Bài giảng Nghệ thuật chỉ đạo khởi nghĩa vũ trang trong cách mạng tháng Tám 1945 ở Việt Nam

pdf 24 trang hapham 2120
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Nghệ thuật chỉ đạo khởi nghĩa vũ trang trong cách mạng tháng Tám 1945 ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfnghe_thuat_chi_dao_khoi_nghia_vu_trang_trong_cach_mang_thang.pdf

Nội dung text: Bài giảng Nghệ thuật chỉ đạo khởi nghĩa vũ trang trong cách mạng tháng Tám 1945 ở Việt Nam

  1. NGHỆ THUẬT CHỈ ĐẠO KHỞI NGHĨA VŨ TRANG TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 Ở ViỆT NAM Giảng viên chính Đại tá TS.Phạm Quốc Văn
  2. NGHỆ THUẬT CHỈ ĐẠO KHỞI NGHĨA VŨ TRANG TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 Ở ViỆT NAM Mục đích, yêu cầu. -Giúp cho sinh viên nắm được quan điểm về khởi nghĩa vũ trang của chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối của Đảng ta. -Nắm được nghệ thuật khởi nghĩa vũ trang của Đảng ta trong cách mạng tháng tám 1945
  3. NGHỆ THUẬT CHỈ ĐẠO KHỞI NGHĨA VŨ TRANG TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 Ở ViỆT NAM I.Quan điểm về khởi nghĩa vũ trang của chủ nghĩa Mác-Lênin Những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin luôn coi lãnh đạo, chỉ đạo và thực hành khởi nghĩa là một nghệ thuật. Nói về thời cơ phát động khởi nghĩa, trong cuốn “bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng sản” Lênin chỉ rõ “khởi nghĩa” là trận cuối cùng và quyết định nên phải rất thận trọng, chắc chắn và phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau:
  4. - “ Một là, làm cho nội bộ giai cấp vô sản phải thống nhất tư tưởng, nhất trí hành động kiên quyết nhất, dũng cảm và cách mạng nhất chống lại giai cấp tư sản. Hai là, giai cấp tiểu tư sản, các phần tử trung gian, do dự ngả theo CM. Ba là, các lực lượng của giai cấp thù địch đã suy yếu đi nhiều chỉ lúc đó CM mới chín muồi thắng lợi của chúng ta mới được bảo đảm”. -Trong tác phẩm: “Cách mạng và phản CM ở Đức” Ăng-ghen nhấn mạnh: “khởi nghĩa là một nghệ thuật, phải tuân theo một quy tắc nhất định. Thứ nhất, phải hết sức thận trọng, phải chuẩn bị được lực lượng hơn hẳn đối phương.
  5. -Thứ hai, khi khởi nghĩa phải hành động với quyết tâm rất lớn, phải giành thế tiến công, tiến công liên tục, triệt để, tạo bất ngờ. Phòng ngự là sự diệt vong của mọi cuộc khởi nghĩa. -Trong thư của Lênin gửi Ban Chấp hành trung ương Đảng Công nhân dân chủ-xã hội Nga với nhan đề “Chủ nghĩa Mác và khởi nghĩa vũ trang” Lênin viết: “Muốn thắng lợi, khởi nghĩa không được dựa vào một cuộc âm mưu, một chính đảng mà phải dựa vào giai cấp tiên phong. Khởi nghĩa phải dựa vào cao trào CM của nhân dân. Khởi nghĩa phải dựa vào bước ngoặt trong lịch sử của cuộc CM, tinh thần quần chúng lên cao, kẻ thù đang dao động. Khi đã hội tụ đủ 3 điều kiện ấy mà không tiến hành khởi nghĩa là phản lại chủ nghĩa Mác phản bội CM”
  6. II.Sự chuẩn bị về đường lối, quan điểm của Đảng cho tổng khởi nghĩa -Thấm nhuần quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin về khởi nghĩa và đấu tranh CM, trong luận cương chính trị (10.1930), Đảng đã xác định con đường giành chính quyền về tay công nông là con đường vũ trang bạo động: “ khi giai cấp thống trị đã rung động, các giai cấp đứng giữa đã muốn bỏ về phe CM, quần chúng công nông thì sôi nổi CM, quyết hy sinh chiến đấu, thì Đảng phải lập tức lãnh đạo quần chúng để đánh đổ chính quyền địch, giành chính quyền cho công nông”
