Đề tài Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để giải quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may

doc 58 trang hapham 250
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để giải quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docde_tai_co_che_giai_quyet_tranh_chap_cua_wto_de_giai_quyet_tr.doc

Nội dung text: Đề tài Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để giải quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may

  1. i CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THƯƠNG MẠI HÀNG DỆT MAY
  2. ii TÓM TẮT CÔNG TRÌNH Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào ngày 11/01/2007. Gia nhập WTO, một trong những thuận lợi đầu tiên được kể đến là việc Việt Nam sẽ được sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để bảo vệ lợi ích cho quốc gia mình. Điều này còn có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với dệt may, mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đang có nguy cơ bị kiện bán phá giá. Hơn nữa, kể từ ngày 01/01/2005, khi chế độ hạn ngạch hết hiệu lực, dệt may trở thành một mặt hàng thông thường thuộc khuôn khổ pháp lý chung của WTO mà cụ thể là tuân theo các quy định chung của GATT năm 1994. Theo đó, khi xảy ra tranh chấp trong thương mại hàng dệt may giữa các nước thành viên WTO, việc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO là có tính bắt buộc. Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO được xây dựng dựa trên nền tảng cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT năm 1947. Trong thời gian tồn tại hơn 47 năm, cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT được đánh giá là đã có nhiều đóng góp to lớn trong việc giải quyết tranh chấp giữa các nước tham gia GATT. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của thương mại thế giới, cơ chế này cũng bộc lộ nhiều điểm bất cập; ví dụ như: việc sử dụng nguyên tắc đồng thuận thuận (consensus) để thông qua các quyết định hay việc giải quyết tranh chấp chỉ được xét xử ở một cấp là Ban Hội thẩm, Ngày 01/01/1995, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO ra đời đã loại bỏ nhiều bất cập trong cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT. Ngay từ khi bắt đầu hoạt động, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đã chứng tỏ được tầm quan trọng cũng như những ưu điểm hơn hẳn cơ chế của GATT, như là: việc sử dụng nguyên tắc đồng thuận nghịch (negative consensus) để ra quyết định, quy định hoàn thiện hơn về cơ quan giải quyết tranh chấp với sự xuất hiện của Cơ quan Phúc thẩm, hay những quy định thuận lợi dành riêng cho các nước đang và kém phát triển, Mặc dù còn một số hạn chế nhưng có thể nói cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hiệu quả hơn và công bằng hơn so với cơ chế của GATT. Trên thực tế, các nước thành viên WTO thường xuyên phải sử dụng cơ chế này và tuân theo phán quyết được đưa ra. Theo số liệu mới cập nhật, đến tháng 07/2007 đã có 366 vụ tranh chấp giữa các nước thành viên được giải quyết theo cơ chế của WTO, trong đó có 19 1 vụ tranh chấp liên quan đến thương mại hàng dệt may. Từ việc phân tích những điểm mạnh và điểm yếu của cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, nhóm nghiên cứu đi sâu vào việc phân tích kinh nghiệm thực tế vận 1
  3. iii dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO trong thương mại hàng dệt may của một số nước đang phát triển trên thế giới, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Khi lựa chọn một số nước đang phát triển để phân tích, nhóm nghiên cứu đã lựa chọn Trung Quốc -nước láng giềng có nhiều đặc điểm tương đồng với Việt Nam-, Ấn Độ và Pakistan -hai nước đang phát triển có thế mạnh trong việc xuất khẩu hàng dệt may. Hiện nay, Trung Quốc là nước có kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất trên thế giới. Với tốc độ phát triển mạnh mẽ, sau khi chế độ hạn ngạch MFA hết hiệu lực, dệt may của Trung Quốc được dự báo sẽ là một mối đe doạ lớn đối với ngành dệt may của nhiều nước trên thế giới và có thể phải đối mặt với rất nhiều tranh chấp trong tương lai. Trong thời điểm hiện tại, theo thống kê trong WTO, Trung Quốc mới chỉ tham gia vào hai2 vụ tranh chấp về thương mại hàng dệt may và đều với tư cách là bên thứ ba, điển hình là trong vụ kiện: Ấn Độ kiện Mỹ về quy tắc xuất xứ hàng dệt may. Mặc dù vậy, Trung Quốc cũng đã đạt được những lợi ích về mặt tăng cường nắm bắt luật pháp của WTO cũng như tăng khả năng phân tích, lập luận và nói lên tiếng nói của mình. Điều này cũng góp phần xây dựng hình ảnh và khẳng định vị trí của Trung Quốc trên trường quốc tế. Kinh nghiệm tham gia với tư cách là bên thứ ba có thể sẽ là một bài học hữu ích cho Việt Nam khi phải đối mặt với những tranh chấp về thương mại hàng dệt may trong tương lai. Với đặc điểm là một nước đang phát triển và cũng là một nước ở Châu Á, dệt may Pakistan có nhiều đặc điểm tương đối giống dệt may của Việt Nam. Do đó, việc phân tích vụ kiện điển hình: chế độ hạn ngạch đối với sợi cotton chải kỹ nhập khẩu từ Pakistan vào Mỹ, sẽ đem lại nhiều bài học kinh nghiệm bổ ích cho dệt may Việt Nam khi vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Mặc dù đây là lần đầu tiên Pakistan sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để bảo vệ quyền lợi của mình trong thương mại hàng dệt may và gặp phải không ít khó khăn, nhưng cuối cùng nước này đã đạt được một phán quyết có lợi cho mình. Thành công của Pakistan có được phần lớn là do sự quyết tâm và sự phối hợp chặt chẽ giữa chính phủ, cơ quan nhà nước là Bộ Thương mại, Hiệp hội các nhà sản xuất dệt may và cộng đồng doanh nghiệp Pakistan. Sau vụ kiện này, Pakistan cũng rút ra kinh nghiệm là phải đặc biệt chú ý đến công tác đào tạo đội ngũ, nguồn nhân lực chuyên sâu về pháp luật thương mại quốc tế. Bên cạnh đó một kinh nghiệm quan trọng nữa là phải biết chấp nhận hy sinh để tạo ra một tiền lệ tích cực hướng về tự do và bình đẳng trong thương mại quốc tế. Có thể nói, Ấn Độ là một trong những nước tích cực sử dụng cơ chế giải quyết của tranh chấp WTO, với 19 lần khởi kiện, 17 lần làm bị đơn và tới 49 lần tham gia với tư cách bên thứ ba trong các vụ tranh chấp 3. Riêng trong lĩnh vực hàng dệt may, Ấn độ đã khởi kiện đến 6 lần4 (trong tổng số 19 vụ tranh chấp) mà tiêu biểu là vụ kiện: 2 3
  4. iv Cộng đồng Châu Âu về thuế chống bán phá giá với ga và vỏ gối cotton nhập khẩu từ Ấn Độ. Trong suốt quá trình diễn ra vụ kiện, các chuyên gia pháp lý của Ấn Độ theo dõi các tình tiết rất sát sao, đưa ra những lập luận hợp lý, sắc bén và không lúc nào chịu “thua thiệt” trước EC. Điều đó chứng tỏ Ấn Độ có một nguồn nhân lực có trình độ cao về pháp luật thương mại quốc tế, đặc biệt là pháp luật của WTO. Với nền tảng như vậy, và với quyết tâm theo đuổi vụ kiện đến cùng bằng việc tin vào lập luận và sự hiểu biết của mình, Ấn Độ đã thuyết phục được cả Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm. Trên thực tế, EC đã chấp nhận phán quyết cuối cùng của Cơ quan Phúc thẩm, nhưng họ lại không thực hiện đầy đủ các đề xuất mà bản báo cáo đưa ra. Mặc dù vụ kiện chỉ thắng lợi về mặt danh nghĩa, Ấn Độ vẫn quyết tâm theo đến cùng, quyết tâm giữ vững vị thế của nước mình trong thương mại quốc tế nói chung và thương mại hàng dệt may nói riêng. Trên cơ sở những bài học kinh nghiệm thực tế rút ra cho Việt Nam thông qua các vụ tranh chấp điển hình của các nước xuất khẩu dệt may hàng đầu thế giới và từ phân tích thực tế thương mại hàng dệt may tại Việt Nam, đề tài đề xuất những giải pháp để Việt Nam vận dụng thành công cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO trong giải quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may. Theo đó, những đề xuất với cơ quan quản lý Nhà nước bao gồm: tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực chuyên sâu về thương mại quốc tế nói chung và pháp luật của WTO nói riêng; thành lập bộ phận chuyên trách để đặc biệt theo dõi tiến trình về giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế nói chung và thương mại hàng dệt may nói riêng. Về phía Hiệp hội dệt may, giải pháp đề ra là cần nâng cao hiệu quả hoạt động và vai trò đầu mối liên kết giữa các doanh nghiệp cũng như giữa doanh nghiệp với chính phủ; sẵn sàng hỗ trợ doanh nghiệp ứng phó với các vụ kiện liên quan đến thương mại hàng dệt may. Bên cạnh đó Hiệp hội cũng cần thành lập một bộ phận chuyên trách về giải quyết tranh chấp kết hợp với bộ phận chuyên trách của Bộ Công Thương. Các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may trong nước cần phải nâng cao nhận thức về pháp luật thương mại quốc tế nói chung và cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO nói riêng; đồng thời phải tăng cường liên kết với các doanh nghiệp khác trong việc chủ động đối phó với tranh chấp có thể xảy ra. Ngoài ra, việc tham gia vụ kiện với tư cách bên thứ 3 cũng là một giải pháp khác được khuyến khích sử dụng trong thời gian tới; cùng với nó, công tác vận động hành lang (lobby) và quan hệ công chúng (public relations) cũng cần được đẩy mạnh như là một thứ công cụ đắc lực để bảo vệ lợi ích quốc gia trong các vụ tranh chấp. 4
  5. v NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI CHỮ VIẾT TẮT Tên tiếng Anh Tên tiếng Việt ADA Anti-dumping Agreement Hiệp định chống bán phá giá của WTO ATC Agreement on Textiles and Clothing Hiệp định hàng Dệt may Cơ quan giải quyết tranh chấp của DSB Dispute Settlement Body WTO Thoả thuận về các Quy tắc và Thủ tục DSU Dispute Settlement Understanding điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp Genenral Agreement on Tariffs and Hiệp định chung về Thuế quan và GATT Trade Thương mại Long Term Arrangement regarding Hiệp định dài hạn về Thương mại quốc LTA International Trade in Cotton tế Bông sợi textiles MFA Multifibre Arrangement Hiệp định hàng Đa sợi MFN Most Favoured Nation Quy chế tối huệ quốc Quy chế quan hệ thương mại bình PNTR Permanent Normal Trade Relations thường vĩnh viễn Hiệp định về Quy tắc Xuất xứ của RO Rules of Origin Agreement WTO Short Term Arrangement regarding Hiệp định ngắn hạn về Thương mại STA International Trade in Cotton quốc tế Bông sợi textiles TMB Textiles Monitoring Body Cơ quan giám sát hàng dệt WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới
  6. vi MỤC LỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI iv LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: SỰ CẦN THIẾT PHẢI VẬN DỤNG CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THƯƠNG MẠI HÀNG DỆT MAY 3 I. Tổng quan về cơ chế giải quyết tranh chấp của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) 3 1. Từ cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT đến cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO 3 1.1. Những bất cập trong cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT 3 1.2. Sự cần thiết phải xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO 5 2. Những điểm mạnh và những hạn chế trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO 6 2.1. Những điểm mạnh 6 2.2. Những hạn chế 10 II. Vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO trong giải quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may 12 1. Các tranh chấp về thương mại hàng dệt may trong phạm vi của WTO 12 1.1. Đặc điểm về hàng dệt may và thương mại hàng dệt may 12 1.2. WTO và thương mại hàng dệt may 13 1.3. Đặc điểm của các tranh chấp liên quan đến thương mại hàng dệt may trong khuôn khổ WTO 14 2. Các quy định trong Hiệp định ATC về giải quyết tranh chấp liên quan đến thương mại hàng dệt may 15 2.1. Hiệp định ATC 15 2.2. Giải quyết tranh chấp theo quy định của Hiệp định ATC 16 3. Vì sao phải vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO trong giải quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may? 17 3.1. Vì Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO 17 3.2. Vì tranh chấp về hàng dệt may đã nằm trong phạm vi điều chỉnh của WTO 17 3.3. Vì cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO góp phần tích cực trong việc thiết lập một trật tự kinh tế quốc tế dựa trên tự do hoá thương mại và sự bình đẳng giữa các nước giàu và các nước nghèo 17 CHƯƠNG 2: TÌM HIỂU KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN TRONG VIỆC VẬN DỤNG CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THƯƠNG MẠI HÀNG DỆT MAY VÀ RÚT RA BÀI HỌC CHO VIỆT NAM 19 I. Kinh nghiệm của Trung Quốc 19 1. Nhận xét chung về thương mại hàng dệt may của Trung Quốc 19
  7. vii 2. Vụ kiện: Ấn Độ kiện Mỹ về quy tắc xuất xứ hàng dệt may và sự tham gia của Trung Quốc 20 2.1. Tóm tắt vụ kiện 20 2.2. Tiến trình vụ kiện 20 3. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 22 II. Kinh nghiệm của Pakistan 23 1. Nhận xét chung về thương mại hàng dệt may của Pakistan 24 2. Vụ kiện: chế độ hạn ngạch đối với sợi cotton chải kỹ nhập khẩu từ Pakistan vào Mỹ và sự vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO từ phía Pakistan 25 2.1. Tóm tắt vụ kiện 25 2.2. Diễn biến 25 2.3. Giai đoạn xem xét tại Cơ quan giám sát dệt may 25 2.4. Giai đoạn đưa vụ kiện lên giải quyết tại Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO 26 3. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 28 III. Kinh nghiệm của Ấn Độ 30 1. Nhận xét chung về thương mại hàng dệt may của Ấn Độ 31 2. Vụ kiện: “Cộng đồng Châu Âu - Thuế chống bán phá giá với ga trải giường và vỏ gối cotton nhập khẩu từ Ấn Độ” và sự vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO từ phía Ấn Độ 32 2.1. Tóm tắt vụ kiện 32 2.2. Diễn biến 32 2.3. Tiến trình vụ kiện khi đưa lên Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO 33 2.4. Hậu phán quyết của Cơ quan Phúc thẩm 34 3. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 34 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỂ VIỆT NAM VẬN DỤNG THÀNH CÔNG CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THƯƠNG MẠI HÀNG DỆT MAY 37 I. Dự báo khả năng phát sinh tranh chấp về thương mại hàng dệt may liên quan đến Việt Nam sau khi gia nhập WTO 37 1. Cơ sở để dự báo 37 1.1. Vai trò của ngành dệt may đối với nền kinh tế Việt Nam 37 1.2. Vị trí thương mại hàng dệt may Việt Nam trên thế giới 37 1.3. Thách thức đối với dệt may Việt Nam hậu WTO 38 2. Khả năng phát sinh tranh chấp về hàng dệt may 40 II. Một số kiến nghị cụ thể 40 1. Đối với Nhà nước 40 1.1. Tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực chuyên sâu về pháp luật thương mại quốc tế nói chung và pháp luật của WTO nói riêng 40
  8. viii 1.2. Thành lập bộ phận chuyên trách để đặc biệt theo dõi tiến trình về giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế nói chung và thương mại hàng dệt may nói riêng 42 2. Đối với Hiệp hội ngành Dệt may 43 2.1. Hiệp hội dệt may cần nâng cao hiệu quả hoạt động và vai trò đầu mối liên kết giữa các doanh nghiệp cũng như giữa doanh nghiệp với chính phủ 43 2.2. Hiệp hội dệt may cần tăng cường hơn nữa trong việc hỗ trợ doanh nghiệp ứng phó với các vụ kiện liên quan đến thương mại hàng dệt may 45 2.3. Hiệp hội dệt may cần thành lập một bộ phận chuyên trách về giải quyết tranh chấp kết hợp với bộ phận chuyên trách của Bộ Công Thương 46 3. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu dệt may 46 3.1. Nâng cao nhận thức về pháp luật thương mại quốc tế nói chung và cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO nói riêng 46 3.2. Tăng cường liên kết với các doanh nghiệp khác trong việc chủ động đối phó với các tranh chấp có thể xảy ra 47 4. Các giải pháp khác 48 4.1. Tham gia vào vụ kiện với tư cách bên thứ ba 48 4.2. Thúc đẩy công tác vận động hành lang (lobby) và quan hệ công chúng (public relations) 49 KẾT LUẬN 50 CÁC PHỤ LỤC (được xếp số trang riêng và được đánh ở bên dưới của trang) Phụ lục số 1: Thỏa thuận về quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp (DSU) 2 Phụ lục số 2: Trích dẫn một số điều của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại năm 1947 31 Phụ lục số 3: Trích dẫn một số điều của Hiệp định về Quy tắc xuất xứ 33 Phụ lục số 4: Hiệp định hàng Dệt may 35 Phụ lục số 5: Trích dẫn một số điều của Hiệp định chống bán phá giá 50 Phụ lục số 6: Sơ đồ quy trình giải quyết tranh chấp 64 Phụ lục số 7: Cơ cấu tổ chức của Tổ chức Thương mại Thế giới 65 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 66
