Văn học Nga - Phùng Hoài Ngọc (Phần 2)

pdf 52 trang hapham 2140
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Văn học Nga - Phùng Hoài Ngọc (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfvan_hoc_nga_phung_hoai_ngoc_phan_2.pdf

Nội dung text: Văn học Nga - Phùng Hoài Ngọc (Phần 2)

  1. Phần II: VĂN HỌC NGA XÔ VIẾT THẾ KỈ XX Chương I: BỐI CẢNH LỊCH SỬ NƯỚC NGA THẾ KỶ XX Thời kỳ tiền cách mạng từ đầu thế kỷ XX dẫn tới Phong trào cách mạng ở nước Nga chuyển biến thành cao trào mới. Năm 1900, Lênin tổ chức tờ báo Tia Lửa ở nước ngoài làm cơ quan ngôn luận, chuẩn bị xây dựng một đảng cách mạng của giai cấp công nhân theo chủ nghĩa Mác. Năm 1903. Đại hội lần thứ hai Đảng Công Nhân Xã Hội Dân chủ Nga, tiền thân của Đảng Bolsevich. Đại hội đưa ra vấn đề chuẩn bị cuộc cách mạng dân chủ tư sản - coi như giai đoạn đầu của cuộc cách mạng XHCN. Lênin và các chiến hữu đã đấu tranh quyết liệt với chế độ chuyên chế Nga hoàng và với các khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa trong phong trào công nhân. Những cuộc tranh luận về tư tưởng song song với phong trào đấu tranh của công nhân mạnh mẽ khắp cả nước. Ngọn gió tươi mát của cách mạng ngày càng cuộn lên mãnh liệt sẵn sàng chuyển thành cơn bão táp cách mạng dữ dội. Tháng 12 năm 1905, cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Matxkơva nổ ra. Đầu năm 1906, cuộc khởi nghĩa bị khủng bố, đến năm 1907 thì kết thúc. Cách Mạng 1905 - 1907 mang tính chất dân chủ tư sản do giai cấp vô sản lãnh đạo. Nó thất bại vì liên minh công nông chưa vững chắc, quân đội chưa ngả hẳn về phía cách mạng, nội bộ đảng công nhân chia rẽ 2 phái (mensevich và bolsevich), các nước Tây âu giúp Nga hoàng đàn áp cách mạng. Tuy thế, cách mạng 1905 - 1907 đã giáng một đòn nặng vào chế độ Nga hoàng, thức tỉnh hàng triệu người dân lao động Nga và thúc đẩy cả phong trào đấu tranh của công nhân châu Âu, châu Mỹ và phương Đông. Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) và Cách Mạng Tháng 10 Nga. "Do mâu thuẫn và tranh chấp chia lại thế giới, các nước đế quốc tập hợp thành hai khối quân sự kình địch nhau ở châu Âu". Khối Liên Minh (thành lập 1882) gồm Đức, Áo, Hung và Ytalia, Khối Hiệp Ước (1907) gồm Anh, Pháp Nga. Hai khối ráo riết chạy đua vũ trang và tích cực chuẩn bị chiến tranh thế giới. Đức và Anh đứng đầu hai khối, là thủ phạm chính của cuộc đại chiến này, khi chiến tranh bùng nổ, Đảng Bonsevich do Lênin lãnh đạo đấu tranh chống lại chiến tranh đế quốc. Tháng 4 /1917 Mỹ nhảy vào vòng chiến, đứng về phe Hiệp Ước khi thấy họ sắp chiến thắng. Tháng 2 năm 1917, Cách Mạng Dân Chủ Tư Sản Nga lần thứ hai thành công. Chế độ Nga hoàng bị lật đổ. Chính Phủ Lâm Thời Tư Sản vẫn tiếp tục tham gia chiến tranh đế quốc.
  2. Năm 1917 cuộc đấu tranh giành chính quyền thật gay go và sôi sục giữa đảng Bonsevich của Lênin và các phe phái giai cấp tư sản. Mấy tháng trời nước Nga có hai chính quyền tồn tại song song - Chính phủ lâm thời và các Xô Viết (có nghĩa: Ủy ban). Những cuộc biểu tình khổng lồ chống lại "chính phủ lâm thời" vì họ ủng hộ chiến tranh thế giới. Quân đội hai bên bắt đầu xung đột. Giai cấp tư sản lập ra một chính phủ lâm thời thứ 3 do Kerenski cầm đầu (23/07/1917). Cuộc đảo chính nội bộ tư sản đưa ra tướng Cornhinov. Đảng Bonsevich lãnh đạo đập tan cuộc bạo loạn. Uy tín cách mạng lên cao Lênin chỉ đạo khởi nghĩa vũ trang đêm 14/10. Bao vây cung điện Mùa Đông nơi ở của chính phủ tư sản lâm thời. Cuộc chiến đấu kéo dài tới đêm 26/10 thì chấm dứt. Toàn bộ chính phủ lâm thời tư sản bị bắt. Ngày 25/10 (tức là 7/11 - lịch mới) được coi là ngày chiến thắng của Cách Mạng Tháng Mười Nga. Xây dựng chính quyền Xô Viết và chống thù trong giặc ngoài Chính phủ Xô Viết tuyên bố xóa các thiết chế, tước hiệu cũ. Sau khi Chiến Tranh Thế Giới chấm dứt (1918), quân đội 14 nước đế quốc (Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Thổ, Ba lan ) cấu kết với bọn bạch vệ Nga mở cuộc tấn công, phong tỏa nước Nga Xô Viết. Hồng quân 3 triệu người đã chiến đấu dũng cảm, đến năm 1920 đã đánh tan toàn bộ lực lượng thù địch trong và ngoài nước. Liên Xô xây dựng chủ nghĩa xã hội (1921-1941) Công cuộc khôi phục kinh tế và công nghiệp hóa mở đầu với chính sách kinh tế mới. Một số dân tộc khác tự nguyện gia nhập liên bang xô viết - gọi tắt là Liên Xô. Công cuộc tập thể hóa nông nghiệp bắt đầu từ năm 1928. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra hết sức quyết liệt. Chính quyền Xô Viết mắc một số sai lầm thiếu sót, nóng vội trong việc tập thể hóa nông nghiệp, phát sinh tệ nạn sùng bái cá nhân và quan liêu độc đoán nổi lên từ sau khi Lênin mất đã gây tác hại nghiêm trọng về sau. Tháng 6 năm 1941, phát xít Đức tấn công Liên Xô sau khi chúng gây ra Chiến Tranh Thế Giới Lần Thứ Hai. Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại nổ ra ở Liên Xô. Phe đồng minh gồm Anh, Pháp, Mỹ, Nga làm nòng cốt cùng với Mặt Trận Đồng Minh chống phát xít hình thành. Sau khi giải phóng đất nước, quân đội Liên Xô tấn công sang Berlin thủ đô Đức. Chính phủ Đức Quốc Xã ký kết đầu hàng ngày 8/ 5/1945. Chiến tranh thế giới II kết thúc ở châu Âu. Đến ngày 14/8/45 phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng, chiến tranh kết thúc trên toàn thế giới. Xã hội Liên Xô những năm 50, 60 và 70 Các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đều phát triển mạnh mẽ. Liên Xô đóng vai trò quan trọng trong Ba Dòng Thác Cách Mạng thế giới. Nền kinh tế quốc dân phát triển vượt bậc, khoa học đạt nhiều thành tựu. Văn học nghệ thuật phản ánh kịp thời cuộc sống mới và tích cực cổ vũ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xuất hiện xu hướng "tô hồng" cuộc sống, né tránh miêu tả những mâu thuẫn phức tạp trong xã hội. Nhìn chung, đời sống nhân dân đã có nhiều thay đổi lớn lao hơn hẳn thời kỳ trước Cách Mạng Tháng Mười, nhưng cũng dần dần bộc lộ
  3. những mâu thuẫn mới. Từ những năm 1980 đến năm 1990 Do hậu quả của những đường lối chính trị- kinh tế - văn hóa - xã hội có nhiều sai lầm, nảy sinh nhiều mâu thuẫn ngấm ngầm, lại thêm các nước tư bản chủ nghĩa bao vây nhiều mặt tìm mọi cách công kích Nhà Nước Liên Xô làm cho Đảng CSLX và Liên Bang Xô Viết tan rã. Tuy thế, đây không phải một sự quay trở về điểm xuất phát ban đầu. Lịch sử vẫn đi tiếp con đường của nó. Ngày nay, các nước cộng hòa tách ra độc lập, các đảng cộng sản vẫn tiếp tục hoạt động nhưng không còn là đảng cầm quyền. Nước Cộng Hòa Nga vẫn giữ ưu thế trong khu vực Liên Xô (cũ). Tình hình vẫn còn đang diễn biến phức tạp nhưng nước Cộng Hòa Nga dưới sự lãnh đạo của tổng thống V. Putin vẫn giữ vai trò quan trọng trong khu vực Liên Xô cũ. Nền văn học Nga đầy tiềm năng đang trở mình đổi mới. Chương II: VĂN HỌC NGA TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX Bước vào thế kỷ XX, trung tâm cách mạng thế giới đã chuyển từ Tây Âu sang nước Nga.Từ đây nhân loại bước vào một thời đại mới như Lê Nin từng xác định là "thời đại rung chuyển vũ bão, thời đại đấu tranh giai cấp hết sức gay gắt, thời đại nội chiến, thời đại cách mạng và phản cách mạng". Chỉ trong vòng hơn10 năm đầu của thế kỷ, nước Nga đã trải qua hai cuộc cách mạng (1905 và1917) làm chấn động cả thế giới. Chế độ quân chủ chuyên chế phản động của Nga hoàng mục nát từ bên trong đã không đứng vững được trước cao trào đấu tranh cách mạng của nhân dân do Đảng của Lê Nin lãnh đạo, và cuối cùng nó đã sụp đổ hoàn toàn vào tháng Mười 1917. Về tình hình văn học - nghệ thuật, trong hoàn cảnh lịch sử ấy, chủ nghĩa hiện thực phê phán Nga với đại biểu cuối cùng - nhà văn Antôn Sekhov về thực chất đã làm xong vai trò lịch sử vẻ vang của mình. Một khuynh hướng văn học mới mẻ, non trẻ đã hình thành từ trong đời sống văn học từ những năm 90 của thế kỷ XIX, gắn liền với những sáng tạo văn học của M.Gorki đã ngày càng tỏ ra có khả năng đáp ứng những nhu cầu to lớn và tích cực của cuộc sống đầy biến động dữ dội. Đến năm 1906, khi tiểu thuyết "Người Mẹ" và vở kịch "Kẻ thù" của Gorki ra đời thì khuynh hướng văn học mới ấy coi như đã đến độ chín muồi và bắt đầu vai trò lịch sử của nó. Ngoài ra, cũng cần nhắc đến một số khuynh hướng văn học - nghệ thuật suy đồi, đặc biệt là "chủ nghĩa vị lai" từ phương Tây tràn sang, hoạt động ầm ĩ, nhưng không được sự hưởng ứng nhiệt tình của đông đảo người cầm bút, nên khuynh hướng này không đóng được vai trò gì đáng kể trong đời sống xã hội và văn học trên đất nước Nga trong những năm đầu thế kỷ hai mươi. Cuộc cách mạng Tháng Mười 1917 và sự hình thành nền văn học cách mạng
  4. Từ năm 1905, Lênin đã đặt vấn đề: giai cấp vô sản cách mạng phải xây dựng nền văn học của mình, nhằm phục vụ lợi ích cao cả của nhân dân lao động ; Đồng thời Người cũng đề xuất nguyên lý và nhiệm vụ của nền văn học đó. Đến cuối năm 1917 khi cách mạng đã thành công bước đầu, giai cấp vô sản và nhân dân lao động đã giành được chính quyền thì mới nảy sinh cơ sở và điều kiện lịch sử cụ thể để xây dựng nền văn học mới theo những nguyên lý đã đề ra: nền văn học vô sản cách mạng xã hội chủ nghĩa, gọi tắt là Văn Học Xô Viết (gồm văn học Nga và các nước khác trong Liên bang). Khuynh hướng văn học vô sản vốn đã được lịch sử văn học chuẩn bị từ lâu trong thực tế, có thể coi như bắt đầu từ những truyện ngắn đầu tay của Macxin Gorki, chính thức từ tiểu thuyết "Người mẹ". Khuynh hướng này do Gorki có công khơi nguồn như một dòng suối nhỏ chảy bên dòng sông văn học hiện thực phê phán Nga, lúc ấy nó chưa có đủ điều kiện để thành dòng sông mới tiếp nối và thay thế dòng sông cũ đã cạn nguồn. Sau Cách Mạng Tháng Mười 1917 và Nội chiến (1918 - 1921), Liên bang Cộng Hòa XHCN Xô Viết (gọi tắt là Liên Xô) thành lập, đó là điều kiện lịch sử - xã hội làm nảy sinh nền văn học Xô Viết đa dân tộc, trong đó nền văn học Nga Xô Viết đóng vai trò chủ yếu và quan trọng. Nền văn học Xô Viết kế tục và phát huy truyền thống tinh thần của các nền văn học quá khứ của các dân tộc anh em trong Liên bang Xô Viết, đồng thời có những đổi mới về nhiều mặt. Nó lấy hệ tư tưởng Mác - Lênin và nguyên lý mỹ học Macxit làm nền tảng cho sự nhận thức và cách chiếm lĩnh nghệ thuật đối với thực tại. Nó lấy việc phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và lợi ích của giai cấp vô sản và nhân dân lao động các dân tộc anh em làm nhiệm vụ chủ yếu. Chức năng cơ bản của nó là khẳng định lý tưởng của chủ nghĩa xã hội và sự nghiệp xây dựng CNXH bằng những tác phẩm nghệ thuật. Nhân vật trung tâm của khuynh hướng văn học này là Con người lao động (trí óc và chân tay) trực tiếp tham gia có ý thức vào quá trình cải tạo thế giới cũ và xây dựng thế giới mới XHCN. Có thể coi nhân vật Paven Vlasov trong tiểu thuyết "Người mẹ" của M.Gorki là một phác thảo ban đầu trong buổi bình minh của Cách Mạng Nga về nhân vật trung tâm của văn học vô sản cách mạng, là sự phát triển kế tiếp kiểu nhân vật "con người bé nhỏ" của nhà văn Sekhov và của chính M.Gorki giai đoạn đầu tiên. Cùng với thời gian và sự nỗ lực tìm tòi sáng tạo, đi đôi với đấu tranh chống lại những quan điểm tư tưởng đối lập, thù nghịch, những người cầm bút Xô Viết dần dần nhận thức đầy đủ, đúng đắn và sâu sắc hơn về cách mạng, về chế độ mới và nền văn học này, ngày càng tập hợp đông đảo dưới ngọn cờ cách mạng. Đại Hội Nhà Văn Liên Xô lần thứ nhất (1934) đã đánh dấu sự lớn mạnh, trưởng thành của nền văn học Xô Viết đa dân tộc. Chưa có một nền văn học nào trên thế giới phát triển và trưởng thành nhanh chóng đến thế. Trong vòng chưa đầy 2 thập kỷ từ khi ra đời, nền văn học này đã có những tác phẩm đồ sộ được cả thế giới công nhận trong đó có giải thưởng Nobel văn học cho tiểu thuyết " Sông Đông Eâm Đềm". Trong Đại Hội Nhà Văn Liên Xô 1934, M.Gorki đã đọc báo cáo nhấn mạnh: " Không nên quên rằng nền văn học tư sản Nga phải cần đến gần một trăm năm, kể từ cuối thế kỷ XVIII mới gây được cho mình một uy tín lớn trong cuộc sống và có ảnh hưởng nhất định đối với nó (văn học Xô Viết).
