Giáo trình Nhập môn xã hội học - Lê Minh Chiến

pdf 71 trang hapham 4270
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Nhập môn xã hội học - Lê Minh Chiến", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_nhap_mon_xa_hoi_hoc_le_minh_chien.pdf

Nội dung text: Giáo trình Nhập môn xã hội học - Lê Minh Chiến

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT F 7 G GIÁO TRÌNH NHẬP MÔN XÃ HỘI HỌC LÊ MINH CHIẾN Khoa Lịch Sử
  2. Nhập môn xã hội học - 2 - MỤC LỤC PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ CƠ BẢN CỦA XÃ HỘI HỌC 5 CHƯƠNG I: ĐỐI TƯỢNG VÀ CHỨC NĂNG NGHIÊN CỨU CỦA XÃ HỘI HỌC 5 Khái quát hình thành và sự phát triển của xã hội học 5 I. Đối tượng nghiên cứu và cơ cấu của xã hội học 8 1.Thuật ngữ Xã hội học là gì ? 8 2. Đối tượng nghiên cứu của xã hội học 8 3. Cơ cấu của môn xã hội học. 9 II. Những nguyên lý xây dựng tri thức xã hội học khoa học và chức năng của xã hội học 10 1. Các nguyên lý xây dựng tri thức xã hội học 10 2. Chức năng của xã hội học 10 CHƯƠNG II: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN TRONG NGHIÊN CỨU XÃ HỘI HỌC 12 I. Khái niệm cơ cấu xã hội 12 1.Quan điểm của xã hội học về cơ cấu xã hội 12 2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu cơ cấu xã hội 13 II.Nhóm xã hội 13 III.Vị thế xã hội 14 IV. Vai trò 15 V. Thiết chế xã hội 15 VI. Phân tầng xã hội 16 VII. Tính di động xã hội 17 VIII. Xã hội hoá 19 1.Một số quan niệm về “con người xã hội” 19 2.Khái niệm xã hội hoá 21 3. Một số nội dung nghiên cứu cơ bản về xã hội hoá 22 IX .Khái niệm lối sống 26 X. Cộng đồng xã hội 26 1. Khái niệm 26 2. Đặc trưng cộng đồng 27 XI. Giá trị xã hội- Chuẩn mực xã hội và Lệch lạc xã hội 27 PHẦN II: MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU VỀ XÃ HỘI HỌC CHUYÊN BIỆT 28 CHƯƠNG I: XÃ HỘI HỌC ĐÔ THỊ 28 I. Tổng quan về môn xã hội học đô thị 28 1. Sự hình thành và phát triển của xã hội học đô thị 28 2. Một số hướng tiếp cận cơ bản trong nghiên cứu xã hội học đô thị 28 II. Khái quát quá trình đô thị hoá ở trên thế giới và Việt nam 29 1. Quá trình đô thị hoá trên thế giới và Việt Nam 29 2. Đặc trưng lối sống đô thị 30 3. Cơ cấu xã hội và sự phân tầng xã hội tại đô thị trong thời kỳ đổi mới 30 Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  3. Nhập môn xã hội học - 3 - 4. Một số nhân tố quy định nét đặc thù của lối sống đô thị Việt Nam hiện nay 32 5. Khía cạnh xã hội học của vấn đề nhà ở, quy hoạch và quản lý đô thị hiện nay 33 CHƯƠNG II: XÃ HỘI HỌC NÔNG THÔN 36 I. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu xã hội học nông thôn 36 1. Đối tượng nghiên cứu 36 2. Các thiết chế chính trị – xã hội ở nông thôn 38 3. Văn hóa nông thôn 40 4. Lối sống của cư dân nông thôn 41 CHƯƠNG III: XÃ HỘI HỌC GIA ĐÌNH 42 I. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu xã hội gia đình 42 1. Đối tượng nghiên cứu của xã hội học gia đình 42 2. