Công tác phòng chống bạo lực gia đình (Phần 2)

pdf 70 trang hapham 2540
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Công tác phòng chống bạo lực gia đình (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfcong_tac_phong_chong_bao_luc_gia_dinh_phan_2.pdf

Nội dung text: Công tác phòng chống bạo lực gia đình (Phần 2)

  1. MÔ-ĐUN 4 XỬ LÝ BAN ĐẦU ĐỐI VỚI CÁC VỤ BẠO LỰC GIA ĐÌNH
  2. Mô-đun 4 Xử lý ban đầu đối với các vụ bạo lực gia đình Mục đích: Kết thúc phần này, học viên sẽ có thể: • Hiểu được sự cần thiết phải tôn trọng quyền và nhu cầu riêng của mỗi phụ nữ • Có hành động bảo vệ và đảm bảo an toàn cho nạn nhân • Hiểu được tính nhạy cảm trong khi lấy lời khai của nạn nhân • Tiến hành đánh giá về mức độ đe dọa và rủi ro cơ bản của nạn nhân, giúp họ lập kế hoạch an toàn • Làm quen với các loại chứng cứ trong các vụ BLGĐ • Tiến hành đánh giá ban đầu về các vụ việc và các phương án xử lý, bảo vệ • Hiểu được sự cần thiết phải ghi chép và quản lý hồ sơ cho từng vụ việc Mục 1: Giải quyết bạo lực gia đình với tư cách là cơ quan xử lý ban đầu – Tổng quan Tại Việt Nam, xử lý ban đầu các vụ án BLGĐ thường được tiến hành tại cấp thôn bản, xã, phường. Có thể có nhiều cá nhân và tổ chức tham gia xử lý vụ việc BLGĐ, như các thành viên khác trong gia đình, trưởng thôn, công an hoặc Ủy ban nhân dân xã/phường, Hội Phụ nữ hoặc các tổ chức xã hội, cán bộ y tế ở địa phương hoặc các bệnh viện. Khóa tập huấn này là dành cho cán bộ các cơ quan hành pháp và tư pháp, vì vậy mô-đun này tập trung vào cán bộ xử lý ban đầu là những người có thẩm quyền tiến hành điều tra/thẩm vấn và quyết định xử phạt – đó là công an địa phương và đại diện Ủy ban nhân dân cấp cơ sở. Cán bộ xử lý ban đầu Công an Ủy ban nhân dân Xã (nông thôn) Phường (thành thị) Xã (nông thôn) Phường (thành thị) Bán chính quy Chính quy Thôn (nông thôn) Tổ dân phố (thành thị) ↓ ‌ ↓ Trưởng thôn Tổ trưởng dân phố Có thể tư vấn /chuyển vụ việc đến công an và Ủy ban nhân dân Công an và Ủy ban nhân dân là cơ quan ở tuyến đầu của hệ thống tư pháp. Các cơ quan này có trách nhiệm phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật ở cấp xã; đảm bảo an ninh trật tự và thực thi pháp luật. Họ thường được đề nghị can thiệp khi hành vi bạo lực xảy ra hoặc ngay sau đó. Họ có trách nhiệm điều tra ban đầu mọi hành vi bạo lực (nhưng không phải chứng minh tội phạm như Cơ quan điều tra) và tiến hành các cuộc điều tra theo hướng tôn trọng quyền và nhu cầu của tất cả các bên liên quan. Tuy nhiên theo truyền thống, ở nhiều nước nhân viên cảnh sát thường miễn cưỡng khi can thiệp vào các tình huống BLGĐ. Trước đây, văn hóa của cảnh sát cũng như việc huấn luyện của ngành không khuyến khích việc bắt giữ trong các vụ BLGĐ, cảnh sát thường nghiêng về hướng chỉ hòa giải và làm ổn định tình hình. Trước kia, và ngay cả hiện nay, thì những trình báo về BLGĐ thường bị bỏ qua hoặc ít được quan tâm. Lực lượng công an mà trong đó nam giới chiếm đa số hiện nay vẫn mang quan điểm truyền thống đối với phụ nữ. Cán bộ công an có thể quan niệm rằng chồng được phép đánh vợ và BLGĐ là chuyện riêng của gia đình. Khảo sát của UNODC đối với 900 nữ nạn nhân của BLGĐ cho thấy khi công an đến nhà, 34% các nạn nhân đươc công an yêu câu tư giai quyêt vu viêc trong nôi bô gia đinh và 15% được yêu cầu liên hệ với các cơ quan khác ở địa phương như Hội Phụ nữ hoặc tổ hòa giải để được hỗ trợ 1. 1 “Nghiên cứu về chất lượng dịch vụ tư pháp cho nạn nhân BLGĐ ở Việt Nam” do UNODC thưc hiên vơi sư hơp tac cua Trung tâm Phụ nữ và Phát triển, Trung tâm Nghiên cứu về Giới và Phát triển (RCGAD) ởHàNôi vàViện Châu Âu về phòng chống tội phạm (HEUNI) ởHelsinki. 85
  3. Bất kỳ hoạt động tập huấn nào cho cán bộ hành pháp và tư pháp cũng cần nhận thức rằng xử lý các vụ việc BLGĐ là một trong những can thiệp khó khăn nhất đối với họ. Quan hệ tình cảm mật thiết giữa thủ phạm và nạn nhân thường gây thêm phức tạp cho xử lý của cảnh sát hơn là những vụ bạo lực do người lạ gây ra. Nhiều nạn nhân trình báo với công an hoặc UBND chỉ nhằm mục đích ngăn chặn bạo lực chứ không muốn thủ phạm bị truy cứu trách nhiệm hành chính và hình sự. Một số nạn nhân có thể không hợp tác. Họ có thể không cung cấp những thông tin cần thiết để công an và UBND có thể đánh giá toàn diện về vụ việc. Một số nạn nhân có thể giảm nhẹ mức độ bạo lực mà thủ phạm gây ra, họ cũng có thể gặp khó khăn trong việc cung cấp thông tin cho công an hay UBND do bị tổn thương về tâm tý hoặc sợ hãi trước thủ phạm. Những hiểu biết sâu sắc về động cơ của BLGĐ sẽ giúp cán bộ xử lý ban đầu có được cách xử lý hiệu quả và tốt nhất cho nạn nhân. Nó cũng giúp họ hiểu được tại sao với những nỗ lực can thiệp cao nhất, họ vẫn có thể bị nạn nhân từ chối và phải can thiệp nhiều lần với một gia đình. Những kiến thức này hy vọng có thể nâng cao nhận thức về lợi ích tiềm tàng của việc can thiệp; rằng thái độ và phản ứng của công an và UBND có thể tạo ra những tác động sâu sắc đến những tiến triển tiếp theo, kể cả ngăn ngừa những hành vi bạo lực trong tương lai và bảo vệ cho nạn nhân. Ví dụ, trong những trường hợp mà hành vi BLGĐ tái diễn nhiều lần, phản ứng của công an và UBND có thể giúp nạn nhân rời bỏ mối quan hệ bạo lực; trái lại nếu không có những can thiệp đó, nạn nhân sẽ tin rằng không có ai và không có điều gì có thể giúp họ, do vậy họ tiếp tục chịu đựng cảnh ngược đãi và bạo lực. Khi xử lý các vụ BLGĐ, Công an và UBND có vai trò quan trọng trong việc cải thiện cuộc sống cho phụ nữ. Việc đó được thể hiện một phần qua cách họ xử lý vụ việc như thế nào, áp dụng biện pháp nào để bảo vệ người phụ nữ ngay sau sự việc, trước và trong quá trình xử lý cũng như sau đó. Họ cũng có thể giúp nạn nhân tiếp cận tốt hơn với các dịch vụ hỗ trợ như nhà tạm lánh, tư vấn tâm lý và pháp luật; đối xử với nạn nhân là phụ nữ một cách tôn trọng và nhạy cảm; tích cực thu thập và trình bày các chứng cứ; và áp dụng các biện pháp hữu hiệu để bảo vệ nạn nhân. Mục 2: Xử lý bạo lực gia đình – Tiếp nhận thông tin ban đầu 2.1 Các nguồn thông tin tiềm năng về BLGĐ Cũng giống như ở nhiều nước, BLGĐ ở Việt Nam ít khi được trình báo cho công an. Nghiên cứu của UNODC cho thấy 43% các vụ BLGĐ được trình báo với Công an và 57% các vụ không được trình báo.2 Nếu xét đến việc hầu hết các vụ việc được phát hiện trong nghiên cứu này đều là nghiêm trọng thì tỷ lệ trình báo với công an ở đây là khá thấp. Mô-đun 3 cho thấy những nguyên nhân khác nhau khiến nạn nhân không trình báo vụ việc BLGĐ với cán bộ hành pháp. Tuy nhiên nạn nhân có thể thổ lộ với những người khác. Theo nghiên cứu của UNODC thì nạn nhân thường thổ lộ nhiều nhất với người trong gia đình (61%), bạn bè hoặc hàng xóm (55%), với Hội Phụ nữ (49%) nhưng ít khi trao đổi với đồng nghiệp (3%) và cán bộ y tế (1%). Công an và đại diện UBND (gọi chung là cán bộ xử lý ban đầu hay cán bộ) có thể tiếp nhận thông tin về vụ việc BLGĐ thông qua một số nguồn sau: • Cán bộ trực ban tiếp nhận điện thoại của nạn nhân hoặc người làm chứng về vụ việc đang xảy ra tại nhà; • Nạn nhân có thể gọi đến số điện thoại khẩn cấp 113; • Cán bộ trực ban tiếp nạn nhân đến trình báo tại trụ sở công an về vụ việc đã xảy ra; • Cán bộ có thể phải đến trao đổi với nạn nhân tại bệnh viện, nhà tạm lánh hoặc trụ sở UBND; • Cán bộ có thể tiếp nhận thư trình báo qua đường bưu điện hoặc qua hệ thống hộp thư tố giác tội phạm; • Cán bộ có thể có thông tin về vụ việc BLGĐ từ các cơ quan Nhà nước khác như UBND, từ trưởng thôn, Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên hoặc Hội nông dân; • Cán bộ cũng có thể tiếp nhận thông tin từ các đơn vị công an khác như Công an phường/xã; • Cán bộ có thể tiếp nhận thông tin từ những người trong gia đình hoặc hàng xóm của nạn nhân; • Cán bộ có thể tiếp nhận thông tin về BLGĐ từ các cơ quan truyền thông; • Cán bộ có thể có thông tin trực tiếp về BLGĐ khi điều tra một vụ việc khác (VD công an khi điều tra một vụ mất trộm trong gia đình có thể tình cờ phát hiện hành vi BLGĐ trong gia đình đó). Đối với công an, cán bộ trực ban cần ghi chép tất cả các tin báo về BLGĐ vào sổ trực. Đại diện của UBND cũng phải lưu giữ tất cả các tin báo về BLGĐ. 2 “Nghiên cứu về chất lượng dịch vụ tư pháp cho nạn nhân BLGĐ ở Việt Nam”, sách đã dẫn. 86
  4. 2.2 Xử lý kịp thời Tất cả các tin báo về BLGĐ đều cần phải được xử lý kịp thời, bất kể người báo tin là ai. Cán bộ phải được cử đến hiện trường nơi được thông báo là bạo lực đang xảy ra hoặc đến nơi ở của nạn nhân. Ở Việt Nam, nghiên cứu cho thấy hầu hết nạn nhân BLGĐ không tìm kiếm sự trợ giúp của công an hoặc tòa án trừ khi vụ việc xảy ra rất nghiêm trọng.3 Mặc dù nhiều phụ nữ phải chịu đựng cùng lúc các hình thức bạo lực thể chất, tâm lý, tình dục hoặc kinh tế nhưng phần lớn nạn nhân chỉ trình báo với chính quyền địa phương khi xảy ra thương tích nghiêm trọng về thể chất. Điều này cũng tương tự như kết quả nghiên cứu ở các nước khác cho thấy lần trình báo đầu tiên của nạn nhân ít khi xảy ra sau lần đầu bị bạo lực, thậm chí là sau lần bạo lực thứ hai. Nạn nhân thường chỉ trình báo khi bạo lực kéo dài và mức độ thương tích thể chất trở nên nghiêm trọng. Điều này có nghĩa là tất cả các tin báo về BLGĐ cần được Công an và Ủy ban nhân xem xét nghiêm túc. Khi xử lý BLGĐ, mọi hành động của cán bộ xử lý ban đầu đều phải tuân thủ hai nguyên tắc cơ bản: đảm bảo an toàn cho nạn nhân và truy cứu trách nhiệm thủ phạm về hành vi của mình. Đảm bảo an toàn cho nạn nhân đồng thời truy cứu trách nhiệm của thủ phạm về hành vi của mình Một số nước đã quy định tất cả các tin báo về BLGĐ phải được ưu tiên giải quyết. Nghiên cứu đã cho thấy có sự liên hệ giữa chất lượng của thông tin được ghi lại vào thời điểm cuộc gọi và sự ưu tiên giải quyết đối với cuộc gọi ghi trên sổ trực. Mục 3: Đến hiện trường vụ việc bạo lực gia đình 3.1 Đến hiện trường – ổn định tình hình Đến hiện trường – xâm nhập vào chỗ ở Công an và UBND có thể được gọi đến khi nạn nhân gọi điện báo rằng vụ việc bạo lực đang xảy ra hoặc hàng xóm có thể gọi điện cho chính quyền báo tin họ nghe thấy tiếng la hét, tiếng động cho thấy bạo lực đang diễn ra. Khi đến hiện trường: • Công an và UBND cần tự giới thiệu và nói chuyện với người ra mở cửa. • Có thể thủ phạm sẽ ra mở cửa vì anh ta muốn kiểm soát việc cho ai hay không cho ai vào nhà. • Cán bộ xử lý ban đầu cần giải thích lý do có mặt và đề nghị được phép vào nhà để kiểm tra trật tự. Việc giải thích phải thận trọng, không được tiết lộ danh tính người báo tin vì như vậy có thể khiến họ gặp nguy hiểm và khiến hàng xóm không muốn hợp tác trong việc làm chứng. • Cũng cần đề nghị được nói chuyện với bất kỳ ai đang có ở nhà để đảm bảo được mọi người vẫn an toàn. • Nếu có chống đối, cán bộ xử lý ban đầu cần lập biên bản vụ việc, trong đó mô tả về ngôi nhà và chi tiết cuộc đối thoại với chủ nhà. Điều quan trọng là để cho thủ phạm biết rằng vụ việc đã được trình báo với chính quyền địa phương và những biện pháp pháp lý có thể được áp dụng đối với anh ta. • Cán bộ xử lý ban đầu cũng cần thu thập thông tin từ hàng xóm. Cần phải cẩn thận, tránh để xảy ra những xung đột sau này. • Trong trường hợp vào được trong nhà, cán bộ xử lý ban đầu cần đánh giá sơ bộ nguy cơ đe dọa an toàn về thể chất của nạn nhân, sau đó đánh giá thêm như mô tả sau đây, để xác đinhh những công việc tiếp theo. • Công an có thể được phép dùng vũ lực để đột nhập vào nhà mà không cần lệnh khám nhà để nhằm mục đích ngăn chặn bạo lực. Tuy nhiên, nếu muốn khám nhà để thu thập chứng cứ, họ cần phải có sự đồng ý của chủ nhà hoặc lệnh khám nhà của Thủ trưởng Cơ quan điều tra (Điều 140 và 143 Bộ luật Tố tụng Hình sự). • Nếu xử lý ban đầu là cán bộ UBND và nghi ngờ bạo lực vẫn đang diễn ra, họ cần liên hệ với công an địa phương là người có thẩm quyền được vào nhà không cần lệnh khám xét theo điều 140 Bộ luật Tố tụng Hình sự. • Theo điều 82 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Công an có thể bắt giữ thủ phạm trong trường hợp bắt quả tang đang phạm tội. 3 Minh 2007, Mai và cộng sự, 2004 như trích dẫn trong “Bạo lực trên cơ sở giới: Báo cáo chuyên đề” do Nhóm điều phối chương trình về Giới của Liên hợp quốc, Dự thảo cuối cùng, ngày 17/5/2010. 87