  5. Nền văn học Xô Viết chỉ sau mười lăm năm đã có được một ảnh hưởng như vậy". Văn hào Lỗ Tấn (Trung Quốc) năm 1935 trong một bài viết cũng thừa nhận rằng " văn học Xô Viết đã chiến thắng ". Chương III: VĂN HỌC XÔ VIẾT TRONG CUỘC CHIẾN TRANH CHỐNG PHÁT XÍT, BẢO VỆ TỔ QUỐC XHCN (1941 - 1945). Cuộc chiến tranh chống phát xít, bảo vệ Tổ quốc XHCN là một thử thách lịch sử nặng nề và vinh quang đối với chế độ XôViết nói chung và văn học Xô Viết nói riêng. Bước vào cuộc chiến tranh, khoảng chín nghìn văn nghệ sĩ Xô Viết đã tình nguyện ra mặt trận với những cương vị, nhiệm vụ khác nhau. Đến khi chiến tranh kết thúc, một phần ba số văn nghệ sĩ ấy đã vĩnh viễn nằm lại ở chiến trường. Các nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ Alexei Tonstoi, M.Solokhov,Simonov đã ngày đêm sát cánh cùng các chiến sĩ Hồng quân và dân quân du kích, chiến đấu bằng súng đạn và bằng tác phẩm nghệ thuật của mình. Nhiều nhà văn viết được nhiều tác phẩm xuất sắc, phản ánh kịp thời cuộc sống và chiến đấu gian khổ, ác liệt và anh hùng của chiến sĩ Hồng quân ngoài mặt trận, được dân chúng và binh sĩ nhiệt liệt đón nhận. Những bài ký của I.Evenbua, B. Polevoi, thơ và kịch của Ximonov, truyện ngắn và ký của A.Tonstoi, M.Solokhov, truyện thiếu nhi của A.Gaiđa Ngay từ thời chiến tranh ái quốc, các nhà văn đã kịp xây dựng các tác phẩm cỡ lớn như tiểu thuyết "Đội cận vệ thanh niên" của Fadeev, truyện vừa "Những người bất khuất" của Gorbatov, trường ca "Vasili Chorkin" của Tvarđôpxki Sau chiến tranh, cuộc chiến đấu chống phát xít vẫn còn là nguồn đề tài và cảm hứng mạnh mẽ cho sáng tạo nghệ thuật của nhà văn Xô Viết suốt nhiều thập kỷ, góp phần làm cho văn học Xô Viết đạt thêm nhiều thành tựu mới. Chương IV: ẢNH HƯỞNG VÀ TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC CỦA VH XÔ VIẾT ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG TINH THẦN VÀ VH THẾ GIỚI Văn học Xô Viết không chỉ là nền văn học nhanh chóng đi vào đời sống và có tác động tích cực đối với sự phát triển của nó trên đất nước Xô Viết mà còn có tác động to lớn, tích cực đối với đời sống tinh thần và sự phát triển văn học đương đại của nhiều dân tộc khác trên thế giới, đặc biệt là các dân tộc đang đấu tranh cho tự do, độc lập, tự chủ của mình (chiếm số dân ba phần tư nhân loại). Trào Lưu Văn Học Hiện Thực XHCN khởi nguồn từ đất nước Xô Viết lan dần sang các nước khác theo nhịp sóng phong trào giải phóng dân tộc, đã tạo nên một trào lưu văn học rộng lớn mang tính quốc tế, trở thành đối trọng có ưu thế đối với trào lưu văn học suy đồi thuộc chủ nghĩa hiện đại (modernisme). Chỉ trong vòng 5 thập kỷ kể từ khi ra đời, văn học Xô Viết đã góp phần biến đổi hẳn
  6. văn học thế giới đương đại cả về nội dung và hình thức. Con người lao động chân chính có ý thức về mình, về vai trò và khả năng làm chủ lịch sử, đã và đang chiếm vị trí trung tâm của văn học đương đại và đẩy lùi dần về phía sau các loại nhân vật "con người xa lạ " vị kỷ, cô đơn, chán đời của văn học tư sản hiện đại. Ở Việt Nam, do hoàn cảnh lịch sử, văn học Xô Viết được giới thiệu muộn hơn nhiều nước, nhưng lại nhanh chóng được công chúng rộng rãi hào hứng nhiệt tình đón nhận, nhất là thế hệ trẻ. Sau Cách Mạng Tháng Tám 1945, trong cuộc kháng chiến chống Pháp, một số tác phẩm văn học Xô Viết ra đời trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc được dịch ra tiếng Việt như cuốn " Tỉnh ủy bí mật " của Fedorov do Hồ Chí Minh lược dịch và giới thiệu, một số bài thơ của K.Ximonov như " Đợi anh về ", "Aliosa nhớ chăng" tuyển tập ký " thời gian ủng hộ chúng ta " của I.Erenbua, truyện ngắn " Khoa học căm thù " của M.Solokhov đã được đông đảo đồng bào và chiến sĩ ta chuyền tay nhau đọc một cách thích thú và có tác động tích cực đến cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân ta. Từ sau ngày hòa bình lập lại lần thứ nhất (1954), văn học Xô Viết mới thực sự được giới thiệu ở nước ta trên qui mô rộng lớn ; ảnh hưởng tích cực của nó đối với đời sống tinh thần của nhân dân và với nền văn học hiện đại nước ta đã để lại những dấu ấn đẹp đẽ cũng như những bài học kinh nghiệm sâu sắc về sáng tác, bền vững ngay cả trong Văn học Việt Nam đang đổi mới ngày nay. Maxim Gorki Trong Lịch sử văn học Nga Xô viết, văn hào Macxim Gorki có vị trí đặc biệt. Ông là người khai sinh, là bậc thầy của văn học Nga - Xô Viết. Với toàn bộ tác phẩm của Macxim Gorki, văn học Nga trở thành ngọn cờ đầu của văn học thế giới đương đại trong công cuộc thức tỉnh và đấu tranh giải phóng nhân loại cần lao khỏi ách áp bức thống trị của chủ nghĩa tư bản. Ông cũng là người đánh dấu một bước ngoặt mới trong tiến trình văn học thế giới hiện đại. Henry Bacbuse, nhân vật lớn của nước Pháp khẳng định:” ảnh hưởng của Macxim Gorki đối với các nhân vật trẻ, họa sĩ và nghệ sĩ chúng ta thật lớn lao. Macxim Gorki là ngọn đuốc vĩ đại, người mở những con đường văn học mới cho toàn thế giới và những nhà hoạt động văn học sẽ đi theo”. VÀI NÉT VỀ TIỂU SỬ VÀ SỰ NGHIỆP Maxim Gorki tên thật là Alexei Macximovich Peskov, sinh ngày 28.03.1868 tại thành phố Nigiơni Novogorod (nay là thành phố Gorki) trên bờ sông Volga, trong một gia đình đi làm thuê kiếm sống. Năm 16 tuổi, đến thành phố Kazan xin vào đại học nhưng bị từ chối. Peskov đi làm phu khuân vác, thợ làm bánh mì và nhiều công việc khác để kiếm sống, đồng thời kiên trì tự học và tham gia sinh hoạt với nhóm thanh niên trí thức có tư tưởng tiến bộ. Chuyển đến vùng biển Lý hải sống với dân chài, nhận việc canh gác kho hàng ban đêm, cân hàng ở ga xe lửa. Từ năm 1889, ông bị cảnh sát theo dõi vì có quan hệ với những người làm cách mạng. Mùa xuân năm 1891, Peskov bắt đầu một cuộc hành trình dài khắp nước Nga, vừa quan sát tìm hiểu cuộc sống vừa làm thuê kiếm sống.
  7. Năm 1892, ông viết truyện ngắn đầu tay Makar Tsudra đăng trên tờ báo Kafkaz với bút danh “Macxim Gorki” làm xôn xao dư luận công chúng văn học đương thời. Cuối năm 1892, ông trở lại quê nhà, cộng tác với báo chí vùng sông Volga và các báo ở thủ đô. Năm 1898-1899, ông xuất bản một số tập bút ký, truyện ngắn, một số tiểu thuyết và một vở kịch dưới ảnh hưởng của Đảng Công Nhân Xã Hội Dân Chủ Nga. Mùa xuân năm 1901, ông bị chính phủ Nga hoàng trục xuất khỏi thành phố quê nhà vì ông đã viết truyền đơn kêu gọi lật đổ chính quyền chuyên chế. Năm 1902, ông được bầu làm viện sĩ danh dự Viện Hàn lâm Khoa học Nga, nhưng Nga hoàng ra lệnh bãi bỏ kết quả của cuộc bầu chọn này. Gorki tổ chức và lãnh đạo nhà xuất bản Trí Thức, tập hợp nhiều nhân vật tiến bộ của nước Nga đương thời. Gorki tích cực tham gia cuộc Cách Mạng Nga lần thứ nhất: ông viết lời kêu gọi lật đổ chính quyền, bị Nga hoàng bắt giam. Một cơn bão táp phản kháng bùng lên khắp nước Nga và Châu Âu ủng hộ Gorki, khiến Nga hoàng phải trả lại tự do cho ông. Mùa hè năm 1905, Gorki gia nhập Đảng Bolsevich, gặp gỡ Lênin ở Petersburg, tiếp tục viết bài cho báo chí Đảng. Đầu năm 1906, sau khi cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Matksva thất bại, Đảng quyết định cử ông sang Tây Âu và Mỹ để làm công tác vận động. Trên đường đi ông viết "Lời kêu gọi" gởi giai cấp công nhân và giới trí thức các nước, vận động họ ủng hộ cách mạng Nga, đồng thời lên án chính phủ tư sản các nước Tây Âu đã tiếp tay cho Nga Hoàng đàn áp Cách Mạng Nga. Báo chí phản động ở Mĩ la ó ầm ĩ đòi Gorki phải rời khỏi Mỹ, nhưng ông vẫn ở lại tới mùa thu năm ấy, viết nhiều tác phẩm tố cáo chế độ tư bản (Xem Những Cuộc Phỏng Vấn Của Tôi Ở Mỹ) và hai tác phẩm mở đầu cho nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa là vở kịch "Những Kẻ Thù" và tiểu thuyết "Người Mẹ". Mùa thu năm 1906, Gorki sang Ý. Tháng 5.1907, ông được mời đi London dự đại hội Đảng lần V với tư cách đại biểu dự thính. Ơû đây, ông gặp Lênin lần thứ hai. Từ đây cho tới cuối đời, Lênin thường xuyên quan tâm chăm sóc Gorki, khiến ông trở thành nhân vật vĩ đại của giai cấp vô sản. Cuối năm 1913, có lệnh ân xá của Nga hoàng, Gorki trở về nước. Ông viết các tác phẩm "Những Mẩu Chuyện Nước Ý" (1911-1913), tập truyện ngắn "Trên Nước Nga" (1912-1916), tiểu thuyết "Thời Thơ Aáu" và "Kiếm Sống" (tập I và II) là bộ tự truyện của ông. Sau Cách Mạng Tháng 10 Nga, Gorki tích cực xây dựng nền văn hóa mới. Năm 1920, ông được cử đi dự Đại Hội Quốc Tế Cộng Sản lần thứ II ở Moskva. Hè năm 1921, bệnh lao của Gorki trở nên trầm trọng. Lênin yêu cầu ông ra nước ngoài dưỡng bệnh (1921-1924 ở Đức, Ý, Tiệp). Ông tiếp tục sáng tác. Năm 1931, ông trở về nước tích cực tham gia hoạt động xã hội và văn học. Năm 1931, Macxim Gorki chủ trì Đại Hội Các Nhà Văn Xô Viết lần thứ I và được bầu làm chủ tịch Hội Nhà Văn. Năm 1935, ông được bầu làm ủy viên Xô viết tối cao Liên bang. Những năm cuối đời, ông còn viết nhiều vở kịch và bộ tiểu thuyết sử thi 4 tập "Cuộc đời của Klim Samghin" (1925-1936). Macxim Gorki mất ngày 18.06.1936 tại Moskva. Nhân dân xúc động trước cái chết của ông cũng như một trăm năm trước đây người ta đã xúc động trước
  8. cái chết của thi hào Puskin. "Gorki là lương tâm của chúng ta, là lòng dũng cảm và tình yêu của chúng ta" (cảm nghĩ của nhà văn Pauxtovski). TRUYỆN NGẮN HIỆN THỰC VÀ LÃNG MẠN CỦA GORKI CUỐI THẾ KỶ XIX Macxim Gorki viết văn đúng vào buổi giao thời: thế giới cũ đang sụp đổ, thế giới mới đang phôi thai trong bão táp cách mạng ùn lên từ phía chân trời. Đó là lúc những bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực (phê phán) Nga như Liev Tolstoi, A.Sêkhov bắt đầu cảm thấy không thể viết như cũ, phải viết cách khác cho đối tượng khác. L. Tolstoi ghi trong nhật ký cuối đời: "Tôi cảm thấy ngày càng sinh động và sinh động hơn, đòi hỏi phải viết cho cái thế giới đông đảo và chỉ có nó mà thôi". Còn Sêkhov cũng rất đồng tình với ý kiến của Macxim Gorki và nói với ông trong một bức thư: " tôi cảm thấy bây giờ nên viết không phải như thế này, không phải về cái này, mà phải viết khác, viết cho một người khác, nghiêm túc và trung thực". Vì thế, trong những sáng tác đầu tay của Gorki, ta sẽ thấy không chỉ có sự thể hiện ngòi bút đi tìm nhân vật chính cho tác phẩm, mà còn có cả nỗ lực tìm kiếm hướng đi và đối tượng mới cho văn học nói chung. Những truyện ngắn đầu tay của ông như "Makar Tsudra", "Bà lão Izecghin", "Tsenkxơ", "Bài ca con chim ưng" được đón nhận như một hiện tượng lạ, một tín hiệu mới trong bầu trời ảm đạm của văn học Nga hồi ấy. Nhà văn Nga nổi tiếng lúc bấy giờ là Kôsôlenkô, người thầy văn học đầu tiên của Gorki, sau khi đọc những truyện ngắn này đã nhận xé t: "Truyện của anh lạ lùng thế nào ấy! Đây là chủ nghĩa lãng mạn, mà chủ nghĩa lãng mạn thì đã chết từ lâu rồi! Anh là nhà văn hiện thực chứ không phải lãng mạn, anh là nhà văn hiện thực !". Nhưng rồi sau khi đọc truyện "Tsenkase", ông khen ngợi "anh biết xây dựng tính cách nhân vật của anh, nó nói năng hành động là do chính nó, tôi đã nói anh là nhà văn hiện thực mà !". Suy nghĩ thêm một lát, ông nói tiếp: "nhưng đồng thời anh cũng là một nhà văn lãng mạn". Truyện ngắn thời kỳ đầu của Macxim Gorki thể hiện sự tìm tòi thể nghiệm độc đáo rõ nét. Về nhân vật, ông hướng tới những hình tượng có nhân cách lớn, bản lĩnh lớn, giàu tính lãng mạn, anh hùng trong các truyện dân gian như: Chàng trai Lôikô, thiếu nữ Radda (Makar Tsudra) yêu tự do hơn bất cứ thứ gì trên đời. nhân vật Đankô (Bà lão Izecghin) lấy trái tim mình làm ngọn đuốc soi đường cho đồng loại vượt qua đêm tối và rừng rậm. Con chim ưng (Bài ca con chim ưng) coi hạnh phúc thiêng liêng là được vùng vẫy tự do trên bầu trời đầy ánh sáng. Chim báo bão (Bài ca chim báo bão) một mình hiên ngang bay lượn trên mặt biển đầy bão táp, cất tiếng kêu gọi bão tố "Hãy nổi lên đi", trong khi các loài chim khác sợ hãi chạy trốn. Truyện ngắn đầu tay "Makar Tsudra" Trên những nẻo đường lang thang khắp nước Nga, tác giả (người kể chuyện thứ nhất) làm quen với một ông già chăn ngựa người Digan tên Makar
  9. Tsudra. Nhân vật này sẽ là "người kể chuyện thứ hai". Ban đêm họ nằm bên đống lửa chuyện trò, "bên trái là cánh đồng mênh mông, bên phải là biển rộng bát ngát", đôi khi ngừng nói, lắng nghe tiếng sóng xô bờ và tiếng thì hầm của cỏ cây vùng duyên hải . Từng cơn gió cuốn theo lá vàng nhăn nheo hắt nó vào đống lửa, ngọn lửa bùng to lên. Ông già Makar Tsudra là một người từng trải cuộc đời lang thang du mục. Ông hăng hái tranh cãi với chàng thanh niên lang thang Peskov về những vấn đề lý tưởng của cuộc sống, về thân phận con người, về nổi đau và niềm vui và sau cùng về chủ đề tự do . Khi thấy chàng trai lắng nghe tiếng hát quyến rũ của cô gái Nonka xinh đẹp - con gái cưng của lão - lão bèn khuyên nhủ anh "chớ có tin bọn con gái, phải tránh họ thật xa ra, hôn nó rồi thì bao nhiêu ý chí trong đầu anh tiêu hết. Nó ràng buộc anh bằng một cái gì vô hình mà anh không bao giờ gỡ ra được và anh sẽ hiến dâng cả tâm hồn cho nó tôi kể cho anh nghe một câu chuyện, nghe mà nhớ lấy và hễ nhớ thì suốt đời được làm con chim tự do". Câu chuyện của ông già digan kể về đôi trai tài gái sắc đều là dân du mục của thảo nguyên bao la nước Nga. Chàng tên là Lôikô Zôbar nổi tiếng dũng cảm hiên ngang trên mình ngựa, hát rất hay và đôi tay tài hoa chơi đàn vĩ cầm. Tiếng hát và tiếng đàn của chàng khiến cho người nghe "máu trong huyết quản nóng bừng lên, tiếng nhạc kêu gọi người ta đi đến chốn nào không rõ, tiếng nhạc làm cho mọi người phải khao khát một cái gì". Nhưng chàng còn là một con người đầy kiêu hãnh. Còn nàng Radda cô gái du mục, con bác lính già Danilo, theo lời kể của ông già Makar thì "Radda mô tả bằng lời thì chẳng nói được chút gì hết ! Cái nhan sắc ấy may ra chỉ có thể ca ngợi trên phím đàn vĩ cầm, mà cũng chỉ có kẻ nào am hiểu cây đàn ấy như hiểu chính tâm hồn mình mới ca ngợi nổi ". Nàng làm khô héo bao nhiêu trái tim trai trẻ. Một lão đại thần giàu sang quyền quí đem bạc vàng quỳ dưới chân cha con nàng cũng đành nuốt nhục bỏ đi. Hai con người đẹp đẽ nhất, niềm tự hào và niềm vui của thảo nguyên đã gặp nhau. Radda cất tiếng hỏi chàng trai "Anh đàn hay lắm Lôikô ạ ! Ai làm cây đàn cho anh mà tiếng vang và nhuyễn như vậy?". Lôikô cười :"Chính tay tôi làm ra nó; không phải bằng gỗ mà bằng bộ ngực của người con gái ngày trước yêu tôi say đắm, dây đàn thì tôi se bằng thớ tim của nàng. Đàn chưa được chắc tiếng nhưng tôi cầm mã vĩ vững tay lắm". Radda ngoảnh đi, ngáp dài và nói "Thế mà người ta cứ bảo Zobar khôn khéo và thông minh ! Thật là người đời chỉ ưa đồn nhảm". Nói đoạn bỏ đi thẳng ( .) Hôm sau thức dậy, thấy đầu Zôbar có cuốn một mảnh vải. Chàng làm sao thế ? Ấy là con ngựa giẫm vó phải chàng trong khi ngủ (Chúng tôi thừa biết con ngựa ấy là ai rồi và tủm tỉm cười trong râu, cả bác Danilo cũng vậy ). Họ đóng trại du mục ở vùng đó khá lâu. Lôikô Zôbar ở đó với họ và được mọi người quí mến về tài kể chuyện thông thạo, nhiệt tình say sưa đàn hát cho mọi người cùng thưởng thức. Chỉ có một người không thèm để ý đến chàng, đó là Radda. Nàng lại còn chế giễu Lôikô nữa, khiến tim chàng đau nhói lên, nghiến răng ken két, đôi mắt sa sầm . Một đêm Lôikô đi rất xa ra thảo nguyên để tránh mọi người và cây vĩ cầm của chàng khóc cho đến sáng. Nó khóc thương cái ý chí của chàng Lôikô Zôbar
