Biến đổi văn hóa của các cộng đồng tộc người thiểu số ở Đông Nam Bộ

pdf 10 trang hapham 1960
Bạn đang xem tài liệu "Biến đổi văn hóa của các cộng đồng tộc người thiểu số ở Đông Nam Bộ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbien_doi_van_hoa_cua_cac_cong_dong_toc_nguoi_thieu_so_o_dong.pdf

Nội dung text: Biến đổi văn hóa của các cộng đồng tộc người thiểu số ở Đông Nam Bộ

  1. Khoa học Xã hội & Nhân văn 9 BIẾN ĐỔI VĂN HÓA CỦA CÁC CỘNG ĐỒNG TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ Ở ĐÔNG NAM BỘ CULTURAL CHANGE OF ETHNIC COMMUNITY IN SOUTHEAST VIETNAM Trần Hạnh Minh Phương1 Tóm tắt Abstract Bài viết đề cập đến văn hóa của cộng đồng người This article is to study the culture of Stieng in Stiêng ở xã Đak-Ơr, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Dak-Oh commune, Bu Gia Map dicstrict, Binh Phước, người Chơ Ro ở xã Phú Lý, huyện Vĩnh Phuoc province; of Choro in Phu Ly commune, Cửu, tỉnh Đồng Nai, người Chăm ở xã Suối Dây, Vinh Cuu dicstrict, Dong Nai province; of Cham tỉnh Tây Ninh và người Hoa ở Thành phố Thủ Dầu in Suoi Day commune, Tay Ninh province; of Hoa Một, tỉnh Bình Dương với các khía cạnh: phương in Thu Dau Mot city, Binh Duong province in all thức sinh sống, tập quán cư trú, phong tục tập quán aspects of living habits, customs and mental life và đời sống tinh thần, tổ chức và quản lý cộng đồng, and community management, then analyzing the qua đó phân tích những biến đổi trong văn hóa cultural changes of these ethnic groups today. của các cộng đồng này trong giai đoạn hiện nay. Keywords: The Southeast, cultures of minority Từ khóa: Đông Nam bộ, văn hóa của các tộc ethnic groups, The Southeast culture. người thiểu số, văn hóa Đông Nam Bộ. 1. Mở đầu 1 2. Nội dung Đông Nam Bộ có vị trí trọng yếu trong chiến 2.1. Về phương thức sinh sống lược phát triển Nam Bộ, là nơi cư trú của nhiều tộc Người Stiêng là cư dân cư trú lâu đời ở Đak- người bản địa: Mạ, Stiêng, M’nông, Cơ ho, và Ơr. Theo thống kê năm 2009, ở xã Đak-Ơr, huyện những tộc người từ nơi khác di cư đến như Hoa, Bù Gia Mập có 3.741 người Stiêng (trên tổng số Chăm, Tày, Nùng, Văn hóa của các tộc người này 13.175 người) (Ủy ban Nhân dân xã Đak-Ơr. 2009, tạo nên bức tranh văn hóa đa dạng và phong phú tr.1) thuộc nhóm Stiêng Bù Dek (Phan An. 2007, cho vùng Đông Nam Bộ, những đặc điểm văn hóa tr.31). Phương thức canh tác cổ truyền của người ấy có ý nghĩa đối với sự phát triển chung của vùng. Stiêng là nông nghiệp nương rẫy. Kỹ thuật canh Nguồn tư liệu chính của bài viết được kế thừa tác thô sơ, hoàn toàn phụ thuộc vào thời tiết, nên từ kết quả nghiên cứu trường hợp người Stiêng ở mỗi năm chỉ trồng một vụ lúa vào mùa mưa. Sau xã Đak-Ơr, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước 3 vụ lúa nếu đất trồng bạc màu, họ chuyển đến nơi (Trần Thị Nhung. 2011); nghiên cứu trường hợp khác, tiếp tục đốt rừng trồng trọt. Do chưa biết sử người Chơ Ro ở xã Phú Lý, huyện Vĩnh Cửu, dụng phân bón, hay áp dụng kỹ thuật trong canh Đồng Nai (Huỳnh Văn Tới, Lâm Nhân, Phan Đình tác nên năng suất chỉ đạt 10-15 tạ/1000 m2 (so với Dũng 2013); người Chăm ở xã Suối Dây, tỉnh ruộng nước của người Việt hiện nay là 1 tấn/1000 Tây Ninh (Lê Nguyễn Minh Tấn. 2005) và người m2). Từ năm 1979, theo sự vận động và hướng dẫn Hoa ở thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương của chính quyền xã, một số gia đình người Stiêng (Huỳnh Ngọc Đáng. 2011). Nội dung của bài viết bắt đầu biết trồng cây điều. Hiện nay, người Stiêng nêu những đặc điểm văn hóa của các tộc người đã chuyển hẳn sang trồng cây lâu năm như điều, Stiêng, Chơ Ro, Chăm, Hoa thể hiện qua phương tiêu hoặc cao su. Ông Điểu Đon kể “Thói quen thức sinh sống, tập quán cư trú, phong tục tập quán canh tác của người Stiêng là trồng cây ngắn ngày và đời sống tinh thần, tổ chức và quản lý cộng như lúa, bắp nhưng năm 1979, nhờ ông Bảy Kính, đồng qua đó phân tích chỉ ra những biến đổi văn Hai Thài là cán bộ xã đem giống cây điều về trồng. hóa của các tộc người. Gia đình ông Hai Thài (Phan Thành Lan – nguyên 1 Tiến sĩ, Trường Đại học Thủ Dầu Một Chủ tịch xã Đak-Ơr), ông Kính trồng trước cho bà Số 17, tháng 3/2015 9
  2. 10 Khoa học Xã hội & Nhân văn con đồng bào Stiêng xem, sau đó vận động người nên thường xuyên thiếu lương thực. Từ năm 1997, Stiêng trồng theo và gia đình ông bắt đầu trồng chính quyền địa phương khuyến khích, tạo điều điều từ đó” (Điểu Đon. 2012.). Ông Phan Thành kiện với việc đầu tư hệ thống các công trình thủy Lan cũng đã khẳng định ông là một trong những lợi, dẫn nước và quy hoạch lại khu vực trồng lúa, người tích cực đem giống điều về trồng thử ở Đak- và hướng dẫn người Chơ Ro trồng lúa nước và hiện Ơr, sau đó đi vận động người Stiêng trồng. Ông nay người Chơ Ro đã hoàn toàn chuyển sang trồng còn trực tiếp hướng dẫn họ cách trồng sao cho đạt lúa nước, mỗi năm hai vụ. Năng suất từ vài ba giạ năng suất cao. một công, nay tăng lên đến hơn chục giạ. Ngoài ra, Gia đình ông Điểu Đon có cách trồng xen canh trong những năm gần đây, bên cạnh cây lúa nước, rất hiệu quả. Từ năm 1992, ông đã trồng điều, ban cây mì (sắn), xoài, điều cao sản đã được người đầu cây điều