  5. Đến hiện trường – những bước xử lý đầu tiên Ngay sau khi có mặt tại hiện trường, cán bộ xử lý ban đầu cần tiến hành: • Nhanh chóng tách riêng những người có liên quan. Bởi vì điều này sẽ giúp kiểm soát tình huống, thật quan trọng nếu các cán bộ đảm bảo được các bên liên quan không nhìn và không nghe thấy nhau. • Tiến hành một số thủ tục để đảm bảo an toàn cho nạn nhân, bao gồm cả con của nạn nhân nếu có mặt. Thủ tục đó bao gồm: o xác định và thu giữ bất kỳ hung khí nào đang được sử dụng; o cách ly, tìm và khống chế thủ phạm nếu anh ta có mặt và đưa anh ta ra khỏi hiện trường nếu cần thiết; o trợ giúp y tế với bất kỳ người nào cần trợ giúp. Trách nhiệm chung của cán bộ xử lý ban đầu Trách nhiệm chung của cán bộ xử lý ban đầu bao gồm một số hoạt động - chi tiết sẽ được đề cập ở phần sau của mô-đun này – nhưng nhìn chung là: • Thu thập thông tin đầy đủ về sự việc từ tất cả các bên liên quan (nạn nhân, người bị tình nghi, người làm chứng). • Xác định xem có rào cản ngôn ngữ không và tìm phiên dịch nếu cần. Không nên sử dụng trẻ em hoặc người trong gia đình làm phiên dịch. • Bảo vệ hiện trường và bước đầu xác định tất cả các chứng cứ có thể có và lập danh sách những người có thể làm nhân chứng. • Đảm bảo rằng bất kỳ trẻ nhỏ nào ở hiện trường cũng đều được trợ giúp/hỗ trợ cần thiết, bao gồm cả việc giới thiệu đến những cơ quan liên quan. • Xác định tính chất của vụ việc – vi phạm pháp luật hành chính hay tội phạm hình sự. • Giải thích cặn kẽ cho nạn nhân các lựa chọn về mặt pháp lý. Nếu cần có sự đồng ý của nạn nhân để tiến hành điều tra và hoặc trưng cầu giám định thì cần động viên, trợ giúp nạn nhân trong việc quyết định. • Xác định có cần bắt hoặc giam giữ người bị tình nghi trong trường hợp đó. • Thông báo cho cơ quan điều tra trong trường hợp cần thiết. • Trợ giúp nạn nhân trong việc lập kế hoạch an toàn cho cá nhân, bao gồm cả quyết định cấm tiếp xúc nếu cần thiết. Mục 4: Công tác thu thập chứng cứ 4.1 Tiến hành điều tra tại hiện trường: Tổng quan Khung pháp lý Việt Nam quy định một số cách xử lý vụ việc tùy thuộc vào tình huống cụ thể của từng vụ việc. Để quyết định được biện pháp xử lý nào là phù hợp, do tính phức tạp của các tình huống BLGĐ, cán bộ xử lý ban đầu cần điều tra đầy đủ trước khi quyết định. Mọi sự việc đều phải được ghi chép lại. Điều này đảm bảo cho hồ sơ được đầy đủ và chính xác cho từng sự việc, dù chính quyền địa phương xử lý theo hướng nào. Lưu trữ hồ sơ vụ việc có hai mục đích: thứ nhất là để khẳng định rằng tất cả các vụ bạo lực đều được chính quyền địa phương xử lý nghiêm túc; thứ hai, đảm bảo ghi chép đầy đủ thông tin về quá trình bạo lực. Điều tra tại hiện trường và bảng kiểm Cán bộ xử lý ban đầu cần tiến hành các hoạt động điều tra tại hiện trường như sau: • Thu thập và bảo quản chứng cứ theo quy trình điều tra của Cơ quan điều tra. • Ghi chép tỉ mỉ, bao gồm các hành động và lời khai của các bên liên quan. • Tiến hành lấy lời khai chi tiết của nạn nhân và người làm chứng. • Lấy lời khai người bị tình nghi. • Hoàn thiện báo cáo chi tiết vụ việc đối với tất cả các vụ BLGĐ xảy ra, bất kể có khởi tố vụ án hay không, và đảm bảo các thông tin được lưu giữ trong hệ thống thông tin của cơ quan công an và UBND để sử dụng tham khảo sau này. Điều tra ban đầu là một hoạt động bài bản nhằm làm rõ hành vi vi phạm pháp luật bằng cách xem xét sự kiện và tình huống của vụ việc và xác định các phương án xử lý phù hợp với sự kiện và tình huống đó. 88
  6. Mọi tin báo về BLGĐ đều phải được xử lý bằng một cuộc điều tra nghiêm túc về vụ việc. Điều này sẽ chứng tỏ cho thủ phạm và cộng đồng thấy chính quyền nhìn nhận các vụ việc BLGĐ một cách nghiêm khắc. Ngoài ra việc điều tra cũng giúp Công an và UBND hiểu rõ hoàn cảnh vụ việc trước khi quyết định áp dụng một chế tài xử lý phù hợp. Cán bộ xử lý ban đầu cần tìm kiếm các đồ vật có thể là vật chứng và xác định giá trị của các chứng cứ tìm thấy. Chứng cứ có thể là vật chất như vũ khí, tài liệu, hình ảnh, hoặc có thể là phi vật chất như lời khai nhân chứng, người bị hại, đối tượng gây bạo lực Các chứng cứ khác nhau thu thập được có thể củng cố chứng cứ của nạn nhân và có thể được cán bộ xử lý ban đầu sử dụng để đánh giá ban đầu xem chế tài và biện pháp bảo vệ nào cần thiết áp dụng. 4.2 Kỹ thuật lấy lời khai: Nạn nhân, người làm chứng và người bị tình nghi Công an lấy lời khai nạn nhân nhằm xác định việc gì đã xảy ra, thu thập chứng cứ, tham gia thực hiện các biện pháp phòng ngừa hành vi bạo lực tiếp theo và bảo vệ cho nạn nhân. Lời khai của nạn nhân và người làm chứng thông thường là những chứng cứ quan trọng nhất trong các vụ BLGĐ. Bản khai/lời trình bày của nạn nhân Do tính chất phức tạp của BLGĐ nên việc công an và UBND có hành động mang tính nhạy cảm với nhu cầu nạn nhân là rất cần thiết. Cách chính quyền địa phương phản hồi đối với nạn nhân có thể ảnh hưởng quan trọng đến việc họ có theo đuổi các biện pháp pháp lý đối với hành vi bạo lực mà họ bị trải qua hay không. Tuy nhiên dù quy trình pháp lý nào được tiến hành đi nữa, dù là chế tài hành chính hay hình sự, thì cán bộ xử lý ban đầu cũng cần đối xử với nạn nhân trong tất cả các vụ BLGĐ một cách thông cảm và đảm bảo an toàn cho họ. Nạn nhân BLGĐ có thể biểu hiện không giống như nạn nhân của các tội phạm hoặc hành vi vi phạm pháp luật khác. Họ có thể hành xử theo nhiều cách khác nhau nên cán bộ xử lý ban đầu cần hiểu và chuẩn bị tinh thần trước một số cách hành xử có thể xảy ra. Sự mâu thuẫn trong tư tưởng, phủ nhận và không tự quyết định được - đặc điểm thường thấy của nạn nhân bị bạo lực - có thể là cách mà nạn nhân học được để tồn tại với bạo lực. Những phản ứng có thể thấy ở nạn nhân • Nạn nhân có thể tỏ ra thờ ơ. Họ có thể im lặng hoặc dè dặt; miễn cưỡng trả lời các câu hỏi về sự ngược đãi. • Nạn nhân có thể phủ nhận. Họ có thể từ chối không xác nhận có vụ việc bạo lực hoặc giảm nhẹ mức độ lạm dụng hoặc rút lại lời khai sau đó. Họ có thể bảo vệ thủ phạm và có thái độ gây gổ đối với công an. • Nạn nhân có thể giận dữ. Họ giận dữ vì những tố cáo trước đây về bạo lực không hề khiến người chồng bị xử lý; giận dữ vì họ không được bảo vệ khỏi bạo lực tái diễn của người chồng. • Nạn nhân có thể sợ sệt. Họ lo sợ bị thủ phạm trả thù vì những xử lý của công an; họ có thể lo sợ rằng công an sẽ không có hành động nào để ngăn chặn bạo lực; lo sợ công an sẽ tin lời thủ phạm chứ không tin họ; lo sợ rằng chính quyền sẽ đưa con cái của mình đi như lời thủ phạm đã đe dọa. Cán bộ xử lý ban đầu phải nhận thức được rằng một số phản ứng của nạn nhân, mặc dù rất khó chịu, nhưng có thể khiến nạn nhân và gia đình cảm thấy an toàn hơn sau khi cán bộ chính quyền đi khỏi hiện trường hoặc sau khi thủ phạm bị tạm giữ được trả tự do. Công tác lấy lời khai nạn nhân có thể tiến hành ở nhà, tại nhà tạm lánh, ở bệnh viện, ở trụ sở công an hoặc UBND. Bất cứ ở địa điểm nào, Công an hoặc cán bộ UBND trong khi lấy lời khai cũng cần tôn trọng sự riêng tư và bí mật của nạn nhân. Nạn nhân có thể cảm thấy thoải mái hơn nếu được ở cạnh một người hỗ trợ họ như một người bạn, người thân trong gia đình hoặc cán bộ Hội Phụ nữ. Việc lấy lời khai nạn nhân luôn phải được tiến hành khi không có mặt của thủ phạm. Việc lấy lời khai những phụ nữ là nạn nhân BLGĐ đòi hỏi sự quan tâm, kiên nhẫn và nhạy cảm. Một số phụ nữ có thể miễn cưỡng không muốn trả lời chi tiết, không muốn thuật lại sự việc hoặc đôi lúc muốn rút lại lời khai. Họ có thể lo lắng đến khả năng tường thuật lại vụ việc một cách lộn xộn không có đầu, có giữa hay có cuối. Cán bộ xử lý ban đầu cần hỗ trợ họ bằng cách đặt những câu hỏi cụ thể và trực tiếp. Nạn nhân có thể sợ hãi các cán bộ hành pháp 89
  7. và không sẵn sàng hợp tác với họ bởi nhiều lý do. Họ thường thấy xấu hổ, ngại ngùng về những gì đã diễn ra, đặc biệt trong trường hợp bị lạm dụng tình dục hoặc hiếp dâm. Họ cũng có thể sợ thủ phạm phát hiện ra việc họ trình báo thì sẽ giết họ, hoặc sợ gia đình và cộng đồng coi thường họ nếu biết việc trình báo. Những điểm lưu ý trong khi lấy lời khai nạn nhân • Khi tham gia giải quyết các vụ việc, cán bộ chính quyền địa phương cần lấy lời khai chi tiết của nạn nhân, bất kể vụ việc được đánh giá ban đầu là vi phạm hành chính hay tội phạm hình sự. • Cán bộ xử lý ban đầu cần tạo ra không khí cởi mở và khuyến khích để đảm bảo công tác lấy lời khai được tiến hành với sự thông cảm, tôn trọng và kín đáo. • Cán bộ xử lý ban đầu đặt câu hỏi bằng lời nói và ghi lại lời khai. Trách nhiệm của cán bộ là đảm bảo mọi tình tiết quan trọng đều được ghi lại. • Nạn nhân phải được đọc lại trước khi ký vào bản khai. • Trong các trường hợp nạn nhân đã viết sẵn trình báo hoặc bản khai, cán bộ xử lý ban đầu có trách nhiệm đọc lại bản khai để đảm bảo rằng tất cả các tình tiết quan trọng được mô tả đầy đủ và nếu không có, cần hỗ trợ nạn nhân bổ sung các chi tiết quan trọng này. • Trong khi giải thích luật và quyền của nạn nhân, cán bộ nên khuyến khích nạn nhân hợp tác và đảm bảo rằng nạn nhân được pháp luật bảo vệ. Các cán bộ xử lý ban đầu cần nhận thức được rằng họ có mặt ở đó để trợ giúp, không phải để phán xét, và người phụ nữ phải luôn được đối xử không có thành kiến và phân biệt. Việc lấy lời khai nạn nhân chỉ được tiến hành sau khi đảm bảo an toàn ban đầu cho người phụ nữ và các vết thương đã được xử lý. Cán bộ xử lý ban đầu cần giải thích về luật pháp cũng như quyền của nạn nhân, bao gồm quyền từ chối cung cấp lời khai hoặc cung cấp lời khai vào thời điểm sau. Tốt nhất, việc lấy lời khai nạn nhân phải thực hiện ở nơi riêng tư, yên lặng, dù địa điểm lấy lời khai là ở đâu. Phòng thẩm vấn tại trụ sở công an không phải là nơi phù hợp để lấy lời khai của nạn nhân. Nên lấy lời khai ở gần những nơi tiếp dân khác nhưng người qua lại không thể nhìn thấy. Một điều quan trọng cần ghi nhớ là phụ nữ ở đây là nạn nhân chứ không phải là đối tượng tình nghi, vì vậy không được áp dụng các phương pháp hỏi cung của công an. Bảng liệt kê các nội dung cần hỏi đối với nạn nhân • Chi tiết về vụ việc xảy ra • Tình trạng của quan hệ gia đình trong hiện tại và trước kia • Tiền sử bạo lực/lạm dụng (thể chất, tình dục, lời nói, kinh tế, tình cảm) • Chi tiết về thủ phạm: việc làm, có nghiện hút, nghiện rượu, bệnh tâm thần, trầm cảm • Các hành vi kiểm soát như cô lập, ghen tuông • Có hung khí hay không • Những xử lý trước đây của công an, UBND hoặc Hội phụ nữ • Đe dọa xâm hại/hành vi theo dõi • Mức độ leo thang bạo lực • Sự lo lắng và mối quan tâm của nạn nhân Điều quan trọng là các chi tiết của vụ bạo lực này có liên hệ như thế nào với quá trình bạo lực từ trước đến nay và bối cảnh mà bạo lực xảy ra trong gia đình. Lấy lời khai người làm chứng, đặc biệt là trẻ em Cần rất thận trọng và nhạy cảm khi lấy lời khai của trẻ em. Trẻ có thể bị tổn thương khi phải chứng kiến bạo lực. Trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ. Các em trải nghiệm sự kiện, suy nghĩ, nói và ứng xử theo cách riêng, phù hợp với lứa tuổi và khả năng suy luận của mình. Nếu muốn trẻ em tham gia một cách có ý nghĩa vào quá trình pháp lý và tránh bị tổn hại thêm, chúng ta cần điều chỉnh ngôn ngữ và hành vi của mình khi giao tiếp với các em. 90
  8. Những vấn đề chính cần lưu tâm khi lấy lời khai người làm chứng là trẻ em: • Lấy lời khai trẻ em khi không có mặt nạn nhân và người bị tình nghi, ở một nơi mà trẻ em thấy thoải mái; • Cúi người xuống hoặc ngồi ngang tầm của trẻ; • Bắt đầu bằng việc làm thân với trẻ; • Giải thích tại sao bạn có mặt ở đó và làm những việc bạn đã làm; đảm bảo rằng các em không bị rắc rối; • Sử dụng ngôn ngữ đơn giản và các câu ngắn, cân nhắc cho phù hợp với lứa tuổi, vẻ chín chắn bên ngoài và trình độ tư duy của trẻ; • Đảm bảo không có gợi ý nào khiến trẻ bị ảnh hưởng theo; • Chú ý xem trẻ có tỏ vẻ sợ bố/mẹ hoặc cả bố mẹ; • Chú ý nếu trẻ có cảm giác mình có lỗi hoặc phải chịu trách nhiệm; trấn an trẻ; • Chú ý xem có phải trẻ cũng là nạn nhân của sự ngược đãi, trẻ có thể không tin tưởng vào người lớn hoặc bị cấm không được tiết lộ với người ngoài. Lấy lời khai người bị tình nghi Thủ phạm, cũng như nạn nhân, được đảm bảo một số quyền, trong đó có quyền được công an và các cơ quan có thẩm quyền khác đối xử tôn trọng, được thông báo tại chỗ lý do bắt giữ hoặc tạm giam, được suy đoán vô tội, được bảo vệ khỏi sự cưỡng chế quá mức cần thiết của Nhà nước, không bị tự buộc tội, có quyền được tư vấn luật pháp và quyền được xét xử công bằng. Những vấn đề chính cần lưu tâm khi lấy lời khai người bị tình nghi: • Tách riêng khỏi nạn nhân; • Đề nghị người bị tình nghi ngồi xuống và bình tĩnh; • Không đưa ra những lời buộc tội khiến người này phải bào chữa; • Ghi nhận sự bực dọc, lo lắng, tức giận của người này; • Ghi lại những câu như “tôi mới chỉ đẩy cô ấy”, “cô ấy dễ bị bầm tím lắm”, hoặc “tôi túm lấy cô ấy chỉ để cô ấy phải nghe tôi nói”; • Đừng nói rằng bạn hiểu hay thông cảm; tỏ rõ rằng tức giận hay cãi cọ không phải là nguyên nhân gây ra bạo lực; • Nếu người tình nghi có hỏi thì không trả lời rằng nạn nhân báo công an. 4.3 Các loại chứng cứ khác Ngoài lời khai của nạn nhân, người làm chứng và có thể cả người bị tình nghi, cán bộ xử lý ban đầu cần xác định và bảo quản bất kỳ loại chứng cứ nào khác có liên quan. Các cán bộ này cần ghi chép cẩn thận, đầy đủ về các chứng cứ vật chất vì họ có thể phải chuyển những ghi chép này cho Cơ quan điều tra hình sự nếu cần khởi tố vụ án hình sự. Những chứng cứ có thể có trong những vụ BLGĐ • Lời khai của nạn nhân và nhân chứng; • Dấu vết thương tích (vết thương hở, cào xước, thâm tím, vết gãy, bóp cổ, giật tóc) có thể chụp ảnh hoặc được bác sỹ khám chứng nhận); • Quần áo rách; • Móng tay gãy; • Nhắn tin ghi âm; • Nhật ký, ghi chép, thư từ – có thể của người bị tình nghi hoặc do nạn nhân ghi chép, trong đó nêu rõ những hành vi lạm dụng và bạo lực trước đó; • Hung khí; • Các vật dụng gia đình bị vỡ, cho thấy dấu hiệu của bạo lực; • Nhận xét của hàng xóm, bạn bè, gia đình; • Bản khai của những người giúp việc trong các vụ việc bạo lực trước đây; • Báo cáo về vụ việc trước đây của công an/của UBND; • Hồ sơ bệnh án mô tả chi tiết thương tích trước đây (chỉ được sử dụng khi được nạn nhân cho phép); • Các quyết định, VD quyết định cấm tiếp xúc; • Chứng cứ về việc thủ phạm có nghiện rượu/ma túy; • Tiền án/tiền sự của thủ phạm; 91