  10. đã tiêu tan . Ai cũng lo lắng và thương xót chàng, nhưng không biết nên làm gì đây? Tối hôm sau, bác lính già Danilo yêu cầu Lôikô hát một bài. Chàng và cây vĩ cầm cất tiếng: ( ) Hãy bay tới, vầng dương đang chờ đợi hãy vút lên, cao mãi tận trời xanh nhưng chớ để bờm ngựa bay vương phải ánh dung nhan kiều diễm của Nàng Trăng Những người du mục xuýt xoa tan thưởng. Còn Radda nàng nói như xối nước: Anh chẳng nên bay cao như thế, Lôikô ạ, lỡ rơi chúi mũi xuống vũng nước thì ướt hết cả bộ râu. Chàng cố nhịn và hát tiếp. Bác Danilo, cha nàng, mọi người đều hết lời ca tụng. Còn Radda tiếp tục xối nước lạnh: Có lần muỗi vo ve bắt chước tiếng đại bàng, nghe cũng như thế đấy. Mày muốn ăn roi hả, Radda ? Bác Danilo sấn tới bên con gái. Lôikô Zôbar quẳng mũ xuống đất, mặt tối xỉn như màu đất - "Hãy khoan, bác Danilo. Ngựa dữ thì đã có hàm thiếc ! Hãy gả con gái cho tôi!". Anh nói khá lắm ! - Bác Danilo cười - Đấy, có lấy được thì cứ lấy. Tốt lắm - Lôikô đáp, rồi quay sang Radda: Nào cô thiếu nữ, đừng có làm bộ! Bọn con gái các cô, tôi biết nhiều rồi ! Nhưng chưa có cô nào kích động được lòng tôi như cô. Cô đã thu phục được tâm hồn tôi ! Tôi lấy cô làm vợ, trước Thượng đế, trước danh dự của tôi, trước cha cô và tất cả mọi người. Nhưng hãy nhớ lấy, đừng có bó buộc sự tự do của tôi, tôi là người tự do, tôi muốn sống ra sao, tôi sẽ sống như thế. Đoạn tiến về phía Radda, hai môi mím chặt, mắt sáng long lanh, chúng tôi thấy chàng chìa tay ra . Bỗng nhiên chàng vung hai tay lên trời, ngã ngửa ra, gáy nện xuống đất . Đó là Radda đã quất chiếc roi da vào chân chàng, giật mạnh làm Lôikô ngã. Thế rồi nhàng lại nằm im, không nhúc nhích, cười thầm một mình Lôikô ôm đầu, rồi đứng dậy bỏ đi ra thảo nguyên. Ông già Makar rón rén đi theo chàng vào đêm tối của thảo nguyên Lôikô ngồi trên một tảng đá, buông tiếng thở dài . Bóng Radda đang vội vàng từ phía trại đi tới nàng đặt tay lên vai chàng. Lôikô nhảy phắt dậy, rút dao. Radda cầm khẩu súng lục nhằm vào trán chàng rồi họ cùng cất vũ khí. Radda nói với Zobar: "Anh nghe đây, tôi đến đây không phải để giết anh, mà để làm lành, vứt dao đi. Lôikô, tôi yêu anh . Tôi đã gặp nhiều chàng trai, nhưng anh đẹp hơn và gan dạ hơn cả về tâm hồn và gương mặt Tôi chưa yêu ai bao giờ, Lôikô ạ, tôi chỉ yêu anh!. Nhưng tôi còn yêu tự do hơn nữa, tôi yêu tự do hơn yêu anh. Nhưng không có anh tôi không thể sống được, cũng như anh không thể sống thiếu tôi. Tôi muốn anh là của tôi, cả linh hồn lẫn thân thể, anh nghe rõ không?". Lôikô cười nhạt: Tôi nghe ra rồi ! Nghe cô nói, lòng tôi vui lắm đấy ! Nào nói nữa đi. Thế này nhé, Lôikô, dù anh có vùng vẫy ra sao tôi cũng sẽ trị được anh, anh cũng sẽ thuộc về tô i. Thế thì đừng để mất thì giờ vô ích: những chiếc hôn và những âu yếm, vuốt ve của tôi đang chờ đợi anh . Tôi sẽ hôn anh rất nồng nàn, dưới chiếc hôn của tôi, anh sẽ quên cuộc sống ngang tàng của anh và những
  11. bài ca sôi nổi của anh trước đây vẫn là niềm vui của bọn trai trẻ digan sẽ không còn vang trên thảo nguyên nữa. Anh sẽ hát ~ bài tình ca êm dịu cho tôi, cho Radda nghe . Nghiõa là ngày mai anh sẽ phải phủ phục dưới chân tôi trước mặt toàn trại và hôn bàn tay phải của tôi. Lúc bấy giờ tôi sẽ là vợ anh. Lôikô nhảy lui, thét lên một tiếng vang cả thảo nguyên như vừa bị trúng thương ở ngực. Radda run lên nhưng lại bình tĩnh " Thôi chào anh, hẹn ngày mai nhé". Zôbar rên rỉ "Nghe ra rồi. Ngày mai tôi sẽ làm". Nàng bỏ đi. Chàng ngã vật ra, vừa khóc vừa cười. Ông già Makar quay về trại, kể tất cả mọi chuyện cho cả trại du mục nghe. Mọi người hồi hội chờ đợ i. Tối hôm sau khi mọi người tụ tập quanh đống lửa, Lôikô đến, hốc hác, mắt trũng sâu, chàng nhìn xuống đất nói với tất cả mọi người rằng chàng đã yêu Radda hơn tất cả mọi thứ, kể cả tự do. Rằng chàng sẽ quỳ phục dưới chân nàng để xin cưới. Từ nay, chàng bảo sẽ không còn hát cho mọi người nghe nữa Còn nàng lặng lẽ và nghiêm khắc, gật đầu, trỏ ngón tay xuống chân mình. Ông già Makar kể rằng: "Chúng tôi cứ ngây ra nhìn thậm chí muốn đi đâu cho rảnh, khỏi phải thấy cảnh Lôikô Zôbar sụp xuống chân một đứa con gái dù đó là Radda. Chúng tôi thấy hổ thẹn, thương xót, buồn tủi ". Radda lại giục giã Lôikô, chàng bảo: Chà, sao vội thế? Còn thời giờ mà, rồi cô lại phát ngấy lên ấy chứ Rồi chàng cười phá lên - Đấy, sự tình chỉ có thế thôi các bạn ạ. Còn phải thử xem Radda của tôi có trái tim rắn chắc như nàng đã tỏ ra với tôi hay không? Vậy tôi xin thử, các bạn tha thứ cho tô i. Chúng tôi chưa kịp đoán xem Zôbar định làm gì thì Radda đã ngã sóng xoài trên mặt đất, trên ngực cắm sâu đến tận cán con dao quắm của Zôbar. Chúng tôi choáng người lên. Radda rút con dao, ném sang một bên, rồi lấy mái tóc đen nhánh áp lên vết đâm và mỉm cười nói to, giọng rành rọt: Vĩnh biệt Lôikô ! Em biết trước là anh sẽ làm như vậy - rồi nàng tắt thở. Ôi ! giờ thì tôi xin phủ phục dưới chân em, hỡi nữ hoàng kiêu hãnh, Lôikô hét vang cả thảo nguyên rồi phục xuống, áp môi vào chân người đã chết, lịm đi hồi lâu. Chúng tôi cất mũ và đứng lặng, mọi người bàng hoàng chưa biết xử lý ra sao. Còn Lôikô thì nhặt con dao Radda vứt đi, ngắm nhìn hồi lâu . Máu Radda còn nóng trên lưỡi dao. Rồi Danilo tiến sát đến Zobar, và cắm con dao vào lưng chàng, đúng phía tim. Người lính già Danilo đúng là cha đẻ của Radda. "Thế đấy !" - Lôikô ngoảnh lại nhìn Danilô nói rất rõ, rồi hồn chàng bay theo Radda. Nghe xong câu chuyện tình bi tráng, thảm khốc, tác giả không ngủ được. Đêm ấy, anh nhìn thấy trong khoảng không bao la của thảo nguyên, bóng đôi tình nhân bay chập chờn. Cả hai uy nghi lượn vòng im lặng trong bóng tối, nàng áp bàn tay vào món tóc đen nhánh lên vết thương trên ngực, và qua mấy ngón tay thanh tú rám nắng của nàng, máu rỉ ra từng giọt nhỏ xuống đất thành những ngôi sao màu đỏ rực lửa . Và theo gót nàng là chàng Lôikô Zôbar dũng cảm, chàng trai tuấn tú không bao giờ với tới được nàng Radda kiêu kì. 1. Truyện ngắn "Makar Tsudra" mở màn cho hàng loạt tác phẩm lãng mạn chủ nghĩa như: "Cô gái và thần chết", "Kha hãn và con trai của y", "Truyền thuyết về Marco", "Bà lão Izecghin", "Bài ca con chim ưng" và "Bài ca chim báo bão".
  12. Vì sao trong những năm cuối thế kỷ XIX, văn học Nga đã đi sâu vào nghệ thuật hiện thực, bỏ lại xu hướng văn học lãng mạn ở đầu thế kỉ mà giờ đây Gorki lại khơi dậy ? Văn học lãng mạn của Gorki có khác gì với văn học lãng mạn truyền thống Nga mà Puskin đã từng làm ngọn cờ đầu ? Trong truyền thống văn học thế giới, xu hướng lãng mạn nảy sinh khi mà thời đại xuất hiện những hi vọng còn lờ mờ và những dự cảm cao cả, tốt đẹp chưa rõ nét, đêm trước`của cách mạng. Yếu tố lãng mạn của Gorki thực chất là một lý tưởng cách mạng vừa ra đời, tuy còn trừu tượng nhưng đặc biệt mạnh mẽ. Đó là những bước đi đầu tiên của giai cấp vô sản đang phát triển, người anh hùng mới đã xuất hiện. Gorki là nhân vật đầu tiên cảm nhận được tính chất vĩ đại của các biến cố đang kéo đến. Sự xúc động của nhân vật đã được bộc lộ trong những nhân vật mới lạ như: Lôikô, Radda, Danko, bà lão Izecghin, Con Chim Ưng và Con Chim Báo Bão. Nhân vật sinh ra trong những chuỗi ngày phi thường là những cuộc hội hè và những ngày đấu tranh đẫm máu, những ngày khủng khiếp và rực rỡ. Đó là một chủ nghĩa lãng mạn cách mạng ở Gorki thời trẻ, xen kẽ với nghệ thuật hiện thực phê phán. Gorki - người thực sự đóng vai trò khép lại nền nghệ thuật hiện thực của Nga và mở ra một nền văn học Nga mới mẻ. Nền văn hóa tư sản Nga cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đang rơi vào những khuynh hướng suy đồi, chủ nghĩa hiện thực phê phán ngày càng sa sút. Nhà văn trẻ Gorki trong khi bảo vệ những truyền thống hiện thực chủ nghĩa trước sự tấn công của các nhân vật suy đồi, nhưng đã nhận ra rằng những truyền thống ấy cần phải được đổi mới, nghĩa là trong những điều kiện lịch sử mới cần viết theo phương pháp mới. Gorki đã viết những truyện ngắn hiện thực mới như: "Vợ chồng Orlov", "Hai mươi sáu anh chàng và một cô gái", "Kẻ vô lại", "Báo thù", "Emilian Pilai", Tsenccasơ" và nhiều truyện ngắn khác. Đó là thế giới nhân vật của những người phiêu dạt, du thủ du thực, hành khất, trộm cắp và gái điếm. Nếu như đại biểu ưu tú cuối cùng của chủ nghĩa hiện thực phê phán Nga A.Sêkhov đã đóng góp loại nhân vật "con người bé nhỏ"û thì Gorki đã phát hiện và miêu tả một loại nhân vật mới: "Con người dưới đáy" (xét về giai tầng xã hội thì loại người này thấp hơn loại người "bé nhỏ " tiểu tư sản sống mòn), họ được coi là ở cái bậc thang chót của xã hội. Kết thúc chủ đề này là vở kịch "Dưới đáy" hoàn chỉnh hơn cả. 2. Truyện ngắn "Tsencase" kể về một gã lưu manh có bản lĩnh tên là Tsencase chuyên "làm ăn" ở các bến tàu biển. Nhân vật thứ hai là Gavrin anh chàng tiểu tư sản nghèo khổ sắp rơi xuống "dưới đáy". Anh chàng này gặp gỡ Tsencase và xin theo gã đi "làm ăn" với hi vọng kiếm một số vốn để xây dựng cơ nghiệp. Sau một chuyến đi ăn trộm hàng trên tàu biển, hai gã đến một chỗ vắng để chia của. Gã nông dân tư hữu Gavơrin không dằn được lòng tham lam sinh ra lòng tàn nhẫn, đã đang tâm đánh ngã Tsencase, định giết anh để chiếm trọn số tiền. Tsencase bị thương nặng nhưng vẫn còn đủ sức trừng trị tên Gavơrin, tên này lạy van xin tha tội. Tsencase nghe hắn giãi bày hoàn cảnh và ước vọng, anh khinh bỉ và ném toàn bộ số tiền của mình cho tên bạn sa đọa ghê tởm. Là một người bị tàn tạ về đời sống vật chất, bị hư hỏng về mặt tinh thần, anh chỉ là một hi sinh của xã hội tư bản. Tsencase không phải là một người anh hùng, mặc dù anh ta xử sự cao thượng, vị tha. Anh không bị lòng tham lam, thói lừa đảo,
  13. bóc lột làm hủy hoại chút nhân phẩm còn sót lại. Đó là điều khác biệt với những kẻ đang "làm chủ cuộc sống" thời ấy. Cuộc sống lưu manh là bất đắc dĩ, bởi vì họ bị hất ra bên lề cuộc sống bình thường. Hình tượng những người tư sản lưu manh của Gorki được trình bày trong toàn bộ tính phức tạp và đầy mâu thuẫn của nó. Đây là những đóng góp đáng kể của Gorki cho nền nghệ thuật hiện thực phê phán Nga, đồng thời là những bước đi đầu tiên của một khuynh hướng văn học mới. Tiếp tục truyền thống của chủ nghĩa hiện thực phê phán Nga, Gorki miêu tả nỗi đau khổ của nhân dân và phơi bày ra ánh sáng bộ mặt đê tiện, xấu xa của chế độ tư bản - phong kiến Nga hoàng, kẻ đã đày ải hàng triệu người vào cảnh bần cùng. Truyện ngắn "Người Bạn Đường Của Tôi" miêu tả những đoàn người đói khát lũ lượt kéo nhau đi tìm việc làm hoặc đi hành khất. 3. Truyện ngắn "Hai mươi sáu anh chàng và một cô gái" kể chuyện 26 người lao động làm thuê vì miếng ăn phải chịu cảnh khổ sai tù túng. Đó là 26 cái máy sống bị nhốt trong hầm nhà ẩm ướt, nơi đây họ nhào bột từ sáng đến tối làm bánh sửa và bánh mì khô. "Ông chủ đã rào sắt bên ngoài cửa sổ để chúng tôi không thể đem những mẩu bánh mì cho những người ăn xin và bạn bè của chúng tôi đang đói vì thất nghiệp". Họ sống ở dưới đáy của căn nhà nhiều tầng của một ông chủ. Cuộc đời cực nhọc và tối tăm cũng không dập tắt được nhiều tia sáng ước mơ. Giữa cảnh đời buồn chán, tù túng ấy, 26 người thợ chỉ còn biết tiếp xúc với một người duy nhất: Cô hầu phòng Tania mười sáu tuổi xinh đẹp hàng ngày đến hầm nhận bánh mì. Tania yêu mến họ, còn họ thì khỏi phải kể, họ đã yêu quí cô, chiều chuộng cô như một thần tượng thiêng liêng, như ngôi sao lóe sáng, trong sạch trong đêm tối. Họ đã đặt vào cô bao nhiêu hi vọng và hồi hộp theo dõi "cuộc quyết đấu" giữa vị Nữ thần bé nhỏ và một gã lính giàu có đê tiện, sở khanh. Nhưng họ đã thất vọng cay đắng. Những người vỡ mộng này đã lăng nhục cô băng tất cả mọi ngôn ngữ. Họ coi cô bé Tania là kẻ đã bóc lột tất cả những gì tốt đẹp nhất còn lại của họ "mặc dù cái tốt đẹp ấy chỉ là những mẩu vụn của những kẻ hành khất". Nhưng rồi chính họ qua cơn nóng giận cũng biết mình xử sự không đúng. Ảo mộng của họ bị tiêu tan chẳng phải do lỗi của Tania. 4. Truyện ngắn “Lão Arkhip và bé Lionka” kể về cái kết thúc bi thảm của hai ông cháu người hành khất: Lão Arkhip và bé Lionka. Tâm hồn non nớt, ước mơ tràn đầy của cậu bé Lionka đôi khi bị tổn thương vì thấy ông nội mắc tội ăn cắp. Cậu bé đã cảm nhận được sự nhục nhã của kiếp người bị xã hội khinh rẻ. Trong một lúc hoang mang đau đớn, cậu bé Lionka đã sỉ nhục ông già. Nó có biết đâu ông lão chỉ lo nó chết đói, và ông còn lo gom góp một số tiền để chết được an tâm. Ông lão có thể chịu đựng được tất cả những lời chửa rủa của thiên hạ, song đến lời chửi rủa của thằng bé thì đã quá sức chịu đựng của ông. Ông đau đớn tê tái, sụp đổ. Khi cơn mưa bão ập tới, thằng bé Lionka giục ông xách bị gậy chạy vào làng tìm chổ trú ẩn. Ông lão thở hổn hển: Tao không vào làng đâu ! Cứ để cho con chó già này, thằng ăn cắp này ngồi đây cho mưa gió vùi dập, cho sấm sét đánh chết đi. Tao không vào đâu, mày cứ vào một mình đi. Đi đi tao không muốn mày ở đây.