còn nhỏ, ông vẫn tỉa lúa xung quanh Chơ Ro trồng đại trà, trở thành những cây trồng cây điều. Nên trong thời gian đợi thu hoạch điều chủ lực góp phần xóa đói, giảm nghèo, phát triển gia đình ông vẫn không đói ăn. Điều và lúa trồng kinh tế của cộng đồng. Những năm gần đây, người xen nhau được 4 mùa. Khi cây điều to, rợp bóng, Chơ Ro đã chuyển đổi cơ cấu cây trồng: trồng lúa không thể trồng lúa nữa nên kể từ năm 1996 đến nước, trồng cây ăn quả, trồng cây công nghiệp; vật nay, đất nhà ông chuyển hẳn sang trồng cây công nuôi: nuôi bò quy mô lớn, nhà ít nhất cũng có 5 nghiệp, không còn trồng lúa nữa (Điểu Đon. 2012). con bò, có nhiều gia đình nuôi đến vài chục con, nuôi cá. Chính quyền địa phương giao đất, khoán Người Stiêng đã thay đổi nhiều trong tư duy kinh rừng cho các hộ gia đình chăm sóc, có thu nhập tế, họ chủ động tìm nguồn vốn đầu tư thêm cho sản ổn định. Mặt khác, một số thanh niên Chơ Ro đã xuất. Ông Điểu Đon nói từ ngày chuyển sang trồng đi làm công nhân cho các khu công nghiệp ở vùng cây công nghiệp, đòi hỏi vốn đầu tư lớn, với sự thành phố Biên Hòa, Long Khánh, Xuân Lộc, số hướng dẫn của cán bộ xã, và có được sổ chủ quyền khác đi làm nghề kéo gỗ thuê ở Lào (Huỳnh Văn sử dụng đất (năm 2006), gia đình ông bắt đầu biết Tới, Lâm Nhân, Phan Đình Dũng. 2013, tr.30). Do vay vốn từ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển sự tiếp xúc với người Kinh, người Chơ Ro đã học Nông thôn. Tùy theo diện tích gia đình có được, hỏi kỹ thuật canh tác và chăn nuôi chuyển từ việc ngân hàng sẽ cho vay số tiền nhiều hay ít. Năm trồng lúa nương mỗi năm năm một vụ, không dùng 2012, ông vừa vay được 50 triệu đồng đầu tư vào phân bón, năng suất thấp sang trồng lúa hai vụ, trồng mới mấy trăm gốc cây tiêu (Điểu Đon. 2012). dùng phân bón để tăng năng suất lúa. Như vậy, Người Chơ Ro là hậu duệ của cư dân cổ Môn – cuộc sống hiện nay của người Chơ Ro ở xã Phú Khmer, là cư dân bản địa sinh sống lâu đời ở Đông Lý, huyện Vĩnh Cửu đã khá hơn trước. Nam Bộ, trong đó ở tỉnh Đồng Nai, theo số liệu Người Chăm ở Tây Ninh là “hậu duệ của một điều tra dân số năm 2009 có 15.174 người, cư trú vị vua Chăm và đoàn tùy tùng của ông đã sang tập trung theo cộng đồng ở các huyện Long Khánh, Campuchia thế kỷ XVII và về sau, một bộ phận Xuân Lộc, Định Quán, Vĩnh Cửu, Long Thành trong số đó đã về định cư ở Tây Ninh” (Ngô Văn và Thống Nhất (Huỳnh Văn Tới, Lâm Nhân, Phan Lệ. 2013, tr.11) hay là những người Chăm từ Đình Dũng. 2013, tr.11,14). Riêng trong bài viết Campuchia theo Nguyễn Hữu Cảnh về cư trú tại này, chúng tôi chỉ đề cập đến người Chơ Ro ở xã Tây Ninh khi Nguyễn Hữu Cảnh sang Campuchia Phú Lý, huyện Vĩnh Cửu hiện có 150 hộ. Giống giúp Nặc Ông Thu giải quyết mâu thuẫn nội bộ vào như người Stiêng ở Đak-Ơr, kinh tế truyền thống thế kỷ XVII (Lê Nguyễn Minh Tấn. 2005, tr.22). của người Chơ Ro là săn bắn, hái lượm, đánh bắt Như vậy người Chăm đã có mặt ở Tây Ninh từ thế cá, trồng nương rẫy và làm nghề thủ công. Trước kỷ XVII. Theo số liệu thống kê năm 2005, ở Tây đây người Chơ Ro thường sống ở vùng đồi, núi Ninh có 3041 người Chăm. Riêng ấp Chăm của nên chỉ trồng lúa nương men theo các sườn đồi, xã Suối Dây được hình thành muộn, năm 1987. lúa nương mỗi năm chỉ làm một vụ theo quy trình: Người Chăm ở đây chủ yếu từ thị xã Tây Ninh và phát, đốt rồi chọc lỗ bỏ hạt giống như người Stiêng, Số 17, tháng 3/2015 10
  3. Khoa học Xã hội & Nhân văn 11 xã Tân Hưng về lập nghiệp. Số người Chăm ban và một số ít ở phường Hiệp Thành, Chánh Nghĩa, đầu khoảng hơn 100 hộ (750 nhân khầu), đến năm ở quê nhà họ sống bằng nghề trồng trọt và chăn 2005 là 1364 nhân khẩu chiếm 13,6% dân số toàn nuôi, đến Thủ Dầu Một họ chuyên về gia công, xã (Lê Nguyễn Minh Tấn. 2005, tr.25-26). Kinh chế biến thực phẩm và dịch vụ, buôn bán sỉ và lẻ tế truyền thống của cùa người Chăm là canh tác các mặt hàng tạp hóa. Tiêu biểu có tiệm ông Ích lúa nước với hệ thống thủy lợi khá phát triển từ Sanh của ông Lợi rất lớn, bán đủ loại hàng hóa, lâu đời. Ở Tây Ninh phần lớn người Chăm cũng gạo, vải vóc, công cụ; tiệm Thái Lai của ông Văn sống ở nông thôn nên phương thức sinh sống chủ Điển Cường sau này là tiệm Phước Sanh do ông yếu của họ cũng là nghề nông. Theo Lê Nguyễn Trương Châu làm chủ cũng rất nổi tiếng trong việc Minh Tấn, “trong số 61 hộ có 32 hộ có ruộng đất kinh doanh trà và cà phê. Ông Càn Phong chủ vựa và làm nghề nông” (Lê Nguyễn Minh Tấn. 2005, gạo lớn (Huỳnh Ngọc Đáng. 2011, tr.63). Người tr.26) như trồng lúa, hoa màu: mì cao sản, cây công Hoa nhóm Sùng Chính (Hẹ) có nghề thuốc bắc nghiệp ngắn ngày (mía) hay trồng cây ăn quả, số gia truyền, với các thương hiệu nổi tiếng từ lâu khác không có ruộng đi làm thuê nông nghiệp. đời: Thiên Thọ Đường, Thiên Ích Thọ, Thiện Đức Ngoài ra, họ còn đi lấy măng le, bẩy các loại chim Đường, Ngoài ra, họ còn làm nghề chạm khắc cúc, chim cu để bán tăng thu nhập. Chăn nuôi trâu đá, buôn bán tạp phẩm và làm bánh mì (Huỳnh bò mang lại hiệu quả kinh tế cao. Hộ nuôi trâu Ngọc Đáng. 2011, tr.72). Công trình Người Hoa nhiều nhất là hộ ông Chăm Sa Lế ở tổ 1 có 35 con ở Bình Dương đã nêu lên những đặc điểm về hoạt trâu (Lê Nguyễn Minh Tấn. 