Nghiên cứu Nguồn nhân lực và nhu cầu đào tạo cho phát triển công tác xã hội ở Việt Nam

pdf 108 trang hapham 3040
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Nghiên cứu Nguồn nhân lực và nhu cầu đào tạo cho phát triển công tác xã hội ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_nguon_nhan_luc_va_nhu_cau_dao_tao_cho_phat_trien.pdf

Nội dung text: Nghiên cứu Nguồn nhân lực và nhu cầu đào tạo cho phát triển công tác xã hội ở Việt Nam

  1. Nghiãn cæuï Nguänö Nhán læcû vaì Nhu cáuö Âaoì taoû cho Phatï triãnø Cäng tacï Xaî häiü åí Viãtû Nam Haì Näüi Thaïng 10, 2005
  2. Appendix B 88
  3. Nghiên cứu nguồn Nhân lực và Nhu cầu Đào tạo cho Phát triển Công tác Xã hội ở Việt Nam Nghiên cứu Nguồn Nhân lực và Nhu cầu Đào tạo cho Phát triển Công tác Xã hội ở Việt Nam Hà Nội, tháng 10 năm 2005 i
  4. Tóm tắt ii
  5. Nghiên cứu nguồn Nhân lực và Nhu cầu Đào tạo cho Phát triển Công tác Xã hội ở Việt Nam Mục lục Lời cảm ơn iv Danh mục chữ viết tắt v Tóm tắt vi Giới thiệu chung 1 Chương 1: Bối cảnh Phát triển Công tác Xã hội tại Việt Nam 3 Chương 2: Phương pháp luận 19 Chương 3: Thực trạng của công tác xã hội tại Việt Nam – Những kết quả định lượng 24 Chương 4: Các ý kiến, quan điểm phát triển công tác xã hội – kết quả nghiên cứu định tính 38 Chương 5: Thảo luận Khung định hướng Công tác xã hội (CTXH) 58 Chương 6: Chương trình cho tương lai Tổng kết những khuyến nghị và kết luận 74 Tài liệu tham khảo 81 Phụ lục A: Phiếu hỏi nhu cầu cán bộ công tác xã hội 83 Phụ lục B: Phiếu hỏi nhu cầu cán bộ công tác xã hội (thực hành) 86 Phụ lục C: Câu hỏi phỏng vấn sâu 89 iii
  6. Tóm tắt Lời cảm ơn Nghiên cứu được báo cáo này được thực hiện năm 2005 thông qua đề án do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (MOLISA), cùng phối hợp với Uỷ Ban Dân số, Gia đình và trẻ em (CPFC) và Bộ Giáo dục và Đào tạo (MOET) thực hiện với sự tài trợ của Quỹ Nhi đồng Liên hợp Quốc (UNICEF). Nghiên cứu này đánh dấu bước đi quan trọng trong việc phát triển công tác xã hội chuyên nghiệp ở Việt Nam. Tôi xin bày tỏ sự cảm ơn của mình đến các cơ quan tổ chức này vì những định hướng và cam kết ủng hộ công việc quan trọng này. Dự án và bản báo cáo này là thành quả của những nỗ lực làm việc của nhóm trên mọi phương diện. Nhóm đề án nghiên cứu bao gồm những nghiên cứu viên của Trường Đại học Lao động - Xã hội (Hà Nội), Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia - Hà Nội) và Đại học Mở bán công Thành phố Hồ Chí Minh. Vai trò của tôi là cố vấn quốc tế và có sự hỗ trợ của hai cố vấn quốc gia. GS. TS. Nguyễn An Lịch và Bà Nguyễn Thị Oanh (thành phố Hồ Chí Minh). Tất cả các thành viên trong nhóm đã đóng vai trò quan trọng trong tiến trình nghiên cứu từ khi thiết kế đề án đến thu thập số liệu, phân tích và chuẩn bị bản báo cáo này. Đặc biệt tôi muốn cảm ơn ông Nguyễn Xuân Hướng (ULSA) trong việc trợ giúp xử lý số liệu, ba Nguyễn Thị Thái Lan và ông Nguyễn Trung Hải (ULSA) đã giúp dịch và đóng góp ý kiến và những cố vấn quốc gia, GS Lịch và bà Oanh về những ý kiến đóng góp cũng như những thông tin cung cấp. Cuối cùng là lời cảm ơn gửi tới những đồng nghiệp của tôi làm việc tại Phòng Bảo vệ trẻ em của UNICEF Việt Nam đã hợp tác, hỗ trợ trên mọi phương diện của đề án nghiên cứu. Tôi xin chân thành cảm ơn bà Lê Hồng Loan (trưởng phòng), bà Vũ Thanh Vân (cán bộ hành chính) và ông Trần Công Bình (cán bộ dự án văn phòng bảo vệ trẻ em thành phố Hồ Chí Minh) về sự ủng hộ và giúp đỡ của họ. Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn trân trọng tới bà Nguyễn Thuý Hồng (cán bộ dự án) cho những hướng dẫn, hỗ trợ, ý kiến và khích lệ của bà ở tất cả các giai đoạn của đề án. GS. TS. Richard Hugman Cố vấn quốc tế (Trường Công tác Xã hội, Đại học tổng hợp New South Wales) iv
  7. Nghiên cứu nguồn Nhân lực và Nhu cầu Đào tạo cho Phát triển Công tác Xã hội ở Việt Nam Danh mục Chữ viết tắt AASW Hiệp hội các Nhân viên xã hội Australia BA Cử nhân Khoa học BSW Cử nhân công tác xã hội CNSP Trẻ em cần sự bảo vệ đặc biệt CPFC Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em COLISA Trường Cao đẳng Lao động-Xã hội DOLISA Sở Lao động, Thương binh và Xã hội FRC Hội Chữ Thập đỏ Pháp HCMC Thành phố Hồ Chí Minh HIV/AIDS Vi rút làm suy giảm hệ thống miễn dịch ở người/Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải IASSW Hiệp hội các trường đào tạo công tác xã hội quốc tế IFSW Hiệp hội các nhân viên xã hội quốc tế INGO Tổ chức phi chính phủ quốc tế MOET Bộ Giáo dục và Đào tạo MOLISA Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội NGO Tổ chức phi chính phủ UK Vương quốc Anh ULSA Trường Đại học Lao động-Xã hội UNDP Chương trình Phát triển Liên hợp quốc UNICEF Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc USA Hợp chủng quốc Hoa Kỳ VNRC Hội Chữ thập đỏ Việt Nam VNU Trường Đại học Quốc gia Việt Nam - Hà Nội WHO Tổ chức Y tế thế giới v
  8. Tóm tắt Tóm tắt Bối cảnh công tác xã hội của Việt Nam Bản báo cáo này trình bày những kết quả của nghiên cứu về nguồn nhân lực và những nhu cầu đào tạo cho sự phát triển tiếp theo của công tác xã hội chuyên nghiệp tại Việt Nam. Trong những năm gần đây chúng ta đang từng bước tiến tới mục tiêu này. Cùng với việc thừa nhận sự phát triển lớn mạnh về kinh tế, Việt Nam phải đối mặt với nhiều vấn đề xã hội và để có thể giải quyết những vấn đề này cần có một cách tiếp cận hệ thống và khoa học. Những vấn đề này bao gồm trẻ em có nguy cơ, bảo trợ xã hội cho trẻ em khuyết tật và người già, ngăn ngừa và giải quyết các tệ nạn xã hội, giảm đói nghèo và nhu cầu phát triển cộng đồng. Trên thế giới công tác xã hội được công nhận là một nghề với những kỹ năng và kiến thức giúp giải quyết những vấn đề này và hỗ trợ cho các nghề chuyên môn khác. Việt Nam cũng đã đưa ra quyết định nghề công tác xã hội cần được phát triển theo các mô hình như trên thế giới. Do đó công tác xã hội hiện nay đang được xem là yếu tố trung tâm trong các chiến lược phát triển phúc lợi xã hội của Việt Nam. Trên thế giới, nghề công tác xã hội đã phát triển trong một thời gian dài, bắt đầu từ cuối thế kỷ 19 ở các nước công nghiệp. Khi mới ra đời công việc này là công tác từ thiện, nhưng khi các vấn đề xã hội ngày càng trở nên phức tạp thì đòi hỏi nó phải có phương pháp tiếp cận khoa học để giải quyết. Điều này dẫn đến việc hình thành các khoá học trong trường đại học và tuyển dụng những cán bộ có chất lượng trong các cơ quan chính phủ và các tổ chức phi chính phủ. Nhân viên xã hội sử dụng nhiều phương pháp và lý thuyết để giúp đỡ các cá nhân, nhóm và cộng đồng giải quyết các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống. Những hoạt động bao gồm tham vấn, công tác xã hội cá nhân, quản lý ca, công tác xã hội nhóm, biện hộ xã hội, phát triển cộng đồng, nghiên cứu xã hội và các chính sách xã hội. Việc sử dụng những phương pháp nào trong số rất nhiều các phương pháp đa dạng phụ thuộc hoàn cảnh của từng quốc gia. Mặc dù một số phương pháp có chồng chéo với những ngành khác nhưng đặc điểm riêng có của công tác xã hội đó là các hoạt động được phối kết hợp và công tác xã hội mang lại một cách tiếp cận đặc biệt tập trung vào cá nhân con người trong hoàn cảnh xã hội cụ thể. Tiêu chuẩn quốc tế cơ bản trong đào tạo công tác xã hội chuyên nghiệp hiện nay là cấp đào tạo đại học, mặc dù cũng đã có một số những khác biệt (chẳng hạn đào tạo trung cấp tại ULSA). Các chương trình đào tạo như vậy yêu cầu vi
  9. Nghiên cứu nguồn Nhân lực và Nhu cầu Đào tạo cho Phát triển Công tác Xã hội ở Việt Nam thời gian học tối thiểu 2 năm học chính khoá tập trung vào nội dung công tác xã hội, giảng dạy chuyên sâu về các lý thuyết và thực hành công tác xã hội, giảng dạy các môn khoa học xã hội và luật (bao gồm chính sách và phương pháp nghiên cứu) và một thời lượng vừa đủ thực hành có kiểm huấn tại cơ sở trong chương trình đào tạo. Đặc điểm chung cho tất cả các nghề là có cơ cấu chính thống hoặc một cơ chế qua đó mỗi một thành viên có thể được công nhận có trình độ chuyên môn phù hợp. Và cũng có ba cơ chế để có thể nhận biết nghề công tác xã hội trên thế giới. Đó là ban quản lý việc đăng ký (ban này do chính phủ bổ nhiệm để làm đăng ký cho các cá nhân), ban cấp bằng hành nghề (nơi chính phủ cấp bằng thực hành cho các cá nhân, thông thường trong một giai đoạn nhất định thì sẽ phải đổi bằng) hoặc tự công nhận (trong đó một tổ chức chuyên môn phê duyệt các loại hình đào tạo cụ thể làm căn cứ để có sự thừa nhận về nghề nghiệp). Hiệp hội chuyên môn cũng rất quan trọng trong CTXH, hiệp hội nghề nghiệp có ở tất cả các nghề, vì các hiệp hội đưa ra nền tảng cho sự phát triển kiến thức và kỹ năng chuyên môn, làm tăng cường các mục tiêu và các giá trị nghề nghiệp. Những hiệp hội công tác xã hội này có ở trên 80 quốc gia và đưa ra cơ chế duy trì các chuẩn mực đạo đức thông qua bảng các quy điều đạo đức và loại bỏ những hình thức thực hành không được chấp nhận. Trong 10 năm qua, một số những đặc điểm này đã phát triển ở Việt Nam. Cụ thể, hiện nay đã có 11 trường được phép đào tạo công tác xã hội ở trình độ đại học và có 5 trường đã tuyển sinh. Tuy nhiên, vẫn chưa có mã nghề và chưa có hiệp hội nghề nghiệp. Tại thời điểm này để có thể lập lế hoạch cho giai đoạn phát triển công tác xã hội tiếp theo, rất cần trả lời những câu hỏi quan trọng sau, đó là: • Nhiệm vụ của công tác xã hội cần phải làm là gì? • Cách quản lý việc tuyển dụng nhân viên công tác xã hội hiệu quả nhất là gì? • Việc đào tạo công tác xã hội nên được mở ra ở cấp nào và nên tạo điều kiện cho nó phát triển như thế nào? (bao gồm đào tạo về giáo viên và các cơ hội thực hành đánh giá mở rộng) • Làm thế nào để tổ chức và đào tạo công tác xã hội ở nhiều loại hình và cấp độ khác nhau (và liệu việc đào tạo “bán chuyên nghiệp” có nên được xem như là một phần hay nên tách ra khỏi công tác xã hội)? • Làm thế nào để công tác xã hội chuyên nghiệp có thể chia sẻ và phát triển kiến thức và kỹ năng một cách tập thể? (ví dụ như thông qua việc hình thành các hiệp hội). vii
  10. Tóm tắt Nghiên cứu: Đề án nghiên cứu báo cáo ở đây được thiết kế để đưa ra những câu trả lời cho các câu hỏi trên. Nghiên cứu đã sử dụng cả phương pháp định tính và định lượng để có được số liệu về nguồn nhân lực hiện tại và tình hình đào tạo để xem xét các ý tưởng cho những khả năng trong tương lai. Các khu vực được nghiên cứu bao gồm một thành phố, một tỉnh ở mỗi miền Bắc và miền Nam. ở miền Bắc là Hà Nội và Lạng Sơn, còn ở miền Nam là TP HCM và Đồng Tháp. Đối với bảng hỏi, những mẫu hỏi cũng được phân tầng theo vai trò, vị trí công việc, ở cả 2 cấp độ cán bộ quản lý và cán bộ làm việc trực tiếp tại cơ sở. Và việc phân bổ mẫu hỏi cuối cùng được thể hiện ở bảng sau (với cột phần trăm ở trong ngoặc đơn): Mẫu điều tra Địa điểm Cán bộ quản lý Cán bộ cơ sở Tổng 39 (27) 56 (30) 95 (29) Hà Nội Lạng 32 (22) 38 (21) 70 (21) Sơn TP HCM 41 (28) 57 (31) 98 (30) Đồng 33 (23) 33 (18) 66 (20) Tháp 145 (100) 184 (100) 329 (100) Tổng Trong phần phỏng vấn định lượng đã có tổng số 112 người được phỏng vấn, có 34 người ở Hà Nội, 22 ở Lạng Sơn, 30 ở TP HCM và 24 ở Đồng Tháp, cộng với 2 trường hợp ở Thanh Hoá được cố vấn quốc tế thực hiện để kiểm tra chéo thông tin. Việc thu thập số liệu được thực hiện từ 25/04/2005 đến 30/06/2005. Các số liệu định lượng được phân tích sử dụng chương trình SPSS, sử dụng những thống kê mô tả cơ bản và kiểm tra mối liên hệ. Các câu hỏi định tính được mã hoá và sử dụng cách tiếp cận quy nạp để xác định chủ đề. Thực trạng: Những kết quả định lượng. Phần nhân khẩu học trong mẫu này không có gì ngạc nhiên. Độ tuổi trung bình của các cán bộ quản lý tham gia trả lời cao hơn một chút so với cán bộ cơ sở tuy nhiên không đáng kể. Độ tuổi khác nhau trong nhóm cán bộ trực tiếp có sự khác biệt lớn hơn so với nhóm cán bộ quản lý. Phân dịnh về giới cho thấy viii