  9. • Mẫu giám định gien (DNA); • Vi tính, internet, tin nhắn và các dạng chứng cứ điện tử khác. Chiến lược mẫu của Liên hợp quốc Các biện pháp điều tra không được làm mất danh dự của những phụ nữ bị bạo lực và phải giảm thiểu sự xâm phạm vào cuộc sống của họ, đồng thời đảm bảo thu thập được những chứng cứ tốt nhất. Hoạt động điều tra cần phải nhạy cảm với đặc thù của tội phạm và của nạn nhân. Một số gợi ý về thu thập chứng cứ: • Ghi lại thương tích của nạn nhân (về thể chất, tình dục hoặc tinh thần) bằng ảnh và sơ đồ miêu tả khi được nạn nhân đồng ý. Chú ý: Thương tích của nạn nhân cần được chụp lại trong vòng 24-48 giờ sau khi sự việc xảy ra vì lúc đó thương tích được nhìn thấy rõ hơn. • Các bức ảnh hiện trường (VD đồ đạc bị xáo trộn hoặc tài sản bị phá hủy). • Vũ khí bị thu giữ. • Thu thập bất kỳ chứng cứ nào khác, bao gồm các cuốn băng của máy trả lời tự động, hồ sơ y tế, quần áo rách hoặc dính máu, dấu vân tay, nếu cần. Chứng cứ vật chất Ghi chép Ảnh Chứng cứ khác Thông tin về y tế • Tình trạng và thái độ của nạn nhân, nghi phạm Hiện trường vụ • Băng ghi • Sự đồng ý của và con cái việc (đồ đạc lộn âm lời nhắn nạn nhân để • Quần áo rách xộn, tài sản bị phá điện thoại công bố các • Trang điểm lem nhem hủy, các vết máu) • Quần áo thông tin y tế • Nạn nhân có thai không • Thương tích của rách hoặc có • Hồ sơ của • Xáo trộn trong nhà nạn nhân ngay vết máu của bệnh viện/ • Triệu chứng nghi phạm nghiện rượu hoặc các sau khi sự việc nghi phạm phòng cấp cứu chất hướng thần xảy ra, nếu được và nạn nhân • Báo cáo xử lý • Những thương tích rõ ràng của nạn nhân (về sự đồng ý của • Điện thoại bị vụ việc lạm thể chất, tình dục, thương tích bên trong) mô tả nạn nhân phá hỏng dụng tình dục bằng biểu đồ, khi có sự cho phép của nạn nhân • Nếu được sự • Hung khí • Lời chia sẻ của đồng ý của nạn • Dấu vết vân nạn nhân với Xem xét trên nạn nhân: nhân, chụp tay nếu nghi cán bộ y tế • Dấu hiệu/triệu chứng của bóp cổ/ xiết cổ thương tích của phạm đột • Các thương tích dưới tóc nạn nhân 24-48 nhập vào • Thương tích đằng sau tai giờ sau khi sự nhà nạn việc xảy ra là nhân Xem xét trên thủ phạm: lúc thương tích • Thư từ, ghi • Thương tích do tấn công (VD trầy xước khớp thấy rõ hơn chép, tài ngón tay) • Thương tích của liệu, nhật ký • Các thương tích do nạn nhân kháng cự người bị tình và các chứng • Ghi chép về vóc người của nạn nhân và nghi nghi, nếu có cứ khác phạm được so sánh với nhau Cần thu giữ tất cả chứng cứ vật chất; không để lại cho nạn nhân giữ. Chứng cứ về bạo lực tình dục/hiếp dâm Bạo lực tình dục, trong đó có hiếp dâm, là những sự việc gây sang chấn cho bất kỳ ai phải chịu đựng. Mọi phụ nữ đều có quyền từ chối quan hệ tình dục, kể cả với chồng và ở nơi riêng tư là nhà mình. Nhiều nạn nhân của bạo lực tình dục trong gia đình giữ im lặng về những gì họ trải qua. Ở Việt Nam, cụm từ “hiếp dâm trong hôn nhân” không được sử dụng. Từ trước tới nay không có vụ hiếp dâm trong hôn nhân nào được xử ra tòa ở Việt Nam. Tuy nhiên, 92
  10. có bằng chứng cho thấy “cưỡng ép quan hệ tình dục” trong hôn nhân có xảy ra.4 Sự không trình báo đầy đủ về bạo lực tình dục có thể do một số nguyên nhân. Tình dục được coi là vấn đề riêng tư và không được thảo luận cởi mở trong xã hội Việt Nam. Ngoài ra còn có quan niệm rằng người vợ phải phục tùng chồng và vì thế không được từ chối khi chồng muốn quan hệ tình dục. Khi cán bộ xử lý ban đầu được báo đến hiện trường của một vụ việc BLGĐ, họ cần chú ý xem có các dấu hiệu lạm dụng tình dục. Như đã nêu ở trên, những nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng khi có một dạng BLGĐ, rất có thể có các dạng bạo lực khác cũng xảy ra. Công tác điều tra về bạo lực tình dục và thu thập chứng cứ liên quan đòi hỏi cán bộ hành pháp phải hết sức nhạy cảm. Các bước điều tra phải thể hiện sự tôn trọng nạn nhân và sự riêng tư của họ, những sang chấn họ phải trải qua và phải giảm thiểu việc xâm phạm vào cuộc sống của nạn nhân. Bạo lực tình dục có thể để lại những chứng cứ như vết cắn, nước bọt, vết máu, tinh dịch, sợi vải dính vào móng tay, vết trói, tóc và các mô. Giám định pháp y đối với chứng cứ là việc sử dụng các quy trình và kiến thức khoa học để xác định vụ việc vì mục đích pháp lý. Vì thế, chứng cứ pháp y thường là một dạng chứng cứ vật chất được giám định pháp y – ví dụ như máu, tinh dịch hoặc các mô. Thực tiễn tốt Một số nước đã thành lập các đội liên ngành: cán bộ điều tra cộng tác với cán bộ tư vấn, cán bộ xã hội, nhà tâm lý, đại diện pháp luật của nạn nhân hoặc những ai có thể thực hiện hỗ trợ đặc biệt cho nạn nhân cũng như cán bộ điều tra. Một số nước cũng đã xây dựng trong lực lượng cảnh sát những đơn vị đặc biệt gồm cảnh sát được đào tạo chuyên sâu để xử lý các vụ BLGĐ và bạo lực tình dục. Đánh giá thương tích Một trong những nhiệm vụ chính của cán bộ xử lý ban đầu là đánh giá thương tích mà vụ BLGĐ gây ra. Thông thường cán bộ hành pháp phải xử lý các vụ BLGĐ trong đó bạo lực thể chất gây ra thương tích. Xác định tỷ lệ thương tật trong các trường hợp này là điều rất quan trọng để xác định biện pháp tư pháp phù hợp nào cần áp dụng. Ở Việt Nam, chứng nhận y tế về tỷ lệ phần trăm thương tật là chứng cứ tối quan trọng trong các vụ án về BLGĐ. Nếu muốn sử dụng làm chứng cứ trước phiên tòa thì chứng nhận thương tật phải do hội đồng giám định pháp y xác nhận chứ không phải là công an. Tuy nhiên, trách nhiệm của cán bộ xử lý ban đầu là phải thực hiện đúng đánh giá sơ bộ về thương tích, nhất là khi họ là những người có mặt đầu tiên tại hiện trường để trợ giúp nạn nhân. Họ cần phải hỏi về thương tích vì có thể quần áo che khuất hoặc thương tích chưa thể hiện rõ, như dấu hiệu của bóp cổ. Việc kiểm tra thương tích bằng mắt thường hoặc chụp ảnh có thể phải do cán bộ công an nữ thực hiện, tùy vào vị trí của thương tích. Bóp cổ là một trong những thương tích phổ biến nhất nhưng dễ bị bỏ sót trong các vụ BLGĐ. Những nghiên cứu gần đây chỉ ra khả năng dẫn đến chết người của loại thương tích này. Não bị tổn hại do thiếu ô-xy, nạn nhân có thể bị đột quỵ, xảy thai hoặc tử vong trong vòng vài tuần sau đó. Một số dấu hiệu ban đầu của bóp cổ gồm: Sự thay đổi giọng nói, từ khản giọng đến mất tiếng hoàn toàn, thở khò khè, khó nuốt, khó thở, trầy xước và đổi màu da trên cổ, vết hằn ở da, lưỡi sưng, vỡ mao mạch ở mắt. Cán bộ xử lý ban đầu cần để ý xem có dấu hiệu của lạm dụng tình dục và bóp cổ. Cán bộ xử lý ban đầu cần nắm vững Thông tư liên tịch số 12/1995 của Bộ Y tế quy định về các tiêu chuẩn thương tật áp dụng cho hội đồng giám định pháp y là những người cấp giấy chứng nhận tỷ lệ thương tật. Do sự phức tạp của việc xác định tỷ lệ thương tật, cán bộ xử lý ban đầu nên thận trọng và nên động viên nạn nhân đi khám y tế, không chỉ để chữa trị mà còn đảm bảo đánh giá chính xác tỷ lệ thương tật của nạn nhân. 4 TS. Vũ Mạnh Lợi và đồng sự được trích dẫn trong OMCT “Bạo lực đối với phụ nữ ở Việt Nam: Báo cáo trình Ủy ban xóa bỏ phân biệt đối với phụ nữ” (OMCT: 2001). 93
  11. Thương tích Tỷ lệ thương tật Sẹo vết thương hạ họng làm ảnh hưởng đến nói và nuốt 41-45% Sẹo vết thương họng làm hẹp cổ họng gây ra khó nuốt 21-25% Nứt vỡ vòm sọ đã liền can nhưng còn di chứng đau đầu kéo dài 21-25% Gẫy 3-5 xương sườn, can tốt, ảnh hưởng ít đến hô hấp 10-12% Chấn thương cắt bỏ từ 6 xương sườn trở lên, làm lồng ngực biến dạng nhiều và ảnh 41-45% hưởng suy hô hấp độ 1 Sẹo vết thương âm hộ, âm đạo hoặc dương vật gây trở ngại cho việc giao hợp: 21-25% - Nam giới dưới 55 tuổi, nữ giới dưới 45 tuổi 10-15% - Nam giới trên 55 tuổi, nữ giới trên 45 tuổi Gẫy, sập xương sống mũi: 10% - Không ảnh hưởng chức năng thở và ngửi 25-30% - Có ảnh hưởng đến thở và ngửi rõ rệt Sẹo bỏng ở khuỷu tay làm hạn chế co duỗi khuỷu: Cẳng tay ở tư thế duỗi từ 1800 đến 1100 26-30% Sẹo bỏng bàn tay - ngón tay làm các ngón dính nhau co quắp hoặc thẳng cứng (mất 41-45% chức năng bàn tay) Sẹo bỏng ở mu chân, gan bàn chân làm biến dạng bàn và ngón chân đi đứng khó khăn 21-25% Cán bộ xử lý ban đầu cần nhận thức được rằng không phải biện pháp pháp lý nào cũng cần chứng nhận tỷ lệ thương tật hoặc sự đồng ý của nạn nhân. Đối với bạo lực tâm lý, mức độ tổn hại khó xác định hơn. Cán bộ xử lý ban đầu cần tiến hành lấy lời khai nạn nhân một cách kỹ lưỡng và không chỉ xử lý các vụ mà nạn nhân bị bạo lực đến mức phải điều trị về tâm lý vì đây là những vụ nghiêm trọng nhất. Trách nhiệm của cán bộ xử lý ban đầu là giúp nạn nhân tìm hỗ trợ y tế, dù vụ việc có cần giám định thương tích để làm chứng cứ hay không. Điều này đòi hỏi phải có sự nhạy cảm đối với nạn nhân, phải giải thích rằng chăm sóc y tế không có nghĩa là nạn nhân đồng ý tiến hành điều tra và cô ấy có thể quyết định khiếu nại hay không vào một thời điểm sau. Điều rất quan trọng là ngành y tế và hành pháp phải phối hợp chặt chẽ và hiệu quả để đảm bảo rằng tất cả các nạn nhân đều được đánh giá thương tích, vụ việc được xử lý thích đáng và nạn nhân được chăm sóc y tế đầy đủ. Không hiếm khi cán bộ hành pháp được trình báo về hành vi BLGĐ sau khi vụ việc đã xảy ra. Nạn nhân có thể sợ hãi, không tìm kiếm sự trợ giúp ngay lúc sự việc xảy ra. Điều này cũng có nghĩa là chứng cứ về thương tích có thể bị mai một hoặc không còn nữa. Nạn nhân có thể không nhận thức được tầm quan trọng của những chứng cứ đó nên không đi kiểm tra thương tích. Các bệnh viện hoặc cơ sở y tế có thể ở xa hoặc nạn nhân không có phương tiện để đi. Nạn nhân có thể vô tình làm mất các chứng cứ. Ví dụ, trong trường hợp bị bạo lực tình dục, nạn nhân có thể tắm sau khi bị lạm dụng hoặc không tìm kiếm sự trợ giúp ngay. Công an không nên vì thiếu giấy chứng nhận thương tích mà không tiếp tục điều tra. Điều trị và đánh giá về y tế Nạn nhân phải được sử dụng các dịch vụ y tế và pháp y một cách an toàn và miễn phí, ngay cả khi nạn nhân không muốn truy tố thủ phạm, điều tra vụ án hoặc không hợp tác với cơ quan tư pháp hình sự. Việc thu thập các chứng cứ y tế và pháp y cần được tiến hành một cách kín đáo. Tham khảo Phụ lục 2 về mẫu biểu đồ để cán bộ điều tra và nhân viên y tế đánh dấu các vị trí thương tích 94
  12. 4.4 Bảng kiểm hữu ích Bảng kiểm về BLGĐ - (Hướng dẫn điều tra sơ bộ)5 1. Đến hiện trường  Xác định vị trí và tình trạng của nạn nhân  Xác định xem đối tượng bị tình nghi còn ở hiện trường hay không  Xác định tình trạng sức khỏe, thể chất của tất cả các bên  Gọi cấp cứu nếu có thương tích nặng 2. Điều tra sơ bộ  Lấy lời khai nạn nhân và nghi phạm riêng  Hỏi nạn nhân về quá trình bạo lực từ trước đến nay  Nếu có trẻ em tại hiện trường, lấy lời khai của trẻ em riêng  Nếu có người làm chứng tại hiện trường, lấy lời khai của họ riêng  Phân biệt ai là người tấn công và ai là nạn nhân nếu cả hai đều bị thương  Lưu ý và ghi chép về trạng thái tình cảm và thể chất của các bên liên quan  Lưu ý về thái độ của người bị tình nghi  Lưu ý xem quần áo rách của cả hai bên  Đối với nạn nhân nữ, lưu ý xem trang điểm trên mặt có bị lem nhem  Chú ý đến dấu hiệu thương tích của nạn nhân  Chú ý đến những lời nói trong lúc bị kích động của các bên có mặt  Chú ý xem có dấu hiệu nghiện các chất hướng thần/gây nghiện  Thông tin cho nạn nhân biết cô ấy có thể có những hành động gì – đề nghị điều tra hình sự; giám định pháp y  Ghi lời khai của nạn nhân và đưa cho họ ký  Cung cấp thông tin cho nạn nhân về các trợ giúp có sẵn (nhà tạm lánh, tư vấn)  Hỗ trợ nạn nhân để có quyết định cấm tiếp xúc  Xác định vụ việc thuộc loại tội phạm nào, loại vi phạm hành chính nào, nếu có 3. Lệnh cấm tiếp xúc  Xác định hiện có quyết định cấm người tình nghi tiếp xúc với nạn nhân không  Xác định người bị tình nghi có vi phạm lệnh cấm tiếp xúc không 4. Bắt hoặc tạm giữ người theo thủ tục hành chính giam  Xác định tình tiết vụ việc có cho phép bắt người và tiến hành bắt người bị tình nghi nếu đúng quy định  Xác định tình tiết vụ việc có cho phép tạm giam và dẫn giải người bị tình nghi về trụ sở công an để tạm giam nếu đúng quy định  Ghi chép lời khai tự nguyện của người bị tình nghi  Giải thích quyền của người bị tình nghi  Ghi chép tất cả các bản cung 5. Chứng cứ  Ghi chép mô tả hiện trường tội phạm  Chụp ảnh tài sản bị hư hỏng  Chụp ảnh hiện trường  Xác định xem có hung khí/súng  Chụp ảnh và vẽ sơ đồ thương tích của - Nạn nhân - Người bị tình nghi 5 Tham khảo Bảng kiểm của Phòng Tư pháp Hình sự bang New Jersey dành cho các cán bộ hành pháp 95