2005, tr.34). động kinh tế của người Hoa: kinh doanh buôn bán, Người Hoa gồm các nhóm phương ngữ Quảng làm gốm là thế mạnh của người Hoa Bình Dương, Đông, Hẹ, Phúc Kiến, Hải Nam đến định cư ở kinh tế hộ gia đình, quy mô sản xuất kinh doanh Bình Dương có thể cùng với thời gian hình thành vửa và nhỏ là chủ yếu. Trong buôn bán, người Hoa chợ Phú Cường (1838) (Huỳnh Ngọc Đáng. 2011, rất trọng chữ tín nên hình thức tín dụng trong nội tr.33). Khác với các tộc người Stiêng, Chơ Ro, bộ cộng đồng cùng giúp nhau để phát triển (Huỳnh Chăm, người Hoa thường cư trú tập trung theo Ngọc Đáng. 2011, tr.115-126). nhóm phương ngữ. Tại Thành phố Thủ Dầu Một, Sau 40 năm giải phóng, thực hiện chủ trương ưu năm 2009, có 1129 hộ (6100 nhân khẩu) người tiên phát triển kinh tế cho đồng bào các tộc người Hoa gồm bốn nhóm Hoa Quảng Đông, Phúc Kiến, thiểu số, chính quyền địa phương đã hướng dẫn, Triều Châu, Sùng Chính (Huỳnh Ngọc Đáng. truyền kỹ thuật, cung cấp giống, đất đai đã giúp 2011, tr.46-77). Mỗi nhóm có thế mạnh về ngành người Stiêng, người Chơ Ro, người Chăm chuyển nghề khác nhau. Người Hoa Quảng Đông hầu như từ phương thức sinh sống bằng săn bắt - hái lượm, không làm nông, phần đông sống bằng kinh doanh canh tác nương rẫy sang canh tác lúa nước, trồng buôn bán: tiệm chạp phô, tiệm nước, quán ăn, tiệm cây lâu năm, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Đối với vàng, khách sạn (Huỳnh Ngọc Đáng. 2011, tr.46- tộc người có thế mạnh về kinh doanh buôn bán, 77). Nhiều người mở doanh nghiệp, công ty kinh dịch vụ như người Hoa, từ sau chính sách Đổi mới doanh. Người Hoa nhóm Phúc Kiến sống tương (1986), khuyến khích nền kinh tế thị trường, thừa đối tập trung ở khu vực Lò Chén, phường Chánh nhận thành phần kinh tế tư nhân, nhiều cơ sở kinh Nghĩa, phần đông sống bằng nghề gốm, chỉ có số doanh của người Hoa không ngừng phát triển. ít kinh doanh buôn bán. Trong đó, lò gốm đầu tiên Kinh tế của các cộng đồng tộc người thiểu số ngày của ông Vương Lương đã hình thành trước năm nay đã phát triển hơn so 40 năm trước chính nhờ 1850, một trong những người Hoa đã tạo lập nên vào sự thay đổi phương thức sản xuất có sự hỗ trợ trung tâm gốm Chánh Nghĩa, một trung tâm gốm và khuyến khích từ phía nhà nước. quan trọng của tỉnh Bình Dương (Huỳnh Ngọc 2.2. Tập quán cư trú Đáng. 2011, tr.55). Nhóm Hoa Triều Châu chủ yếu sống tập trung ở chợ Thủ, phường Phú Cường Người Stiêng vốn là cư dân trồng lúa rẫy, sống du canh du cư theo từng cụm trong các cánh rừng, Số 17, tháng 3/2015 11
  4. 12 Khoa học Xã hội & Nhân văn dọc theo các con suối để có nước tưới tiêu và sinh nhà nước đầu tư khoan giếng cho dân, ban đầu ba hoạt. Như lời ông Điểu Đon “từ đời cha của tôi trở nhà được một giếng nước, về sau mỗi nhà đều có về trước gia đình sống du canh, du cư. Thời gian giếng nước. Cho đến nay, người Stiêng, người Chơ sống ở một nơi dài nhất là ba năm – sau ba mùa Ro không còn sử dụng nước suối trong sinh hoạt. lúa rẫy, đất bạc màu không thể trồng tiếp, gia đình Khác với người Stiêng, người Chơ Ro, người di chuyển sang khu vực khác sống (cũng trong Chăm vốn là cư dân định canh, định cư từ lâu đời, cánh rừng này). Sau ba năm đất chỗ cũ phục hồi chỉ khác là người Chăm ở Suối Dây là dân di cư độ màu mỡ, cây lên cao, gia đình quay lại tiếp tục theo chương trình kinh tế mới của Chính phủ, họ phát rừng trồng rẫy” (Điểu Đon. 2012). Từ tháng được chia đất để sản xuất nông nghiệp. Làng Chăm 7 năm 1977, cán bộ xã trực tiếp đi vào rừng vận ở Suối Dây mới hình thành từ năm 1982. động, giải thích cho người Stiêng ích lợi của việc sống định cư, với phương châm “5 gần, 3 có” (gần Người Hoa thường thích cư trú ở những khu Đảng, gần nhau, gần đường, gần chợ, gần trường thị tứ sầm uất, thuận tiện giao thông để thuận tiện học, có nước, có đất, có bưng để sàn xuất) (Huyện phát triển buôn bán. Những người Hoa đầu tiên ủy Phước Long – tỉnh Bình Phước 2005, tr.61). chọn chợ Phú Cường làm nơi định cư vì nơi đây là Ban đầu người Stiêng không hưởng ứng sự vận huyện lỵ Bình An “là khu chợ lớn nhất của cả vùng động này, nhưng sau khi một vài gia đình bỏ rừng Thủ Dầu Một. Đó là nơi có vị trí thuận tiện về giao ra sống gần đường, gần chợ, cuộc sống ổn định thông, cả thủy và bộ. Hàng hóa, nhất là nông sản hơn, dần dần người Stiêng bắt đầu sống định canh từ các vùng chung quanh và vùng trên xuôi về, định cư. Hiện nay, người Stiêng đã bỏ hẳn tập quán đều ghé vào đây để rồi sau đó được các thương gia du canh, du cư, làm nhà sống tập trung tại các thôn chuyền về Gia Định và các nơi xa hơn” (Huỳnh (nhưng bên cạnh đó họ vẫn làm nhà tạm trong rẫy) Ngọc Đáng. 2011, tr.32). gần đường, gần trường học, trạm y tế, gần chợ Theo truyền thống người Stiêng, người Chơ Ro, thuận lợi cho việc đi lại, buôn bán, học tập và chữa sống trong những ngôi nhà dài gồm nhiều gia đình bệnh. Cộng đồng đã không còn sống khép kín như có cùng thân tộc nhưng ngày nay không còn hình trước đây nữa, giao lưu buôn bán, tiếp xúc văn hóa thức cư trú này. Hình thức cư trú gia đình hạt nhân với người Việt. trở nên phổ biến hơn. Nếu trước trước đây những Giống như người Stiêng, trước năm 1975, người cùng thân tộc thường sống thành một