  14. Lionka nhích lại gần ông, van lơn: Ông ơi! Xin ông tha lỗi cho cháu. Lúc này giọng ông lão như quát lên, nghe khàn đặc: Tao không đi . Tao không tha thứ . Tao nâng niu mày suốt bảy năm trời. Cái gì cũng vì mày . Tao sống cũng chỉ gì mày. Tao có cần gì đâu? Tao chết đến nơi rồi . Tao chết đây, thế mà gọi tao là quân ăn cắp ! vì sao tao phải ăn cắp ? Vì mày . Cũng vì mày tất cả. Đây mày cầm lấy cầm lấy tao cố góp nhặt để nuôi mày để mày có tiền mà sống. Cho nên tao phải ăn cắp Chúa biết hết cả . Tao ăn cắp . Chúa biết hết cả tao ăn cắp Chúa sẽ trừng phạt tao. Chúa chẳng tha cho con chó già này đâu, cái tội ăn cắp! Và Chúa đã trừng phạt tao rồi Chúa đã dùng bàn tay một đứa bé để giết chết con ! (ngửa mặt lên trời) như thế là đúng, lạy chúa, đáng đời rồi . Chúa công bằng lắm ! Xin chúa hãy vớt lấy hồn con ui chà ! Tiếng ông lão cao dần lên thành tiếng rít the thé, gieo nỗi kinh hoàng vào tâm trạng Lionka. Cơn mưa bão nổi lên càng dữ dội. Sau khi ôm xiết đứa cháu một lần chót, ông rú lên điên dại. Lionka hoảng hốt bỏ chạy ra phía thảo nguyên Sáng hôm sau dân làng nhìn thấy ông già Arkhip hành khất đang hấp hối dưới một gốc cây. Lão đã bị cấm khẩu, chỉ còn giương đôi mắt giàn giụa nước mắt van xin mọi người một điều gì không rõ và cứ nhớn nhác tìm một ai trong đám đông nhưng thất vọng và chẳng được ai trả lời một câu. Đến chiều lão tắt thở. Người ta chôn lão ở ngay gốc cây đó theo cách chôn bố thí cho những kẻ lang thang . Vài hôm sau người ta lại tìm thấy thằng bé Lionka nằm sấp dưới hố bùn, một đàn quạ bay vòng phía trên. Người ta đem chôn bé Lionka bên cạnh ông nó dưới gốc cây, xong, đắp một nắm đất nhỏ và cắm lên đấy một cây thập ác bằng đá đẽo sơ sài. NHẬN XÉT VỀ THI PHÁP CỦA GORKI THẾ KỈ XIX Trong lịch sử văn học thế giới, phần lớn các nhà văn hiện thực thời trẻ đều thể nghiệm bản thân bằng sáng tác lãng mạn, sau đó mới đứng hẳn với phương pháp hiện thực. Có người về cuối đời lại quay về với phương pháp lãng mạn hoặc trượt xuống chủ nghĩa tự nhiên hoặc suy đồi. Gorki trong giai đoạn sáng tác đầu tiên đã cùng lúc đi theo cả hai phương pháp: lãng mạn và hiện thực. Qua một số tác phẩm đã giới thiệu ở trên cho thấy Gorki có những đóng góp mới mẻ trong hai khuynh hướng tư tưởng nghệ thuật chủ yếu của thế kỷ XIX. Khác với mọi người, Gorki không coi phương pháp lãng mạn là sự thể nghiệm. Ông đi tìm một phương pháp lãng mạn mới, nghĩa là tìm nguyên lý của nó. Văn học lãng mạn của Gorki có yếu tố hiện thực, trong hiện thực lại có yếu tố lãng mạn trữ tình mới. Chẳng hạn, trong truyện ngắn lãng mạn “Makar Tsudra” hiện lên bối cảnh rõ rệt là cuộc sống du mục lang thang của những người dân digan cuối thế kỷ XIX. Truyện vừa “Bà lão Izecghin” bên cạnh những câu chuyện phiếm của bà lão về những huyền thoại và những mối tình kỳ lạ của bà, cuộc sống trôi dạt, làm thuê,
  15. lay lắt kiếm sống, ngỡ như gia giảm cho câu chuyện thêm sinh đôïng, kỳ thực là hiện thực cuộc sống của dân chúng Nga thời kỳ đó. Một điều đáng chú ý là: kết cục truyện ngắn lãng mạn của M.Gorki thường có tính chất bi thảm, tức là có tính bi kịch, nhưng là một bi kịch anh hùng ca và cả dạng tương phản của nó. Bà lão Izecghin, một phụ nữ từng trải chuyện đời và chuyện tình, bà cảm thấy hãnh diện mà khuyên bảo nhà văn trẻ “trong cuộc sống luôn có những chỗ cho những chiến công. Ai không tìm thấy cho mình những nơi để lập chiến công thì đó là những tên lười biếng, hèn nhát hoặc là những kẻ không hiểu biết gì về cuộc sống”. Những dòng cảm xúc mãnh liệt như thế cho đến hôm nay hẳn là chưa mờ nhạt, nó vẫn còn hun đúc tâm trí bạn đọc trẻ. Từ đây, chúng ta có cơ sở khẳng định: nền văn học vô sản Nga vẫn chưa phải đã kết thúc, mặc dù thể chế Liên Xô chấm dứt vai trò lịch sử của nó. Nền văn học Xô Viết bắt đầu từ Gorki vẫn là khuynh hướng văn học trẻ và vẫn thuộc về tương lai. Trong truyện “Bà lão Izecghin” có xen vào hai truyền thuyết – huyền thoại về nhân vật Lara và Đankô. Cả hai đều là những cá nhân hùng mạnh, đầy ý chí. Sức mạnh của Lara là sức mạnh của chủ nghĩa cá nhân luôn luôn tìm mọi các để chiến thắng vì khát vọng cá nhân, tách rời nhân dân, chống lại xã hội. Lara là một con người tinh khôn, tàn bạo, khỏe mạnh và độc ác. Nó không biết dòng dõi của nó. Nhưng người ta biết nó là con trai của một cô gái xinh đẹp bị một con đại bàng bắt về làm vợ, nó là giống người - nữa thú (con nhân điểu). Nó bắt chước cha (do dòng máu) bắt ép một cô gái, khi cô cự tuyệt, nó giết chết cô trước mặt mọi người. Nó bị trừng phạt, bằng cách thả tự do, không ai thèm nói chuyện với nó. Nó bị ruồng bỏ, sống cô đơn khủng khiếp. Thậm chí khi nó xông vào mọi người để mong họ đánh chết, mọi người đứng yên không nhúc nhích, hoặc dạt ra tránh nó. Nó phát điên lên, tìm mọi cách để tự sát nhưng không được. Nó tiếp tục lang thang, không có cuộc sống và không có cả cái chết. Còn Đankô (*) là một chàng trai ưu tú của bộ lạc. Chàng nhận nhiệm vụ dẫn đường cho mọi người xuyên qua rừng rậm bịt lối để tiến ra thảo nguyên mênh mông bao la. Rừng hoang mù mịt trong bão táp gầm thét. Đoàn người mệt lả, nản chí trong đêm tối hãi hùng. Họ quay ra kết tội chàng Đankô với lời lẽ dữ dội và định giết chàng. Mặc cho Đankô giải thích, họ vẫn giận dữ như một bầy thú đói cùng đường. Trong tim anh bùng lên nổi phẫn uất sục sôi, nhưng rồi lòng thương hại mọi người lại dập tắt ngọn lửa phẫn nộ ấy. Anh yêu họ và tìm cách cứu họ . Trái tim anh cháy rực lên át cả nỗi buồn rầu ảm đạm. Anh hét to: “Ta sẽ làm gì cho mọi người đây?”. Bỗng nhiên anh đưa hai tay xé toang lồng ngực, dứt cháy tim ra, giơ cao lên đầu. Trái tim sáng rực như mặt trời, cả khu rừng im lặng sáng lên dưới ngọ đuốc của lòng thương yêu vĩ đại. Bóng tối tan tác, run rẩy, nhào xuống . Đoàn người sửng sốt đứng trơ. Đankô hét lớn ‘đi thôi”, rồi vượt lên dẫn đầu, tay giơ cao trái tim cháy rực, soi đường cho mọi người. Họ chạy xông lên theo anh, sung sướng, mê cuồng. Cảnh tượng kỳ diệu của trái tim lôi cuốn họ . Giông bão và rừng rậm bị bỏ lại phía sau. Trước mặt là thảo nguyên bừng sáng vì những giọt mưa chói lọi. Chàng Đankô kiêu hãnh đưa mắt nhìn thảo nguyên bao la trước mặt, sung sướng nhìn vùng đất tự do và bật lên tiếng cười tự hào. Rồi anh gục xuống và chết.
  16. Hai truyện ngắn dưới đây cũng là hai bài ca anh hùng, hai bản nhạc bi tráng cất lên chấm dứt giai đoạn lãng mạn cách mạng đầu tiên của nhà văn trẻ M.Gorki: “Bài ca con chim ưng” và “Bài ca chim báo bão”. Bài ca thứ nhất kể về hai nhân vật: Một con chim ưng từ trên trời cao bay xuống khe núi ven biển, ngực dập át, máu nhuốm đỏ bộ lông. Nó tức giận vùng vẫy. Một con rắn nước bò lại gần, hỏi thăm sự thể: - Sao, mi sắp chết đó ư ? - Phải ta đang hấp hối. Chim ưng đáp sau một tiếng thở dài. Ta đã sống thật huy hoàng! . Ta đã biết thế nào là hạnh phúc! . ta đã chiến đấu dũng cảm! Ta đã trông thấy trời xanh. Không bao giờ mày được thấy bầu trời gần kề như vậy! . thật tội nghiệp cho mày . - Thì có sao ? Trời ư ? Chỉ là một chỗ trống Ta bay làm sao được? Ơû đây ta sướng lắm, vừa ấm áp lại vừa ẩm ướt . Thu hết tàn lực, chim ưng thét lên, tủi buồn và đau đớn. - Ôi giá như được bay vút lên trời cao một lần nữa! Lúc bấy giờ, ta sẽ áp chặt kẻ thù vào những vết thương trên ngực ta, sẽ bắt nó phải chết sặc trong máu của ta! ôi hạnh phúc của chiến đấu ! Rắn nghĩ: chắc trời cao cũng thích sống lăm nên con chim này mới rên rỉ như vậy. Nó bảo chim trời tự do “thế thì mi hãy cố sức lần lên bờ vực rồi lao xuống. Có lẽ đôi cánh sẽ nâng mi, mi sẽ được sống thêm ít nữa trong môi trường quen thuộc của mi”. chim ưng bò lên miệng vực, dang cánh, hít đầy lồng ngực, mắt sáng quắc lên rồi đâm bổ xuống ( ) dòng thác đón lấy chim, cuốn sạch máu nó, phủ bọt lên thân nó rồi vùn vụt đưa nó ra biển’. Nằm trong khe núi, rắn suy nghĩ hồi lâu về cái chết của chim, về mối tình tha thiết của chim với trời cao. Rồi nó tò mò muốn bay thử xem trên trời cao có cái gì thú vị đến thế. Nó co người thành vòng, tung mình lên không rơi ngay xuống đống đá nhưng không chết mà chỉ cười phá lên. Nó rút ra kết luận rằng trên đời này không có cái gì " thật buồn cười cho lũ chim ưng ngu dại, điên cuồng không biết yêu mặt đất đầy đủ thức ăn và chỗ dựa. Ta đã biết sự thật rồi". Nó rít lên. Trong tiếng sóng gầm, đá rung lên, trời rung lên trong tiếng hát dữ dội ca ngợi con chim kiêu hãnh: “Chúng ta hát vang lên: vinh quang thay sự điên cuồng của những người dũng cảm! Đó là trí anh minh của cuộc đời! Ôi chim ưng dũng cảm! Ngươi đã đổ máu trong cuộc chiến đấu với kẻ thù. Nhưng rồi đây những giọt máu nóng hổi của ngươi như những tia lửa sẽ lóe lên trong bóng đêm của cuộc sống và nhiều trái ti, quả cảm sẽ cháy bùng lên niềm khao khát điên cuồng vươn tới tự do . Ta ca ngợi sự điên cuồng của những người dũng cảm!”. Sang đầu thế kỷ XX, nước Nga bắt đầu một cao trào cách mạng mới. Sự kiện lịch sử này in đậm vào sáng tác của Gorki, đặc biệt truyện ngắn “Bài ca chim báo bão” (1901).Lúc này cách mạng đang tiến lại gần, bài ca thứ hai cuả Gorki là lời kêu gọi hào hùng thúc giục con người hướng vào cuộc chiến đấu chống lại chính quyền chuyên chế và chủ nghĩa tư bản Nga. Đây là bản tráng ca ngắn gọn, là tiếng kèn giục giã mọi người xông vào cuộc chiến đấu.
  17. “Trên bình nguyên bạc đầu biển cả, gió đang dồn mây đen lại. Khoảng giữa mây đen và biển rộng, chim báo bão đang kiêu hãnh bay lượn tương tự một ánh chớp đen ( ). Trong tiếng kêu có niềm khao khát bão táp ( ), nó cất tiếng kêu và bay lượn tựa hồ một ánh chớp đen ( ). Nó lao đi như một vị hung thần, vị hung thần đen kiêu hãnh của bão táp, và cất tiếng cười và nức nở khóc. - Bão! Trận bão sắp nổi lên rồi! Ấy là con chim báo bão ngang tàng đang kiêu hãnh bay lượn giữa các ánh chớp trên mặt biển réo sôi và giận dữ, ấy là tiếng reo hò của sứ giả chiến thắng: - Dữ dội hơn nữa, bão táp hãy nổi lên! “Bài ca chim báo bão” chỉ dài một trang giấy. Ngay sau khi ra đời truyện ngắn đã được người ta chép tay hoặc in lại bằng mọi thứ máy in tới hàng triệu bản, phổ biến rộng rãi khắp nơi, có tác dụng cổ vũ khí thế mãnh liệt khí thế cách mạng của nước Nga. Trong bài báo mang tên”trước cơn bão táp” của Lênin, người đã trích dẫn lời kêu gọi của con chim báo bão “Dữ dội hơn nữa, bão táp hãy nổi lên!”. Trong những tác phẩm có tính chất tự thuật của Gorki có 2 truyện ngắn với chủ đề mới nghe tưởng chừng như lạc lõng ra ngoài cảm hứng lãng mạn cách mạng: Chủ đề học tập và sách vở. Truyện ngắn “Sách” (1915) và truyện ngắn “ Tôi đã học tập như thế nào” (1918), nhà văn kể lại quãng đời niên thiếu nghèo khổ ham học, ham đọc sách. Ông chứng minh rằng sách vở có ý nghĩa lớn lao đối với việc hình thành tính cách của mình. Đối với ông, sách vở là người bạn tri kỷ, là người thân trong cảnh cô đơn. Trong cuộc sống địa ngục chán chường đơn điệu, sách vở là người bạn đường tuyệt vời đưa ông đến một thế giới “nơi mà mọi cái đều đẹp hơn, hợp lý hơn, nhân đạo hơn”, nhưng sách vở đã không làm ông trốn tránh cuộc đời thực, xa lánh mọi người, ngược lại, sách vở đã gợi cho ông lòng tin tưởng ở mọi người, kích thích thái độ tích cực đối với cuộc sống, khát khao cải tạo lại hiện thực. Gorki tha thiết kêu gọi mọi người hãy “yêu sách vở, nó là nguồn hiểu biết, chỉ có hiểu biết mới có con đường sống, mới có thể khiến chúng ta trở thành những con người cương nghị, chính trực, khôn ngoan, có khả năng thành thật yêu mến con người, tôn trọng lao động của con người và thành tâm khâm phục thành quả tuyệt vời của lao động vĩ đại liên tục do con người làm nên”. Vậy là hai truyện ngắn kể trên thể hiện một chủ đề mới mẻ – giai cấp vô sản phải học tập, nâng mình lên ngang tầm trí tuệ nhân loại thì mới có thể đảm trách sứ mệnh lịch sử của dân tộc và nhân loại. Trước khi xác định thi pháp truyện M.Gorki, chúng ta hãy khảo sát một số truyện dài tiêu biểu của ông đầu thế kỉ XX - được coi là giai đoạn hai nhằm xây dựng nền văn học vô sản Nga. SÁNG TÁC CỦA GORKI ĐẦU THẾ KỈ XX Bộ ba tự truyện Thời thơ ấu (1913), Kiếm sống (1915), Những trường đại học của tôi (1923) và tiểu thuyết Người mẹ. Nhân vật chính Aliosa tự thể hiện mình trong cuộc đời, lớn lên trong sự tác động hai chiều của cái thiện và cái ác, lọt vào một thế giới rộng lớn, bí ẩn .