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của xã hội học gia đình 44 3. Phương pháp nghiên cứu 45 II. Nội dung nghiên cứu cơ bản của xã hội học gia đình 45 1. Cơ cấu, quy mô của gia đình 45 2. Các chức năng và xu hướng biến đổi của các chức năng gia đình 46 CHƯƠNG IV: DƯ LUẬN XÃ HỘI 49 I. Bản chất của dư luận xã hội 49 1. Khái niệm 49 2. Dư luận xã hội và một số khái niệm liên quan 50 3. Quá trình hình thành dư luận xã hội 50 4. Những yếu tố chính tác động đến sự hình thành dư luận xã hội 50 II. Chức năng và ý nghĩa của việc nghiên cứu dư luận xã hội 51 1. Chức năng của dư luận xã hội 51 2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu dư luận xã hội 52 III. Tổ chức nghiên cứu dư luận xã hội 53 1. Sự tác động của các phương tiện thông tin đại chúng đến việc hình thành dư luận xã hội 53 2. Nghiên cứu dư luận xã hội bằng phương pháp xã hội học 54 3. Sử dụng các kết quả điều tra nghiên cứu dư luận xã hội 54 PHẦN III: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU XÃ HỘI HỌC 55 CHƯƠNG I: MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP VÀ KỸ THUẬT THU THẬP THÔNG TIN XÃ HỘI HỌC 55 I. Phương pháp luận xã hội học 55 1. Phương pháp nghiên cứu xã hội học 55 2. Hệ phương pháp 55 3. Kỹ thuật nghiên cứu 55 II. Các phương pháp và kỹ thuật điều tra xã hội học 56 1. Phương pháp phân tích tài liệu 56 2. Phương pháp quan sát 56 3. Phương pháp trưng cầu ý kiến. 57 4. Phương pháp thực nghiệm 60 CHƯƠNG II: CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC 61 Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  4. Nhập môn xã hội học - 4 - 1. Xây dựng khung lý thuyết 61 2. Chọn phương pháp điều tra 63 3. Xây dựng bảng hỏi 63 4. Chọn mẫu điều tra 65 5. Lập phương án dự kiến xử lý thông tin điều tra thử và hoàn thiện các bước chuẩn bị 67 II. Xử lý thông tin, kiểm định giả thuyết, trình bày báo cáo và xã hội hoá kết quả điều tra thực nghiệm 68 1. Tập hợp tài liệu, phân nhóm và miêu tả, giải thích 68 2. Kiểm tra giả thuyết nghiên cứu 69 3. Trình bày bản báo cáo và xã hội hoá kết quả 69 TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH 71 Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  5. Nhập môn xã hội học - 5 - PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ CƠ BẢN CỦA XÃ HỘI HỌC CHƯƠNG I: ĐỐI TƯỢNG VÀ CHỨC NĂNG NGHIÊN CỨU CỦA XÃ HỘI HỌC Khái quát hình thành và sự phát triển của xã hội học 1. A. Comte ( 1789-1857) Xã hội học có nguồn gốc từ lâu nhưng nó chỉ trở thành một môn khoa học độc lập vào khoảng những năm 30 của thế kỷ XIX, nó gắn liền với tên tuổi của nhà Xã hội học là A.Comte (19-1-1798 - 5-9-1875) . Ông là một nhà Toán học, Vật lý học, Thiên văn học, Xã hội học tư sản, Triết học duy tâm chủ quan Pháp. Từ 1817-1824, ông là thư ký riêng của Xanh Ximông, là một trong những người sáng lập ra “chủ nghĩa thực chứng”, Vào năm người năm 1836 Oâng đã đưa ra thuật ngữ “Xã hội học”. Thuật ngữ “xã hội học” bắt nguồn từ chữ La tinh Societas (xã hội) và chữ Logos (học thuyết) trong tiếng Hy Lạp được ghép lại thành Sociology, với nghĩa chung nhất là Xã hội học và đã được ông định nghĩa là “ Nghiên cứu thực chứng toàn bộ các quy luật cơ bản của các hiện tựơng xã hội “ Trong Triết học thực chứng của A.Comte đòi hỏi phải tôn trọng các sự kiện, phải tin tưởng các tri thức thực chứng; ông yêu câu phải áp dụng các kiến thức chính xác do khoa học tự nhiên mang lại, đồng thời, phải luôn đặt mọi sự