khu người Chơ Ro cũng theo tập quán du canh, du nhưng do biến đổi về đất đai (có những gia đình cư. Từ năm 1997, với chủ trương, chính sách khó khăn phải bán đất), nhiều dòng họ sống xen kẽ chung cho các tộc người thiểu số, chính quyền địa nhau, thậm chi có cả người Kinh – vốn là những phương vận động người Chơ Ro sống định canh, người mua đất của họ. Đối với người Hoa, người định cư. Nhà nước cho xây dựng nhà theo chương Chăm tình trạng cũng diễn ra tương tự. Nếu như ở trình 134, 135, xây dựng khu định cư, cấp đất định Ninh Thuận, Bình Thuận, người Chăm thường cư canh. Dần dần, người Chơ Ro bỏ tập quán du canh trú theo huyết thống, tính theo dòng mẹ thì ở Tây du cư để ổn định cuộc sống. Ninh, tính cố kết dòng họ có phần giảm đi, tùy theo điều kiện của từng gia đình họ sẽ tìm mảnh đất Sống định cư, nên nhà ở của người Stiêng, Chơ thích hợp, không nhất thiết phải cùng một khu của Ro cũng khác trước, phần lớn nhà ở của người dòng họ. Người Hoa ở Thủ Dầu Một cũng không Stiêng, Chơ Ro hiện nay đã được xây dựng bán thể duy trì tập quán cư trú theo dòng họ. Tập quán kiên cố, nền gạch, vách tường, mái tole thay thế cư trú thay đổi dẫn đến tính cố kết dòng họ có phần cho những căn nhà tạm bợ bằng tre nứa, mái tranh, lõng lẽo. nền đất. Việc định cư đã làm cuộc sống của cộng đồng Cuộc sống định cư, xa rừng, xa suối, thói quen ngày càng ổn định. Đối với người Chăm, việc di cư dùng nước suối trong sinh hoạt dần dần được thay đến Suối Dây có đất sản xuất (vì trước đó họ là dân bằng việc dùng nước giếng, đặc biệt từ năm 1976, Số 17, tháng 3/2015 12
  5. Khoa học Xã hội & Nhân văn 13 nghèo ở thị xã Tây Ninh, không có đất, cuộc sống người Stiêng vẫn còn tin vào điều này. Ông Điểu bấp bênh) nên cuộc sống khá hơn trước. Người Con kể, em cùng mẹ khác cha của ông là Điểu Doi Hoa, kể từ khi có chính sách được tự do trao đổi, bị con rể tên Điểu Thời chém năm 1996 vì anh ta chuyển nhượng quyền sử dụng đất mạnh dạn đầu nghĩ rằng ông Điểu Doi là ma lai, xuất hiện trong tư vào mua đất, mở thêm nhà xưởng, phát triển quy giấc mơ của anh ta, sẽ theo hại anh ta. Vụ việc mô sản xuất. được chính quyền xã xử công khai để giúp người dân hiểu rõ đây là hủ tục cần loại bỏ, Điểu Thời 2.3. Phong tục tập quán và đời sống tinh thần bị kết án chung thân (Điểu Đon. 2012). Từ sau vụ Ở người Stiêng, độ tuổi kết hôn tăng dần theo việc này đến năm 2012 không còn xảy ra vụ nào thời gian, trước đây ba thế hệ (đầu thế kỷ XX), tương tự. nam nữ có thể kết hôn từ 13 - 17 tuổi, con cái sinh ra từ người cha, người mẹ chưa có một cơ thể hoàn Sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng và vật nuôi làm chỉnh, và chăm sóc y tế kém do tập quán sinh tại một số nghi lễ liên quan đến nông nghiệp nương nhà nên tỷ lệ trẻ em sống thấp. Từ sau năm 1975, rẫy bị mất đi: lễ cầu mưa, tục cúng lúa chữa, lễ hội theo luật pháp, độ tuổi kết hôn của thế hệ thứ hai đâm trâu, lễ mừng lúa mới. Tuy nhiên, một số gia là 16 – 18 tuổi, và hiện nay tuổi kết hôn trung bình đình khá giả khi được mùa vẫn tổ chức lễ quay đầu 18 - 20 tuổi. Hiện nay, lễ cưới người Stiêng được trâu để cúng tạ ơn các Yang, cầu mong sự sinh sôi tổ chức đơn giản hơn, không còn thực hiện nghi nảy nở cho muôn vật, sự bình an cho gia đình dòng lễ hiến sinh khi đoàn rước dâu về nhà trai, cô dâu họ và cả cộng đồng. Những loại bùa ngải yêu, ghét, không còn bước qua một lưỡi búa và cái sừng trâu bùa ngải chữa bệnh, bùa ngải giết người từng chi được đặt ngay cửa, lễ cưới không kéo dài nhiều phối đời sống tinh thần của cộng đồng trong thời ngày và tổ chức linh đình để cả làng cùng dự tốn gian dài nhưng hiện nay do tiếp thu tri thức khoa kém. Tục nối dây theo truyền thống đã không còn học thông qua các phương tiện truyền thông đại được duy trì vì phải tuân theo luật pháp của nhà chúng (chủ yếu là tivi), người Stiêng không còn tin nước. Người Stiêng ảnh hưởng cách tổ chức lễ tuyệt đối vào các loại bùa ngải này nữa. cưới của người Việt, thuê dịch vụ tổ chức đơn giản, Những đặc điểm văn hóa của người Chơ Ro ở diễn ra trong một buổi. xã Phú Lý cũng có nhiều điểm tương đồng với văn Tập tục chôn theo người chết những đồ dùng hóa của người Stiêng. Người Chơ Ro tuân theo lúc sinh thời người này dùng đã giảm đi nhiều vì nguyên tắc ngoại hôn, già làng Nguyễn Văn Nổi những đồ dùng có kích thước lớn không bỏ vào (83 tuổi, ở xã Phú Lý) khẳng định: “Kết hôn cùng quan tài được, họ đặt quanh mộ bị kẻ trộm lấy mất. huyết thống, dù qua mấy đời đi chăng nữa thì đó là Việc làm cho người chết một cái nhà bằng tranh điều cực kỳ tối kỵ của người Chơ Ro”. Do đó khi có hàng rào bao quanh cũng không còn phổ biến. đến tuổi kết hôn, trai gái Chơ Ro thường phải tìm đến những bản làng khác để tìm vợ hay chồng của Theo quan niệm xưa, trong cộng đồng người mình. Ngay chính vợ già làng bà Hồng Thị Lịch Stiêng có hiện tượng ma lai “một người được xem bây giờ, ngày trước phải băng rừng vượt núi, vất là ma lai khi ban đêm họ biến thành ma quỷ đi hút vả lắm mới “bắt về được”. Nguyên tắc này một máu làm người khác ốm đau, chết chóc, người thời đã khiến nhiều nam nữ Chơ Ro không thể kết bị nghi là ma lai sẽ bị buộc phải trả lại toàn bộ hôn và sống trong cô độc đến khi chết. Bởi khi phí tổn mà người nhà có người bị bệnh tật đã bỏ ấy, bộ tộc này ở vùng Nam Cát Tiên mới chỉ một ra để nhờ thầy cúng, bà bóng; phải chạy chữa cho nhóm người nhỏ, sống bên nhau dưới mấy chục những người bệnh tật, ốm đau trong sóc, nếu người nóc nhà hầu hết đều là những người cùng dòng bị bệnh chết: người bị nghi là ma lai bị đưa vào họ. Ngày nay, người Chơ Ro không còn sống khép rừng thủ tiêu bằng cách chặt đầu hoặc chôn sống, kín trong rừng, thanh niên Chơ Ro rời bản đi học, vợ con sẽ bị bán đi nơi xa” (Trần Văn Ánh. 2011, làm ăn xa nhiều nên hiểu biết hơn, gặp gỡ người tr.85). Cho đến năm 2000, ở xã Đak-Ơr, một số nào thấy hợp thì lấy, cha mẹ không ngăn cản gì, Số 17, tháng 3/2015 13