  18. Hình ảnh bà ngoại Akulina có ảnh hưởng sâu sắc ban đầu trong tâm hồn cậu bé Aliosa mồ côi, trái lại ông ngoại lại là ấn tượng khủng khiếp hằn sâu trong tâm trí cậu . Sau đến các tủ sách của các bác đầu bếp trên chiếc tàu thủy chạy dọc sông Volga đã ươm mầm hoài bão trở thành nhà văn trong tâm hồn cậu bé. Sau cùng, sự tiếp xúc với những trí thức cách mạng đã giúp chàng thanh niên Alexei Peskov trở thành nhà văn M. Gorki. Điều đáng chú ý là: trong các tác phẩm tự truyện, các sự kiện được mô tả như là môi trường nuôi dưỡng phát triển tính cách nhân vật chứ không phải giản đơn như kiểu hồi ký kể lại những gì đã qua. Trong tác phẩm, nhà văn không có ý định nói tốt, tự đề cao cho mình. Cậu bé Aliosa cứ sống tự nhiên, tự suy nghĩ, nhận thức, hành động, mắc sai lầm, rồi tự tìm ra cách ứng xử thích hợp. Trong cái thế giới xáo trộn đủ mọi điều, cậu bé lớn dần lên và trưởng thành sau khi đã nếm trải nhiều nỗi đắng cay thất bại. Bộ ba tự truyện (khác hẳn với tự thuật) là một trong những tác phẩm hay nhất của M.Gorki, là sự đóng góp mới cho sự phát triển của thể loại văn học tự truyện. Một nhà văn nước ngoài sau khi đọc xong bộ tự truyện này đã phát biểu “Bộ ba tự truyện của M.Gorki là món quà quí báu mà văn học Xô viết đã tặng cho nhân loại”. TIỂU THUYẾT “NGƯỜI MẸ” không phải là tác phẩm hay nhất của M.Gorki, nhưng là tác phẩm có vị trí đặc biệt trong văn học Nga và thế giới hiện đại. Nó là cái mốc chính thức khởi đầu cho một khuynh hướng văn học vô sản được gọi là “chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa”. Tóm lược nội dung tiểu thuyết Người Mẹ: Xóm thợ ngoại ô nghèo tăm tối của những người thợ. Gia đình bác thợ Mikhail Vlaxov có vợ là bà Nilovna và con trai đã lớn là Pavel Vlaxov. Bác là thợ kỳ cựu, giỏi nghề, vẫn nghèo khổ và nghiện rượu, cục cằn thô lỗ. Mọi sự uất hận đối với cuộc đời bác trút hết lên đầu vợ con. Lao động kiệt sức và nghiện rượu đã quật ngã bác thợ lúc ngoài 40 tuổi. Pavel tham gia tổ chức công nhân hoạt động cách mạng. Bà Nilovna lo lắng sợ hãi nhưng bà cũng mừng vì thấy con chăm đọc sách, ít đi chơi, ăn nói tử tế với bà. Công nhân đấu tranh phản đối chủ nhà máy giảm lương của thợ. Pavel và những người tình nghi đã bị bắt. Cảnh sát khám nhà, bà mẹ lo sợ. Bà nhận đưa truyền đơn vào nhà máy. Một anh công nhân đến ở với bà, dạy bà học chữ . Ngày quốc tế lao động nổ ra biểu tình lớn, Pavel dẫn đầu, bà mẹ cũng tham gia. Bị đàn áp, Pavel bị bắt giam. Bà mẹ thoát ly, tham gia hoạt động. Tòa án xử những người cầm đầu biểu tình, trước đó bạn bè tổ chức vượt ngục nhưng anh không tham gia. Trước tòa, Pavel phát biểu một bản cáo trạng lên án chế độ tư bản và giai cấp thống trị. Người ta in lại bài nói của anh thành truyền đơn. Bà mẹ được giao nhiệm vụ mang truyền đơn đi rải. Bị cảnh sát bắt ở ga xe lửa, bà mẹ mở vali và tung ra toàn bộ số truyền đơn trước công chúng và thét lên giận dữ. Tác phẩm kết thúc ở đó. Tiểu thuyết “Người Mẹ” mô tả quá trình giác ngộ cách mạng của hai nhân vật: anh công nhân Pavel và bà mẹ Nolovna cùng với phong trào cách mạng đang lớn mạnh. Hình tượng nhân vật người mẹ Nilovna là trung tâm của tác phẩm, đi từ sợ hãi đến khắc phục nỗi sợ hãi, lấy lại niềm tin vào chính mình và giai cấp vô sản. Bà trở thành người mẹ tinh thần của những người cách mạng.
  19. Sáng tác của Gorki bao gồm truyện ngắn, kịch và tiểu thuyết. Dưới đây chúng tôi rút ra một số đặc điểm thi pháp của truyện Gorki (gồm truyện ngắn và tiểu thuyết). Đọc truyện của Gorki, dõi theo cái nhìn, tầm nhìn của nhà văn chúng ta sẽ thấy rằng, bên cạnh nội dung tư tưởng thẩm mỹ mới mẻ còn có sự đổi mới quan trọng về nghệ thuật viết truyện, có thể khái quát thành bốn đặc điểm chủ yếu: 1. Tầm vóc nhân vật Trước hết đó là một cảm quan mới vừa hiện thực vừa lãng mạn trong cách nhìn nhận, khám phá và mô tả cuộc sống. Xuất phát từ đó mà sự khái quát nghệ thuật trong truyện của ông đạt tới mức đọ chính xác, sâu sắc, chân thực hơn. Con người và cuộc sống hiện lên trong một tầm vóc cao lớn hơn dưới những màu sắc mới mẻ, tươi sáng hơn. Không kể trong truyện ngắn lãng mạn (thời kỳ đầu) và những truyện hiện thực xã hội chủ nghĩa (thời kì sau cùng) mà ngay trong những truyện ngắn hiện thực đầu tay của M.Gorki đã thấy các nhân vật ở đó không hoàn toàn giống như trong văn học hiện thực phê phán: các nhân vật của ông không cảm thấy mình bé nhỏ, chán nản, vô vọng trước cuộc sống chật hẹp, tối tăm, tù túng, trái lại họ luôn cảm thấy mình có nơi để đến, có một cái gì đó không cúi rạp mình, có một chiều cao để không thấy mình thấp bé, hèn hạ . Thử so sánh với truyện ngắn Sekhov - đại biểu ưu tú cuối cùng của văn học hiện thực phê phán Nga, người có công lao khám phá và miêu tả loại nhân vật “con người bé nhỏ”. Khó có thể tìm thấy trong truyện ngắn Sekhov chẳng hạn cậu bé Lionka (Ông lão Arkhiv và bé Lionka), một gã Tsencase (truyện cùng tên), một Konovalov hay một Emelien Pilai (tác phẩm cùng tên) với một khuôn mặt tinh thần mới mẽ, có sức lay động tâm trí độc giả đến như vậy. 2. Cảm hứng chủ đạo Trong truyện của M. Gorki, các sự việc, sự kiện của đời sống hàng ngày không chỉ được soi sáng, thể hiện từ góc độ đạo đức sinh hoạt (nhân sinh quan thuần túy) mà còn chủ yếu từ góc độ chính trị - xã hội - triết học. Đọc truyện của ông ta sẽ còn nắm bắt được cái mạch chính của cuộc sống đang tuôn chảy về đâu. Điều đó lôi cuốn bạn đọc không thể thờ ơ với những biến cố và không thể dễ dàng “thỏa thuận” với nó. Một con rắn nước (Bài ca con chim ưng) vốn đã thỏa mãn với cuộc sống “bò trườn” của mình thế mà ý nghĩ của hắn bổng rối tung lên trước cái chết của con chim ưng rất khó hiểu đối với hắn. Một anh chàng Orlov (Vợ chồng Orlov) cùng quẫn, tăm tối vẫn không chịu chết đần chết mòn trong đời sống vô vị, trong khi cuộc sống cộng đồng đang cần đến biết bao nhiêu việc làm có ích của mọi người và thế là anh ta hành động . Anh đi cứu chữa người mắc bệnh dịch dù biết sẽ bị lây bệnh mà chết. 3. Qui mô thế giới nghệ thuật: Trong truyện Gorki, thế giới nghệ thuật được thể hiện và sáng tạo trên qui mô ba chiều: Chiều cao tư tưởng thẩm mỹ (sự vươn tới trí tuệ lịch sử và lý tưởng nhân văn thẩm mỹ thời đại). Chiều sâu tâm lý của tính cách nhân vật.0 Và chiều rộng sử thi của “Biển cả nhân dân” (sự thức tỉnh, chuyển động và vươn mình của quần chúng đông đảo).
  20. Tuy rằng điều này trước đây đã bắt đầu xuất hiện trong tiểu thuyết của L.Tolstoi, nhưng cái mới của Gorki là ở chỗ miêu tả được mối liên hệ biện chứng, trực tiếp giữa ba chiều ấy với nhau, trong đó chiều cao tư tưởng - thẩm mỹ giữ vai trò chủ đạo. Còn ở tác phẩm của Tolstoi mối liên hệ biện chứng này con ở dạng cảm tính mơ hồ, chưa phải là những quan điểm chính trị - xã hội - triết học. Nói cách khác, sự khác biệt giữa hai ông là khác biệt giữa tự phát và tự giác. 4. Hai tuyến nhân vật và ngôn ngữ đặc thù: Các nhân vật dàn trải theo hai tuyến đối lập nhau trên cơ sở lợi ích và ý thức hệ giai cấp.ngôn ngữ của nhân vật không chỉ là phương tiện giao tiếp tự bộc lộ tính cách mà còn bộc lộ bản chất xã hội - giai cấp của họ nữa. Ngôn ngữ của nhân vật có tính chất tổng kết giàu tính triết lý dân gian pha lẫn tính tri thức. Có thể nhận định, quần chúng nhân dân có có tiếng nói thật sự của mình. Nhà nghệ sĩ M. Gorki đã đóng góp vào nền văn học Nga và thế giới nhiều thành tựu xuất sắc. Dễ thấy nhất là nhà văn đã xây dựng hàng loạt các nhân vật “Con người dưới đáy”. Chúng ta hãy so sánh với nền văn học Nga thế kỷ XIX để thấy sự chuyển tiếp: + Thi hào Puskin và sau đó là Lermentov, đã xây dựng các nhân vật điển hình kiểu “con người thừa” xuất thân từ tầng lớp quí tộc như Evgeni Onegin, Lenski (tiểu thuyết thơ Evgeni Onegin), và Grinhov (người con gái viên đại úy). + Nhà văn L.Tolstoi tiếp tục xây dựng các mẫu "con người thừa" khác như: Andrey Bonconski, Pierre Bezukhov (tiểu thuyết sử thi Chiến tranh và hòa bình), Anna Karelina, Vronski và Levin (tiểu thuyết Anna Karelina), Nekhliudov (tiểu thuyết phục sinh), Tolstoi cũng đã lần đầu xây dựng hình tượng người nông dân nga Karataev và lấp ló con người bé nhỏ, con người dưới đáy là cô Matslova (phục sinh). + Nhà văn Anton Sekhov với một số vở kịch “vườn anh đào”, “chim hải âu” tiếp tục hoàn chỉnh tập hợp chân dung những con người thừa có xu hướng tiến bộ. Đồng thời Sekhov đã sáng tạo hàng loại nhân vật kiểu con người bé nhỏ, đạt đến độ điển hình cao nhất của văn học Nga (có thể liên hệ so sánh với những kiểu nhân vật “con người sống mòn”, “con người tha hóa”, và “con người bé nhỏ” của Nam Cao và Nguyên Hồng. Khi bước vào văn học, nghệ sĩ M.Gorki đã mang theo những bạn đồng hành ngoài đời của mình - xây dựng họ thành kiểu nhân vật “con người dưới đáy” với những tính cách đa dạng, nổi bật hơn bao giờ hết. Có thể kể như lão Arkhiv và bé Lionka, ông già du mục Makar Tsudra, bào lão Izecghin, gã lưu manh (hảo hán) Tsencasơ, cô gái điếm kế cả những nhân vật lãng mạn - huyền thoại như Đankô, Loiko Zoiba, thiếu nữ du mục Radda . Sau giai đoạn lãng mạn là hiện thực chủ nghĩa, M.Gorki tiếp tục sáng tạo ra những CON NGƯỜI MỚI chưa từng có trong lịch sử như hai mẹ con Pavel Vlasov, bác thợ Rưbin, cô giáo Lutmila đã giác ngộ cách mạng vô sản bằng tất cả tâm huyết và cuộc đời mình. Bên trong nhà nghệ sĩ M.Gorki, còn có nhà phê bình, nhà nghiên cứu, lý luận sắc xảo Gorki với nhiều cố gắng đóng góp nền tảng cho một phương pháp
  21. sáng tác mới “PHƯƠNG PHÁP SÁNG TÁC HIỆN THỰC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ở giai đoạn thể nghiệm”. ALEXEI TOLSTOI (1834-1945) Tên tuổi sự nghiệp của A.Tolstoi chiếm một vị trí cao trong nền văn học Xô viết, được coi như một nhà văn kinh điển trong nền văn học này. Điều đáng chú ý trước tiên, ông vốn là một nhà văn quí tộc trước cách mạng tháng Mười. Ông đã trải qua “con đường đau khổ” về mặt tinh thần để trở thành một nhà văn Xô viết nổi tiếng, được nhân dân yêu mến, kính trọng. Ngoài ra ông còn là một viện sĩ viện hàn lâm khoa học Liên Xô, nhà hoạt động văn hóa xã hội nổi tiếng. GIỚI THIỆU TIỂU THUYẾT “CON ĐƯỜNG ĐAU KHỔ” Đây là một bộ tiểu thuyết sử thi lớn, một kiệt tác của nền văn học Xô viết. Bộ sách được viết trong hai mươi năm mới hoàn thành (1921-1941). Tập I: HAI CHỊ EM Câu chuyện bắt đầu năm 1914, hai chị em Katya và Đasa là con gái bác sĩ Bulavin ở thành phố Xamara. Katia tốt nghiệp đại học và lấy chồng ở Peterburg là luật sư Smokovnokov giàu có, nhưng cuộc sống tinh thần của hai người không êm thấm, do khác nhau về lý tưởng xã hội. Đasa đang học đại học và ở với anh chị ở thành phố này. Gia đình Katia thường xuyên có nhiều bạn bè trí thức lui tới trao đổi về nghệ thuật và những đề tài chính trị xã hội khác. Một hôm gia đình tiếp một vị khách tên là Rotsin - sĩ quan Nga hoàng, từ mặt trận về ghé chơi. Katia tỏ ra rất có thiện cảm với anh ta, còn Đasa, trong một buổi dạ hội hóa trang đã gặp và làm quen chàng kỹ sư Teleghin. Buổi đầu gặp gỡ, nàng đã nghĩ “Có lẽ ở Peterburg, chỉ còn chàng trai này là chưa mất trí ". Hai người trở nên thân thiết và yêu nhau. Có sự bất hòa giữa hai vợ chồng Katia, họ quyết định ly thân tạm thời, lúc bấy giờ là cuối năm 1916 đầu năm 1917, luật sư Smokovnikov được lệnh nhập ngũ. Katia tiễn chồng đi. Sau cuộc Cách Mạng Tháng Hai 1917, Smokovnikov được cử làm phái viên của chính phủ lâm thời đi khuyến dụ binh lính ngoài mặt trận ủng hộ chính phủ lâm thời. Trong một lần diễn thuyết, ông ta bị sĩ quan phản đối và đánh chết. Ơû nhà, Katia nghe tin chồng mất, nàng ân hận đau buồn toan uống thuốc tự tử. Tình cờ sĩ quan Rotsin từ mặt trận ghé về, cứu kịp. Hai người sau đó trở thành vợ chồng. Còn Đasa và Teleghin cũng đi tới hôn nhân. Tập một kết thúc với cảnh hoàng hôn rơi xuống kinh đô cũ Peterburg sau Cách Mạng Tháng Mười 1917. Katia và Rotsin đi bên nhau, cùng nhìn lên cung điện Smonưi - đại bản doanh của cách mạng. Rostin nói với Katia:” Năm tháng sẽ trôi qua, chiến tranh sẽ kết thúc, cuộc cách mạng sẽ thôi gầm thét và chỉ còn lại bất diệt tấm lòng dịu dàng, trìu mến và đầy tình thương của em”. TẬP II: NĂM MƯỜI TÁM Bắt đầu cuộc nội chiến. Vợ chồng Đasa đã có một đứa con. Teleghin gia nhập Hồng Quân, Đasa một mình ở lại thành phố Peterburgh vắng vẻ tiêu điều. Con chết, nàng định tìm đường về quê với bố ở thành phố Xamara phương Nam, giữa lúc đó, nàng gặp một người quen biết của gia đình. Anh ta thuyết