  11. Nghiên cứu nguồn Nhân lực và Nhu cầu Đào tạo cho Phát triển Công tác Xã hội ở Việt Nam có nhiều cán bộ qnản lý là nam giới hơn phụ nữ, với tỷ lệ 56: 44, và tương tự tỷ lệ phụ nữ đông hơn so với nam giới ở cấp độ làm việc trực tiếp ở cơ sở. Trong số các tổ chức được thể hiện trong mẫu, tỷ lệ lớn nhất là MOLISA (24%), tiếp theo là khối tổ chức quần chúng (15%), CPFC (12%), y tế (10%), MOET (9%), các tổ chức phi chính phủ (7%) và có 24% là các các tổ chức khác. Vì MOLISA là cơ quan chính của đề án nên điều này không có gì đáng ngạc nhiên, và phần mô tả tổng quan đưa ra các vấn đề về những câu trả lời có thể đã nhận được. Tuy nhiên, những lĩnh vực làm việc theo các loại nhu cầu (trẻ em, người khuyết tật, gia đình tan vỡ, mại dâm, bệnh tâm thần, HIV/AIDS, sử dụng ma tuý, đói nghèo, người già cô đơn không nơi nương tựa và những nhóm khác) chỉ ra rằng có rất nhiều người làm việc trong nhiều lĩnh vực. Có ít nhất 30% mẫu làm việc ở tất cả các lĩnh vực, 60% làm việc với trẻ em, và với người khuyết tật, HIV/ AIDS, sử dụng ma tuý và đói nghèo khoảng 40%. Các cán bộ cơ sở có xu hướng làm kiêm ít lĩnh vực hơn, nhưng cho dù vậy trong nhóm này số quân bình là 2.5 lĩnh vực làm việc trên một người. Mặc dù chương trình đào tạo chính quy 4 năm mới chỉ bắt đầu, nhưng con số báo cáo 2858 người làm việc trong lĩnh vực an sinh xã hội được qua đào tạo CTXH. Trong số mẫu điều tra, có 60% số người trả lời được đào tạo CTXH. Khi được hỏi về loại hình đào tạo thì vấn đề trở lên rõ ràng, việc đào tạo hoặc hình thức đào tạo ngắn hạn hoặc là chương trình đào tạo một học kỳ được giảng dạy như một phần của chương trình đào tạo cử nhân khoa học về Nghiên cứu phụ nữ tại trường Đại học Mở bán công TP HCM. (Điều này có nghĩa là mẫu nghiêng mạnh về những người đã qua một số chương đào tạo và có kinh nghiệm làm việc về CTXH). Tuy nhiên, nếu đưa ra tỷ trọng cao hơn những người được đào tạo ở trình độ cao đẳng và đại học, đề xuất những lại hình đào tạo đó cần được thiết kế trên cơ sở những hình thức đã đào tạo như loại hình tích luỹ, cũng sẽ giúp phát triển nhanh hơn lực lượng nhân lực có năng lực. Ước tính về nhu cầu cho các nhân viên xã hội ở Việt Nam đã đưa ra nhiều câu trả lời khác nhau. Nhưng có nhiều người nhất trí rằng CTXH cần có trong tất cả các các lĩnh vực an sinh xã hội, với xu hướng người trả lời nhấn mạnh vào các lĩnh vực riêng của họ. Chăm sóc và bảo vệ trẻ là lĩnh vực được thừa nhận rộng rãi rất cần công tác xã hội. Mặc dù có nhiều người cho rằng cần đưa ra loại hình đào tạo tại chức (53%) hơn là chương trình đào tạo chính quy (33%), điều này phản ánh mong muốn của những người hiện đang làm việc trong lĩnh vực an sinh xã hội có được loại hình đào tạo phù hợp với điều kiện của mình. ix
  12. Tóm tắt Trong số những loại hình công việc thực tế cần có, thì tham vấn được nêu lên nhiều nhất cùng với các chính sách xã hội, quản lý chương trình, phát triển cộng đồng và các công việc khác mà tham vấn cá nhân và gia đình được yêu cầu cao. Về các lĩnh vực công việc có nhu cầu được đào tạo lớn hơn, chăm sóc và bảo vệ trẻ được đưa ra một cách thường xuyên, tiếp theo sau là sự đổ vỡ của gia đình, người khuyết tật, HIV/AIDS và nghèo đói. Một mô hình tương tự cũng được đưa ra khi những người được hỏi về những lĩnh vực công tác xã hội nào cần đào tạo phục vụ cho công việc của họ. Do đó, có thể kết luận rằng các hình thức đào tạo linh hoạt ở các cấp độ khác nhau và bao trùm lên toàn bộ các lĩnh vực sẽ cần thiết để để xây dựng lực lượng lao động về công tác xã hội cho Việt Nam. Các ý tưởng cho sự phát triển của công tác xã hội: Những Kết quả định tính Những mô tả về vai trò của công tác xã hội được đưa ra trong các cuộc phỏng vấn phù hợp với các câu trả lời đã được mã sẵn trước đó trong các bảng hỏi. Vì có nhiều người được phỏng vấn cũng đã điền vào bảng hỏi nên điều này là có thể đoán trước được, nhưng ý đồ khẳng định lại nhiều câu trả lời đã đạt được. Trẻ em và gia đình, người khuyết tật, xoá nghèo đói, loại bỏ những tệ nạn xã hội tất cả đều được đề cập đến nhiều. Những vấn đề này cũng được nhìn nhận là những lĩnh vực hiện chưa đáp ứng được và cần có nhiều nhân viên xã hội được đào tạo trong tương lai. Chủ đề mới xuất hiện từ các cuộc phỏng vấn là tầm quan trọng của việc phân biệt công tác xã hội với từ thiện. Sự phân biệt được đưa ra là công tác từ thiện làm cho con người, còn công tác xã hội chuyên nghiệp cần làm cùng với con người và nâng cao khả năng của họ để hành động cho chính họ. Đề cập về kỹ năng và kiến thức của công tác xã hội, kỹ năng giao tiếp được nhắc đến nhiều nhất. Kỹ năng này bao gồm khả năng lắng nghe một cách cẩn thận tất cả những gì được nói đến và cả những giao tiếp phi ngôn ngữ để có thể phân tích nội dung của giao tiếp và lập kế hoạch. Kỹ năng tương tác giữa các cá nhân khác cũng thường xuyên được nói đến là kỹ năng “thấu cảm”, đó là khả năng có thể hiểu một cách chính xác hoàn cảnh của người khác mà không bị mắc trong đó. Các kỹ năng khác được đề cập đến là các phương pháp chính thống của công tác xã hội, bao gồm tham vấn, công tác xã hội cá nhân, công tác xã hội nhóm, phát triển cộng đồng, chính sách xã hội và kỹ năng nghiên cứu. Với đặc điểm đặc biệt của Việt Nam việc hình thành kỹ năng “huy động” được đề cập rộng rãi, tập trung vào bối cảnh sống của con người ở từng địa phương. x
  13. Nghiên cứu nguồn Nhân lực và Nhu cầu Đào tạo cho Phát triển Công tác Xã hội ở Việt Nam Nền tảng kiến thức của công tác xã hội được xây dựng dựa trên cách tiếp cận ứng dụng đối với nhiều ngành học thuật khác nhau bao gồm tâm lý học, xã hội học, luật và kinh tế học. Những kiến thức này được “ứng dụng” không theo hình thức lý thuyết mà thông qua sự lĩnh hội của người Việt Nam và xã hội. Những kiến thức có giá trị khác được phát triển từ thực hành công tác xã hội. Những phẩm chất cá nhân rất quan trọng trong công tác xã hội một lần nữa được nhắc đến bao gồm sự thấu cảm. Mọi người đều nhất trí rằng các nhân viên xã hội là những con người có đạo đức, theo đuổi giá trị công bằng cho xã hội, đáng tin cậy và không “tự đề cao mình”. Thêm vào đó, rất nhiều người được phỏng vấn nói rằng rất cần thiết phải có sự nhiệt tình và tận tâm, phải “tâm huyết” với nghề công tác xã hội. Khi đề cập đến vấn đề đào tạo công tác xã hội, những người được phỏng vấn nói về hai khía cạnh: cấp bậc đào tạo và hình thức đào tạo. Một bên ủng hộ nhiều cho việc đào tạo có hệ thống cho các nhân viên xã hội ở cấp xã phường. Vấn đề này nêu lên hình thức đào tạo nên để ở các khoá học ngắn hạn. Thêm vào đó, cũng có sự thống nhất từ nhiều phía cho rằng giáo dục cấp đại học cần được xem xét trở thành tiêu chuẩn của công tác xã hội chuyên nghiệp. Tuy nhiên, dù nhiều ý kiến cho rằng việc đào tạo cần phải chính thống, nhưng cũng có ý kiến cho rằng việc đào tạo cần để cho những người có kinh nghiệm đã làm công tác an sinh xã hội có thể tiếp cận, vì thế cần đưa ra loại hình đào tạo theo mô hình đào tạo tại chức. Yếu tố này phản ánh giá trị của việc có đầu vào bậc cao, các chương trình dành cho những người đã có những bằng đại học về xã hội học hay kinh tế. Thêm vào đó, một số ý kiến đề cập đến nhu cầu về đào tạo từ xa. Một nhân tố trong đào tạo được xem như vấn đề rất quan trọng là việc thực tập có kiểm huấn, điều này hầu như không có ở Việt Nam. Và một vấn đề chính đặt ra là sự thiếu hụt các kiểm huấn thực hành hay người hướng dẫn có trình độ. Tuy nhiên, mọi người đều thống nhất rằng nên phát triển hoạt động này. Về việc phổ biến công tác xã hội tới các lĩnh vực có nhu cầu nổi lên nhiều vấn đề đã được xác định, cộng với những ý kiến về làm việc với bạo lực gia đình, nhu cầu của các nhóm dân tộc thiểu số, các quyền của phụ nữ (bao gồm cưỡng chế hôn nhân và “phụ nữ kết hôn với người nước ngoài”), tham vấn tại trường học và công tác thanh niên. Theo một người được phỏng vấn đã nói, công tác xã hội liên quan tới “tất cả các vấn đề”. Tương tự như vậy, khi được hỏi là cơ quan nào nên tuyển dụng nhân viên xã hội thì câu trả lời là tất cả các cơ quan phúc lợi xã hội và những cơ quan được nhắc đến nhiều là những cơ quan đã được xác định trong phần hỏi định lượng của nghiên cứu. Tuy nhiên, dự tính số lượng nhân viên xã hội cần thiết ở Việt Nam là một nhiệm vụ quá lớn và xi
  14. Tóm tắt hầu hết những người được phỏng vấn chỉ đề cập đến trong công việc cụ thể của họ. Khi được hỏi về những khó khăn mà công tác xã hội gặp phải và cần có sự giúp đỡ gì để công tác xã hội thành công thì có những chủ đề rõ ràng được đưa ra. Chủ đề quan trọng nhất là hiện nay chưa có mã nghề công tác xã hội tại Việt Nam, để phát triển các hoạt động về đào tạo và dịch vụ thành công đây là ưu tiên hàng đầu hiện nay. Các nhân tố khác được thảo luận là nhu cầu về luật pháp và các chính sách đối với công tác xã hội, sự hiểu biết tốt hơn về vai trò và chức năng của công tác xã hội, hỗ trợ ngân sách và cơ sở vật chất khác cho các dịch vụ công tác xã hội, và thiết lập một hiệp hội nghề nghiệp. Vấn đề về những cải tiến trong đào tạo cũng được đề cập nhiều bao gồm nhu cầu phát triển các hình thức đào tạo linh hoạt hơn và ít tính bị động, có nhiều tài liệu tham khảo hơn bao gồm cả những tài liệu được biên soạn ở Việt Nam, nhiều hoạt động thực tập có kiểm huấn trong đào tạo và đào tạo nâng cao cho các giảng viên về công tác xã hội (đào tạo cho những giảng viên). Thảo luận: Khung chương trình phát triển công tác xã hội Vai trò và nhiệm vụ của công tác xã hội thường xuyên được đưa ra trong cả các số liệu định tính và định lượng bao trùm toàn bộ lĩnh vực an sinh xã hội. Lĩnh vực được nhấn mạnh nhiều nhất là trẻ em và gia đình đặc biệt là trẻ em cần sự bảo vệ. Ngoài ra các mặt khác của bảo trợ xã hội; các lĩnh vực về “tệ nạn xã hội”; phát triển cộng đồng; tham vấn và hỗ trợ y tế, giáo dục, chính sách xã hội và công tác nghiên cứu; tất cả đều được đề cập đến. Tương tự như vậy, tất cả cơ quan liên quan tới an sinh xã hội được nhìn nhận cần phải có các nhân viên xã hội có trình độ. MOLISA (và DOLISA) và CPFC rất đề cao điều này, các tổ chức đoàn thể như Hội liên hiệp Phụ nữ, bệnh viện, trường học và các trường đại học, các tổ chức phi chính phủ, toà án và cảnh sát cũng đều được xác định. Về giáo dục và đào tạo, nhu cầu ba cấp hay “các tiêu chuẩn” của đào tạo được đưa ra. Trước hết, cần thiết phải có số lượng lớn nhân viên xã hội ở các xã phường được đào tạo có bài bản, hệ thống. Tiêu chuẩn này có thể xem là “bán chuyên nghiệp”, hình thức này không đạt được như trình độ chuyên nghiệp. Thứ hai là tiêu chuẩn công tác xã hội chuyên nghiệp gồm những người đã được đào tạo ở cấp đại học thông qua các chương trình đào tạo 4 năm. Thứ ba cũng là tiêu chuẩn đào tạo “sau chuyên nghiệp” bao gồm giáo dục đặc biệt nâng cao (ví dụ như bảo vệ trẻ em) cũng như các bằng cấp cao hơn (cả thạc sỹ và tiến sỹ). xii
  15. Nghiên cứu nguồn Nhân lực và Nhu cầu Đào tạo cho Phát triển Công tác Xã hội ở Việt Nam Một số nhân tố khác sẽ làm căn cứ cho sự phát triển của công tác xã hội. Trước hết cấp bán chuyên nghiệp phải được xem là cần thiết và có vai trò đặc biệt. Thứ hai, trừ khi mã nghề được đưa ra như một vấn đề cấp thiết nếu không thì tất cả các nhân tố khác cho việc phát triển công tác xã hội sẽ bị cản trở. Thứ ba, một hiệp hội chuyên nghiệp bao gồm toàn bộ 3 chuẩn đào tạo sẽ hỗ trợ cho việc phát triển tiếp tục nghề nhiệp và duy trì đạo đức cũng như các chuẩn mực công việc. Việc sử dụng những kết luận này để đưa ra những giả định về quy mô và sự phân bổ các nhân viên công tác xã hội bán chuyên nghiệp, chuyên nghiệp và sau chuyên nghiệp có trình độ cao, một khung chương trình cho lập kế hoạch nguồn nhân lực đã được đề xuất (xem trang 69-73). Trong 10 năm tới, VN cần đặt mục tiêu tối thiểu là 42.900 người được đào tạo ở cấp bán chuyên nghiệp, 13.641 ở cấp chuyên nghiệp và 1.492 ở cấp sau chuyên nghiệp. Tính tổng cộng là 58.033 người được đào tạo trong đó 15.133 được đào tạo ở cấp đại học (gồm cả việc đào tạo chuyên nghiệp và sau chuyên nghiệp cho các giảng viên đại học về công tác xã hội). Những người được đào tạo chuyên nghiệp sẽ có trách nhiệm cụ thể đối với hoạt động đào tạo, kiểm huấn và hỗ trợ cho đồng nghiệp ở cấp bán chuyên nghiệp. Hướng tới: Tóm tắt những đề xuất và kết luận Báo cáo kết luận trình bày tóm tắt gồm 13 đề xuất chính. Phần thảo luận tóm tắt của mỗi đề xuất này được trình bày ở chương 6. Các đề xuất như sau: 1. Nhân viên xã hội cần tham gia vào việc cung cấp dịch vụ tham vấn, công tác xã hội cá nhân trong gia đình, quản lý ca, CTXH nhóm, phát triển cộng đồng, lập kế hoạch chương trình, chính sách xã hội và nghiên cứu xã hội trong tất cả các khía cạnh của nhu cầu xã hội. 2. Nhân viên xã hội cần tham gia vào hoạt động làm việc với trẻ em cần có sự bảo vệ đặc biệt, người trưởng thành (như là người già cô đơn) những người cũng cần sự bảo trợ của xã hội, chăm sóc/phục hồi cho những người bị ảnh hưởng hoặc mắc các tệ nạn xã hội, chăm sóc và hỗ trợ cho các bệnh nhân ở bệnh viện, các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ khác đồng thời chăm sóc và hỗ trợ cho học sinh, sinh viên, phát triển cộng đồng và xã hội, lập kế hoạch và phát triển những dịch vụ này. 3. Nhân viên xã hội cần được tuyển dụng trong tất các các cơ quan tổ chức của chính phủ và phi chính phủ (NGO) cung cấp dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu được chỉ ra ở trên (xem danh sách ở chương 5). 4. Nhân viên xã hội cần được đào tạo một cách toàn diện trong các chương trình phù hợp với mức độ chuyên nghiệp nơi mà họ đang làm việc. xiii