  9. 1 LỜI NÓI ĐẦU 1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài Ngày 11/01/2007 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Gia nhập WTO, Việt Nam buộc phải tuân theo “luật chơi chung” của WTO, cụ thể phải thực hiện các cam kết trong các hiệp định đa biên, trong đó có Hiệp định hàng Dệt may (ATC) và cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO được đánh giá là có nhiều ưu việt hơn so với cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT trước đây. Và việc vận dụng thành công cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO sẽ mang lại nhiều lợi ích cho Việt Nam trong trường hợp có sự vi phạm từ phía các thành viên khác, cũng như trong việc tự bảo vệ mình khi bị các nước khác khiếu kiện. Tuy nhiên, đối với những nước đang phát triển như Việt Nam, việc vận dụng thành công cơ chế này cũng là một thách thức lớn. Điều này đòi hỏi cần phải có sự nghiên cứu đầy đủ, cụ thể hơn cả trên lý thuyết cũng như việc giải quyết tranh chấp trong thực tế. Ngoài ra, nghiên cứu việc vận dụng cơ chế này còn đặc biệt quan trọng trong thương mại hàng dệt may, một mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Xuất khẩu hàng dệt may là nguồn thu ngoại tệ quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam, với kim ngạch trên 5,8 tỷ đôla5 vào năm 2006. Ngay khi Việt Nam vừa gia nhập WTO, nhiều thành viên khác của WTO như EU, Mỹ, cũng đang tìm những sơ hở của những doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Việt Nam để kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp, Trong hoàn cảnh như vậy, việc tìm hiểu kỹ để vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO vào giải quyết các tranh chấp về thương mại hàng dệt may là rất cần thiết. Với tất cả những lý do trên, nhóm nghiên cứu đã lựa chọn vấn đề “Vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đối với Việt Nam trong việc giải quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may” làm đề tài nghiên cứu khoa học cho công trình tham dự cuộc thi “Sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2007” do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích những điểm mạnh, yếu của cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và tìm hiểu kinh nghiệm của một số nước đang phát triển trong việc vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO khi giải quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may, đề tài đề xuất giải pháp để Việt Nam vận dụng thành công cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO trong giải quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may có thể sẽ xảy ra giữa Việt Nam với các nước thành viên khác của WTO trong thời gian tới. 5 Tổng cục Hải quan: Báo cáo thống kê hàng hoá xuất khẩu, ngày 28/01/2007, của Cục công nghệ thông tin & Thống kê Hải quan.
  10. 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của WTO liên quan đến cơ chế giải quyết tranh chấp và việc giải quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may trong khuôn khổ của WTO. Đối tượng nghiên cứu của đề tài còn bao gồm cả các quy định của Việt Nam, của WTO về xuất khẩu hàng dệt may và kinh nghiệm của một số nước trong việc giải quyết tranh chấp liên quan đến thương mại hàng dệt may thuộc khuôn khổ của WTO. 3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Trong khuôn khổ của một đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học, do hạn chế về thời gian và cả về thời lượng, đề tài không có tham vọng phân tích mọi vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu. Vì vậy, phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn ở phân tích về việc giải quyết tranh chấp liên quan đến thương mại hàng dệt may trong khuôn khổ của WTO. Khi lựa chọn một số nước đang phát triển để phân tích, nhóm nghiên cứu cũng giới hạn sự lựa chọn chỉ ở ba nước là Trung Quốc – một nước Châu Á nhưng cũng là nước láng giềng có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam và Ấn Độ, Pakistan – hai nước cũng ở Châu Á, tuy có nhiều điểm khác biệt với Việt Nam nhưng cũng là hai nước có thế mạnh trong việc xuất khẩu hàng dệt may. Ba nước Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan đã gia nhập WTO trước Việt Nam và cũng đã theo đuổi các vụ kiện về thương mại hàng dệt may trong khuôn khổ của WTO. 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài áp dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp như: phân tích, thống kê, hệ thống hoá và luận giải. Phương pháp so sánh luật học cũng được áp dụng để nêu bật những điểm mạnh trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO so với cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT cũng như làm rõ những vị trí khác nhau của ba nước Trung Quốc, Ấn Độ và Pakistan khi những nước này tham gia vào quá trình tố tụng tại WTO. 5. Kết cấu của đề tài Ngoài phần lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục, nội dung của đề tài được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Sự cần thiết phải vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để giải quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may. Chương 2: Tìm hiểu kinh nghiệm của một số nước đang phát triển trong việc vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để giải quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may và rút ra bài học cho Việt Nam. Chương 3: Một số kiến nghị để Việt Nam vận dụng thành công cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO trong giải quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may.
  11. 3 CHƯƠNG 1: SỰ CẦN THIẾT PHẢI VẬN DỤNG CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THƯƠNG MẠI HÀNG DỆT MAY I. Tổng quan về cơ chế giải quyết tranh chấp của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) 1. Từ cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT đến cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hình thành cùng với sự ra đời của WTO. Khi nghiên cứu sự ra đời của WTO, một thực tế đương nhiên được thừa nhận là WTO ra đời trên cơ sở kế thừa GATT, trong đó có sự kế thừa những thành tựu mà GATT đã có được trong hơn 47 năm tồn tại (1947-1995), trong đó có sự kế thừa cả cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT. Vì vậy, nghiên cứu cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO không thể không điểm qua, dù ở mức khái quát nhất, cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT. 1.1. Những bất cập trong cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/1948. Cùng với sự ra đời của GATT, cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước tham gia GATT cũng được xây dựng. Hoạt động trong hơn 47 năm, cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT được đánh giá là có nhiều đóng góp to lớn trong việc giải quyết tranh chấp giữa các nước tham gia GATT. Về điều này, ông Ernst- Ulrich Petersmann6, một trong những chuyên gia hàng đầu thế giới về GATT/WTO đã có nhận xét như sau "cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT có tầm quan trọng sống còn đối với việc duy trì một hệ thống thương mại quốc tế mở cửa, bởi vì cơ chế đó không chỉ đơn thuần giải quyết êm thấm các tranh chấp mà nó còn là công cụ bảo đảm sự tin cậy về mặt pháp lý đối với các cam kết của các chính phủ, và quan trọng hơn cả đó là một vũ khí dùng để răn đe những nước chủ trương chính sách ngoại giao thương mại dựa trên sức mạnh". Tuy nhiên cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT cũng thể hiện nhiều điểm bất cập. Những bất cập đó là: Thứ nhất, theo cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT các quyết định được thông qua dựa trên nguyên tắc đồng thuận thuận (consensus). Đồng thuận thuận có nghĩa là không có sự phản đối từ bất kỳ bên ký kết nào đối với quyết định được đưa ra. Theo nguyên tắc này, Ban Hội thẩm chỉ được thành lập và báo cáo của Ban Hội thẩm chỉ được thông qua khi có sự nhất trí của tất cả các thành viên trong Hội đồng GATT. Về lý thuyết, nguyên tắc này có ưu điểm là khuyến khích tất cả các bên tham gia tìm ra được một quyết định khả dĩ nhất mà tất cả đều có thể chấp nhận. Nhưng nhược điểm của nó lại là tốn thời gian và nguồn lực để có được một quyết định đồng thuận, bởi vì 6 Ông Ernst-Ulrich Petersmann là giáo sư môn Luật của trường Đại học Geneva và Học viện nghiên cứu quốc tế Geneva, Thuỵ Sỹ. Ông trở thành chuyên gia tư vấn pháp lý của GATT/WTO từ năm 1981. Cho đến nay, ông đã xuất bản 14 cuốn sách và hơn 100 bài báo viết về Luật quốc tế, Luật Cộng đồng Châu Âu và Quan hệ kinh tế quốc tế
  12. 4 bất kỳ bên nào cũng có thể ngăn cản việc thành lập nhóm chuyên gia và phong toả việc thông qua báo cáo hay thậm chí là không cho phép trả đũa bằng việc không bỏ phiếu thuận. Nói cách khác, ngay cả bên bị khiếu kiện cũng có thể dùng quyền phủ quyết của mình để thể hiện sự không đồng thuận ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình giải quyết tranh chấp. Chính điều này đã gây cản trở trong việc ra quyết định và dẫn tới sự bất lợi cho các nước đi kiện. Thứ hai, do không có một quy trình ổn định và rõ ràng, việc giải quyết tranh chấp theo cơ chế của GATT thường bị kéo dài. Với việc áp dụng nguyên tắc đồng thuận thuận, các bên tham gia có thể trì hoãn ở mọi giai đoạn và gây khó khăn cho quá trình xét xử. Sự chậm trễ này trong nhiều trường hợp đã không đem lại tác dụng trên thực tế cho bên thắng kiện do sản phẩm hay ngành sản xuất đã mất khả năng cạnh tranh sau một khoảng thời gian giải quyết tranh chấp kéo dài. Hơn nữa, cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT còn cho phép các bên tranh chấp có thể trì hoãn vô thời hạn quyết định cuối cùng của GATT. Kết quả là rất nhiều vụ tranh chấp không được giải quyết trong nhiều năm và điều này đã tạo cơ sở cho chủ nghĩa bảo hộ phát triển ở các quốc gia được lợi từ sự yếu kém của cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại trong GATT. Thứ ba, việc giải quyết tranh chấp theo cơ chế của GATT chỉ được xét xử ở một cấp là Ban Hội thẩm. Các bên tham gia tranh chấp không có quyền kháng cáo và GATT cũng không có một Cơ quan Phúc thẩm độc lập để xem xét lại vụ tranh chấp một cách thoả đáng. Thứ tư, việc thực thi phán quyết của các vụ tranh chấp cũng chưa thật hiệu quả. Thậm chí ngay cả khi báo cáo của Ban Hội thẩm đã được thông qua thì các phán quyết cũng không được thi hành một cách tự động mà vẫn phải dùng nguyên tắc đồng thuận thuận để quyết định. Thực tế cho thấy là khi yêu cầu cho phép đình chỉ nhượng bộ không được chấp thuận thì các bên đã tăng cường sử dụng các biện pháp trừng phạt đơn phương và điều này càng cho thấy hiệu quả của cơ chế giải quyết tranh chấp vẫn còn hạn chế. Hơn thế nữa, vũ khí chủ yếu của GATT để đảm bảo sự tuân thủ của các bên tranh chấp -đó là biện pháp trả đũa- đã không thể hiện được hiệu quả trong việc kết thúc một tranh chấp. Các nước nhỏ thường gặp nhiều khó khăn khi trả đũa các nước lớn do họ lo ngại rằng việc trả đũa này có thể gây những ảnh hưởng không tốt cho nền kinh tế vốn đã yếu ớt của mình. Bên cạnh đó, GATT cũng không có quy định về biện pháp bồi thường thiệt hại hay việc hạn chế thời gian để thi hành phán quyết đối với bên thua kiện. Do đó, việc thực thi phán quyết cũng có thể bị kéo dài nhiều năm và giá trị hiệu lực của các phán quyết cũng phần nào bị suy giảm. Thứ năm, GATT cũng chưa đưa ra được những quy định đặc biệt và khác biệt dành cho các nước đang và kém phát triển – điều khiến cho các nước này hầu như không có tiếng nói, không thể đảm bảo một vị thế tương xứng với các nước phát triển trong các vụ tranh tụng. Bên cạnh đó, các lĩnh vực không nằm trong phạm vi điều
  13. 5 chỉnh của GATT như thương mại dịch vụ, các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại hay những khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ cũng không thuộc phạm vi điều chỉnh của cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT. 1.2. Sự cần thiết phải xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO Những hạn chế trên cho thấy cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT nói riêng cũng như Hiệp định GATT 1947 nói chung không còn phù hợp với sự phát triển của thương mại quốc tế và cần thiết phải có sự sửa đổi cơ bản cơ chế giải quyết tranh chấp trong GATT. Ngày 01/01/1995 WTO chính thức hoạt động thay thế cho GATT. Để phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình, WTO đã đưa ra một cơ chế giải quyết tranh chấp mới thay thế cho cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT. Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO ra đời, một mặt tiếp tục kế thừa những mặt tích cực trong cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT, mặt khác loại bỏ cơ bản những bất cập trong cơ chế này. Kể từ khi bắt đầu hoạt động đến nay, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đã nhanh chóng chứng tỏ được tầm quan trọng của nó với thực tế là các nước thành viên WTO thường xuyên phải sử dụng cơ chế này và tuân theo những phán quyết được đưa ra. Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO được xây dựng dựa trên Thoả thuận về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp (DSU). Thỏa thuận này bao gồm 27 điều, 4 phụ lục và có hiệu lực thi hành từ tháng 12-1996 (xem phụ lục số 1). DSU quy định các nguyên tắc, thủ tục giải quyết tranh chấp nhằm bảo đảm tính thống nhất, khách quan và sự công bằng cho các thành viên của WTO. Nói cách khác, DSU tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các nước thành viên. Tất cả các nước thành viên của WTO đều có nghĩa vụ phải tuân thủ theo DSU bởi vì họ đã ký và phê chuẩn Hiệp định WTO như là cả gói cam kết chung mà DSU là một phần trong đó. Hơn nữa, DSU không cho phép sử dụng các diễn đàn đa phương khác để giải quyết tranh chấp có liên quan đến WTO và cũng cấm việc các quốc gia thành viên hành động dựa trên các quyết định đơn phương. Để giám sát việc thực thi các quy định của DSU và cũng là giám sát toàn bộ quá trình giải quyết tranh chấp, WTO lập ra Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB). DSB có chức năng giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các nước thành viên theo nguyên tắc, quy định, trình tự và thủ tục được quy định trong DSU. DSB là cơ quan có thẩm quyền thành lập bộ máy riêng để giải quyết tranh chấp như thành lập Ban Hội thẩm, Cơ quan Phúc thẩm và có quyền đưa ra phán quyết cuối cùng về tranh chấp đồng thời quy định các chế tài để bảo đảm việc thực thi cũng như giám sát thực thi phán quyết của mình. Như vậy, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO là một tổng thể thống nhất các cơ quan, nguyên tắc và quy trình, thủ tục giải quyết tranh chấp nhằm đạt tới mục tiêu bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các nước thành viên WTO khi có sự vi phạm các hiệp