  7. -Tháng11.1939, hội nghị Trung ương lần 6 họp tại Bà Điểm nhấn mạnh: Tất cả mọi vấn đề của CM đều nhằm vào giải quyết mâu thuẫn chủ yếu giữa các dân tộc ở Đông Dương với đế quốc xâm lược, cần dự bị những điều kiện bước tới bạo động, làm CM giải phóng dân tộc. -Tháng 10.1940, hội nghị Trung ương lần 7 họp ở Đình Bảng (Bắc Ninh) chỉ rõ: “Đảng phải chuẩn bị giành lấy sứ mệnh thiêng liêng, lãnh đạo các dân tộc bị áp bức Đông Dương vũ trang bạo động, giành quyền tự do, độc lập”. “Tuy nước ta chưa đứng trước tình thế trực tiếp CM, nhưng do tình hình quốc tế và trong nước ngày càng sôi động, CM nước ta có thể nổ ra bằng những cuộc khởi nghĩa địa phương ở những nơi có điều kiện tiến lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền cả nước
  8. -Hội nghị Trung ương lần 8 (5.1941) tại Pắc Bó nhấn mạnh: “Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề giải phóng dân tộc, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những đoàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Hội nghị quyết định đổi tên “mặt trận dân tộc thống nhất chống phát xít Pháp-Nhật” thành “Việt Nam độc lập đồng minh”, gọi tắt là Việt Minh để tập hợp đông đảo hơn nữa các lực lượng, các tầng lớp nhân dân tham gia tranh đấu.
  9. -Hội nghị còn xác định cụ thể. Khi thời cơ tới “với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo cuộc khởi nghĩa từng phần, trong từng địa phương cũng có thể giành thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn”. Đây chính là sự vận dụng của Đảng ta. Về phương pháp đấu tranh CM phải sử dụng khởi nghĩa vũ trang. Điều kiện để khởi nghĩa là: 1.Mặt trận cứu quốc đã thống nhất đến toàn quốc. 2.Nhân dân đã sống cùng cực dưới ách thống trị của phát xít Pháp-Nhật, đã sẵn sàng hy sinh chiến đấu, nổi dậy giành chính quyền. 3.Phe thống trị Đông Dương đã bước vào khủng hoảng cực điểm cả về kinh tế, chính trị, quân sự. 4.Quân Nhật thua Trung Quốc, CM Pháp, Nhật nổ ra, Phe dân chủ thắng ở Thái Bình Dương, Liên Xô đại thắng phát xít.
  10. III.Diễn biến tổng khởi nghĩa tháng tám 1945. 1.Thời cơ và chủ trương tổng khởi nghĩa Ngày 13.8 Nhật đầu hàng Đồng Minh. Cũng ngày 13.8 Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào, đề ra chủ trương Tổng khởi nghĩa. Đêm 13.8 uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc được thành lập do đồng chí Tổng bí thư Trường Chinh phụ trách, Uỷ ban đã phát đi “quân lệnh số 1”, nhấn mạnh giờ tổng khởi nghĩa đã đến Nghị quyết tổng khởi nghĩa nêu 3 nguyên tắc thực hành khởi nghĩa ở địa các phương: -Tập trung lực lượng vào những việc chính -Thống nhất mọi phương diện chính trị, quân sự, hành động và chỉ huy -Kịp thời hành động không bỏ lỡ thời cơ
  11. Ngày 16.8 Quốc dân đại hội họp tại Tân Trào , tán thành và thông qua chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng và 10 chính sách lớn của Tổng bộ Việt Minh. Đại hội cử ra uỷ ban dân tộc giải phóng, tức Chính phủ lâm thời Việt Nam do Hồ Chí Minh làm chỉ tịch. Cùng ngày Hồ Chí Minh đã gởi thư kêu gọi đồng bào cả nước “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy, đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” Tình hình vô cùng khẩn trương. Điều kiện khởi nghĩa đã chín muồi. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”
  12. 2. Sơ lược diễn biến Do nắm bắt được tình hình, thời cơ thuận lợi đang tới, thấm nhuần chủ trương khởi nghĩa giành chính quyền, nhiều cán bộ ở cơ sở và các cấp đã nhạy bén phát lệnh khởi nghĩa. Cuộc đấu tranh CM đứng trước tình thế nhảy vọt đã từ khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền địa phương chuyển thẳng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi cả nước. Từ 14-18.8 các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Yên Bái, Phú Thọ, Bắc Giang, Vĩnh yên, Phúc Yên, Bắc Ninh, Hà Đông, Sơn Tây, Hải Dương, Hưng Yên, Kiến An, Ninh Bình, Thái Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Kháng Hoà, Mỹ Tho, Sa Đéc đã chớp thời cơ nổi dậy giành chính quyền.
