Tiểu luận Khả năng thống nhất tiền tệ khu vực Đông Nam Á từ việc nghiên cứu quá trình thống nhất tiền tệ của Cộng đồng Châu Âu
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Khả năng thống nhất tiền tệ khu vực Đông Nam Á từ việc nghiên cứu quá trình thống nhất tiền tệ của Cộng đồng Châu Âu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- tieu_luan_kha_nang_thong_nhat_tien_te_khu_vuc_dong_nam_a_tu.doc
Nội dung text: Tiểu luận Khả năng thống nhất tiền tệ khu vực Đông Nam Á từ việc nghiên cứu quá trình thống nhất tiền tệ của Cộng đồng Châu Âu
- TRƯƠNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG TIỂU LUẬN Tài chính quốc tế ĐỀ TÀI Khả năng thống nhất tiền tệ khu vực Đông Nam Á từ việc nghiên cứu quá trình thống nhất tiền tệ của Cộng đồng Châu Âu 0
- MỤC LỤC CHƯƠNG I : LỢI ÍCH VÀ CHI PHÍ CỦA VIỆC LIÊN MINH VÀ THỐNG NHẤT TIỀN TỆ KHU VỰC. 3 1. Lợi ích từ việc thống nhất tiền tệ 3 1.1.Kích thích phát triển thương mại trong nội bộ khối : 3 1.2.Các yếu tố sản xuất được phân bổ hiệu quả 3 1.3.Tiết kiệm dự trữ ngoại hối và lợi ích từ việc phát hành tiền: 4 1.4. Tiết kiệm chi phí hành chính trong kinh doanh: 4 1.5. Tăng cường thanh khoản và hợp lý hóa thị trường tài chính: 4 1.6.Giá cả trở nên trung thực rõ ràng và ổn định hơn: 5 1.7. Lợi ích riêng nếu thực hiện liên minh tiền tệ Đông Nam Á: 5 2.Chi phí của việc thống nhất tiền tệ: 6 2.1. Mất quyền tự chủ trong hoạch định chính sách tiền tệ 6 2.2.Mất tự chủ trong chính sách kinh tế vĩ mô 7 2.3.Bất bình đẳng khu vực 7 2.4.Chi phí thời kỳ quá độ 7 CHƯƠNG II:THỐNG NHẤT TIỀN TỆ CHÂU ÂU. 8 1. Tổng quan về sự ra đời và quá trình thành lập của liên minh tiền tệ Châu Âu.8 1.1. Tiến trình thống nhất tiền tệ Châu Âu. 8 1.1.1.Ý tưởng về một đồng tiền chung 8 1.1.2.Các giai đoạn thực hiện 9 1.2. Điều kiện hình thành một liên minh tiền tệ rút ra từ quá trình thống nhất tiền tệ Châu Âu 11 1.2.1.Hình thành một thị trường thống nhất về hàng hóa, vốn và sức lao động: 11 1.2.2. Điều chỉnh kinh tế của các nước thành viên để hội nhập theo tiêu chí thống nhất 12 1.2.3. Thiết lập một cơ chế liên kết tỷ giá 14 1.2.4.Tạo lập một đồng tiền khu vực và hình thành một ngân hàng trung ương độc lập với chính sách tiền tệ thống nhất 15 1.3. Cơ chế điều hành chính sách tiền tệ của liên minh tiền tệ Châu Âu15 1
- 1.3.1. Bộ máy hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ của liên minh tiền tệ châu Âu 15 1.3.2. Các quy định cơ bản trong thời kỳ chuyển đổi 20 1.3.2.1 Tỷ giá chuyển đổi: 20 1.3.2.2. Cơ chế tỷ giá mới (EMR II) 22 1.3.2.3. Hệ thống thanh toán 23 3. Thực trạng hoạt động của đồng Euro. 23 3.1Những thành tựu đạt được : 24 3.1.1. Đối với các nước thành viên: 24 3.1.1.1.Nền kinh tế được kích thích tăng trưởng: 24 3.1.1.2.Ổn định các yếu tố kinh tế đặc biệt là tỷ lệ lạm phát và lãi suất 27 3.1.1.3.Mức sống của người dân khu vực đồng EURO được nâng lên : 29 3.1.2. Trên phương diện quốc tế : đồng Euro dần trở thành 1 ngoại tệ mạnh. 31 3.2. Những mặt hạn chế của đồng EURO: 32 3.2.1.Sự tăng trưởng thiếu bền vững và vấn đề suy giảm năng lực cạnh tranh của các nước kém phát triển hơn : 32 3.2.2. Gia tăng chi tiêu chính phủ và nợ công - cuộc khủng hoảng nợ : 34 CHƯƠNG III: KHẢ NĂNG THỐNG NHẤT TIỀN TỆ KHU VỰC ĐÔNG NAM Á 43 3.1 Quá trình tự do hóa thương mại: 43 3.1.1.Tiến trình cắt giảm hàng rào thuế quan 44 3.1.2.Xóa bỏ hàng rào phi thuế quan 46 3.2. Quá trình tự do lưu chuyển các yếu tố khác và hợp tác giữa các ngành lĩnh vực trong khối ASEAN và ngoại khối: 47 3.2.1 Sự tự do lưu chuyển vốn và lao động: 47 3.2.2 Một số hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế trong khối: 49 3.2.3 Một số hợp tác kinh tế ngoại khối: 50 3.3 Khả năng ổn định kinh tế vĩ mô của khối 51 3.4. Khả năng thiết lập một cơ chế ổn định và liên kết tỷ giá giữa các nước trong khối 59 3.4.1. Cơ chế ổn đinh tỷ giá- sáng kiến Chiang Mai 59 3.4.2. Tiến trình đa phương hoá sáng kiến Chiang Mai 60 3.5. Khả năng hình thành một ngân hàng trung ương (NHTW) độc lập với một chính sách tiền tệ và một đồng tiền thống nhất. 64 2
- KẾT LUẬN 69 3
- CHƯƠNG I : LỢI ÍCH VÀ CHI PHÍ CỦA VIỆC LIÊN MINH VÀ THỐNG NHẤT TIỀN TỆ KHU VỰC. 1. Lợi ích từ việc thống nhất tiền tệ 1.1.Kích thích phát triển thương mại trong nội bộ khối : Khi một khu vực tiến tới liên minh về tiền tệ và sử dụng một đồng tiền chung thì đi cùng với nó là quá trình tự do hóa thương mại và dỡ bỏ các hàng rào thuế quan. Điều này sẽ đem lại lợi ích là cắt giảm được các khoản chi phí giao ch, chi phí chuyển đổi tiền tệ (bao gồm chi phí thời gian và chi phí hoa hồng trả cho ngân hàng) cũng như tạo thuận lợi cho trao đổi buôn bán giữa các quốc gia trong khu vực, qua đó, kích thích phát triển thương mại trong nội bộ khối. 1.2.Các yếu tố sản xuất được phân bổ hiệu quả. Các yếu tố sản xuất của một nền kinh tế bao gồm có : vốn, lao động, tài nguyên và khoa học công nghệ, trong đó 2 yếu tố quan trọng nhất là vốn và lao động. Việc sử dụng hiệu quả hai yếu tố sản xuất này sẽ thúc đẩy và làm gia tăng năng lực sản xuất của mỗi quốc gia nói riêng và toàn bộ khu vực nói chung. Khi sử dụng chung một đồng tiền và đi cùng đó là một chính sách tiền tệ thống nhất, các biện pháp kiểm soát chu chuyển vốn và phân biệt đối xử vốn tài chính giữa các quốc gia sẽ được hạn chế, đồng thời các biện pháp kiểm soát tỷ giá cũng như sự biến động tỷ giá bị xóa bỏ. Nhờ vậy mà nguồn vốn sẽ được phân bổ hiệu quả hơn nhiều trong nội bộ các nước. Đồng thời, khi lương và thu nhập được tính bằng đồng tiền chung, lao động cũng được phân bổ hiệu quả hơn vì có thể tự do di chuyển từ khu vực có năng suất lao động thấp đến khu vực có năng suất lao động cao. 4
- 1.3.Tiết kiệm dự trữ ngoại hối và lợi ích từ việc phát hành tiền: Khi đồng tiền chung ra đời các nước thực hiện thống nhất tiền tệ sẽ cắt giảm giảm được số dự trữ ngoại hối dùng để giao dịch. Hơn nữa so với các đồng tiền có mức hoạt động riêng lẻ thì đồng tiền chung có xu hướng biến động ít hơn do trung bình của nền kinh tế được tính chung bằng một đồng tiền thường ổn định hơn so với từng nền kinh tế đơn lẻ đối với đồng tiền riêng của mình, vì vậy nhu cầu dự trữ ngoại hối đối với các nước sử dụng đồng tiền chung giảm xuống. Hơn nữa đồng tiền chung khu vực nếu trở thành một ngoại tệ mạnh đồng nghĩa với đó là tăng thành phần của nó trong dự trữ ngoại hối các quốc gia bên ngoài và các quốc gia trong khối sẽ thu được lợi từ việc phát hành tiền 1.4. Tiết kiệm chi phí hành chính trong kinh doanh: Khi các nước sử dụng các đồng tiền khác nhau, chi phí hành chính trong kinh doanh (liên quan tới quản lý rủi ro ngoại hối) có nghĩa là các công ty phải sử dụng nguồn lực của mình để kiểm soát rủi ro ngoại hối, biến động tỷ giá và kiểm tra chiến lược giá cả trên các thị trường khác nhau. Bằng cách chuyển đổi sang đồng đồng tiền chung, các quốc gia thành viên thành viên sẽ cắt giảm được một lượng chi phí khá lớn từ tiết kiệm khoản mục này. 1.5. Tăng cường thanh khoản và hợp lý hóa thị trường tài chính: Thị trường tài chính có thành phần chính là thị trường trái phiếu chính phủ và thị trường cổ phiếu công ty. Mọi khoản vay của chính phủ thành viên đểu được thực hiện bằng đồng tiền chung làm cho thị trường trái phiếu chính phủ trở nên linh hoạt hơn, giảm chi phí giao dịch. Thị trường cổ phiếu công ty hợp lý hóa hơn khi tất cả chính phủ của công ty đều được niêm yết bằng một đồng tiền chung khiến giao dịch 5
- trên thị trường cổ phiếu được hiệu quả, kích thích doanh số giao dịch trên thị trường. Do đó, thị trường tài chính hoạt động hiệu quả hơn, chính phủ và công ty giảm được chi phí tiếp cận nguồn vốn trên thị trường tài chính. 1.6.Giá cả trở nên trung thực rõ ràng và ổn định hơn: Khi tất cả hàng hóa và dịch vụ trong khu vực đều được yết giá bằng một đồng tiền, các nhà sản xuất sẽ không thể duy trì chênh lệch giá giữa các thị trường khác nhau. Đồng thời, quy luật canh tranh buộc các công ty đa quốc gia phải áp dụng chính sách định giá hàng hóa thống nhất trên cơ sở mức giá thấp nhất trong khu vực tiêu thụ. Do đó, người tiêu dùng sẽ được lợi trong khi đó các công ty đa quốc gia giảm lợi nhuận. 1.7. Lợi ích riêng nếu thực hiện liên minh tiền tệ Đông Nam Á: Những lợi ích trên có thể dễ dàng nhận thấy khi tiến hành liên minh tiền tệ và hình thành sử dụng một đồng tiền chung ở một khu vực. Tuy nhiên, xét trong điều kiện cụ thể của Đông Nam Á, việc hợp tác về tiền tệ còn có thể thu được một số lợi ích khác. Thứ nhất, khi có sự thống nhất về tiền tệ đồng nghĩa với đó là việc các quốc gia sẽ quan tâm hơn đến chính sách vĩ mô của các quốc gia khác và có thể đạt được sự hợp tác nhất định. Điều này có tác dụng ngăn ngừa, kiểm soát và hạn chế tác hại khi khủng hoảng xảy ra tại một quốc gia. Thứ hai, gần đây các nước ASEAN tăng tỷ lệ thương mại nội bộ và cũng do các sản phẩm xuất khẩu của họ thường cạnh tranh với nhau trên các thị trường thứ ba. Điều này khiến cho một số nước có động cơ để phá giá nhằm tăng khả năng cạnh tranh. Do đó thay vì phá giá để tăng khả năng cạnh tranh cho riêng hàng hoá nước mình, một cơ chế phối hợp tỷ giá hối đoái trong khu vực có thể sẽ mang lại thế cân bằng hợp tác tốt hơn và đem lại lợi ích cho cả các bên. 6
- Thứ ba, thống nhất tiền tệ sẽ hỗ trợ các quốc gia trong việc tiếp cận nguồn vốn từ các nước khác khi gặp khó khăn. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997 đã cho thấy rằng các cơ chế quốc tế để hỗ trợ tài chính hiện có (do IMF phối hợp) là không đủ đối với các nước. Các nguồn vốn do IMF nỗ lực cung cấp chưa đủ về quy mô, tốc độ giải ngân quá chậm và thường đi kèm với những điều kiện kinh tế vĩ mô không phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của các quốc gia bị khủng hoảng. Do đó, thay vì tích luỹ các nguồn dự trữ ngoại tệ lớn - một việc làm rất tốn kém, các nước ASEAN có thể tiết kiệm các nguồn vốn đó bằng cách kết hợp các quỹ dự trữ của các nước trong khu vực với nhau. Bên cạnh đó, liên minh tiền tệ cũng khắc phục được những hạn chế của chế độ tỷ giá cố định hay thả nổi mà các nước Đông Nam Á hiện nay đang sử dụng. Đó là chế độ tỷ giá cố định và chế độ tỷ giá thả nổi. Khi sử dụng đồng tiền chung, không cần thiết phải neo giá theo đồng tiền theo đồng tiền lớn khác mà sử dụng trực tiếp đồng tiền chung này, các nước cùng nhau điều hành chính sách tỷ giá nên khắc phục được hạn chế hai chế độ tỷ giá kia: không bị ảnh hưởng khi đồng tiền yết giá biến động, vừa có thể ổn định và kiểm soát được giá cả, đánh giá đúng giá trị đồng tiền theo quy luật cung cầu 2.Chi phí của việc thống nhất tiền tệ: 2.1. Mất quyền tự chủ trong hoạch định chính sách tiền tệ Tại một thời điểm thì mỗi quốc gia có một tình trạng phát triển của nền kinh tế khác nhau: Ở giai đoạn tăng trưởng nóng và có nguy cơ lạm phát cao, NHTW muốn tăng lãi suất ngắn hạn để kìm hãm tốc độ phát triển kinh tế lại.Còn ngược lại,ở giai đoạn suy thoái, NHTW lại muốn hạ lãi suất ngắn hạn để kích thích kinh tế. Nhưng khi có đồng tiền chung với một hệ thống tỷ giá cố định không điều chỉnh và không hạn chế trong chu chuyển vốn sẽ dẫn đến hình thành 7
- mức lãi suất ngắn hạn thống nhất giữa các thành viên. Các nước trong liên minh trở nên gắn chặt với nhau trong một chính sách tiền tệ thống nhất và NHTW các nước không thể tác động vào để đảm bảo lợi ích tối ưu cho quốc gia mình trong từng giai đoạn cụ thể. Điều đó gây ra tình trạng mất tự chủ trong chính sách tiền tệ của các quốc gia thành viên. 2.2.Mất tự chủ trong chính sách kinh tế vĩ mô Các quốc gia có lựa chọn về mức độ lạm phát - công ăn việc làm khác nhau .Có những nước chấp nhận mức lạm phát cao để giải quyết vấn đề việc làm, cũng có nước muốn kìm hãm mức lạm phát ở mức vừa phải và chấp nhận đánh đổi bằng tỷ lệ thất nghiệp cao hơn.Khi tham gia liên minh tiền tệ một trong những yêu cầu đối với các thành viên là phải áp dụng một chính sách kinh tễ vĩ mô nhằm bảo đảm tính thống nhất trong hoạt động kinh tế. Điều này gây ra sự mất tự chủ của các nước thành viên khi nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát và thất nghiệp ở ngoài tầm kiểm soát. 2.3.Bất bình đẳng khu vực Việc hình thành Liên minh tiền tệ có thể khiến cho một số quốc gia thu được lợi ích nhiều, một số quốc gia thu được lợi ích ít hơn. Nó kích thích vốn và lao động di chuyển từ khu vực có năng suất lao động thấp đến nơi có năng suất lao động cao. Điều này có thể tạo ra hậu quả xã hội khá nghiêm trọng là gây thiếu hụt lực lượng lao động chính ở một số khu vực. 2.4.Chi phí thời kỳ quá độ Khi quyết định sử dụng đồng tiền chung các quốc gia thành viên phải chịu chi phí gọi là chi phí thời kì quá độ bao gồm chi phí thu hồi đồng bạc hiện hành, in đồng bạc chung, thay đổi hệ thống thông tin phù hợp với đồng tiền chung 8