  16. Tóm tắt 5. Chương trình đào tạo CTXH ở các cấp độ khác nhau nên được kết hợp và linh hoạt nhằm tạo điều kiện để có được số lượng đội ngũ cán bộ chất lượng và cũng để phát triển nghề nghiệp. Nên xem xét bằng cử nhân đại học là cấp độ chuyên nghiệp chính. 6. Các nhân viên xã hội hiện đang làm việc hoặc những nhân viên xã hội ở khu vực nông thôn và các tỉnh sẽ cần tiếp cận với các chương trình đào tạo linh hoạt bao gồm đào tạo theo các môđun và đào tạo từ xa. 7. Tất cả chương trình đào tạo CTXH, đặc biệt là cấp độ bán chuyên nghiệp và chuyên nghiệp cần phải chú trọng nhiều tới thời lượng cho thực hành thực tập. 8. Cần phát triển một hệ thống đào tạo liên thông giữa các cấp độ đào tạo và giữa CTXH với các chương trình đào tạo liên quan khác 9. Cấp độ bán chuyên nghiệp hết sức cần thiết cho sự phát triển của CTXH ở Việt Nam. Cấp độ này nên được nhìn nhận là một phần của CTXH chuyên nghiệp. 10. Hiện nay việc có được mã nghề là một yêu cần hết sức cấp thiết cho sự phát triển CTXH chuyên nghiệp ở Việt Nam. 11. Hình ảnh của CTXH trong xã hội còn rất mờ nhạt. Tất cả mọi người tham gia cần quan tâm chú ý đến vấn đề này. 12. Cần thiết lập Hiệp hội nghề nghiệp CTXH 13. Việc xây dựng kế hoạch về lực lượng nhân viên xã hội cần dựa trên một con số tối ưu để có thể cung cấp đủ những cán bộ có chất lượng cho tất cả các cơ quan tổ chức, tuy nhiên số lượng này cũng phải rất thực tế trong sự phát triển của nghề nghiệp. Công tác xã hội chuyên nghiệp đã và đang phát triển ở Việt Nam trong nhiều năm nay. Tiến trình này diễn ra khá chậm nhưng trong những năm gần đây đã có những bước tiến quan trọng được tiến hành qua việc phê chuẩn chương trình khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Sự ủng hộ từ Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Uỷ ban Dân số Gia đình và Trẻ em, Hội Phụ nữ và các Trường đại học cũng như các tổ chức khác cho báo cáo của dự án này là bằng chứng về sự thừa nhận rộng rãi công tác xã hội chuyên nghiệp cần được đặt trên một nền tảng vững chắc hơn và sự phát triển lớn mạnh của nghề này. Các nhu cầu của xã hội Việt Nam trong giai đoạn phát triển kinh tế này là thời điểm tốt làm thúc đẩy CTXH nhằm giải quyết nhiều vấn đề xã hội nảy sinh cùng với sự phát triển kinh tế. Mức độ phát triển đã được đề xuất cho thập kỷ tới là khả thi, tuy nhiên điều này vẫn cần phải có rất nhiều sự hỗ trợ cũng như hành động từ phía những cơ quan tổ chức liên quan. Mong rằng điều này sẽ được thực hiện và như thế Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ đội ngũ được đào tạo chuyên nghiệp, đây là yếu tố trọng tâm trong việc cung cấp các dịch vụ an sinh xã hội. xiv
  17. Nghiên cứu nguồn Nhân lực và Nhu cầu Đào tạo cho Phát triển Công tác Xã hội ở Việt Nam Giới thiệu chung Hiện nay trên thế giới có 80 quốc gia nơi CTXH phát triển là một nghề đã được Liên đoàn quốc tế của các nhân viên xã hội (IFSW) công nhận là thành viên. Trong những năm gần đây, chúng ta có thể thấy rằng công tác xã hội đang phát triển ở các quốc gia có sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường (Oanh, 2002; Sawada, 2002). Vào năm 1997 đã có một quyết định phát triển công tác xã hội như một nghề tại Việt Nam. Tiến trình này tuy có phát triển ổn định nhưng khá chậm (Robertson và Heiss, 1998; Kelly, 2003). Năm 2004, Bộ Giáo dục và Đào tạo (MOET) đã phê duyệt một chương trình khung đào tạo đại học CTXH trong 4 năm. Sự kiện này giờ đây đã thiết lập nên chương trình kế hoạch về đào tạo nhân lực, một vấn đề đòi hỏi cần có sự quan tâm đặc biệt. Kế hoạch hoá nguồn nhân lực cho công tác xã hội chưa được phát triển một cách rộng rãi. ở hầu hết các quốc gia phương Tây, số lượng người đang được đào tạo CTXH và số lượng nhân viên xã hội trong lực lượng lao động thường xuyên phụ thuộc vào các lực lượng thị trường. Đó là trường đại học quyết định số lượng đào tạo của trường mình trên cơ sở cân đối giữa kế hoạch hoạt động và số lượng người đăng ký học của các trường đại học. ở một số quốc gia, như là Vương quốc Anh và các quốc gia ở khu vực bán đảo Scandinavi, chính phủ thiết lập các cơ quan kiểm soát và tư vấn các loại hình đào tạo cũng như nhu cầu về lực lượng lao động (Ví dụ như Kỹ năng Chăm sóc, 2005). Tuy nhiên công việc này không được phát triển mạnh và đã làm cho những đề xuất, những phát hiện có giá trị được đưa ra rất chậm chạp (Higham et al., 2001). Điều này một phần do những phân tán mang tính lịch sử về trách nhiệm đối với CTXH giữa các tổ chức của nhà nước và các tổ chức quần chúng, một phần do khó khăn dễ nhận ra trong việc mô hình hoá với các biến số rất phức tạp mà lại không có những số liệu mang tính chuẩn xác (ví dụ xem ở phần O’Brien-Pallas et al., 2001). Do đó khó có thể có được một mô hình cụ thể để áp dụng vào việc kế hoạch hoá nguồn nhân lực ở Việt Nam. Xuất phát từ tầm quan trọng của kế hoạch hoá nguồn nhân lực trong công tác xã hội chuyên nghiệp, UNICEF Việt Nam cùng với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (MOLISA) và MOET tiến hành cuộc nghiên cứu được đề cập trong báo cáo này. UNICEF đã nhận được bản báo cáo từ các dự án gần đây khác (Sawada, 2002, UNICEF 2005) khuyến nghị về việc ưu tiên phát triển ngành công tác xã hội. Đặc biệt là công tác xã hội có tính chuẩn quốc tế đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ trẻ em, một lĩnh vực hoạt động chính của UNICEF tại Việt Nam. Với lý do này việc hỗ trợ phát triển của công tác xã hội sẽ đem lại hiệu quả trong hoạt động của những lĩnh vực khác. 1
  18. Giới thiệu chung Ở báo cáo này sẽ đề cập ngắn gọn đến việc sử dụng thuật ngữ. Chức danh nhân viên xã hội ở nhiều nước được pháp luật công nhận, và chỉ sử dụng cho những người đã được đào tạo về chuyên môn. Tuy nhiên, ở nhiều nước khác thuật ngữ này được sử dụng cho cả những người đào tạo chuyên nghiệp và những người làm việc trong lĩnh vực về an sinh xã hội trong cộng đồng của họ. (Tình huống tương tự có thể thấy đối với thuật ngữ “nuôi dưỡng” và “giáo dục” khi mà chuyên môn này được công nhận nhưng lại được thực hiện bởi những tình nguyện viên chưa qua đào tạo). Điều này đã gây ra nhiều sự tranh luận mà vẫn chưa được giải quyết ngay ở một nước như úc (Healy, 2004). ở Việt Nam, khi nói đến công tác xã hội thì cũng không rõ ràng và có thể được sử dụng cho những người được đào tạo chính thức và cho cả những người làm tình nguyện viên, từ thiện. Vì vậy theo như mục đích của dự án, thuật ngữ công tác xã hội liên quan đến những người được đào tạo và tuyển dụng trong lĩnh vực nhất định có liên quan mặc dù chưa được ghi nhận một cách chính thức xét từ góc độ pháp lý. Bản báo cáo này dựa trên kết quả nghiên cứu được thực hiện trong năm 2005. Vì thế bản báo cáo đưa ra những kết quả và khuyến nghị căn cứ vào những phản ánh thực trạng tại thời điểm đó. Mục đích của cuộc nghiên cứu là để cung cấp cơ sở khoa học cho sự thay đổi và do vậy những kết quả có được từ những quan sát ở đây có thể trở thành những vấn đề quan tâm trong thời gian không xa nữa. Số liệu và những khuyến nghị từ nghiên cứu này sẽ có thể đưa ra chỉ số cho sự phát triển của công tác xã hội như thế nào. Mục tiêu của cuộc nghiên cứu là thu thập và phân tích các dữ liệu liên quan đến nhu cầu nguồn nhân lực và đào tạo công tác xã hội tại Việt Nam. Những điểm này được thể hiện một cách chi tiết tại phụ lục A. Những khuyến nghị trong bản báo cáo về nghiên cứu sẽ góp phần thúc đẩy công tác xây dựng kế hoạch và hành động gắn với thực tế. 2
  19. Nghiên cứu nguồn Nhân lực và Nhu cầu Đào tạo cho Phát triển Công tác Xã hội ở Việt Nam Chương 1: Bối cảnh Phát triển Công tác Xã hội tại Việt Nam Giới thiệu chung: Bản báo cáo đưa ra kết quả của cuộc nghiên cứu về nhu cầu nguồn nhân lực và đào tạo phát triển công tác xã hội tại Việt Nam. Trong thập kỷ qua, một số hoạt động đã được triển khai nhằm phát triển công tác xã hội chuyên nghiệp (Theo Kelly, 2003). Bản báo cáo đưa ra thực trạng và các khuyến nghị cho những bước tiếp theo của tiến trình này. Việc phát triển công tác xã hội như một nghề được xem như việc giải quyết sự gia tăng của các vấn đề xã hội đi kèm theo phát triển kinh tế và đáp ứng đòi hỏi phải có cách tiếp cận mang tính khoa học và hệ thống. Chương này sẽ đề cập đến nền tảng của sự phát triển. Đó là xem xét nhu cầu về công tác xã hội chuyên nghiệp và tóm lược lịch sử của công tác xã hội như một nghề chuyên môn ở Việt Nam từ trước đến nay. Những chương tiếp theo sẽ thảo luận về thực trạng CTXH tại VN có được từ cuộc nghiên cứu được triển khai với sự phối hợp giữa UNICEF, Bộ Lao động - Thương binh và Xã Hội, Uỷ ban Dân số Gia đình và Trẻ em và Bộ Giáo dục và Đào tạo. Cuối cùng, bản báo cáo đưa ra những khuyến nghị và kế hoạch cho sự phát triển bền vững công tác xã hội tại Việt Nam vào thập kỷ tới. Các vấn đề xã hội Việt Nam phải đối mặt. Việt Nam là một nước đang trong quá trình chuyển đổi. Trong những thập kỷ vừa qua, sau khi đưa ra chính sách “đổi mới”, đất nước đã có những bước phát triển vượt bậc về kinh tế. Chính sách này đã tạo nên nền kinh tế thị trường trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Kết quả là tỷ lệ đói nghèo trong nước đã giảm thiểu đáng kể, giảm từ 60-70% vào năm 1992 xuống khoảng 20% năm 2004 (Hằng, 2004). Tuy nhiên, cùng lúc đó thì khoảng cách giữa người giàu nhất và nghèo nhất trong nước lại tăng lên đáng kể, phần lớn thành tựu từ tăng trưởng kinh tế đã đem lại lợi ích cho 20% những người giàu nhất trong dân số. Cũng có trường hợp là đói nghèo tập trung theo khu vực địa lý, mức sống ở khu vực nông thôn thấp hơn ở thành thị, khu vực miền núi thấp hơn đồng bằng, và gần 5% cơ sở hạ tầng của làng xã vẫn còn rất thiếu thốn (Tang, 2005). Trong bối cảnh này, xoá đói giảm nghèo, cùng với sự công bằng trong việc tiếp nhận những lợi ích từ sự phát triển kinh tế là những mục tiêu chính đặt ra cho chính phủ Việt Nam. 3
  20. Chương 1: Bối cảnh Phát triển Công tác Xã hội tại Việt Nam Cũng như ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, các vấn đề xã hội mới nảy sinh cùng với sự phát triển kinh tế. Những thay đổi về cách thức làm việc đã bắt đầu ảnh hưởng tới cuộc sống gia đình, như sự di chuyển hay thời gian làm việc kéo dài. Ví dụ, thời gian để một gia đình ở bên nhau hay giúp đỡ nhau càng ngày càng hạn chế; điều này bao gồm cả việc chăm sóc những đứa trẻ bị tàn tật hay những người thân đã già yếu (Lan, 2005). Thêm vào đó, vấn đề nghiện rượu và ma tuý tăng lên, trong rất nhiều trường hợp tỷ lệ bạo lực trong gia đình và lạm dụng trẻ em cũng tăng lên (UNICEF,2005). Trẻ em và phụ nữ thường có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi đói nghèo, hoặc trực tiếp hoặc là nạn nhân của bạo lực trong gia đình và lạm dụng. Họ cũng là nạn chân của tệ nạn buôn bán người khi gia đình muốn tìm cách thoát ra khỏi đói nghèo. Phụ nữ trẻ lên thành phố hoặc đã ở thành phố hoặc thất nghiệp có thể bị sa vào con đường mại dâm. Vấn đề “trẻ em lang thang” gắn với việc các em lên thành phố, điều này ảnh hưởng đến cả nam nữ thanh niên. Mặc dù nhiều người kiếm tiền bằng cách bán hàng trên đường phố hoặc đi ăn xin, họ cũng đang gặp nguy cơ mắc vào tệ nạn mại dâm, ma túy bất hợp pháp hay các tệ nạn khác (UNICEF/CPFC, 2002). Vì điều này, mọi người có thể nhận thấy rằng trẻ em là đối tượng đặc biệt dễ bị ảnh hưởng bất lợi bởi những ảnh hưởng tiêu cực của sự phát triển kinh tế. Cùng với các vấn đề xã hội còn có các vấn đề về sức khoẻ mà con người gặp phải khi đời sống trở nên giàu có và xã hội công nghiệp đang phát triển. Đặc biệt bệnh thần kinh trở nên trầm trọng hơn vì sự cô đơn và nhu cầu cuộc sống trong xã hội công nghiệp đang gia tăng. Điều này bao gồm cả rối nhiễu thần kinh nhẹ như lo lắng, phiền muộn, hay rối nhiễm tâm thần. Tuy nhiên, có thể vấn đề về sức khoẻ nghiệm trọng nhất hiện nay đó là bệnh HIV/AIDS (xem phần tham chiếu). Sự lây lan nhanh chóng của căn bệnh HIV gắn chặt với tệ nạn mại dâm và ma tuý (và từ đó cũng gắn với các dạng tệ nạn khác). Đàn ông khi quan hệ với gái mại dâm sau đó có thể lây bệnh sang cho những người vợ của họ, dẫn tới các hậu quả nặng nề cho cả gia đình của họ vì vậy không chỉ gái mại dâm mà cả khách hàng của họ đều bị nhiễm bệnh. Bảo trợ xã hội: Các đáp ứng đối với các nhu cầu xã hội có thể chia thành 2 phần, mỗi phần bàn về một vấn đề riêng biệt thuộc lĩnh vực hoạt động của MOLISA. Phần đầu tiên bàn về vấn đề bảo trợ xã hội.Trong phần này mối quan tâm là trẻ em cần có sự bảo trợ đặc biệt, những người bị tàn phế từ hậu quả của cuộc chiến tranh và những người già yếu. Các dịch vụ xã hội đưa ra nhằm đáp ứng những nhu cầu được thể hiện ở cả cộng đồng và các thể chế. 4