  6. 14 Khoa học Xã hội & Nhân văn hay ép buộc con cái trong hôn nhân nữa. Việc hợp cho người Chăm ở Tây Ninh khác với người Chăm nhau thì cùng chung sống, ngược lại thì ly dị cũng ở Ninh Thuận, Bình Thuận. Người Chăm ở Tây tương tự như người Kinh, chứ không còn chuyện Ninh đều sống quanh các thánh đường (masjid) và lấy nhau tuyệt đối phải ở với nhau dù không hề đời sống tinh thần của họ là đời sống đạo. Hầu hết hạnh phúc. Tuy nhiên, có một nguyên tắc bất di các masjid được trang trí bằng các câu viết bằng bất dịch là người Chơ Ro tuyệt đối không được lấy chữ Ả rập được trích từ kinh Qur’an. Nghi lễ cộng người cùng dòng họ. đồng Chăm Hồi giáo bao gồm lễ Ashoura (1.10 Ngày xưa, lễ cưới ở nhà trai diễn ra ba ngày HL) HL: Hồi lịch) vào dịp đầu năm để tạ ơn thượng ba đêm. Ông trưởng tộc, cha mẹ cô gái, một số bà đế đã ban thực phẩm cho con người và ngày Raya con thân thiết chủ yếu là nam phải ở lại chỗ nhà Adha vào dịp cuối năm (10.12 HL) và giữ tháng trai trong suốt thời gian này, họ hàng nhà trai sẽ hỗ chay Ramadan diễn ra vào tháng 9 Hồi lịch. Ngoài trợ gà, vịt, rượu để nhà trai thết đãi nhà gái nồng ra, người Chăm Hồi giáo còn tổ chức những nghi hậu. Sau khi tổ chức đám cưới ở nhà trai, lễ cưới sẽ lễ vòng đời: lễ đặt tên và cắt tóc trẻ sơ sinh (7 - 14 được tổ chức ở nhà gái thường có quy mô lớn hơn. ngày), lễ thành niên cắt bao qui đầu. Lễ cưới của Trong xã hội truyền thống của Chơ Ro, trưởng tộc người Chăm ở Tây Ninh cũng được thực hiện theo có vai trò quan trọng trong việc tác hợp, hòa giải và nghi thức tôn giáo. Trong nhà của người Chăm Hồi phân xử đôi bên. Tuy nhiên, trong những năm gần giáo không treo hình tượng của người hoặc loài vật đây, người Chơ Ro đã cư trú xen kẽ với tộc người kể cả di ảnh của người thân quá cố vì họ quan niệm khác, hôn nhân khác tộc ngày càng phổ biến, nên về Thượng đế duy nhất, là đấng vô hình. Người những nghi thức, nguyên tắc và quan niệm này đã Chăm Hồi giáo kiêng ăn thịt heo. Các loại thịt ăn thay đổi theo chiều hướng đơn giản hòa để phù đều phải do chính người Chăm Hồi giáo cắt tiết, hợp với tình hình thực tế. Lễ tang của người Chơ không ăn thịt động vật chết tự nhiên. Người Chăm Ro ngày nay cũng đã được đơn giản hóa, không Hồi giáo cũng không được phép uống rượu, bia vì kéo dài gây ô nhiễm môi trường. Tục chia của cho rượu bia làm con người không làm chủ mình dẫn người chết cũng giảm bớt, để tránh tốn kém. đến hành động không tốt. Các nghi lễ vòng đời: lễ cưới, lễ tang đều phải thực hiện theo nghi thức Trước nguy cơ những yếu tố văn hóa truyền Hồi giáo. Đối với người Chăm ở Suối Dây, một thống ngày càng mai một, chính quyền xã Phú cuộc hôn nhân có giá trị phải có các điều kiện “Hai Lý, huyện Vĩnh Cửu đã hỗ trợ người Chơ ro tổ người phải là người theo đạo Islam, phải có mặt cô chức lễ cúng thần lúa (lễ Sayangva hay Opyangva) dâu và chú rể, phải có sự đồng ý của chàng trai và vào ngày 12/4 tại ấp Lý Lịch 1. Đây là để tạ ơn cô gái, họ đều là người trưởng thành và không bị thần linh đã cho một mùa vụ bội thu, đồng thời bệnh nan y, nhất là bệnh tâm thần, phải có người cầu xin mưa thuận, gió hoà vào mùa vụ năm sau. chủ hôn, có hai người làm chứng, có lễ bàn giao Lễ Sayangva gồm phần lễ và phần hội. Phần lễ giữa người chủ hôn và chú rể, phải trao đổi số tiền cúng Thần Lúa bao gồm các nghi thức truyền đồng cho cô dâu” (Lê Nguyễn Minh Tấn. 2005, thống, như rước và dâng cúng lễ vật lên thần lúa; tr.50-51). biểu diễn cồng chiêng; chế biến các món ăn truyền thống (bánh dày, cơm lam, canh bồi, thịt nướng). Văn hóa của người Hoa được thể hiện rõ qua Phần hội, bao gồm các hoạt động biểu diễn văn hình thức sinh hoạt tín ngưỡng. Chúng ta dễ dàng hóa văn nghệ, thi đấu các môn thể dục thể thao: nhận ra ngôi nhà của người Hoa là bàn thờ đa thần kéo co, nhảy bao bố, bắn nỏ, Ngoài ý nghĩa tạ ở gian giữa nhà, thờ chung (từ trái sang phải – từ ơn thần, lễ hội Sayangva còn có chức năng cố kết cao đến thấp): Phật Thích Ca, Quan Thế Âm Bồ cộng đồng. Tát, Quan Thánh Đế Quân, bài vị của tổ tiên (thờ chung ông bà, cha mẹ. Người Hoa không thờ di Người Chăm ở Tây Ninh theo Hồi giáo, và tôn ảnh từng người như người Việt). Ngoài bàn thờ giáo này ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nghi lễ và chính đặt trên cao, dưới đất, góc nhà còn có bàn phong tục tập quán của người Chăm ở đây, làm Số 17, tháng 3/2015 14