  13. -Ngày 19.8 khởi nghĩa ở Hà Nội và các tỉnh Yên Bái, Thái Bình, Phúc Yên, Thanh Hoá, Khánh Hoà. Ngày 20 là Bắc Ninh, Thái Nguyên, Ninh Bình Ngày 21.8 là Cao Bằng, Tuyên Quang, Sơn Tây Ngày 23.8 là các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định Ngày 24.8 là Phú Yên, Bình Thuận, Đắc Lắc Ngày 25 là Sài Gòn, Vĩnh Long, Châu Đốc Ngày 28.8 Cần Thơ, Rạch Giá Ngày 28.8 tỉnh lỵ cuối cùng là Hà Tiên cũng thiết lập được chính quyền CM. Chỉ trong vòng 14 ngày từ 14-28.8 chính quyền phong kiến và thực dân đã bị lật đổ và thiết lập chính quyền dân chủ nhân dân trong cả nước.
  14. 3.Đặc điểm hình thái khởi nghĩa của các địa phương trong Cách mạng tháng Tám. a. Trong cuộc vận động CM, xây dựng lực lượng chính trị và các đơn vị vũ trang (1941-8.1945) Cao trào kháng Nhật diễn ra đều khắp và nhiều hình thức phong phú. 28 tỉnh và 3 thành phố, trong đó có Hà Nội, Huế khởi nghĩa xuất phát từ thôn, xã lên huyện, tỉnh hoặc từ ngoại thành vào nội thành. Có 24 tỉnh (chủ yếu ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, khởi nghĩa lại xuất phát từ tỉnh lỵ xuống các huyện, xã. Có 7 tỉnh cả nông thôn và tỉnh lỵ cùng đồng thời khởi nghĩa. -Vì Bắc bộ và Bắc Trung bộ cơ sở Đảng và Mặt trận Việt Minh ở nông thôn khá phát triển.
  15. b.Ở Nam bộ, phong trào CM gặp khó khăn bị tổn thất nặng nề từ sau khởi nghĩa Nam kỳ do thực dân Pháp đàn áp, mặt khác ở xa Trung ương nên sự chỉ đạo không được kịp thời nên khởi nghĩa muộn hơn và ở tỉnh lỵ trước. c. Vai trò của các thành phố lớn trong tổng khởi nghĩa rất quan trọng. Khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn có ý nghĩa quyết định thắng lợi chung của CM cả nước. Qua hình thái diễn biến khởi nghĩa đã phản ánh sự chuẩn bị của Đảng ta là đều khắp từ Bắc chí Nam, cả nông thôn, thành thị và rừng núi, hai lực lượng cơ bản của CM là nông dân và công nhân, đã kết hợp chặt chẽ hai hình thức ĐT, trong đó ĐT chính trị là chủ yếu, ĐTVT giữ vai trò hỗ trợ
  16. Cách mạng tháng 8 thắng lợi mau chóng, trọn vẹn là kết quả của 15 năm chuẩn bị của toàn dân, dưới sợ lãnh đạo của Đảng, kết quả của 3 cuộc tập dượt lớn: Cao trào CM 1930-1931, đỉnh cao là Xô-Viết Nghệ- Tĩnh, Đảng đã giương cao ngọn cờ dân tộc, dân chủ, bước đầu xây dựng khối liên minh công nông, sử dụng bạo lực giành chính quyền ở một địa phương; cuộc vận động dân chủ 1936-1939, đã tập hợp mặt trận dân chủ rộng rãi làm uy tín của Đảng được nâng cao; cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939-1945, Đảng đã chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc là trọng tâm, xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang lớn mạnh, với phương pháp CM thích hợp, chọn đúng thời cơ giành chính quyền.
  17. IV.Mấy vấn đề nghệ thuật khởi nghĩa vũ trang trong cách mạng tháng tám 1. Nghệ thuật khởi nghĩa từng phần. -Từ xây dựng lực lượng cơ sở vững chắc ở từng địa phương, thực hiện đánh đổ từng bộ phận, tiến tới đánh đổ hoàn toàn hệ thống chính quyền địch. Từ 1941 đến trước ngày 9.3.1945 là quá trình xây dựng lực lượng, phát triển căn cứ địa, phát động chiến tranh du kích cục bộ đồng thời đẩy mạnh đấu tranh chính trị ở địa phương chuẩn bị lực lượng mọi mặt đón thời cơ khởi nghĩa.