  21. Nghiên cứu nguồn Nhân lực và Nhu cầu Đào tạo cho Phát triển Công tác Xã hội ở Việt Nam Nhằm đáp ứng nhu cầu bảo trợ đặc biệt của trẻ em, theo luật bảo trợ trẻ em, Chăm sóc và giáo dục trẻ em, chính phủ đã chia ra thành 10 nhóm (xem phần tham chiếu). Đó là: • Trẻ mồ côi nghèo khổ • Trẻ em bị bỏ rơi • Trẻ em tàn tật • Trẻ em là nạn nhân của chất độc hoá học • Trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS • Trẻ em bị bắt làm những công việc nguy hiểm • Trẻ em bị làm việc xa gia đình và trẻ em lang thang • Trẻ em bị lạm dụng tình dục • Trẻ em nghiện ma tuý • Trẻ em vi phạm pháp luật. Tổng số trẻ em đang được chăm sóc tại các trung tâm bảo trợ xã hội là 15.126 em, trong khi đó số lượng trẻ em trong cộng đồng nhận được sự bảo trợ xã hội là 64.384 em. Số lượng những thương binh người bị khuyết tật và người già cô đơn nhận sự hỗ trợ từ chính sách bảo trợ xã hội là rất lớn khoảng trên 7 triệu người. Đây là con số bao gồm cả những người nhận hỗ trợ về tài chính và các hỗ trợ khác trong cộng đồng cũng như những người được nuôi dưỡng trong các Trung tâm bảo trợ xã hội. Phòng chống tệ nạn xã hội: Lĩnh vực khác của MOLISA gắn liền với các vấn đề xã hội quan tâm đó là việc bài trừ các tệ nạn xã hội. Năm vấn đề chính được xem như các tệ nạn xã hội đó là: • Buôn bán trẻ em và phụ nữ • Mại dâm • HIV/AIDS • Lạm dụng ma tuý • Tội phạm Ở mỗi lĩnh vực này nhu cầu được tăng lên gấp đôi. Trước tiên là sự đáp ứng thông qua hệ thống pháp luật hình sự (đó là cảnh sát và toà án) và các dịch vụ sức khoẻ để cố gắng ngăn chặn các hoạt động không thể chấp nhận được. Thứ hai là để đưa ra dịch vụ chăm sóc phục hồi cho những người bị ảnh hưởng bởi các tệ nạn xã hội. Ví dụ, phụ nữ và trẻ em bị buôn bán và trở về với gia đình cần có một sự hỗ trợ đặc biệt, cả về vật chất và về mặt tâm lý xã hội, để họ có 5
  22. Chương 1: Bối cảnh Phát triển Công tác Xã hội tại Việt Nam thể điều chỉnh lại cuộc sống của mình sau những biến cố mà họ đã trải qua. Những người xung quanh họ cũng đòi hỏi phải được giúp đỡ để hiểu và chấp nhận những người đó quay trở về cuộc sống bình thường. Tương tự như vậy, với những người phục hồi mắc vào tệ nạn mại dâm hay sử dụng chất ma tuý sau khi phục hồi đều cần có sự quan tâm và hỗ trợ này. Cộng đồng cũng cần có những lời khuyên và những thông tin về mối nguy hiểm từ những hoạt động này. Đối với những người bị nhiễm HIV/AIDS, họ phải được cung cấp các thông tin và tham vấn về tâm lý xã hội khi họ được xác định dương tính với vi rút. Ví dụ nguy cơ lây lan của căn bệnh thông qua những người nghiện ma tuý hay những người có quan hệ với gái mại dâm đã khiến cho sự lây truyền bệnh cho rất nhiều người khác là rất cao. Một lần nữa, không chỉ có các cá nhân mà cả cộng đồng đều cần phải nắm được các thông tin và lời khuyên về các nguy cơ và về cả các cách để người bệnh có thể an toàn quay trở về sống trong cộng đồng. Phát triển xã hội: Lý do chính cho nhu cầu về bảo trợ xã hội và phòng chống tệ nạn xã hội là mặt trái của tăng trưởng kinh tế mang lại và việc tái kết cấu chưa đồng đều. Nguyên nhân trẻ em và phụ nữ bị buôn bán, nạn mại dâm và các tệ nạn khác chủ yếu là vì lợi ích kinh tế, vì những người có thu nhập thấp tìm kiếm cơ hội để nâng cao đời sống hiện tại của mình hay nói đơn giản là để thoát khỏi đói nghèo. Nghiện ma tuý hay nghiện rượu thường xuyên gắn liền với những cơ hội kinh tế ít, thất nghiệp và bị đẩy ra ngoài lề xã hội. Như đã lưu ý rằng sự lây lan của HIV/AIDS còn do các nhân tố khác nữa, do đó chúng ta có thể nói rằng các tệ nạn xã hội này không thể giải quyết được hoàn toàn mà không xem xét đến sự ảnh hưởng về mặt xã hội từ sự phát triển kinh tế. Tương tự như vậy, nhu cầu về các chính sách và dịch vụ bảo trợ xã hội sẽ tăng lên cùng với những thay đổi về xã hội tương tự. Việc cung cấp dịch vụ bảo trợ xã hội và xoá bỏ các tệ nạn xã hội không thể tách khỏi những gì mà sự phát triển về kinh tế ảnh hưởng đến gia đình và cộng đồng. Như vậy cần phải quan tâm đến sự phát triển xã hội và cộng đồng đi cùng với việc tái cơ cấu nền kinh tế là rất cần thiết nếu như những can thiệp đối với cá nhân và gia đình muốn có hiệu quả bền vững. ở cấp làng xã và cấp quận huyện đòi hỏi phải có sự tư vấn và trợ giúp để thúc đẩy quá trình phát triển và mọi người có thể hưởng lợi từ sự phát triển cũng như đảm bảo rằng họ có khả năng đóng góp ý kiến của mình trong quá trình xây dựng, thực thi các chính sách. Nói một cách đơn giản, những lợi ích bền vững của sự tăng trưởng kinh tế cho mọi người dân trong xã hội sẽ không có được nếu không có một nỗ lực phát triển xã hội và cộng đồng như một phần của quá trình công nghiệp 6
  23. Nghiên cứu nguồn Nhân lực và Nhu cầu Đào tạo cho Phát triển Công tác Xã hội ở Việt Nam hoá và hiện đại hoá đất nước. Do đó xoá đói giảm nghèo cần luôn đi cùng với nâng cao năng lực của cộng đồng và công bằng xã hội. Cũng có những vấn đề liên quan tới của cải vật chất. ảnh hưởng của cuộc sống náo nhiệt hơn và các gia đình bị li tán cần có sự bảo trợ xã hội đã được ghi nhận. Hơn nữa, hiện nay ở Việt Nam đang xuất hiện sự gia tăng những căng thẳng ở học sinh phổ thông và sinh viên các trường đại học cũng như trong các mối quan hệ gia đình. ở đây cũng có những liên quan đối với các các tệ nạn xã hội như nghiện ma tuý khi những thanh niên gia đình khá giả thường bị ảnh hưởng nhiều hơn và các em ít có thời gian với cha mẹ hay các thành viên khác trong gia đình. Tăng trưởng kinh tế cũng tạo ra áp lực cho các dịch vụ y tế. Mặc dù một số trường hợp như các vấn đề sức khoẻ tâm thần cụ thể nảy sinh trong hoàn cảnh cuộc sống ngày càng trở nên giàu có, lúc này nhu cầu về dịch vụ sức khoẻ tăng lên cùng với những khả năng kỹ thuật tiên tiến. Tuy nhiên, kiến thức của những người dân nói chung về cách chăm sóc sức khoẻ của mình và biết sử dụng các dịch vụ phù hợp còn có nhiều hạn chế. Nhân viên chăm sóc sức khoẻ và y tế quá căng thẳng với khối lượng công việc quá nhiều, một số người trong số họ cũng cần được cung cấp thông tin thích hợp, hướng dẫn tham vấn về tâm lý xã hội và công tác biện hộ cho những người gặp khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ về sức khoẻ (Cuong, 2005). Theo ý nghĩa này các dịch vụ y tế hiện đại cũng là một bộ phận của sự phát triển xã hội. Hình thành một nghề chuyên môn để giúp giải quyết những vấn đề này. Chúng ta có thể nhận thấy các vấn đề này đều có ở các quốc gia khác đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hóa nền kinh tế của mình. Trong khi một số chính sách dẫn đến việc hình thành các nhà nước phúc lợi có thể thấy vào thế kỷ 16 và thậm chí sớm hơn, giai đoạn đầu thời hiện đại giải quyết nhiều vấn đề này từ thế kỷ 19 ở Châu Âu và Bắc Mỹ. Cách giải quyết này dần hình thành công tác xã hội như một nghề qua đó cần sự can thiệp mang tính khoa học tới các vấn đề bảo trợ xã hội, tệ nạn xã hội, xoá đói giảm nghèo, phát triển xã hội và cộng đồng. Việt Nam đã đưa ra một quyết định phát triển công tác xã hội như một nghề theo mô hình trên thế giới. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phê duyệt khung chương trình đào tạo (35/2004/QĐ- BGD- ĐT) được bắt đầu tại 5 trường đại học, và 5 trường khác đang lên kế hoạch. Cũng có nhiều sự phát triển trong các lĩnh vực đào tạo như công tác bảo vệ trẻ em, ví dụ Trung tâm Đào tạo của CPFC, dựa trên kiến thức và kỹ năng làm công tác xã hội, điều này được coi là 7
  24. Chương 1: Bối cảnh Phát triển Công tác Xã hội tại Việt Nam trọng tâm để đưa ra các chính sách đáp ứng các nhu cầu xã hội. Do đó công tác xã hội hiện nay là nhân tố nòng cốt trong các chiến lược phát triển an sinh xã hội tại Việt Nam. Tuy nhiên nghề công tác xã hội còn rất mới mẻ và không được hiểu rộng rãi. Các số liệu từ các cơ quan chính phủ có liên quan và các tổ chức phi chính phủ (NGOs) đưa ra đã đóng góp vào việc phổ biến công tác xã hội, đặc biệt là với khu vực Châu á- Thái Bình Dương. Hiện cần phải có một kế hoạch cho một cơ cấu nghề ra đời kể cả về nguồn nhân lực (bao gồm các lĩnh vực công tác, mục tiêu, số lượng, ) và đào tạo (ở tất cả các cấp), điều này cần thiết để đảm bảo rằng công tác xã hội chuyên nghiệp phát triển nhanh và phù hợp với Việt Nam. Nguồn gốc của công tác xã hội: Các nhân viên xã hội đầu tiên đều là những tình nguyện viên, làm công việc từ thiện. Họ làm việc ở các địa điểm khác nhau những nơi mà mọi người đang phải đối mặt với vấn đề khó khăn trong cuộc sống, bao gồm: • Toà án, nhằm giúp đỡ những người phạm tội tránh lặp lại sai lầm. • Bệnh viện, giúp đỡ những người nghèo được chăm sóc sức khoẻ từ thiện. • Gia đình, giúp đỡ các gia đình có vấn đề khó khăn tăng cường chức năng xã hội để đối phó với các vấn đề đó. Ở những nơi này, mục tiêu là thiết lập mối quan hệ với những người gặp khó khăn để giúp họ tìm ra phương thức mới trong giải quyết vấn đề đồng thời thực hiện sự hỗ trợ từ thiện một cách hiệu quả. Khi những hoạt động này phát triển, các tổ chức từ thiện tuyển dụng nhiều người để thực hiện công việc này. Vào cuối thế kỷ 19, các nhân viên từ thiện đã bắt đầu nhận thấy rằng việc trợ giúp từ thiện không thể có hiệu quả nếu như nó không được làm một cách khoa học hơn. ảnh hưởng của sự ra đời của khoa học xã hội tới vấn đề này là rất lớn. Điều này dẫn đến sự phát triển và tạo ra những đặc điểm của nền công tác xã hội hiện đại (Parry & Parry, 1979). Trước hết là sự hình thành nên các tổ chức như ở các quốc gia nói tiếng Anh- Tổ chức nhân đạo (COS), những nơi tìm cách áp dụng các kiến thức khoa học xã hội tạo ra sự sử dụng có hiệu quả trong trợ giúp nhân đạo cho các cá nhân và gia đình một cách hiệu quả. Từ đây phát triển lên công tác tham vấn và làm việc với cá nhân và gia đình ngày nay. Thứ hai là sự hình thành “nhà định cư (Setlement House)”. Điều này xuất phát từ ý tưởng những bộ phận giàu có, được giáo dục và thành công hơn của xã hội có thể giải quyết được các khó khăn vì họ có các nguồn lực, các kỹ năng sống được chia sẻ. “Nhà định cư” bắt nguồn từ các nhóm sinh viên đến sống tại các khu vực có vấn đề xã hội trầm trọng để họ có thể giúp đỡ người dân giải quyết các vấn đề của họ trong cộng đồng. 8
  25. Nghiên cứu nguồn Nhân lực và Nhu cầu Đào tạo cho Phát triển Công tác Xã hội ở Việt Nam Cả hai hình thức tổ chức khoa học nhân đạo và ý tưởng của cách chuyển đến sống ở những nhà định cư đã lan rộng trong các nước công nghiệp hoá để đến đầu thế kỷ 20 các tổ chức này được thành lập ở hầu hết các thành phố chính của các quốc gia này. Mặc dù giữa các tổ chức có những khác biệt nhưng họ đã cùng chia sẻ những hiểu biết chung về nhu cầu, tính khoa học và trong giai đoạn khoảng từ năm 1895 đến 1910, các khoá đào tạo công tác xã hội đã được mở ra tại các trường cao đẳng và đại học tại Amsterdam, London, Liverpool, New York và Chicago. Hai nhân tố của công tác xã hội, chủ yếu tập trung vào các cá nhân, gia đình và vào cộng đồng, thực tế cũng có rất nhiều kỹ thuật phát triển giống nhau cũng như cam kết ứng dụng các nghiên cứu xã hội vào giải quyết các vấn đề xã hội và các chính sách cũng như phương pháp giải quyết những vấn đề này. Các quốc gia Châu Âu khác và vùng bán đảo Scandinavi cũng có những bước phát triển tương tự. Những so sánh đương đại Công tác xã hội không đi theo một cách rập khuôn chính xác con đường mà mỗi trong 80 quốc gia đang có hiện nay (những nước được công nhân là thành viên của Hiệp hội công tác xã hội quốc tế). Ví dụ, mặc dù các tổ chức từ thiện và các phong trào định cư đã được thực hiện tại Australia và Canada vào đầu những năm 1990, khoảng 40 năm sau đó các chương trình đào tạo ở bậc đại học mới được giảng dạy ở Sydney, Melbourne và Toronto (thường do những người đầu tiên được đào tạo tại Anh hoặc Mỹ thực hiện). Vào giai đoạn này, ý tưởng về “tổ chức nhân đạo” rõ ràng đã được thay thế bằng công tác xã hội chuyên nghiệp theo mô hình hiện đại. ở rất nhiều nơi trên thế giới, công tác xã hội và đào tạo chuyên nghiệp cấp đại học đã đi theo các mô hình được thiết lập ở các quốc gia phương Tây. Ví dụ, ảnh hưởng của phương pháp tiếp cận của Anh tại Hong Kong, ấn Độ và SriLanka hay những phương pháp của Mỹ tại Philipin, Thái Lan hay Nhật Bản là những ví dụ về nguồn gốc chung nhưng phát triển ngày càng đa dạng. Đặc biệt là các hình thức thực hành đã trở nên phù hợp hơn với từng quốc gia, các phương pháp tiếp cận dựa trên sự cân bằng giữa cách tiếp cận cá nhân và cộng đồng đã phản ánh thực trạng xã hội tại mỗi nơi. Thực tế, nếu so sánh Hồng Kông và Nhật Bản với ấn Độ, Srilanka và Philipin, có thể thấy sự khác biệt của các nước có cùng nguồn gốc công tác xã hội liên quan nhiều hơn tới mô hình và tốc độ phát triển kinh tế chứ không phải là từ một mô hình cụ thể của nước khác nơi khởi điểm mô hình của nước họ (như công tác xã hội ở Hồng Kông và Nhật Bản có những tương đồng với công tác xã hội ở Anh và Mỹ, nhấn mạnh vào thực hành cá nhân, gia đình, trái lại ở ấn Độ, Srilanka và Phillipin, công tác xã hội có xu hướng tập trung nhiều hơn vào các các cách 9