  13.  Lấy lời khai của - Nạn nhân - Con nạn nhân - Người làm chứng 6. Điều trị y tế  Đưa nạn nhân đến bệnh viện để khám chữa thương tích và giám định thương tật trong trường hợp cần thiết  Lấy chứng nhận thương tật 7. Hoàn thành báo cáo vụ việc [Đảm bảo tính khách quan của báo cáo; tránh quan điểm cá nhân; báo cáo các chi tiết chứ không nêu kết luận]  Đảm bảo các yếu tố cấu thành vụ án hình sự hoặc hành vi vi phạm hành chính đều được nêu đầy đủ trong báo cáo  Mô tả chi tiết các đặc trưng của vụ việc hình sự, hành chính  Lập hồ sơ về bất kỳ thương tích nào của nạn nhân  Lập hồ sơ về bất kỳ thương tích nào của nghi phạm  Lập hồ sơ về quá trình bạo lực từ trước đến nay  Ghi lại lời khai nguyên văn của các bên – không được diễn đạt lại Bảng kiểm điều tra vụ án BLGĐ6 1. Về nạn nhân • Mô tả nơi ở của nạn nhân khi đến; • Thực hiện cấp cứu cho nạn nhân; • Thu thập các bản khai do nạn nhân viết • Mô tả trạng thái tình cảm của nạn nhân • Mô tả trạng thái thể chất của nạn nhân • Lập hồ sơ về các thương tích của nạn nhân • Cách ly nạn nhân và người bị tình nghi ra hai phòng khác nhau để lấy lời khai • Lập hồ sơ chi tiết về các thương tích của nạn nhân • Làm rõ mối quan hệ của nạn nhân với người bị tình nghi • Ghi chép về quá trình bạo lực từ trước tới nay • Lưu ý về bất kỳ quyết định cấm tiếp xúc hoặc các quyết định khác của tòa án • Đưa cho nạn nhân thông tin về trợ giúp của địa phương đối với nạn nhân BLGĐ và giải thích về báo cáo của cảnh sát • Ghi lại bất kỳ địa chỉ hoặc số điện thoại liên lạc nào của nạn nhân 2. Người bị tình nghi • Mô tả nơi ở của nghi phạm khi đến • Thực hiện cấp cứu cho nghi phạm • Thu thập các bản khai hoặc bản tự thú của người bị tình nghi • Mô tả trạng thái tình cảm của người bị tình nghi • Mô tả trạng thái thể chất của người bị tình nghi • Mô tả chi tiết thương tích của nghi phạm • Ghi lại những chứng cứ cho thấy nghi phạm nghiện chất gây nghiện • Lấy lời khai người bị tình nghi • Tìm một tấm ảnh của nghi phạm nếu người này không có mặt có thể nhận diện và để bắt giữ 6 Trích từ Chương 10 “Các phản ứng và thủ tục của cơ quan hành pháp” trong Tài liệu tập huấn điều tra tội phạm hình sự về bạo lực gia đình, Sở Công an bang South Carolina , Phòng Đào tạo Tư pháp Hình sự. 96
  14. 3. Người làm chứng • Lấy lời khai những người đã trình báo • Xác định tất cả những người làm chứng và lấy lời khai riêng từng người • Lập danh sách tên, tuổi những trẻ em có mặt • Lấy lời khai của trẻ em • Lấy tên và địa chỉ của các nhân viên cấp cứu • Lấy tên của bác sỹ điều trị ở phòng cấp cứu 4. Chứng cứ • Chụp ảnh hiện trường tội phạm • Chụp ảnh toàn thân người bị tình nghi • Chụp ảnh thương tích nạn nhân • Chụp lại các bức ảnh này sau 48-72 giờ • Chụp ảnh thương tích của người bị tình nghi • Thu giữ các loại hung khí đã sử dụng • Lấy băng sao lại nội dung cuộc gọi cấp cứu • Đính kèm các bản báo cáo, ảnh và chứng cứ có liên quan vào hồ sơ điều tra • Tìm hồ sơ bệnh án trước đó Mục 5: Đánh giá ban đầu về vụ việc BLGĐ 5.1 Những phương án xử lý và bảo vệ - Khái quát chung Như đã trình bày ở mô-đun trước, thuật ngữ “BLGĐ” được sử dụng để chỉ một loạt những hành vi mà không phải tất cả trong số đó đều là tội phạm hoặc vi phạm hành chính. Khi đến hiện trường vụ việc, cán bộ xử lý ban đầu phải cân nhắc có cần thông báo cho cơ quan cảnh sát điều tra, có cần bắt giữ nghi phạm hay không, vụ việc có cấu thành tội hình sự hoặc vi phạm hành chính hay không, đồng thời còn phải thực hiện ngay các hoạt động để bảo vệ và đảm bảo an toàn cho nạn nhân. Sau khi công tác điều tra sơ bộ hoàn tất và hồ sơ đã được thu thập đầy đủ, cán bộ xử lý ban đầu cần xác định các biện pháp xử lý và bảo vệ có thể áp dụng. Đảm bảo an toàn cho nạn nhân Truy cứu trách nhiệm thủ phạm • Bắt ngừng ngay hành vi bạo lực; • Chế tài hình sự – thông báo cho cơ quan • Đảm bảo biện pháp bảo vệ tức khắc [có thể tạm giữ cảnh sát điều tra hình sự. thủ phạm theo thủ tục hành chính (24-48 giờ); hoặc • Phạt hành chính; cả công an và UBND đều có bắt giữ tội phạm]. thẩm quyền quyết định. • Bảo vệ nạn nhân khỏi các hành vi bạo lực tiếp theo • Góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư– của thủ phạm [có thể giúp nạn nhân đến nhà tạm UBND có thẩm quyền, công an địa phương lánh hoặc nơi ở an toàn hay xin quyết định cấm tiếp có thể trợ giúp UBND. xúc]. • Thỏa thuận hòa giải [cần nhấn mạnh rằng • Đánh giá rủi ro và an toàn. các hành vi bạo lực không thể biện minh được • Giúp nạn nhân lập kế hoạch an toàn. bằng những hành vi phi bạo lực của nạn nhân • Ngăn chặn bạo lực trong tương lai [thông qua truy và luôn phải cảnh cáo thủ phạm rằng nếu bạo cứu trách nhiệm thủ phạm và hỗ trợ thủ phạm tái hòa lực tiếp diễn thì những hình thức xử lý nghiêm nhập]. khắc hơn sẽ được áp dụng]. Truy cứu trách nhiệm của thủ phạm tức là áp dụng hình phạt phù hợp và kiên quyết đối với vi phạm, bao gồm việc bắt thủ phạm phải chịu trách nhiệm cho bất kỳ sự vi phạm nào đối với các quy định cho bảo lãnh tại ngoại hoặc lệnh cấm tiếp xúc và không chấp nhận lý do nào cho các hành vi bạo lực. Truy cứu trách nhiệm thủ phạm cũng bao gồm việc điều trị cho thủ phạm. 97
  15. 5.2 Tiến hành đánh giá ban đầu – Những công việc cần làm Các phương án xử lý – truy cứu trách nhiệm của thủ phạm Chế tài hình sự Khi nghĩ rằng có dấu hiệu của tội phạm hình sự, cán bộ xử lý ban đầu cần liên lạc với cơ quan điều tra hình sự và tiến hành bảo vệ các chứng cứ liên quan, ngay cả khi chưa có sự đồng ý ban đầu của nạn nhân. Nạn nhân có thể bị chấn động tâm lý hoặc thấy sợ khi mới tiếp xúc với công an hoặc UBND. Nạn nhân có thể cần sự hỗ trợ hoặc tư vấn trước khi có thể quyết định có yêu cầu điều tra vụ án hình sự hay không. • Để công an có thể tiến hành điều tra một tội phạm cụ thể, ví dụ như tội cố ý gây thương tích (điều 104 Bộ Luật hình sự) với tỷ lệ thương tật dưới 31%, thì cần phải có yêu cầu của nạn nhân. Việc công an hỏi han nạn nhân một cách tế nhị và cung cấp cho nạn nhân đầy đủ các thông tin về quyền và các lựa chọn pháp lý của họ có thể tác động tới việc nạn nhân đồng ý điều tra hay không. • Trong trường hợp cần thiết, công an cần đảm bảo lấy được giấy chứng nhận thương tích của hội đồng giám định và cho nạn nhân thời gian để quyết định có yêu cầu khởi tố vụ án hình sự vào thời điểm sau hay không. ► Xem Mô-đun 5 để biết thêm thông tin về trình tự điều tra hình sự Xử lý hành chính Công an và UBND có thẩm quyền xử phạt hành chính trong những trường hợp vụ việc chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng cần phải xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật. • Để xác định có xử lý hành chính đối với thủ phạm hay không, cán bộ xử lý ban đầu cần tiến hành đánh giá các yếu tố sau đây: thương tích về thể chất; đe dọa bạo lực, có hành động dọa dẫm; và tình tiết giảm nhẹ hình phạt, như đã có hành vi BLGĐ trước đó, cán bộ công an tin rằng bạo lực có thể xảy ra trong tương lai hoặc bất kỳ tình tiết nào khác cần chú ý hoặc cần thu thập thêm chứng cứ. • Cán bộ xử lý ban đầu cần cân nhắc đến xử lý hành chính khi người chồng thường xuyên có hành vi bạo lực đối với vợ nhưng những hành vi bạo lực riêng lẻ này chưa đến mức cấu thành tội phạm. Vì thế điều quan trọng là phải hỏi nạn nhân về tiền sử bạo lực và thu thập hồ sơ về các vụ việc công an đã tham gia trong quá khứ. • Xử lý hành chính có thể áp dụng trong các tình huống sau đây: o Khi thủ phạm vi phạm lệnh cấm tiếp xúc. o Hành hạ, ngược đãi hoặc xúc phạm danh dự và nhân phẩm của vợ nhưng chưa đến mức xử lý hình sự theo tội danh ở điều 151. o Đối xử bất bình đẳng với vợ do có định kiến giới. o Có hành động, lời nói bạo ngược để khiêu khích, quấy rối hoặc xâm phạm nhân phẩm người khác. • Công an và UBND có thể tạm giữ người bị tình nghi vì có hành vi vi phạm hành chính. Trong thời gian tạm giữ hành chính, công an có thể tiến hành mở rộng điều tra để quyết định có áp dụng xử phạt hành chính hay khởi tố vụ án hình sự. Chỉ khi có đầy đủ chứng cứ của tội phạm hình sự thì người bị tình nghi mới bị bắt. Trong trường hợp này, công an có thể dẫn giải thủ phạm ra khỏi nhà để lấy lời khai và/hoặc tạm giam. Quyết định của công an liên quan đến việc tạm giam và phóng thích thủ phạm cần phải cân nhắc đến sự an toàn của nạn nhân và những người khác trong gia đình, ngoài xã hội hoặc những vấn đề khác và những trình tự này cũng phải nhằm phòng ngừa hành vi bạo lực tiếp theo. ► Xem Mô-đun 4 để có thêm thông tin về việc trình tự xử lý hành chính Hòa giải và cảnh cáo không chính thức của công an tại chỗ Công an không được đào tạo chuyên sâu để hòa giải giữa các bên liên quan trong các trường hợp BLGĐ. Trong một số tình huống cụ thể, công an có thể răn đe, giáo dục thủ phạm. Răn đe chỉ nên được áp dụng trong các vụ việc nhỏ, lẻ. Công an cần cân nhắc những vấn đề sau: • Nghiên cứu chỉ ra rằng phần lớn các vụ việc BLGĐ không xảy ra một lần mà thường xảy ra nhiều lần trước khi công an đến can thiệp. Vì thế công an cần phải nắm đầy đủ các tình tiết trước khi quyết định phải làm gì. 98
  16. • Một vấn đề đáng lưu tâm đối với việc cảnh cáo tại chỗ là cách xử lý này được coi là chưa nhìn nhận đầy đủ tính chất nghiêm trọng của BLGĐ và do đó làm giảm sự tin tưởng của cộng đồng. • Cảnh cáo không cho phép đánh giá rủi ro một cách kỹ lưỡng vốn dĩ cần thiết đối với các vụ BLGĐ. • Ở một số nước, tấn công thành viên trong gia đình còn được coi là tình tiết tăng nặng khiến cho vụ việc dù nhỏ cũng đạt ngưỡng của tội phạm hình sự. Ở Việt Nam, điều 151 Bộ luật Hình sự có thể áp dụng trong các vụ việc mà tỷ lệ thương tật chưa đủ để cấu thành tội phạm theo điều 104. Hòa giải Khi công an được báo đến hiện trường vụ việc BLGĐ, một trong các lựa chọn được cân nhắc là chuyển vụ việc đến tổ hòa giải cơ sở. Công an có thể tham gia hoặc không tham gia vào quá trình hòa giải. Công an cần lưu ý một số vấn đề sau đây: • Pháp luật quy định rõ rằng không hòa giải vụ việc thuộc tội phạm hình sự hoặc vi phạm hành chính. • Nếu vụ việc chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc xử lý hành chính và công an có thể khẳng định rằng nạn nhân không có cơ hội được thể hiện nguyện vọng một cách tự do do bị người chồng đe dọa thì công an không nên chuyển vụ việc đến tổ hòa giải. • Nếu công an tham gia vào quá trình hòa giải, rất cần lưu ý rằng một số người chồng bạo lực thực hiện thủ đoạn kiểm soát ngay ở phòng hòa giải, trước, trong và sau quá trình hòa giải. • Các thủ đoạn kiểm soát có thể bao gồm: o Tấn công hoặc đe dọa bạo lực. o Đe dọa bắt con thông qua quyền nuôi con. o Gửi giấy nhắn hoặc những “ánh nhìn” trong khi hòa giải. Thủ phạm có thể gửi thông điệp đe dọa đến nạn nhân thông qua ngôn ngữ thân thể mà những người khác có mặt không thể nhận biết được. o Mang người thân và bạn bè đến buổi hòa giải để đe dọa nạn nhân. o Phát biểu rằng nạn nhân đã “làm cho anh ta phải làm thế”. o Tỏ ra chân thành hoặc ăn năn sâu sắc trước nạn nhân và tổ hòa giải. o Đề nghị lệnh bảo vệ lẫn nhau là cách để tiếp tục kiểm soát nạn nhân và thao túng quá trình hòa giải. Bô Tư phap va UNODC đa tiên hanh môt khao sat nho vê hoat đông tô hoa giai đôi vơi nhưng vu BLGĐ.7 Khi đươc phong vân, tât ca nan nhân đêu cho biêt ho bi bao lưc it nhât 10 lân môt năm va gân môt nưa trong sô ho thây cac vu bao lưc lăp lai môt cach đêu đăn. Môt nưa sô nan nhân cho biêt bao lưc vân tai diên sau khi đươc hoa giai. Các phương án bảo vệ - giữ cho nạn nhân được an toàn Công tác bảo vệ – Quyết đinh cấm tiếp xúc Co thê yêu câu ra quyêt đinh cấm tiếp xúc bất kỳ lúc nào, dù vu viêc co đươc điều tra hình sự hay không. Công an nên hỗ trợ nạn nhân, thư nhât thông báo cho nạn nhân biêt về phương án bảo vệ và thư hai thay mặt nạn nhân co yêu cầu ra quyêt đinh cấm tiếp xúc. • Quyêt đinh cấm tiếp xúc cho phép nạn nhân có thời gian để quyết định xem giải pháp nao phù hợp vơi mình. ► Xem mô-đun 4 để có thêm thông tin về quyêt đinh câm tiêp xuc Tạm giữ người bị tình nghi Khi cán bộ xử lý ban đầu đến hiện trường, nạn nhân có thể không có quyền đề nghị chính thức yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, nên công an cần chu đông điều tra, cung cấp thông tin và hỗ trợ nạn nhân để nan nhân có thời gian cân nhăc quyết định có muôn tiên hanh truy cứu trách nhiệm hay không. Viêc tạm giam se co tac dung triệt tiêu tam thơi quyền lực và kiểm soát của thủ phạm và hạn chế khả năng đe dọa của thủ phạm đôi với nạn nhân. Để xác định có cần thiết áp dụng biện pháp tạm giam hay không, công an cần cân nhắc các yếu tố sau đây: • Khả gia năng bạo lực leo thang; • Những chứng cứ vật chất cho thấy đã cấu thanh tội phạm; • Bất kỳ vi phạm nào xảy ra khi có mặt của cảnh sát. 7 Bô Tư phap va UNODC “Đanh gia tom tăt tinh hinh xư phat hanh chinh va hoat đông cua cac tô hoa giai khi xư ly cac vu BLGĐ ơ Viêt Nam hiên nay” (Ha Nôi, 20/6/2009). 99