  14. 6 định có liên quan của một hay nhiều thành viên khác. Có thể nói, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO ra đời là nhằm đáp ứng nhu cầu khách quan, khi nền thương mại toàn cầu đã phát triển sang một giai đoạn mới: toàn diện hơn, đa dạng hơn và phức tạp hơn. 2. Những điểm mạnh và những hạn chế trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO 2.1. Những điểm mạnh 2.1.1 Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO có bộ máy hoàn thiện hơn So với cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT, WTO đã lập ra một cơ quan giải quyết tranh chấp riêng, độc lập với chức năng giải quyết tranh chấp phát sinh trong khuôn khổ của WTO. Điều 4.3 của Hiệp định Marrakesh về thành lập WTO quy định như sau: “Khi cần thiết Đại hội đồng sẽ được triệu tập để đảm nhiệm phần trách nhiệm của cơ quan giải quyết tranh chấp theo quy định trong Thoả thuận về giải quyết tranh chấp”. Như vậy, cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) của WTO lại chính là Đại Hội Đồng của WTO (xem phụ lục số 7). Là Đại Hội Đồng – cơ quan chấp hành của WTO, khi có đơn khởi kiện của một nước thành viên, Đại Hội Đồng sẽ đồng thời đảm nhiệm chức năng là cơ quan giải quyết tranh chấp. Như vậy, một cơ quan thường trực của WTO được giao thêm chức năng của cơ quan giải quyết tranh chấp đã tạo thêm quyền lực cho DSB trong việc giải quyết tranh chấp phát sinh. Người ta thường ví DSB vừa là chính phủ vừa kiêm luôn chức năng của bộ máy tư pháp trong một nhà nước. Điều này cho thấy sức mạnh của DSB và cũng giải thích cho việc vì sao cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO với bộ máy như vậy, hoạt động hiệu quả hơn nhiều so với GATT. Để thực thi nhiệm vụ của mình, DSB có chủ tịch riêng và được nhận sự trợ giúp pháp lý từ Ban thư ký của WTO trong quá trình giải quyết các tranh chấp phát sinh. DSB có thẩm quyền thành lập Ban Hội thẩm, có quyền thành lập Cơ quan Phúc thẩm thường trực; thông qua các báo cáo của Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm; bảo đảm và giám sát việc thực hiện các phán quyết và khuyến nghị của các cơ quan nói trên bằng cách cho phép áp dụng các biện pháp trả đũa hay đình chỉ thi hành những nhượng bộ hoặc nghĩa vụ khác theo các hiệp định có liên quan. Nói cách khác, DSB chịu trách nhiệm giải quyết tranh chấp theo các nguyên tắc, trình tự, thủ tục được quy định trong DSU, đồng thời giám sát toàn bộ quá trình giải quyết tranh chấp. DSB sẽ nhóm họp khi có phát sinh tranh chấp giữa các nước thành viên. Tuy vậy, DSB chỉ tham gia vào giai đoạn đầu của quá trình giải quyết tranh chấp là thành lập Ban Hội thẩm và giai đoạn cuối là thông qua các báo cáo để đưa ra phán quyết cuối cùng có hiệu lực ràng buộc đối với các bên có liên quan. Trong khi đó, quá trình tố tụng trong giải quyết tranh chấp sẽ do hai cơ quan là Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm đảm nhiệm. Đây là điểm tiến bộ hơn cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT. Trước đây, việc giải quyết tranh chấp theo cơ chế của GATT chỉ được tiến hành ở một cấp là Ban Hội thẩm và các bên không có quyền kháng cáo. Khắc phục được nhược
  15. 7 điểm này, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO có quy định thêm về thủ tục kháng cáo và thành lập Cơ quan Phúc thẩm thường trực. Cơ quan này sẽ có trách nhiệm xem xét những vấn đề pháp lý được đề cập đến trong báo cáo của Ban Hội thẩm nếu có một bên kháng cáo. Trên cơ sở đó, Cơ quan Phúc thẩm sẽ có thể giữ nguyên, thay đổi hoặc ra quyết định ngược lại các ý kiến của Ban Hội thẩm. Việc xét xử ở hai cấp như trên đã khiến cho các tranh chấp được xét xử một cách thận trọng và công bằng hơn. Và đặc điểm này một lần nữa chứng tỏ sự hoàn thiện hơn về cơ quan giải quyết tranh chấp trong cơ chế của WTO so với GATT. 2.1.2. Nguyên tắc “đồng thuận thuận” đã bị thay thế bởi nguyên tắc “đồng thuận nghịch” Ưu điểm nổi bật của cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO so với GATT là nguyên tắc đồng thuận thuận đã được thay thế bằng nguyên tắc đồng thuận nghịch. Theo nguyên tắc này không một nước thành viên riêng lẻ nào có thể ngăn cản việc ra quyết định của DSB trong quá trình giải quyết tranh chấp trừ phi có ý kiến đồng thuận phủ quyết của mọi thành viên của WTO. Điều này có nghĩa là nếu nước vi phạm muốn phán quyết của DSB không được thông qua thì phải thuyết phục được tất cả các thành viên khác của WTO (kể cả các bên tham gia trong vụ kiện) cùng phản đối với mình. Quy định này làm cho quá trình giải quyết tranh chấp diễn ra nhanh chóng hơn vì trong thực tế chưa có trường hợp nào mà phán quyết của DSB lại bị bác bỏ do có sự phản đối của tất cả các nước thành viên của WTO. Nguyên tắc “đồng thuận nghịch” đã đem lại những thay đổi cơ bản trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO so với GATT. Việc ra quyết định dựa trên đồng thuận phủ quyết khiến cho cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO trở nên linh hoạt hơn do các quyết định hầu như được thông qua một cách tự động. Hơn nữa, nguyên tắc này cũng làm giảm đáng kể việc các nước lớn gây sức ép để chi phối quá trình giải quyết tranh chấp, hay nói cách khác, một nước cho dù mạnh đến đâu cũng không thể ngăn cản một nước yếu hơn trong việc bảo vệ quyền lợi của mình theo các hiệp định WTO. Do vậy, việc giải quyết tranh chấp diễn ra hiệu quả hơn và điều này góp phần củng cố niềm tin của các nước thành viên, đặc biệt là các nước đang và kém phát triển, vào sự công bằng của cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. 2.1.3. Thủ tục giải quyết tranh chấp được quy định chặt chẽ hơn Một cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả cần phải có thủ tục giải quyết tranh chấp thật chặt chẽ. GATT trước đây về cơ bản chỉ có hai điều quy định về thủ tục giải quyết tranh chấp là Điều 22 và Điều 23 (xem phụ lục số 2). Trong khi đó WTO có hệ thống các quy định về thủ tục giải quyết tranh chấp. Đó là Thoả thuận về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp (DSU). Thủ tục giải quyết tranh chấp của WTO được chia thành bốn giai đoạn chính: giai đoạn tham vấn, giai đoạn hội thẩm, giai đoạn phúc thẩm và giai đoạn thi hành phán quyết. Tất nhiên không phải bất kỳ tranh chấp nào cũng trải qua tất cả bốn giai đoạn này nhưng chúng phải được thực
  16. 8 hiện một cách lần lượt. DSU cũng đưa ra những quy định chi tiết về quyền và nghĩa vụ phải thực hiện của bên nguyên đơn, bên bị đơn cũng như những quyền và nghĩa vụ của DSB, của Ban Hội thẩm, của Cơ quan Phúc thẩm trong từng giai đoạn cụ thể của quá trình xét xử. Xét về mặt thủ tục, các bên tham gia giải quyết tranh chấp phải tuân thủ theo một trình tự nhất định đã được quy định trong DSU. Những quy định chi tiết này làm cho quá trình giải quyết tranh chấp trở nên rõ ràng trong tất cả bốn giai đoạn. Và đây là điểm tiến bộ hơn so với cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT. 2.1.4. Thời gian giải quyết tranh chấp ngắn hơn Thủ tục giải quyết tranh chấp thống nhất, chặt chẽ hơn với quy định ràng buộc về mặt thời gian trong từng giai đoạn giải quyết tranh chấp cụ thể làm cho thời gian giải quyết tranh chấp của WTO được rút gọn hơn rất nhiều so với GATT trước đây. Yếu tố thời gian có được nhắc đến trong những quy định về giải quyết tranh chấp của GATT nhưng không cụ thể và chi tiết. Nguyên tắc đồng thuận thuận khiến cho một vụ tranh chấp có thể bị kéo dài và thậm chí là không thể giải quyết được. Điểm yếu này của GATT đã được khắc phục trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Thời gian tối đa để thực hiện từng bước trong giải quyết tranh chấp được quy định rõ ràng trong DSU. Ví dụ như: thời hạn dành cho tham vấn là 60 ngày (Điều 4.3), thời gian để Ban Hội thẩm đưa ra báo cáo là 6 tháng (3 tháng nếu là trường hợp khẩn cấp - Điều12.9). Với quy định rõ ràng và sự khống chế về mặt thời gian, quá trình giải quyết tranh chấp của WTO đã được rút ngắn đi rất nhiều, việc giải quyết một tranh chấp thông thường sẽ có kết quả sau khoảng 12 tháng nếu không có kháng cáo và còn có thể rút ngắn hơn nữa trong trường hợp khẩn cấp (xem phụ lục số 6). Bên cạnh đó, các quyết định của DSB đều được thông qua gần như tự động do đã áp dụng nguyên tắc đồng thuận phủ quyết. Các báo cáo được thông qua nhanh chóng hơn không những làm giảm thời gian mà còn nâng cao tính hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp theo cơ chế của WTO. 2.1.5. Việc cưỡng chế thực thi phán quyết của DSB có hiệu lực mạnh hơn Nhằm mục đích buộc bên thua kiện thực thi phán quyết của DSB một cách nghiêm túc, WTO đề ra cơ chế theo dõi và giám sát thực thi phán quyết. Cơ chế giám sát được thực hiện trong vòng 30 ngày kể từ ngày thông qua báo cáo của Ban Hội thẩm. Đồng thời bên thua kiện cũng phải thông báo cho DSB biết về những biện pháp mà nước này dự định áp dụng để thực hiện. Ngoài ra, DSB cũng có thể cho nước này một thời hạn được cho là “hợp lý” để thực hiện phán quyết. Quá thời gian này mà nước thua kiện vẫn không thực thi phán quyết của DSB thì nước này sẽ phải thương lượng với nước thắng kiện về mức độ bồi thường trong thời hạn là 30 ngày. Hết thời hạn đó, nếu các bên vẫn không thỏa thuận được về mức độ bồi thường thì bên thắng kiện có quyền yêu cầu DSB cho phép áp dụng biện pháp trả đũa. Biện pháp trả đũa có thể là tạm ngừng việc cho bên thua kiện hưởng những nhân nhượng thuế quan hoặc
  17. 9 tạm ngừng thực hiện những nghĩa vụ đối với bên thua kiện trong các hiệp định liên quan. GATT quy định biện pháp trả đũa chỉ được chấp thuận khi không có bên ký kết nào phản đối, còn cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO quy định biện pháp trả đũa sẽ chỉ bị huỷ bỏ khi tất cả các thành viên của WTO đồng ý. Với cách quy định như vậy, việc cho phép áp dụng biện pháp trả đũa diễn ra gần như tự động theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Đồng thời, DSU cũng quy định rõ mức độ trả đũa được DSB cho phép sẽ phải tương ứng với mức độ triệt tiêu hoặc thiệt hại mà nước bị vi phạm phải gánh chịu (Điều 22.4). Biện pháp trả đũa chỉ là biện pháp tạm thời và được áp dụng cho đến khi bên thua kiện thực thi phán quyết của DSB. Nước thành viên thắng kiện có thể áp dụng trả đũa dưới các hình thức: trả đũa song hành, trả đũa chéo lĩnh vực và trả đũa chéo hiệp định. Trả đũa song hành là việc nước bị thiệt hại tiến hành trả đũa trong lĩnh vực thương mại mà nước đó bị thiệt hại và trả đũa tương ứng với mức độ thiệt hại mà nước đó phải chịu. Trả đũa chéo lĩnh vực là việc một nước có thể trả đũa trong lĩnh vực khác không phải là lĩnh vực nước đó bị thiệt hại, nhưng vẫn cùng hiệp định bị vi phạm. Biện pháp này được sử dụng khi trả đũa trực tiếp là không hiệu quả, ví dụ như: nước đang phát triển sẽ khó có thể áp dụng một cách hiệu quả biện pháp trả đũa trong lĩnh vực thương mại hàng hoá đối với một nước phát triển nhưng nếu trả đũa trong lĩnh vực thương mại dịch vụ thì có thể sẽ hiệu quả hơn. Cuối cùng, với biện pháp trả đũa chéo hiệp định, là biện pháp chỉ sử dụng trong một số trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, bên thắng kiện còn có thể yêu cầu DSB cho phép trả đũa trong những lĩnh vực thuộc các hiệp định thương mại khác với hiệp định thương mại mà bên thua kiện vi phạm. Như vậy, các biện pháp trả đũa trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đã được quy định một cách chi tiết hơn, rõ ràng hơn. Điều này tạo cơ sở cho cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hoạt động một cách hiệu quả. 2.1.6. Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đã đưa ra những quy định thuận lợi dành riêng cho các nước đang và kém phát triển Theo quy định tại Điều 23, DSU buộc tất cả các thành viên của WTO phải tuân thủ cơ chế giải quyết tranh chấp đối với những tranh chấp phát sinh trong khuôn khổ các Hiệp định của WTO. Tính chất bắt buộc này đã tạo vị thế bình đẳng cho các nước thành viên trong việc tiếp cận hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO và đảm bảo rằng không một nước nào, kể cả các nước mạnh, có thể trốn tránh được quyền tài phán của cơ quan giải quyết tranh chấp WTO. Quy định này đã tạo sự tin tưởng của các nước đang phát triển đối với cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Ngoài ra, cơ chế giải quyết tranh chấp cũng có những quy định về đối xử đặc biệt và khác biệt dành riêng cho các nước đang phát triển trong cả giai đoạn tham vấn, giai đoạn xét xử của Ban Hội thẩm và trong cả giai đoạn thực thi phán quyết. Trong khi tham vấn, Điều 4.10 của DSU quy định rằng “các thành viên phải đặc biệt chú ý
  18. 10 đến những vấn đề cụ thể và quyền lợi của các nước thành viên là những nước đang phát triển”. Hơn nữa, Điều 12.10 của DSU còn cho phép thời hạn tham vấn có thể kéo dài thêm nếu như bên bị đơn là nước đang phát triển. Đến giai đoạn xét xử của Ban Hội thẩm, khi một tranh chấp xảy ra giữa một thành viên phát triển và một thành viên đang phát triển, nếu có yêu cầu của thành viên đang phát triển thì Ban Hội thẩm phải có ít nhất một hội thẩm viên là người từ một nước thành viên đang phát triển (Điều 8.10 của DSU). Nếu như nước đang phát triển là bị đơn thì họ còn được Ban Hội thẩm cho phép có đủ thời gian để chuẩn bị chứng cứ và lý lẽ của mình. Tiếp theo, ở giai đoạn thực thi, DSU cho phép dành sự quan tâm đặc biệt tới các vấn đề ảnh hưởng tới lợi ích của các nước thành viên đang phát triển (Điều 21.1của DSU). Như vậy, các vấn đề khó khăn về kinh tế, thương mại và quyền lợi của các thành viên đang phát triển phải được đặc biệt chú ý tới trong toàn bộ tiến trình giải quyết tranh chấp nói chung và phán quyết của DSB nói riêng, hoặc DSB có thể kiến nghị một số giải pháp cụ thể để các nước phát triển thực hiện, nhằm bảo đảm quyền lợi cho nước đang phát triển. Bên cạnh đó, các nước đang phát triển cũng có thể yêu cầu thời hạn dài hơn hoặc được trợ giúp pháp lý từ Ban thư ký. Nếu một nước đang phát triển có yêu cầu, Ban thư ký sẽ cung cấp những chuyên gia pháp lý có năng lực từ các cơ quan của WTO để giúp đỡ về thủ tục pháp lý và hỗ trợ nước đó trong suốt quá trình giải quyết tranh chấp. Từ tháng 10/2002, các nước đang phát triển còn có thể nhận được sự trợ giúp từ Trung tâm tư vấn Luật của WTO (ACWL) và Trung tâm này cũng có thể đại diện cho các nước đang phát triển khi cần. Những điểm mạnh kể trên cho thấy cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hoạt động hiệu quả hơn và các nước đang và kém phát triển đã tin tưởng hơn vào cơ chế này. Chính vì vậy, từ khi hoạt động đến nay, so với cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT các nước đang phát triển đã khởi kiện nhiều hơn và đạt được thành công lớn hơn ở WTO. 2.2. Những hạn chế 2.2.1. Thời gian giải quyết tranh chấp vẫn còn kéo dài Trước hết, DSU có quy định rõ thời hạn cho từng giai đoạn cụ thể của quá trình giải quyết tranh chấp. Nhưng bất chấp thời hạn đó, một quy trình giải quyết tranh chấp đầy đủ (bao gồm cả thủ tục kháng cáo, phúc thẩm và thi hành phán quyết) vẫn có thể kéo dài tới gần 3 năm. Chưa kể nếu thời gian biểu không được giữ đúng hay có không có sự nhất trí giữa các bên trong quá trình thực hiện, thời gian giải quyết còn có thể kéo dài hơn nữa. Ví dụ như: Mexico, Honduras, Guatemala, Ecuador và Mỹ kiện cộng đồng Châu Âu (EC) về chế độ nhập khẩu chuối. Bắt đầu từ năm 1996, 5 nước bên nguyên đơn đã đưa vụ tranh chấp ra WTO và đến tận cuối năm 1999 vụ tranh chấp mới chính thức kết thúc. Vụ tranh chấp này đã kéo dài tới 4 năm, hơn cả thời hạn giải quyết một vụ tranh chấp đầy đủ theo quy định.