  7. Khoa học Xã hội & Nhân văn 15 thờ: Thổ thần và Thần tài, ở bếp có bàn thờ Táo đổi rất nhiều. Những nghi lễ được tổ chức theo quân. Hằng tháng vào ngày mùng một và ngày rằm chiều hướng đơn giản hóa hoặc bị mai một hoàn (15), gia đình đều mua hoa và trái cây về cúng ông toàn. Văn hóa của người Stiêng và người Chơ Ro bà và các vị thần, cầu cho gia đình bình an, làm ăn thay đổi do môi trường sống thay đổi, còn văn hóa phát đạt. Ngoài hệ thống thần linh được thờ trong người Chăm do ảnh hưởng của tôn giáo và hơn tất từng gia đình, các cơ sở tín ngưỡng của cộng đồng cả là sự tác động của quá trình tộc người theo xu người Hoa Quảng Đông còn thờ hệ thống thần linh hướng “Việt hóa”, sự xen cư cùng với người Việt, vô cùng phong phú. Đó là những vị thần mà họ các tộc người này đã tiếp thu một số yếu tố văn hóa tin rằng phù hộ cho cộng đồng trong quá trình di của người Việt (trừ người Chăm) thay thế cho văn cư và định cư, trong đời sống hàng ngày: Thiên hóa truyền thống của tộc người mình. Để phát triển Hậu Thánh Mẫu (Thiên Hậu Cung – chùa Bà Bình các cộng đồng tộc người theo hướng bền vững Dương), Quan Thánh Đế Quân, Ông Bổn, Quan không có nghĩa là khôi phục lại nguyên những yếu Âm Nam Hải, Thổ thần, Thần tài. Đời sống lễ tết tố văn hóa truyền thống xa xưa vốn không còn phù của cộng đồng Hoa Quảng Đông khá phong phú, hợp với xã hội ngày nay mà phải bảo tồn trong sự bao gồm Tết Nguyên đán, Tết Nguyên tiêu, Tết phát triển, sao cho phù hợp để thúc đẩy chứ không Thanh Minh, Tết Đoan Ngọ, Tết Trung Nguyên, phải kìm hãm sự phát triển của cộng đồng. Tết Trung thu, Tết Trùng cửu, lễ hội chùa Bà (23 2.4. Tổ chức và quản lý cộng đồng tháng 3, và mùng 9 tháng 9 âl), lễ hội chùa Ông (24 tháng 6 âl). Múa lân, múa sư tử, múa rồng là những Bên cạnh hệ thống quản lý của nhà nước, mỗi loại hình nghệ thuật dân gian thường được biểu cộng đồng tộc người đều tồn tại hình thức tổ chức diễn trong tết Nguyên tiêu, tết Nguyên đán, mừng và quản lý xã hội của nội bộ cộng đồng tộc người khai trương, biểu thị sự may mắn, điềm lành cho bằng định chế phi chính thức và điều này có ảnh cộng đồng. Trải qua nhiều thế hệ định cư ở vùng hưởng lớn đến sự phát triển của cộng đồng. đất mới, người Hoa ở Thủ Dầu Một không ngừng Ở Đak-Ơr, người Stiêng sống tập trung ở thôn tiếp thu, hội nhập văn hóa Việt nhưng không vì 3 (901 người), thôn 4 (821 người), thôn Bù Bưng thế mà từ bỏ những yếu tố văn hóa truyền thống (901) (Ủy ban Nhân dân xã Đak-Ơr. 2010), Trưởng của tộc người mình. Ở những nơi công cộng, mỗi thôn là người quản lý chính thức các hộ gia đình người Hoa đều hòa nhập vào lối ứng xử chung của trong thôn như trong tâm thức người Stiêng vẫn tồn người Việt, nhưng khi trở về gia đình, họ vẫn giữ tại đơn vị làng (pôh), già làng và trường tộc (kun) nét văn hóa riêng của người Hoa qua ngôn ngữ vẫn là người có ảnh hưởng đối với cộng đồng. Quan (trong gia đình thường nói tiếng của nhóm phương hệ thân thuộc (mpol) vẫn đóng vai trò quan trọng ngữ mình), cách ứng xử giữa các thành viên trong trong cộng đồng. Mỗi cá nhân Stiêng đều thuộc về gia đình, thói quen ăn uống, tín ngưỡng và nhất là mpol của mình, họ giữ mối quan hệ với nhau qua các nghi lễ trong gia đình liên quan đến vòng đời những cuộc viếng thăm, lễ nghi. Theo khảo sát của người. Những đặc tính cốt lõi nhất của văn hóa nhóm tác giả Trần Văn Ánh, người Stiêng ở Bình Hoa từ ngàn xưa vẫn còn bảo lưu cho đến ngày Phước có khoảng hơn 20 dòng họ: “Bù Tiêng, Bù nay. Chính vì thế cho đến ngày nay, dù các bang rây, Mria, Bù Duk, Nanglay, Đlung, Xagarai, Bút hội phân theo ngôn ngữ đã không còn tồn tại, năngglay, Tầm mu, Brarít, B’Yung Đrên, B’yung nhưng chúng ta vẫn có thể phân biệt giữa người Ro Vơ-khul, Vơ-klây, B’Kal, B’Noong, Chang- Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hẹ, hay Hải xarai, Chang-giaring, Tamun, P’Duh, Đông-gôm, Nam đó là do giữa những cộng đồng này vẫn còn Blan. Hiện chưa có tài liệu nào giải thích về ngữ giữ được những nét văn hóa riêng của mình, không nghĩa của các dòng họ này, chỉ có thế phân biệt các hoàn toàn hòa lẫn vào nhau. dòng họ thông qua các tập tục kiêng kỵ các con vật So với trước giải phóng, văn hóa của các cộng hoặc đồ vật nào đó của dòng họ: họ Chang-xarai đồng người Stiêng, Chơ Ro, Chăm, Hoa đã thay kiêng ăn lươn, chim cu, cá sấu và trăn, họ Chang- giarinh kiêng con vật màu trắng và cá chân bông, Số 17, tháng 3/2015 15
  8. 16 Khoa học Xã hội & Nhân văn họ Tamun kiêng đọt mây, ” (Trần Văn Ánh. đã có từ lâu đời vừa mang đậm nét huyền thoại, 2011, tr.54). vừa cụ thể có thực. Mặt khác, họ truyền thống của Song song với luật pháp của nhà nước, trong người Chơ Ro còn ẩn chứa những giá trị nhân văn, nội bộ cộng đồng người Stiêng ở Đak-Ơr vẫn duy đạo đức làm người. Duy trì họ truyền thống cũng trì một số luật tục quy định những quan hệ ứng xử, là cách bảo tồn một di sản văn hóa vẫn còn có tác chuẩn mực đạo đức cá nhân và cộng đồng để bào dụng tích cực cho đến thời kỳ hiện đại; họ truyền đảm cho sự vận hành của xã hội tộc người. Luật thống của người Chơ Ro còn là một đóng góp cho tục quy định về những tội nặng và hình thức phạt: kho tàng ngôn ngữ trong cộng đồng các tộc người tội loạn luân – nghĩa là kết hôn người cùng dòng