  17. Công an không cần cân nhăc đên các yếu tố sau đây: • Tình trạng hôn nhân; • Quyền sở hữu hoăc và sử dụng nhà đất; • Lời hứa miệng rằng bạo lực sẽ chấm dứt; • Tuyên bố của người bị tình nghi rằng nạn nhân đã chọc tức hoặc kích động bạo lực; • Trạng thái tình cảm của nạn nhân; • Những thương tích nhìn thấy và không nhìn thấy; • Phủ nhận có BLGĐ xay ra theo lơi bất kỳbên nao; • Các bên khẳng định đây là vấn đề riêng tư; • Quan niêm rằng việc bắt giữ cũng không giúp ich gìcho viêc kêt tôi; • Hậu quả về tài chính của việc bắt giữ đối với bất kỳbên nao; • Đăc điêm chủng tộc, văn hóa, xã hội, chính trị và nghề nghiệp của nạn nhân hoặc người bị tình nghi; • Tình trạng sử dụng rượu và ma túy của một bên hoặc cả hai bên; • Cam nhân cho thấy nạn nhân tựnguyên hơp tac đểtruy cưu trach nhiêm hình sự. ► Xem mô-đun 4 để có thêm thông tin về tam giư va kham ngươi theo thu tuc hanh chinh. Dịch vụ cho nạn nhân – Hỗ trợ nạn nhân Nghiên cứu đa cho thây cac nạn nhân nữ càng được hỗ trợ về tâm lý thì càng tích cực hợp tác với công an và hệ thống tư pháp. Nhiều phụ nữ không biết ho co nhưng quyền pháp lý nao, không biêt nhưng lựa chọn pháp lý hoăc những dịch vụ hỗ trợ danh cho họ. Công an cần hiểu biết về những dịch vụ trợ giúp dành cho nạn nhân để cung cấp thông tin hoăc chuyên gưi môt cach phù hợp. Những hô trơ này bao gồm: • Hỗ trợ nạn nhân nhận được các trợ giúp về y tế khi cần. Đây không phai trưng cầu giám định một cách chính thức để nhận được chứng nhận thương tật sử dụng cho công tác điều tra. • Bố trí phương tiên đưa nạn nhân đến nhà tạm lánh hoặc nơi ở an toàn khi cần, không đểngươi bịtinh nghi biêt các địa chỉ này. • Nếu nạn nhân muốn ở lai nhà, công an cần ở lại hiện trường cho đến khi thực sự yên tâm rằng không có đe dọa tưc thơi đối với nạn nhân. • Cung cấp thông tin cho nạn nhân về các dịch vụ hiện có, như tư vấn, trợ giúp pháp lý và cung cấp số điện thoại khẩn cua các dich vụ trợ giúp nạn nhân. • Hỗ trợ nạn nhân tiếp cận các trợ giúp tài chính trong trương hơp phùhơp. Muc 6: Lập và quan ly hồ sơ 6.1 Các gợi ý về lập hồ sơ Một cach lam tôt ma công an cơ sở và cac cán bộ xử lý ban đầu khac co thê ap dung la lam một quyển sổ ghi chép hàng ngày để ghi lai chi tiêt tât ca cac vu viêc đươc điều tra. Khi tiến hành điều tra ban đầu, cán bộ thụ lý cần ghi chép các thông tin sau:8 Loại thông tin Câu hỏi mẫu • Ai là ngươi khiêu nai/nạn nhân? • Ai làm báo cáo? • Ai phat hiên ra vi phạm? • Ai thấy hoăc nghe thấy điều gì đó quan trọng? • Ai có hanh vi vi phạm? Ai • Ai giúp đỡ người phạm tội? • Ai đã được lấy lời khai? • Ai đã tham gia xử lý vụviêc? • Ai tìm thấy chứng cứ? • Ai thu nhận chứng cứ? 8 Trích từ tài liệu của UNODC “Phản ứng có hiệu quả của Cảnh sát trươc bạo lực đối với phụ nữ”. 100
  18. • Loai vi phạm gì đã diễn ra? • Nghi phạm đã thực hiện hành vi gì và thực hiện theo cách nào? • Người làm chứng biết gì về điều đó? • Đã có chứng cứ gì? Gì • Đã xử lý gì với chứng cứ đó? • Công cụ và hung khí gì đã được sử dụng? • Cơ quan có thẩm quyền đã có hành động gì? • Cần có hành động gì tiếp theo? • Những cơ quan nào khác đã được thông báo? • Vi phạm được thực hiện ở đâu? • Công cụ và hung khí được tìm thấy ở đâu? • Nghi phạm được phát hiện ở đâu? • Nhân chứng lúc đó ở đâu? • Vi phạm được phát hiện ở đâu? Ở đâu • Người phạm tội sống hoặc thường lui tới đâu? • Người phạm tội hiện đang ở đâu? • Người phạm tội có khả năng đến đâu nhất? • Người phạm tội được xác định/bị bắt ở đâu? • Chứng cứ được phát hiện ở đâu? • Chứng cứ được lưu giữ ở đâu? • Vi phạm xảy ra lúc nào? • Vụ việc được trình báo lúc nào? • Bạn đến vào lúc nào? Lúc nào • Bạn tiếp xúc với người làm chứng vào lúc nào? • Người phạm tội được xác định/bị bắt lúc nào? • Người trợ giúp đến vào lúc nào? • Vi phạm được thực hiện như thế nào? • Người phạm tội đến và rời hiện trường như thế nào? Thế nào • Người phạm tội có được thông tin cần thiết bằng cách nào để thực hiện vi phạm? • Công cụ, hung khí được thu giữ bằng cách nào? • Bạn có thông tin về vi phạm bằng cách nào? • Vì sao vi phạm xảy ra? • Vì sao loại công cụ, hung khí đó lại được sử dụng? • Vì sao vi phạm được trình báo? Vì sao • Vì sao người làm chứng khai một cách miễn cưỡng? • Vì sao người làm chứng nhiệt tình tố giác người phạm tội? • Vì sao việc trình báo vi phạm lại chậm trễ? • Người phạm tội câu kết với ai? Với ai • Người làm chứng có quan hệ với ai? • Bạn dự đoán nghi phạm đang ở với ai? • Cần có bao nhiêu thông tin để thực hiện vi phạm? • Xảy ra thiệt hại bao nhiêu? • Bao nhiêu tài sản bị lấy đi, nếu có? Bao nhiêu • Mang tài sản đi nơi khác cần bao nhiêu sức (dễ hay khó)? • Người làm chứng còn chưa khai bao nhiêu thông tin? • Người khiếu nại/nạn nhân còn chưa trình báo bao nhiêu thông tin? • Cần có thêm bao nhiêu thông tin để làm rõ vi phạm? 101
  19. Cần ghi chép thường xuyên trong quá trình điều tra ban đầu; tất cả những gì thu lượm được đều phải được ghi lại. Những điều tra viên chưa có kinh nghiệm sẽ có khuynh hướng chỉ ghi lại những tình tiết cơ bản của vụ việc và những bước mang lại kết quả khả quan. Tuy nhiên, ngay cả những việc làm trong quá trình điều tra không mang lại thông tin hữu ích cũng phải được ghi lại. Mục đích của việc làm này là để tạo nên tính toàn diện của cuộc điều tra, từ đó kết luận việc điều tra mở rộng theo một hướng nào đó có lẽ sẽ không mang lại kết quả. Những ghi chép có thể được bổ sung bằng những sơ đồ, nêu cần, về hiện trường vụ án. Có 2 loai sơ đồ có thể sử dụng để mô tả hiện trường vụ án: 1. Phác họa ve vao sổ tay cua điều tra viên 2. Một sơ đồ chính thức co ti lê đo đạc chính xác Những lợi ích của sư dung sơ đô hiện trường chinh xac là: 1. Thể hiện chính xác những mô tả về hiện trường vụ án 2. Co thê giup nhân chưng nhơ lai moi viêc (lam tăng tinh chuyên nghiệp của điều tra viên) 3. Dễ gây ân tương co lơi trong phiên tòa Sơ đồ phác thảo trong sổ tay của các điều tra viên phải mô ta đươc hiện trường (ví dụ môt phòng hoăc một dãy phòng, khu vực ngoài trời, nơi vũ khí được phát hiện). Một trang dùng để vẽ sơ đồ hiện trường, co đanh số nhưng chi tiêt chinh (ví dụ thân thể hoặc các chứng cứ vật chất). Một trang khác dùng để liệt kê cac số đanh dâu trên sơ đô va mô ta nôi dung/y nghia cua cac sô đo. Phân nay cung giông như “ghi chu” trên cac ban đồ. Sơ đồ chính thức bao gồm các số liệu chính xác được đo đạc bằng thước dây để đảm bảo độ chính xác. Sơ đồ chính thức này giông như bản vẽ xây dựng hoặc bản vẽ kiến trúc vây. Tương tư, có thểsử dung ảnh chup để mô tả hiện trường vàthương tích của nạn nhân. Ảnh hiện trường tội phạm có 2 mục đích: 1. Thứ nhất là để ghi lại hiện trường tổng thể, trong đo co anh bên ngoài và bên trong ngôi nhà/hiện trường; lối vào, hành lang, lối ra của thủ phạm, các vật chứng được tìm thấy tại hiện trường. 2. Thứ hai là để ghi lại những chứng cứ phap y có thể tái hiện được hành vi phạm tội và xác lập nhân dạng của ngươi/những người bị tình nghi. Các chứng cứ như hinh ảnh phóng to của hung khí, vân tay hoặc các dấu vết công cụ là ví dụ về ảnh chup dạng này. Khi chụp ảnh hiện trường, điều tra viên cần nhớ rằng họ đang kể lại chuyện xảy ra bằng hình ảnh và người xem những bức ảnh này là những người chưa tới hiện trường. Vì thế, ảnh chụp không chỉ ghi lại hình ảnh hiện trường và chứng cứ liên quan mà còn phải mô tả được những bối cảnh rộng hơn. Điều tra viên khi chụp ảnh hiện trường cần chụp ở 3 khoảng cách: 1. Khoảng cách xa, ở nhiều góc độ (khoanh vùng hiện trường, cho thấy tỷ lệ và lấy bối cảnh rộng hơn, đặt hiện trường vào trong bối cảnh đó) 2. Khoảng cách trung bình 3. Cận cảnh (minh họa cho chứng cứ, nơi chứng cứ được tìm thấy, dạng chứng cứ, tình trạng khi tìm thấy) Khoảng cách mỗi loại là khác nhau, tùy thuộc vào loại hiện trường và loại tội phạm. Các bức ảnh cận cảnh nên có một đồ vật nào đó, ví dụ thước kẻ, bên cạnh để minh họa tỷ lệ. 6.2 Làm báo cáo về hồ sơ Đối với mỗi vụ việc BLGĐ, dù được xử lý bằng hình thức nào thì cũng cần phải có báo cáo. Bản báo cáo phải được viết rõ ràng và tỷ mỉ: • Chuyện gì xảy ra. • Ai có liên quan (người bị tình nghi, nạn nhân, người làm chứng, điều tra viên). • Thời gian xảy ra. • Địa điểm xảy ra. • Lý do xảy ra. Lưu ý: Công an cần thận trọng khi báo cáo về lý do xảy ra vụ việc, nếu không có thể tạo ra ấn tượng là đang đổ lỗi cho nạn nhân về vụ việc bạo lực xảy ra. • Xảy ra như thế nào. • Chứng cứ thu được là gì, do ai thu được, bằng cách nào, đã xử lý thế nào. 102
  20. Báo cáo chi tiết về vụ việc BLGĐ xảy ra có thể bao gồm các nội dung sau: • Bản ghi/đánh máy lại lời khai của nạn nhân, người làm chứng, người bị tình nghi. • Bản photo kèm theo của các bản tự khai của nạn nhân, người làm chứng và người bị tình nghi. • Chi tiết tất cả chứng cứ được thu thập và do ai thu thập. • Tất cả các ảnh chụp hoặc sơ đồ đã vẽ. • Chi tiết về quá trình vi phạm từ trước đến nay, tất cả các quyết định của tòa án có liên quan, các lệnh cấm tiếp xúc. • Bản đánh giá rủi ro/đe dọa, nếu có. Mục 7: Bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân 7.1 Đảm bảo an toàn cho nạn nhân – Đánh giá đe dọa và quản lý rủi ro Việc bảo vệ cho nạn nhân được thực hiện ngay khi công an và UBND đến can thiệp và được tiếp tục thực hiện trong tất cả các giai đoạn xử lý. Bảo vệ phải đi liền với trợ giúp và hỗ trợ nạn nhân. Công an và UBND không phải là cơ quan duy nhất có vai trò bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân nhưng là cơ quan có vai trò quan trọng. Có rất nhiều cách để các cán bộ xử lý ban đầu có thể đảm bảo an toàn cho những phụ nữ là nạn nhân của BLGĐ. Khi quyết định bắt, tạm giam hay thả người gây bạo lực thì công an cũng phải tính đến nhu cầu an toàn của nạn nhân. Các biện pháp cụ thể mà công an cần làm: • Yêu cầu quyết định bảo vệ của toà án, ví dụ quyết định cấm tiếp xúc. • Chuyển hoặc đưa người phụ nữ đến nhà tạm lánh hoặc các địa chỉ an toàn. • Giúp nạn nhân xác định những yếu tố rủi ro và lập kế hoạch an toàn. • Đánh giá rủi ro và thực hiện kế hoạch kiểm soát nguy cơ để giảm thiểu nguy cơ tiếp tục hành vi bạo lực. • Khi cần, đề xuất những điều kiện nghiêm khắc khi thả thủ phạm, bao gồm quản thúc, quyết định cấm tiếp xúc, cấm sử dụng rượu, cấm dùng các loại hung khí, buộc phải đi tư vấn. • Thông báo trước cho nạn nhân về việc thả thủ phạm. • Xác minh nội dung trình báo về việc nạn nhân bị đe doạ. 7.2 Xác định hành vi nguy hiểm đến tính mạng và cực kỳ nguy hiểm Cán bộ xử lý ban đầu khi lấy lời khai của những phụ nữ là nạn nhân BLGĐ đều phải trao đổi và xây dựng kế hoạch an toàn cho nạn nhân. Hành vi bạo lực theo thời gian thường trở nên nghiêm trọng hơn. Mặc dù không thể đoán chắc lúc nào bạo lực có thể leo thang dẫn đến chết người nhưng các nhà nghiên cứu đã xác định được một số yếu tố phổ biến. Không có các yếu tố hoàn cảnh sau đây không có nghĩa rằng bạo lực không thể dẫn đến chết người. Ghi nhớ! Mỗi tình huống đều là duy nhất và mỗi đe dọa khác nhau đều phải có một cách xử lý riêng để đáp ứng cao nhất nhu cầu của người phụ nữ là nạn nhân. 103
  21. Các hành vi nguy hiểm chết người và cực kỳ nguy hiểm 9 Đe doạ tự tử hoặc đe dọa giết người: Trong phần lớn các vụ án mà người phụ nữ bị giết, thủ phạm đã từng đe doạ giết người phụ nữ hoặc đe dọa tự tử. Việc đe doạ tự tử cần được xem xét rất nghiêm túc. Trong nhiều trường hợp, người đàn ông giết vợ con rồi tự sát. Lời đe dọa càng cụ thể bao nhiêu thì mức độ nghiêm trọng càng lớn bấy nhiêu. Xuất hiện của hung khí: Nguy cơ bạo lực dẫn đến chết người cũng gắn với việc thủ phạm có hung khí hoặc tiếp cận, sử dụng hung khí, gắn với việc sử dụng hoặc đe doạ sử dụng hung khí trong các vụ việc trước đó và gắn với sự gia tăng của bạo lực về tần xuất hoặc mức độ nghiêm trọng. Hành vi kiểm soát và ghen tuông: Nguy cơ bạo lực dẫn đến chết người gắn với sự gia tăng của hành vi kiểm soát và ghen tuông. Đó có thể là hành vi theo dõi, kiểm soát chặt chẽ về thời gian và hạn chế việc đi lại của người phụ nữ. Sử dụng ma tuý và rượu: Rượu có thể làm giảm sự kiềm chế sử dụng bạo lực gây chết người hoặc khiến người gây bạo lực không nhận thức được đầy đủ tính chất nguy hiểm của hành vi bạo lực của anh ta. Trầm uất: Sức khoẻ tâm thần của người đàn ông có thể cho thấy xu hướng sử dụng bạo lực nguy hiểm. Nếu người đàn ông mất niềm tin và “buông xuôi”, anh ta có thể gây ra thương tích nghiêm trọng hoặc giết người. Cách ly người gây bạo lực: Các nghiên cứu chỉ ra rằng việc người gây bạo lực bị cách ly và mức độ phụ thuộc của anh ta vào người phụ nữ có liên quan đến khả năng gây bạo lực chết người. Sự leo thang bạo lực: Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng sự leo thang bạo lực về tần suất và mức độ nghiêm trọng cũng biểu hiện sự gia tăng tính nguy hiểm. Chấm dứt mối quan hệ: Nghiên cứu chỉ ra rằng thời gian nguy hiểm nhất đối với người phụ nữ bị bạo lực là sau khi chấm dứt mối quan hệ. Ở Mỹ, các nghiên cứu chỉ ra rằng những người phụ nữ rời bỏ người gây bạo lực với mình có thể có nguy cơ bị giết cao hơn 75% so với những người còn duy trì quan hệ. Việc người phụ nữ bị bạo lực tự quyết có chấm dứt quan hệ hay không là rất quan trọng vì cô ấy là người có thể đánh giá rõ nhất những nguy hiểm tiềm tàng. Bóp cổ hoặc siết cổ: Các chuyên gia pháp lý xác định rằng những hành vi “bóp cổ” hay “siết cổ” trước đó của thủ phạm đối với nạn nhân là một dấu hiệu cho thấy mức độ nguy hiểm cao độ. Cán bộ xử lý ban đầu có thể giúp nạn nhân đánh giá những nguy cơ xảy ra từ phía người gây bạo lực và xây dựng một kế hoạch an toàn mang tính khả thi. Cần ghi nhớ rằng ngay cả khi không có những dấu hiệu của sự nguy hiểm chết người thì nạn nhân cũng cần dựa vào linh cảm của chính bản thân để xác định phản ứng phù hợp với tình hình bạo lực. Cán bộ xử lý ban đầu có thể giúp nạn nhân tìm hiểu các khả năng và các phương án có thể lựa chọn nhưng người phụ nữ phải tự quyết định hành động nào là tốt nhất cho cô ấy. 7.3 Xây dựng kế hoạch an toàn Cán bộ xử lý ban đầu có thể trợ giúp nạn nhân xây dựng một kế hoạch an toàn cho bản thân. Chính người phụ nữ nạn nhân là người hiểu rõ nhất cuộc sống và rủi ro của mình. Điều này có thể thực hiện nhờ sự giúp đỡ của cán bộ trợ giúp, nhân viên nhà tạm lánh và các tư vấn viên. Gợi ý các bước mà cán bộ cần thực hiện khi thảo luận với người phụ nữ nạn nhân về kế hoạch an toàn: • Thảo luận sơ bộ về mục đích và vai trò của kế hoạch, bao gồm cả mặt hạn chế của nó. • Thu thập thông tin, như các yếu tố rủi ro gắn với nguy hiểm chết người đã nêu ở trên, thông tin về những nguồn lực và hỗ trợ hiện có, như mức độ trợ giúp cho cá nhân người phụ nữ, điều kiện sống của cô ta, những trở ngại về an toàn; việc làm; những vấn đề liên quan đến con cái v.v. 9 Tham khảo “Báo cáo chuyên đề về bạo lực gia đình, chỉnh sửa tháng 6/2006” của Trung tâm chính sách hành pháp quốc gia IACP. 104