  22. phục Đasa phục vụ cho một tổ chức phản động. Còn Rotsin nghe theo lời kêu gọi của bọn phản động Nga hoàng cũ, đã đi theo đội quân phản cách mạng để “cứu rỗi nước Nga khỏi bàn tay bọn Bonsevich” bất chấp lời can ngăn của vợ. Katia trên đường về với bố, bị bọn tay chân của trùm thổ phỉ Macno bắt giữ. Còn Đasa trong một chuyến đi công tác cho bọn phản động, gặp một người quen cũ của chồng khuyên bảo nên rời bỏ bọn này và tìm đường trở về với bố. Trong một lần đi công tác chuẩn bị chiến trường, Teleghin ghé thăm bố vợ và hỏi thăm tin tức Đasa. Bố vợ anh, bác sĩ Bulavin, bây giờ là một nhân vật cao cấp trong chính phủ phản động đã tìm cách báo cho cảnh binh đến bắt con rể. Đasa tình cờ nghe tiếng động, vội chạy ra, bất ngờ gặp Teleghin. Nàng đã nhanh trí cứu chồng thoát nạn. Sau đó nàng đoạn tuyệt với bố và bỏ nhà đi tìm chồng. Trong khi đó, Rotsi đi với bọn bạch vệ, bị chúng nghi ngờ và trong một lần ra trận bị một kẻ bắn sau lưng, bị thương nhưng thoát chết. Sau khi ra viện, chàng hối hận và quyết định đi tìm vợ để xin nàng tha thứ. TẬP III - BUỔI SÁNG ẢM ĐẠM Đasa đang đi lang thang trong đồng cỏ thì bị đội dân quân tuần tra bắt giữ và bị nghi ngờ là gián điệp. Khi gặp viên chỉ huy, biết ông ta là bạn của chồng mình, nàng được ở lại làm y tá cho bệnh viện dã chiến Nàng gặp một người thương binh đôi mắt bị băng kín, nhận ra chồng mình, nàng săn sóc chu đáo, nhưng chưa để cho chàng biết vì sợ ảnh hưởng vết thương. Khi tháo băng, Teleghin nhận ra vợ mình. Từ đó họ sống đoàn tụ, hạnh phúc ở trạm quân y. Còn Rotsin đánh liều đi tìm vợ ở sào huyệt của bọn thổ phỉ Macnô. Tên thổ phỉ lợi dụng chàng để đi thương lượng phối hợp với đơn vị hồng quân để cùng đánh chiếm một cứ điểm của bọn bạch vệ đang uy hiếp cả hai phía. Sau trận đánh thắng lợi, Rotsin tự nguyện ở lại trong đội ngũ hồng quân. Còn Katia bị tay chân của Macnô bắt giữ đem về quê y với ý định cưới nàng làm vợ. Nhờ người chị dâu của tên phỉ và bà con trong làng giúp đỡ, che chở, nàng đã thoát khỏi tay tên thổ phỉ. Rotsin trong một trận tiễu phỉ đã giết chết tên Macno. Trên đường đi tìm vợ, chàng đã đến một xóm ngoại ô và tình cờ gặp được Katia lúc ấy đang làm giáo viên dạy con em các chiến sĩ hồng quân và dân lao động. Tác phẩm kết thúc với cảnh nhà hát lớn ở Moskva đang diễn ra Hội Nghị Toàn Nga thông qua kế hoạch “điện khí hóa nước Nga”. Cả bốn nhân vật chính đều có mặt tại hội nghị. Câu nói của Rotsin với Katia chấm dứt bộ tiểu thuyết sử thi này: “Em có biết không, mọi cố gắng của chúng ta, máu đã đổ ra vì tất cả những đau khổ thầm lặng không ai biết đến của chúng ta có ý nghĩa lớn lao biết chừng nào! Thế giới sẽ được cải tạo lại vì những mục đích tốt lành”. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM Tựa đề của tiểu thuyết đã nói lên chủ đề của nó: cuộc hành trình gian khổ của những người trí thức giàu lòng yêu nước đi tìm chân lý cuộc sống, đến với cách mạng. “Con đường đau khổ” mà bốn nhân vật chính đã trải qua không giống nhau, nhưng có một điểm chung. Đó là, rốt cuộc họ đều tìm và trở về cội nguồn của mình: nhân dân. Nhân vật Rotsin Nhân vật này trăn trở về sự mất còn của tổ quốc. Là một thanh niên quí tộc, được giáo dục từ nhỏ về lòng yêu nước và nghĩa vụ theo quan điểm truyền
  23. thống mà tượng trưng là nhà nước Đại Nga của Nga Hoàng. Khi cách mạng bùng nổ, chàng nói với Teleghin “Chúng ta không còn tổ quốc nữa, mà chỉ còn nơi xưa kia tổ quốc từng tồn tại”. Chàng cảm thấy tâm hồn hụt hẫng, nghĩ rằng điều thiêng liêng nhất đã mất. Chàng chỉ còn trong cậy vào tình yêu làm chỗ dựa cho qua ngày, để chờ một thời cơ Bão táp cách mạng chưa lắng dịu thì ngọn lửa nội chiến lại bùng lên. Cái ý thức nghĩa vụ với tổ quốc Đại Nga lại trỗi dậy và lôi cuốn Rotsin ra trận. Chàng nhận ra những đồng đội trong hàng ngũ bạch vệ chỉ là những kẻ man rợ. Hối hận, lại suýt chết vì viên đạn của đồng đội, Rotsin dứt khoát đoạn tuyệt với chúng. Trên đường đi công tác cho bọn phỉ Macnô, chàng gặp gỡ một lính thủy là phái viên của hồng quân. Anh lính thủy đã giúp chàng nhận ra chân lý, anh chỉ vào những người dân đi trên xe lửa mà nói “Tổ quốc chính là họ”. Sau đó Rotsin gia nhập đội ngũ hồng quân, nhờ đó gặp lại Katia vợ chàng lập lại cuộc sống hạnh phúc. Nhân vật Teleghin “Con đường đau khổ” của Teleghin diễn ra không gay go phức tạp như Rotsin và nhiều người bạn khác. Cái đau khổ của chàng sinh ra do xung đột giữa nghĩa vụ và tình yêu, chung và riêng chứ không phải do sự ngộ nhận về lý tưởng. Khi cách mạng bùng nổ, chàng phải đấu tranh quyết liệt với bản thân để đủ can đảm từ biệt người vợ trẻ đẹp ở lại trơ trọi giữa thành phố Peterburg đói rét, lộn xộn. Chàng tin vào cách mạng và tin ở lòng chung thủy, nhân hậu của Đasa. Đối với Teleghin, tổ quốc và cách mạng chỉ là một. Trong quá trình chiến đấu, chàng hiểu thêm: tổ quốc và cách mạng chính là nhân dân. Cùng chiến đấu, chàng chia sẻ gian lao ngọt bùi với những người lính bình thường, chàng càng hiểu biết họ và được họ tin cậy. Cuộc gặp lại Đasa ở chiến trường càng làm cho niềm vui hạnh phúc của họ có đầy đủ ý nghĩa: niềm vui nhỏ của riêng hai người đã hòa vào niềm vui lớn của nhân dân Nga. Nhân vật Katya “Con đường đau khổ” đến với cách mạng của người phụ nữ quí phái xinh đẹp vốn được xã hội thượng lưu chìu chuộng này không diễn ra trong sự trăn trở nhận thức mà bị cuốn vào trực tiếp trong cơn lốc nội chiến. Nàng chỉ nhận ra sự tất yếu bằng cảm quan nhạy bén với cái thiện, cái ác, cái tốt đẹp và cái xấu xa. Nàng chỉ biết can ngăn chồng khỏi tham gia vào lực lượng phản động. Khi bị lâm vào tình huống bất trắc, nàng vẫn tìm được cách ứng xử đúng với mọi người và thoát khỏi nguy hiểm. Katia dạy học và làm việc tình cờ, nhưng cũng hợp với logic phát triển của tình hình. Việc đó giúp nàng gần gũi dân chúng, hiểu ra nổi đau khổ lớn lao hơn của số phận nhân dân, trước mắt là của bao nhiêu trẻ em, con cái những gia đình lao động nghèo. Trước đây, Katia chẳng hiểu nhiều về đời sống nhân dân. Từ đây, nàng hiểu cách mạng và ý nghĩa, mục tiêu tranh đấu của cách mạng. Nhân vật Đasa Là một nữ trí thức trẻ, thông minh, trung thực và có nghị lực, Đasa khác chị mình ở chỗ nàng không muốn hòa nhập vào xã hội thượng lưu và không muốn bị phụ thuộc vào ai. Nàng tin vào khả năng của mình, muốn tự định đoạt tương lai. Cô chị Katia thường tạo điều kiện, giới thiệu, dẫn dắt em mình đến với những vị khách quí, sang trọng, giàu có để chuẩn bị tương lai cho em. Nhưng
  24. Đasa đều tìm cách khéo léo chối từ. Nàng lấy cớ bận học tập để tránh các buổi dạ hội. Đasa có cảm quan nhạy bén, sớm nhận thấy cuộc sống của chị mình và luật sư Smokovnikov là thiếu hạnh phúc, cảm thấy sự đam mê của Katia với nhà thơ Betsonov là viển vông, những vị khách quan trọng có vẻ gì đó không chân thực. Lần đầu tiên gặp Teleghin trong dạ hội hóa trang, Đasa cảm thấy ngay rằng” đây là con người duy nhất ở Peteburgh còn chưa mất trí”. Nàng tin vào người yêu, tin vào con đường cách mạng mà Teleghin đã chọn. Sự lựa chọn của Teleghin vì thế không trải qua trăn trở gay go. Lúc tiễn Teleghin ra trận, nàng động viên chồng mặc dù biết những khó khăn bất hạnh nếu mình ở lại trơ trọi chốn kinh thành này Cuộc tái ngộ của hai người ở chiến trường là một hình ảnh đẹp, mang tính chất sử thi. Niềm hạnh phúc của họ gắn bó với niềm vui lớn của mọi người, khi cuộc nội chiến sắp kết thúc. Cuộc đoàn tụ của bốn nhân vật chính trong cuộc Hội Nghị Toàn Nga bàn về công cuộc phục hồi và xây dựng lại tổ quốc sau nội chiến có ý nghĩa tượng trưng sâu sắc. Trong bộ tiểu thuyết, còn có hàng trăm nhân vật được miêu tả chân thực, sinh động trong đó có một số nhân vật lịch sử. Tài năng nghệ thuật và tình yêu cách mạng của nhà văn Tolstoi đã tạo ra bộ tiểu thuyết đồ sộ có sức thuyết phục sâu sắc đối với người đọc trong và ngoài người, làm rạng rỡ cuộc Cách Mạng Tháng Mười vĩ đại. NICOLAI OXTROVSKI (1904-1936) Nhà văn N. Oxtrorovski và tiểu thuyết “Thép tôi đã thế đấy” của ông là một hiện tượng đặc biệt trong đời sống văn học Nga Xô viết và văn học thế giới nói chung. Trong các thế hệ thanh thiếu niên Việt Nam, nhất là ở hậu phương của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cuốn tiểu thuyết đã trở thành người bạn thân thiết, bạn đồng đội và kỷ niệm không thể phai mờ. I - VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI SÁNG TÁC N.Oxtrorovski sinh ngày 29.4.1904 tại một làng quê Ukraina trong một gia đình lao động nghèo. Năm lên 11 tuổi, Nicolai cùng gia đình chuyển lên thị trấn, anh băt đầu lao động để kiếm sống. Tháng 7.1919, anh cùng 5 thanh niên đầu tiên của thị trấn được kết nạp vào Đoàn Thanh Niên Cộng Sản. Sau đó anh tình nguyện gia nhập hồng quân. Bị thương, ra viện, về nhà nghỉ với gia đình. Lên thành phố Kiev để học tập và công tác. Năm 1921, anh vào học lớp trung cấp kỹ thuật điện của ngành đường sắt và làm thợ phụ sửa điện ở xưởng sửa chữa đường sắt. Mùa thu năm 1922, anh cùng một nhóm thanh niên Kiev ngừng học tập đến công trường Baiarơca để xây dựng một nhánh đường sắt. Tại đây anh bị ngã bệnh thương hàn, đưa về tuyến sau điều trị. Tháng 8.1924, anh được kết nạp vào Đảng Bonsevich. Từ cuối năm 1924, anh phải đi chữa bệnh ở Khaccốp rồi lại chuyển đi nhiều bệnh viện và trại điều dưỡng khác. Cuối năm 1926, anh lập gia đình và bệnh tật lại quật ngã anh. Trên giường bệnh anh vẫn cố gắng học tập và đọc sách. Anh xin học hàm thụ trường Đại học Xverlop. Đến tháng 11.1928, anh bị đau mắt nặng phải bỏ học, ít lâu sau bị mù hẳn.
  25. Đầu năm 1930, anh bắt đầu viết cuốn tự truyện “Thép đã tôi thế đấy” và cuối năm 1933 thì hoàn thành. Cuối năm 1934, anh bắt tay vào viết “Ra đời trong bão táp”, viết xong tập I, không viết xong tập II vì sức khỏe suy kiệt. N.Oxtrorovski mất ngày 22.12.1936 lúc 32 tuổi. II - TIỂU THUYẾT THÉP TÔI ĐÃ THẾ ĐẤY Là một cuốn truyện mang nhiều yếu tố tự thuật. Cuộc đời nhân vật Paven Corsaghin gần trùng khớp với cuộc đời tác giả. Một số nhân vật khác trong truyện cũng có nhiều nét giống với bạn bè, đồng chí của anh, trong đó có một số ít được giữ nguyên tên họ. Nội dung tác phẩm phản ánh chân thực quá trình hình thành thế hệ thanh niên Xô Viết đầu tiên nhận lấy sứ mệnh lịch sử chiến đấu bảo vệ chính quyền Xô Viết và xây dựng xã hội mới sau cách mạng, cuộc nội chiến ở Ukraina và toàn liên bang. Đó là sự hình thành nhân sinh quan cộng sản và lý tưởng xã hội chủ nghĩa của các nhân vật chính, qua sự tôi luyện khắc nghiệt trong máu lửa của cách mạng và trong cuộc sống cực kỳ gian khổ những ngày đầu thời kì Xô Viết. Thông qua tựa đề cuốn truyện, nhà văn nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của sự tôi luyện trong hoàn cảnh thực tiễn đấu tranh cách mạng. Và chỉ ra đặc trưng tinh thần của thế hệ đó là ý chí kiên cường và lòng dũng cảm. Hai chủ đề đó thể hiện tập trung và sinh động qua hình tượng nhân vật Paven Corsaghin. Từ một cậu bé nghèo khổ, thất học, sớm phải lao động vất vả kiếm sống, Paven đến với cách mạng hồn nhiên, hăng hái. Qua cuộc chiến đấu ác liệt ngoài mặt trận và khắc nghiệt trên công trường, anh trở thành chiến sĩ cách mạng, đảng viên Bonsevich và sau cùng thành một nhà văn sáng tác trong hoàn cảnh bệnh tật hiểm nghèo - cuộc đấu tranh gay go cuối cùng của anh. Trong một bản dịch cuốn truyện này sang tiếng Anh, dịch giả đã đổi tựa đề thành “Trở Thành Anh Hùng”. Đúng là cuộc đời Paven và các đồng đội đã trải qua cuộc tôi luyện quyết liệt để trở thành người anh hùng có ý chí sắt thép, gắn liền với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản. Ở Paven, trước hết là quá trình trưởng thành ý thức giai cấp, ý thức đồng đội và rũ bỏ những thói quen xấu là tính tự do vô kỷ luật và hành động theo bản năng. Không có sự dìu dắt của những người cộng sản như Giukhơrai, Tocarep và những đồng đội như Giacki, Pankratop thì Paven không thể trở thành người anh hùng. Lời nói nổi tiếng sau đây của Paven được thể hiện trong ý nghĩ của nhân vật khi đứng trước mồ các liệt sĩ: “Cái quí nhất của con người là đời sống. Đời người chỉ sống có một lần, phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng sống hoài phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và nhỏ nhen của mình để đến khi nhắm mắt xuôi tay ta có thể nói rằng: tất cả đời ta, tất cả sức ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao cả nhất trên đời - sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người”. Nhân vật Paven còn được mô tả sinh động trong cuộc sống riêng tư phong phú của anh.