Việt Nam thêm phong phú và đa dạng. tộc phải chịu một lễ hiến tế chịu tội với thần linh Bên cạnh luật pháp của nhà nước, trong nội bộ gồm các con vật hiến sinh màu trắng: trâu trắng, cộng đồng người Chơ Ro, luật tục vẫn còn chức dê trắng, heo trắng; kẻ phạm tội lừa đảo, trộm cắp năng điều chỉnh và quản lý hành vi con người. phải bồi thường gấp ba lần số tài sản lấy cắp, bị Luật tục Chơ Ro quy định rõ: nếu trong làng có những người trong làng khinh rẻ. người già ốm đau, cô đơn không nơi nương tựa Dù xã hội tộc người Stiêng hiện nay đã biến đổi mỗi gia đình có trách nhiệm nuôi người này một rất nhiều nhưng hình thức tổ chức và quản lý cộng ngày giáp vòng này lại tiếp vòng khác. Người đàn đồng theo truyền thống: làng – già làng, dòng tộc – ông lấy vợ không có con có thể cưới vợ khác nếu trưởng tộc vẫn có vai trò điều hành cộng đồng. Cơ vợ cả đồng ý, nếu vợ cả không đồng ý mà vẫn cưới cấu xã hội này có chức năng duy trì văn hóa truyền vợ khác sẽ bị phạt trâu. Ăn trộm thứ gì phải đền lại thống của tộc người. thứ ấy. Phụ nữ phá thai sẽ bị đánh, chồng đánh vợ sẽ phải làm gà xin lỗi vợ Người Chơ Ro sống theo làng (plei), một làng thường có nhiều dòng tộc, mỗi dòng tộc gồm nhiều Cộng đồng người Chăm ở Tây Ninh được tổ gia đình. Đứng đầu làng là trưởng làng, là người chức theo palei (làng) tạo thành một đơn vị hành đàn ông cao tuổi, có uy tín, hiểu biết về phong tục lễ gọi là jammaah (Ngô Văn Lệ. 2013, tr.21) và tập quán của cộng đồng. Đứng đầu mỗi dòng tộc “tính cộng đồng jammaah đã làm cho người Chăm là trưởng tộc cũng là người cao, thuộc luật tục của cùng hướng đến nhiệm vụ chung của cộng đồng, cộng đồng, đảm trách việc hòa giải những xung trở thành một đặc trưng khá tiêu biều trong văn đột giữa các thành viên trong dòng tộc, quyết định hóa của cộng đồng Chăm Islam ở Nam Bộ” (Ngô và tổ chức việc cưới xin, ma chay của người trong Văn Lệ. 2013, tr.21). Thành đường là nơi diễn ra dòng tộc. Người Chơ Ro ngày nay có hai họ lớn: các hoạt động văn hóa, tín ngưỡng của cộng đồng. Chrau Lun (Cá Sấu) và Bi Cu (Cây gõ mật) và một Đứng đầu mỗi làng, hay mỗi jammaah là Hakim số họ khác ít người hơn như Chư La, Bô Glao, Chư (còn gọi là “Giáo Cả”) do tập thể bầu lên là người Giá Còn các họ Điểu, họ Thuận, Thổ, Thượng, có uy tính, được dân làng kính trọng, là người có Tòng, Thị được cho là vua Minh Mạng ban cho sau kiến thức rộng về giáo lý đề theo dõi việc hành này (Dẫn theo Huỳnh Văn Tới, Lâm Nhân, Phan đạo và giải quyết các vụ tranh chấp giữa các tín Đình Dũng. 2013, tr.35). Những họ này đối với độ với nhau theo luật Hồi giáo. Mặt khác, Hakim người Chơ Ro chỉ dùng để giao tiếp mà thôi. Trong còn là đại diện cho cộng đồng trong mối quan hệ nội bộ cộng đồng tộc người Chơ Ro thì họ vẫn lưu với chính quyền địa phương. Giúp đỡ cho Hakim giữ họ theo luật tục truyền thống, để trong dòng họ còn có Imam, Khotip, Hadji, Tuon (Lê Nguyễn không phạm tội loạn luân. Họ bảo lưu mối quan Minh Tấn. 2005, tr.29) là những giảng kinh, người hệ huyết thống, đồng thời duy trì sự cố kết cộng hướng dẫn tín đồ làm thánh lễ. Hội đồng bô lão đồng và gia đình. Dòng họ cũng là yếu tố cơ sở cũng tham gia điều hành và quản lý làng. Đặc biệt, hình thành các loại quan hệ kinh tế, văn hóa. Ngày tổ chức Islam của thánh đường Islam sẽ quyết định nay, xã hội của người Chơ Ro đang thay đổi từng mọi khía cạnh liên quan đến đời sống hàng ngày ngày người Chơ Ro vẫn duy trì họ truyền thống của người Chăm ở Tây Ninh vì người Chăm là tín Số 17, tháng 3/2015 16
  9. Khoa học Xã hội & Nhân văn 17 đồ ngoan đạo. 3. Kết luận Tổ chức xã hội của người Hoa là bang hội, hội Như Nghị quyết Hội nghị lần thứ VII, Ban đoàn nghề nghiệp, tổ chức họ tộc. Theo Huỳnh Chấp hành Trung ương Đảng Khoá IX về công tác Ngọc Đáng, khoảng những năm 1930, các tổ chức dân tộc đã khẳng định: “Thực hiện tốt các chính bang hội của người Hoa ở Thành phố Thủ Dầu Một sách dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đều đã được hình thành bao gồm: bang Phúc Kiến, đỡ nhau cùng phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng Triều Châu, Khách Gia và Quảng Đông (Huỳnh kinh tế - xã hội, phát triển sản xuất hàng hoá, chăm Ngọc Đáng. 2011, tr.327). Đứng đầu mỗi bang lo đời sống vật chất và tinh thần, xoá đói giảm là bang trưởng do các thành viên trong bang bầu nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn làm giàu và phát chọn, là người có tài sản, có uy tín trong cộng đồng, huy bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của có hiểu biết và biết tiếng Việt. Ngày nay, các bang các dân tộc” (Vy Xuân Hoa, 27/1/2015) đã tạo điều hội này không còn chính thức hoạt động nữa và kiện cho sự phát triển của các cộng đồng tộc người được chuyển thành Hội Tương tế (năm 1995) vẫn thiểu số ở Việt Nam nói chung và ở Đông Nam Bộ theo nhóm phương ngữ. Hội Tương tế hoạt động nói riêng. Những thay đổi trong văn hóa của các theo nguyên tắc liên kết và bảo trợ nhau, không tộc người thiểu số ở Đông Nam Bộ là sự chuyển còn đảm nhiệm vai trò quản lý, thu thuế như bang đổi cơ cấu cây trồng, và vật nuôi, áp dụng khoa hội, và “vai trò chính của Hội Tương tế là chăm lo học kỹ thuật đã mang lại cho