người ta cười". Bà lão lẩm bẩm: - "Cha con đẻ mẹ mày, giữ đá giữ nộm vừa vừa chứ" Bà vừa nói thế vừa cười". Theo tác giả, thành ngữ giữ đá giữ nộm là thành ngữ được người dân Nghĩa Đô dùng để chỉ những người hay giữ "cái mẽ" của mình trong khi "cái mẽ" không đáng kể, không cần thiết phải giữ. Lời nói của bà Ba với thành ngữ giữ đá giữ nộm kèm lời mắng chửi yêu cô cháu gái thể hiện tình cảm và sự quan tâm chu đáo của bà, đồng thời còn khắc hoạ tính cách e thẹn, hay xấu hổ và cũng thích làm mẹ của cô Ngây. Bà Hương (Mười năm) goá chồng ở vậy nuôi con. Bà sắc sảo, thu vén, lo toan không những trong mưu kế sinh nhai, mà còn trong cả chuyện dựng vợ gả chồng cho con cái. Hãy nghe bà suy tính việc chọn vợ cho An: "Lại như năm trước, bà Hương cũng đã nhất định. Nhưng bà vẫn còn trằn trọc, suy tính. Bà cũng đại khái biết An phải lòng phải bề khối người. Nhưng không bao giờ bà để ý những cái trẻ con chim chuột ấy. Ngẫm xưa nay như vậy, trai gái giăng gió với nhau thành vợ thành chồng thì trăm đám vút đi cả trăm. Cho nên bà Hương vừa không để ý, đã không lo, lại còn ghét. Nghe đồn nọ kia, bà chỉ cười. Trong bụng đánh giá: "Thứ cái của giăng há ấy mà lại đòi lọt vào cửa nhà này!", nhưng bà không nói, bà vẫn cố để ý tìm một đám. Ông Hương mất rồi, bà càng không thể loà xoà thế nào xong thì thôi được. Làng này chẳng còn, bà Hương nhìn sang các làng bên. Vô khối con gái làng bên, con gái vùng trong đi chợ bán lụa, phiên nào bà cũng gặp, bà biết mặt, bà thuộc tính nết tất cả. Song bà cũng chưa hề đậm đà. Bà chưa để ý. Lấy vợ xem tông, bà còn phải nhìn cha mẹ, gốc gác các người trước đã". 106
  37. Tính toán cẩn thận, chu đáo là thế nên khi nhận ra người con dâu không được như ý, bà đau đớn than thở: "Mua vàng phải vàng giả, mua người phải hình nhân Hàng Mã mất rồi. Bao nhiêu cái hay cái giỏi thì những con chị nó cõng đi mất cả. Một người trăm khôn nghìn khéo như bà Hương, chỉ vì cả tin, mắc phải cái đau đớn ấy, đau đớn mà không dám thở ra". Sử dụng thành ngữ, Tô Hoài vận dụng hết sức linh hoạt và khéo léo. Từ những thành ngữ có trong tiếng phổ thông đến những thành ngữ chỉ dùng trong tiếng nói hằng ngày ở vùng Nghĩa Đô đều súc tích, dễ hiểu tạo màu sắc bình dị, gần gũi trên từng trang sách của nhà văn. Chính hệ thống thành ngữ này góp phần làm nên phong cách nghệ thuật Tô Hoài. 2. Ngôn ngữ đối thoại mang đậm phong cách khẩu ngữ sinh hoạt Như đã trình bày, Tô Hoài rất trọng ngôn ngữ quần chúng. Ông quan niệm: "Trong khi cuộc sống, nhân vật, phong cảnh, vạn vật biến chuyển không ngừng, thì câu văn cũng không thể đứng nguyên một chỗ" [132, 521]. Vì thế câu văn của Tô Hoài có kiểu cấu trúc linh hoạt, đặc biệt là lời nhân vật. Khảo sát số cuộc đối thoại trong một số tác phẩm tiêu biểu của Tô Hoài, chúng tôi thấy lời của nhân vật đều có xu thế lược giảm thành phần câu. Ví dụ: Cuộc đối thoại thứ 2/64 trong tiểu thuyết Quê người (Đoạn đối thoại giữa anh Hời và cô Ngây): "- Này - Gì? Này mấy hôm nữa đi xem nhé? - Xem gì