  26. Chương 1: Bối cảnh Phát triển Công tác Xã hội tại Việt Nam tiếp cận phát triển cộng đồng). Tuy nhiên, tất cả những khác biệt của quốc gia hay khu vực vẫn được xem như một bộ phận của công tác xã hội, thể hiện sự ghi nhận năng lực của các nhân viên xã hội từ tất cả các quốc gia trên thế giới trong các cuộc thảo luận hữu ích ở các hội nghị quốc tế và các hội thảo khoa học. Cách thức mà công tác xã hội phát triển rất đa dạng. Trong khi ở một số ở một số quốc gia, công tác xã hội do những những người tiên phong sáng lập, họ đã đấu tranh để tạo ra được các cơ hội và liên minh với các nghề khác và với các nhà hoạch định chính sách, thì ở một số quốc gia khác công tác xã hội được xây dựng qua những hành động của Chính phủ nhằm đáp ứng các nhu cầu của những người dân trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Như vậy, khi xem xét sự phát triển của công tác xã hội trong mối tương quan so sánh, mặc dù công tác xã hội là một nghề nhưng không có một mô hình riêng lẻ đơn nhất cho sự phát triển của nó. Nhiệm vụ của các nhân viên xã hội là gì? IFSW cùng với Hiệp hội Quốc tế các trường Đào tạo về Công tác xã hội (IASSW) định nghĩa công tác xã hội theo cách sau: Nghề công tác xã hội thúc đẩy thay đổi xã hội, giải quyết vấn đề về mối quan hệ con người và trao quyền và giải phóng con người để nâng cao phúc lợi cho họ. Công tác xã hội sử dụng các lý thuyết về hành vi của con người và hệ thống xã hội, công tác xã hội can thiệp vào những điểm mà con người tác động đến môi trường. Công tác xã hội tôn chỉ nền tảng các nguyên tắc về nhân quyền và công bằng xã hội. Các mục tiêu này đạt được thông qua hàng loạt các phương pháp, bao gồm: • Tham vấn (cách sử dụng các kỹ thuật trị liệu cá nhân để trợ giúp các cá nhân và gia đình để đạt được sự thay đổi); • Công tác xã hội cá nhân (làm việc với cá nhân) (sử dụng một mối quan hệ nghề nghiệp bền vững để tham vấn và trợ giúp các cá nhân và gia đình xác định, giải quyết các vấn đề trong cuộc sống hàng ngày – ở một số nước điều này có thể gọi là “giáo dục xã hội”); • Quản lý tình huống (phối hợp các dịch vụ xã hội chuyên nghiệp để trợ giúp những người có nhu cầu phức tạp, thường là trong chăm sóc và bảo trợ lâu dài); • Công tác xã hội nhóm (làm việc theo nhóm) (làm công việc với các nhóm mà ở đó mọi người có cơ hội chia sẻ các vấn đề giống nhau); • Công tác biện hộ xã hội (giúp đỡ các cá nhân và nhóm tiếp cận được với các dịch vụ hay những đáp ứng từ các khu vực khác trong xã hội mà họ 10
  27. Nghiên cứu nguồn Nhân lực và Nhu cầu Đào tạo cho Phát triển Công tác Xã hội ở Việt Nam cần để nâng cao cuộc sống); • Phát triển cộng đồng (giúp đỡ cộng đồng nhận biết các vấn đề chung và tìm ra giải pháp thông qua các hành động đã được thực hiện); • Nghiên cứu xã hội • Phát triển chính sách xã hội. Một số chức năng này có trùng lắp với các nghề hay các nhóm khác, như công tác tham vấn, nghiên cứu xã hội và thực hiện chính sách. Điểm để phân biệt công tác xã hội là tất cả những nghề hay nhóm khác là nhân viên xã hội chuyên nghiệp được đào tạo ở tất cả các phương pháp vì thế họ có nền tảng tổng hợp về kiến thức và kỹ năng. Vì lý do này mà các nhân viên xã hội có cách tiếp cận khác biệt trong hoạt động của họ (ví dụ, so với các nhà tâm lý học hay những người được đào tạo về khoa học xã hội lý thuyết) để bổ sung cho các phương pháp tiếp cận của các nhóm khác. Công tác xã hội tập trung vào con người ở trong môi trường xã hội của họ, ở cả hai khía cạnh môi trường cá nhân và môi trường xã hội để thúc đẩy sự thay đổi cần thiết. Như đã đề cập ở trên, việc sử dụng các cách thức can thiệp thường khác nhau giữa các quốc gia, tuỳ thuộc vào các vấn đề mà mỗi xã hội đang phải đối mặt trong cuộc sống. Ví dụ cụ thể như công tác xã hội tại các bệnh viện ở úc, các phương pháp giúp các cá nhân và gia đình là tham vấn, công tác xã hội cá nhân, quản lý tình huống, công tác xã hội nhóm tất cả đều là công việc phổ biến, một số nhân viên xã hội cao cấp hơn cũng tham gia vào nghiên cứu xã hội và phát triển chính sách. Trong khi đó ở một nước đang trong tiến trình chuyển đổi, như Srilanka thì phần nhiều nhân viên xã hội tham gia vào công tác phát triển cộng đồng ở các khu vực tăng trưởng kinh tế dẫn đến những tác động xã hội tiêu cực. Tuy nhiên, vấn đề nằm ở chỗ tỷ trọng các phương pháp được thực hiện như công tác phát triển cộng đồng được thực hiện tại úc và một số công tác xã hội với các cá nhân cũng được đưa ra ở Srilanka. Việc xem xét các phương pháp đã được liệt kê ở trên không chỉ là cách thức duy nhất để xác định xem các nhân viên xã hội phải làm gì. Cũng cần phải đưa ra các nhiệm vụ mà nghề này có thể làm được mà chưa được đề cập trong các phần của phương pháp. Ví dụ như ở rất nhiều quốc gia, các nhân viên xã hội đóng vai trò chính trong công tác bảo trợ xã hội. Thường thì hầu hết các công tác như vậy là chăm sóc và bảo trợ cho trẻ em đang gặp nguy cơ, hặc là gặp nguy cơ về bạo lực hoặc là trẻ em bị chính gia đình và những người thân của mình bỏ rơi, hoặc bị ảnh hưởng bởi những thay đổi của xã hội, điều này có thể làm cho các em sa vào con đường tội phạm, ma tuý hay mại dâm. Nhiệm vụ cụ thể của công tác xã hội trong những trường hợp này là nắm bắt các nhu cầu xã hội của đứa trẻ đó, thu xếp việc chăm sóc những đứa trẻ ở môi trường ngoài gia đình khi cần thiết hay hỗ trợ cha mẹ chăm sóc con cái khi trẻ ở môi trường gia 11
  28. Chương 1: Bối cảnh Phát triển Công tác Xã hội tại Việt Nam đình, thúc đẩy sự thay đổi trong định hướng và khả năng của cha mẹ để chăm sóc cho những đứa con chu đáo thông qua thông qua công tác tham vấn và công tác xã hội cá nhân và lập kế hoạch với con cái (miễn sao có thể thực hiện được), các bậc cha mẹ và các cơ quan chức năng đảm bảo rằng những kế hoạch này được thực hiện. Một số nhân viên xã hội cũng có thể tham gia vào việc chăm sóc trực tiếp cho những trẻ em không thể sống cùng với gia đình, ví dụ như trong việc quản lý một căn nhà tình thương cho trẻ. Các nhân viên xã hội khác sẽ tham gia vào việc quản lý các dịch vụ này, lập kế hoạch chương trình, phát triển chính sách và nghiên cứu trong phạm vi các tổ chức chính phủ và phi chính phủ. Tương tự như vậy, các nhân viên xã hội ở rất nhiều quốc gia tham gia công tác bảo trợ xã hội cho cả những người lớn gặp nguy cơ, như những người bị ốm yếu tàn tật nặng hay những người rất già. Cũng như trong giúp đỡ những trẻ em cần có sự bảo vệ thì công tác xã hội dành cho người lớn cũng là đánh giá xã hội, lập kế hoạch chăm sóc và bố trí các dịch vụ thích hợp; hỗ trợ cho các thành viên trong gia đình chăm sóc những người bị ốm yếu tàn tật nặng và những người già cũng là một nhiệm vụ của công tác xã hội, sử dụng biện pháp tham vấn, công tác xã hội cá nhân, quản lý tình huống và đôi khi đó là công tác xã hội nhóm. Một lần nữa, công tác quản lý hành chính, lập kế hoạch chương trình, phát triển chính sách và nghiên cứu về các dịch vụ dành cho người dễ bị tổn thương cũng là nhiệm vụ của những nhân viên xã hội. Trong khi thực hiện tất cả các nhiệm vụ này, công tác xã hội phối kết hợp cùng với các ngành nghề và ban ngành khác bao gồm giáo dục, y tế, cảnh sát và toà án, và các cơ quan chính phủ khác. Công tác xã hội nhấn mạnh tầm quan trọng của các giá trị lớn chuyên môn. (Banks, 2001). Những giá trị này bao gồm tôn trọng những giá trị vốn có của con người, tôn trọng công bằng xã hội và nhân quyền và cam kết sử dụng các kỹ năng và kiến thức để phục vụ cộng đồng. Về khía cạnh này, các nhân viên xã hội không phải là những người duy nhất tuân chỉ các giá trị này, vì rất nhiều các ngành nghề khác cũng có thể đưa ra được nền tảng giá trị tương tự. Tuy nhiên đối với công tác xã hội, vì cả các phương pháp và mục tiêu thực hiện đều là cho xã hội, thường khó phân biệt được các phương pháp này với các mục tiêu và vì thế công tác xã hội thường được tạo nên bởi xã hội trong đó nghề này được coi trọng hơn các ngành nghề khác. Bởi vì lý do này mà danh mục các nguyên tắc đạo đức quốc tế do IFSW và IASSW đưa ra vào năm 2004 là rất quan trọng trong việc đưa ra cẩm nang cho các nhân viên xã hội ở các nước khác. 12
  29. Nghiên cứu nguồn Nhân lực và Nhu cầu Đào tạo cho Phát triển Công tác Xã hội ở Việt Nam Các loại hình đào tạo CTXH: Ở hầu hết các nước, việc đào tạo công tác xã hội chuyên nghiệp được đưa ra ở cấp đại học. Việc này hiện nay càng ngày càng phổ biến và là quan điểm mà IFSW đề xuất và IASSW đưa ra trong bản báo cáo năm 2004 về “Các tiêu chuẩn toàn cầu về đào tạo công tác xã hội”. Mặc dù quan điểm của IFSW/IASSW cho rằng tất cả những người làm công tác xã hội chuyên nghiệp ít nhất phải có bằng cử nhân, nhưng những cơ quan quốc tế này chấp nhận rằng ở một số quốc gia đây là nguyện vọng của họ trong hiện tại và vì thế trong lúc này với một số quốc gia các nhân viên xã hội phải được đào tạo ở các cấp thấp hơn đại học cũng như đại học để đạt được số lượng như yêu cầu. Không có một mô hình quốc tế đơn lẻ nào dành cho đào tạo công tác xã hội chuyên nghiệp. Đồng thời, có một số đặc điểm chung mà chúng ta có thể nhận thấy được, cụ thể là: • Ít nhất là đào tạo chính quy tập trung 2 năm về công tác xã hội sau khi tốt nghiệp phổ thông; • Đào tạo chuyên môn về lý thuyết và thực hành công tác xã hội; • Đào tạo khoa học xã hội và luật pháp (bao gồm chính sách và các phương pháp nghiên cứu); • Dành một phần đáng kể thời lượng cho thực hành, thực tập có kiểm huấn trong chương trình đào tạo. Ngày càng có nhiều quốc gia hướng tới xem bằng đại học là một tiêu chuẩn. Tuy nhiên vẫn có rất nhiều sự khác biệt. Ví dụ như là: • Ở Mỹ, chương trình đào tạo thạc sỹ kéo dài 2 năm sau khi đã học 4 năm cử nhân (Tuy nhiên nếu như tốt nghiệp chương trình cử nhân ngành về công tác xã hội thì thời lượng đào tạo thạc sỹ có thể được giảm đi xuống còn 1 năm thông qua hình thức đào tạo tín chỉ); • Ở Nhật Bản, New Zealand, ấn Độ, Srilanka, Nam Phi, vùng bán đảo Scandinavi và hầu hết các quốc gia ở Châu Âu thì chương trình cử nhân 4 năm là mô hình chuẩn (mặc dù trong một số trường hợp vẫn có các chương trình đầu vào cử nhân là 2 năm); • Ở Anh, từ năm 2002, chương trình cử nhân 3 năm là chuẩn (mặc dù các chương trình đào tạo thạc sỹ tập trung 2 năm giống như chương trình của Mỹ). Với một số nước công tác xã hội mới phát triển như Maldives thì bằng cấp trung học/ cao đẳng hiện nay là quy định tối thiểu. (Cần phải chú ý rằng đây cũng là trình độ tối thiểu ở Anh đến tận năm 2002, mặc dù bằng cử nhân và đại học đã có trong nhiều thập kỷ). Mặc dù có sự khác biệt nhưng ở trong tất cả các mô hình đào tạo đều có 4 nội dung chính trên. 13
  30. Chương 1: Bối cảnh Phát triển Công tác Xã hội tại Việt Nam Ở tất cả các quốc gia, các cấp đào tạo hình thành nên cơ sở để ghi nhận một người nào đó có phải là nhân viên xã hội chuyên nghiệp hay không. ở một số quốc gia, khi chúng ta xem xét đến phần tiếp theo của bản báo cáo này, trình độ chuyên môn của họ cũng có thể là một cách để họ được xem là chuyên nghiệp. Sự công nhận về hành nghề: Đặc điểm chung của tất cả các ngành nghề là có cơ cấu tổ chức chính thức và cơ chế hoạt động, mỗi thành viên có thể được thừa nhận nếu có chuyên môn phù hợp. Trên thế giới có một số cách khác nhau để có thể nhận được sự công nhận này; thậm chí trong phạm vi một số quốc gia có thể có sự khác biệt giữa các vùng, các tỉnh hay các bang. Cơ chế đăng ký là việc một tổ chức chuyên môn nghề nghiệp được chính phủ giao quyền quản lý hồ sơ của từng người đã được công nhận là thành viên của hội nghề nghiệp. Quyết định được đưa ra dựa trên việc cá nhân chứng tỏ mình có những bằng cấp cần thiết. Loại hình tổ chức này có ở một số bang tại Mỹ và một số tỉnh thành tại Canada và vừa mới được thực hiện tại Anh năm 2005. Theo như mô hình đăng ký này thì các cá nhân hành nghề công tác xã hội có thể không được hành nghề nữa nếu như người đó không còn phù hợp với nghề nghiệp. Có sự thay đổi trong mô hình này việc cấp giấy phép hành nghề, mỗi cá nhân nhận được một giấy chứng nhận hành nghề từ tổ chức nhà nước và họ cũng có thể bị rút giấy hành nghề nếu như người đó không đáp ứng được những yêu cầu chuyên môn của công việc. Mô hình này được áp dụng ở một số bang khác của Mỹ và một số tỉnh của Canada. Một phương pháp tiếp cận khác là một Uỷ ban được uỷ quyền như một văn phòng nhà nước hay Hiệp hội nghề nghiệp đánh giá và phê duyệt các chương trình đào tạo và công nhận cả những người tốt nghiệp chương trình đều là các nhân viên xã hội. Đây là mô hình áp dụng tại Anh đến tận năm 2005 ở đây một cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ này còn ở úc thì Hiệp hội nghề nghiệp phê duyệt và công nhận các chương trình. ở úc, hoàn thành một chương trình đã được phê duyệt cho phép cá nhân có đủ điều kiện trở thành thành viên của Hiệp hội các Nhân viên xã hội của úc (AASW), và khi đó họ có vị trí là một nhân viên xã hội chuyên nghiệp. Chính phủ úc cũng đã giao nhiệm vụ cho AASW đánh giá trình độ của các nhân viên xã hội đã được đào tạo ở một số quốc gia khác để được công nhận tại úc. 14