- CHƯƠNG II THỐNG NHẤT TIỀN TỆ CHÂU ÂU. 1. Tổng quan về sự ra đời và quá trình thành lập của liên minh tiền tệ Châu Âu. 1.1. Tiến trình thống nhất tiền tệ Châu Âu. 1.1.1.Ý tưởng về một đồng tiền chung Ngày 1/1/1999 đồng tiền chung châu Âu (đồng Euro) chính thức ra mắt và trở thành một sự kiện lịch sử đối với quá trình nhất thể hoá châu Âu và với sự phát triển của hệ thống tiền tệ thế giới. Tham gia đồng Euro đợt đầu có 11 nước thành viên của Liên minh châu Âu EU: Đức, Pháp, Italia, Tây Ban Nha, Hà Lan, Áo, Bỉ, Luxemburg, Bồ Đào Nha, Phần Lan và Ailen. Ba nước Anh, Thuỵ Điển và Đan Mạch chưa tham gia đợt này, còn Hy Lạp chưa đáp ứng đủ các tiêu chuẩn để trở thành thành viên. Tuy nhiên ý đồ cho ra đời đồng Euro đã xuất hiện từ rất sớm và là mục tiêu phấn đấu bền bỉ trong một thời gian dài của EU. Vào năm 1970 lần đầu tiên ý tưởng về một liên minh tiền tệ châu Âu được cụ thể hóa với một kế hoạch đầy tham vọng gọi là kế hoạch Werner (tên của thủ tướng Luxemburg) nhằm lập ra một liên minh kinh tế và tiền tệ trong vòng 10 năm. Sau thời hạn đó, cộng đồng châu Âu sẽ có một thực thể tiền tệ riêng biệt trong hệ thống tiền tệ quốc tế. Tuy nhiên hàng loạt các biến cố xảy ra đã làm tiêu tan kế hoạch đầy tham vọng này (sự tan vỡ của hệ thống tiền tệ Bretton Woods năm 1971, sự suy thoái kinh tế toàn cầu, khủng hoảng dầu mỏ năm 1973 ). Thay vào đó Liên minh Tỷ giá hối đoái châu Âu được thành lập vào năm 1972 và sau đó là Hệ thống Tiền tệ châu Âu vào năm 1979. Hệ thống tiền tệ châu Âu có nhiệm vụ tạo ra một khu vực ổn định tiền tệ ở châu Âu tránh các dao động lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế các nước thành 9
- viên xích lại gần nhau hơn. Hệ thống tiền tệ châu Âu đã vận hành khá tốt, tạo ra một vùng tiền tệ ổn định và giảm được các rủi ro gây ra do sự biến động tiêu cực của đồng USD và đồng Yên Nhật. Đơn vị Tiền tệ châu Âu (tiếng Anh: European Currency Unit – ECU), một đơn vị thanh toán, ra đời vì mục đích này và có thể xem như là tiền thân của đồng Euro. 1.1.2.Các giai đoạn thực hiện Năm 1988 một ủy ban xem xét về lien minh kinh tế và tiền tệ dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Ủy ban châu Âu Jacques Delors đã soạn thảo báo cáo Delors dự định thành lập liên minh Kinh tế và Tiền tệ châu Âu. Liên minh này được ghi trong chương II của Hiệp ước Maastricht vào năm 1992. Tiến trình thành lập được triển khai theo 3 giai đoạn: Giai đoạn 1( 1990 – 1993): Tạo tiền đề Giai đoạn này bắt đầu từ 1/7/1990 và kết thúc ngày 31/12/1993 với nội dung chủ yếu là tăng cường sự phối hợp chính sách tiền tệ quốc gia và rút ngắn sự cách biệt về nền kinh tế của các nước thành viên. Theo lịch trình của giai đoạn, từ 1/7/1990 tư bản được tự do lưu thông trong các nước thành viên của EU và từ ngày 1/1/1993 thị trường nội địa bắt đầu vận hành. Đặc biệt trong giai đoạn tạo tiền đề này là việc thực hiện Hiệp ước Maastricht (ký ngày 7/12/1991 tại Hà Lan), với hai mục đích: kinh tế và chính trị. Về kinh tế, hướng đến thành lập một liên minh kinh tế và tiền tệ vào cuối thập niên 1990 với một đơn vị tiền tệ chung và một NHTW độc lập nhằm hạn chế sự biến động của tỷ giá thực tế giữa các nước thành viên EMU và tránh khả năng một số nước thi hành chính sách tài khoá lỏng, dẫn đến áp lực lạm phát trong toàn bộ liên minh, thực hiện ổn định giá hoàn thành thị trường chung thống nhất. Về chính trị: thành lập được một liên minh chính trị bao gồm việc thực hiện một chính sách đối ngoại và an ninh chung, tăng cường hợp tác kinh tế. 10
- Như vậy sau giai đoạn này, việc lưu chuyển vốn được tự do hóa giữa các nước trong EU. Giai đoạn 2( 1994 – 1999): Giai đoạn chuẩn bị Giai đoạn này bắt đầu từ ngày 1/1/1994 và kéo dài đến ngày 31/12/1998; nội dung chủ yếu là các bước tiếp tục chuẩn bị cho các nước thành viên áp dụng đồng tiền chung như: - Tăng cường triển khai chiến lược hội tụ về chính sách kinh tế và thị trường giữa các nước thành viên nhằm ổn định giá. - Hoàn chỉnh các công tác về mặt thể chế cho đồng Euro ra đời: xây dựng bộ máy và cơ chế vận hành của NHTW Châu Âu (ECB) - Quyết định tỷ giá chuyển đồi, tên các đơn vị tiền tệ, căn cứ vào các tiêu chuẩn xét các nước đủ tiêu chuẩn tham gia đồng Euro đợt đầu. Một điều đáng lưu ý trong giai đoạn này là sự ra đời cơ quan tiền thân của ECB là Viện Tiền tệ châu Âu (EMI) với nhiệm vụ: cụ thể hóa các khuôn khổ pháp lý,thực hiện các công việc tổ chức và hậu cần cần thiết để ECB thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình trong giai đoạn thứ 3,đồng thời chịu trách nhiệm củng cố sự phối hợp các chính sách tiền tệ trước khi hình thành liên minh kinh tế và tiền tệ và tư vấn cho các ngân hàng quốc gia thành viên về mặt này. Ngày 2/5/1998, một Hội đồng họp mặt với sự tham gia của các nguyên thủ quốc gia, bỏ phiếu quyết định việc thành viên nào sẽ áp dụng đồng Euro bắt đầu từ giai đoạn 3. Theo đó, đến ngày 09/05/1998 Nghị viện châu Âu phê chuẩn 11 nước đủ tiêu chuẩn và sẽ tham gia EURO lần đầu là Đức, Pháp, Ailen, áo, Bỉ, Bồ Đào Nha, Hà Lan, ý, Lucxembourg và Phần Lan. Đồng thời ECB cũng chính thức được thành lập (1/7/1998) và bắt đầu chuẩn bị cho việc hoạch định và thi hành một chính sách tiền tệ chung. 11
- Giai đoạn 3(1/1/1999-30/6/2002): Đồng Euro chính thức đi vào lưu thông. Từ ngày 1/1/1999, đồng Euro chính thức ra đời thay thế cho đồng ECU và đi vào lưu thông từ song song tồn tại đến thay thế hoàn toàn các đồng bản tệ, trở thành đồng tiền theo đúng nghĩa của nó với tỷ lệ chuyển đổi giữa đồng tiền quốc gia của các nước thành viên với đồng Euro được ấn định không thay đổi. Bên cạnh đó, một cơ chế tỷ giá mới - gọi là cơ chế tỷ giá 2, ERM2 - gắn đồng tiền các nước chưa đủ điều kiện gia nhập với đồng Euro cũng sẽ đi vào hoạt động nhằm thúc đẩy sự hội nhập của các nước chưa đủ điều kiện với các điều kiện kinh tế vĩ mô của khu vực đồng Euro, đồng thời giúp đảm bảo sự ổn định của tỷ giá trong Liên minh Châu Âu nói chung. Một số mốc thời gian đáng chú ý là : 1/1/2002, tiền giấy và tiền xu Euro chính thức được đưa vào lưu thông, tiền giấy và tiền xu nội tệ bắt đầu rút lui khỏi lưu thông. Ngày 28/1/2002, Hà Lan là nước đầu tiên hoàn thành việc thay thế toàn bộ đồng tiền quốc gia cũ bằng đồng tiền chung. Ailen và Pháp cũng kết thúc giai đoạn tồn tại song song của hai đồng tiền vào ngày 9/2 và 17/2/2002. Với 9 nước còn lại, thời kỳ này đồng loạt chính thức kết thúc vào ngày 28/2. 1.2. Điều kiện hình thành một liên minh tiền tệ rút ra từ quá trình thống nhất tiền tệ Châu Âu. 1.2.1.Hình thành một thị trường thống nhất về hàng hóa, vốn và sức lao động: Để hình thành một khu vực tiền tệ thống nhất Liên minh tiền tệ Châu Âu (EMU) đã tuần tự trải qua các giai đoạn phát triển từ thấp đến cao trước khi đạt tới trình độ của một liên minh kinh tế và tiền tệ. Các giai đoạn đó là: khu vực thương mại tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, giai đoạn hài hoà và phối hợp chính sách kinh tế và cuối cùng là một liên minh kinh tế hoàn chỉnh với một số chính sách kinh tế được hoạch định ở cấp độ khu vực. 12
- Hoàn thành ba giai đoạn đầu chính là đã hình thành được một thị trường thống nhất về hàng hoá, vốn và sức lao động. Cụ thể trong trường hợp của châu Âu, hai giai đoạn đầu: khu vực thương mại tự do và liên minh thuế quan được hoàn thành một cách nhanh chóng. Khoảng năm 1960, các nước đã cam kết cắt giảm, xóa bỏ hàng rào thuế quan, phi thuế quan với nhau. Kết quả tính đến ngày 1/7/1968, tất cả các hàng rào thuế quan về số lượng đối với hàng hoá và dịch vụ xuất và nhập khẩu đã được dỡ bỏ. Tuy nhiên, việc xóa bỏ các hàng rào phi thuế quan như các tiêu chuẩn về y tế, vệ sinh, an toàn, kỹ thuật thì gặp nhiều khó khăn hơn do đó, dỡ bỏ các hàng rào này đòi hỏi phải phối hợp nhiều chính sách và luật lệ chứ không chỉ đơn giản là cắt giảm thuế như trường hợp các hàng rào thuế quan. Phải đến giữa những năm 1980, Cộng đồng châu Âu mới đạt được những tiến bộ quan trọng trong lĩnh vực này. Giai đoạn thứ ba "thị trường chung" (ngoài việc tự do hóa thương mại, tự do hóa dịch vụ, bảo hộ đầu tư, thúc đẩy thương mại điện tử, liên minh thuế quan còn cộng thêm các yếu tố như tự do di chuyển các yếu tố sản xuất như : vốn, lao động giữa các nước thành viên) được coi là chính thức hoàn thành ngày 31/12/1992. Tuy nhiên, kể cả cho tới ngày hôm nay, vẫn còn nhiều lĩnh vực như dịch vụ tài chính, năng lượng, viễn thông cần được tiếp tục cải cách để thị trường của Liên minh châu Âu thực sự là một thị trường chung. 1.2.2. Điều chỉnh kinh tế của các nước thành viên để hội nhập theo tiêu chí thống nhất Cụ thể Hiệp ước Masstricht năm 1991 đã đề ra thời gian biểu chi tiết và những điều kiện để các nước tham gia vào giai đoạn cuối của quá trình hội nhập tiền tệ châu Âu. Nội dung của Hiệp ước như sau : 13
- - Đạt được mức độ ổn định cao về giá cả, thể hiện ở tỷ lệ lạm phát (trong 12 tháng trước đó) không quá 1,5% so với tỷ lệ lạm phát của 3 nước thành viên có tỷ lệ lạm phát thấp nhất. - Duy trì tỷ lệ lãi suất dài hạn ổn định sao cho trung bình của thời kỳ mười hai tháng trước đó không quá 2% so với mức trung bình của ba nước thành viên có giá cả ổn định nhất khu vực. - Tuân thủ biên độ dao động bình thường mà cơ chế tỷ giá hối đoái của EMS cho phép cụ thể là một nước thành viên không được chủ ý phá giá đồng tiền của mình so với tỷ giá trung tâm với một đồng tiền của một nước khác. - Duy trì tình hình tài chính của chính phủ ổn định, ngân sách chính phủ thâm hụt không quá 3% GDP và tỷ lệ nợ chính phủ trên GDP không vượt quá 60%. Có thể thấy hai nội dung đầu tiên của Hiệp ước Masstricht nhằm hạn chế sự biến động của tỷ giá thực tế khi tỷ giá danh nghĩa đã được biến động. Nội dung thứ ba đã buộc các nước thành viên tương lai khi hoạch định chính sách tiền tệ phải cân nhắc đến lợi ích của cả khối mà không chỉ là lợi ích của nước mình. Nội dung cuối cùng là để tránh sự mất cân đối của một nước thành viên ảnh hưởng tiêu cực đến một nước thành viên khác thông qua áp lực thực hiện chính sách tiền tệ lỏng quá mức hay thậm chí là cho vay để cứu nguy cho chính phủ nước đó. Bên cạnh đó các điều kiện này còn nhằm tạo ra một môi trường ổn định giá cả và dần dần chuyển các chính sách kinh tế vĩ mô từ phục vụ lợi ích của từng nước sang phục vụ lợi ích của cả liên minh. Như vậy, điều chỉnh kinh tế để hội nhập là một tiền đề quan trọng để tránh sự bất ổn định về kinh tế vĩ mô và do đó, là một yêu cầu quan trọng trong giai đoạn chuẩn bị cho sự ra đời của một đồng tiền chung. 14
- 1.2.3. Thiết lập một cơ chế liên kết tỷ giá Trước khi đồng Euro ra đời và cùng với nó là một cơ chế liên kết tỷ giá chặt chẽ và hiệu quả, cộng đồng Châu Âu cũng đã từng xuất hiện nhiều cơ chế liên kết tỷ giá để hỗ trợ cho việc phát triển kinh tế của các nước thành viên: Giai đoạn đầu tiên là từ khi bắt đầu thành lập Cộng đồng vào năm 1957 cho đến khi thiết lập Hệ thống tiền tệ châu Âu năm 1979. Sự phối hợp trên lĩnh vực tỷ giá hối đoái ở giai đoạn này nhìn chung còn lỏng lẻo. Sau khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ và cuộc khủng hoảng dầu lửa lần thứ nhất nổ ra năm 1973, các nước đã không thể thống nhất được về một biện pháp đối phó chung. Mỗi nước tự đưa ra chính sách tài khoá và tiền tệ riêng của mình để đối phó và tỷ giá hối đoái càng trở nên bất ổn định. Cuối cùng, các nước áp dụng chính sách kinh tế vĩ mô lỏng đã buộc phải thả nổi đồng tiền của mình. Giai đoạn thứ hai đánh dấu bằng sự ra đời của Hệ thống tiền tệ châu Âu (ECU) và kéo dài đến khi xảy ra cuộc khủng hoảng cơ chế tỷ giá ERM vào năm 1992-1993. Trong giai đoạn này, các nước châu Âu đã đạt được một mức độ phối hợp đáng kể trong lĩnh vực chính sách tài chính, tiền tệ. Giai đoạn đầu của Hệ thống tiền tệ châu Âu gặp phải những vấn đề khó khăn, các nước thành viên liên tục phải điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Dần dần, với một ngân hàng trung ương độc lập và chính sách tiền tệ theo đuổi mục tiêu ổn định giá cả, đồng Mark Đức đã trở thành nước neo giá danh nghĩa cho đồng tiền các nước trong hệ thống.Thời kỳ cuối của giai đoạn này đã chứng kiến một cuộc khủng hoảng tỷ giá, Italia và Anh rời bỏ cơ chế tỷ giá còn biên độ dao động của các nước còn lại được mở rộng tới ±15%. Giai đoạn thứ ba bắt đầu từ năm 1993 và kéo dài cho tới nay. Đây là giai đoạn phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô thành công với các mục tiêu chung về các chính sách tài khoá, tiền tệ, và tỷ giá hối đoái theo Hiệp ước 15