  22. • Xây dựng kế hoạch an toàn, bao gồm những chiến lược cụ thể, ví dụ như việc chuyển đến nhà tạm lánh hay một địa chỉ an toàn; những bước điều tra tội phạm; [thảo luận làm thế nào để bỏ đi một cách an toàn; nơi nào an toàn; nơi nào để cất giữ những tài liệu, giấy tờ quan trọng; chia sẻ với người hàng xóm nào về vụ việc bạo lực để họ có thể gọi công an khi cần; dạy con cái cách gọi cho công an; cách bảo vệ bản thân và con cái trong tình trạng nguy hiểm; số điện thoại của nhà tạm lánh, nơi trú ngụ an toàn, những biện pháp an toàn ở nhà, ví dụ như khoá cửa, đèn, thông tin cho gia đình và bạn bè đến trợ giúp] Thời gian đầu của khủng hoảng hoặc khi người phụ nữ mới tới nhà tạm lánh không phải là lúc phù hợp để xây dựng kế hoạch an toàn cá nhân. Người phụ nữ cần có thời gian để nỗi lo âu, sợ hãi và trầm uất lắng xuống. Ghi nhớ! Cán bộ xử lý ban đầu nên ghé thăm nạn nhân đều đặn để đảm bảo rằng nạn nhân vẫn được an toàn và xác định xem có thay đổi đáng kể nào trong hoàn cảnh của nạn nhân và cả của thủ phạm khiến có thể ảnh hưởng đến sự an toàn của nạn nhân và việc ngăn ngừa bạo lực trong tương lai. Ghi nhớ! Kế hoạch an toàn là công cụ để bảo vệ, không phải để dự báo, được xây dựng để giảm bớt nguy hiểm và tăng cường an toàn chứ không phải để dự báo về khả năng xảy ra bạo lực trong tương lai. 105
  23. PHỤ LỤC Phụ lục 1: Gợi ý về lấy lời khai nạn nhân Gơi y cách tiếp cận lấy lời khai nạn nhân cân có kế hoạch chi tiết: 10 Lựa chọn một địa điểm Dựa vào tình huống cụ thể, nạn nhân và người làm chứng có thể cung cấp thông tin phù hợp đầy đủ hơn nếu được lấy lời khai ở nhà so vơi lấy lời khai ở trụ sở công an. Một số phụ nữ lai sợ phải trả lời ở nhà, vì vây lấy viêc lời khai có thể được tiến hành ở bệnh viện hoặc nhà tạm lánh. Hãy hỏi nạn nhân xem họ thấy thoải mái khi lấy lời khai ở đâu. Quyết định về sự có Lý tưởng nhât là một can bô công an có kinh nghiệm và đa qua đào tạo sẽ thưc hiên mặt của người khác lấy lời khai nạn nhân. Một cán bộ khac hoặc môt người hỗ trợ nạn nhân co thê co măt. Trong trường hợp bạo lực gây thương tích nghiêm trong, công an nên cân nhắc việc ghi âm hoặc ghi hình buôi lây lơi khai. Không bao giơ lấy lời khai khi có mặt người gây bạo lưc hoặc trong các phòng thiết kế để hỏi cung. Lên kế hoach những Trươc khi lây lơi khai, điêu tra viên cân lên kê hoach nhưng câu chinh cân hoi (VD ai, câu se hoi cai gi, ơ đâu, luc nao, như thê nao) Giơi thiêu Nêu ghi âm buôi lây lơi khai, hay nêu thơi gian, ngay thang, đia điêm đươc ghi âm. Nêu không ghi âm, điêu tra viên giơi thiêu tên minh vơi nan nhân. Quy tắc lấy lời khai: Điều tra viên có thể nói những câu sau để khiên nạn nhân cam thấy dễ chiu hơn: • Tôi ở đây là để giúp đỡ, không phải để phán quyết hoặc buộc tội • Nếu tôi hiêu chưa đung lơi chi noi thi chi cho tôi biêt ngay. Tôi muốn co thông tin môt cach chinh xac. • Nếu tôi nói điêu gi chưa ro thi chi cho tôi biêt thi tôi se giai thich lại. • Nếu thây kho chiu thi chi hãy noi hoặc ra hiệu cho tôi biêt (như nhâc ban tay lên). • Du chi nghĩ tôi đã biết điều gì đó thi vẫn cư nói lai cho tôi biết. • Nếu chi không chắc chắn về câu trả lời thi đưng phỏng đoán, hãy nói “tôi không chắc lăm” trước khi nói điêu đo. • Tôi không co măt ơ đo khi sư viêc xay ra. Vi vây chi cang mô ta chi tiêt sư viêc thi tôi càng hiểu ro hơn. • Chi yên tâm la tôi sẽ không cau giận vơi chi. • Chi chỉ nói sư thât va sư viêc đã xảy ra. Tường thuật tự do Đây là phần chi tiết và quan trọng nhất của buổi lấy lời khai, la luc nạn nhân cung câp nhưng thông tin chi tiết nhất. Hãy đề nghị nan nhân kê lai sư viêc xay ra, nhưng gi ho nhìn thấy, nghe thấy bằng ngôn ngư của họ. Họ cân kê lai càng chi tiết càng tốt về hoàn cảnh của vụ việc. “Chi hay kê lai mọi thứ mà chi con nhớ được về chuyện đã xảy ra, từ đầu đến cuôi”. Đừng cắt ngang lơi kê. Nếu người phụ nữ dừng lại, hãy hỏi “chuyện gì xảy ra sau đó?” hoặc “Chi đang nói rằng (nhắc lại câu trước)”. Dùng nhưng tư như “ừ hứ”, ừm”, đê khuyên khich ho tiêp tuc noi. Điều tra viên cân nghe hêt câu chuyện và đừng hỏi hoặc ngắt lời. Nếu người phụ nữ dừng lơi, điều tra viên nên khuyến khích người đo noi tiếp (ví dụ, “Và chuyên gi xay ra sau đó”). Điều tra viên cân lắng nghe kiên nhẫn và ghi chép chi tiết. Nhớ rằng một số nạn nhân bi bao lưc hoặc lạm dụng có thể không muôn kê lai chuyên đa xảy ra. Họ có thể bị thu pham dọa đánh hoăc doa giết. 10 Trích từ dư thảo tài liệu tập huấn của UNODC “Xử lý có hiệu quả của công an trươc với bạo lực đối với phụ nữ”. 106
  24. Những câu hỏi mở Câu hỏi mở là cach đăt câu hoi sao cho ngươi tra lơi cung cấp thêm thông tin về môt sự kiên, không đinh hương, gơi y hay gây áp lực trong câu hoi. Câu hỏi mở cho phép kiểm soát được dòng thông tin và han chê viêc điều tra viên có thể vô tinh áp đặt quan điểm cá nhân đôi vơi sư viêc xảy ra. Luc nao điều tra viên đưa ra nhưng câu hỏi mở (tưc câu hỏi không thể trả lời “có” hoặc “không”). Ví dụ: • Hãy nói về • Chuyên gi xảy ra sau đo? • Chi thấy gì sau đo? • Chi con nhớ gì nữa? Điều tra viên sử dụng câu hỏi mơ để làm rõ cac điểm trong lời kê tự do đông thơi tiêp tuc ghi chep chi tiết về những điều nạn nhân nói. Để tránh nhầm lẫn và giup nan nhân nhơ lai sư viêc thi điều tra viên nên hỏi từng câu một. Câu hỏi đặc biệt Mục đích của giai đoạn này là làm rõ và mở rộng câu trả lời trước đó nhưng không gợi ý. Ở đây điều tra viên hỏi những câu hỏi đong, trực tiếp để gợi ra những chi tiết con thiêu hoăc làm rõ nhưng điêm chính. Đảm bảo hoi đu nhưng điểm chính: ai, cái gì, luc nao, ơ đâu, như thế nào, tại sao. Điều tra viên tiếp tục ghi chép. Tránh những câu hoi co nhiêu đap an lựa chọn (multiple choice), nhưng nếu cân thì chi hoi nhưng câu có 2 phương án trả lời. Môt luc sau co thê hoi lai câu hoi theo môt cach khac, co sắp xếp lại. Nếu có mâu thuẫn trong lời khai thi cần lam ro ơ cuối buổi. Kế hoạch an toàn Xem lại phần cuối của mô-đun này đê biêt thêm chi tiết. Buổi lấy lời khai không thê thiêu phân nay. Như là 1 phần của kế hoạch an toàn, (bao gồm cả an toàn về thể chất và tâm lý), công an có thể sử dụng phần này của buổi lấy lời khai để giơi thiêu vơi người phụ nữ các dịch vụ và trợ giúp khac như y tế, tư vấn hoặc cac hỗ trợ xã hội khác. Kết luận Khi điều tra viên cho rằng đã co đu thông tin cần thiết, đê kêt thuc buôi lây lơi khai, điêu tra viên cân hỏi “Còn co nội dung gì về vụ việc mà chi nghĩ rằng tôi cần biết?” hoặc “Con có điều gì mà chi biết nhưng tôi chưa hỏi không?”. Hỏi xem nan nhân có câu hỏi nào không. Nếu có, trả lời nan nhân ky nhât co thê. Cho nan nhân biêt răng co thê se lấy lời khai thêm lân nữa. Giải thích về điều gì sẽ xảy ra sau đó, nhưng đừng hứa hẹn gì cả. Cảm ơn người phụ nữ về sự giúp đỡ và hợp tác. 107
  25. Phụ lục 2: Vi du sơ đồ thương tích dùng cho điều tra viên và nhân viên y tế Vi du sơ đô vi tri thương tich trên cơ thê Sơ đồ này phai được đính kèm với môt báo cáo chi tiết về tính chất va mưc đô của thương tich, nguyên nhân cua thương tich, loại hung khí sử dụng, nêu co. 108
  26. MÔ-ĐUN 5 HỆ THỐNG XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ VẤN ĐỀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH
  27. Mô-đun 5 Hệ thống xử lý vi phạm hành chính và vấn đề bạo lực gia đình Mục đích: Kết thúc phần này, học viên sẽ có thể: • Làm quen với khung pháp lý về xử lý vi phạm hành chính. • Hiêu được vai tròcua mình với trách nhiệm là cán bộ UBND cấp xã và công an cấp xã trong việc áp dụng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong công tác phòng, chống BLGĐ. • Có thể xử lý vụ việc BLGĐ theo pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Mục 1: Khái quát về hệ thống xử lý vi phạm hành chính về bạo lực gia đình 1.1 Giới thiệu hệ thống xử lý vi phạm hành chính Luật pháp về xử lý vi phạm hành chính là một công cụ hữu hiệu của nhà nước để xử lý BLGĐ. Việc xử lý nhanh chóng, kịp thời và nhất quán các vụ BLGĐ sẽ góp phần khôi phục trật tự về quản lý nhà nước bị vi phạm và tăng cường nhận thức xã hội về phòng chống BLGĐ. Luật pháp về xử lý vi phạm hành chính quy định những can thiệp bắt buộc để điều chỉnh hành vi vi phạm các cá nhân mà về bản chất không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính. Mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra, cả về thể chất lẫn tâm lý, đều phải xử lý nghiêm khắc và nhanh chóng theo quy định của pháp luật. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng chống BLGĐ bao gồm những vấn đề sau: 1. Hành vi đó phải là hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực phòng chống BLGĐ. Do đó hành vi “vi phạm” phải được quy định trong một văn bản pháp quy như Nghị định. Ngoài ra, hậu quả của hành vi vi phạm đối với cộng đồng/xã hội và các cá nhân là thấp và do vậy không bị khởi tố về hình sự. 2. Đó phải là một hành vi tồn tại khách quan, xảy ra trong quá khứ. 3. Đó phải là hành vi của một cá nhân (hoặc một tổ chức)1 . 4. Hành vi đó phải mang tính cố ý, nói cách khác, người có hành vi vi phạm phải ý thức được tính sai trái của hành vi và hậu quả của nó, cả hậu quả mong muốn lẫn không mong muốn. 1.2 Luật pháp về xử phạt hành chính Có một số văn bản pháp quy về xử phạt hành chính, đó là: Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi, bổ sung năm 2007 và năm 2008) là văn bản pháp lý cơ bản về xử phạt hành chính và có hiệu lực pháp lý cao nhất trong các văn bản luật của Việt Nam thuộc lĩnh vực này. Pháp lệnh này nêu những quy định chung về xử lý vi phạm hành chính. Nghị định số 128/2008/NĐ-CP ngày 16 tháng 12 năm 2008 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh trên. Còn có một số Nghị định khác quy định thi hành một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính: Nghị định số 37/2005/NĐ-CP ngày 18 tháng 3 năm 2005 quy định thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính; Nghị định số 70/2006/NĐ-CP ngày 24 tháng 7 năm 2006 quy định việc quản lý tang vật, phương tiện bị tạm giữ theo thủ tục hành chính; Nghị định số 62/2004/NĐ-CP ngày 07 tháng 09 năm 2004 ban hành Quy chế tạm giữ người theo thủ tục hành chính. 1 Tổ chức thường không liên quan khi nói tới các vụ BLGĐ, tuy nhiên có thể áp dụng trong một số trường hợp, ví dụ một tổ chức hỗ trợ nạn nhân sử dụng lợi thế của mình để thu lợi bất chính. 111