  19. 11 Ngoài ra, trong thời gian giải quyết tranh chấp, các bên vẫn có thể duy trì thực hiện những biện pháp không phù hợp với WTO. Kết quả là bên khởi kiện sẽ liên tục phải chịu các tổn hại về kinh tế nếu thực sự bên bị kiện đã vi phạm các quy định của WTO. Ngay cả trong trường hợp thắng kiện, không có một biện pháp tạm thời nào giúp bên nguyên đơn có thể bảo vệ được lợi ích thương mại và kinh tế của họ trong suốt quá trình giải quyết tranh chấp. Sau đó, bên nguyên đơn cũng không hề nhận được bất kỳ khoản bồi thường nào cho những thiệt hại mà họ phải gánh chịu trong thời gian bị đơn thực hiện phán quyết cũng như những chi phí tư pháp mà họ phải trả. Sự kéo dài về mặt thời gian như vậy phần nào đã làm giảm hiệu quả của cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. 2.2.2. Quy trình thủ tục vẫn còn tốn kém, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển Một quy trình giải quyết tranh chấp đầy đủ kéo dài tới gần 3 năm và còn có thể kéo dài hơn nếu như các bên không có sự nhất trí trong quá trình thực hiện. Do đó, với một thời gian kéo dài như vậy, các nước tham gia tranh chấp sẽ phải tốn nhiều công sức và nguồn lực tài chính nếu muốn theo đến cùng các vụ kiện. Đặc biệt đối với các nước thành viên là nước đang phát triển, so sánh tương quan về các nguồn lực đối với các nước phát triển, họ gặp khó khăn và tốn kém hơn nhiều. Các nước đang phát triển hầu hết đều không có đủ nguồn nhân lực với kiến thức chuyên môn, thêm vào đó khả năng tài chính và kinh tế còn hạn hẹp. Mặt khác, thủ tục giải quyết tranh chấp của WTO lại rất phức tạp nên yêu cầu các nước tham gia giải quyết tranh chấp cần có năng lực pháp lý chuyên sâu với nguồn nhân lực có kiến thức chuyên môn, có khả năng đánh giá triển vọng về lợi ích kinh tế có thể đạt được sau các vụ tranh chấp, đồng thời là khả năng tài chính dồi dào cần thiết cho quá trình theo kiện. Trong rất nhiều trường hợp, các nước đang phát triển phải nhờ đến các chuyên gia ở nước phát triển tư vấn trong quá trình tranh tụng và phải trả một khoản phí khá lớn. Ngoài các chi phí tư vấn pháp lý thì chi phí cho quá trình điều tra hay thu thập chứng cứ cũng là một nỗi lo của các nước đang phát triển. Điều đó chính là khó khăn lớn của các nước đang phát triển khi tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp, nhất là khi lợi ích kinh tế mà họ đạt được sau một vụ tranh chấp có thể là rất thấp so với chi phí phải bỏ ra. 2.2.3. Những quy định dành riêng cho các nước đang phát triển vẫn chỉ mang tính hình thức Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO có những quy định thuận lợi dành riêng cho các nước đang và kém phát triển, nhưng phần lớn các quy định này lại chỉ mang tính tuyên bố. Ví dụ: theo Điều 4.10 DSU, trong khi tham vấn, các thành viên phải đặc biệt chú ý đến những vấn đề cụ thể và quyền lợi của các thành viên là các nước đang phát triển. Điều khó khăn đặt ra ở đây là chúng ta phải hiểu khái niệm “đặc biệt chú ý” là như thế nào? Vì khó có thể hiểu được khái niệm này và DSU cũng không đưa ra một giải thích cụ thể nào về tiêu chí gọi là “đặc biệt chú ý” do đó các nước đang phát
  20. 12 triển khi tham gia vào giải quyết tranh chấp không thể áp dụng cũng như yêu cầu các nước phát triển làm theo những quy định này. Các nước đang phát triển cũng nhận được sự hỗ trợ pháp lý từ Ban thư ký của WTO. Nhưng do phải đảm bảo tính công bằng và giới hạn về nguồn lực, Ban thư ký của WTO cũng không thể đứng về một bên tranh chấp khi có tranh chấp xảy ra. Thêm vào đó, Ban thư ký chỉ có thể hỗ trợ các nước đang phát triển sau khi có đơn kiện. Như vậy, các nước đang phát triển khi tham gia vào giải quyết tranh chấp với vai trò là bị đơn thì họ mới có lợi từ sự hỗ trợ pháp lý của Ban thư ký. Còn nếu đi kiện, họ vẫn buộc phải chấp nhận thuê tư vấn luật của nước ngoài với giá cao. Một vấn đề nữa đối với các nước đang phát triển là đôi khi các biện pháp trả đũa thương mại cũng là trở ngại, và họ khó có điều kiện để sử dụng hiệu quả những biện pháp này. Quan hệ thương mại chưa tương xứng giữa các nước đang phát triển và nước phát triển cũng như các vấn đề về chính trị khiến cho các nước đang phát triển luôn lo ngại rằng các biện pháp như vậy sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế vốn đã yếu ớt của họ. Việc nêu ra những điểm mạnh và những điểm chưa mạnh trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO sẽ giúp cho việc vận dụng tốt hơn cơ chế này khi có tranh chấp xảy ra. Với Việt Nam điều này là rất quan trọng. II. Vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO trong giải quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may 1. Các tranh chấp về thương mại hàng dệt may trong phạm vi của WTO 1.1. Đặc điểm về hàng dệt may và thương mại hàng dệt may Ngay từ thời tiền sử, cái ăn cái mặc đã là những nhu cầu cơ bản không thể thiếu của con người. Mới đầu, những nguyên liệu để may mặc chỉ là những mảnh da thú, hoặc đan lát các thứ cây cỏ. Nhưng theo tiến trình phát triển, nguyên liệu may mặc cũng dần phát triển theo. Đầu tiên là sợi lanh (flax), sợi len (Mésopotamia), sợi bông (cotton), sợi tơ tằm (silk), đều có nguồn gốc từ tự nhiên, từ cây cỏ hoặc động vật. Đến thế kỷ 18, sự ra đời của động cơ hơi nước và sợi nhân tạo đã tạo nên một cuộc cách mạng trong may mặc. Ngành dệt may phát triển ngày càng nhanh, những mặt hàng thời trang dần phổ biến với mọi thành phần dân chúng. Sản phẩm của ngành dệt may là những mặt hàng cơ bản và cần thiết cho nhiều mặt của cuộc sống, không chỉ là quần áo, vải vóc phục vụ cho các nhu cầu hàng ngày mà còn là bao bì, các thiết bị trong xe hơi, máy bay, nguyên liệu cung cấp cho nhiều ngành nghề khác. Từ năm 1949 đến năm 2005, tổng giá trị thương mại hàng dệt may của toàn thế giới đã tăng lên một cách nhanh chóng, từ 6 tỷ USD lên 350 tỷ USD 7 . Sau cuộc cách mạng trong may mặc, hàng dệt may trở thành động lực phát triển của thế giới phương Tây và của các nền kinh tế mới công nghiệp hoá ở Châu Á. Có thể nói, việc triển khai sản xuất hàng dệt may khá dễ dàng và không tốn kém, vốn đầu tư không cần 7 Nguồn: Trung tâm thông tin Bộ Thương mại, năm 2005.
  21. 13 nhiều và công nghệ sử dụng đơn giản. Thêm vào đó, ngành dệt may cần nhiều lao động do hoạt động sản xuất dệt may là hoạt động sử dụng nhiều lao động và không đòi hỏi trình độ cao. Mức lương cạnh tranh cũng là một yếu tố rất quan trọng trong ngành dệt may. Dệt may cũng là ngành có mức độ linh hoạt cao và dễ thay đổi, tức là có thể dễ dàng được bắt đầu từ những nguồn lực nhỏ bé và dễ dàng chuyển từ nơi này sang nơi khác. Hàng dệt may đã trở thành mặt hàng chủ lực của các nước đang phát triển. Đặc điểm thường thấy ở các nước này là nguồn lực tài chính yếu trong khi nguồn lao động lại rất dồi dào và rẻ, do đó hàng dệt may là một mặt hàng rất thích hợp trong chiến lược phát triển kinh tế của họ. Ở hầu hết các nước đang phát triển, nhờ có dệt may, tỷ lệ đói nghèo được giảm bớt, số lượng thất nghiệp cũng giảm, lương thực tế tăng lên, góp phần cải thiện đời sống cho nhân dân. Hơn thế nữa xuất khẩu dệt may còn giúp cho các quốc gia này thu được một lượng ngoại tệ đáng kể để phát triển các ngành công nghiệp khác trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 1.2. WTO và thương mại hàng dệt may Ngay từ những năm đầu ký kết hiệp định GATT năm 1947, dệt may là một lĩnh vực nhạy cảm, gây nhiều tranh cãi giữa các nước thành viên nhập khẩu và xuất khẩu mặt hàng này. Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, một số nước phát triển đã viện cớ cán cân thanh toán khó khăn để áp đặt thuế suất cao, thủ tục thuế quan nặng nề và các biện pháp hạn chế định lượng đối với nhập khẩu hàng dệt may. Những hình thức này đã đi ngược lại nguyên tắc cơ bản về tự do hoá thương mại của GATT và gây cản trở cho sự phát triển của hàng dệt may, mà chủ yếu là hàng bông sợi. Tuy nhiên, cùng với những vòng đàm phán trong khuôn khổ của GATT, từ năm 1949 trở đi, các hàng rào mậu dịch cản trở thương mại hàng dệt may đã được giảm dần để hướng tới tự do hoá ngành công nghiệp này. Năm 1961, chính phủ Mỹ đã đề xướng một hội nghị các nước xuất khẩu hàng dệt trong khuôn khổ của GATT. Sau hội nghị này, Hiệp định ngắn hạn về Thương mại quốc tế Bông sợi (STA) đã ra đời. Hiệp định này cho phép các nước xuất khẩu, đơn phương hoặc qua thoả thuận song phương, ấn định hạn ngạch (quota) nhằm hạn chế việc nhập khẩu khi thị trường nội địa có nguy cơ bị đổ vỡ. Hiệp định STA có thời hạn là 1 năm. Năm 1962, Hiệp định STA được thay thế bởi Hiệp định dài hạn về Thương mại quốc tế Bông sợi (LTA). Theo Hiệp định này, các hạn ngạch phải được nâng cao dần ở mức 5% mỗi năm. Hiệp định LTA có thời hạn 5 năm và tiếp tục được gia hạn vào năm 1967 và năm 1970. Đến tháng 12/1972, Hiệp định LTA lại được thay thế bởi MFA, Hiệp định đa sợi. Hiệp định này được áp dụng từ tháng 01/1974 cho đến hết năm 1994, khi Hiệp định ATC ra đời và hoạt động trong khuôn khổ của WTO.