- Masstrict. Việc biên độ dao động được mở rộng tới ±15% vào tháng 8/1993 đã cho phép các nước có được một sự linh hoạt nào đó trong vấn đề tỷ giá, giảm bớt sự căng thẳng của thị trường ngoại hối và nguy cơ các cuộc tấn công đầu cơ. Giai đoạn này đem lại một bài học bổ ích cho bất cứ nhóm nước nào xem xét việc thành lập một liên minh tiền tệ trong tương lai 1.2.4.Tạo lập một đồng tiền khu vực và hình thành một ngân hàng trung ương độc lập với chính sách tiền tệ thống nhất. Một liên minh tiền tệ không thể tồn tại nếu thiếu một đồng tiền chung. Cũng như vậy, ở liên minh tiền tệ châu Âu, đồng tiền chung với tên gọi đồng Euro đã được phát triển từ đơn vị kế toán của châu Âu lên thành đơn vị tiền tệ châu Âu, đồng Euro không chỉ được sử dụng để tính toán mà còn được sử dụng làm giá trị trung tâm của cơ chế tiền tệ châu Âu, làm phương tiện thanh toán trong các giao dịch giữa các NHTW trong Cộng đồng. Đồng thời ra đời NHTW Châu Âu ECB với mục tiêu quan trọng nhất là duy trì sự ổn định giá cả của toàn khu vực đồng Euro, qua đó, tạo ra một môi trường ổn định để khuyến khích các hoạt động kinh tế, tạo công ăn việc làm, và nói một cách tổng quát là tăng phúc lợi xã hội, do đó, sẽ góp phần đạt được các mục tiêu chung của Cộng đồng. Bên cạnh đó ngân hàng trung ương của liên minh và hệ thống các ngân hàng trung ương quốc gia phải đảm bảo sự độc lập trong quá trình hoạch định và thực thi các nhiệm vụ về chính sách tiền tệ của mình để có thể thực hiện mục tiêu ổn định giá cả một cách hiệu quả. 1.3. Cơ chế điều hành chính sách tiền tệ của liên minh tiền tệ Châu Âu 1.3.1. Bộ máy hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ của liên minh tiền tệ châu Âu Một trong những mục tiêu trọng tâm của các nước thành viên khi xây dựng liên minh kinh tế và tiền tệ châu Âu (EMU) chính là tạo ra 16
- một đồng tiền chung và một chính sách tiền tệ thống nhất. Do đó, kể từ ngày 1/1/1999, khi đồng EURO chính thức được ra đời và đưa vào lưu hành, đi kèm với nó là hoạt động quản lí và vận hành chính sách tiền tệ để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển ổn định của đồng tiền chung. Công việc này được thực hiện thông qua hệ thống ngân hàng trung ương châu Âu (ESCB). ESCB – European System of Central Banks là hệ thống bao gồm có ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) và các ngân hàng trung ương (NCBs) của 27 quốc gia thành viên của EMU trong đó ECB đóng vai trò đầu não tối quan trọng trong việc ra các quyết định đối với các chính sách tiền tệ. Tuy nhiên cần lưu ý rằng không phải tất cả các quốc gia EU đều đã gia nhập đồng EURO, do đó, ESCB không thể được sử dụng như là cơ quan tiền tệ của khi vực đồng Euro. Vì lí do này mà Eurosystem (không bao gồm các NCBs chưa sử dụng Euro như là loại tiền tệ duy nhất chính thức) đã trở thành tổ chức phụ trách những nhiệm vụ mà về nguyên tắc phải được quản lý bởi ESCB. Hiện nay bộ máy Eurosystem bao gồm có ECB chịu trách nhiệm xây dựng chính sách tiền tệ và các ngân hàng trung ương quốc gia chịu trách nhiệm thực thi các chính sách đó. Cơ chế vận hành của Eurosystem có thể tóm tắt qua bảng sau: 17
- NHTƯ châu Âu (ECB) Hội đồng quản trị Đại hội đồng: - Xây dựng CSTT chung - Tư vấn cho ECB - Thu thập thông tin thống kê. Ban chấp hành Các thống đốc của các - Thực thi các CSTT NHTƯ quốc gia. Các NHTƯ quốc gia thành viên. Theo quy định của hiệp ước thành lập liên minh châu Âu và Điều lệ của ESCB cùng với ECB thì mục tiêu chính của Eurosystem là duy trì ổn định giá cả (nói cách khác là kiểm soát lạm phát) trong khu vực các nước thành viên sử dụng đồng Euro, đồng thời, có trách nhiệm hỗ trợ thực hiện các chính sách kinh tế chung trong cộng đồng, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm. Các nhiệm vụ cơ bản của Eurosystem là: - Quyết định và thi hành các chính sách tiền tệ khu vực đồng Euro. - Tiến hành các hoạt động ngoại hối. - Quản lý chính thức nguồn dự trữ ngoại hối của các nước thành viên. - Thúc đẩy hoạt động của hệ thống thanh toán thông suốt. Các chức năng tiền tệ và hoạt động cụ thể là: - Mở tài khoản của ECB và các ngân hàng trung ương quốc gia tại các tổ chức tín dụng, các tổ chức công cộng và các tổ chức tham gia thị trường khác. 18
- - Mở cửa thị trường và hoạt động tín dụng. - Yêu cầu thiết lập tổ chức tín dụng tại các nước thành viên để nắm giữ dự trữ tối thiểu. - Quan hệ với các chủ thể công cộng. - Đưa ra các quy định đảm bảo hiệu quả và tính vững chắc cho hệ thống thanh toán bù trừ. - Hợp tác với ngân hàng trung ương và tổ chức tín dụng của các nước thứ ba và các tổ chức quốc tế. Ngoài ra, Eurosystem góp phần vào việc tiến hành các chính sách liên quan đến việc giám sát các tổ chức tín dụng và ổn định hệ thống tài chính. Quá trình ra quyết định trong Eurosystem là tập trung thông qua các cơ quan ra quyết định của ECB, cụ thể là Hội đồng quản trị, Ban chấp hành và Đại hội đồng. Hội đồng quản trị là cơ quan ra quyết định cao nhất, bao gồm sáu thành viên của Ban chấp hành và tất cả thống đốc các ngân hàng trung ương các nước trong khu vực đồng Euro. Trách nhiệm chính của Hội đồng quản trị bao gồm: - Thông qua các nguyên tắc chỉ đạo và đưa ra quyết định cần thiết cho hoạt động của Eurosystem - Xây dựng các chính sách tiền tệ của khu vực đồng Euro bao gồm các quyết định liên quan đến các mục tiêu trung gian tiền tệ, đến lãi suất chủ chốt và vấn đề cung cấp dự trữ trong Eurosystem và thiết lập các hướng dẫn thi hành. Theo đó, Hội đồng quản trị có thể thiết lập mức lãi suất mà các ngân hàng thương mại có thể vay tiền từ ngân hàng trung ương của họ thông qua đó có tác động gián tiếp đến lãi suất trong cả khu vực kinh tế sử dụng đồng Euro. 19
- Ban chấp hành bao gồm Chủ tịch và Phó chủ tịch của ECB và bốn thành viên khác được chính phủ các nước tham gia khu vực đồng Euro chỉ định. Ban chấp hành thực hiện chính sách tiền tệ theo quyết định của Hội đồng quản và cung cấp các hướng dẫn cần thiết cho các ngân hàng trung ương quốc gia. Đại hội đồng là cơ quan ra quyết định thứ ba của Eurosystem. Nó bao hồm chủ tịch và Phó chủ tịch của ECB và thống đốc ngân hàng trung ương của tất cả các thành viên EU. Trách nhiệm của Đại hội đồng là thực hiện tư vấn cho ECB, thu thập thông tin thống kê cho hoạt động báo cáo của ECB, thiết lập các quy tắc cần thiết cho việc chuẩn hóa quy trình kế toán và báo cáo thực hiện cho các NCBs Eurosystem là một tổ chức độc lập với ủy ban châu Âu trong hoạch định chính sách tiền tệ. Khi thực hiện nhiệm vụ, tất cả các bộ phận từ ECB đến các ngân hàng trung ương quốc gia đều không thể bị ảnh hưởng bởi các quyết định bên ngoài. Điều lệ của ESCB cung cấp cho họ các biện pháp để đảm bảo an ninh cho nhiệm kỳ của các thống đốc ngân hàng trung ương quốc gia và các thành viên của ban chấp hành. Ví dụ như: không thể bãi miễn chức thống đốc ECB trừ trường hợp không đủ năng lực hoặc có hành vi sai trái nghiêm trọng, nhiệm kỳ tối thiểu của thống đốc các NCBs là 5 năm và nhiệm kỳ thực hiện cho các thành viên của Ban chấp hành tối thiểu là 8 năm . Điều này ngăn ngừa hữu hiệu việc lạm dụng tiền tệ để tài trợ cho các mục tiêu quân sự, chính trị, là nguồn gốc của lạm phát và bất ổn tiền tệ. Về hoạt động của ECB, ngân hàng trung ương châu Âu có số vốn vào khoảng 5000000000 €. Các NCBs là chủ thể đóng góp và là chủ sở hữu vốn của ECB. Sự đóng góp về vốn được dựa trên cơ sở là tỷ trọng GDP và dân số của các quốc gia. Các ngân hàng trung ương nước ngoài tham gia phải trả đến 7% số vốn đóng góp như một sự chi trả cho chi phí hoạt động. 20
- Ngoài ra, NCBs của các nước thành viên tham gia trong khu vực đồng euro đã cung cấp cho ECB một khoản tài sản dự trữ nước ngoài lên đến 40000000000 €. Các khoản đóng góp của mỗi NCB được cố định theo tỷ lệ vốn cổ phần của mình đăng ký trong ECB. Trong quá trình hoạt động của mình, về mặt nghiệp vụ, ECB phải xác định các mục tiêu trung gian mang tính kỹ thuật như: khối lượng tiền phát hành, tỷ giá, lãi suất và các mục tiêu này được xác định hoàn toàn độc lập. Các công cụ củ yếu được ECB sử dụng để đạt được mục tiêu là nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ cho vay để bù đắp thâm hụt thường xuyên Bên cạnh đó, các nhà hoạch định chính sách tiền tệ châu Âu đã thiết kế khá đầy đủ các cơ chế, quy định để thực thi chính sách tiền tệ chung thống nhất và đưa EMU vận hành như: cơ chế đổi tiền, cơ chế thanh toán, cơ chế tỷ giá với các nước trong EU chưa tham gia vào EMR II, cơ chế giám sát tài chính công và ngân sách lành mạnh, cơ chế báo động, cơ chế phạt . 1.3.2. Các quy định cơ bản trong thời kỳ chuyển đổi. 1.3.2.1 Tỷ giá chuyển đổi: Từ ngày 31/12/1998 tỷ giá chính thức của các đồng tiền các nước thành viên được xác định theo cơ chế tỷ giá cũ (ERM I) công bố tháng 5/1998 được sử dụng như tỷ giá chuyển đổi song phương cho các nước thành viên tham gia. 21
- Đơn vị tiền tệ Ký hiệu Tỷ giá Thay đổi Hoàn thành Schilling Áo ATS 13,7603 31 tháng 12 năm 1998 2002 Franc Bỉ BEF 40,3399 31 tháng 12 năm 1998 2002 Gulden Hà Lan NLG 2,20371 31 tháng 12 năm 1998 2002 Markkaa Phần Lan FIM 5,94573 31 tháng 12 năm 1998 2002 Franc Pháp FRF 6,55957 31 tháng 12 năm 1998 2002 Mark Đức DEM 1,95583 31 tháng 12 năm 1998 2002 Pound Ireland IEP 0,787564 31 tháng 12 năm 1998 2002 Lira Ý ITL 1.936,27 31 tháng 12 năm 1998 2002 Franc Luxembourg LUF 40,3399 31 tháng 12 năm 1998 2002 Escudo Bồ Đào Nha PTE 200,482 31 tháng 12 năm 1998 2002 Peseta Tây Ban Nha ESP 166,386 31 tháng 12 năm 1998 2002 Drachma Hy Lạp GRD 340,750 19 tháng 6 năm 2000 2002 Tolar Slovenia SIT 239,640 11 tháng 7 năm 2006 2007 Pound Síp CYP 0,585274 10 tháng 7 năm 2007 2008 lira Malta MTL 0,429300 10 tháng 7 năm 2007 2008 Koruna Slovak SKK 30,1260 8 tháng 7 năm 2008 2009 Ban đầu, đồng Euro tồn tại như là tiền để thanh toán trong kế toán (chưa có tiền mặt): đồng Euro về mặt hình thức trở thành tiền tệ của các nước thành viên, các tiền tệ quốc gia có địa vị là một đơn vị dưới Euro và có tỷ giá cố định không đổi. Tỷ giá này được quy định bao gồm có 6 con số. Sau đó, các tiền tệ là thành viên chỉ được phép tính chuyển đổi với nhau thông qua đồng Euro, tức là trước tiên phải tính chuyển từ tiền tệ khởi điểm sang Euro và sau đấy từ Euro sang tiền tệ muốn chuyển đổi. 1.3.2.2. Cơ chế tỷ giá mới (EMR II) 22
- Hội đồng châu Âu tại Amsterdam tháng 6/1997 đã thông qua quyết định hình thành cơ chế tỷ giá mới thay thế cho hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS) hiện hành. Trên cơ sở đó, viện tiền tệ châu Âu (EMI) chuẩn bị một thỏa ước về cơ chế tỷ giá mới giữa các nước thành viên khu vực đồng Euro và các nước ngoài khu vực trong đó quy định đối với ngân hàng tất cả các nước thành viên đều phải: - Báo cáo thường xuyên các hoạt động can thiệp đến hối đoái và các hoạt động hối đoái khác. - Cần có sự chấp nhận của ngân hàng trung ương ECB và các NCBs không tham gia về các hoạt động can thiệp hoặc các giao dịch lớn bằng các đồng tiền quốc gia vượt quá mức độ giới hạn đã được thỏa thuận và có thể ảnh hưởng đến hoạt động thị trường hối đoái. Tỷ giá chính thức giữa các đồng tiền quốc gia trong cơ chế EMR II với đồng Euro được ECB xác định với biên độ giao động cho phép là +/- 1,5% (tuy nhiên biên độ này có thể thu hẹp trong quá trình hội tụ kinh tế để tham gia vào khu vực đồng tiền chung của các nước thành viên còn lại. Trong quan hệ tỷ giá đồng Euro là đồng yết giá) Để đảm bảo tỷ giá nằm trong biên độ này, ECB và NCBs của các quốc gia thành viên ngoài khi vực đồng Euro thực hiện can thiệp không hạn chế và tự động thông qua sử dụng các công cụ tài trợ vốn ngắn hạn. Tuy nhiên mức độ can thiệp cũng như sự cần thiết can thiệp còn tùy thuộc vào ảnh hưởng của nó đến mục tiêu ổn định giá cả. 23