  28. Ngoài ra còn những văn bản pháp quy do các bộ và cơ quan ngang bộ ban hành, hướng dẫn thi hành một số điều của các Nghị định trên. Ngoài khoảng 100 Nghị định của Chính phủ về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước còn những văn bản pháp quy do các bộ và cơ quan ngang bộ ban hành, hướng dẫn thi hành một số điều của các Nghị định trên. Như đã trao đổi chi tiết trong mô-đun 4, các văn bản pháp quy cụ thể về xử phạt hành chính trong lĩnh vực phòng, chống BLGĐ là: Luật phòng, chống BLGĐ; Nghị định số 110/2009/NĐ-CP ngày 10 tháng 12 năm 2009 quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực phòng, chống BLGĐ. Khi phát hiện hành vi vi phạm trong lĩnh vực phòng, chống BLGĐ, người có thẩm quyền cần theo đúng hướng dẫn của các văn bản pháp quy nêu trên, nhất là Nghị định số 110/2009/NĐ-CP, để xác định hành vi đó là vi phạm hành chính, tội phạm hay mâu thuẫn gia đình không có yếu tố của tội phạm hoặc vi phạm hành chính. 1.3. Phân biệt vi phạm hành chính và tội phạm Chúng ta có thể phân biệt vi phạm hành chính và tội phạm dựa trên những dấu hiệu cơ bản dưới đây: Dấu hiệu Vi phạm hành chính Tội phạm Mức độ nguy hiểm Mức độ nguy hiểm thấp với xã hội Mức độ nguy hiểm cao với xã hội Văn bản điều chỉnh Luật do Quốc hội ban hành Bộ luật Hình sự do Quốc hội Pháp lệnh do Uỷ ban Thường vụ của Quốc ban hành hội ban hành Chính phủ quy định những hành vi vi phạm trong các lĩnh vực quản lý nhà nước (Nghị định 110) Đối tượng áp dụng Cá nhân, tổ chức Cá nhân Người có thẩm Cán bộ nhà nước có thẩm quyền 2 Thẩm phán, cơ quan điều tra hình quyền xử lý sự, công an Trình tự thủ tục Thủ tục hành chính được quy định trong Pháp Thủ tục pháp lý được quy định trong lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 Bộ luật Tố tụng Hình sự 1.4. Đối tượng bị xử lý vi phạm hành chính Theo Pháp lệnh 2002 và Nghị định số 110, cả tổ chức và cá nhân đều là đối tượng có thể bị xử lý vi phạm hành chính. Một trong những mục đích chính của xử phạt hành chính là giáo dục người vi phạm tự nguyện sửa chữa và để phòng ngừa BLGĐ nói chung. Xử phạt hành chính cũng đảm bảo người vi phạm phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình và thiết lập một hệ thống hồ sơ theo dõi tất cả các vi phạm, qua đó có thể tăng mức phạt vi phạm hành chính nếu người vi phạm lại tiếp tục vi phạm trong tương lai. Mục đích giáo dục của xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng chống BLGĐ là rất quan trọng vì BLGĐ thường có những đặc điểm như sau: Mối liên hệ chặt chẽ giữa người vi phạm và nạn nhân – do cùng gia đình nên họ có quan hệ hôn nhân hoặc quan hệ ruột thịt. Như đã đề cập trong mô-đun 3, đa phần các vụ BLGĐ là do nam giới gây ra. Các vụ mà người vi phạm là trẻ vị thành niên hoặc phụ nữ chiếm một tỷ lệ thấp. Nhận thức và quan niệm xã hội về bình đẳng giới còn rất hạn chế. Nói cách khác, khuôn mẫu giới tiếp tục tạo nên quan hệ quyền lực bất bình đẳng giữa nam và nữ. Trong một số trường hợp, người vi phạm/thủ phạm là người kiếm thu nhập duy nhất hoặc chủ yếu của gia đình. 2 Ví dụ Chủ tịch UBND cấp xã, công an viên cấp xã 112
  29. 1.5. Hình thức xử phạt Pháp lệnh 2002 quy định các hình thức xử phạt vi phạm hành chính khác nhau như sau: a) Các hình thức xử phạt chính: Cảnh cáo; Phạt tiền (mức phạt tiền đối với vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng chống BLGĐ là từ 100.000 đồng đến 30.000.000 đồng ). b) Tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà người vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau đây: Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề; Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính. c) Ngoài các hình thức xử phạt nêu trên, người vi phạm còn có thể bị buộc xin lỗi công khai khi nạn nhân có yêu cầu. d) Người nước ngoài vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng chống BLGĐ trên lãnh thổ Việt Nam còn có thể bị xử phạt trục xuất. Trục xuất được áp dụng là hình thức xử phạt chính hoặc xử phạt bổ sung trong từng trường hợp cụ thể. Nghị định quy định rằng các cơ sở hỗ trợ và tư vấn cho nạn nhân nếu vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng chống BLGĐ, ví dụ lợi dụng hoạt động phòng chống BLGĐ để trục lợi có thể bị xử phạt với mức tối đa của khung tiền phạt là 30 triệu đồng. Nghị định số 110/2009/NĐ-CP quy định mức phạt tương đối thấp đối với vi phạm lần đầu (đến 1,5 triệu đồng). Quy định này đã tính đến quan hệ đặc biệt giữa người vi phạm và nạn nhân. Tuy nhiên, cơ quan có thẩm quyền cần lưu ý rằng nếu đã có quá trình BLGĐ xảy ra trước đó thì cần cân nhắc áp dụng hình thức xử phạt cho phù hợp. 1.6. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính là do pháp luật quy định, trao cho những cán bộ nhà nước liên quan. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được quy định trong Chương IV của Pháp lệnh và quy định chi tiết trong Chương III của Nghị định số 110. Có 4 cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Đó là: 1. Chủ tịch UBND thực hiện quản lý nhà nước chung tại địa bàn địa phương; 2. Công an; 3. Bộ đội biên phòng; 4. Thanh tra Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Chủ tịch UBND xã/phường, trưởng công an phường và chiến sĩ Công an nhân dân có vai trò quan trọng nhất trong việc lập hồ sơ vụ việc và quyết định mức phạt ở cơ sở. Bộ đội biên phòng và Thanh tra Văn hóa, Thể thao và Du lịch có thể xử lý những dạng vi phạm như truyền bá thông tin, hình ảnh nhằm kích động hành vi BLGĐ hoặc xử lý hành vi BLGĐ tại khu vực biên giới. Nguyên tắc xác định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính Khi xảy ra hành vi vi phạm, theo quy định của Nghị định 110, Chủ tịch UBND xã/phường, trưởng công an phường và chiến sĩ Công an nhân dân có tráchh nhiệm xác định hành vi vi phạm cụ thể và xác định theo mức phạt thì mình có thẩm quyền xử phạt hay phải chuyển vụ vi phạm đến cấp có thẩm quyền cao hơn. Quy định tại khoản 17 Điều 1 của Pháp lệnh 2008 và Nghị định số 128/2008 quy định cụ thể thẩm quyền xử phạt của Chủ tịch UBND xã/phường, trưởng công an phường và chiến sĩ Công an nhân dân. Ví dụ: 113
  30. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước ở địa phương do mình quản lý, có thể quyết định áp dụng xử phạt vi phạm về phòng chống BLGĐ cụ thể như sau 1. Phạt cảnh cáo; 2. Phạt tiền đến 2.000.000 đồng; 3. Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính có giá trị đến 2.000.000 đồng; Trong trường hợp xử phạt một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì thẩm quyền xử phạt cấp xã được xác định theo nguyên tắc sau đây: Nếu hình thức, mức xử phạt được quy định đối với từng hành vi đều thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND xã/phường, trưởng công an phường và chiến sĩ Công an nhân dân, thì thẩm quyền xử phạt vẫn thuộc người đó; Nếu hình thức, mức xử phạt được quy định đối với một trong các hành vi vượt quá thẩm quyền của người xử phạt, thì người đó phải chuyển vụ vi phạm đến cấp có thẩm quyền xử phạt; Nếu các hành vi thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều người thuộc các ngành khác nhau, thì quyền xử phạt thuộc Chủ tịch UBND cấp xã ở nơi xảy ra vi phạm. Mục 2: Xử phạt hành chính trong các vụ việc BLGĐ 2.1. Tiếp nhận và xử lý vụ việc Phát hiện hành vi BLGĐ Vụ việc BLGĐ được các cơ quan chức năng phát hiện thông qua một số nguồn thông tin như đã được đề cập trong mô-đun 5. Sau khi phát hiện, cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét có xử lý hành chính và việc xử lý có thuộc thẩm quyền của họ hay không. Điều 18 Luật phòng, chống BLGĐ quy định người phát hiện BLGĐ phải kịp thời báo tin cho cơ quan công an nơi gần nhất hoặc UBND cấp xã hoặc người đứng đầu cộng đồng dân cư nơi xảy ra bạo lực. Trường hợp ngoại lệ là nhân viên y tế và nhân viên tư vấn khi thực hiện nhiệm vụ của mình có trách nhiệm giữ bí mật thông tin về nạn nhân (theo khoản 3 Điều 23 và khoản 4 Điều 29 của Luật) Điểm a khoản 1 Điều 5 của Luật phòng, chống BLGĐ quy định rằng nạn nhân BLGĐ có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình. Quy định này giúp Chủ tịch UBND cấp xã và những người liên quan khác có thẩm quyền để xác định có vi phạm hành chính xảy ra hay không. Ngoài ra, Chủ tịch UBND cấp xã có thể cân nhắc bất kỳ yêu cầu nào khác của nạn nhân (như tại khoản 1 Điều 5) trong khi quyết định có áp dụng xử phạt hành chính hay không. Như đã trình bày ở mô-đun 5, sự nhạy cảm trong cách xử lý của cơ quan có thẩm quyền với nạn nhân là quan trọng đối với tất cả các vụ việc do tính chất phức tạp của BLGĐ. Cách chính quyền xử lý với nạn nhân có tác động quan trọng đến việc nạn nhân có hợp tác và có đưa ra các “yêu cầu” hay không. Mặc dù ý kiến của nạn nhân là quan trọng nhưng chính quyền cần nhớ rằng họ đang xử lý vi phạm đối với pháp luật nhà nước và không thể coi là vấn đề riêng tư của gia đình. Có thể có trường hợp vụ việc BLGĐ được xử lý bằng pháp luật hình sự nhưng bị đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án khi đã truy tố. Nếu hành vi có dấu hiệu vi phạm hành chính thì phải lập hồ sơ vụ vi phạm và đề nghị xử phạt hành chính đến người có thẩm quyền xử phạt hành chính theo quy định tại Điều 63 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Thu thập và củng cố chứng cứ Theo quy định tại Điều 55 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, khi phát hiện vi phạm hành chính, người có thẩm quyền phải kịp thời lập biên bản. Trong biên bản về vi phạm hành chính phải ghi rõ các chi tiết của vi phạm, họ tên của người vi phạm, nạn nhân và người chứng kiến. Biên bản này không chỉ quan trọng trong việc xác định thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính mà còn là căn cứ quan trọng nhất để xác định là vi phạm hành chính đã xảy ra và phải áp dụng hình thức xử phạt nào. 114
  31. Tuy nhiên, để đảm bảo có một quyết định có căn cứ đầy đủ và chính xác, cơ quan có thẩm quyền thường phải thu thập thêm các văn bản và chứng cứ khác. Chứng cứ có thể bao gồm hồ sơ tài liệu về thương tích của nạn nhân, tổn hại về tâm lý cũng như tác động tiêu cực của những hành vi bạo lực này đối với gia đình và xã hội 3. Chứng cứ có thể là báo cáo giám định thương tích, biên bản, lời khai, vật chứng, hung khí hoặc những vật dùng để thực hiện hành vi bạo lực. Chứng cứ có thể được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau như thành viên trong gia đình, hàng xóm, cơ sở y tế. Chứng cứ phải được thu thập nhanh chóng và bảo quản cẩn thận. Mô-đun 5 đã đề cập chi tiết đến cách bảo vệ chứng cứ tại hiện trường xảy ra hành vi bạo lực. Nếu không kịp thời thu thập chứng cứ thì rất có thể người phạm tội không phải chịu trách nhiệm về hành vi bạo lực của mình. Nếu chứng cứ bị phá hủy, bị mất hoặc hư hại thì rất có thể không chứng minh được hành vi bạo lực. Chứng cứ vật chất và chứng cứ chứng thực là rất quan trọng trong các vụ án về BLGĐ vì trong nhiều trường hợp nạn nhân không muốn hợp tác với chính quyền. Mô-đun 5 đã giới thiệu chi tiết về tâm lý hành vi của nạn nhân. Ngoài ra liên quan đến chứng cứ, pháp luật Việt Nam cũng quy định rằng cơ quan chức năng không thể chỉ dựa vào lời khai của nạn nhân để xác định rằng hành vi BLGĐ đã xảy ra, do vậy cần phải đảm bảo thu thập được đầy đủ các chứng cứ khác nữa. Chứng cứ liên quan đến hành vi BLGĐ phải được phân loại và đánh giá một cách khoa học. Sau khi có đánh giá ban đầu về chứng cứ có thể phải lên kế hoạch thu thập thêm chứng cứ khác. BLGĐ là một vấn đề nhạy cảm. Vì nhiều lý do khác nhau mà nạn nhân, người thân hoặc hàng xóm không muốn tố cáo hành vi BLGĐ. Họ có thể cảm thấy xấu hổ hoặc có thể sợ thủ phạm. Do vậy trong khi nói chuyện với nạn nhân, cán bộ chính quyền cần hiểu rõ nguyên nhân của BLGĐ và cần phải kiên nhẫn, nhạy cảm. Ngoài ra, các chứng cứ vật chất như hồ sơ tài liệu chứng minh thương tích của nạn nhân là rất quan trọng. Khi phát hiện hành vi BLGĐ, cơ quan có thẩm quyền cần nhanh chóng xác định và thu lại các chứng cứ vật chất. Khi thu thập chứng cứ, cơ quan có thẩm quyền cần lưu ý đến sự an toàn của nạn nhân và tìm ra căn cứ pháp lý để buộc người có hành vi vi phạm phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Trong nhiều trường hợp, BLGĐ đã xảy ra một thời gian dài rồi mới bị phát hiện. Tình trạng bạo lực thường gia tăng cùng với thời gian. Mặc dù không thể đoán chắc lúc nào thì bạo lực có thể gia tăng tới mức gây chết người nhưng cơ quan có thẩm quyền vẫn phải đánh giá về nguy cơ đó như mô tả ở mục 7.2 của mô-đun 5. Để tiến hành đánh giá đó đòi hỏi phải thu thập được đầy đủ mọi chứng cứ. Do vậy các cơ quan có thẩm quyền cần thu thập chứng cứ và lập biên bản mọi vụ việc mà họ biết để phản ánh chân thực quá trình BLGĐ xảy ra để có thể áp dụng các biện pháp phù hợp để phòng ngừa bạo lực trong tương lai một cách hiệu quả. Khi cơ quan có thẩm quyền nhận được hồ sơ vụ vi phạm như quy định trong Điều 63 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, họ sẽ xem xét chứng cứ và tài liệu để xác định có dấu hiệu vi phạm hành chính hay không. Cơ quan có thẩm quyền có thể cân nhắc xem có cần thu thập thêm chứng cứ trước khi xử phạt vi phạm hành chính. Xác định người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính Sau khi phát hiện, lập biên bản hành vi vi phạm và thu thập các chứng cứ ban đầu để xác định có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng chống BLGĐ, cán bộ tiếp nhận và thụ lý hồ sơ cần xác định hình thức xử phạt nào cần áp dụng đối với tình huống đó để biết mình có đủ thẩm quyền xử phạt hay không. Nếu thấy hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm, thì người có thẩm quyền phải chuyển ngay hồ sơ cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền để điều tra và truy tố theo quy định của Điều 62, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. 3 Tác động tiêu cực đối với xã hội là truyền bá quan niệm xã hội tiêu cực 115