hả? - Xem cúng cầu mát ở Chạ - Thượng. Có cả hát chèo. Ngây nói chủng chẳng: - Để liệu. Tối phải dệt cửi mà. - Cầu mát những ba ngày ba đêm cơ. Đi xem vào tối hăm mốt. Tối ấy là tối ngày phiên, chắc đi được đấy. - Đi thì đi được nhưng ai biết, ngượng chết. Ngượng chó gì. Có đi với tôi đâu mà sợ. - Rủ cái Bướm, cái Lụa hay cái Mơ đi một thể cho vui. Lúc nào về, tôi đưa về tận ngõ. - Ừ ừ Ai biết - Chẳng có ai biết đâu. - Còn phải xin phép thầy. 107
  38. Tối ngày phiên thong thả, thế nào thấy chẳng cho đi. Cứ "ừ" một tiếng chắc chắn cho tôi liệu trước. nơi nào. - Ử Thì ừ: - Chắc chứ? - Chắc - Tối hăm mốt. - Ừ tối hăm mốt". Nội dung cuộc đối thoại hết sức đơn giản - Hời rủ, hẹn, thuyết phục bằng được người yêu đi xem hội. Cả đoạn đối thoại chỉ có một câu là lời của người kể chuyện. Còn lại là lời đối đáp "nhịp nhàng" của hai nhân vật. Lời mỗi nhân vật đều hiện diện qua những câu văn ngắn, thường là thiếu chủ ngữ. Nó chỉ đứng được trong văn cảnh cụ thể ấy. Khác với Ngô Tất Tố, lời đối thoại của của nhân vật nhìn chung là "có đầu có đuôi": "Chị Dậu run run: - Nhà cháu đã túng, lại phải đóng cả suốt sưu của chú nó nên mới lôi thôi như thế. Chứ cháu có dám bỏ bễ tiền sưu của nhà nước đâu? Hai ông làm phúc nói với ông Lý hãy cho cháu khất Cai lệ không để cho chị được nói hết câu, trợn ngược hai mắt, hắn quát: Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước, mà dám mở mồm xin khất! Chị Dậu vẫn cố thiết tha: Khốn nạn! Nhà cháu đã không có, dẫu ông chơi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông trông lại. Cai lệ vẫn giọng hầm hè: - Nếu không có tiền nộp sưu cho ông bây giờ, thì ông sẽ dỡ cả nhà mày đi, chửi mắng thôi à! Rồi hắn quay ra bảo anh người nhà lý trưởng: - Không hơi đâu mà nói với nó, trói cổ thằng chồng nó lại, điệu ra đình kia" [197, 115]. Đoạn văn có 15 câu gồm lời người kể chuyện, lời chị Dậu và lời cai lệ. Trong đó chỉ có một câu lời của chị Dậu lược thành phần (khốn nạn! ) - câu cảm thán, bộc lộ tâm trạng nhân vật. Mười bốn câu còn lại gồm đủ thành phần diễn tả lời dãi bày, nhún nhường của chị Dậu và lời doạ nạt, chửi bới của cai lệ. Khảo sát số cuộc đối thoại của Tô Hoài trong tiểu thuyết Quê người, chúng tôi còn thấy, có khi trong một đoạn đối thoại gồm có nhiều nội dung, mặc dù vẫn có nội dung 108
  39. chính. Lời thoại mở đầu nhiều khi lại vượt rất xa ý định của người nói, rồi sau đó câu chuyện mới được trở về đúng mục đích. Đây cũng là một dấu hiệu thường thấy trong lời giao tiếp khẩu ngữ thường ngày. Ví dụ: Cuộc đối thoại thứ 56 trong tiểu thuyết Quê người (cuộc đối thoại giữa cô Bướm và cô Ngây): “Chuyện vãn một lúc, Bướm bảo với Ngây: - À, tháng sáu thì cưới chị Khuyên đấy - Thế hả? Sao tôi chẳng thấy ai đồn? Hôm nọ chị ấy cũng xuống đây chơi mà chẳng nói chuyện gì? ( ) Nàng nói hạ giọng xuống như để cho bà Vạng ngồi quay tơ sưởi nắng ở ngoài hiên không nghe tiếng: Vợ chồng em định thu xếp lên trên ngược chị ạ. Ở đây thì sống làm sao được? Đi di dân hả? Không em có