  26. Mối tình đầu của Paven là một người con gái xinh đẹp Tonhia, con gái viên chức kiểm lâm giàu có và anh đã đón nhận một cách chân thành, trong sáng. Nhưng rồi mối tình đó không diễn ra trên một hòn đảo mộng mơ mà ở trên mảnh đất nóng bỏng đấu tranh giai cấp nên cuối cùng số phận tình yêu đã được định đoạt. Paven không thể rời bỏ cách mạng, còn Tonhia không đủ can đảm đi cùng anh. Anh nói với cô “Em đã có gan yêu một công nhân, nhưng em không đủ can đảm để yêu lý tưởng của người ấy ”. Cái buổi chiều cuối cùng của mối tình đầu rất đẹp ấy đã được miêu tả hết sức chân thực và cảm động. Mối tình thứ hai thầm lặng với Rita - người cán bộ Đoàn- diễn ra thật trong sáng và đẹp đẽ, như đã có sẵn một tình yêu giai cấp làm nền tảng. Chỉ do một sự hiểu lầm của Paven và cũng do hoàn cảnh cuộc nội chiến, tin tức gián đoạn, đến khi tình cờ gặp lại thì đã muộn. Cả hai người đã cố gắng vượt qua cái đã mất để giữ gìn và làm đẹp thêm cái còn lại giữa hai người là tình bạn, tình đồng chí cao cả. Đọc lá thư của Rita gởi cho Paven sau Đại Hội Đoàn Toàn Quốc, chúng ta vừa xúc động vừa quí mến họ, những con người biết sống đẹp vì một cái gì khác, lớn hơn cái tôi của mình. Mối tình thứ ba, mối tình cuối cùng của Paven. Trong thời gian điều dưỡng, anh quen biết gia đình cô gái nghèo Taia có một ông bố quá quắt. Anh đã tỏ tình với Taia để giải thoát cô khỏi cảnh gia đình tồi tệ. Họ cưới nhau và sống êm đềm về tinh thần hơn là về vật chất. Họ sống cho nhau, vì nhau trong những năm Paven nằm trên giường bệnh, vật lộn với tử thần để “trở lại đội ngũ” bằng cây bút - vũ khí của mình. Hình tượng Paven Corsaghin là khuôn mặt tinh thần tiêu biểu cho thế hệ thanh niên Xô viết đầu tiên, thế hệ trẻ của đất nước Xô viết trong thời kỳ đầu tiên “lấy tinh thần thắng vật chất”, họ chỉ có đôi mắt rực cháy niềm tin lý tưởng là biểu hiện sinh động duy nhất sức mạnh vô địch của họ. Cuộc đời của nhà văn N.Oxtrorovski tuy ngắn ngủi, tác phẩm của ông thành công chỉ có một, nhưng ông đã lập nên kỳ tích chưa từng có trong lịch sử văn học thế giới: Chưa có ai như ông ốm đau liệt giường, bị mù cả hai mắt rồi mới học tập và viết văn. Tác phẩm viết ra có một sức sống và sức mạnh khác thường. Tiểu thuyết “Thép đã tôi thế đấy” đã phát huy tác dụng giáo dục động viên hết sức to lớn đối với các thế hệ trẻ Liên xô và nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. ALEXANDOROR FADEEV (1901-1956) A. Fadeev là một nhà văn lớn của đất nước Xô viết, đồng thời là nhà lý luận phê bình văn học có uy tín của văn học Xô Viết. Số lượng tác phẩm của ông không nhiều, nhưng chất lượng được công nhận có nhiều đóng góp cho sự phát triển của văn học Xô viết. GIỚI THIỆU CUỘC ĐỜI VÀ SÁNG TÁC A.Fadeev thuộc thế hệ những nhà văn Xô viết trưởng thành cùng cách mạng ngay từ buổi ban đầu gian khổ. Họ cầm súng trước khi cầm bút. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình cách mạng. Năm 1918,17 tuổi ông đã trở thành đảng viên Bonsevich, đi du kích chống bọn bạch vệ và quân can thiệp Nhật ở
  27. vùng Viễn Đông. Năm 1921, Fadeev đi dự đại hội Đảng lần X. Đi dẹp loạn, bị thương nặng, nằm viện. Xuất ngũ, đi học Đại học Mỏ ở Moskva. Chưa học xong, đi công tác vùng Kafkaz theo điều động của Đảng. Viết những tiểu thuyết đầu tay và khi tiểu thuyết “Chiến bại” ra đời (1926), Fadeev được công chúng văn học rộng rãi chú ý. Cùng với tác phẩm “Tsapaev” của Fuocmanov, “Suối thép” của Xerafimovich, “ Chiến bại “ của ông là mốc đầu tiên của văn học Xô viết . Lúc sắp kết thúc chiến tranh vệ quốc, ông hoàn thành tiểu thuyết”Đội Câïn Vệ Thanh Niên” (1945). Đây là tác phẩm hay nhất của ông, giữ vị trí vững chắc trong nền văn học Xô viết. Sau chiến tranh, Fadeev còn viết nhiều bài lý luận phê bình văn học có giá trị và một số tác phẩm khác. Do một căn bệnh kéo dài và trong một bối cảnh xã hội phức tạp sau Đại hội Đảng lần thứ XX, ông đã tự sát vào năm 1956, bỏ dở nhiều dự định tốt đẹp của mình. TIỂU THUYẾT “CHIẾN BẠI” Nội chiến Nga 1918-1921 Cuộc chiến đấu của một đội quân du kích chống lại bọn can thiệp Nhật (bênh vực Nga hoàng) ở vùng Viễn Đông thời kỳ nội chiến. Levinsơn chỉ huy đại đội du kích. Marozka xuất thân nông dân nghèo ít học, chiến đấu gan dạ và sống trung thực. Metsich vốn là học sinh trung học, đẹp trai con nhà giàu ở thành thị. Hai du kích đi trinh sát, gặp địch, Marozka bắn súng báo hiệu cho đồng đội, bị lộ và tử trận. Còn Metsich rời bỏ hàng ngũ về vùng tạm chiếm. Levinsơn bề ngoài yếu ớt, nhỏ nhắn nhưng thực sự là một người anh hùng vĩ đại - người cộng sản. Sức mạnh của anh là ở ý chí, một trí tuệ sáng suốt, tỉnh táo, gắn bó với đồng đội và nhân dân. TIỂU THUYẾT “ĐỘI CẬN VỆ THANH NIÊN” (1945) Tác phẩm được viết dựa trên một câu chuyện có thật. Một tổ chức bí mật gồm các thanh niên Xô viết ở thành phố Krasnoda bắt đầu hoạt động từ 1942 trong thời kỳ phát xiùt Đức chiếm đóng. Hạt nhân lãnh đạo và linh hồn của đội cận vệ vốn là nhóm học sinh thanh thiếu niên trung học gồm: Alec Kosevoi, Liuba, Sevsova, Xecgey Tulenin, Nina, Gromova và Ivan Demunkov. Họ rải truyền đơn, phá trại giam, lật đổ các đoàn tàu chở vũ khí, ám sát lính Đức và tay sai Vừa hoạt động, họ vừa phát triển tổ chức từ 5 người cho tới gần một trăm đội viên cận vệ hoạt động ở trong và ngoài thành phố . Ít lâu trước khi thành phố được giải phóng, bọn phát xít phát hiện ra tổ chức của Đội cận vệ, mở chiến dịch vây bắt và đem xử bắn. Chính phủ Liên xô đã tuyên dương anh hùng năm đội viên trong Ban tham mưu. Chủ đề chính của tác phẩm là: chủ nghĩa yêu nước Xô viết và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của thế hệ trẻ Xô viết trong cuộc đấu tranh chống phát xít xâm lược, bảo vệ tổ quốc XHCN. Nhân vật chính là con người Xô viết trẻ tuổi với những ước mơ cao đẹp, hoài bão, quan hệ bạn bè trong sáng, đẹp đẽ, vô tư. Đối lập với họ là những tên phát xít tham lam, hèn hạ, ích kỷ. Cắn xé đồng đội nhưng bên ngoài vẫn vênh váo hợm hĩnh, tỏ ra thông minh đi khai hóa cho nước Nga. Năm nhân vật chính trong ban tham mưu đội cận vệ này là kết quả của chủ nghĩa xã hội. Họ sinh ra và lớn lên, được nuôi dưỡng và giáo dục trong lòng
  28. chế độ Xô viết. Những gương mặt hồn nhiên lạc quan, ước mơ thật cao đẹp. Những con người thông minh, dũng cảm, yêu thiết tha thành phố quê hương đang xây dựng chủ nghĩa xã hội. Họ sống trong tình bạn, tình đồng đội và tình yêu trong sáng, cao cả và vị tha. Đây là bước phát triển mới trong việc xây dựng nhân vật chính diện của nền văn học Xô viết. Một số đặc điểm nghệ thuật của “Đội cận vệ thanh niên” Dựa trên những tư liệu người thật, việc thật, tác giả đã đưa tác phẩm vượt qua khuôn khổ thể ký đến với truyện. Trong lần xuất bản đầu tiên, nhà văn bám sát các tư liệu sống mà không chú ý phần hư cấu nghệ thuật của tiểu thuyết. Ông mô tả cuộc chiến đấu của đội cận vệ là những hành động tự phát ngoài sự lãnh đạo của Đảng: Sự thật của đời sống có thể đúng như vậy, nhưng sự thật trong nghệ thuật có thể khác. Báo chí Xô viết hồi ấy đã phê phán rằng: cuộc chiến đấu trong một thành phố bị Đức chiếm đóng trong thời kỳ chiến tranh vệ quốc do Đảng cộng sản lãnh đạo mà lại không có mối liên hệ tinh thần (chưa nói đến mối liên hệ tổ chức cụ thể) với tổ chức Đảng cộng sản thì kể như tác phẩm thiếu sót, chưa đủ sức khái quát tư tưởng, nghệ thuật. Tác giả đã sửa lại bản thảo và cuốn tiểu thuyết chính thức lưu hành cho tới ngày nay. Hình tượng những người cộng sản mới được đưa vào tác phẩm như Liuticôp, Bí thư cơ sở Đảng bí mật ở thành phố, Protsenko phụ trách Đảng bộ khu. Một đặc điểm nghệ thuật khác: chất ký sự tiểu thuyết hòa với chất lãng mạn anh hùng ca khá nhuần nhuyễn. Giọng điệu người kể chuyện khi hùng tráng, khi êm ái dịu dàng mô tả các đội viên cận ve ä; mỉa mai châm biếm khi miêu tả bọn phát xít. Người ta gọi phong cách tự sự của Fadeev trong tiểu thuyết này là tự sự - anh hùng - trữ tình. Với tư cách nhà lý luận phê bình văn học, A.Fadeev đã đóng góp tích cực vào việc xây dựng lý luận về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Những bài viết của ông có các tác dụng hướng dẫn đối với các nhà văn trẻ vượt qua những bước chập chững ban đầu. A.Fadeev đã từng giữ trọng trách đứng đầu Hội nhà văn Liên xô trong nhiều năm, đóng góp lớn trong việc tập hợp đoàn kết những người cầm bút và mỏ rộng quan hệ cùng ảnh hưởng của văn học Xô viết ra nước ngoài. NHÀ THƠ VLADIMIR MAIAKOVSKI Vladimir Maiakovski là nhà thơ lớn của Cách Mạng Tháng Mười và Chủ Nghĩa Xã Hội, là nhà cách tân táo bạo của thơ ca cách mạng vô sản. Công chúng văn học có những sở thích khác nhau về thơ ca Maiakovski, nhưng có điểm chung nhất trí: thơ ông đã góp phần đáng kể vào chiến thắng của Cách Mạng Tháng Mười và có sức mạnh khẳng định lý tưởng chủ nghĩa xã hội của loài người, trước hết ở đất nước của Lênin vĩ đại. Thơ ông đã khơi lên cả một dòng thơ độc đáo mạnh mẽ, làm phong phú tiếng nói thơ ca cách mạng. I. GIỚI THIỆU CUỘC ĐỜI VÀ SÁNG TÁC V.Maiakovski sinh ở Gruzia ngày 19/7/1893 trong một gia đình viên chức lâm nghiệp người Nga. Mồ côi cha năm 13 tuổi, gia đình chuyển về sống ở
  29. Moskva. Cuộc sống khó khăn, nhà ở dành cho sinh viên ở trọ và nấu cơm thuê cho họ. Maiakovski và hai chị phải đi làm thuê giúp đỡ mẹ. Những sinh viên trọ học đều tham gia hoạt động bí mật. Qua đó, Maiakovski tiếp xúc với cách mạng. Mười lăm tuổi, anh được kết nạp vào Đảng của Lênin, ít lâu sau được bổ sung vào thành ủy Moskva. Bị bắt 3 lần. Làm thơ trong tù. Sau khi ra tù lần 3, anh tuyên bố bỏ sinh hoạt Đảng và tuyên bố "tôi muốn làm nghệ thuật xã hội chủ nghĩa". Sau đó đi học ở một trường hội họa. Anh lại bỏ nghề họa sĩ và trở lại với thơ ca. Từ hồi nhỏ, anh đã say mê đọc sách triết học, chính trị, điều này có ảnh hưởng tích cực đến thơ ca về sau. Maiakovski là người có nhận thức sâu rộng và bản lĩnh lớn lao nhưng đầy mâu thuẫn. Tự ý ra khỏi Đảng, nhưng rồi trở thành nhà thơ lớn nhất của Đảng. Sinh thời, thơ ông không được Lênin hâm mộ, nhưng chính ông lại là nhà thơ viết hay nhất về Lênin; thơ ca của ông thể hiện cảm hứng yêu đời nồng nhiệt khác người, song lại kết thúc cuộc đời bằng việc tự sát khó hiểu. Để hiểu được sự nghiệp thơ ca của ông, phải nhìn thấy cái biện chứng trong khối mâu thuẫn lớn Maiakovski, qua đó nhìn thấy cả những mâu thuẫn thời đại, dưới góc nhìn của một nhà thơ. Trước Cách Mạng Tháng Mười (1917), Maiakovski chịu ảnh hưởng của trường phái nghệ thuật vị lai (vì tương lai, gắn liền với thành phố công nghiệp hiện đại). Trường phái này ra đời ở Italia và lan rộng Châu Âu. Họ chủ trương đoạn tuyệt với quá khứ, phủ định toàn bộ nghệ thuật truyền thống. Do đó, họ hướng về chủ nghĩa hình thức trong thơ ca, một biểu hiện của khuynh hướng "nghệ thuật vị nghệ thuật". Khuynh hướng này có phe "tả", nêu khẩu hiệu chống lại "nghệ thuật tư sản, quí tộc", châm chọc lớp công chúng giàu có, trọc phú đương thời. Nội dung thơ ông bàn tới những vấn đề xã hội, phê phán gay gắt thực tế xã hội đương thời. Một bài thơ đầu tay tiêu biểu, nhan đề "Đây này" (1913), ông đem đọc ở quán rượu, nơi các ngài tư sản giàu có ưa lui tới ăn uống và thưởng thức nghệ thuật. Nghe anh đọc thơ, đám thính giả giàu có kia đã giận dữ, la lối om xòm Tác phẩm lớn và nổi tiếng của Maiakovski trong thời kỳ này là bản trường ca "Đám mây mặc quần" (1915). Bài thơ mang một cái tên rất vị lai, nhưng lại bàn về xã hội rộng lớn, bức xúc và thấm đượm một tinh thần nhân văn sâu sắc. Cốt truyện thơ rất đơn giản: nhân vật trữ tình hẹn gặp người yêu ở một khách sạn vào lúc chập tối, chờ mãi, đến nửa đêm nàng mới đến và báo tin "em đã lấy chồng". Điên khùng và tuyệt vọng, anh ta quay ra suy nghĩ về toàn bộ cuộc sống tư sản đương thời và buông ra những tiếng thét "đả đảo". Bài thơ có 4 chương, mỗi chương đều có tiếng thét "đả đảo" ở phần chót: Đả đảo tình yêu của các người ! đả đảo nghệ thuật của các người ! đả đảo tôn giáo của các người ! đả đảo chế độ của các người ! Trong thơ ca Nga và thơ ca thế giới cho tới lúc chưa thấy có bài thơ nào phê phán xã hội tư sản một cách toàn diện và quyết liệt như thế ! Cách Mạng Tháng Mười bùng nổ, Maiakovski coi đó là cuộc cách mạng của chính mình. Anh đi theo cách mạng ngay từ buổi đầu và đem hết sức lực làm việc cho chính quyền Xô Viết. Ông chủ trương sáng tác theo "đơn đặt hàng" của xã hội, của cách mạng chứ không theo tùy hứng. Cách mạng đã giải phóng