- 1.3.2.3. Hệ thống thanh toán. Mỗi quốc gia thành viên có ít nhất một hệ thống thanh toán đồng Euro để thực hiện các giao dịch nội địa. Để thực hiện các giao dịch giữa các quốc gia, các thành viên có thể lựa chọn nhiều phương thức thanh toán như: lựa chọn một ngân hàng đại lý với 1 tài khoản đồng Euro để hạch toán các khoản giao dịch bằng đồng Euro với tất cả thành viên khác, duy trì một tài khoản được mở tại một ngân hàng đại lý của một số quốc gia để hạch toán các giao dịch với quốc gia đó hay thực hiện chi trả trực tiếp thông qua hệ thống thanh toán theo thời gian thực tế với một trung tâm thanh toán toàn lãnh thổ hoặc thông qua hệ thống thanh toán bù trừ của hiệp hội Ngân hàng khu vực (EBA). Trên thực tế đã có một trung tâm thanh toán cho toàn lãnh thổ EMU là TARGET được nối mạng trực tiếp với các trung tâm thanh toán quốc gia cho phép các khoản giao dịch giữa các quốc gia thành viên có thể thực hiên trong một ngày. Hệ thống này thực sự là kênh để điều chỉnh mức độ thanh khoản giữa các khu vực khác nhau để xử lý nhanh chóng các khoản chi trả với khối lượng lớn. 3. Thực trạng hoạt động của đồng Euro. Sau khoảng 11 năm được chính thức đưa vào hoạt động (kể từ ngày 1/1/1999 cho tới nay) với 16 quốc gia đã sử dụng Euro làm đơn vị tiền tệ chính thức trong lưu thông của mình, khu vực đồng tiền chung Châu Âu (Eurozone) phát triển ngày một lớn mạnh. Đồng Euro đã trở thành một công cụ thanh toán toàn cầu, trở thành đối trọng với đồng USD Mỹ. Nhìn lại thời gian hoạt động trong 11 năm vừa qua, chúng ta đã có thể đánh giá được phần nào hiệu quả của việc sử dụng đồng Euro trên lãnh thổ các quốc gia liên minh châu Âu EU. 24
- 3.1Những thành tựu đạt được : 3.1.1. Đối với các nước thành viên: Việc 11 nước ban đầu tham gia liên minh tiền tệ châu Âu (EMU) với 290 triệu dân đã hình thành một thị trường rộng lớn trên thế giới với một nền kinh tế tương đối phát triển. Nhờ có mối liên kết chặt chẽ hơn, các nước EU trở thành một khối kinh tế vững mạnh hơn, do đó địa vị của EU được nâng cao hơn, nhất là trong quan hệ với Mỹ. Để gia nhập EMU các nước thành viên đã phải thỏa mãn rất nhiều qui định chặt chẽ về lạm phát, lãi suất dài hạn, thâm hụt ngân sách và tỷ giá Nhìn chung, điều này có tác dụng thúc đẩy các nước thành viên phát triển để tránh bị tụt hậu so với các nước thành viên khác và vi phạm những qui định được đặt ra ban đầu. Nhờ vậy, nền kinh tế các nước thuộc khu vực Eurozone đã có những bước tiến nhất định. 3.1.1.1.Nền kinh tế được kích thích tăng trưởng: Nhờ những tác động tích cực của việc hình thành một thị trường thống nhất về hàng hóa, vốn và sức lao động đã giúp các nước Eurozone tận dụng được hiệu quả những nguồn lực sẵn có cũng như tận dụng các nguồn lực bên ngoài cho việc phát triển kinh tế. Vì sử dụng một đơn vị tiền tệ chung nên trao đổi hàng hóa nên giao dịch giữa các nước trong nội bộ của khối diễn ra thuận tiện và dễ dàng hơn, không tốn kém chi phí cho hoạt động giao dịch ngoại hối, các doanh nghiệp khi thực hiện kí kết các hợp đồng thương mại cũng không cần lo lắng về vấn đề biến động của tỷ giá, nhờ vậy, làm cho các hoạt động thương mại giữa các quốc gia trong khu vực diễn ra mạnh mẽ. Biểu hiện của điều này là sự gia tăng của tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trong nội bộ của khối. Việc di chuyển dễ dàng của vốn và đồng nhất về đồng tiền giúp các nhà đầu tư có thêm nhiều lựa chọn cũng như dễ dàng so sánh được mức lợi nhuận thu được từ các dự án đầu tư khác nhau, trên những vùng khác nhau để đưa ra 25
- quyết định đầu tư phù hợp với mục đích của mình. Qua đó khuyến khích đầu tư, đẩy mạnh sự phát triển của khu vực. Sự di chuyển tự do của lao động và việc sử dụng cùng một đồng tiền giúp những người lao động có thể dễ dàng so sánh mức lương ở các khu vực khác nhau sau đó lựa chọn cho mình 1 công việc cũng như địa điểm thích hợp để làm việc. Hàng triệu việc làm mới được tạo ra nhờ sự gia tăng của đầu tư trong khu vực. Điều này góp phần đáng kể vào việc làm giảm tỷ lệ thất nghiệp của khu vực : từ mức hơn 9% năm 1999 xuống mức 7% trong những năm 2007-2008. Cụ thể kết quả đạt được, tỉ lệ tăng trưởng GDP hàng năm của khu vực đồng Euro từ năm 1999 tới nay ở mức trung bình 1,48% /năm, và có lúc lên cao nhất vào 06/2000: 4,6%; giá trị GDP trung bình trong khoảng thời gian từ 01/2000 – 09/2010 là khoảng 9700 tỷ USD/năm. 26
- Biểu đồ 1 : Biểu đồ về giá trị GDP hàng năm của khu vực Euro ( 1970-2010 ) Đơn vị : Nguồn : TradingEconomics.com; The World Bank Group Biểu đồ 2 : Biểu đồ tỷ lệ tăng trưởng GDP hàng năm của khu vực Euro (1999 - 2010) 27
- Đơn vị : % Nguồn : TradingEconomics.com; European Commission Biểu đồ 3 :Biểu đồ về tỷ lệ thất nghiệp của các nước trong khu vực đồng Euro (1997 – 2010) Đơn vị : % 28
- Nguồn : TradingEconomics.com; European Commission 3.1.1.2.Ổn định các yếu tố kinh tế đặc biệt là tỷ lệ lạm phát và lãi suất. Thứ nhất, với mục tiêu ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát: do có 1 Ngân hàng trung ương cho cả khu vực cùng với chính sách tiền tệ độc lập và không hề chịu sự tác động hay can thiệp của bất kỳ một quốc gia nào trong nội bộ khối nên kể từ khi thành lập ECB đã giữ được tỷ lệ lạm phát ở mức hợp lý, góp phần giữ ổn định cho các hoạt động của nền kinh tế. Cụ thể là sau hơn 10 năm, giá cả ở Châu Âu tăng với tốc độ bình quân vào khoảng 2% mỗi năm bất chấp giá lương thực và nhiên liệu có xu hướng leo thang liên tục trong những năm gần đây. Biểu đồ 4 :Biểu đồ về tỷ lệ lạm phát của khu vực đồng Euro ( 1991 – 2010 ) Đơn vị : % Nguồn : TradingEconomics.com; European Commission 29
- Bên cạnh đó, ECB đã duy trì một mức lãi suất ổn định, điều này đã giúp hạn chế những biến động lớn có thể gây ra rủi ro cho các nhà đầu tư và các doanh nghiệp. Lãi suất bình quân ở mức 2,89% năm và chỉ tăng cao vào những năm xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế thế giới 2008. Khi đó, lãi suất buộc phải được nâng lên nhằm làm giảm tác động xấu của cuộc khủng hoảng đến sự phát triển kinh tế, đồng thời thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát. 30
- Biểu đồ 5: Biểu đồ về lãi suất của khu vực đồng Euro ( 1999- 2010 ) Đơn vị : % Nguồn : TradingEconomics.com 3.1.1.3.Mức sống của người dân khu vực đồng EURO được nâng lên : Nhờ sự ổn định và tăng trưởng kinh tế mà mức sống của người dân trong khu vực Eurozone tăng lên. Điều đó thể hiện qua sự gia tăng thu nhập bình quân đầu người. Tính đến cuối năm 2008, thu nhập bình quân của cả khu vực là khoảng 22000 USD/người; còn nếu tính theo giá sức mua tương đương thì thu nhập bình quân là khoảng 33500 USD. 31
- Biểu đồ 6: Biểu đồ thu nhập bình quân ( 1980 – 2009 ) Đơn vị : Nguồn : TradingEconomics.com; The World Bank Group Biểu đồ 7 : Biểu đồ thu nhập bình quân tính theo ngang giá sức mua ( 1998-2009 ) Đơn vị : 32
- Nguồn : TradingEconomics.com 3.1.2. Trên phương diện quốc tế : đồng Euro dần trở thành 1 ngoại tệ mạnh. Việc ra đời đồng Euro đã tạo ra sự thay đổi lớn trong hệ thống tiền tệ thế giới xét trên 2 khía cạnh. Đầu tiên là những thay đổi trong việc thanh toán các loại dịch vụ và buôn bán quốc tế, kể cả các giao dịch trên thị trường chứng khoán. Đồng Euro trở thành một phương tiện thanh toán tương đối ổn định và có sức chuyển đổi cao. Thứ hai, sự ổn định khiến Euro dần trở thành 1 trong những kênh đầu tư an toàn. Bên cạnh đồng USD dự trữ như trước đây thì NHTW các nước có thêm 1 sự lựa chọn nữa là đồng Euro. Trên thực tế, dự trữ ngoại hối của các quốc gia trên thế giới bằng đồng Euro có xu hướng tăng lên chứng tỏ Euro đã được các công ty và chính phủ các nước chấp nhận như là 1 ngoại tệ mạnh. Cụ thể là sau hơn 3 năm đi vào hoạt động, tỷ trọng của Euro trong quỹ dự trữ của các NHTW trên thế giới vào năm 2005 đạt 24,3% (của USD là 66,4%) và cho tới năm 2009, đã là gần 30% . Hay kể từ ngày 1/1/2009, đồng Euro đã thay thế USD và trở thành đồng tiền chính trong dự trữ ngoại hối của Nga (tỷ lệ Euro trong dự trữ ngoại hối của Nga theo thông báo của NHTW Nga là 47,5% còn của USD là 41,5%). Trung Quốc - 1 trong những nước có lượng dự trữ ngoại tệ thuộc hàng lớn nhất trên thế giới cũng đã tuyên bố tăng tỷ lệ dự trữ ngoại hối bằng Euro, giảm tỷ lệ dự trữ bằng USD để giảm thiểu rủi ro từ đồng USD đem tới, đặc biệt là khi khủng hoảng kinh tế thế giới bắt đầu bùng nổ và lan truyền từ Mỹ. Hơn nũa, sự cạnh tranh về tiền tệ giữa đồng USD và đồng Euro sẽ thúc đẩy xu thế đa cực trung tâm trong quan hệ quốc tế phát triển, tạo điều kiện cho những nền kinh tế nhỏ hơn có cơ hội phát triển. 33
- Như vậy, có thể nói việc đồng EURO ra đời đã đem lại khá nhiều lợi ích cho khu vực đồng tiền chung Châu Âu , đồng thời cũng đã có những tác động tích cực nhất định đến nền tài chính thế giới. 3.2. Những mặt hạn chế của đồng EURO: Sự xuất hiện của đồng tiền chung châu Âu Euro, bên cạnh những kết quả tăng trưởng và ổn định ở trên, đã và đang bộc lộ những mặt hạn chế, khiến các quốc gia trong khu vực hiện tại phải đối mặt với những vấn đề nghiêm trọng. Để nhìn nhận cụ thể tình hình thực tế, cần phải hiểu rõ thực trạng các nước trong khối trước khi đồng Euro chính thức đưa vào sử dụng. Khi đó, có thể thấy khu vực đồng EURO chia làm 2 khu vực với những sự khác biệt rõ nét: một bên là những nước có nền công nghiệp phát triển, người dân có mức sống cao và điển hình đó là Đức, Pháp; còn một bên là những nước có nền kinh tế phát triển thấp kém hơn, chủ yếu là những nước Nam Âu (như Tây Ban Nha, Italia, Bồ Đào Nha, Hy Lạp) với nền kinh tế đang bị suy yếu do các nguyên nhân như: luật lao động khắt khe, những thiết chế quan liêu, tốn kém trong kinh doanh cùng với việc nhiều ngành kinh tế lớn bị chính phủ nắm giữ. Bắt nguồn từ những khác biệt đó, khi tiến hành liên minh kinh tế với sự xuất hiện 1 đồng tiền chung đã đưa đến nhiều vấn đề tác động rất lớn đến nền kinh tế các nước. 3.2.1.Sự tăng trưởng thiếu bền vững và vấn đề suy giảm năng lực cạnh tranh của các nước kém phát triển hơn : Trước khi có liên minh tiền tệ, lãi suất ở các quốc gia Nam Âu phần lớn ở mức 2 chữ số và trung bình gấp đôi lãi suất của Đức. Điều đó phản ánh cả tỷ lệ lạm phát cũng như rủi ro lớn khi cho các doanh nghiệp cũng như chính phủ các nước này vay tiền. Tuy nhiên, sau khi gia nhập đồng Euro, do quy định gia nhập và dưới sự điều hành của Ngân hàng trung ương Châu Âu ECB, 34
- lãi suất giảm xuống gần bằng lãi suất của Đức và được duy trì ở mức thấp cùng với sự tự do di chuyển vốn khiến cho chi phí vay vốn trở nên rẻ hơn. Hơn nữa, các nguồn tín dụng cũng gia tăng rất phong phú; các nước có nền kinh tế kém phát triển hơn trong khu vực có cơ hội dễ dàng tiếp cận vốn từ nhiều nguồn khác nhau để đầu tư phát triển kinh tế. Điều đó làm cho các nhà đầu tư tin tưởng vào sự tăng trưởng cao trong tương lai của các quốc gia như Tây Ban Nha, Ý hay Bồ Đào Nha, sẽ đưa các nước này tiến gần hơn với sự phát triển của Đức, Pháp. Và trên thực tế, niềm tin này ngày càng có vẻ củng cố hơn bởi trong giai đoạn 2002-2007, đã có một vài quốc gia đột nhiên đạt được mức tăng trưởng đáng nể. Tốc độ tăng trưởng của Hy Lạp và Tây Ban Nha dao động trong khoảng 3,5% – 4,3% trong khi Ailen vươn lên một cách mạnh mẽ nhất với tỷ lệ 6,5% mỗi năm, cao hơn so với mức tăng trưởng trung bình của cả Châu Âu là khoảng 2% /năm. Nhưng vấn đề nằm ở chỗ, sự tăng trưởng đó không bắt nguồn từ sản xuất và xuất khẩu hàng hóa, mà trên thực tế là sự bùng nổ về tiêu dùng trong nước về các dịch vụ. Các nhà hàng, khách sạn mọc lên như nấm, ngành bất động sản phất lên nhanh chóng Sự tăng lên của cầu tiêu dùng nội địa làm cho giá cả tăng cao, lao động bị thiếu hụt trong khi tính linh hoạt của lực lượng châu Âu vốn là 1 điểm yếu đã đẩy tiền lương nhân công tăng lên nhanh chóng. Nền kinh tế tăng trưởng nhưng mất cân đối về cơ cấu và không bền vững, chỉ dựa vào khu vực dịch vụ và bất động sản, còn hàng hóa xuất khẩu thì ngày càng kém cạnh tranh so với các nước khác trong khu vực vì có chi phí tiền lương bị đẩy lên cao. Trước hoàn cảnh đó, nếu như các nước sử dụng đồng tiền riêng có thể đưa ra những biện pháp để cải thiện khả năng cạnh tranh của hàng hóa như điều chỉnh tỷ giá hay phá giá đồng tiền để hàng hóa xuất khẩu của mình trở 35