  22. 14 Như vậy, trong hơn 30 năm, hàng dệt may không được điều tiết bởi những quy tắc chung của GATT mà lần lượt được điều tiết bởi ba hiệp định là STA, LTA và MFA. Cả ba hiệp định này, ở các góc độ khác nhau, đã đặt ra cơ sở pháp lý cho chính sách thương mại bất bình đẳng hướng về bảo hộ trong thương mại hàng dệt may. Ngày 01/01/1995 Hiệp định hàng dệt may (ATC) ra đời với ý nghĩa là hiệp định đa biên trong hệ thống các hiệp định của WTO. Hiệp định ATC đưa ra một lộ trình, một giai đoạn chuyển tiếp để xoá bỏ chế độ hạn ngạch trong thương mại hàng dệt may. Trong khuôn khổ WTO, Hiệp định này quy định các biện pháp chuyển tiếp để đưa thương mại hàng dệt may vào khung pháp lý chung của WTO. Hiệp định ATC cũng đề ra một thời hạn cụ thể để chấm dứt chế độ hạn ngạch: “Hiệp định này và tất cả các hạn chế được quy định trong đó sẽ hết hạn vào ngày đầu tiên của tháng thứ 121 sau khi Hiệp định WTO có hiệu lực. Vào ngày đó, lĩnh vực hàng dệt may sẽ được hoà nhập hoàn toàn vào GATT 1994. Hiệp định này sẽ không được gia hạn thêm nữa” (Điều 9 của ATC). Như vậy, kể từ ngày 01/01/2005 hàng dệt may đã hoà nhập hoàn toàn vào GATT 1994 và được coi như một hàng hoá bình thường, được tự do thương mại trên cơ sở bình đẳng giữa các thành viên của WTO. Mặc dù ATC hết hiệu lực và hàng dệt may đã được coi như một loại hàng hoá bình thường nhưng điều đó không có nghĩa là xung quanh hàng dệt may không còn nhiều vấn đề tranh cãi. Dệt may vẫn tiếp tục là một trong những vấn đề được đưa ra đàm phán trong Vòng Doha. Vòng Doha được khởi động từ năm 2001 với mục tiêu tự do hóa thương mại, bảo vệ môi trường hướng tới phát triển bền vững. Tuy nhiên, cho đến nay, do bất đồng quan điểm về nhiều vấn đề vòng Doha vẫn chưa đạt được kết quả. 1.3. Đặc điểm của các tranh chấp liên quan đến thương mại hàng dệt may trong khuôn khổ WTO Theo số liệu mới cập nhật kể từ khi WTO chính thức hoạt động cho đến tháng 07/2007, đã có 366 vụ tranh chấp 8 giữa các nước thành viên được giải quyết theo cơ chế của WTO, trong đó có 19 vụ tranh chấp 9 liên quan đến thương mại hàng dệt may. Các vụ tranh chấp về thương mại hàng dệt may hầu như diễn ra ở những năm cuối của thế kỷ trước, tính trung bình khoảng 3 vụ/năm. Từ năm 2000 trở lại đây thì số lượng tranh chấp khiêm tốn hơn và đặc biệt là WTO chưa thống kê được tranh chấp nào liên quan đến hàng dệt may từ thời kỳ hậu hạn ngạch. Trong số 19 vụ tranh chấp về hàng dệt may nêu trên, các nước đang phát triển chiếm khoảng 2/3 tổng số lần đi kiện và tập trung chính vào những nước có kim ngạch xuất khẩu dệt may lớn như Ấn Độ, Pakistan, Thổ Nhĩ Kỳ, trong đó, Ấn Độ là một quốc gia tích cực sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để bảo vệ lợi ích của mình. Nếu chỉ tính riêng những tranh chấp trong lĩnh vực hàng dệt may, ngoài việc tham gia với tư cách bên thứ ba trong nhiều tranh chấp, Ấn Độ đã khởi kiện tới 6 vụ 8 9
  23. 15 trên tổng số 19 vụ, chiếm khoảng 32%. Trong số các nước phát triển lớn trên thế giới, Mỹ là nước tham gia nhiều nhất vào các tranh chấp dệt may mà chủ yếu là với tư cách bị đơn (7 vụ) và chỉ đi kiện có 3 lần. Ngoài ra, cộng đồng Châu Âu (EC) cũng đã là nguyên đơn của 3 vụ và tham gia với tư cách bị đơn của 2 vụ đối với các tranh chấp về dệt may trong thời gian qua. Cũng theo số liệu của WTO, có đến trên 60% các tranh chấp trong thương mại hàng dệt may được giải quyết bằng con đường tham vấn. Trong quá trình tham vấn song phương, hai bên đã tìm được tiếng nói chung hoặc sau một thời gian áp dụng các biện pháp bảo hộ, nước nhập khẩu đã chủ động huỷ bỏ các biện pháp đó nên tranh chấp được giải quyết mà không cần đưa ra Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO. Đối với các tranh chấp còn lại, có đến 6/7 vụ trải qua tất cả các giai đoạn của một quá trình giải quyết tranh chấp bao gồm tham vấn, xét xử ở Ban Hội thẩm và kháng cáo lên Cơ quan Phúc thẩm. Có thể nói, sau hơn 11 năm, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO vẫn được công nhận là một công cụ đắc lực trong việc điều hoà các mối quan hệ thương mại quốc tế nói chung và thương mại hàng dệt may nói riêng giữa các thành viên của WTO. Đối với các tranh chấp được DSB giải quyết, hầu hết các nước thua kiện đã thực thi phán quyết của DSB hoặc nhiều đề xuất đã được DSB thông qua. Điều đó đã tạo sự tin tưởng của các nước thành viên WTO vào cơ chế này. Các tranh chấp về hàng dệt may có nội dung tương đối đa dạng. Phần lớn các tranh chấp trong thời gian qua có liên quan đến các điều khoản của ATC, với số lượng khoảng 12 vụ10 tương đương 63% tổng số tranh chấp. Ngoài ra còn có nhiều tranh chấp về các vấn đề khác như: quy tắc xuất xứ, chống bán phá giá Vì vậy, khi nghiên cứu về cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đối với thương mại hàng dệt may, không thể không phân tích Hiệp định ATC và các quy định của ATC liên quan đến giải quyết tranh chấp hàng dệt may. 2. Các quy định trong Hiệp định ATC về giải quyết tranh chấp liên quan đến thương mại hàng dệt may 2.1. Hiệp định ATC Hiệp định ATC gồm 9 điều và 1 phụ lục, điều chỉnh một phạm vi rộng các mặt hàng dệt may gồm sợi, vải, thành phẩm (made-up articles) và quần áo, tức là hầu hết ngành dệt may, chỉ loại trừ các nguyên liệu thô (xem phụ lục số 4). Nội dung chính của Hiệp định này là đặt ra một lịch trình sáp nhập dần dần các mặt hàng trên vào khuôn khổ điều tiết của Hiệp định GATT năm 1994 (Điều 2 của ATC). Nói cách khác, mục đích của ATC là từng bước loại bỏ các quy định bảo hộ của các nước đối với thương mại hàng dệt may, đưa dệt may vào cơ chế tự do hoá hoàn toàn. 10
  24. 16 Lịch trình tự do hóa hàng dệt may này được chia thành 4 giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất từ 1995 -1998; giai đoạn thứ hai từ 1998 – 2002; giai đoạn thứ ba từ 2002 - 2005 và năm 2005. Sau khoảng thời gian 10 năm (từ ngày 01/01/1995 đến ngày 01/01/2005), sẽ không còn nước nào được sử dụng hạn ngạch nhập khẩu đối với hàng dệt may, trừ khi họ có thể chứng minh rằng những biện pháp này phù hợp với những quy định của Hiệp định về các biện pháp tự vệ. Ngoài ra, trong quá trình chuyển đổi xoá bỏ hạn ngạch, ATC cũng cho phép các nước nhập khẩu được áp dụng các biện pháp tự vệ chuyển tiếp đặc định (specific transitional safeguard) hay là các biện pháp phòng chống, nếu như các ngành sản xuất nội địa của họ bị tổn hại nghiêm trọng. Để lịch trình hoà nhập hàng dệt may vào khuôn khổ pháp lý của WTO được thực hiện một cách nghiêm túc, Hiệp định cũng quy định thành lập một Cơ quan giám sát Hàng dệt (xem Điều 8 ATC tại phụ lục số 4). Cơ quan giám sát này bao gồm một chủ tịch và mười uỷ viên. Mục đích chính của cơ quan này là giám sát việc thi hành Hiệp định ATC và xem xét tất cả các biện pháp phòng chống được nước thành viên sử dụng và sự phù hợp của chúng với Hiệp định, cũng như tiến hành các hành động được yêu cầu theo yêu cầu riêng của Hiệp định này. Hiệp định ATC ra đời là một thắng lợi quan trọng đối với các nước đang phát triển, theo đó, hàng dệt may vốn là thế mạnh của các nước này sẽ không còn bị các nước phát triển áp đặt cơ chế quota. Nó đã đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình tự do hóa thương mại hàng dệt may trong khuôn khổ luật chơi chung của WTO. 2.2. Giải quyết tranh chấp theo quy định của Hiệp định ATC Như đã phân tích ở trên, ATC đã thành lập Cơ quan giám sát hàng dệt may (TMB) với chức năng giám sát việc các nước nhập khẩu áp dụng các biện pháp tự vệ trong thời gian chuyển tiếp theo ATC. Theo đó, nước nhập khẩu, nếu thấy cần bảo vệ thị trường nội địa của mình khi ngành công nghiệp của họ bị tổn hại bởi việc tăng nhanh hàng nhập khẩu từ nước khác, sẽ yêu cầu nước xuất khẩu hội ý với mình. Từ đó, hai bên có thể thoả thuận một biện pháp giới hạn nhập khẩu. Thoả thuận này cũng như yêu cầu hội ý đều phải được thông báo lên TMB. Nếu không đi đến thoả thuận, nước nhập khẩu có thể trình lên TMB một đề nghị giới hạn đơn phương. TMB có 30 ngày để điều tra và đưa ra khuyến cáo. Nếu hai bên vẫn không đồng ý thì có thể kiện nhau trước DSB. Như vậy, những tranh chấp liên quan đến Hiệp định ATC thường được giải quyết trên cơ sở song phương hoặc giải quyết tại TMB trước khi đưa lên Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO. Tính từ khi cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO ra đời đến nay, các tranh chấp về hàng dệt may bao gồm 19 vụ thì có đến 12 vụ 11 liên quan đến ATC. Các vụ này hầu hết đều được đưa lên giải quyết tại TMB trước khi kiện lên DSB, chỉ trừ một vụ duy nhất là tranh chấp liên quan đến các biện pháp tự vệ của Mỹ 11
  25. 17 đối với quần áo lót sản xuất tại Costa Rica. Tranh chấp này đã được trực tiếp đưa lên Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO mà không đưa ra TMB. Nội dung của các tranh chấp liên quan đến ATC cũng khá phong phú, nhưng chủ yếu vẫn xoay quanh việc áp dụng điều khoản tự vệ trong ATC (trong 12 vụ kể trên thì có 7 vụ là về thực thi điều khoản tự vệ ). Điều này cho thấy việc vận dụng các quy định có tính pháp lý của một biện pháp bảo hộ là rất phức tạp và gây ra nhiều tranh cãi giữa nước nhập khẩu, nước áp đặt các biện pháp này, và nước xuất khẩu, nước bị áp đặt. Vì vậy, để có thể theo đuổi các vụ tranh chấp liên quan đến hàng dệt may một cách thành công, điều quan trọng là phải biết cách vận dụng hiệu quả cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. 3. Vì sao phải vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO trong giải quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may? 3.1. Vì Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO Theo quy định của DSU, việc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên là có tính bắt buộc. DSU không cho phép các nước thành viên sử dụng các diễn đàn đa phương khác để giải quyết tranh chấp có liên quan đến WTO và cũng cấm việc các quốc gia này hành động dựa trên các quyết định đơn phương. Do đó, dù muốn hay không, các nước thành viên vẫn phải chấp nhận việc đưa các tranh chấp nói chung và tranh chấp về hàng dệt may của mình nói riêng ra giải quyết theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Việt Nam là thành viên của WTO, do đó Việt Nam buộc phải tuân theo quy định này. Quy định này vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ. Tuy nhiên, để có thể vận dụng một cách thành công cần có sự hiểu biết đầy đủ về cơ chế này. Vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO là yêu cầu có tính khách quan xuất phát từ chính quyền lợi của Việt Nam. 3.2. Vì tranh chấp về hàng dệt may đã nằm trong phạm vi điều chỉnh của WTO Sau khi Hiệp định ATC hết hiệu lực, dệt may được coi như một mặt hàng thông thường thuộc phạm vi điều chỉnh của WTO. Vì vậy, tranh chấp liên quan đến hàng dệt may sẽ được giải quyết theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Ngoài ra, dệt may là thế mạnh của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Trong thời kỳ hậu hạn ngạch, những nội dung tranh chấp trong thương mại hàng dệt may sẽ còn đa dạng và phức tạp hơn vì các nước nhập khẩu sẽ sử dụng các rào cản tinh vi hơn. Điều này đòi hỏi Việt Nam và các nước đang phát triển phải chú ý khi sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO nhằm bảo vệ quyền lợi của mình. Với những yếu tố phức tạp đan xen nhau như thế, mâu thuẫn xảy ra về quyền lợi giữa các nước thành viên WTO trong thương mại hàng dệt may là không thể tránh khỏi. Do đó, việc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để giải quyết các mâu thuẫn này cũng là điều tất yếu. 3.3. Vì cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO góp phần tích cực trong việc thiết lập một trật tự kinh tế quốc tế dựa trên tự do hoá thương mại và sự bình đẳng giữa các nước giàu và các nước nghèo
  26. 18 Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO giúp giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên theo một cách hoà bình và mang tính xây dựng. Khi các nước có mối quan hệ kinh tế với nhau, sự mâu thuẫn về mặt lợi ích là không thể tránh khỏi. Nếu để cho sự mâu thuẫn này phát triển một cách tự do sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Đặc biệt trong thời kỳ toàn cầu hoá như hiện nay, các mối quan hệ bang giao giữa các nước không chỉ đơn thuần là các mối quan hệ song phương mà là một tổng thể các mối quan hệ đa phương hết sức phức tạp. Có thể nói, chính WTO đã tạo nên một hệ thống thương mại đa phương toàn cầu theo nguyên tắc đảm bảo tự do hoá và công bằng thật sự trong lĩnh vực thương mại giữa nước giàu và nghèo, giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển. Ngoài ra, cơ chế giải quyết tranh chấp được WTO tạo nên là để ngăn chặn những tranh chấp phát sinh giữa các nước thành viên có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng làm đổ vỡ hệ thống thương mại đa phương toàn cầu mà WTO đã xây dựng, và từ đó dễ dàng dẫn đến các cuộc chiến tranh thương mại, mầm mống của các cuộc chiến tranh về chính trị có thể đe doạ nền an ninh toàn cầu. Thêm vào đó, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO với những ưu điểm hơn hẳn so với GATT trước đây đã giúp đảm bảo hơn tính công bằng, không phân biệt đối xử cho tất cả các nước thành viên. Dù quốc gia đó là nước lớn hay nước nhỏ, dù là nước giàu hay nước nghèo, họ đều có quyền đưa tranh chấp của mình ra giải quyết tại DSB và đều có quyền yêu cầu nước thua kiện thực thi phán quyết của DSB. Một quy định mới trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO là nước thắng kiện sẽ được DSB cho phép trả đũa nếu nước thua kiện không chịu thực thi phán quyết của DSB. Đây là một chế tài xử lý vi phạm mạnh, giúp cho tính cưỡng chế thực thi trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO có hiệu lực ràng buộc hơn hẳn cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT. Vấn đề là: dù nước thua kiện có là một nước lớn như Mỹ hay Nhật Bản thì họ vẫn phải thực thi phán quyết của DSB. Điều này sẽ làm giảm bớt sự bất bình đẳng và giúp các nước nhỏ có nhiều tiếng nói hơn, tự tin hơn khi sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Việt Nam đã gia nhập WTO vào ngày 11/01/2007. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, một trong những thuận lợi đầu tiên kể đến là Việt Nam được sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO với tư cách là một thành viên đang phát triển. Thực tế trong những năm qua đã cho thấy, từ khi cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO ra đời, các nước đang phát triển đã tham gia vào cơ chế này một cách tích cực hơn. Nhưng tham gia một cách tích cực hơn không có nghĩa là đạt được nhiều lợi ích hơn. Để vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp phức tạp của WTO một cách thành công, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại hàng dệt may, Việt Nam cần phải có sự hiểu biết sâu sắc về những quy định pháp lý cũng như các hiệp định liên quan. Và cũng chính vì vậy, để có thể vận dụng thành công cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO một sự chuẩn bị kỹ càng là rất cần thiết, đặc biệt là đối với Việt Nam trong thời gian tới.