  32. 2.2. Biện pháp đình chỉ và ngăn chặn vi phạm hành chính trong tương lai Sau khi xác định rằng vụ việc BLGĐ là hành vi vi phạm hành chính, cơ quan có thẩm quyền cần áp dụng biện pháp để đình chỉ và ngăn chặn bạo lực tái diễn. Các biện pháp này được quy định trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và Luật phòng, chống BLGĐ. Các biện pháp này là nhằm kịp thời bảo vệ nạn nhân, chấm dứt bạo lực và/hoặc giảm thiệt hại do bạo lực gây ra. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính quy định một số biện pháp ngăn chặn hành chính như sau: Tạm giữ người vi phạm theo thủ tục hành chính Khám người theo thủ tục hành chính; Khám phương tiện vận tải, đồ vật theo thủ tục hành chính; Khám nơi cất giấu tang vật theo thủ tục hành chính. Luật phòng, chống BLGĐ quy định những biện pháp sau đây để đình chỉ và ngăn chặn vi phạm hành chính tái diễn: Biện pháp cấm tiếp xúc, tức là cấm người có hành vi BLGĐ đến gần nạn nhân; sử dụng điện thoại hoặc các phương tiện thông tin khác để có hành vi bạo lực với nạn nhân. Đưa nạn nhân đi cấp cứu. Luật phòng, chống BLGĐ cũng quy định những thủ tục cần thực hiện khi áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc. ). Để thực hiện biện pháp cấm tiếp xúc thì nạn nhân BLGĐ phải có yêu cầu và biện pháp này được áp dụng trong trường hợp hành vi BLGĐ gây tổn hại hoặc đe doạ gây tổn hại đến sức khỏe hoặc đe doạ tính mạng của nạn nhân”. Nạn nhân có thể yêu cầu áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc theo 2 cách: 1. Chủ tịch UBND cấp xã nơi xảy ra bạo lực gia đình có thể quyết định áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc trong thời hạn không quá 3 ngày; 2. Toà án đang thụ lý hoặc giải quyết vụ án dân sự có thể quyết định áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc trong thời hạn không quá 4 tháng. Điều 9 của Nghị định 08 quy định rằng công an là một trong những cơ quan có thẩm quyền để gửi đơn yêu cầu UBND ra quyết định cấm tiếp xúc. Công an có thể có đơn yêu cầu khi có một trong các căn cứ sau đây: • Có giấy xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh về việc khám và điều trị thương tích do hành vi BLGĐ gây ra; • Có dấu vết thương tích trên cơ thể nạn nhân có thể nhận thấy rõ bằng mắt thường hoặc có dấu hiệu rõ ràng về hoảng loạn tinh thần của nạn nhân BLGĐ; • Có chứng cứ chứng minh có sự đe dọa gây tổn hại đến sức khỏe hoặc tính mạng của nạn nhân BLGĐ. Các biện pháp trên không nằm trong quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Các quy trình thủ tục của hệ thống tư pháp hình sự được mô tả trong mô-đun 7. Giám sát thực hiện quyết định cấm tiếp xúc của toà án Chủ tịch UBND xã/phường, trưởng công an phường và cán bộ Công an có một vai trò quan trọng trong việc giám sát hoặc tổ chức giám sát việc thực hiện quyết định cấm tiếp xúc (khoản 2 Điều 21 của Luật phòng, chống BLGĐ. Ngoài ra, những cán bộ này có thể áp dụng biện pháp xử lý nếu thủ phạm vi phạm biện pháp cấm tiếp xúc. Vi phạm quyết định cấm tiếp xúc của UBND là vi phạm hành chính và có thể bị áp dụng biện pháp tạm giữ người theo quy định của Nghị định 08. Tạm giữ người gây BLGĐ Chủ tịch UBND xã/thị trấn và trưởng công an phường có quyền quyết định tạm giữ người có hành vi BLGĐ theo thủ tục hành chính. Nghị định 19 4 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế tạm giữ người theo thủ tục hành chính. Tạm giữ người theo thủ tục hành chính được áp dụng trong các trường hợp sau đây: 4 Nghị định số 19/2009/NĐ-CP ngày 19/02/2009 116
  33. • Cần ngăn chặn, đình chỉ ngay những hành vi gây rối trật tự công cộng hoặc gây thương tích cho người khác. • Cần phải thu thập, xác minh những tình tiết quan trọng để làm căn cứ cho việc quyết định xử lý vi phạm hành chính hoặc bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính. • Người có hành vi BLGĐ vi phạm quyết định cấm tiếp xúc của Chủ tịch UBND cấp xã. Quyết định tạm giữ và điều kiện để chấm dứt tạm giữ phải tính đến sự an toàn của nạn nhân và những người khác liên quan trong gia đình, xã hội và các quan hệ khác và phát huy tác dụng ngăn chặn những hành vi bạo lực tiếp theo. Khi có căn cứ để cho rằng tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có thể bị tẩu tán, tiêu huỷ thì chiến sỹ Cảnh sát nhân dân, Bộ đội biên phòng, nhân viên Hải quan đang thi hành công vụ được quyền ra quyết định tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính cũng như khám người, khám phương tiện vận tải, đồ vật (khoản 2 Điều 46, khoản 2 Điều 47 và khoản 2 Điều 48 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính). Khác với trưởng công an phường, trưởng công an xã không được quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo vệ. Khi trưởng công an xã phát hiện vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng chống BLGĐ thì phải lập tức báo cho Chủ tịch UBND xã/thị trấn trừ khi có căn cứ để cho rằng tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có thể bị tẩu tán, tiêu huỷ. 2.3. Thủ tục xử phạt Luật phòng, chống BLGĐ không quy định chi tiết về thủ tục phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng chống BLGĐ. Do vậy cần áp dụng các thủ tục được quy định trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Người có thẩm quyền xử phạt phải ra quyết định xử phạt trong thời hạn được quy định tại Điều 56 của Pháp lệnh. Nếu để quá thời hạn mà không ra quyết định xử phạt thì người có thẩm quyền xử phạt được xác định là có lỗi. Đối với trường hợp đã ra quyết định xử phạt, nếu sau đó phát hiện hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm thì người đã ra quyết định xử phạt phải huỷ quyết định đó và chuyển hồ sơ vụ vi phạm cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền. Nếu nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt. Việc xử lý vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân người vi phạm và những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng. Tuy nhiên trong phòng chống BLGĐ, người có thẩm quyền trong một số trường hợp phải xác định ai là người tấn công chính. Nếu cả hai người đều bị xử lý hành chính thì có thể tổn thương cho nạn nhân, làm nạn nhân giảm mong muốn tìm kiếm giúp đỡ trong tương lai và làm tăng nguy cơ xảy ra thương tích nghiêm trọng, thậm chí gây chết người. Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm. Người có thẩm quyền có thể ra quyết định xử phạt theo thủ tục đơn giản đối với những vi phạm không nghiêm trọng. Thủ tục xử phạt đơn giản được áp dụng với những trường hợp không có tình tiết phức tạp đòi hỏi tiếp tục làm rõ hoặc hình thức xử phạt là cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 200.000 đồng. Tuy nhiên theo quy định của Nghị định 110/2009/NĐ-CP thì các vi phạm trong lĩnh vực phòng chống BLGĐ không áp dụng thủ tục xử phạt đơn giản. (Điều 54 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và Điều 19 của Nghị định. 128/2008/NĐ-CP) 2.4. Phạt tiền Cùng với cảnh cáo thì phạt tiền là hình thức xử phạt hành chính phổ biến cho những vi phạm hành chính lần đầu. 117
  34. Văn bản pháp lý cần tham khảo: Chương VI Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính; Chương IV Nghị định 128/2008/ NĐ-CP ngày 16/12/2008 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh trên; Chương III Nghị định 110/2009/ NĐ-CP ngày 10/12/2009 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống BLGĐ. Thủ tục phạt Nếu vi phạm thuộc mức phạt tiền đến 200.000 đồng thì người có thẩm quyền có thể áp dụng thủ tục đơn giản. Nếu vi phạm thuộc mức phạt tiền trên 200.000 đồng thì người có thẩm quyền có thể phạt theo thủ tục có lập biên bản. Theo quy định của Điều 55 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, người có thẩm quyền xử phạt đang thi hành công vụ phải kịp thời lập biên bản. Biên bản lập xong phải được giao cho cá nhân, tổ chức vi phạm một bản. Nếu vụ vi phạm vượt quá thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản thì người đó phải gửi biên bản đến người có thẩm quyền xử phạt Người vi phạm phải chấp hành quyết định xử phạt trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày được giao quyết định xử phạt, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu người vi phạm không tự nguyện chấp hành quyết định xử phạt thì bị cưỡng chế thi hành Cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính quy định các biện pháp cưỡng chế (Điều 66) và thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế (Điều 67). Thủ tục thi hành các biện pháp cưỡng chế được quy định trong Nghị định số 37/2005/NĐ-CP ngày 18/3/2005. Những người không chấp hành quyết định phạt sẽ bị áp dụng một số hình thức cưỡng chế, bao gồm cả tạm giữ người. Mục 3: Các biện pháp khác liên quan tới vi phạm hành chính Trong lĩnh vực phòng chống BLGĐ, có một số biện pháp xử lý hành chính khác có thể áp dụng khi mức độ bạo lực chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Đó là các biện pháp: (i) Giáo dục tại xã, phường, thị trấn; (ii) Đưa vào cơ sở giáo dục; Các biện pháp này được quy định tại Điều 23, 24 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và Điều 43 của Luật phòng chống BLGĐ. 3.1 Xác định các biện pháp xử lý hành chính khác đối với những người thường xuyên có hành vi BLGĐ Người thường xuyên có hành vi BLGĐ đã được góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư mà trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngày áp dụng biện pháp này vẫn có hành vi BLGĐ nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì có thể bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Người có hành vi BLGĐ đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà tiếp tục thực hiện hành vi BLGĐ nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì có thể bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; đối với người dưới 18 tuổi thì có thể bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng. Thẩm quyền, thời hạn và thủ tục thực hiện các biện pháp như giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào cơ sở giáo dục hoặc đưa vào trường giáo dưỡng thực hiện theo quy định về xử lý vi phạm hành chính. 118
  35. 3.2 Áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác Giáo dục tại xã, phường, thị Đưa vào trường giáo dưỡng 5 Đưa vào cơ sở giáo dục trấn Cơ sở Điều 21 của Nghị định quy Điều 22 của Nghị định quy định thẩm Điều 23 của Nghị định pháp lý định biện pháp và các Điều từ quyền và các Điều từ 75 đến 83 quy quy định thẩm quyền và 70 đến 74 quy định thời hạn định thời hạn và thủ tục. các Điều từ 84 đến 92 quy và thủ tục. định thời hạn và thủ tục. Thẩm Chủ tịch UBND xã, phường, Chủ tịch UBND quận, huyện, thị xã, Chủ tịch Uỷ ban nhân quyền thị trấn có thẩm quyền quyết thành phố thuộc tỉnh dân cấp tỉnh định và giám sát người vi phạm tại nơi cư trú. Đối tượng 1. Người từ đủ 12 tuổi đến 1. Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi Người thực hiện hành vi áp dụng dưới 16 tuổi thực hiện hành thực hiện hành vi có dấu hiệu của một xâm phạm tài sản, sức liên quan vi có dấu hiệu của một tội tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc khỏe, danh dự, nhân tới vụ việc phạm nghiêm trọng do cố ý biệt nghiêm trọng quy định tại Bộ luật phẩm của công dân, của BLGĐ quy định tại Bộ luật Hình sự; Hình sự; người nước ngoài, vi 2. Người từ đủ 12 tuổi trở lên 2. Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm trật tự, an toàn xã nhiều lần có hành vi vi phạm thực hiện hành vi có dấu hiệu của một hội (bao gồm cả BLGĐ) có về BLGĐ, trong đó có gây rối tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm tính chất thường xuyên trật tự công cộng nghiêm trọng quy định tại Bộ Luật Hình nhưng chưa đến mức truy 3. Người trên 55 tuổi đối với sự mà trước đó đã bị áp dụng biện cứu trách nhiệm hình sự, nữ và trên 60 tuổi đối với nam pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đã bị áp dụng biện pháp thực hiện hành vi BLGĐ xâm hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này giáo dục tại xã, phường, phạm sức khỏe, danh dự, nhưng không có nơi cư trú nhất định; thị trấn hoặc chưa bị nhân phẩm của công dân, vi 3. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi áp dụng biện pháp này phạm trật tự, an toàn xã hội nhiều lần thực hiện hành vi vi phạm nhưng không có nơi cư có tính chất thường xuyên trong đó có gây rối trật tự công cộng trú nhất định. nhưng chưa đến mức truy mà trước đó bị áp dụng biện pháp giáo cứu trách nhiệm hình sự dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa (khoản 2, Điều 25 của Pháp bị áp dụng biện pháp này nhưng không lệnh) có nơi cư trú nhất định. Thời hạn Từ ba tháng đến sáu tháng Từ sáu tháng đến hai năm Từ sáu tháng đến hai năm áp dụng Trình tự và thủ tục a) Giáo dục tại xã, phường, thị trấn Chủ tịch UBND cấp xã tự mình theo đề nghị của một trong các cơ quan, tổ chức sau đây quyết định việc giáo dục tại xã, phường, thị trấn: Trưởng Công an cấp xã; Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã; Đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị dân cư ở cơ sở. Chủ tịch UBND cấp xã cũng có thể quyết định việc giáo dục tại xã, phường, thị trấn trên cơ sở hồ sơ, biên bản về hành vi vi phạm pháp luật của đối tượng do cơ quan Công an cấp huyện, cấp tỉnh cung cấp Trước khi quyết định việc giáo dục tại xã, phường, thị trấn, Chủ tịch UBND cấp xã tổ chức cuộc họp gồm Trưởng Công an cấp xã, đại diện Ban Tư pháp, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức xã hội cùng cấp có liên quan, đại diện dân cư ở cơ sở, gia đình của người được đề nghị giáo dục để xem xét việc áp dụng biện pháp này. 5 Trường giáo dưỡng là những trường trong đó người chưa thành niên được học văn hoá, học nghề, lao động và sống dưới sự giám sát của nhà trường. 119