  18. -Trong chỉ đạo và thực hành khởi nghĩa từng phần, Đảng đã xây dựng LL chính trị, LLVT và kết hợp hai lực lượng đó, chuẩn bị đón thời cơ khởi nghĩa, xây dựng căn cứ và chiến khu cách mạng trên phạm vi cả nước làm bàn đạp, tạo lập thế và lực, phát động cao trào kháng Nhật, tập dượt, sẵn sàng hành động cách mạng. Đây là thời kỳ Đảng từng bước xây dựng những nhân tố bảo đảm cho thành công của khởi nghĩa vũ trang. 2.Nghệ thuật tạo thời cơ và đón thời cơ. Thời cơ cách mạng là những điều kiện chủ quan và khách quan chín muồi tạo thuận lợi cho hành động CM
  19. Thời cơ xuất hiện có thể do ngẫu nhiên, nhưng thường là do năng động chủ quan của ta mà có hoặc do những sai lầm của địch. Đảng ta đã quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thời cơ khởi nghĩa theo các nội dung sau: -Đảng đã thường xuyên nắm chắc tình hình, vừa nắm vững nguyên tắc lại vừa linh hoạt, nhạy bén trước sự chuyển biến của tình thế, đưa ra những dự kiến tài tình về thời cơ tổng khởi nghĩa, -Đảng đã tích cực chuẩn bị điều kiện vất chất và tinh thần cho tổng khởi nghĩa, vừa tuân thủ những quy luật khách quan, vừa phát huy năng động chủ quan, coi đó là yếu tố quyết định cho việc tạo thời cơ và đón thời cơ khởi nghĩa.
  20. -Trong quá trình chuẩn bị lâu dài, Đảng đã chỉ đạo hoạt động du kích tại địa phương khởi nghĩa từng phần. Khi Nhật đảo chính Pháp, Đảng đã chớp thời cơ thuận lợi, thực hành khởi nghĩa từng phần, chuẩn bị đón thời cơ tổng khởi nghĩa. -Khi thời cơ xuất hiện, Đảng đã sớm phát hiện và kịp thời có các chủ trương hành động cần thiết, táo bạo, sáng tạo để tận dụng và phát động toàn dân nhất tề đứng lên giành chính quyền.
  21. 3.NGhệ thuật chỉ đạo thực hành tổng khởi nghĩa. Đảng đã đề ra sách lược đấu tranh rất linh hoạt: Nơi nào bắt buộc cần đòn tiến công của lực lượng vũ trang thì kiên quyết đánh, nơi nào có thể buộc kẻ địch đầu hàng bằng hình thức đấu tranh mềm dẻo hơn, đỡ tốn xương máu hơn mà vẫn giành được thắng lợi thì phải hết sức tận dụng. Trong quá trình tổng khởi nghĩa, Đảng ta đã sử dụng đồng thời cả LLVT và LLCT quần chúng, trong đó LLCT quần chúng đóng vai trò quyết định thắng lợi.
  22. Kết hợp chặt chẽ hai đòn tiến công và nổi dậy theo nguyên tắc: “Tập trung, thống nhất, kịp thời, linh hoạt”, Tập trung lực lượng vào mục tiêu chính; thống nhất các mặt quân sự, chính trị, hành động và chỉ huy; kịp thời tổ chức hành động đồng loạt không bỏ lỡ thời cơ; linh hoạt trong từng hoàn cảnh cụ thể để vận dụng chỉ đạo hai lực lượng. Cuộc tổng khởi nghĩa của toàn dân dưới các hình thức mít tinh, biểu tình, tuần hành thị uy, biểu tình có vũ trang đánh chiếm các công sở, chính quyền, đồn trại lính địch đã trở thành hình thức đấu tranh chủ yếu, quyết định thắng lợi, tiêu biểu như Hà Nội, Huế, Sài Gòn.
  23. Câu hỏi nghiên cứu – thảo luận 1.Nghệ thuật khởi nghĩa từng phần; Nghệ thuật tạo thời cơ và đón thời cơ; Nghệ thuật chỉ đạo thực hành tổng khởi nghĩa?
  24. KiỂM TRA GiỮA MÔM – LỊCH SỬ QUÂN SỰ VN làm rõ nghệ thuật khởi nghĩa vũ trang trong cách mang tháng tám.