  27. 19 CHƯƠNG 2: TÌM HIỂU KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN TRONG VIỆC VẬN DỤNG CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THƯƠNG MẠI HÀNG DỆT MAY VÀ RÚT RA BÀI HỌC CHO VIỆT NAM I. Kinh nghiệm của Trung Quốc Trong số các nước cần tham khảo kinh nghiệm, nhóm nghiên cứu lựa chọn Trung Quốc. Lý do lựa chọn Trung Quốc là bởi: - Trung Quốc vừa là nước láng giềng của Việt Nam, vừa là nước có chế độ chính trị, kinh tế gần tương đồng với Việt Nam. - Trung Quốc và Việt Nam là hai nước có truyền thống gắn bó lâu đời, có nhiều quan hệ kinh tế, văn hoá, tôn giáo không mấy cách biệt. - Trung Quốc là nước có ngành dệt may phát triển mạnh và họ cũng đi lên từ một nước nông nghiệp như Việt Nam. 1. Nhận xét chung về thương mại hàng dệt may của Trung Quốc Ngày nay, trong thương mại hàng dệt may thế giới, nói đến Trung Quốc là nói đến vị trí nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu hàng dệt may. Nổi tiếng từ nhiều thế kỷ trước với Con Đường Tơ Lụa, Trung Quốc đã xuất khẩu hàng dệt may sang Trung Đông và Châu Âu từ rất sớm. Sau đó, cuộc cách mạng trong dệt may lan đến Trung Quốc cùng với việc nền kinh tế bắt đầu mở cửa vào đầu thập kỷ 80, dệt may Trung Quốc đã phát triển một cách nhanh chóng và đến giữa thập kỷ 90, Trung Quốc trở thành nước xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới. Cũng giống như các nước đang phát triển khác, Trung Quốc có một lực lượng lao động dồi dào và giá nhân công rẻ. Bên cạnh đó, nước này còn có lợi thế là người lao động rất có kỷ luật và lành nghề, và Trung Quốc còn có thể tự đảm bảo được nhu cầu về sợi tổng hợp và tự nhiên. Các nhà máy sản xuất dệt may của Trung Quốc còn được hưởng thêm một lợi ích nữa, đó là sự tiếp cận với hệ thống giao thông khá hữu hiệu. Do đó, các doanh nghiệp Trung Quốc thường là người giao hàng đầu tiên và là hàng tốt nhất, những yếu tố quan trọng đối với mặt hàng dệt may. Trở thành thành viên thứ 144 của WTO từ ngày 11/12/2001 là một bước ngoặt lớn đối với dệt may Trung Quốc với lợi ích là không bị cơ chế bởi hạn ngạch. Thương mại xuất khẩu dệt may Trung Quốc phát triển dường như không có gì cản nổi. Tại Nhật, một nước phi hạn ngạch, Trung Quốc chiếm 78,1% thị trường quần áo và 47,5% thị trường vải sợi năm 2002. Cũng trong năm này, nhập khẩu các mặt hàng dệt may từ Trung Quốc vào Mỹ tăng bình quân 125%, vào Liên hiệp châu Âu tăng 53% về trị giá và 164% về số lượng. Năm 2003, xuất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc chiếm 17% thị phần toàn cầu, tiếp tục dẫn đầu thế giới12. Hiện tại, hàng dệt may là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Trung Quốc. Sản lượng hàng dệt may của nước này hiện chiếm 1/3 tổng khối lượng hàng dệt may toàn cầu. Năm 2006, giá trị xuất 12 Nguồn: Thời đại mới – Tạp chí Nghiên cứu và Thảo Luận, số 2- tháng 07/2004
  28. 20 khẩu hàng dệt may của Trung Quốc đạt 144 tỷ USD, tăng 25,2% so với năm 2005. Trong đó, xuất khẩu hàng may mặc trị giá 95,2 tỷ USD tăng 28,9%, và các sản phẩm hàng dệt trị giá là 48,8 tỷ USD, tăng 18,7% so với năm trước đó. Ngoài Bắc Kinh, Thượng Hải, Hàng Châu thành phố Thiệu Hưng đã trở thành trung tâm sản xuất và buôn bán hàng dệt may lớn nhất của Trung Quốc và thế giới vào năm 2006, khi kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của thành phố đạt hơn 4 tỷ USD, chiếm khoảng 7% khối lượng hàng dệt may của Trung Quốc13. Dệt may Trung Quốc được dự báo sẽ có tốc độ phát triển mạnh mẽ và trở thành một mối đe doạ lớn đối với ngành dệt may của nhiều nước trên thế giới. Trên thực tế, từ khi gia nhập WTO đến nay, Trung Quốc đã tham gia vào hai vụ tranh chấp về thương mại hàng dệt may và đều với tư cách là bên thứ ba 14 . Tuy chỉ tham gia với tư cách bên thứ ba, nhưng Trung Quốc vẫn giành được những lợi ích cho riêng mình và đây là một kinh nghiệm quý mà Việt Nam nên học tập. Điều này có thể thấy rõ khi phân tích vụ tranh chấp dưới đây. 2. Vụ kiện: Ấn Độ kiện Mỹ về quy tắc xuất xứ hàng dệt may và sự tham gia của Trung Quốc 2.1. Tóm tắt vụ kiện Nguyên đơn: Ấn Độ. Bị đơn: Mỹ. Bên thứ ba: Trung Quốc; Bangladesh; Các cộng đồng Châu Âu (EC); Pakistan; Philippines. Nội dung tranh chấp: Quy tắc xuất xứ hàng dệt may. Cụ thể tranh chấp về: Điều 2 của Hiệp định về quy tắc xuất xứ (RO 15), mục 334 của Đạo luật về các Hiệp định Uruguay và mục 405 của Luật Thương mại và Phát triển năm 2000 của Mỹ. Ngày chấp nhận yêu cầu tham vấn: 01/01/2002. Ngày báo cáo của Ban Hội thẩm được lưu hành: 20/06/2002. Ngày thông qua báo cáo của Ban Hội thẩm: 21/07/2002. 2.2. Tiến trình vụ kiện Ngày 11 tháng 01 năm 2002, Ấn độ yêu cầu tham vấn đối với Mỹ về vấn đề liên quan đến những quy định của Mỹ về hàng dệt may. Đó là những quy định trong “Quy tắc xuất xứ được áp dụng cho hàng dệt và các sản phẩm thêu nhập khẩu vào Mỹ theo mục 334 của Đạo luật về các Hiệp định Uruguay và mục 405 của Luật Thương mại và Phát triển năm 2000 của Mỹ”. Ấn độ cho rằng, theo mục 334 kể trên, quy tắc xuất xứ được áp dụng cho hàng dệt và các sản phẩm thêu nhập khẩu vào Mỹ đã bị thay đổi một cách nghiêm trọng. 13 Nguồn: Báo điện tử - Thời báo kinh tế Việt Nam, số ra ngày 06/06/2007 14 15 Xem phụ lục số 3
  29. 21 Theo đó, hàng dệt và thêu nhập khẩu vào Mỹ sẽ được tính là có nguồn gốc xuất xứ từ nước cung cấp vải thô chưa qua chế biến và được tính vào hạn ngạch nhập khẩu của nước này, chứ không được tính là có nguồn gốc từ nước gia công. Trong khi đó, loại hàng xuất khẩu của Ấn Độ chủ yếu là mặt hàng vải thô chưa qua chế biến, do đó hạn ngạch nhập khẩu vào Mỹ của Ấn Độ bị giảm đi rất nhiều. Điều này đã hạn chế cơ hội xuất khẩu hàng dệt may của Ấn Độ vào Mỹ. Ấn Độ cho rằng sự thay đổi này đã vi phạm khoản b, c của Điều 2 Hiệp định RO của WTO (xem phụ lục số 3). Ngoài ra, Ấn Độ cũng cho rằng mục 405 của Luật Thương mại và Phát triển năm 2000 của Mỹ đã đưa ra những quy định có tính thiên vị tạo thuận lợi cho các nhà xuất khẩu EC. Điều này vi phạm Điều 2d Hiệp định RO, theo đó quy tắc xuất xứ áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu và nhập khẩu không được có sự phân biệt đối xử giữa các nước thành viên của WTO. Ấn Độ cũng cho rằng Mỹ đã vi phạm Điều 2b Hiệp định RO khi sử dụng mục 405 này cho mục đích phục vụ chính sách thương mại của mình. Điều này gây ra những tác động làm hạn chế, bóp méo và rối loạn thương mại quốc tế, vi phạm Điều 2c của Hiệp định RO. Cuối cùng, quan điểm của Ấn Độ là hai mục 334 và 405 này đã tạo nên sự bất bình đẳng có ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của những sản phẩm dệt từ nước này. Vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, ngày 7 tháng 5 năm 2002, Ấn Độ yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm. Trong buổi họp vào ngày 22 tháng 5 năm 2002, DSB hoãn việc thành lập Ban Hội thẩm. Lần thứ 2 Ấn Độ yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm, DSB đã chấp nhận vào kỳ họp ngày 24 tháng 6 năm 2002. EC, Pakistan và Phillipines tham gia với tư cách là bên thứ ba vì là những nước ít nhiều có liên quan. Ngày 03/07/2002, Bangladesh tham gia với tư cách bên thứ ba. Ngày 04/07/2002, Trung Quốc tham gia với tư cách bên thứ ba. Ngày 10/10/2002, Ban Hội thẩm được nhóm họp. Ngày 09/04/2003, chủ tịch Ban Hội thẩm thông báo cho DSB rằng dựa theo sự phức tạp của vấn đề, Ban Hội thẩm không thể hoàn thành công việc của mình trong vòng 6 tháng; Ban Hội thẩm cố gắng sẽ có bản báo cáo cuối cùng vào đầu tháng 05/2003. Tuy nhiên cho đến ngày 20/05/2003, báo cáo của Ban Hội thẩm mới được hoàn thành và gửi tới các thành viên. Trong báo cáo, Ban hội thẩm chỉ ra rằng : + Ấn Độ đã sai trong việc cho rằng mục 334 của Đạo luật về các Hiệp định Uruguay của Mỹ là mâu thuẫn với điều 2b, 2c của Hiệp định RO. + Ấn Độ đã sai trong việc cho rằng điều 405 của Luật Thương mại và Phát triển của Mỹ là mâu thuẫn với Điều 2b, 2c, 2d của Hiệp định RO. * Sự tham gia của Trung Quốc Ngày 04/07/2002, Trung Quốc đã tham gia vào vụ tranh chấp này với tư cách bên thứ ba, cùng với các nước xuất khẩu hàng dệt khác như Pakistan, Bangladesh, Philippines. Kết quả cuối cùng của vụ kiện là bên nguyên đơn Ấn Độ thua kiện, tuy
  30. 22 vậy Trung Quốc vẫn cho thấy khả năng nắm bắt của mình đối với những quy tắc phức tạp của WTO. Trong văn bản đệ trình lên Ban Hội thẩm để trình bày ý kiến của mình về vụ tranh chấp, Trung Quốc chỉ ra rằng Mỹ áp dụng những quy tắc mới để xác định nguồn gốc các mặt hàng dệt và thêu dường như chỉ nhằm phục vụ cho mục tiêu bảo hộ thương mại của Mỹ. Còn phía Mỹ lập luận rằng việc sử dụng tiêu chuẩn mới này không gây ảnh hưởng xấu đến những nước sử dụng nguồn lao động rẻ, vì Mỹ đã chứng minh sự đóng góp của các nước này vào giá trị cuối cùng của sản phẩm là không đáng kể. Sau khi xem xét những lý lẽ từ cả hai phía Trung Quốc và Mỹ, Ban hội thẩm đồng ý với lập luận của Mỹ và kết luận những nguyên tắc này không vì mục đích bảo hộ thương mại. Tuy còn có những lời cáo buộc từ Ấn Độ nhưng nước này vẫn không đưa ra được bằng chứng chứng minh rằng quy tắc mới thực sự được sử dụng để bảo hộ nền công nghiệp dệt của Mỹ. Mặc dù chỉ tham gia vụ tranh chấp với tư cách bên thứ ba, nhưng Trung Quốc cũng đã đưa ra quan điểm của mình về những tranh cãi mang tính kỹ thuật và pháp lý phức tạp. Những lập luận của Trung Quốc trong vụ kiện này tuy không thành công bởi nguyên đơn là Ấn Độ đã thất bại trong việc chứng minh cho Ban Hội thẩm tin rằng Mỹ đã sử dụng quy tắc xuất xứ mới vì mục đích bảo hộ thương mại. Nhưng những lợi ích mà vụ việc phức tạp này đem lại cho Trung Quốc không phải được xem xét trên cơ sở Ấn Độ có thắng kiện hay không mà là những lợi ích Trung Quốc thu được về mặt tăng cường sự nắm bắt luật pháp của WTO cũng như tăng khả năng phân tích, lập luận và nói lên tiếng nói của mình. 3. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Dệt may là một lĩnh vực nhạy cảm và có vị trí quan trọng đối với nền kinh tế Trung Quốc nên những tranh chấp liên quan đến dệt may luôn được nước này quan tâm theo dõi sát sao. Vậy, tại sao Trung Quốc lại chọn hướng đi và chiến lược tham gia vào các vụ tranh chấp của WTO với tư cách bên thứ ba? Việt Nam có nên lựa chọn hướng đi như vậy hay không? Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ Trung Quốc là gì? Phần phân tích dưới đây sẽ làm rõ những điều này. Thứ nhất, khi tham gia vào các vụ tranh chấp với tư cách bên thứ ba, Trung Quốc sẽ có lợi từ một phán quyết thành công cho nguyên đơn theo nguyên tắc tối huệ quốc (MFN). Trung Quốc cũng sẽ không phải mất quá nhiều chi phí cũng như công sức để theo kiện như bên nguyên đơn, nhưng Trung Quốc vẫn có quyền được trình bày ý kiến của mình về vụ tranh chấp bằng văn bản đệ trình lên Ban Hội thẩm. Những văn bản đệ trình này cũng phải được gửi cho các bên tranh chấp và phải được phản ánh trong bản báo cáo của Ban Hội thẩm (Điều 10 của DSU). Bằng việc được trình bày ý kiến và quan sát các quốc gia khác tham gia vào vụ kiện, các chuyên gia của Trung Quốc sẽ có sự hiểu biết đầy đủ hơn về những quy định pháp lý phức tạp của WTO và
  31. 23 có cơ hội tự học hỏi để nâng cao nâng cao trình độ và năng lực của mình. Thực chất đây là một trong những cách đào tạo đội ngũ rất hiệu quả để tham gia vào WTO. Thứ hai, một trong những mục đích của Trung Quốc khi gia nhập WTO là để có thể bảo hộ tốt hơn những lợi ích đáng kể của mình bằng cách tham gia một cách tích cực vào hệ thống giải quyết tranh chấp, từ đó rút ra kinh nghiệm cho việc chuẩn bị hồ sơ theo đuổi vụ kiện, cố gắng không rơi vào thất bại như Ấn Độ. Thứ ba, Trung Quốc cũng muốn xây dựng hình ảnh và khẳng định vị trí Trung Quốc trên trường quốc tế. Trong vụ kiện nói trên, Trung Quốc đã trình bày ý kiến của mình về những quy định pháp lý phức tạp xoay quanh vấn đề áp dụng các quy định về quy tắc xuất xứ của WTO. Trên cơ sở đó, Trung Quốc muốn chứng minh rằng Trung Quốc là một nước có những chuyên gia có trình độ hiểu biết sâu về pháp luật thương mại quốc tế. Ba điểm trên phần nào lý giải vì sao Trung Quốc đã rất tích cực tham gia vào những tranh chấp của WTO dưới tư cách bên thứ ba. Từ vụ kiện này, có thể thấy mỗi nước sẽ tự đề ra những chính sách, chiến lược riêng mà họ cho là phù hợp nhất khi vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Trung Quốc gia nhập WTO vào năm 2001. Vụ kiện này được WTO giải quyết vào năm 2002. Mặc dù chỉ với vai trò của “bên thứ ba” như phân tích ở trên, những gì Trung Quốc làm được là bài học kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam. Việt Nam vừa gia nhập WTO, đội ngũ cán bộ có đủ năng lực tham gia vào tiến trình giải quyết tranh chấp của WTO còn yếu và thiếu. Vì vậy, theo chúng tôi Việt Nam nên học kinh nghiệm này của Trung Quốc khi vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO trong thời gian tới, đặc biệt là cho những năm trước mắt. - Bài học kinh nghiệm thứ nhất là phải chủ động nắm bắt các quy định trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để chủ động phân tích, nhận định và lập luận nhằm nói lên tiếng nói của mình, từ đó nâng cao vị thế của mình trong WTO. - Bài học thứ hai là cần chuẩn bị kỹ hồ sơ, luận chứng để khi đi kiện thì không bị thua kiện như Ấn Độ. Chỉ vì Ấn Độ hiểu sai nội dung của quy tắc xuất xứ trong Hiệp định RO của WTO, cũng như Ấn Độ hiểu và vận dụng chưa tốt pháp luật của Mỹ nên đã không bảo vệ được quan điểm của mình. II. Kinh nghiệm của Pakistan Sự lựa chọn nước thứ hai để phân tích là Pakistan. Pakistan cũng là một nước đang phát triển ở Châu Á như Việt Nam. Bên cạnh đó, Pakistan có thế mạnh trong việc xuất khẩu hàng dệt may và nước này đã theo đuổi một vụ tranh chấp về hàng dệt may trong khuôn khổ của WTO. Vì vậy nhóm nghiên cứu lựa chọn Pakistan là nước thứ hai để phân tích.