  31. Nghiên cứu nguồn Nhân lực và Nhu cầu Đào tạo cho Phát triển Công tác Xã hội ở Việt Nam Các hiệp hội nghề nghiệp: Trong 80 quốc gia là thành viên của IFSW, có các tổ chức nghề nghiệp dành cho các nhân viên xã hội. Mỗi hiệp hội thực hiện nhiệm vụ kết nối các nhân viên xã hội lại với nhau để chia sẻ kiến thức cũng như kỹ năng, phát triển khoa học về công tác xã hội và mở rộng hoạt động công tác xã hội tới cộng đồng lớn hơn. (ở Palestin và ở các nước vùng bán đảo Scandinavi, những tổ chức này cũng hoạt động như Liên đoàn lao động). Còn IFSW lại kết nối các hiệp hội nghề nghiệp của các quốc gia khác nhau với nhau về vấn đề mang tính toàn cầu. Các hiệp hội nghề nghiệp thực hiện chức năng vô cùng quan trọng là đưa ra cách thức để trao đổi các ý kiến về việc làm thế nào công tác xã hội có thể phát triển và liên tục nâng cao. Bằng cách này họ giúp các nhân viên xã hội duy trì được những chuẩn mực cao nhất có thể trong công việc khi họ có trình độ. Các tổ chức này cũng tạo ra nền tảng cho công tác xã hội diễn giải và biện hộ cho nghề nghiệp của mình, đối thoại với chính phủ, các nghề nghiệp khác, phương tiện thông tin đại chúng và cộng đồng xã hội rộng lớn hơn. Như đã đề cập ở trên, ở một số quốc gia như úc, hiệp hội nghề nghiệp đóng vai trò công nhận các chương trình đào tạo đại học có thích hợp để chuẩn bị cho sinh viên thực hiện tốt công việc của mình. Thậm chí khi chức năng này được các ban ngành khác thực hiện thì các hiệp hội nghề nghiệp tham gia tích cực vào tư vấn cho quá trình, thông qua đó các cá nhân được công nhận là các nhân viên xã hội chuyên nghiệp. Lịch sử công tác xã hội tại Việt Nam: Việt Nam có truyền thống lâu đời về sự giúp đỡ tương trợ lẫn nhau trong xã hội. Từ thời kỳ phong kiến đã có những luật pháp quy định về việc giúp đỡ những người khuyết tật và người già cô đơn. Tiếp theo đó năm 1945 luật pháp về vấn đề xoá đói nghèo đã được đưa ra. Những ưu tiên đưa ra để giải quyết nạn đói, bảo trợ những trẻ em mồ côi và chăm sóc người già và người khuyết tật. Sau năm 1954 các tổ chức đã được thiết lập nhằm đáp ứng các nhu cầu này cũng như giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh từ cuộc chiến tranh. Công tác xã hội chuyên nghiệp hiện đại lần đầu tiên được tổ chức chữ thập đỏ của Pháp (FRC) đưa vào tại Việt Nam năm 1948. Kết hợp với tổ chức của St. Vincent de Paul, trường đào tạo về công tác xã hội Caritas được FRC mở ra. Vào năm 1968 một trường đào tạo chính quy thứ hai được thành lập tại Sài Gòn được tổ chức UNICEF và UNDP hỗ trợ thành lập. Tuy nhiên, sau khi thống nhất lại đất nước vào năm 1975, những chương trình này bị dừng lại và rất nhiều giáo viên và sinh viên đi nước ngoài (Oanh, 2002). 15
  32. Chương 1: Bối cảnh Phát triển Công tác Xã hội tại Việt Nam Vào cuối những năm 1980 xuất hiện những ý tưởng phát triển công tác xã hội. ở thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Công tác xã hội và Nghiên cứu phát triển cộng đồng đã hình thành và công tác xã hội bắt đầu được coi là môn học được giảng dạy trong chương trình đào tạo Phụ nữ học tại Trường Đại học Mở bán công. ở Hà Nội một số tổ chức phi chính phủ quốc tế bắt đầu giới thiệu các lý thuyết về công tác xã hội và phương pháp công tác xã hội trong phạm vi các khoá ngắn hạn, ví dụ như đào tạo tại chức cho các cán bộ của Hội phụ nữ và Đoàn thanh niên. Từ đó, dần dần nhu cầu đào tạo về công tác xã hội đã phát triển trong nội bộ những người làm trong lĩnh vực an sinh xã hội. Từ năm 1997, tại trường Cao đẳng Lao động - Xã hội (COLISA), nay là trường Đại học Lao động – Xã hội cũng như tại Trường Đại học Mở bán công Thành phố Hồ Chí Minh có các khoá học đào tạo về công tác xã hội. Nắm được nhu cầu về công tác xã hội chuyên nghiệp, chính phủ Việt Nam tiếp tục phê duyệt các chương trình phát triển cao hơn về công tác xã hội và việc này đưa đến sự kiện vào cuối năm 2004 Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đã thông qua mã ngành đào tạo công tác xã hội. Cùng với hai trường đã có đào tạo công tác xã hội kể trên Đại học Mở bán công TP Hồ Chí Minh và Đại học Lao động – Xã hội sinh viên đã được học các chương trình đào tạo công tác xã hội tại các trường Đại học Công đoàn, Đại học Đà Lạt, Đại học Huế và Đại học Thăng Long. Vào thời điểm viết bản báo cáo này các trường Đại học Sư phạm đồng Tháp, Đại học Quy Nhơn, Đại học Quảng Bình, Đại học Sư phạm và Đại học Quốc gia Việt Nam đang bắt đầu chuẩn bị các chương trình đào tạo về công tác xã hội. Tuy nhiên, mặc dù nhu cầu đào tạo về công tác xã hội được thừa nhận, nhưng bản chất công tác xã hội là một nghề vẫn không được hiểu rõ ở nhiều nơi. Đánh giá chính xác về vai trò công tác xã hội vẫn chưa thống nhất ở cả các tổ chức nhà nước và các tổ chức phi chính phủ liên quan đến lĩnh vực an sinh xã hội. Vì thế vẫn còn có những nhầm lẫn, với một số người việc sử dụng thuật ngữ Công tác xã hội để chỉ tất cả những người làm việc trong lĩnh vực an sinh xã hội, những người khác thì chỉ nắm được vai trò chủ yếu của công tác xã hội là từ thiện mà thôi trong khi đó có những người khác vẫn còn nghi ngờ về việc liệu công tác bảo trợ xã hội, phòng chống các tệ nạn xã hội hay phát triển xã hội có cần đòi hỏi đào tạo đặc biệt hay không. Vấn đề quan trọng ở đây là rất nhiều người ở cấp xã được gọi là “những nhân viên xã hội cơ sở” (Oanh, 2002) họ làm việc trực tiếp với các cá nhân và gia đình nhưng họ không được đào tạo hoặc chỉ được đào tạo rất ít thông qua các khoá tập huấn ngắn hạn. Những nhân viên xã hội này được xem như “bán chuyên nghiệp” trong vai trò của mình, nền tảng kiến thức và kỹ năng của họ phần nào giống như của công tác xã hội chuyên nghiệp nhưng quá trình hình thành kiến 16
  33. Nghiên cứu nguồn Nhân lực và Nhu cầu Đào tạo cho Phát triển Công tác Xã hội ở Việt Nam thức và kỹ năng của họ vẫn ở dưới mức cần thiết để thừa nhận vai trò chuyên nghiệp. Hiện nay trong khi có một đội ngũ sinh viên đang được đào tạo công tác xã hội chuyên nghiệp thì công tác xã hội vẫn chưa có được một mã ngành cụ thể. Điểm quan trọng này sẽ được đề cập đến ở chương sau. Vì vậy chúng ta có thể nói rằng lịch sử công tác xã hội tại Việt Nam đã đi đến điểm mốc quan trọng, các quyết định đã được đưa ra, một số quyết định được đưa ra rất nhanh chóng đảm bảo cơ hội thừa nhận những chặng đường đã được tạo ra. Những câu hỏi (vấn đề) đặt ra để phát triển công tác xã hội tại Việt Nam. Để xem xét công tác xã hội chuyên nghiệp đóng vai trò nào trong xã hội Việt Nam, những cơ quan chức năng rất cần thiết phải có hiểu biết chung về các vấn đề sau đây: • Nhiệm vụ của công tác xã hội cần phải làm là gì? • Cách quản lý việc tuyển dụng nhân viên công tác xã hội hiệu quả nhất là gì? • Việc đào tạo công tác xã hội nên được mở ra ở cấp nào và nên tạo điều kiện cho nó phát triển như thế nào? (bao gồm đào tạo về giáo viên và các cơ hội thực hành đánh giá mở rộng) • Làm thế nào để tổ chức và đào tạo công tác xã hội ở nhiều loại hình và cấp độ khác nhau (và liệu việc đào tạo “bán chuyên nghiệp” có nên được xem như là một phần hay nên tách ra khỏi công tác xã hội)? • Làm thế nào để công tác xã hội chuyên nghiệp có thể chia sẻ và phát triển kiến thức và kỹ năng một cách tập thể? (ví dụ như thông qua việc hình thành các hiệp hội). Những câu trả lời của những câu hỏi này sẽ góp phần quan trọng hình thành phát triển công tác xã hội tại Việt Nam trong thời gian khoảng 20 năm tới, với các giai đoạn thực hiện mục tiêu 5-10 năm. Phân tích và lập kế hoạch về lực lượng lao động trong ngành an sinh xã hội rất khó khăn (Higham et al., 2001; O’Brien-Pallas et al., 2001). Những định nghĩa có thay đổi và việc thiếu tính rõ ràng về vai trò, ở cấp độ hoạt động đôi khi bị chồng chéo làm cho quá trình thu thập dữ liệu phù hợp cho quá trình nghiên cứu khó khăn. Tuy nhiên, để có nền tảng khoa học để xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực, cần tìm ra một phương pháp phân tích cụ thể và rõ ràng. Do đó cuộc nghiên cứu sử dụng các câu hỏi trên để tiếp cận và đưa ra định hướng cho nghiên cứu thu thập và phân tích thông tin. Để đưa ra các khuyến nghị xác đáng về cơ cấu tổ chức nguồn nhân lực, nguyên tắc được sử dụng 17
  34. Chương 1: Bối cảnh Phát triển Công tác Xã hội tại Việt Nam trong phân tích nguồn lực trong “chăm sóc xã hội” dựa trên số liệu nhóm mục đích và tỷ lệ dân số tại Anh gần đây đã được áp dụng là xuất phát điểm cho cấp làng xã (xem chương 5). Tuy nhiên, với hoàn cảnh và yêu cầu cụ thể của Việt Nam, nguyên tắc này không thể áp dụng cho tất cả các cấp, vì vậy đã có một mô hình khác được đưa ra. Đề án nghiên cứu: Để đưa ra căn cứ khoa học trả lời cho các câu hỏi quan trọng này, đề án nghiên cứu được thiết kế và thực hiện thông qua hợp tác giữa UNICEF, MOLISA, CPFC, MOET và ba trường đại học (trường Đại học Lao động-Xã hội (ULSA), Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (VNU Hanoi), và trường Đại học Mở bán công Thành phố Hồ Chí Minh). Các chương tiếp theo sẽ trình bày và thảo luận về nghiên cứu này và đưa ra các đề xuất để thực hiện. Nghiên cứu này trình bày một phân tích về từng điểm cụ thể cho tiến trình phát triển công tác xã hội tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, các quyết định được đưa ra sẽ có những ảnh hưởng quan trọng đối với công tác xã hội cho Việt Nam trong một vài thập kỷ tới. Do đó, những kết quả nghiên cứu và các kết luận được đúc kết thành các khuyến nghị nhằm thông báo về tiến trình này và đóng góp sức mạnh cho công tác xã hội chuyên nghiệp tại Việt Nam. 18
  35. Nghiên cứu nguồn Nhân lực và Nhu cầu Đào tạo cho Phát triển Công tác Xã hội ở Việt Nam Chương 2: Phương pháp luận Đề án nghiên cứu: Để có thể nắm bắt được bức tranh toàn cảnh về thực trạng công tác xã hội tại Việt Nam, Phòng bảo vệ trẻ em của UNICEF Việt Nam kết hợp cùng với MOLISA, CPFC, MOET và 3 trường đại học để tiến hành một cuộc khảo sát và phân tích hiện trạng về lĩnh vực an sinh xã hội, phạm vi kiến thức về công tác xã hội và các quan điểm của nhiều tổ chức, ban ngành liên quan về phát triển công tác xã hội như một nghề ở Việt Nam. Đề án nghiên cứu này do một cố vấn quốc tế làm chủ nhiệm (đồng thời cũng là tác giả báo cáo này), cùng với 2 nhà cố vấn trong nước và nhóm nghiên cứu từ ULSA và trường Đại học Mở bán công thành phố Hồ Chí Minh. Trong quá trình nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đã được UNICEF hỗ trợ và cùng điều phối. Nhóm nghiên cứu đưa ra phương pháp nghiên cứu có sự tư vấn của các chuyên gia của nhà tài trợ và được thông qua tại hội thảo tổ chức tại Đại học Lao động-Xã hội (ULSA) Hà Nội vào tháng 4 năm 2005. Các phương pháp nghiên cứu: Để nghiên cứu hiện tượng xã hội phức tạp cần phải sử dụng cách tiếp cận nhiều phương pháp (Hakim, 2000). ở đề án này đã có một số câu hỏi được xác định như đã được đề cập ở chương trước. Những vấn đề này được tổng hợp từ các tài liệu hiện có từ trước cho đến khi hoàn tất các công cụ nghiên cứu. Tổng hợp các tài liệu trước đó đã đưa ra cả hai phương hướng nghiên cứu định lượng và định tính cho quá trình nghiên cứu thực tiễn của dự án. Việc đưa ra câu trả lời cụ thể cho những vấn đề này cần thiết phải thu thập các dữ liệu về định lượng. Một cuộc khảo sát đã được tiến hành. Đồng thời, lúc này có nhiều khía cạnh trong phạm vi tổng quan của nghiên cứu vẫn còn thiếu thông tin, nên cũng rất cần thiết phải thu thập các dữ liệu định tính về các quan điểm và ý tưởng của các ban ngành liên quan về quá trình phát triển công tác xã hội chuyên nghiệp. Công việc này có thể đạt được tốt nhất thông qua các phỏng vấn cá nhân và phỏng vấn nhóm. Vì vậy cả hai cách tiếp cận đã được sử dụng trong quá trình nghiên cứu. Chọn mẫu: Mẫu nghiên cứu thu thập thông tin rất rộng. Bao gồm lãnh đạo các Bộ, cán bộ quản lý ở các cơ quan Nhà nước ở tất cả các cấp (trung ương, tỉnh thành, quận 19
  36. Chương 2: Phương pháp luận huyện và làng xã), các tổ chức quần chúng, các nhân viên của tổ chức phi chính phủ, các giáo viên tại các trường đại học và các sinh viên chuyên ngành công tác xã hội. Qua đó có thể có được cách nhìn nhận khác nhau về vấn đề phát triển công tác xã hội phụ thuộc vào vị trí của người được hỏi là cán bộ quản lý hay xây dựng chính sách hay làm việc trực tiếp với đối tượng. Do đó các câu hỏi được đưa ra rất trú trọng cho phù hợp với đối tượng, vì thế đã có hai bảng được thiết kế ở cả hai cấp là cấp tổ chức (cấp quản lý và hoạch định chính sách) và cấp cơ sở - cán bộ làm việc trực tiếp. Hai bảng hỏi được đề cập trong suốt bản báo cáo này là nói đến hai cấp độ trên. Chỉ cần thiết có một bảng hỏi phỏng vấn sâu vì cơ cấu của những câu hỏi trong bảng hỏi đã bao quát đầy đủ thông tin cần hỏi cho tất cả các cán bộ làm việc ở mọi cấp độ. Có thể tham khảo bảng câu hỏi này ở phụ lục A và B ở cuối báo cáo. Bảng hỏi phỏng vấn sâu được trình bày ở phụ lục C. Những người được hỏi là đại diện lãnh đạo và cán bộ quản lý của các Bộ MOLISA, CPFC và MOET, Uỷ ban Nhân dân và các tổ chức quần chúng như Hội Phụ nữ hay Đoàn Thanh niên, cảnh sát, toà án, cán bộ của Hội Chữ thập Đỏ Việt Nam và các tổ chức phi chính phủ khác, các giáo viên và sinh viên tại các trường đại học đang giảng dạy công tác xã hội. Mẫu nghiên cứu được phân bổ theo lãnh thổ. Cuộc điều tra được tiến hành ở cả phía Bắc và phía Nam. Tại mỗi địa bàn đều có ở một thành phố chính và một tỉnh. ở phía Bắc, địa bàn được chọn là Hà Nội và Lạng Sơn. ở phía Nam, địa bàn được chọn là thành phố Hồ Chí Minh và Đồng Tháp. Tất cả 4 địa điểm điều tra đều được triển khai cả nghiên cứu định tính và định lượng. Tổng số có 329 người tham gia trả lời bảng hỏi. Các bảng này được phân bổ tại Bảng số 2.1. Chúng ta thấy sự phân bố giữa các tỉnh thành ở miền Bắc và miền Nam là gần như nhau, và giữa các thành phố và tỉnh cũng khá đồng nhất trong việc tiến hành khảo sát định lượng. Bảng 2.1 – Phân bổ mẫu điều tra định lượng (phần trong ngoặc là số %) Địa điểm Dành cho cán bộ Dành cho cán Tổng quản lý bộ cơ sở Hà Nội 39 (27) 56 (30) 95 (29) Lạng Sơn 32 (22) 38 (21) 70 (21) Thành phố 41 (28) 57 (31) 98 (30) HCM Đồng Tháp 33 (23) 33 (18) 66 (20) Tổng 145 (100) 184 (100) 329 (100) 20