  30. sức sáng tạo và toàn bộ nhân cách Maiakovski - người công nhân và nghệ sĩ. Maiakovski làm thơ, đi đọc thơ và nói chuyện thơ trước công chúng, đi vẽ tranh cổ động, viết kịch, đóng phim Trong sáng tác thơ, ông phân ra hai loại thơ: thơ đại chúng và thơ trình độ "kỹ sư" tức là có giá trị nghệ thuật cao. thơ đại chúng là thơ tuyên truyền cổ động kịp thời nhiệm vụ cách mạng, hướng về đông đảo quần chúng ít học. Những tác phẩm tiêu biểu của "dòng thơ lớn" tức là thơ có trình độ cao đã làm rạng rỡ tên tuổi ông trên thi đàn thế giới. Tiêu biểu là các tập thơ sau: "Hành khúc bên trái" (1918), "Những người loạn họp" (1922), "Từ biệt" (1926), "Đen và trắng" (1925), Tấm hộ chiếu Xô Viết (1929). và trường ca "V.I Lenin" (1924), Tốt lắm (192 ). Hai vở kịch thơ "Con rệp" (1928) và "Phòng tắm" (1929) Maiakovski tự sát chết ngày 14/4/1930, để lại một bức thơ tuyệt mệnh khiến mọi người hết sức xúc động bàng hoàng. Trong 3 ngày sau đó, có khoảng 15 vạn người đã đến viếng linh cữu nhà thơ của mình. Lễ tang được tổ chức đặc biệt khác thường. Linh cữu được đặt trên sàn thép của một chiếc xe tải, kèm theo một vòng hoa tang kết bằng đinh ốc, búa, ổ trục với dòng chữ "vòng hoa thép viếng nhà thơ thép". Hàng vạn dân chúng lặng lẽ đưa tiễn nhà thơ đến nơi an nghỉ cuối cùng. II. NHỮNG CÁCH TÂN CỦA MAIAKOVSKI Nhà thơ bước vào hoạt động văn học nghệ thuật giữa lúc nhân loại đang trải qua bước ngoặt lớn của lịch sử: nhân dân lao động và các dân tộc trên thế giới đang vươn mình đứng dậy làm chủ vận mệnh của mình. Ơû nước Nga, bão táp cách mạng vô sản ầm ầm chuyển động. Sự sụp đổ của chế độ cũ chỉ còn tính từng ngày. Giữa lúc ấy nhà thơ tuyên bố "tôi muốn làm nghệ thuật xã hội chủ nghĩa", và để thực hiện cương lĩnh ấy, ông đã cách tân táo bạo thơ ca làm cho thơ ca trở thành vũ khí sắc bén góp phần có hiệu quả trực tiếp trong cuộc cách mạng. Nhà thơ quan niệm: thơ phải tác động vào chỗ mạnh của con người, phải làm tăng sức chiến đấu, phải "vung những vần thơ lấp lánh lưỡi lê" chứ không phải chỉ "véo trái tim bằng những hồi ức buồn tủi kèm theo thơ" như hàng ngàn năm nay người ta vẫn làm. Quan niệm này, về sau, ta cũng thấy ở "Nhật ký trong tù" của Hồ Chí Minh (bài thơ "Cảm hứng đọc Thiên gia thi") Rõ ràng, ngay từ đầu, Maiakovski đã có ý thức đi mở đường cho một phong cách thơ ca chiến đấu, quyết tâm tạo ra "chất thép" trong thơ. Trước hết, Maiakovski chủ trương đưa thơ ca đến đông đảo quần chúng ít học, đang lao động và đấu tranh cách mạng. Thơ ca "bác học" nước Nga từ bao đời nhường như chỉ là sở hữu của những người có học, của từng lớp quí tộc, thơ được đọc lên ở các phòng khách sạn sang trọng Nay, ông chủ trương đưa thơ ra đọc ở quảng trường, ngoài đường phố để công chúng cùng thưởng thức. Thơ của ông viết ra không chỉ để xem bằng mắt mà chủ yếu để đọc to lên trước công chúng đông đảo. Đây là điểm xuất phát cho những đổi mới quan trọng trong thơ ca Maiakovski. Một là: Phải đổi mới nhịp điệu câu thơ, để nghe cho vang, cho rõ trước công chúng. Lời thơ mang tính chất khẩu ngữ dễ hiểu. Khi in trên sách báo, thơ Maiakovski thường ngắt ra theo lối bậc thang, nhằm nhấn mạnh những từ ngữ
  31. quan trọng thay vì khi đọc cần nhấn giọng cho người nghe hiểu thấu ý thơ của mình. Hai là: đổi mới tư duy thơ và cách cấu tứ, sáng tạo hình ảnh ngôn ngữ. Thơ làm ra để đọc to trước công chúng trong cuộc hội họp, mit-ting, sinh hoạt tập thể nên nó phải dể nhớ, dễ gây được ấn tượng sâu đậm khó quên với người nghe. Về cấu tứ: thơ ông thường "gián đoạn", ý chuyển tiếp bị lược bỏ, nhằm gây ấn tượng bất ngờ. Thử đọc bài "những người loạn họp" (1922) là bài thơ phê phán lối làm việc quan liêu giấy tờ của bộ máy hành chính Xô Viết hồi đó. Mở đầu bài thơ là cảnh bận rộn chuyên cần của cán bộ cơ quan dưới con mắt nhà thơ nhìn từ bên ngoài: Mới tờ mờ sáng ngày nào tôi cũng thấy họ kéo nhau tới bàn giấy cơ quan. Khi tìm hiểu kỹ, nhà thơ mới biết cải guồng máy hành chính quan liêu ấy chỉ tự quay suông và thôi, chẳng giúp ích gì cho dân chúng: Nhà thơ ló mặt bên trong hỏi: "Bao giờ ngoài mới tiếp khách ? Tôi đến đây từ thuở khai thiên" "Đồng chí Ivan Ivanưt đang tham nghị cấp trên bàn việc hợp nhất Vụ sân khấu với Nhà nuôi ngựa" "Truyền cho anh: một giờ sau hãy đến. Đang bận họp hợp tác xã cấp tỉnh tổ chức thu mua những lọ mực bỏ không" Thế là "nhân vật trữ tình" lại tiếp tục chờ đợi, chẳng quản đêm hôm Nhưng rồi sự kiên nhẫn cũng có giới hạn của nó. Nỗi bất bình đối với bộ máy quan liêu đã lên đến tột đỉnh, đến cao trào. và để giải quyết xung đột, nhà thơ đã sáng tạo ra một hình ảnh kỳ ảo: Giận điên người tôi chửi bới om sòm như băng tan tuyết đổ tôi xông đến hội trường và tôi thấy, toàn những nữa thân người ngồi đấy ôi ma quỉ ! "chém người !", "giết người !" tôi hô hoán cuống cuồng tôi rụng rời trước cảnh tượng kinh hồn Nhưng tiếng cô thư ký nghe vô cùng bình thản: "một ngày chúng tôi
  32. họp hai chục bận phải đi hai cuộc họp một lần biết tính sai, thôi đành cắt đôi thân ở đây một nửa tới ngang hông còn nữa kia đi họp hành nới khác " Hình ảnh "nửa thân người ngồi họp" là một hình ảnh quái dị nỗi ám ảnh nạn hội họp lu bù. Hóa ra, toàn bài thơ là một giấc mộng, giấc một nặng nề do hình ảnh cuộc sống thực nhàm chán, ức chế tràn vào giấc ngủ. Hình ảnh đó là một chi tiết có ý nghĩa bi - hài kịch. Phần kết thúc bài thơ là một suy nghĩ tỉnh táo với cảm hứng hăng hái xây dựng lại, điều chỉnh lại: Kích động quá, không tài nào chợp mắt trời đã sáng mờ tôi đón ban mai với một khát khao: "Ôi ! ước sao được họp thêm một cuộc để tìm phương thanh toán các cuộc họp trên đời". Kết thúc bất ngờ và sáng tạo! Bài thơ gây một ấn tượng khó quên trong tâm trí người nghe, đặc biết là khi tác giả đến đọc trực tiếp cho họ thưởng thức. Để gây ấn tượng rõ nét, nhà thơ chủ ý chọn lọc ngôn từ. Maiakovski chọn từ ngữ theo nguyên tắc "vật thể hóa" hoặc "thực tại hóa". Chẳng hạn, khi người ta nói "gậm nhâm" là chỉ loài chuột, gián nhưng Maiakovski viết "làn khói chiều gậm nhấm cuộc đời tôi", hoặc "những vần thơ lấp lánh lưỡi lê". Nói về Karl Marx đang hoàn thành những tác phẩm lý luận thiên tài, nhừ thơ tưởng tượng: " lúc chiếc cối trong đầu xay tư duy mẻ cuối " Maiakovski quan niệm rằng thơ có nhiều loại với các chức năng khác nhau, giống như các loại xe ôtô. Thơ ông là loại xe tải chứ không phải xe du lịch. Hồi đó, ở Nga có những người đòi vứt thơ ông ra đường phố, nhưng rồi thơ ông vẫn lặng lẽ đi vào lòng dân chúng và được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. III. NHỮNG CHỦ ĐỀ CHÍNH TRONG SÁNG TÁC CỦA MAIAKOVSKI. Thơ ca của ông xoay quanh hai vấn đề chính. Một là: ca ngợi hệ tư tưởng và sự nghiệp vĩ đại của cách mạng tháng 10 và chủ nghĩa xã hội. Châm biếm, đả kích mọi kẻ thù của cách mạng và CNXH. Chủ đề thứ nhất được thể hiện trong thơ trữ tình công dân của Maiakovski. Trong mảng thơ này, tràn ngập một tình cảm lạc quan, trong sáng và chân thực. Thơ ông thể hiện một năng lực "nhìn thấy ở ngày hôm nay những sức sống vĩnh cửu sẽ vượt qua cái nhất thời". Chính cái tầm nhìn "vượt qua thời đại" này tạo nên kích thước lớn lao trong tác phẩm. Ông có khả năng khám phá sâu sắc những nét đẹp cao cả, vĩ đại trong cái bình thường quen thuộc hàng ngày của cuộc sống xã hội chủ nghĩa buổi ban đầu. Chủ đề thứ hai: trào phúng.
  33. Nhà thơ chia làm hai loại. Một cái "bàn chải hài hước" dùng để làm trong sạch nội bộ và một "cái chổi trào phúng" dùng để quét sạch rác rưởi ra khỏi nước cộng hòa. Maiakovski đã nói, làm thơ trào phúng châm biephảnå "kéo nước cộng hòa ra khỏi vũng bùn". Thơ của ông đả kích mọi loại kẻ thù: từ đứa phản tục "tư sản Xô Viết", những kẻ quan liêu, đứa nịnh hót đặt điều đến kẻ thù lớn như chủ nghĩa đế quốc, những tay chính khách tư sản phản động. Trong thơ Maiakovski, chất trữ tình công dân và chất trào phúng thường hòa lẫn với nhau, khó mà tách riêng xem xét yếu tố nào trội hơn. Nhưng lịch sử văn học Xô Viết và những người yêu thơ vẫn coi Maiakovski là nhà thơ trào phúng lớn của thời đại. IV. TRƯỜNG CA "V.I.LÊNIN" (1924). Tác phẩm ca ngợi sự nghiệp của Lênin lãnh tụ kiệt xuất của cách mạng tháng Mười vĩ đại. Bản trường ca được viết ngay trong những ngày nhân dân Liên Xô đang chịu tang Lênin. Maiakovski có chú tâm tránh xa những tác phẩm văn chương trên thế giới đã ca ngợi vĩ nhân của lịch sử. Ông lo sợ những lớn khuôn sáo, tác dương sẽ "làm vẩn đục tinh thần giản dị của Lênin". Maiakovski đã có những sáng tạo độc đáo, quan trọng: Sáng tạo thứ nhất: nhừ thơ không kể lại lịch sử một cách khách quan mà sống với lịch sử, sống cùng nhân vật: Chẳng hạn khi viết về Lênin, nhà thơ nghĩ về Mac: (·) Lúc chiếc cối trong đầu xay tư duy mẻ cuối lúc bàn tay sáp hí hoáy hoàn thành tôi biết Mac đã thấy viễn cảnh Kremmlin và Moskva rực cờ công xã Viết về Lênin, nhà thơ nghĩ tới Đảng: Đảng và Lênin anh em sinh đôi me lịch sử quí ai hơn ? Con nào cũng xứng. Sáng tạo thứ hai: miêu tả, kết cấu tác phẩm theo cách: để cho tiểu sử nhỏ và tiểu sử lớn của Lênin lồng vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau. Cuộc đời của cậu bé Volodia Ulianov ra đời ở thành phố Novoxibiếc năm 1870, nhưng tiểu sử của đồng chí Lênin thì lại bắt đầu từ "200 năm" trước khi chủ nghĩa tư bản ra đời: (Ulianov là họ của Lênin). " Ta đã rõ cuộc đời Ulianov đời ngắn ngủi này rõ tận phút lâm chung ( ) Ta phải viết
  34. viết một thiên sử mới về đồng chí Lênin đã có từ xưa hai trăm năm trước" Bài thơ thấm đượm một suy nghĩa nghiêm túc về lịch sử, cố gắng miêu tả cái tầm vóc vĩ đại và cái tất yếu lịch sử của sự nghiệp Lênin như một lãnh tụ kiệt xuất của cách mạng vô sản. Lênin là con đẻ của lịch sử, là nhân vật của thời đại, là thiên sứ truyền lệnh và đòi thi hành lập tức: phá bỏ cái vật chướng ngại lớn trên đường đi của lịch sử: đó là chủ nghĩa tư bản già nua. Mai sau nhìn lại những năm tháng lịch sử này trước tiên ta thấy vầng trán Lênin đây đỉnh đèo rạng rỡ chuyển sang thời công xã bên kia dốc nô lệ ngàn vạn năm liền Nhà thơ còn nhấn mạnh Lênin còn là một con người rất mực là người: khiêm tốn, giản dị, hiểu thấu lòng dân. Sáng tạo thứ ba: bố cục độc đáo của tác phẩm. Bản trưởng ca gồm 3 phần: phần 1 trữ tình, phần 2 tự sự dài nhất và phần kết thúc trữ tình. Bản trường ca này thể hiện một quá trình ý thức về nỗi đau để vượt qua nó. Ở phần đầu, nỗi đau thương trước cái chết của Lênin là một tình cảm bản năng, tự phát, khiến ta cảm thấy bị đè nặng tâm hồn: điện tín khàn khàn tin điện buồn ngân mãi lệ tuyết ròng ròng hoen mí đỏ lá cờ những lá cờ rong và đoàn người lũ lượt như nước Nga trở lại thời du mục lang thang Sang phần tự sự, người kể chuyện dần dần ý thức được rằng Lênin mất, nhưng sự nghiệp của Người không thể chết, học thuyết Lênin còn tiếp tục phát triển, dẫn dắt mọi người tiến lên phía trước. Vì thế, đến phần cuối, nỗi đau đã được ý thức, đã được "thanh lọc", chuyển hóa thành một niềm tin đầy phấn chấn: Tôi sung sướng vang vang dòng hành khúc
  35. cuốn tôi đi người nhẹ bỗng lông hồng trận hồng thủy bước chân người rậm rạp truyền sức mạnh lan vòng tròn tới tấp càng lan càng rộng nhập vào tư tưởng nhân gian. Trường ca "V.I.Lênin" của Maiakovski là một tượng đài ngôn ngữ độc đáo, hiện đại tương xứng nhất với thân thế, sự nghiệp và tư tưởng vĩ đại của Lênin mà cho đến nay chưa có một công trình nghệ thuật nào vượt qua được. Maiakovski là nhà thơ sống vì tương lai, với tương lai. Không ít tác phẩm lớn của ông thường chịu số phận long đong và nhiều năm tháng qua đi người ta mới hiểu hết giá trị của nó. Một nhà phê bình Tiệp Khắc trước đây đã viết " Nhân loại sẽ đi con đường của mình. Năm mươi năm nữa đến một ngã tư lịch sử nào đó, chúng ta sẽ thấy Maiakovski ngồi chờ chúng ta ở đấy từ lâu rồi". MIKHAIN SOLOKHOP (1905-1984) “Sông Đông êm đềm” và “Số phận con người” GIỚI THIỆU CUỘC ĐỜI VÀ SÁNG TÁC Mikhaiin Solokhop xuất thân trong một gia đình viên chức nhỏ, địa chủ ở vùng Codắc Sông Đông. Bố là người Nga di cư đến đây, còn mẹ là một người phụ nữ nông dân Côdắc. Về sau này, ông thường nói”Tôi tự hào rằng tôi là người yêu mến vùng Sông Đông thân thiết của tôi”. Thuở bé học ở trường trung học của trấn Vesenxkaia nơi mà về sau này, khi đã thành đạt, ông vẫn sống trọn đời. Solokhop có trí tuệ thông minh sắc sảo và nghị lực phi thường. Chỉ trong vòng 20 năm, từ một cậu bé học hành dở dang bậc trung học trở thành viện sĩ hàn lâm của một đất nước rộng lớn có nền văn hóa cao, một nhà văn được giải Nobel văn học, vinh dự không dễ gì đạt được bằng con đường tự học. Tài năng văn học và phong cách nghệ thuật độc đáo của ông được khẳng dịnh sớm. Nhà văn Xeraphimovich khi đọc những truyện ngắn đầu tay của ông đã phải thốt lên “Một con đại bàng non của thảo nguyên bất thần vỗ lên đôi cánh mênh mông”. Năm Mikhain 12 tuổi thì Cách Mạng Tháng Mười, kế tiếp là nội chiến , bùng nổ, đặc biệt gay gắt đẫm máu ở vùng Sông Đông. 15 tuổi, cậu đã hăng hái tham gia vào đội trưng thu lương thực, đi khắp vùng sông Đông. Cuộc đấu tranh giai cấp ác liệt ở đây đã để lại một ấn tượng thật sâu sắc trong lòng nhà văn tương lai. Đầu 1922, Nội Chiến vừa kết thúc, Mikhaiin một mình lên thủ đô Moskva định xin vào học trường bổ túc công nông nhưng không đủ tiêu chuẩn nhập học, anh đành phải kiếm việc làm để sống và tự học và bắt đầu viết văn. Làm đủ nghề, từ phu thợ nề, phu khuân vác, kế toán viên . Đầu năm 1923, anh trở về sông Đông theo lời khuyên của một nhà thơ, để viết văn. Đầu năm 1925, tập truyện ngắn đầu tay ra đời mang tên “Truyện sông