  32. 24 1. Nhận xét chung về thương mại hàng dệt may của Pakistan Pakistan là đất nước nằm ở khu vực Nam Á, phía Đông giáp Ấn Độ, Phía Tây giáp Iran và Afghanistan, phía Nam giáp biển Ảrập và phía Đông Bắc giáp Trung Quốc. Thủ đô là Islamabad. Với diện tích 880,254 km2, Pakistan có dân số khoảng 163,98 triệu người, trong đó 95% dân số theo đạo Hồi. Dự kiến trong năm 2007, chính phủ Pakistan ước tính Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nước này lên tới con số 475,6 tỷ USD đứng thứ 25 thế giới trong khi GDP đầu người ước đạt 3,004 USD16. Ngành dệt may của Pakistan đã có truyền thống phát triển lâu đời. Vào cuối thập niên 1950, Pakistan là một trong bốn nước xuất khẩu hàng dệt lớn nhất thế giới với những sản phẩm chủ yếu là chỉ và sợi bông. Cho tới hiện nay, dù có sự cạnh tranh đông đảo từ các nước khác nhưng Pakistan vẫn duy trì vị trí thứ ba thế giới về khả năng cạnh tranh trong thương mại hàng dệt may, chỉ đứng sau Trung Quốc và Ấn Độ. Đối với Pakistan, xuất khẩu hàng dệt may đóng vai trò quan trọng góp phần đáng kể vào việc tăng thu ngoại tệ. Năm 2004, giá trị xuất khẩu của ngành dệt may Pakistan đã đạt tới 6,125 tỷ USD và chiếm tỷ lệ 45,8 % tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nền kinh t17ế. Đến năm 2005 khi chế độ hạn ngạch MFA bị dỡ bỏ hoàn toàn, dệt may Pakistan đã có những bước tăng trưởng vượt bậc khi lượng xuất khẩu tăng lên nhanh chóng ở tất cả các thị trường. Vào thời điểm đó, Mỹ trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của hàng dệt may Pakistan với kim ngạch xuất khẩu đạt 2,5 tỷ USD trong cùng năm 2005. Từ tháng 06/2006 đến tháng 03/2007, xuất khẩu hàng dệt may của Pakistan đã đạt con số 8 tỷ USD, tăng 7% so với cùng kỳ tài khoá năm 2005/2006. Riêng tháng 03/2007, xuất khẩu các sản phẩm dệt may nước này đạt 987,484 triệu USD, tăng 95,27 triệu USD so với 892,214 triệu USD cùng tháng năm ngoái18. Pakistan chính thức là thành viên của WTO từ ngày 01/01/1995. Cho đến thời điểm hiện tại, theo thống kê của WTO, Pakistan đã tham gia tất cả 13 vụ tranh chấp, trong đó có 2 vụ Pakistan là nguyên đơn, 3 vụ là bị đơn và 8 vụ tham gia với tư cách bên thứ ba19. Trong số 3 vụ Pakistan khởi kiện có 1 vụ là về thương mại hàng dệt may: Pakistan khởi kiện Mỹ về chế độ hạn ngạch nước này áp dụng với sợi cotton chải kỹ nhập khẩu từ Pakistan vào Mỹ. Do đó, việc phân tích quá trình giải quyết tranh chấp trong thương mại hàng dệt may của Pakistan, mà cụ thể là vụ kịên dưới đây sẽ đem lại nhiều bài học kinh nghiệm bổ ích cho dệt may Việt Nam khi vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. 16 17 Nguồn: Thời đại mới – Tạp chí Nghiên cứu và thảo luận, 2005 18 Nguồn: Trung tâm thông tin Bộ Thương mại, tháng 03 năm 2007. 19
  33. 25 2. Vụ kiện: chế độ hạn ngạch đối với sợi cotton chải kỹ nhập khẩu từ Pakistan vào Mỹ và sự vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO từ phía Pakistan 2.1. Tóm tắt vụ kiện Bên khiếu nại : Pakistan Bên bị khiếu nại : Hoa Kỳ Bên thứ 3 : Cộng đồng chung Châu Âu, Ấn Độ Nội dung tranh chấp: Chế độ hạn ngạch đối với sợi cotton chải kỹ. Cụ thể là tranh chấp liên quan đến: Điều 6, Điều 2.4, Điều 8.10 Hiệp định ATC20. Ngày chấp nhận yêu cầu tham vấn : 03/04/2000 Ngày thông qua Báo cáo của Ban Hội thẩm : 31/05/2000. Ngày thông qua Báo cáo của Ban Phúc Thẩm : 08/10/2001. 2.2. Diễn biến Từ năm 1995, thương mại dệt may trên thế giới có những bước tăng trưởng mạnh, chủ yếu là do Hiệp định hàng Đa sợi đã được thay thế bởi Hiệp định hàng Dệt may theo cơ chế của WTO. Theo cách thức mới này, các chế độ hạn ngạch cao áp dụng đối với hàng dệt may xuất khẩu của các nước đang phát triển sẽ dần dần được xoá bỏ để đưa ngành sản xuất này vào khuôn khổ điều chỉnh của WTO. Ngành dệt may của Pakistan đã có những phản ứng tích cực, bằng chứng là khối lượng sản xuất cũng như sản lượng xuất khẩu dệt may đã tăng lên đáng kể. Kết quả là trong thời gian đó, Pakistan trở thành nước xuất khẩu sợi cotton chải kỹ lớn thứ hai vào Mỹ, và đây chính là khởi nguồn cho mọi tranh chấp phát sinh giữa Pakistan và Mỹ đối với mặt hàng này. Ngày 24/12/1998, chính phủ Pakistan nhận được một Thông báo triệu tập từ chính phủ Mỹ để tham vấn các vấn đề liên quan đến việc thiết lập hạn ngạch nhập khẩu đối với sợi cotton chải kỹ xuất khẩu từ Pakistan vào Mỹ. Vấn đề cơ bản là Mỹ cáo buộc rằng xuất khẩu của Pakistan là nguyên nhân gây ra những thiệt hại có thể chứng minh được của ngành dệt may Mỹ. Cơ sở pháp lý mà Mỹ viện dẫn đến là những biện pháp tự vệ chuyển tiếp quy định theo Điều 6 của Hiệp định hàng Dệt may của WTO. Sau khi tham vấn song phương thất bại ở giai đoạn đầu, Pakistan phải đưa vụ tranh chấp ra Cơ quan giám sát dệt may và cuối cùng là cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử thương mại của Pakistan có một vụ kiện trải qua tất cả các giai đoạn theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. 2.3. Giai đoạn xem xét tại Cơ quan giám sát dệt may Sau khi đàm phán song phương giữa Pakistan và Mỹ thất bại thì vào ngày 05/03/1999, Mỹ đã thông báo lên TMB rằng nước này quyết định áp đặt hạn ngạch nhập khẩu đối với sợi cotton chải kỹ của Pakistan trong vòng 3 năm chiểu theo Điều 6 20 Xem phụ lục số 4
  34. 26 của Hiệp định ATC. Biện pháp này sẽ có hiệu lực từ ngày 17/03/1999. Vụ việc trên được đưa ra vào cuộc họp lần thứ 54 của TMB tổ chức vào tháng 04/1999. Hai bên đã tranh cãi kịch liệt trong vụ tranh chấp, tuy nhiên bên đại diện cho Pakistan đã bác bỏ được gần hết những luận điệu do bên Mỹ đưa ra. Vụ tranh chấp này chủ yếu tập trung vào thuật ngữ “không chính xác” mà Mỹ dùng để mô tả ngành công nghiệp nội địa của mình và nghi vấn về khả năng tồn tại của những bằng chứng dùng để cáo buộc về mối quan hệ nhân quả giữa việc nhập khẩu từ Pakistan và những thiệt hại của ngành sản xuất dệt may của Mỹ. Mỹ đã định nghĩa ngành công nghiệp nội địa nước này chỉ bao gồm những nhà sản xuất sợi để bán cho thương nhân và loại bỏ số lượng của những nhà sản xuất sợi như là sản phẩm trực tiếp. Pakistan khiếu nại rằng khái niệm này của Mỹ đã vi phạm Điều 6.2 của ATC. Sau sáu ngày dài tranh cãi và phản biện một cách thận trọng, cuối cùng những nỗ lực của Pakistan đã đạt kết quả. TMB đã chấp nhận những luận điệu của phía Pakistan và đưa ra quyết định có lợi cho nước này cùng với yêu cầu Mỹ phải dỡ bỏ hàng rào nhập khẩu ngay lập tức. Mặc dù những khuyến nghị của TMB không có tính ràng buộc đối với các nước tham gia và thực tế là Mỹ đã không bãi bỏ chế độ hạn ngạch mà còn kháng cáo lại quyết định này, nhưng có thể nói những nỗ lực hợp tác của chính phủ, các cơ quan có liên quan và cả khối doanh nghiệp Pakistan đã thành công rực rỡ. Sau đó, kháng cáo của Mỹ cũng không được chấp nhận và Ban Hội thẩm của TMB lại yêu cầu phía Mỹ dỡ bỏ hạn ngạch nhập khẩu. 2.4. Giai đoạn đưa vụ kiện lên giải quyết tại Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO 2.4.1. Việc trì hoãn đưa vụ kiện lên DSB Do phía Mỹ đã từ chối tuân theo khuyến nghị của TMB ngay cả khi kháng cáo của nước này bị bác bỏ vào tháng 06/1999, Pakistan chỉ có lựa chọn duy nhất là đưa vụ tranh chấp lên DSB. Đây là giai đoạn cuối cùng và cũng là quan trọng nhất của vụ tranh chấp và không giống như TMB, quyết định mà DSB thông qua có tính ràng buộc thực thi đối với các nước tham gia. Tuy nhiên, Pakistan cũng phải mất tới gần 1 năm mới hoàn thành xong khâu yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm ở DSB. Một lý do nữa cho sự chậm trễ này là những cuộc tham vấn song phương giữa Mỹ và Pakistan được tổ chức vào tháng 11/1999 và sau đó là vào năm 2000. Chính hy vọng hạn ngạch nhập khẩu sẽ được dỡ bỏ sau đàm phán song phương đã khiến chính phủ Pakistan chờ đợi cho đến khi những cuộc đàm phán này có kết quả. Sau khi đàm phán song phương tiếp tục thất bại, Pakistan mới nhận thức được một cách muộn màng rằng phía Mỹ chỉ đơn giản sử dụng chiến thuật kéo dài thời gian. Hạn ngạch nhập khẩu sẽ được áp dụng trong vòng 3 năm và Mỹ đã có chiến lược lấp đầy khoảng
  35. 27 thời gian này càng nhiều càng tốt. Sau cùng vào tháng 04/2000, chính phủ Pakistan đã chính thức đưa vụ kiện lên DSB. 2.4.2. Tiến trình vụ kiện Vào ngày 03/04/2000, Pakistan đã đưa ra yêu cầu tham vấn đối với những biện pháp tự vệ chuyển tiếp của Hoa Kỳ được áp dụng vào ngày 17/03/1999 về mặt hàng sợi cotton chải kỹ nhập khẩu từ Pakistan. Pakistan cho rằng: - Những biện pháp tự vệ chuyển tiếp của Mỹ là mâu thuẫn với nghĩa vụ phải tuân theo điều 2.4 của ATC và không phù hợp với điều 6 của ATC. - Việc áp dụng hạn ngạch của Mỹ không đáp ứng được yêu cầu để được áp dụng các biện pháp tự vệ được nêu trong đoạn 2,3,4 và 7 của điều 6 ATC. - Ngay sau đó, Pakistan đã yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm. Tại buổi họp của mình vào ngày 18/05/2000, Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) đã hoãn việc thành lập Ban Hội thẩm. Sau đó vào buổi họp ngày 19/06/2000, yêu cầu lần thứ hai của Pakistan đã được chấp thuận, DSB đã quyết định thành lập Ban Hội thẩm. Ấn Độ và EC là bên thứ 3 có liên quan. Vào ngày 30/08/2000, Ban Hội thẩm đã được thành lập, gồm có 1 chủ tịch và 2 hội thẩm viên, 1 người đến từ Cộng đồng chung Châu Âu EC và 2 người còn lại đến từ Ấn độ. Theo đại diện của Pakistan thì tiến trình tại DSB tương đối khác với khi được xem xét ở TMB. Trong khi ở TMB các bên thảo luận và tranh cãi rất nhiều thì DSB chú trọng vào các công việc giấy tờ, theo đó các câu hỏi trong các phiên tranh tụng đều tập trung vào những văn bản đề xuất của các bên Mỹ và Pakistan. Ban Hội thẩm đã đưa ra bản báo cáo vào ngày 31/05/2001. Ban Hội thẩm kết luận rằng biện pháp tự vệ chuyển tiếp (hạn chế về số lượng) của Mỹ áp đặt lên sợi cotton chải kỹ nhập khẩu từ Pakistan vào ngày 17/03/1999 và kéo dài đến ngày 17/03/2000 là không phù hợp với Điều 6 của Hiệp định ATC. Đặc biệt hơn, Ban Hội thẩm cho rằng: - Hoa Kỳ đã loại bỏ số lượng sợi cotton chải kỹ của những nhà sản xuất trong nước sản xuất chỉ để phục vụ nhu cầu của riêng mình ra khỏi phạm vi của “ngành công nghiệp trong nước sản xuất các sản phẩm cạnh tranh tương tự và/hay trực tiếp” khi so sánh với sợi cotton chải kỹ nhập khẩu. Điều này đã vi phạm trách nhiệm pháp lý căn cứ vào mục 6.2 của ATC. - Việc Hoa Kỳ không xem xét đến ảnh hưởng của việc nhập khẩu từ Mexico (và có thể từ một số Thành viên khác) là không phù hợp với Điều 6.4 của ATC. - Việc Hoa Kỳ không chứng minh được rằng mặt hàng nhập khẩu tạo ra một mối nguy hiểm thật sự có thể gây tổn hại đến ngành công nghiệp nội địa là vi phạm Điều 6.2 và 6.4 của ATC .