cộng đồng một nền và nâng cao đời sống cộng đồng, duy trì mạch liên kinh tế sản xuất hàng hóa, nghề thủ công truyền kết giữa các thành viên trong cộng đồng” (Huỳnh thống bị mai một nhưng cũng xuất hiện một số Ngọc Đáng. 2011, tr.342). Người Hoa ở Thủ Dầu công việc có nguồn thu nhập tương đối ổn định Một còn có hội gia tộc – những người cùng họ, có (cạo mủ cao su, thợ hồ, bóc vỏ điều, làm công nhân nhà thờ họ chung như Lý Thị Gia Miếu của người ở các nhà máy, công ty), nghề chăn nuôi bò (người Hoa nhóm Phúc Kiến. Ở Bình Dương có những Chăm), làm đời sống kinh tế của cộng đồng phát dòng họ lớn như họ Quỳnh, họ Lâm, họ Lợi, họ triển. Người Stiêng, người Chơ Ro cũng từng bước Trần người Quảng Đông. Họ Vương, họ Lý, họ tiếp thu cuộc sống hiện đại: định canh, định cư, Lưu người Triều Châu. Họ Thương, họ Đặng xây dựng nhà ở kiên cố hơn, sử dụng các tiện nghi người Hẹ. Đứng đầu mỗi tộc họ là Tộc trưởng – trong gia đình, ăn chín, uống sôi và sạch, quan tâm người lớn tuổi có uy tín và có vai vế cao nhất trong hơn đến việc chăm sóc sức khỏe theo y khoa, có dòng họ. Tộc trưởng sẽ chủ tri các lễ tưởng niệm sự đầu tư nhất định cho việc học của con cái, chất ở từ đường dòng họ vào các dịp lễ, tết. Tộc trưởng lượng cuộc sống thay đổi theo chiều hướng đi lên. là người gắn kết, hòa giải mâu thuẫn trong nội tộc, So với cuối thế thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cộng giữ gìn đời sống tâm linh. đồng người Stiêng, Chơ Ro phát triển về trí tuệ và sức khỏe (trình độ học vấn tăng, tuổi thọ trung bình Sự tồn tại các định chế phi chính thức: làng - cao hơn). Từ sau chính sách Đổi mới, cơ chế kinh già làng (người Stiêng, người Chơ ro), dòng tộc tế thị trường cho phép người Hoa phát triển hơn - trưởng tộc (Stiêng, Chơ Ro, Hoa) hay Giáo cả nữa thế mạnh kinh doanh, và các nghề thủ công (người Chăm) đã góp phần bảo tồn văn hóa truyền truyền thống. Nhìn chung, sau 40 năm giải phóng thống và duy trì sự ổn định của cộng đồng trước đất nước nền kinh tế của các tộc người thiểu số những đổi thay rất lớn của xã hội hiện đại. Trong ngày càng phát triển, phương thức sinh sống thay chừng mực nào đó, các định chế phi chính thức đổi theo hướng đi lên và hội nhập với người Kinh. này đã “chia sẻ” với định chế chính thức trách nhiệm quản lý cộng đồng. Nên không phải ngẫu nhiên, mà các làng người Stiêng, người Chơ Ro hay người Chăm, người Hoa vẫn tồn tại song song thôn trưởng và già làng, trưởng khu phố và trưởng tộc, giáo cả. Số 17, tháng 3/2015 17
  10. 18 Khoa học Xã hội & Nhân văn Tài liệu tham khảo Phan, An. 2007. Hệ thống xã hội tộc người của người Stiêng ở Việt Nam (từ thế kỷ XIX đến năm 1945). NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Trần, Văn Ánh (chủ nhiệm). 2011. Đời sống văn hóa người Stiêng ở tình Bình Phước, Đề tài cấp bộ, Bản đánh máy. Huỳnh, Ngọc Đáng (chủ biên). 2011. Người Hoa ở Bình Dương, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Điểu Đon, Nội dung phỏng vấn, ngày 12-04-2012. Vy, Xuân Hoa, Chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước trong việc đảm bảo quyền của các dân tộc thiểu số Việt Nam, Ủy Ban Dân tộc, truy cập ngày 27/1/2015. Ngô, Văn Lệ. 2013. “Quá trình hình thành cộng đồng dân cư, tổ chức vả quản lý xã hội Nam Bộ, những thuận lợi và thách thức trong quá trình hội nhập ở Nam Bộ”, Tạp chí Phát triển Khoa học & Công nghệ, số X2, tr.5 - 30. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn, Văn Luận. 1974. Người Chăm Hồi giáo ở miền Tây Nam phần, NXB Bộ Giáo dục Thanh niên, Sài Gòn. Trương, Văn Món. 2013. “Làm gì để đánh thức tri thức bản địa trong mô hình phát triển bền vững ở Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo Tri thức bản địa của các tộc người thiểu số ở Đông Nam Bộ: truyền thống và biến đổi, Bản đánh máy, tr.50-57. Nguyễn, Thị Nguyệt. 2013. “Tri thức địa phương của các dân tộc thiểu số miền Đông Nam Bộ và Nam Tây Nguyên”, Kỷ yếu Hội thảo Tri thức bản địa của các tộc người thiểu số ở Đông Nam Bộ: truyền thống và biến đổi, Bản đánh máy, tr.40-49. Trần, Thị Nhung. 2011. Cộng đồng xã ấp trong sự phát triển bền vững vùng Đông Nam Bộ (2011 – 2020), Đề tài cấp bộ. Lê, Nguyễn Minh Tấn. 2005. Hệ thống thân tộc, hôn nhân và gia đình của người Chăm ở Tây Ninh, nghiên cứu trường hợp ở xã Suối Dây, huyện Tân Châu, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh. Cao, Tự Thanh (chủ biên). 2013. Một trăm câu hỏi đáp về người Hoa ở Gia Định – Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Văn hóa Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh. Huỳnh, Văn Tới; Lâm Nhân; Phan, Đình Dũng. 2013. Văn hóa người Chơ ro, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội. Nguyễn, Tuấn Triết. 2013. “Địa vị già làng trong kho táng tri thức bản địa - Trường hợp người Chơ-ro ở miền Đông Nam Bộ”, Kỷ yếu Hội thảo Tri thức bản địa của các tộc người thiểu số ở Đông Nam Bộ: truyền thống và biến đổi, Bản đánh máy, tr.85-90. Ủy ban Nhân dân xã Đak-Ơr. 2009. Tổng hợp dân số theo dân tộc, Bản đánh máy, tr.1. Ủy ban Nhân dân xã Đak-Ơr, Tổng hợp điều tra dân số và nhà ở năm 2010 - Dân số phân theo dân tộc, Biểu số 02/T-KP, tháng 12/2010. Số 17, tháng 3/2015 18