người nhà rủ lên buôn bán. ( ) Một lúc sau, Bướm đi về. Ngây ẵm con tiễn ra tận ngõ ngoài. Bướm nhìn bạn ngượng nghịu: - Thằng cu nhà em cam mắt quá. - Ừ phải mua thuốc cao trên chợ mà dán, chứ dán nhựa duối thì không ăn thua đâu. - Làm gì có tiền. Em túng quá. Định vào mượn chị một hào để mua cho cháu. Ngây lần tay vào trong túi: - Em chỉ còn có bốn xu. Bốn xu cũng mua được hai lá đấy. Chị cầm tạm vậy". Nội dung chính trong câu chuyện là Bướm muốn vay tiền của Ngây mua thuốc dán mắt cho con. Để bày tỏ ý định của mình, Bướm mào đầu bằng hai câu chuyện - chuyện chị Khuyên lấy chồng Kẻ Chợ và chuyện vợ chồng chị định lên mạn ngược làm ăn, rồi trước khi ra về chị mới "ngượng nghịu" thổ lộ ý định. Rõ ràng là chỉ có trong giao tiếp khẩu ngữ tự nhiên câu chuyện mới "vòng vo" như thế. Viết về đề tài miền núi, lời văn đối thoại mang phong cách gần với khẩu ngữ tự nhiên bộc lộ rõ nét. Tiểu thuyết Miền Tây có 74 cuộc đối thoại. Trong mỗi đoạn đối thoại, lời của nhân vật luôn được rút gọn thành phần câu. Hãy xem đoạn đối thoại giữa người nhà thống lý, Thào Nhìa và bà Giàng Súa (đoạn đối thoại thứ 8): "Tiếng hỏi rít vào: - Thằng Nhất có ở đây không? 109
  40. Thào Nhìn nhóm ngay dậy. - Có - Vào ông thống lý có việc quan. - Việc gì thế - Việc tải hàng ông Sìn. Mẹ kinh hoảng kêu: - Con ơi ? Thào Nhìn luống cuống áp mặt vào vách hỏi ra: - Bao giờ? - Đi ngay bây giờ. - Không đi đâu. Tôi không đi. - Muốn sống thì mau lên. Tao còn phải đi gọi đứa khác đây. Bà Giàng Súa gào to: Trẻ con mà cũng phải đi tải hàng, trời ơi! Tiếng quát vào to hơn: - Mau lên! Chết cả bây giờ". Đoạn văn có 3 nhân vật tham gia, tuy sắc thái câu nói của từng nhân vật khác nhau - người nhà thống lý doạ nạt, hách dịch; Thào Nhìn lo sợ, hãi hùng; bà Giăng Sửa hoảng hốt, bất lực, nhưng hình thức diễn đạt theo mô típ chung. Lời nói của mỗi nhân vật ngắn gọn chỉ vừa đủ dung lượng thông tin cho lời hỏi trước đó. Nó rất phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm tâm lý, trình độ tư duy của người nông dân lao động miền núi. Như vậy là, dù viết về đề tài nào, trong cuộc đối thoại, lời văn từng nhân vật của Tô Hoài luôn có xu hướng lược giản. Câu văn thường không đủ các thành phần chính và do vậy nó chỉ đứng được trong những văn cảnh cụ thể. Mặc dù thế, lời đối thoại của nhân vật không những đảm bảo được lượng thông tin chính mà còn thể hiện những tầng bậc ý nghĩa khác nhau. Có được điều đó là bởi Tô Hoài còn rất chú trọng ngữ điệu câu văn. Chúng ta đều biết, ngữ điệu câu văn không thể tiếp nhận bằng thị giác mà chỉ tiếp nhận bằng thính giác. Người đọc, người ngữ qua ngữ điệu nắm bắt thông tin, phán đoán tình thế Vì vậy "trong một mức độ nhất định, có thể coi đó là một sự kiện siêu ngôn ngữ" [15, 99]. Có những văn cảnh, ngữ điệu câu văn có thể làm biến dạng nghĩa thông thường của ngôn ngữ, thậm chí còn được hiểu theo nghĩa hoàn toàn khác. Ví dụ: Đoạn đối thoại giữa nhân vật "Tôi", Phùng Cung và cán bộ công an trẻ trong Cát bụi chân ai: 110