  37. Nghiên cứu nguồn Nhân lực và Nhu cầu Đào tạo cho Phát triển Công tác Xã hội ở Việt Nam Phỏng vấn định tính cũng được phân bố tương đối đồng đều, tuy nhiên ở phía Bắc có cao hơn một chút, như đã chỉ ra ở bảng 2. Vấn đề này sẽ được đề cập sau trong báo cáo này, tuy nhiên không có sự khác biệt được ghi nhận giữa các vùng về những ý kiến đưa ra trong các trả lời phỏng vấn. Bảng 2.2: Bảng phân bổ các cuộc phỏng vấn sâu ( phần trong ngoặc là số %) Địa điểm Số lượng cuộc phỏng vấn Hà Nội 34 (30) Lạng Sơn 22 (20) Thanh Hoá 2 (2) Thành phố HCM 30 (27) Đồng Tháp 24 (21) Tổng cộng 112 (100) Tiến trình nghiên cứu: Dự án được chuẩn bị chi tiết vào đầu năm 2005. Cố vấn quốc tế phác thảo đề cương và các công cụ nghiên cứu. Như đã trình bày ở trên, bản đề cương nghiên cứu được xem xét và tổng hợp lại tại buổi hội thảo vào ngày 22/4/2005 tại trường Đại học Lao động - Xã hội, với sự tham gia của tất cả thành viên nhóm nghiên cứu và các đại diện từ các tổ chức tham gia. Việc thu thập dữ liệu bắt đầu vào 25/4/2005. Cố vấn quốc tế tiến hành 17 trong số 106 cuộc phỏng vấn và làm việc theo nhóm, 4 cuộc tại Hà Nội và 8 cuộc tại thành phố Hồ Chí Minh trong suốt tuần cuối cùng của tháng 4. Phân bổ phiếu điều tra và phỏng vấn sâu được triển khai theo nhóm nghiên cứu sau ngày giải phóng miền Nam vào tuần đầu tiên của tháng 5 năm 2005. Công tác thu thập dữ liệu kéo dài trong vòng 2 tháng. Cố vấn quốc tế cũng tiến hành khảo sát ở tỉnh Thanh Hoá và Đồng Tháp. Các cuộc phỏng vấn được thực hiện trong chuyến khảo sát này sử dụng cách tiếp cận trong phỏng vấn định tính của đề án. Tuy nhiên trong trường hợp những người được hỏi đã tham gia vào phỏng vấn trước đó, cố vấn quốc tế sẽ phỏng vấn sâu hơn nữa để tìm kiếm các thông tin chi tiết hơn. Những người này không được tính vào số người được đưa ra ở trên. Thanh Hoá đã được chọn để tìm hiểu thêm về công việc ở cấp xã và được diễn ra tương đối nhanh. ở đây chuyên gia quốc tế đã sử dụng phép “kiểm tra chéo” với sự tham gia của người quan sát (Padgett, 1998, trang 96- 98). (Kiểm tra chéo là một kỹ thuật kết hợp các quan điểm khác nhau để tăng tính hiệu lực và độ tin cậy trong nghiên cứu xã hội định tính). 21
  38. Chương 2: Phương pháp luận Các số liệu về định lượng được nhập vào SPSS để phân tích thống kê. Các dữ liệu về định tính đã được dịch ra và gửi cho nhà cố vấn quốc tế để thực hiện công tác phân tích theo mã hoá quy nạp (Burgess, 2000). Những kết quả này đã được xử lý bằng kỹ thuật và sẽ được trình bày vào các chương sau. Những hạn chế của nghiên cứu: Để đánh giá một cách đầy đủ bất kỳ một nghiên cứu nào thì cũng cần phải tìm hiểu và quan tâm tới các hạn chế của nó (Hakim, 2000). Trong trường hợp này có 3 điểm cần đề cập tới. Trước hết là ở mẫu nghiên cứu, quy mô và địa điểm được chọn lựa theo tiến trình chọn lựa có tính toán. Mẫu không được chọn ngẫu nhiên, tuy nhiên đã có sự cân nhắc được đưa ra để xác định bốn địa bàn nghiên cứu căn cứ vào những kiến thức đã có về các thành phố và các tỉnh có nhu cầu xã hội ở mức tương đối cao. Điều này không làm cho tiến trình nghiên cứu mất tính hiệu quả, song cũng cần được đề cập. Việc lựa chọn đã rất quan tâm đến những khác biệt có thể có giữa các thành phố và các tỉnh, như sẽ đưa ra trong phần thảo luận tiếp theo. Yếu tố chính có thể được giả thuyết về khoảng cách giữa các thành phố và các tỉnh, ở thành phố công tác xã hội chuyên nghiệp được biết đến nhiều hơn so với ở các tỉnh. Tuy nhiên, sự khác biệt không quá lớn để có thể ảnh hưởng đến quá trình phân tích. Thứ hai là, trong nhiều trường hợp, và đặc biệt là hai tỉnh, bản nghiên cứu về định lượng đôi khi được các nhà nghiên cứu hoàn thiện cùng với những người được hỏi trong cùng cuộc phỏng vấn định tính. Trong khi việc này đảm bảo có được tỷ lệ trả lời tốt thì nó cũng tạo ra sự lặp đi lặp lại trong các chủ đề phỏng vấn. Điều này dẫn đến số liệu thu được từ nghiên cứu có thể không đạt được như mong muốn với các câu hỏi mở. Tuy nhiên nghiên cứu này sử dụng cách tiếp cận quy nạp với nhiều ý kiến, quan điểm, không quá phụ thuộc vào nhận thức của người được hỏi về bối cảnh, do vậy nó đã không làm ảnh hưởng nhiều tới kết quả phân tích. Thứ ba là, toàn bộ kết quả nghiên cứu định tính là được dịch ra chứ không phải là những lời nói nguyên bản ban đầu của người được phỏng vấn. Mặc dù bản dịch đã được tiêu chuẩn hoá tại tất cả các cuộc phỏng vấn (cả những cuộc phỏng vấn do cố vấn quốc tế thực hiện hầu hết thông qua phiên dịch), tuy nhiên có nguy cơ một số chi tiết bị mất đi trong quá trình dịch thuật. Song do sử dụng phương pháp tiếp cận quy nạp nên việc mất đi một số chi tiết như vậy không gây ra bất cứ khó khăn nào trong việc mã hoá và phân tích các dữ liệu định tính. Theo như Padgett đã nói, tính hiệu lực và độ tin cậy trong nghiên cứu được xác định qua ý nghĩa đã được đưa ra trước đó. Mặt khác nếu những 22
  39. Nghiên cứu nguồn Nhân lực và Nhu cầu Đào tạo cho Phát triển Công tác Xã hội ở Việt Nam kết quả này có nghĩa với lĩnh vực mà các nghiên cứu thực hiện (trong trường hợp này là những người liên quan tới lĩnh vực an sinh xã hội tại Việt Nam), thậm chí nếu các cá nhân không đồng tình với các quan điểm cụ thể này thì các dữ liệu và phân tích vẫn có giá trị đáng kể. Ngược với những nghiên cứu về định tính, điểm hai và ba gộp lại có nghĩa rằng việc sử dụng những đoạn trích dẫn sẽ có vấn đề nhiều hơn mong muốn. Điều này hỗ trợ cho việc các ý kiến tổng hợp lại từ hai nguồn dữ liệu khá thống nhất và cũng ăn khớp giữa các vùng khác nhau. Vì vậy, các đoạn trích dẫn ngắn gọn hơn có thể được sử dụng trong khi trình bày những kết quả tìm thấy được mà không hạn chế độ sâu của phần trình bày. Tóm tắt và kết luận: Các nhà cố vấn và các nhóm nghiên cứu làm việc cùng với nhau xây dựng các tiếp cận kết hợp nhiều phương pháp: tổng hợp tài liệu và cả nghiên cứu về định tính và định lượng. Mặc dù có một số hạn chế đã được xác định, các dữ liệu có được từ cuộc điều tra thiết thực và đã tạo nền tảng cho việc xem xét nhu cầu nhân lực và đào tạo trong công cuộc phát triển công tác xã hội chuyên nghiệp ở Việt Nam. 23
  40. Chương 3: Thực trạng của công tác xã hội tại Việt Nam - Những kết quả định lượng Chương 3: Thực trạng của công tác xã hội tại Việt Nam - Những kết quả định lượng Giới thiệu chung: Mục tiêu của đề án nghiên cứu này là đưa ra những khuyến nghị về nguồn nhân lực và những đề xuất về đào tạo nhằm phát triển công tác xã hội chuyên nghiệp ở Việt Nam. Để làm được điều này, điều cần thiết đầu tiên phải làm là xem xét lại những thông tin hiện có và đưa ra những ý kiến so sánh với công tác xã hội ở các nước trên thế giới . Phần này được trình bày trong chương 1. Việc cần làm tiếp theo là thu thập những dữ liệu về thực trạng của Việt Nam những gì đã và đang được thực hiện và những gì cần phải tiếp tục thực hiện. Chương này sẽ trình bày những kết quả điều tra định lượng và những kết quả phỏng vấn định tính đã được trình bày trong chương 4. Cấu trúc của bài trình bày này đi theo những câu hỏi trong bảng điều tra, nhưng ở một mức độ nào đó được chia theo chủ đề, vì thế ở một số chỗ các câu hỏi được nhóm lại để giải quyết một số vấn đề phức tạp. Thông tin cơ bản Sự phân bổ mẫu điều tra đã được nêu trong chương trước. Để có được bức tranh toàn diện về mẫu điều tra, những câu hỏi cơ bản về nhân khẩu học như tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp và nơi làm việc đã được đưa vào bảng câu hỏi. Về khía cạnh độ tuổi, trung vị độ tuổi trung bình của người làm công tác quản lý cao hơn người làm việc trực tiếp. Tuy nhiên, độ phân tán về độ tuổi của cán bộ làm việc trực tiếp rộng hơn, từ 22 tới 69 so với dải phân tán về tuổi của những người quản lý hay xây dựng chính sách là từ 22 đến 65 tuổi (một số nhà quản lý cấp cao thường không đưa ra thông tin này). Những số liệu này được thể hiện trong bảng 3.1. Bảng 3.1 – Chi tiết độ tuổi của mẫu Cán bộ quản lý Cán bộ làm việc trực tiếp Những câu trả lời 124 (145) 173 (184) hợp lệ 21 11 Trung vị 45.94 39.76 Khoảng xác định 43 47 Cực tiểu 22 22 Cực đại 65 69 24
  41. Nghiên cứu nguồn Nhân lực và Nhu cầu Đào tạo cho Phát triển Công tác Xã hội ở Việt Nam Những số liệu này cho thấy độ tuổi của cấp quản lý có xu hướng cao hơn một chút so với độ tuổi của cấp làm việc trực tiếp, và điều này không đáng ngạc nhiên. Tuy nhiên, khoảng xác định cũng cho thấy không có chiều hướng của sự hạn chế cơ hội cho các cá nhân vì số liệu chỉ ra có những cán bộ quản lý ở độ tuổi khá trẻ và cũng có những người làm việc trực tiếp độ tuổi cao hơn. Không có một sự khác biệt rõ rệt về độ tuổi giữa các tỉnh và thành phố. Đặc điểm tiếp theo về giới tính của người được hỏi thể hiện trong bảng 3.2 Bảng 3.2 - Cơ cấu mẫu điều tra phân theo giới tính (phần trong ngoặc là số %) Giới Cán bộ quản lý Cán bộ làm việc trực tiếp Tổng Nam 81(56) 81(44) 162(49) Nữ 64(44) 103(56) 167(51) Tổng 145(100) 184(100) 329(100) Bảng này đã chỉ ra nam giới giữ những vị trí quản lý nhiều hơn nữ giới, trong khi đó đối với những người làm trực tiếp thì ngược lại. Sự khác biệt này thì lớn hơn ở các tỉnh, với 60% cán bộ quản lý là nam giới; chỉ có ở Lạng Sơn là có phần đông là nam giới ở cả hai mức độ (53% mẫu của cán bộ làm việc trực tiếp là nam giới). Kết quả ở nhóm quản lý này phù hợp với những mô hình về giới tính ở một số nước và trong phạm vi tính chất của nghề nghiệp, tuy nhiên cũng có nhiều nam giới ở cấp độ thực hành trực tiếp hơn mong đợi (Hugman, 1991). Chức năng nghề nghiệp của những người được hỏi rất đa dạng. Những phần hỏi định tính đã đưa ra thông tin rất hữu hiệu, các câu trả lời đã được mã hoá theo cấp độ quản lý do người được hỏi xác định và được xắp xếp theo bậc thang. Trong cả hai bảng hỏi đối với cán bộ quản lý và cán bộ làm việc trực tiếp, kết quả cho thấy các bảng hỏi được những người giữ vị trí thấp hơn trả lời. Tuy nhiên, nếu muốn đọc thông tin này để tổng hợp chỉ có thể xem xét như là một chỉ số. Đồng thời, nếu cho trong điều kiện hình dáng thông thường của các bậc thang về tổ chức, thì mẫu này cũng không làm sai lệch nghiên cứu. Nhiều dữ liệu đáng tin cậy có sẵn để đưa ra sự phân bố của các cơ quan tổ chức đại diện trong mẫu. Nhắc lại, những con số này đã được cấu trúc lại sau khi các câu trả lời đã được mã hoá. Tuy nhiên, trong trường hợp này, những câu trả lời rất cụ thể và được mã hoá một cách chính xác mà không đòi hỏi sự giải thích. Những số liệu được trình bày trong bảng 3.3. Từ những số liệu này nó có thể thấy những người trả lời đến từ Bộ LĐTB-XH phần nhiều những cán 25
  42. Chương 3: Thực trạng của công tác xã hội tại Việt Nam - Những kết quả định lượng bộ làm việc trực tiếp, trong khi đó những người của Bộ GD&ĐT, Uỷ ban DSGĐ&TE, và Y tế, những người trả lời thường là cán bộ quản lý. Tuy vậy những sự khác biệt này không có ý nghĩa về mặt thống kê. Điều được chú ý là có gần một nửa tổng số mẫu là từ Bộ LĐTB-XH và phần còn lại là từ tất cả các lĩnh vực khác gộp lại. Bảng 3.3: Cơ cấu cơ quan trong mẫu điều tra (tỉ lệ phần trăm của cột ở trong ngoặc đơn - biến này được tính tròn số) Tổ chức Cấp độ quản lý Cấp độ thực hành Tổng Bộ LĐTB&XH 28 (19) 50 (27) 78 (24) Bộ Giáo dục 15 (10) 13 (7) 28 (9) &ĐT Uỷ ban 19 (13) 19 (10) 38 (12) DSGĐ&TE Tổ chức phi 9 (6) 14 (8) 23 (7) chính phủ Tổ chức xã hội 22 (15) 28 (15) 50 (15) Y tế 17 (12) 15 (8) 32 (10) Khác* 35 (24) 45 (25) 80 (24) Tổng 145 (99) 184 (100) 329 (101) (* Các tổ chức khác bao gồm cả những tổ chức tôn giáo và các tổ chức quy mô nhỏ cung cấp dịch vụ tại cộng đồng không được xếp vào tổ chức nào khác, cũng như với các cơ quan không đưa vào nơi nào như công an, toà án) Vì sự phân bố các tổ chức như vậy, cần chú ý làm thế nào để cho các mẫu đại diện về mặt thống kê. Trong khi những số liệu về cơ cấu giới tính, tuổi phần nào cho thấy những dữ liệu tích cực được chỉ ra dữ liệu nhân khẩu học theo dự đoán, thì có những cơ quan tổ chức có xu hướng đưa ra con số phản ánh bối cảnh cụ thể của nó hơn những tổ chức khác. Tuy vậy, vì Bộ LĐTB-XH là cơ quan tổ chức chính của nghiên cứu nên không có gì ngạc nhiên khi Bộ lại có đóng góp to lớn. Đây là mô hình một Bộ, dưới Bộ là các Sở có nhiệm vụ chính trong công tác bảo trợ xã hội và phòng chống tệ nạn xã hội (đã thảo luận ở phần chương I). Như vậy, điều này nói lên tính hợp lý của việc Bộ LĐ- TB&XH có nhiều đại diện hơn so với các tổ chức khác. Liên quan đến nhiều các nhu cầu những người được hỏi quan tâm, việc đưa vào các tổ chức tương đương bộ như Uỷ ban DSGĐ&TE và những tổ chức quần chúng như Hội Liên hiệp Phụ nữ hỗ trợ thêm quan điểm công tác chăm sóc và bảo vệ trẻ em là phổ biến nhất, và có thể thấy được trong bảng tiếp theo. Vì những lý do trên, các mẫu được đưa ra một cách rộng rãi xuyên suốt các lĩnh vực về an sinh xã hội ở Việt Nam để các dữ liệu hữu ích trong việc đánh giá thực trạng. 26