- nên rẻ hơn, dễ tiêu thụ hơn, nhưng do sử dụng chung một đồng tiền nên việc này là không thể. Hơn nữa, chi phí bị đẩy lên cao dẫn đến nguy cơ lạm phát lại không thể tự động khắc phục do việc tăng lãi suất bị kìm hãm, điều này làm cho giá cả ngày càng leo thang. Kết quả là sức cạnh tranh thương mại của các quốc gia này ngày càng giảm so với các quốc gia khác trong khu vực như Đức, Anh, hay Pháp. 3.2.2. Gia tăng chi tiêu chính phủ và nợ công - cuộc khủng hoảng nợ : Giao dịch bất động sản sôi động, tiền lương tăng cao làm nguồn thu thuế tăng lên đáng kể, khiến cho chính phủ các nước chi tiêu phung phí mà không quan tâm rằng sự tăng lên đó chỉ là nhất thời. Đồng thời, chính sách duy trì mức lãi suất thấp (2% /năm) của Ngân hàng trung ương Châu Âu ECB vô tình trở thành cám dỗ khuyến khích chính phủ các nước tăng cường vay vốn để đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Cho tới khi ECB nhận ra nguy cơ lạm phát, lãi suất liên tục bị đẩy lên cao (giai đoạn 2006-2008, lãi suất từ 2% tăng lên 4%) làm cho bong bóng nhà đất vỡ tung, các nguồn thu từ thuế sụt giảm nhanh chóng, hậu quả là ngân sách chính phủ các nước kém phát triển hơn bị thâm hụt. Thêm vào nữa, vì là một liên minh tiền tê, sử dụng 1 đồng tiền chung nên chính sách tiền tệ do ECB đưa ra là độc lập và không vì lợi ích riêng của bất kỳ 1 quốc gia nào. Do đó, các nước không thể có sự phối hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để điều tiết sự mất cân bằng trong nền kinh tế, đối phó với lạm phát và suy thoái. Đồng thời sự nhất thể hóa chính trị không theo kịp sự nhất thể hóa tiền tệ, Chính phủ các nước luôn đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu, cao hơn lợi ích của khu vực cho nên mặc dù có chính sách tiền tệ là như nhau, nhưng mỗi chính phủ lại có chính sách tài khóa riêng. Ngân sách thâm hụt không thể bù đắp bằng cách in tiền mà phải sử 36
- dụng các công cụ như vay vốn từ nước ngoài, từ dân cư thông qua phát hành trái phiếu chính phủ Tất cả những hành động đó đã đẩy thâm hụt ngân sách và nợ công lên mức đáng báo động. Nhưng do quy định của khu vực đồng Euro: mức thâm hụt ngân sách không vượt quá 3% GDP và tỷ lệ nợ không quá 60% GDP, trong khi họ lại không tìm ra được cách khác để làm giảm thâm hụt như cắt giảm chi tiêu công , điều này dẫn đến tình trạng các nước cố tình hay tìm mọi cách che giấu đi những con số thật để tiếp tục được vay vốn với mức lãi suất cao hơn làm cho nợ công thực tế ngày càng gia tăng. Cuộc khủng hoảng Hy Lạp vừa qua là một ví dụ điển hình khi mà các số liệu thống kê, nghiên cứu, báo cáo gần đây về tỷ lệ nợ và thâm hụt ngân sách thực tế của quốc gia này khác xa so với những báo cáo mà họ đã đưa ra vào những năm trước. Nguyên nhân của việc này 1 phần cũng do vấn đề minh bạch về tài chính còn chưa có những cơ chế giám sát và quản lý hiệu quả, chặt chẽ. Đến khi các nhà đầu tư, các chủ nợ mất lòng tin vào tình hình tài chính cũng như khả năng thanh toán nợ của nước này, điều tồi tệ đã xảy ra: trái phiếu chính phủ bị bán tháo trên thị trường, lãi suất của trái phiếu bị đẩy lên cao, khó khăn hơn trong việc vay vốn, thu hút đầu tư gây ra khủng hoảng nợ, quốc gia mất khả năng thanh toán, làm giảm sự tăng trưởng của nền kinh tế, và gây ra hậu quả không tốt đến toàn khu vực. Để khắc phục tình trạng này, Hy Lạp đã phải nhờ đến sự cứu viện từ các nước khác trong khu vực (Ngân hàng trung ương Châu Âu đã phải đưa ra gói cứu trợ khẩn cấp trị giá 110 tỷ Euro nhằm giải nguy cho Hy Lạp, cũng để tránh cho việc khủng hoảng ở Hy Lạp sẽ lan rộng ra các quốc gia khác trong khu vực). Điều này đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ các nước phát triển đặc biệt là Đức, Pháp hay Hà Lan do vi phạm hiệp ước về điều kiện gia nhập liên minh kinh tế gây ra mâu thuẫn không nhỏ trong khối. Tuy nhiên, sự trợ giúp từ bên ngoài cũng là 37
- phương án trước mắt còn chủ yếu vẫn phải dựa vào Hy Lạp trong việc có đưa ra được các biện pháp như thế nào để phát triển cân đối nền kinh tế, vượt qua khủng hoảng, thực hiện chính sách thắt lưng buộc bụng, giảm tiền lương, tăng thuế cho dù điều đó gặp phải sự phản đối kịch liệt từ phía nhân dân, hay là từ bỏ đồng Euro để có thể tự điều hành chính sách tiền tệ ? Đây quả thực là 1 bài toán khó và Hi Lạp trở thành 1 ví dụ điển hình cảnh báo cho các nước khác trong khu vực đang tiềm ẩn nguy cơ tương tự. Nợ công và thâm hụt ngân sách của hầu hết các nước trong khu vực đồng Euro khác cũng đang trong tình trạng đáng lo ngại và có những nước đang ở mức cao. Năm 1998, tỷ lệ nợ/GDP của Hy Lạp là 98%, nhưng IMF dự báo tỷ lệ này sẽ lên đến 133% trong năm nay. Các con số tương tự với Bồ Đào Nha là 52% và 87%, của Ailen là 54% và 79%, ở Ý tỷ lệ nợ bằng đồng EURO đã lên mức 119% GDP. Mặc dù nợ của Tây Ban Nha bây giờ chỉ vào khoảng 67% nhưng đã tăng gấp đôi trong 2 năm qua và có nguy cơ cao do khu vực tư nhân vay nợ quá nhiều. 38
- Biểu đồ 8 : Thâm hụt NS và cân đối NS của KV sử dụng euro Đơn vị : Nguồn : 39
- Biểu đồ 9:Biều đồ thâm hụt ngân sách (cột dưới) và nợ công (cột trên) của 2 số nước Châu Âu năm 2009 Tình trạng nợ nần cao cũng có ảnh hưởng rất xấu tới đồng EURO, bằng chứng là đồng EURO thời gian qua liên tục mất giá so với đồng USD : 40
- Biểu đồ 10 : Tỷ giá USD/EUR từ tháng 7/2009 đến tháng 7/2010 : Đơn vị : USD/EUR Nguồn : Nhưng những người lạc quan và tin tưởng vào khu vực này thì lại cho rằng việc tỷ giá EURO/USD thấp là điều tốt cho nền kinh tế Châu Âu hiện nay, vì tỷ giá thấp đồng nghĩa với hàng hóa của Châu Âu cũng trở nên rẻ hơn trên thị trường, làm tăng khả năng cạnh tranh với hàng hóa những khu vực khác trên thế giới, kích thích xuất khẩu hàng hóa. Chính phủ các nước cũng đã thực hiện nhiều biện pháp thắt lưng buộc bụng, cắt giảm chi tiêu trong nỗ lực giảm thâm hụt ngân sách, tuy nhiên những hành động này lại đưa đến nhiều dự đoán đưa ra về việc châu Âu khó có thể tránh được một cuộc khủng hoảng suy thoái vào năm 2011 và tình hình trì trệ nhiều năm sau đó do cách ngăn chặn khủng khoảng nợ liên quan đến việc giảm chi tiêu công, đồng nghĩa với các công ty cắt giảm nhân công, thất nghiệp gia tăng và tiêu dùng nội địa sụt giảm nhanh chóng. Tất cả những điều đó sẽ có thể dẫn đến 1 mức tăng trưởng chậm trong tương lai. 41
- 3.2.3. Hạn chế trong việc thúc đẩy được sự hợp nhất kinh tế giữa các quốc gia trong khu vực : Có thể thấy liên minh kinh tế và tiền tệ EMU chưa thúc đẩy được sự hợp nhất giữa các nền kinh tế chính trong khối, nếu không muốn nói là ngược lại. Ban đầu, mức độ phát triển của các nước Eurozone khá đồng đều và là điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập khu vực. Tuy nhiên sau một thời gian hội nhập thì sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các nước trong Eurozone lại có xu hướng ngày càng gia tăng. Trong khi Đức, Pháp nhanh chóng vươn lên trở thành đầu tàu kinh tế của Châu Âu thì sau khủng hoảng tài chính thế giới, thì những nền kinh tế nhỏ hơn đang phải vật lộn tìm chỗ đứng trên thị trường do sự suy giảm năng lực cạnh tranh và hơn nữa còn tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng nợ cao. Biểu đồ 11 : Biểu đồ về giá trị GDP của một vài nước châu Âu. 42
- Đơn vị : tỷ USD Biểu đồ về giá trị GDP của 1 vài nước Châu Âu 4000 3500 3000 ) D S U 2500 ỷ T ( P 2000 D G ị r t 1500 á i Pháp G 1000 Đức Hy Lạp 500 Spain 0 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Năm Nguồn : Việc ECB đưa ra được một chính sách tiền tệ có lợi cho tất cả các nước trong khối để đi đến hợp nhất về kinh tế là điều không dễ dàng và khó có thể trông đợi vào điều đó. Cách duy nhất để thực hiện việc hợp nhất như mong muốn là tạo ra một ngân sách chung thật lớn của các nước sử dụng đồng Euro, sau đó phân bổ tiền giữa các nước, giúp giảm bớt khoảng cách giữa họ. Tuy nhiên, muốn làm vậy, thì cần phải tăng thuế trên toàn Châu Âu, điều này khó mà khả thi được. 43
- Như vậy, sau hơn 10 năm hoạt động, đồng Euro hiện nay đang phải vất vả chống đỡ lại những khó khăn và thử thách lớn nhất từ khi được hình thành. Thời gian này như một liều thuốc thử đối với sức mạnh của đồng Euro: nếu có thể vượt qua khủng hoảng và lấy lại đà phát triển, trong tương lai, Euro sẽ trở thành một đồng tiền mạnh thực sự, đối trọng với đồng USD của Mỹ và điều đó sẽ là cơ sở vững chắc để liên minh kinh tế ở các khu vực khác, trong đó có khu vực Đông Nam Á học tập và làm theo mô hình đồng tiền chung. 44
- CHƯƠNG III KHẢ NĂNG THỐNG NHẤT TIỀN TỆ KHU VỰC ĐÔNG NAM Á 3.1Quá trình tự do hóa thương mại: Ngày 8/8/1967, hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ( tên viết tắt ASEAN) được thành lập với các thành viên đầu tiên là Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapo, Philipin. Đây là một liên minh chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của các quốc gia trong khu vực. Sau hội nghị Bali năm 1976, tổ chức này bắt đầu chương trình hợp tác kinh tế. Một số chương trình hợp tác về thương mại và công nghiệp quan trọng như Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA), Dự án công nghiệp ASEAN (AIP), Chương trình bổ trợ công nghiệp ASEAN (AIC), Chương trình liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV) đã được ký kết và đưa vào thực hiện trong những năm 1970-1980. Tuy nhiên, kết quả của các chương trình hợp tác này rất hạn chế. Hợp tác kinh tế chỉ thành công khi Thái Lan đưa ra đề nghị khu vực thương mại tự do vào năm 1991. Đến nay, ASEAN đã trở thành một tổ chức hợp tác khu vực năng động và gắn kết của toàn bộ 10 quốc gia Đông Nam Á (5 thành viên sáng lập, Brunei,Việt Nam, Lào, Myanmar, Campuchia ) với vai trò ngày càng quan trọng vì hòa bình, ổn định, hiểu biết và tin cậy lẫn nhau. Sau khi Thái Lan đưa ra sáng kiến thành lập khu vực thương mại tự do Asean ( viết tắt là AFTA ) năm 1992, hiệp định AFTA được kí kết tại Singapo. Ban đầu chỉ có 6 nước ( 5 nước sáng lập và Brunei- gọi chung là ASEAN6), các nước gia nhập sau cũng được yêu cầu tham gia vào AFTA (gọi chung là các nước CLMV ). AFTA đưa ra nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế sau: 45
- Tự do hoá thương mại trong khu vực bằng việc loại bỏ các hàng rào thuế quan trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi quan thuế. Điều này sẽ khiến cho các Doanh nghiệp sản xuất của ASEAN càng phải có hiệu quả và khả năng cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới. Đồng thời, người tiêu dùng sẽ mua được những hàng hoá từ những nhà sản suất có hiệu quả và chất lượng trong ASEAN , dẫn đến sự tăng lên trong thương mại nội khối. Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc tạo ra một khối thị trường thống nhất, rộng lớn hơn. Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi, đặc biệt là với sự phát triển của các thỏa thuận thương mại khu vực (RTA) trên thế giới. 3.1.1.Tiến trình cắt giảm hàng rào thuế quan Chính phủ các nước thành viên đã có những nỗ lực to lớn để giảm dần những rào cản thương mại, giảm dần hạn mức thuế quan nhằm thúc đẩy thương mại nội khối. Cho tới nay khu vực mậu dịch tự do (AFTA) đang từng bước được hình thành. Sáu nước thành viên cũ đã thực hiện kế hoạch giảm thuế xuống dưới 5% đối với hàng nhập khẩu từ các nước thành viên khác (trừ một số mặt hàng trong danh mục loại trừ). Bốn nước thành viên mới cũng thực hiện kế hoạch tương tự vào năm 2006 (Việt Nam), 2008 (Lào và Myanmar) và 2010 (Campuchia). 46