  36. 28 Ban Hội thẩm đề nghị DSB yêu cầu Hoa Kỳ đưa các biện pháp tự vệ phù hợp với các điều khoản đã quy định trong ATC, và khuyến nghị rằng việc xoá bỏ hạn chế nhập khẩu là cách tốt nhất để đạt được điều này. Vào ngày 09/06/2001, Hoa Kỳ quyết định nộp đơn kháng cáo lên Cơ quan Phúc thẩm về một số vấn đề pháp lý nhất định trong bản Báo cáo của Ban Hội thẩm và một số giải thích về mặt pháp lý của Ban Hội thẩm. Vào ngày 05/09/2001, Cơ quan Phúc thẩm thông báo cho DSB rằng họ không thể đưa ra bản báo cáo của mình kịp hạn cuối vào ngày 07/09/2001. Thông báo này được chuyển gửi đến các Thành viên vào ngày 08/10/2001. Cơ quan Phúc thẩm đã giữ nguyên phán quyết của Ban Hội thẩm về kết luận rằng các biện pháp tự vệ chuyển tiếp của Hoa Kỳ đối với mặt hàng sợi cotton chải kỹ nhập khẩu từ Pakistan là không phù hợp với ATC và cho rằng Hoa Kỳ đã: - Không định nghĩa chính xác và thích đáng đối với định nghĩa sợi sản xuất bởi “ngành công nghiệp nội địa” - Không đánh giá được những tổn hại mà các nhà xuất khẩu lớn khác có thể gây ra đối với ngành dệt may Mỹ. DSB đã tiếp nhận báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm vào ngày 05/11/2001. Tại cuộc họp của DSB ngày 21/11/2001, Hoa Kỳ cho biết rằng Ủy ban thi hành Hiệp định dệt may đã chỉ dẫn cho Cơ quan Hải quan Hoa Kỳ phải xoá bỏ mọi hạn ngạch đối với nhập khẩu sợi cotton chải kỹ từ Pakistan. Nói cách khác, Hoa Kỳ đã thi hành các yêu cầu của DSB. Toàn bộ quá trình, với các mốc thời gian như đã trình bày ở trên cho thấy bắt đầu từ ngày Mỹ áp đặt hạn ngạch cho đến ngày chế độ này được dỡ bỏ đã kéo dài tới gần 2 năm 9 tháng, gần bằng khoảng thời gian 3 năm mà Mỹ đưa ra để áp dụng biện pháp tự vệ chuyển tiếp là áp đặt hạn ngạch. Theo lời phát biểu của ông Akbar Sheikh, chuyên gia tư vấn của Pakistan: “Cuối cùng, cả 2 bên đều chiến thắng. Pakistan thắng bởi vì họ có được quyết định có lợi cho mình và Mỹ cũng thắng bởi vì nước này đã duy trì được chế độ hạn ngạch tới gần 3 năm nhờ thời gian kéo dài của vụ tranh chấp”21 3. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Bài học thứ nhất là sự kiên trì và quyết tâm theo đuổi vụ kiện. Thể hiện rõ quyết tâm, Pakistan đã kiên trì theo đuổi vụ kiện và cuối cùng thì nước này cũng có được một phán quyết có lợi cho mình. Sự quyết tâm đó được thể hiện bởi sự phối hợp chặt chẽ giữa chính phủ, cơ quan quản lý nhà nước là Bộ Thương mại, Hiệp hội các nhà sản xuất dệt may (APTMA) và cộng đồng doanh nghiệp Pakistan. Cộng đồng doanh nghiệp Pakistan đã tích cực hỗ trợ cung cấp thông tin liên quan đến tình hình sản xuất và xuất khẩu của mặt hàng sợi cotton chải kỹ cho phía chính phủ và Hiệp hội. Hiệp hội 21 Trích bài viết ‘Victory in principle: Pakistan’s Dispute Settlement Case on Combed Cotton Yarn Exports to the United States” – Turab Hussain, Giảng viên khoa Kinh tế, Trường Đại học Quản lý khoa học Lahore
  37. 29 cũng đã đóng góp đáng kể nhằm tạo thuận lợi cho công tác chuẩn bị và tiến hành giải quyết tranh chấp. Hiệp hội đã bầu ra một uỷ ban thường trực về các vấn đề liên quan đến WTO và chống bán phá giá nhằm cung cấp thông tin cho các luật sư, chuyên gia tư vấn đồng thời hoạt động như một nhân tố kết nối giữa chính phủ và giới doanh nghiệp. Hiệp hội còn thành lập một bộ phận chuyên về WTO với mục đích tư vấn cho các doanh nghiệp thành viên có liên quan hiểu biết về môi trường thương mại thế giới và luật thương mại quốc tế. Bên cạnh đó, Bộ Thương mại cũng ngay lập tức thành lập một Đội WTO với một bộ phận chức năng gồm 6 ban công tác hoạt động theo các hiệp định khác nhau của WTO. Bài học thứ hai, mời chuyên gia tư vấn có kinh nghiệm khi cần thiết. Sự thành công có được là vì Pakistan đã biết kịp thời thuê chuyên gia tư vấn giỏi -ông Akbar Sheikh (chuyên gia tư vấn nội địa được Bộ thương mại thuê). Thực chất, Pakistan cũng không có cơ quan chuyên trách nào đảm nhiệm vai trò phối hợp hoạt động của chính phủ và Hiệp hội APTMA để giải quyết các vấn đề liên quan đến WTO cũng như những tranh chấp thương mại. Do đó, chính phủ vẫn cần phải chủ động hơn trước những tranh chấp bằng việc phát triển một khung thể chế có hiệu quả nhằm tranh tụng cho các vụ kiện trong tương lai. Chính phủ Pakistan phải thành lập một cơ quan chuyên trách về những tranh chấp có liên quan đến WTO ngay trong Bộ thương mại. Đối với những vụ việc về dệt may nói riêng, cơ quan này cần phải phối hợp chặt chẽ với bộ phận chuyên về WTO của Hiệp hội APTMA để giải quyết hiệu quả các tranh chấp. Hơn nữa, cơ quan chuyên về WTO phải cung cấp những chỉ dẫn thích hợp đối với những vấn đề liên quan đến thương mại và giải quyết tranh chấp cho các bên tham gia. Những nghiên cứu này cũng cần phải cập nhật với các tranh chấp đang xảy ra trên toàn thế giới, đồng thời phải duy trì việc thu thập những vụ tranh chấp trước đây. Chuyên gia pháp lý có trình độ trong lĩnh vực này là sự lựa chọn sáng suốt. Bài học thứ ba, phải đặc biệt chú ý đến công tác đào tạo đội ngũ. Một trong những vấn đề trung tâm của vụ kiện là do thiếu vắng các chuyên gia trong nước am hiểu luật thương mại quốc tế, trong quá trình đi kiện, Pakistan đã phải thuê rất nhiều luật sư và chuyên gia tư vấn nước ngoài. Chính điều này đã làm cho chi phí pháp lý tăng lên đáng kể và trở thành một gánh nặng tài chính. Ở giai đoạn TMB, Hiệp hội APTMA và Bộ thương mại đã thoả thuận một đề xuất san sẻ kinh phí. Theo đó, Hiệp hội APTMA sẽ đóng góp 50% tổng chi phí và phần còn lại sẽ do Vụ xúc tiến xuất khẩu EPB (thuộc Bộ thương mại) lấy từ ngân sách của Quỹ phát triển xuất khẩu EDF chi trả. Phần chi phí mà APTMA phải trả sẽ được chia đều cho các thành viên bị ảnh hưởng (các nhà xuất khẩu sợi cotton chải kỹ) và cả những thành viên không chịu ảnh hưởng trực tiếp từ vụ tranh chấp. Ở một khía cạnh nào đó, việc bằng lòng san sẻ gánh nặng tài chính đã chứng tỏ các thành viên của APTMA đã nhận thấy được tầm quan trọng và những lợi ích lâu dài mà vụ tranh chấp có thể mang lại. Tuy nhiên, đến khi vụ tranh chấp được đưa lên DSB, APTMA gặp rất nhiều khó khăn khi kêu gọi những doanh nghiệp có liên quan đóng góp chi phí pháp lý lần thứ 2. Thực tế là có những
  38. 30 doanh nghiệp vì thiếu hiểu biết về cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và thấy Mỹ không thực hiện khuyến nghị, nên họ cho rằng chẳng có lý do gì để theo đuổi vụ kiện đến cùng. Nhưng sau rất nhiều nỗ lực kêu gọi hợp tác từ phía các doanh nghiệp thì cuối cùng Hiệp hội APTMA đã có được khoản tiền để trả chi phí phát sinh tại giai đoạn đưa vụ kiện ra DSB theo như cam kết. Trong vụ kiện cụ thể này thì vấn đề tài chính rồi cũng được giải quyết nhưng chẳng có gì đảm bảo là chi phí pháp lý sẽ không trở thành gánh nặng cho Pakistan khi theo đuổi những tranh chấp trong tương lai. Sau vụ kiện này chính phủ Pakistan đã rút ra bài học là phải đầu tư để đào tạo chuyên gia tư vấn và luật sư trong nước có thể đảm nhận được việc giải quyết tranh chấp liên quan đến WTO. Bài học thứ tư, chấp nhận hy sinh để tạo ra một tiền lệ tích cực hướng về tự do và bình đẳng trong thương mại quốc tế. Vào thời điểm diễn ra tranh chấp, khối doanh nghiệp dệt may Pakistan có quá ít thông tin về chương trình làm việc cũng như mục tiêu mà WTO hướng tới nên nói chung, họ có khái niệm là WTO đại diện cho lợi ích thương mại của các nước phát triển. Các doanh nghiệp có cảm giác là ngay cả khi DSB ra quyết định thì cũng chẳng có gì đảm bảo Mỹ sẽ tuân theo quyết định này, bởi vì Mỹ sẽ chẳng gặp phải một đe doạ đáng kể nào từ một nền kinh tế nhỏ như Pakistan ngay cả khi WTO cho phép áp dụng các biện pháp trả đũa. Do vậy, đạt được phán quyết có lợi trong vụ kiện sẽ là cơ hội để củng cố niềm tin của các doanh nghiệp nội địa; xoá bỏ những nghi ngại về tính hiệu quả trong việc duy trì các nguyên tắc tự do hoá và công bằng thương mại giữa các nước thành viên có trình độ phát triển kinh tế không đồng đều trong WTO. Bên cạnh đó, cần nhấn mạnh rằng đây là lần đầu tiên Pakistan vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để bảo vệ quyền lợi của mình trong thương mại hàng dệt may. Bên cạnh những lợi ích trực tiếp có được từ việc dỡ bỏ hạn ngạch nhập khẩu, điều quan trọng là tranh chấp này có thể dẫn tới việc tạo ra một tiền lệ pháp lý tích cực. Theo lời của ông Akbar Sheikh, chuyên gia nội địa đại diện cho chính phủ Pakistan trong nhiều giai đoạn của quá trình giải quyết tranh chấp, cho rằng : “cần phải chính thức phản đối những cơ sở pháp lý về việc áp dụng hạn ngạch mà Mỹ đưa ra, bởi vì điều này có thể dẫn tới việc thiết lập một tiền lệ mà sẽ gây ra những hậu quả lâu dài không chỉ đối với Pakistan mà còn đối với tất cả những nước đang phát triển khác trên thế giới khi giải quyết tranh chấp trong ngành dệt may”22. III. Kinh nghiệm của Ấn Độ Lý do lựa chọn Ấn Độ để phân tích và để rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam vì Ấn Độ là một trong những nước đang phát triển đã nhiều lần khởi kiện các nước phát triển lên cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO để bảo vệ thương mại hàng dệt may của nước mình. Vì vậy, Việt Nam rất cần học tập kinh nghiệm của Ấn Độ. 22 Trích bài viết “Victory in Principle: Pakistan’s Dispute Settlement Case on Combed Cotton Yarn Exports to the United States” – Turab Hussain, Giảng viên khoa Kinh tế, Trường Đại học Quản lý khoa học Lahore