  43. Nghiên cứu nguồn Nhân lực và Nhu cầu Đào tạo cho Phát triển Công tác Xã hội ở Việt Nam Trong các tổ chức này, những người tham gia vào mẫu hỏi đảm nhận nhiều vị trí nhiệm vụ khác nhau liên quan đến các nhu cầu xã hội khác nhau. Cả hai bảng hỏi đều đề cập đến lĩnh vực công việc chính cần có trong tổ chức của họ. Bảng 3.4 trình bày sự phân bổ các lĩnh vực: Bảng 3.4: Lĩnh vực công tác của những mẫu được hỏi (% số người trả lời cho mỗi lĩnh vực được ghi trong ngoặc đơn) Lĩnh vực nhu Cán bộ quản lý Cán bộ làm việc trực Tổng cầu tiếp Chăm sóc và 105 (72) 91 (49) 196 bảo vệ trẻ em (60) Người khuyết 76 (52) 55 (30) 131 tật (40) Gia đình đổ 49 (34) 27 (15) 76 (23) vỡ Mại dâm 76 (52) 34 (18) 110 (33) Sức khoẻ tâm 49 (33) 17 (9) 66 (20) thần HIV/AIDS 82 (57) 53 (29) 135 (41) Lạm dụng 90 (62) 37 (20) 127 chất gây (39) nghiện Nghèo đói 78 (54) 51 (28) 129 (39) Người già cô 68 (47) 32 (17) 100 đơn (30) Khác 47 (32) 51 (28) 98 (30) Khi được hỏi về những lĩnh vực công việc, đã có tổng số 720 câu trả lời từ 145 người được hỏi ở cấp quản lý (trung ương, tỉnh và thành phố) và 448 từ 184 người được hỏi là cán bộ làm việc trực tiếp. Biến số này cũng cho ta thấy xu hướng những người ở cấp độ quản lý (thành phố và tỉnh) thường chịu trách nhiệm nhiều hơn cho việc thu xếp các chương trình dịch vụ, trong khi những người ở cấp độ trực tiếp lại tập trung vào những dịch vụ cụ thể ở phạm vi hẹp hơn nhiều. Tuy nhiên, những dữ liệu ở đây cho thấy nhiều người trả lời đang làm trong phạm vi hoạt động nhiều lĩnh vực nhu cầu. Chăm sóc và bảo vệ trẻ em là lĩnh vực rộng lớn nhất, tiếp theo là lĩnh vực người khuyết tật, HIV/AIDS, nghèo đói và lạm dụng ma tuý. Trong số những lĩnh vực được phân loại, lĩnh vực sức khoẻ tâm thần là ít được đề cập đến nhất, đặc biệt là ở cấp độ cán bộ làm việc trực tiếp. 27
  44. Chương 3: Thực trạng của công tác xã hội tại Việt Nam - Những kết quả định lượng Số lượng cán bộ hiện tại tự xác định mình đang làm “công tác xã hội” Một loạt những câu hỏi tiếp theo nhằm tìm kiếm thông tin về thực trạng số lượng, loại hình và trình độ của các cán bộ trong các cơ quan tổ chức được chọn trong mẫu điều tra. Những câu trả lời nhận được về tổng số người đang làm việc trong một tổ chức cho thấy những người trả lời hiểu về vấn đề này có khác nhau. Trong một số trường hợp, người trả lời nhận định nhu cầu cán bộ cho toàn ngành, do vậy họ đã đưa ra nhu cầu về cán bộ của một bộ hay ngành của họ. Còn những người khác lại đưa ra số lượng cán bộ cần có chỉ riêng cho đơn vị của họ, ví dụ ở một phòng cấp huyện hoặc cho một trung tâm bảo trợ xã hội. Vì vậy các số liệu đưa ra rất khác nhau từ một người đến tận 56.661 người. (Khi so sánh, nếu cộng số lượng cán bộ làm việc trong ngành lao động, thương binh và xã hội với những cán bộ và tình nguyện viên làm việc cho Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em thì con số lên tới trên 191.000 người làm việc trong lĩnh vực an sinh xã hội ở Việt Nam). Số người cho là đã qua các khoá đào đạo “công tác xã hội” thì nhỏ hơn. ở cấp độ quản lý, con số này thay đổi theo vị trí công việc, thể hiện ở bảng 3.5 Bảng 3.5: Số lượng cán bộ công tác xã hội được đào tạo đang làm việc ở các lĩnh vực khác nhau. Hà Nội Lạng Sơn TP. Hồ Đồng Tổng Chí Minh Tháp Tham 59 10 110 47 226 vấn Làm việc với cá 528 22 389 55 994 nhân và gia đình Phát triển cộng 377 24 130 27 558 đồng Quản lý chương 96 37 123 33 289 trình Chính sách xã 49 18 79 34 180 hội Nghiên cứu xã 47 2 12 20 81 hội Hành 133 18 86 12 249 chính Khác 217 31 8 25 281 28
  45. Nghiên cứu nguồn Nhân lực và Nhu cầu Đào tạo cho Phát triển Công tác Xã hội ở Việt Nam Trong số những người được hỏi ở cấp độ trực tiếp, chúng tôi thấy hầu hết họ mô tả đã được đào tạo công tác xã hội như được trình bày tại bảng 3.6 Bảng 3.6: Số cán bộ làm việc trực tiếp có qua đào tạo công tác xã hội (phần trong ngoặc là số phần trăm) Hà Nội Lạng Sơn TP. Hồ Chí Minh Đồng Tháp Tổng Có 38 (69) 15 (39) 40 (70) 17 (52) 110 (60) Không 17 (31) 23 (61) 17 (30) 16 (48) 73 (40) Nói cách khác, có 60% số người trong mẫu cho biết họ đã được đào tạo công tác xã hội. Nếu ghép lại với bảng 3.5 những con số này nêu ra một câu hỏi thú vị về định nghĩa "nhân viên xã hội được đào tạo". Cụ thể loại hình đào tạo cấp đại học về các lý thuyết và phương pháp công tác xã hội được đánh giá là tiêu chuẩn trong đào tạo công tác xã hội ở cấp quốc tế (IFSW/IASSW, 2004) chỉ mới được bắt đầu ở Việt Nam gần đây (theo chương trình khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo). Do vậy, cần thiết phải tìm hiểu cả hình thức đào tạo để có thể hiểu được thực chất của việc đào tạo được đề cập trong các câu trả lời. Những con số do cán bộ quản lý cung cấp được đưa ra ở bảng 3.7 Bảng 3.7: Trả lời của cấp quản lý về các loại hình đào tạo, phân theo tỷ trọng những người cho là “được đào tạo về công tác xã hội” Hà Nội Lạng TP. Hồ Chí Đồng Tổng Sơn Minh Tháp Đào tạo ngắn 21.69 57.14 35.71 12.86 25.49 hạn Trung 37.35 14.29 21.43 85.71 39.22 cấp Cao 12.05 14.29 10.71 0.00 13.73 đẳng Cử 24.10 14.29 17.86 1.43 15.69 nhân Cần đưa ra một số giải thích cho những con số này, đặc biệt là ý nghĩa của đào tạo công tác xã hội được người hỏi sử dụng. Điều này được giải quyết trong phần số liệu định tính (xem trong Chương 4), ở đó ghi nhận thuật ngữ công tác xã hội được sử dụng cho cả những người có bằng công tác xã hội chuyên nghiệp và những người khác làm việc trong lĩnh vực an sinh xã hội đã được đào tạo qua lớp học sử dụng các lý thuyết và phương pháp công tác xã hội. 29
  46. Chương 3: Thực trạng của công tác xã hội tại Việt Nam - Những kết quả định lượng Điểm này được khẳng định lại bởi thông tin cho rằng nhiều người làm CTXH có bằng về các lĩnh vực khác bao gồm cả y tế, điều dưỡng, sư phạm, luật, xã hội học, kế toán và thậm chí còn gồm cả nông nghiệp. Do vậy, chúng ta có thể thấy rằng đại bộ phận những người có trình độ cử nhân không phải là cử nhân công tác xã hội. Điều này thấy rõ hơn trong dữ liệu thu được ở cấp cán bộ làm việc trực tiếp. Bảng 3.8 trình bày những số liệu tự báo cáo về hình thức đào tạo của những người trả lời họ được “đào tạo công tác xã hội” (30 người đã không trả lời trong câu hỏi này). Bảng 3.8 Loại hình đào tạo công tác xã hội của những người được hỏi ở cấp độ trực tiếp (phần ở trong ngoặc đơn thể hiện %- biến số được làm tròn đến 100). Loại Hà Nội Lạng Sơn TP. Hồ Chí Minh Đồng Tháp Tổng Chứng chỉ 25 (76) 8 (80) 9 (36) 7 (58) 49 (61) Sơ cấp 1 (3) 0 (0) 1 (4) 0 (0) 2 (3) Trung học 5 (15) 0 (0) 0 (0) 2 (17) 7 (9) Cao đẳng 2 (6) 1 (10) 1 (4) 1 (8) 5 (6) Cử nhân 0 (0) 1 (10) 14 (56) 1 (8) 16 (20) 33 Tổng (100) 10 (100) 25 (100) 12 (100) 80 (100) Những con số này không thống nhất với số liệu độc lập về số lượng những người hiện tại có bằng công tác xã hội ở cấp đại học được quốc tế công nhận, chỉ có 9 ở miền bắc và 31 ở miền nam. Điều đó cho thấy, trừ ở Thành phố Hồ Chí Minh (nơi các khoá công tác xã hội được mở ở Khoa Phụ nữ học tại Đại học Mở bán công được một số năm trước đây), hầu hết “đào tạo công tác xã hội” ở Việt Nam hiện nay chỉ là các khoá học ngắn hạn cấp chứng chỉ. Những kết quả này đã đưa ra hai điểm quan trọng. Thứ nhất, cần phải xác định một cách rõ ràng hơn thế nào là đào tạo về công tác xã hội và tiếp theo ai là nhân viên xã hội. Biến số giữa hai loại dữ liệu này có thể giải thích hoàn toàn là do những cách hiểu khác nhau. Thứ hai, mặc dù có thể những cán bộ quản lý trong các cơ quan nói rằng họ đã có cán bộ được đào tạo là đúng, nhưng bản chất của đào tạo này cho thấy cần tiếp tục nhấn mạnh hơn đến việc đào tạo chuyên nghiệp (ở cấp đại học) về công tác xã hội ở Việt Nam. 30
  47. Nghiên cứu nguồn Nhân lực và Nhu cầu Đào tạo cho Phát triển Công tác Xã hội ở Việt Nam Độ tin cậy của những kết quả này được khẳng định hơn nữa trong phần tự trả lời về học vấn cao nhất có được của những cán bộ làm việc trực tiếp. Những số liệu được đưa ra ở bảng 3.9. Như đã được trình bày, sự phổ biến của trình độ chuyên môn cấp đại học không liên quan gì đến các cấp độ đào tạo công tác xã hội, nhưng nó lại có những gợi ý về các loại hình đào tạo có thể cung cấp trong tương lai. Bảng 3.9 Trình độ học vấn cao nhất của người được hỏi ở cấp độ trực tiếp (phần trăm của cột ở trong ngoặc đơn – biến số làm tròn 100) Trình độ Hà Nội Lạng Sơn TP. Hồ Chí Minh Đồng Tháp Tổng Chưa tốt nghiệp phổ 0 (0) 0 (0) 3 (5) 1 (3) 4 (2) thông Phổ thông 21 (11) Trung học 0 (0) 4 (11) 11 (19) 6 (18) Trung học 31 (17) chuyên nghiệp 8 (14) 11 (29) 3 (5) 9 (27) Cao đẳng 4 (7) 7 (18) 3 (5) 3 (9) 17 (9) 43 105 (57) Đại học (77) 16 (42) 34 (60) 12 (36) Thạc sỹ 1 (1) 0 (0) 3 (5) 2 (6) 6 (3) Tiến sĩ 0 (0) 0 (0) 0 (0) 0 (0) 0 (0) 56 38 184 (99) Tổng (100) (100) 57 (99) 33 (99) Với mẫu trình bày, ít nhất cho thấy có những nhân viên có kinh nghiệm có thể được đào tạo nâng cao năng lực chuyên môn ở cấp đại học để họ đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực về công tác xã hội chuyên nghiệp. Thêm nữa, tỷ trọng những cán bộ hiện nay có bằng cấp trên đại học (thạc sỹ và tiến sỹ) ở tất cả các ngành trong tất cả các tổ chức (không chỉ là những người trong mẫu) ước tính vào khoảng 20% với 12% thạc sỹ và 8 % tiến sỹ. Vì thế mong muốn có tỷ lệ tương tự những người có bằng cấp cao về công tác xã hội là rất cần khi nghề này phát triển. Nếu yêu cầu đảm bảo các giảng viên đại học về công tác xã hội phải có bằng thạc sỹ được ghi nhận, thì rõ ràng rằng cần phải phát triển đào tạo ở nhiều cấp độ khác nhau (điểm này sẽ được làm rõ ở những thảo luận và kết luận tiếp theo). 31
  48. Chương 3: Thực trạng của công tác xã hội tại Việt Nam - Những kết quả định lượng Cần có bao nhiêu nhân viên xã hội ở Việt Nam? Lập kế hoạch nguồn nhân lực đòi hỏi phải xác định nhu cầu về những kiến thức và kỹ năng mong muốn, cùng với đó là các loại hình đào tạo cần thiết. Do đó, bảng hỏi cho những người ở cấp độ quản lý bao gồm cả những câu hỏi về các vị trí công việc tuyển dụng nhân viên xã hội, những loại hình, cấp độ đào tạo và số lượng nhân viên xã hội cần được đào tạo, cũng như nhu cầu tuyển dụng nhân viên xã hội nếu như có đủ nguồn nhân lực. Thứ nhất, có sự nhất trí cao về việc cần được đào tạo cho tất cả cán bộ đang làm việc trong các lĩnh vực được liệt kê trong bảng hỏi, bao gồm: Chăm sóc và bảo vệ trẻ em, người khuyết tật, hôn nhân và gia đình, mại dâm, sức khoẻ tâm thần, HIV/AIDS, lạm dụng chất gây nghiện, nghèo đói, người già cô đơn. Thực tế, mặc dù lĩnh vực chăm sóc và bảo vệ trẻ em được trên một nửa người tham gia nhắc đến (số lượng=96; 66%) nhưng những lĩnh vực khác những người tham gia cũng thống nhất từ 33 đến 46%. Vì thế có thể nhận ra nhu cầu cho công tác xã hội trong các lĩnh vực của an sinh xã hội là lớn. Thứ hai, về loại hình và cấp bậc đào tạo, quan điểm được người tham gia cho rằng hình thức đào tạo tại chức cần thiết (n=78; 53%). Số ít người trả lời rằng nên đào tạo chính quy (tập trung) (n=46; 33%). Các cấp đào tạo dưới những hình thức trên cũng cần cung cấp, tuy nhiên, rất khác nhau. Có khá nhiều người đưa ra ý kiến đào tạo cần được thực hiện ở cả hai cấp Trung học chuyên nghiệp và Cao đẳng, Đại học (như chương trình khung mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xác định tất cả các chương trình cho các trường đại học, quan điểm này phản ảnh thực tế trong quá khứ). Tuy nhiên, những số đó cũng chỉ ra rằng nhu cầu về số lượng những cơ sở đào tạo ở cấp Trung học chuyên nghiệp/ Trung cấp lớn hơn ở cấp Cao đẳng/ Đại học. Điều này dẫn đến một điểm rất quan trọng mô tả tổng quan lực lượng làm công tác an sinh xã hội, vấn đề này sẽ được bàn chi tiết hơn ở những chương sau. Thứ ba, đối với câu hỏi sẽ tuyển dụng bao nhiêu nhân viên xã hội nếu lực lượng này có đủ, những người trả lời chủ yếu tập trung ở trong khối ngành của họ. Kết luận này có được khi xem xét trung vị mà trong mỗi trường hợp chỉ có một hoặc hai, với khoảng phân vị 95 % xảy ra ở nhóm dưới mức cao nhất của miền xác định (nói theo cách khác sự phân bổ lệch nhiều về phần thấp hơn của miền xác định trong hầu hết các trường hợp). Những con số này được biểu diễn ở bảng 3.10. Với những câu hỏi trong bảng hỏi tập trung vào các phương pháp thực hành, những câu trả lời được phân bổ đều hơn những kết quả có thể được dự báo trước (xem bảng 3.5). Giá trị danh nghĩa của số liệu này gợi mở việc cần tuyển dụng một số lượng lớn những nhân viên xã hội thực hiện các 32