- Biểu đồ 12: Tỉ lệ các mặt hàng nhóm IL được cắt giảm thuế theo CEPT Đơn vị : % 98.1 99.4 98.6 99.1 100 83.1 90 80 70 52.1 60 2000 50 40 2009 30 20 10 0 ASEAN 6 CLMV ASEAN Nguồn: Tổng hợp Bước ngoặt đến vào 2010, theo đó từ 1/1/2010, các nước ASEAN 6 đã xóa bỏ hoàn toàn hàng rào thuế quan. Đến năm 2015, cơ chế cắt giảm thuế quan chung sẽ được mở rộng đến 4 nước thành viên còn lại là Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanmar. Đây là một bước tiến quan trọng trong lộ trình tự do hóa thương mại trong khu vực, tạo điều kiện cho tự do lưu thông hàng hóa nội khối. Và cũng là cơ hội để Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước ASEAN. Một vấn đề rất cơ bản để hưởng được thuế suất theo chương trình ưu đãi thuế quan (CEPT) cho Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) là hàng xuất khẩu cần phải có giấy chứng nhận xuất xứ ASEAN mà ta thường gọi là Form D. Nhưng hai năm qua việc nghiên cứu và khai thác cơ hội này của các doanh nghiệp còn thấp. Tổng kim ngạch xuất khẩu sử dụng giấy chứng nhận xuất xứ ASEAN dùng Form D chiếm 0,57% tổng kim ngạch xuất khẩu sang ASEAN. Năm 2002, số lượng Form D đã cấp là 3.983 bộ, đạt kim ngạch 94,7 47
- triệu USD, tăng 59% so với năm 2001. Đây cũng là cơ hội để thu hẹp khoảng cách kinh tế giữa các thành viên mới với các thành viên cũ. Sáu nước thành viên cũ sẽ dành hệ thống ưu đãi hội nhập ASEAN (AISP) cho các nước mới gia nhập Campuchia, Lào, Myanmar, Việt Nam. Theo đó, Brunei sẽ dành một mặt hàng, Indonesia 50 mặt hàng, Malaysia 173 mặt hàng và Thái Lan 17 mặt hàng cho Việt Nam hưởng AISP. Các mặt hàng này sẽ được hưởng ngay mức thuế ưu đãi không phải chờ đến khi chuyển vào danh mục cắt giảm thuế ngay. 3.1.2.Xóa bỏ hàng rào phi thuế quan Tại Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 42 (AEM 42) và Hội nghị Hội đồng Cộng đồng Kinh tế ASEAN lần thứ 4 (AEC 4), các Bộ trưởng cũng cam kết xóa bỏ các hàng rào phi thuế quan ( tiêu chuẩn chất lượng, hạn chế về định lượng, hạn chế về số lượng hàng hóa ) dưới mọi hình thức nhằm tận dụng triệt để lợi ích từ việc cắt giảm thuế. Theo hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) vừa được thông qua vào 17/5/2010, hàng rào phi thuế quan được xác định phải được xóa bỏ theo ba giai đoạn như sau: (a) Brunei, Indonesia, Malaysia, Singapore và Thái Lan phải loại bỏ theo ba giai đoạn bắt đầu từ 1 tháng 1 năm 2008, 2009 và 2010; (b) Philippines phải loại bỏ theo 3 giai đoạn bắt đầu từ 1/01/2010, 2011 và 2012; (c) Cambodia, Lao PDR, Myanmar and Viet Nam phải loại bỏ trong ba (3) giai đoạn vào ngày 1 tháng 1 năm 2013, 2014 và 2015 với linh hoạt tới năm 2018 48
- 3.2. Quá trình tự do lưu chuyển các yếu tố khác và hợp tác giữa các ngành lĩnh vực trong khối ASEAN và ngoại khối: 3.2.1 Sự tự do lưu chuyển vốn và lao động: Cùng với khu vực mậu dịch tự do ASEAN, sự ra đời của khu vực đầu tư ASEAN (AIA) sẽ thúc đẩy hơn nữa tiến trình hợp nhất kinh tế giữa các quốc gia thành viên bằng cách đẩy mạnh đầu tư trực tiếp, tạo thuận lợi cho luồng vốn đầu tư, công nghệ và chuyên gia trong khu vực. Hơn nữa sự hình thành khu vực đầu tư ASEAN còn có vai trò giúp các nước trong khu vực trong việc tăng cường cạnh tranh thu hút FDI với các nền kinh tế mới nổi lên, đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ. Bởi mục tiêu chủ yếu của Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN (AIA) là hợp tác để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN từ các nguồn trong và ngoài khu vực. Vì vậy mà việc tăng tốc xây dựng khu vực đầu tư ASEAN cũng như việc đẩy nhanh thời gian thực hiện AIA là một điều hết sức cần thiết và quan trọng đối với các nước ASEAN trong giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay. Mục tiêu của Hiệp định AIA này là xây dựng một Khu vực Đầu tư ASEAN (AIA) có môi trường đầu tư thông thoáng và rõ ràng hơn giữa các quốc gia thành viên, nhằm: Đẩy mạnh đầu tư vào ASEAN từ các nguồn cả trong và ngoài ASEAN; Cùng thúc đẩy ASEAN thành khu vực đầu tư hấp dẫn nhất; Củng cố và tăng cường tính cạnh tranh của các lĩnh vực kinh tế của ASEAN; Giảm dần hoặc loại bỏ những quy định và điều kiện đầu tư có thể cản trở các dòng đầu tư và sự hoạt động của các dự án đầu tư trong ASEAN; 49
- Đảm bảo rằng việc thực hiện những mục tiêu trên sẽ góp phần hướng tới tự do luân chuyển đầu tư vào năm 2020. Năm 2008-2009, do tình hình kinh tế thế giới bất ổn định, khủng hoảng tài chính lan rộng trên toàn thế giới đã gây ảnh hưởng đến luông vồn đầu tư vào các nước Asean. Biểu đồ 13: Nguồn vốn đầu tư trực tiếp vào các nước ASEAN Đơn vị : tỷ USD 2007 2008 2009 Country Intra- Extra- Total net Intra- Extra- Total net Intra- Extra- Total net ASEAN ASEAN inflow ASEAN ASEAN inflow ASEAN ASEAN inflow Brunei 62.1 198.0 260.2 0.9 238.3 239.2 0.1 176.7 176.8 Darussalam Cambodia 271.2 596.1 867.3 240.9 574.3 815.2 170.8 359.3 530.2 Indonesia 1,108.2 5,820.1 6,928.3 3,398.0 5,920.1 9,318.1 1,380.1 3,496.7 4,876.8 Lao PDR 100.4 223.1 323.5 47.7 180.1 227.8 57.3 261.3 318.6 Malaysia 3,780.1 4,758.3 8,538.4 1,607.6 5,710.7 7,318.4 (269.7) 1,650.7 1,381.0 Myanmar 93.5 621.3 714.8 103.5 872.1 975.6 19.5 559.1 578.6 The 5.9 2,910.1 2,916.0 139.9 1,404.1 1,544.0 18.7 1,929.3 1,948.0 Philippines Singapore 1,224.8 34,552.7 35,777.5 816.4 10,095.8 10,912.2 2,037.6 14,218.6 16,256.2 Thailand 2,489.4 8,840.8 11,330.2 1,401.6 7,168.9 8,570.5 585.8 5,371.1 5,956.9 Viet Nam 546.3 6,192.7 6,739.0 2,705.0 6,874.0 9,579.0 428.7 7,171.3 7,600.0 Total 9,682.0 64,713.3 74,395.3 10,461.5 39,038.3 49,499.8 4,428.9 35,194.1 39,623.0 ASEAN 51/ 8,608.4 56,882.1 65,490.5 7,363.5 30,299.6 37,663.1 3,752.4 26,666.5 30,418.9 BLCMV1/ 1,073.6 7,831.2 8,904.8 3,098.0 8,738.7 11,836.7 676.5 8,527.6 9,204.1 Nguồn: www.aseansec.org Kinh tế tăng trưởng cao, thị trường tiêu dùng trong nước sáng sủa của các nước ASEAN đang là lực hút các nhà đầu tư nước ngoài. Đầu tư trực tiếp 50
- nước ngoài (FDI) vào ASEAN cũng đang gia tăng. Indonesia - thị trường tiêu dùng lớn nhất khu vực với 240 triệu dân đã tiếp nhận lượng vốn đầu tư trong nước và FDI quý II/2010 tăng 40% so với cùng kỳ năm 2009. Lượng vốn đầu tư đăng ký mới rót vào các dự án tại Thái Lan đã tăng 7,4% lên 5,9 tỷ USD nửa đầu năm nay. FDI vào Việt Nam trong 6 tháng đầu năm đã tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước lên 5,4 tỷ USD, trong khi đó, quý I, Malaysia nhận 1,65 tỷ USD, nhiều hơn lượng FDI đổ vào nước này cả năm 2009 (1,39 tỷ USD). Bên cạnh 2 lý do trên, các nhà đầu tư nước ngoài đang trở lại khu vực ASEAN còn do việc thực hiện AFTA từ đầu tháng 1/2010 đã đưa biểu thuế quan đối với hàng hóa buôn bán nội vùng giảm xuống chỉ còn 0 - 5%. Không ít nước ASEAN có thể hưởng lợi từ vấn đề chi phí lao động ở Trung Quốc gia tăng. Hiện có các dấu hiệu rằng, ngành công nghiệp sản xuất giày dép đang hồi sinh ở Indonesia, nơi chi phí lao động đang thấp hơn so với ở vùng bờ biển miền Đông Trung Quốc. Việt Nam, Campuchia, Lào và Myanmar - nơi có mức lương tối thiểu dao động từ 30 USD - 54 USD/tháng - có thể tận dụng tốt hoạt động đưa chuyển các ngành sử dụng nhiều lao động . Năm 2010,khi nền kinh tế thế giới bất đầu ổn định trở lại, dòng vốn đầu tư vào Asean tăng lên đáng kể. Tính đến tháng 7/2010, 10 nước ASEAN đã thu hút được 60 tỷ USD đầu tư. Như vậy, các nước Asean đang tiến tới thực hiện một khu vực thị trường tự do di chuyển các yếu tố sản xuất nhằm bước đầu tiến tới thống nhất tiền tệ. 3.2.2 Một số hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế trong khối: Chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO) nhằm thúc đẩy hợp tác của ASEAN trong lĩnh vực công nghiệp, được coi là một biện pháp để thực hiện AFTA sớm trong công nghiệp. Hợp tác dịch vụ trong ASEAN cũng được đẩy mạnh với việc các nước thành viên đã ký Hiệp định khung về dịch vụ ASEAN (AFAS) và hai nghị 51
- định thư cam kết giảm hàng rào thương mại trong 7 lĩnh vực dịch vụ: tài chính, vận tải biển, du lịch, xây dựng, hàng không, bưu chính viễn thông, Hợp tác trong lĩnh vực công nghệ thông tin - viễn thông là một lĩnh vực hợp tác mới nhưng hết sức quan trọng đối với ASEAN để chuẩn bị bước vào kỷ nguyên của nền kinh tế số. Các nước ASEAN đã ký kết Hiệp định khung e-ASEAN tại Hội nghị cấp cao không chính thức năm 2000 tại Xinh-ga-po nhằm tăng cường hợp tác trong lĩnh vực thông tin để thu hẹp khoảng cách về công nghệ số trong ASEAN và giữa ASEAN và các nước ngoài khu vực. Các nước ASEAN cũng tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực khác như tài chính, ngân hàng, hải quan, quyền sở hữu trí tuệ, nông, lâm nghiệp và nhiều lĩnh vực chuyên ngành khác. Bên cạnh đó, việc thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN cũng được chú trọng. 3.2.3 Một số hợp tác kinh tế ngoại khối: Rất nhiều chính phủ các quốc gia gần đây đã thúc đẩy quá trình tham gia vào các thoả thuận thương mại song phương và đa phương trong khu vực. Trung quốc cũng đã bắt đầu các cuộc đàm phán chính thức với khu vực ASEAN để hoàn thiện thoả thuận về khu vực thương mại tự do (FTA) vào năm 2010 (đối với 6 nước thành viên cũ của ASEAN) và vào năm 2015 (đối với 4 nước thành viên mới của ASEAN), nhiều mặt hàng chủ yếu là nông, lâm thủ sản sẽ được giảm thuế trước khi FTA chính thức thực hiện (chương trình thu hoạch sớm –early harvest). Nhật bản và ASEAN bắt đầu đàm phán Thoả thuận đối tác kinh tế thương mại vào tháng 4/2005 nhằm hướng tới việc thiết lập FTA giữa ASEAN-Nhật bản vào năm 2012 (đối với 6 nước thành viên cũ) và 2017 (đối với 4 nước thành viên mới của ASEAN). Hàn quốc cũng bắt đầu đàm phán với ASEAN và sẽ hoàn thành vào năm 2009. Bên cạnh đó, cả Nhật bản, Hàn quốc và Trung quốc đều đang nỗ lực đàm phán, tham gia vào các EPA/FTA với các nước ASEAN. Như vậy trong 20 năm đầu 52
- của thế kỷ này, ASEAN một mặt sẽ thắt chặt quan hệ hợp tác với nhau hơn nữa, mặt khác sẽ liên kết với các nền kinh tế lớn ở Đông Bắc Á, trước hết là thể chế ASEAN +1 (với từng nuớc Nhật bản, Trung quốc, Hàn quốc), sau đó tiến dần đến thể chế ASEAN+3. Hiện nay, ASEAN đã hợp tác trên các lĩnh vực với AUS, New Zealand, Ấn Độ, Nga, Mỹ, EU 3.3 Khả năng ổn định kinh tế vĩ mô của khối Ổn định kinh tế vĩ mô là 1 trong những điều kiện quan trọng để hình thành một liên minh tiền tệ. Môi trường kinh tế vĩ mô tương lai của các nước thành viên càng ổn định thì các nước càng ít sử dụng đến các chính sách tiền tệ của riêng nước mình để đối phó với các cú sốc. vì thế các nước chỉ cần sử dụng một chính sách tiền tệ chung và như vậy sẽ dễ dàng tham gia vào một khu vực đồng tiền chung hơn. Cuối năm 2009, 3 quốc gia Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc đã cùng với các nước ASEAN ký thỏa thuận xây dựng quỹ tiền tệ Châu Á (AMF) theo mô hình quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) với mục đích hỗ trợ lần nhau về khả năng thanh toán bằng USD trong trường hợp xảy ra khủng hoảng hoặc thị trường biến động bất thường. trong trường hợp 1 thành viên đề nghị được hỗ trợ, ngân hàng trung ương của các nước thành viên khác sẽ cung cấp USD để đổi lấy tiền nội tệ của quốc gia được hỗ trợ. Tới ngày 23/3/2010, AMF đã chính thức được thành lập với tổng số vốn trị giá 120 tỷ USD.Dường như chúng ta đã thấy được ngày mà các nước Châu Á này cùng sử dụng một đồng tiền. Nhưng liệu có quá sớm để có thể đạt được khi tình hình kinh tế vĩ mô của khu vực đang tiềm ẩn rất nhiều khó khăn và phức tạp. 53
- Như ta đã biết các nước ASEAN hầu hết là các nước đang phát triển nhưng lại không có sự đồng đều. Trong khi GDP/người của Singapore năm 2009 là 37,293 USD thì của Myanmar lại chỉ có 465 USD. Rõ ràng sự chênh lệch này sẽ tạo ra nhiều khó khăn nếu các nước thống nhất tiền tệ. Giả sử có sự thống nhất tiền tệ thì liệu các nước như Myanmar, Laos, Cambodia,Vietnam có thể sự dụng 1 đồng tiền mạnh để theo kịp các nước như Singapore, Myanmar,Japan, Rõ ràng nếu như vậy thì lợi thế cạnh tranh của một đồng tiền yếu của các nước đang phát triển sẽ bị giảm đi rất nhiều. Biểu đồ14 : GDP bình quân đầu người của Asean + 3 Đơn vị : USD Tên nước GDP/người ( danh nghĩa ) GDP/người ( P.P.P ) 2009 Dự báo 2010 2009 Dự báo 2010 Brunei 26.325 $ 29.247 $ 49.110 $ 49.714 $ Singapore 37.293 $ 40.336 $ 50.523 $ 52.840 $ Indonesia 2.329 $ 2.858 $ 4.157 $ 4.380 $ Malaysia 6.897 $ 7.547 $ 13.769 $ 14.247 $ Myanmar 465 $ 469 $ 1.214 $ 1.244 $ Laos 878 $ 964 $ 2.266 $ 2.401 $ Cambodia 775 $ 805 $ 2.015 $ 2.184 $ Viet Nam 1.060 $ 1.168 $ 2.942 $ 3.104 $ Thailand 3.940 $ 4.403 $ 8.060 $ 8.479 $ Philippines 1.746 $ 1.931 $ 3.521 $ 3.804 $ China 3.678 $ 3.999 $ 6.567 $ 7.240 $ Japan 39.731 $ 41.366 $ 32.608 $ 33.478 $ Korea South 17.074 $ 20.265 $ 27.978 $ 29.351 $ Nguồn : imf ( www.imf.org ),global Finance ( www.gfmag.com ) 54
- Theo các chuyên gia tài chính phải mất 50 năm Châu Âu mới xây dựng được thị trường chung và đồng tiền chung, nhưng hiện nay tại những cơ chế này đang đứng trước những thách thức rất lớn. Trong khi đó, dân số Châu Á gấp nhiều lần Châu Âu, nội tình Châu Á cũng phức tạp hơn nhiều so với Châu Âu. Giữa các nước các khu vực của Châu Á có sự khác biệt rất lớn về phương thức, trình độ và quan niệm phát triển. Biểu đồ 15: Bình quân GDP theo đầu người của các nước thành viên ASEAN năm 2008 Đơn vị : USD Nguồn : Tổng hợp Nhìn vào các bảng số liệu trên ta có thể thấy rất rõ thu nhập bình quân đầu người trên GDP của các nước Châu Á có sự chênh lệch rất lớn từ vài trăm 55
- USD/năm đến vài chục nghìn USD/năm. Nếu nói rằng sự phát triển kinh tế của các nước Châu Âu tới nay vẫn chưa đồng bộ thì hậu quả của việc để Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore và Myanmar, Campuchia, Lào sử dụng chung một đồng tiền là có thể nhìn thấy rõ. Bên cạnh đó những xung đột lịch sử giữa các nước như Trung Quốc và nhật Bản, sự tranh chấp biên giới giữa Trung Quốc và các nước ASEAN, hay sự khác biệt lợi ích giữa những nước phát triển và đang phát triển khiến việc hợp tác trở nên rất khó khăn. Biểu đồ 16: Tốc độ tăng trưởng GDP của các nước ASEAN+3 Đơn vị : % 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Dự báo 2010 Brunei 2,7% 3,9% 2,9% 0,5% 0,4% 4,4% 0,2% (1,9%) (0,5%) 0,5% Singapore (2,4%) 4,2% 3,8% 9,2% 7,6% 8,7% 8,2% 1,4% (2%) 5,7% Indonesia 3,6% 4,5% 4,8% 5,0% 5,7% 5,5% 6,3% 6,0% 4,5% 6,0% Malaysia 0,5% 5,4% 5,8% 6,8% 5,3% 5,8% 6,2% 4,6% (1,7%) 4,7% Myanmar 11,3% 12% 13,8% 13,6% 13,6% 13,1% 11,9% 3,6% 4,8% 5,3% Laos 4,6% 6,9% 6,2% 7,0% 6,8% 8,6% 7,8% 7,8% 7,6% 7,2% Cambodia 8,1% 6,6% 8,5% 10,3% 13,3% 10,8% 10,2% 6,7% (2,5%) 4,8% Viet Nam 6,9% 7,1% 7,3% 7,8% 8,4% 8,2% 8,5% 6,2% 5,3% 6,7% Thailand 2,2% 5,3% 7,1% 6,3% 4,6% 5,1% 4,9% 2,5% (2,3%) 5,5% Philippines 1,8% 4,4% 4,9% 6,4% 5,0% 5,3% 7,1% 3,8% 0,9% 3,6% China 8,3% 9,1% 10,0% 10,1% 10,4% 11,6% 13,0% 9,6% 8,7% 10,0% Japan 0,2% 0,3% 1,4% 2,7% 1,9% 2,0% 2,4% (1,2%) (5,2%) 1,9% Korea 4,0% 7,2% 2,8% 4,6% 4,0% 5,2% 5,1% 2,3% 0,2% 4,5% South Nguồn: Global Finance (www.gfmag.com) Thế nhưng điều đó không có nghĩa là khả năng thống nhất tiền tệ ở Châu Á đã hoàn toàn vô vọng. Thực tế về tốc độ tăng trưởng trong 1 thập kỷ vừa 56
- qua đã làm cho sự phân hóa ở khu vực này ngày càng thu hẹp. Nếu như 10 năm trước Nhật Bản là quốc gia tiên tiến duy nhất ở Châu Á, thì nay vị thế thứ 2 thế giới của Nhật bản đã bị người Trung Quốc năm giữ. Tốc độ tăng trưởng của các nước đang phát triển ngày càng lớn, đi kèm theo nó là sự sụt giảm của nền kinh tế Nhật và sự tăng trưởng chậm của Hàn Quốc. Có thể nói khoảng cách phân hóa giữa các nước trong khu vực đang thu hẹp dần dần. tốc đọ tăng trưởng của các nước ASEAN cũng khá là đồng đều. Qua các số liệu cũng cho ta thấy được tốc độ phát triển quá nóng của nền kinh tế Trung Quốc, và sự sụt giảm của các nền kinh tế trong năm 2009 do khủng hoảng tài chính toàn cầu. Còn về một số chỉ tiêu khác như tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, cán cân thương mại và nợ công của chính phủ. Biểu đồ 17: Tỷ lệ lạm phát các nước ASEAN+3 Đơn vị : % Tên nước 2008 2009 Dự báo 2010 Brunei 2,7% 1,8% 1,8% Singapore 6,5% 0,2% 2,1% Indonesia 9,8% 4,8% 4,7% Malaysia 5,4% 0,6% 2,0% Myanmar 22,5% 7,9% 7,8% Laos 7,6% 0,0% 6,9% Cambodia 25% (0,7%) 5,2% Viet Nam 23,1% 6,7% 12% Thailand 5,5% (0,8%) 3,2% Philippines 9,3% 3,2% 5% China 5,9% (0,7%) 3,1% Japan 1,4% (1,4%) (1,4%) 57
- Korea South 4,7% 2,8% 2,9% Nguồn: www.cia.gov Biểu đồ 18: Tỷ lệ thất nghiệp các nước ASEAN Đơn vị : % Tên nước 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Brunei 4,7% 5,6% 3,5% 4,4% 3,5% 4,1% 4,0% 3,4% 3,7% Singapore 6,0% 3,8% 5,6% 5,9% 5,8% 5,6% 4,5% 4,0% 3,2% Indonesia 6,1% 8,1% 9,1% 9,6% 9,9% 10,3% 10,3% 9,1% 8,4% Malaysia 3,1% 3,6% 3,5% 3,6% 3,5% 3,5% 3,3% 3,2% 3,6% Myanmar - - - - - - - - 4,0% Laos 7,0% 7,0% 5,1% 5,7% 5,7% 5,7% 2,4% 2,4% 2,5% Cambodia 2,5% 1,8% 1,1% 2,8% 2,5% 2,5% 2,5% 2,5% 3,5% Viet Nam 6,4% 6,3% 6,0% 5,8% 5,6% 5,3% 4,8% 4,6% 4,7% Thailand 3,6% 3,3% 2,4% 2,2% 2,1% 1,8% 1,5% 1,4% 1,4% Philippines 10,1% 9,8% 10,2% 10,2% 11,0% 7,5% 7,4% 6,2% 6,8% Nguồn: www.indexmundi.com 58
- Biểu đồ 19: Cán cân thương mại các nước ASEAN+3 Đơn vị : triệu USD Tên nước 2008 2009 6 tháng đầu năm 2010 Exports Imports Balance Exports Imports Balance Exports Imports Balance Brunei 111.5 114.3 (2.7) 100.2 41.6 58.6 72.0 7.0 65.0 Singapore 27,853.6 15,884.9 11,968.7 22,231.8 15,704.9 6,526.9 16,918.3 9,512.0 7,406.3 Indonesia 5,644.5 15,799.1 (10,154.7) 5,107.0 12,938.6 (7,831.6) 3,862.6 9,164.2 (5,301.6) Malaysia 12,949.5 30,736.1 (17,786.6) 10,403.3 23,282.6 (12,879.3) 7,913.8 14,856.2 (6,942.4) Myanmar 10.8 0.0 10.8 6.9 0.1 6.8 4.4 0.0 4.4 Laos 18.3 42.4 (24.1) 20.3 43.4 (23.1) 6.9 30.5 (23.6) Cambodia 154.2 2,411.5 (2,257.3) 127.1 1,924.2 (1,797.1) 91.7 1,207.8 (1,116.2) Viet Nam 2,789.4 12,901.1 (10,111.6) 3,097.2 12,287.8 (9,190.6) 2,024.4 7,972.6 (5,948.2) Thailand 9,066.6 23,538.3 (14,471.7) 6,918.4 19,082.5 (12,164.1) 4,985.9 12,336.4 (7,350.5) Philippines 8,294.9 8,713.3 (418.5) 5,766.4 6,794.1 (1,027.7) 4,157.6 4,413.4 (255.8) China 69,732.8 337,772.6 (268,039.8) 69,496.7 296,373.9 (226,877.2) 48,551.1 193,918.2 (145,367.1) Japan 65,141.8 139,262.2 (74,120.4) 51,134.2 95,803.7 (44,669.5) 34,400.6 65,980.6 (31,580.0) Korea 34,668.7 48,069.1 (13,400.4) 28,611.9 39,215.6 (10,603.7) 22,679.5 26,806.4 (4,126.9) Nguồn :www.census.gov 60
- Qua đây ta lại càng thấy thêm được sự khó khăn của việc thống nhất tiền tệ. Năm 2008 lạm phát ở Việt Nam lên tới 23,1% trong khi đó Nhật Bản cao nhất chỉ là 1,4%. Liệu có thể có một lãi suất cho vay chung giữa các ngân hàng các nước khi đã thống nhất tiền tệ. Trong khi các nước đang phát triển lạm phát ở mức cao Nhật Bản, Hàn Quốc, Brunei mức độ lạm phát chỉ tầm 1- 3% thì Việt Nam, Myanmar chỉ số CPI thường xấp xỉ 10%. Tình trang nợ công của Nhật Bản cũng đang lên tới mức báo động lên tới 190% GDP trong khi nợ công ở Hy Lạp mới chỉ đạt 120% GDP đã làm chao đảo cả nền kinh tees Châu Âu. Vậy khi thiết lập 1 đồng tiền chung, Nhật Bản không thể phá giá đồng tiền của mình thì tình trạng nợ công của Nhật liệu có tiếp tục gia tăng. Giả sử Châu Á cũng có một hiệp ước như hiệp ước Mastricht ở Châu Âu, đó là tỷ lệ lạm phát không quá 1,5%, ngân sách chính phủ thâm hụt không quá 3% GDP và tỷ lệ nợ chính phủ trên GDP không vượt quá 60% thì thử hỏi sẽ có bao nhiêu nước ở Châu Á đủ điều kiện thỏa mãn. Thế nhưng đưa ra một tiêu chuẩn chung cho các nước đủ điều kiện tham gia thống nhát tiền tệ thì còn phải bàn tính nhiều khi mà sự chênh lệch các chỉ số vĩ mô giữa các nước còn nhiều chênh lệch. Qua các bảng & biểu đồ trên, ta có thể thấy tình hình kinh tế xã hội của các nước trong khối ASEAN còn chưa đồng đều. Mặt khác, sự phát triển kinh tế của các nước ASEAN đều chỉ ở mức trung bình trên thế giới. Vì thế, nếu các nước trong khối ASEAN xây dựng được một liên minh tiền tệ sẽ góp phần làm tăng sự ổn định kinh tế vĩ mô & thúc đẩy kinh tế các nước này tiến nhanh và tiến xa hơn. Như vậy, có thể thấy khả năng hình thành một môi trường kinh tế vĩ mô ổn đinh, thống nhất của khu vực ASEAN là một điều tất yếu sẽ đến trong tương lai nhưng sẽ rất khó khăn. Đặc biệt, trong CC14, ASEAN tuyên bố cam 61
- kết đến năm 2015 sẽ trở thành 1 cộng đồng với 3 trụ cột. Đó là hợp tác chính trị & an ninh, hợp tác kinh tế, hợp tác văn hóa xã hội. 3.4. Khả năng thiết lập một cơ chế ổn định và liên kết tỷ giá giữa các nước trong khối. Để hoàn thành việc thống nhất tiền tệ thì một bước quan trọng là phải tạo được một cơ chế tỷ giá ổn định và tạo được sự liên kết tỷ giá giữa các nước trong khối. ASEAN đã có những bước khởi đầu để xây dựng một cơ chế tỷ giá như trên: đó chính là “sáng kiến Chiang Mai” với những lộ trình của nó. 3.4.1. Cơ chế ổn đinh tỷ giá- sáng kiến Chiang Mai Trong khuôn khổ hợp tác ASEAN+3 (bao gồm 10 nước thành viên ASEAN, và 3 đối tác là Trung quốc, Nhật bản và Hàn quốc), tháng 5/2000 Bộ trưởng Tài chính 13 nước châu Á đã hoàn tất chương trình mở rộng trao đổi khu vực tiền tệ song phương, gọi là Sáng kiến Chiang Mai (Chiang Mai Initiative _ CMI), nhằm tăng cường hợp tác và hỗ trợ trong khu vực để ngăn chặn và đối phó với các cuộc khủng hoảng trong tương lai, thông qua các cơ chế hỗ trợ những khó khăn tạm thời về cán cân thanh toán của các nước trong khu vực. Nội dung hợp tác tiền tệ quan trọng này của khu vực gồm: Mở rộng quy mô vốn của hoán đổi tiền tệ ASEAN (ASA). Thiết lập một mạng lưới thỏa thuận hoán đổi tiền tệ song phương giữa các nước ASEAN+3 (BSA). Tăng cường cơ chế giám sát và đối thoại chính sách kinh tế trong khu vực ASEAN+3 ở cấp: (i) Bộ trưởng Tài chính (AFMM+3); và (ii) Thứ trưởng Tài chính và Phó Thống đốc NHTW (AFDM+3). Như vậy trọng tâm của Sáng kiến Chiang Mai là thỏa thuận hỗ trợ tài chính giữa 13 nước, mục đích là tăng cường cơ chế hỗ trợ trong khu vực để đối phó với khủng hoảng tiền tệ. Thỏa thuận này được xây dựng dựa trên Thoả thuận 62
- Swap ASEAN trước đây (ASA), nhằm bổ sung cho cơ chế hợp tác tài chính quốc tế hiện nay và góp phần ổn định tỷ giá trong khu vực 3.4.2. Tiến trình đa phương hoá sáng kiến Chiang Mai Từ bài học kinh nghiệm khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á năm 1997- 1998, tiến trình hợp tác tài chính ASEAN+3 đã thống nhất quan điểm các nước trong khu vực cần một có một quỹ ngoại tệ lớn để hỗ trợ cán cân thanh toán và duy trì dự trữ ngoại hối của từng quốc gia để đối phó với các trường hợp xảy ra khủng hoảng cùng với sự phối hợp chặt chẽ về chính sách và cơ chế giám sát kinh tế vĩ mô. Trong thời kỳ đầu, nếu một quốc gia đề nghị được hỗ trợ do khủng hoảng tài chính thì quốc gia đó phải yêu cầu sự hỗ trợ riêng từ từng nước đã ký kết thỏa thuận hoán đổi tiền tệ. Chính sự phức tạp này đã làm mất đi tính hiệu quả của Sáng kiến. Vì vậy ý tưởng về hỗ trợ tài chính đa phương trong ASEAN+3 đã được đề xuất và bắt đầu nghiên cứu từ năm 2006 trên cơ sở đa phương hóa các BSA trong khuôn khổ CMI (nghĩa là nếu 1 nước thành viên đề nghị được hỗ trợ thì tất cả các nước sẽ nhóm họp khẩn cấp trong hai ngày và đưa ra quyết định hỗ trợ trong 1-2 tuần.) và được gọi là tiến trình Đa phương hóa Sáng kiến Chiang Mai (CMIM). Trải qua quá trình đàm phán, phê duyệt và ký kết từ đó đến nay, Thỏa thuận CMIM đã được các nước ký kết vào cuối năm 2009 và chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 24/3/2010 do các Bộ trưởng Bộ Tài chính và Thống đốc Ngân hàng trung ương các nước thành viên ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Cơ quan quản lý tiền tệ Hồng Kông (Trung Quốc) tuyên bố. Thoả thuận CMIM là một thể thức cho vay hỗ trợ tài chính ngắn hạn cho các nước thành viên khi gặp khó khăn về cán cân thanh toán, bổ sung một cách có hiệu quả cho các cơ chế hỗ trợ cán cân thanh toán hiện hành của các định chế tài chính quốc tế như chương trình cho vay của Tổ chức Tiền tệ thế giới (IMF). Thực hiện CMIM sẽ góp phần tăng cường giám sát kinh tế và hỗ 63
- trợ thanh khoản bằng USD trong khu vực dưới hình thức Quỹ Dự trữ tự quản (SRPA) của khu vực ASEAN+3 thông qua các giao dịch hoán đổi tiền tệ giữa các Ngân hàng Trung ương để giải quyết khó khăn khẩn cấp trong cán cân thanh toán và thanh khoản USD trong ngắn hạn để thực hiện mục tiêu ổn định tiền tệ và kinh tế vĩ mô Việc ký kết Thoả thuận CMIM mang ý nghĩa kinh tế và quyết tâm chính trị của các nhà Lãnh đạo Cấp cao ASEAN+3, là biểu trưng cho sự thành công của hợp tác tài chính khu vực, thể hiện cam kết hợp tác ở mức độ cao và tinh thần hỗ trợ lẫn nhau giữa các nước thành viên. CMIM được xem là hành động kịp thời và hiệu quả của ASEAN+3 trong các nỗ lực giải quyết các tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Các nội dung cơ bản của Thoả thuận CMIM cụ thể như sau: Vốn góp: Tổng quy mô vốn của CMIM là 120 tỷ USD. Mức đóng góp của các nước trong CMIM được phân bổ theo tỷ lệ đã thống nhất dựa trên quy mô dự trữ ngoại hối của từng nước. Theo đó, Trung Quốc và Nhật Bản sẽ đóng góp mỗi nước 38,4 tỷ USD để mở rộng nguồn quỹ, trong khi Hàn Quốc đóng góp 19,2 tỷ USD; phần còn lại (20%) do các nước ASEAN đóng góp Cam kết đóng góp về tài chính Hệ số USD (tỷ) (%) Trung Quốc (Không bao gồm 28.50 0.5 Hồng Kông) 34.20 Trung Quốc 38.40 32.00 Hong Kong, China 3.50 2.5 4.20 Nhật Bản 38.40 32.00 0.5 64
- Hàn Quốc 19.20 16.00 1 Nhóm +3 96.00 80.00 - Indonesia 4.77 3.97 2.5 Thái Lan 4.77 3.97 2.5 Malaysia 4.77 3.97 2.5 Singapore 4.77 3.97 2.5 Philippines 3.68 3.07 2.5 Việt Nam 1.00 0.83 5 Cam-pu-chia 0.12 0.10 5 Myanmar 0.06 0.05 5 Brunei 0.03 0.02 5 CHDCND Lào 0.03 0.02 5 ASEAN 24.00 20.00 - Tổng 120.00 100.00 - Hình thức đóng góp và cơ chế vay: được thực hiện dưới hình thức Giấy nhận nợ (P/N) để đảm bảo phù hợp với tính chất dự phòng của cơ chế hỗ trợ tài chính đa phương. Trong điều kiện bình thường, các nước thành viên vẫn nắm giữ số tiền cam kết đóng góp của mình. Trong trường hợp khủng hoảng và phát sinh yêu cầu vay, số tiền đóng góp mới thực sự phát sinh thông qua các giao dịch hoán đổi tiền tệ giữa đồng bản tệ và đồng đô la Mỹ giữa Ngân hàng Trung ương nước đi vay và nước cho vay. Quy trình ra quyết định cho vay: Khi một nước thành viên đề nghị vay, trong vòng 1 tuần, nước điều phối sẽ phải triệu tập cuộc họp để đánh giá tình trạng khó khăn của nước đi vay, bỏ phiếu ra quyết định cho vay đối với đề nghị của nước đi vay. Toàn bộ quy trình từ khi nhận đề nghị vay tới khi ra quyết định tối đa là 2 tuần. 65
- Các vấn đề Các nguyên tắc ra quyết định Các vấn đề cơ bản Kiểm điểm (quy mô Quỹ, Đồng thuận mức vốn góp, hệ số vay), Tái chấp nhận thành viên, xem xét tư cách thành viên, các điều khoản cho vay. Các vấn đề cho vay Quyết định cho vay Biểu quyết theo đa số Gia hạn khoản vay, đánh giá trường hợp mất khả năng thanh toán Quyền lợi và nghĩa vụ của nước thành viên tham gia: Các nước tham gia CMIM phải cam kết đóng góp vốn từ nguồn dự trữ ngoại hối của mình và có nghĩa vụ cho vay khi một nước thành viên gặp khó khăn về cán cân thanh toán theo tỷ lệ phân bổ tương ứng. Mỗi nước thành viên sẽ được vay tối đa hạn mức tương ứng với số vốn góp của mình nhân với tỷ lệ vay. Tỷ lệ vay đối với các nước nhỏ bao gồm Brunei, Lào, Campuchia, Myanma và Việt Nam là 5 (mức cao nhất); các nước ASEAN-5 là 2,5; Hàn Quốc là 1; Trung Quốc và Nhật Bản là 0,5 và riêng Hồng Kông là 2,5. Trong trường hợp không có Chương trình với IMF, nước đi vay chỉ được vay tối đa 20% tổng hạn mức vay. Cơ chế giám sát kinh tế vĩ mô: được thực hiện định kỳ nhằm đảm bảo sự vận hành hiệu quả của CMIM. Trong điều kiện bình thường, các nước thành viên sẽ phải tham gia các Chương trình kiểm điểm kinh tế và đối thoại chính sách từ 2-3 lần/ năm. Trong điều kiện khủng hoảng, các nước đi vay phải đảm bảo tuân thủ các điều kiện vay tiên quyết và cơ bản, 66
- trong đó có các cam kết về cung cấp Báo cáo giám sát kinh tế vĩ mô theo yêu cầu của nước cho vay, tuân thủ Chương trình IMF đang triển khai, đảm bảo duy trì hạn mức dự trữ ngoại hối tối thiểu bằng 3 tháng nhập khẩu và các nghĩa vụ tiền tệ khác. Các nước đã thống nhất thành lập Cơ quan Giám sát Kinh tế vĩ mô ASEAN+3 (AMRO) để thực hiện nhiệm vụ phân tích và giám sát kinh tế khu vực, hỗ trợ cho quá trình vận hành của CMIM. Các vấn đề liên quan đến việc thành lập AMRO hiện đang được tiếp tục thảo luận với mục tiêu ký kết Thỏa thuận thành lập AMRO vào tháng 12/2010. Như vậy có thể thấy những sáng kiến và tiến bộ trên của ASEAN dù còn khiêm tốn nhưng đã có những đóng góp quan trọng trong nỗ lực ổn định hợp tác của khu vực để ổn định tài chính, ngăn ngừa và hạn chế tác hại của khủng hoảng, là tiền đề quan trọng trong việc tiến tới việc kết tỷ giá chặt chẽ hơn trong tương lai. 3.5. Khả năng hình thành một ngân hàng trung ương (NHTW) độc lập với một chính sách tiền tệ và một đồng tiền thống nhất. Khi hợp nhất tiền tệ, các nước sẽ cùng nhau thành lập NHTW chung, Ngân hàng này chịu trách nhiệm đưa ra các biện pháp ổn định tiền tệ chung cũng như chính sách tiền tệ cho các nước thành viên (như NHTW Châu Âu ECB). Tuy nhiên trên thực tế, khả năng hình thành một NHTW độc lập và một đồng tiền thống nhất ở ASEAN chưa có dấu hiệu trở thành hiện thực trong tương lai gần. Tuy nhiên về khả năng hình thành một ngân hàng trung ương độc lập, ở châu á cũng đã xuất hiện đề xuất thiết lập một Viện tiền tệ châu Á (các năm 1997, 2000, rồi đến Hội nghị Bộ trưởng Tài chính ASEAN lần thứ 12 (AFMM12) 3 - 4/4/2008 cũng họp về vấn đề này), tương tự như Viện tiền tệ châu Âu của EU trước đây. Viện này sẽ chịu trách nhiệm phối hợp các chương trình cải cách và phát triển lĩnh vực tài chính tiền tệ giữa các nước thành viên. Đây sẽ là nơi cung cấp sự hỗ trợ về mặt kỹ thuật cho các nước 67
- thành viên, tổ chức các chương trình đào tạo, là nơi để các nước thành viên đàm phán các hiệp định chung, đề ra các tiêu chuẩn trong lĩnh vực tài chính. Viện này cũng có thể sẽ tham gia vào việc thanh toán giữa các ngân hàng trung ương các nước thành viên. Tuy nhiên, đây mới chỉ là một đề xuất của các nhà nghiên cứu mà chưa hề có một biện pháp cụ thể để đưa đề xuất đó thành hiện thực. Về đồng tiền chung, hiện các nước ASEAN đang cân nhắc hai khả năng: sử dụng một đồng tiền bản tệ hoặc hình thành một đồng tiền mới. Về khả năng lấy một đồng bản tệ trong khu vực làm đồng tiền chung thì đồng đôla Singapore được xem là ứng cử viên sáng giá nhất, với lý do nền kinh tế Singapore có khả năng cạnh tranh cao, dịch vụ và công nghệ cao chiếm tỷ trọng lớn, chính sách kinh tế vĩ mô thông thoáng và hiệu quả, cơ chế quản lý ngoại hối linh hoạt, dự trữ ngoại tệ và thặng dư thương mại lớn. Nhưng một số ý kiến khác cho rằng quy mô kinh tế và thị trường tài chính tiền tệ của Singapore quá nhỏ, đồng đôla Singapore chưa hoàn toàn chuyển đổi tự do nên khó có thể đảm nhận vai trò đồng tiền chung khu vực. Mặt khác, việc khu vực hoá đồng đôla Singapore sẽ làm cho quy mô lưu thông của đồng tiền này lớn hơn, gây khó khăn cho chính phủ nước này trong việc điều hành chính sách tài chính tiền tệ nên chính phủ Singapore ngần ngại trong việc chấp thuận đồng tiền nước mình trở thành đồng tiền chung khu vực. Khả năng thứ hai là hình thành một đồng tiền mới cho ASEAN như kiểu đồng Euro. Tuy nhiên, hiện nay chưa xuất hiện hình thái chuẩn bị nào cho một đồng tiền như vậy và các nước ASEAN mới chỉ tích cực nghiên cứu tìm ra giải pháp cho việc triển khai ý tưởng này dựa trên kinh nghiệm phát hành đồng Euro. 68
- Tuy nhiên, trong mấy năm gần đây, nền kinh tế Trung Quốc đang dần khẳng định được vị thế của mình và đóng góp rất quan trọng cho nền kinh tế toàn cầu. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế vừa qua năm 2008, đồng USD đã mất đi niềm tin và đồng Nhân Dân Tệ (NDT) được mọi người nhắc đến nhiều và sử dụng rộng rãi. Xét trên phương diện toàn cầu thì đồng NDT đã có được vị thế rất đáng tin cậy. Cùng với đó Trung Quốc đang có những động thái tích cực nhằm quốc tế hóa đồng NDT, biến đồng nội tệ thành đồng tiền mạnh trên thế giới, trong tương lai có thể cùng với USD và EURO tạo nên thế chân vạc. Vì vậy, sẽ rất khó khăn khi muốn Trung Quốc từ bỏ ý định biến đồng Nhân dân tệ trở thành đồng tiền mạnh ở châu Á để tiếp nhận đồng tiền chung châu Á. Hơn nữa, Hiệp định Thương mại Tự do Trung Quốc-ASEAN chính thức có hiệu lực từ 1-2010, đã giúp NDT mở rộng được phạm vi lưu thông của nó, NDT ngày càng được sử dụng nhiều hơn trong thanh toán quốc tế. Tuy vậy NDT chưa thể tự do quy đổi nhưng ở một số nước như Lào, Campuchia, người dân đã bắt đầu dùng đồng NDT làm công cụ trao đổi và xu thế tích trữ đồng NDT cũng bắt đầu xuất hiện. Mậu dịch tự do mở cửa sẽ là yếu tố tất nhiên đưa NDT đi lên và củng cố vị thế của nó trên thế giới. Dù chưa phải là dòng chủ lưu, nhưng với những lợi ích mà các nước châu Á có được khi đồng NDT tăng giá, vô hình trung nó đã “đi vào lòng” người dân ở các nước trong khu vực.Những phân tích thông thường đều cho rằng không có khả năng xây dựng đồng tiền chung châu Á. Tuy nhiên, trong cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua, khi các nước Âu, Mỹ chịu tác động nghiêm trọng, thì Trung Quốc lại tương đối “thoát khỏi đại nạn.”.Nền kinh tế Trung Quốc ngày càng mạnh lên, đồng Nhân dân tệ được dự đoán tăng giá và xu thế tích trữ rộng rãi đồng tiền này sẽ là xu thế tất yếu. Đối diện với các vấn đề như vậy, thái độ của các nước châu Á về tính thực tế một đồng tiền chung châu Á cần có chuyển biến. Bên cạnh đó cuộc khủng hoảng nợ của Hy Lạp vừa qua lại khiến cho quyết định 69
- thành lập đồng tiền chung châu Á cần thận trọng và xem xét kỹ hơn. Sự thất bại về hàng loạt nguy cơ khủng hoảng nợ ở châu Âu cũng minh chứng cho những mặt yếu kém và bất cập của nó. Do đó nếu muốn đồng tiền chung châu Á ra đời thì không nên vội vã mà hãy thu góp kinh nghiệm từ châu Âu. Bởi vì một đồng tiền chung lớn như vậy ra đời là một quyết định rất quan trọng và ảnh hưởng rất sâu rộng đến nền kinh tế không chỉ một quốc gia mà là của rất nhiều quốc gia (trong đó có Việt Nam). Tóm lại, ASEAN đã có những tiền đề đầu tiên để hình thành một liên minh tiền tệ. Nếu đứng trên phương diện lý thuyết, nghiên cứu của các nhà kinh tế sử dụng các chỉ số tổng hợp của một khu vực tiền tệ tối ưu về mức độ tự do di chuyển các yếu tố sản xuất, mức độ linh hoạt của giá cả và tiền lương, mức độ trùng hợp của chu kỳ kinh tế và khủng hoảng, và mức độ thương mại nội bộ đã cho thấy rằng các chỉ số trên của ASEAN hiện nay tương đương với EU trước khi ký Hiệp ước Masstricht. ASEAN thậm chí còn có mức độ linh hoạt về giá cả và tiền lương cao hơn EU, và do đó khả năng điều chỉnh khi xảy ra khủng hoảng cũng nhanh hơn. Cụ thể là các nước ASEAN thường chỉ mất khoảng 2 năm để điều chỉnh và phục hồi trong khi chỉ một nửa số các cú sốc xảy ra với các nước EU được điều chỉnh trong vòng 2 năm, còn lại phải mất nhiều thời gian hơn. Các nước ASEAN cũng cho thấy có mức độ trùng hợp về chu kỳ kinh tế cao hơn các nước EU. Còn đứng trên phương diện thực tế, một sự so sánh giữa các giai đoạn phát triển của EU và ASEAN, như trên đã phân tích, cũng cho thấy rằng các nước ASEAN hoàn toàn có những điều kiện cần thiết để tạo dựng một liên minh tiền tệ. Tuy nhiên, con đường để đi đến một liên minh tiền tệ sẽ rất nhiều khó khăn, trở ngại, đòi hỏi các nước trong khu vực phải có những chính sách, biện pháp phù hợp và những bước đi cụ thể. 70
- KẾT LUẬN Trong vài thập kỉ trở lại đây, xu hướng khu vực hóa toàn cầu hóa đang nổi lên như là một yêu cầu tất yếu của sự phát triển. Cùng với đó, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra những cơ hội thuận lợi lớn nếu các quốc gia biết tranh thủ tận dụng và phát huy. Xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá ngày càng gia tăng mạnh mẽ cũng đã và đang khuyến khích sự ra đời của các liên minh tiền tệ. Sau sự ra đời của Liên minh tiền tệ châu Âu, lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy rằng ở ASEAN có thể và có đủ khả năng hình thành một liên minh tiền tệ của khu vực. Nhận thức được điều đó, các nước trong khu vực Đông Nam Á đã và đang từng bước thực hiện những bước đi vững chắc tạo tiền đề cho sự hình thành một liên minh tiền tệ của khu vực mà ban đầu là các hiệp định về lộ trình cắt giảm tiến tới xóa bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan (hiệp định CEPT), hiệp định khung về khu vực đầu tư AIA, tiếp đến là hội nghị cấp cao ASEAN 14 cam kết thúc đẩy hợp tác và tăng cường phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô. Bên cạnh đó, sự ra đời của “ sáng kiến Chieng mai” đã tạo nền tảng vững chắc cho việc thiết lập một cơ chế liên kết tỷ giá, một trong những điều kiện tiên quyết cho việc hình thành một liên minh tiền tệ. Mặc dù còn tồn tại những khó khăn, đặc biệt là sự biến động của nền kinh tế thế giới mà đặc biệt là khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 tuy nhiên sự nỗ lực trong việc thực hiện lộ trình được đề ra của các nước khu vực Đông Nam Á là không thể phủ nhận. chúng ta có thể hoàn toàn tin tưởng vào một tương lai không xa, Đông Nam Á sẽ thành lập được liên minh tiền tệ của khu vực, phát triển kinh tế xã hội ngang hàng với các khu vực phát triển khác trên thế giới. 72