nghiên cứu trong mối quan hệ ràng buộc với sự giải thích tổng thể. Bên cạnh những lập luận khoa học mới , A.Comte vẫn còn những hạn chế nhất định trong thời đại mình đó là còn mang nặmg yếu tố duy tâm . Tuy nhiên, những cống hiến của ông cho một ngành khoa học mới, các nhà khoa học sau này đã suy tôn A.Comte như là ông tổ -Người đặt nền móng xây dựng nên Xã hội học hiện đại. Cụ thể là A.Comte là người sáng lập ra xã hội trên cơ sở “tách” tri thức xã hội học ra khỏi Triết học xã hội 2. E. Durkheim (1858-1917) Emile Durkheim (1858 - 1917) một nhà khoa học người Pháp đã sáng lập ra xã hội học trên cơ sở “tách” tri thức xã hội học ra khỏi Tâm lý học cá nhân. Trung tâm lý thuyết xã hội học của ông là các sự kiện xã hội và những hành động mang tính quy luật của con người trên cơ sở tuân thủ và chịu sự kiểm soát của các phong tục, tập quán, thiết chế xã hội, những trật tự, khuôn mẫu và quy tắc của hành vi, các yếu tố “Đoàn kết xã hội” ( Tự tử- Le Suicide) . Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  6. Nhập môn xã hội học - 6 - E. Dur kheim, được đánh giá là cha đẻ của xã hội học Pháp. Vào năm 1895 ông đã cho ra đời tác phẩm “ các quy tắc của phương pháp xã hội học “ trong đó vạch rõ các phương pháp cơ bản khi nghiên cứu xã hội học. Sau đó ,ông viết tác phẩm “ Tự tử”, thông qua việc phân tích các loại hình tự tử,ông tin rằng các xã hội tiến bộ được nhờ vào sự góp sức và tin tưởng vào các giá trị của các thành viên trong xã hội. Quan điểm nghiên cứu xã hội học của E. Durkheim là chú ý đến các sự kiện xã hội. Sự kiện xã hội theo ông là mọi cái có thể gây ra sự cưỡng bức từ bên ngoài đối với cá nhân, đồng thời mỗi cái đều có sự tồn tại riêng độc lập với những biểu hiện cá nhân của nó. Vì thế , đối tượng nghiên cứu của xã hội học bao gồm : các sự kiện xã hội, nguyên nhân và chức năng của các hiện tượng xã hội, 3. Max Weber ( 1864-1920): M. Weber, một nhà xã hội học Đức, ông được coi là cha đẻ của xã hội học về Tôn giáo. Ông là nhà xã hội học lớn đầu thế kỷ XX. Quan điểm xã hội học của ông là Hành động xã hội hay Lý thuyết về hành động xã hội. Trong đó ông mô tả có bốn loại hành động xã hội : - Hành động theo cảm xúc - Hành động theo truyền thống - Hành động hợp lý theo giá trị - Hành động có tính mục đích. Tác phẩm “ Luân lý thệ phản và tinh thần của chủ nghĩa tư bản “ trong đó ông giải thích rằng nếu lấy các yếu tố kỹ thuật và kinh tế để giải thích sự phát triển của chủ nghĩa tư bản thì sẽ không đúng mà nó phải là yếu tố tinh thần thệ phản. Theo M. Weber thì đạo Tin lành, với tư cách một là hệ thống giá trị có vai trò lớn trong tổ chức hành động của một số tác nhân xã hội và làm nảy sinh xã hội tư bản (Xã hội học ; Vũ minh Tâm chủ biên, tr 35) Ngoài ra, M. Weber còn phân tích sâu sắc sự hình thành hệ thống quan liêu như một kiểu tổ chức xã hội. Nó là hệ thống thứ bậc theo lối chức năng trong đó có sự liên hệ phi cá nhân giữa các thành viên được điều tiết bởi các chuẩn mực cố định, đó là công cụ hợp lý của thế gới hiện đại. Về mặt phương pháp,ông có những đóng góp tích cực như phương pháp hiểu và phương pháp mẫu. Sau A.Comte và Durkheim, Weber . là sự phát triển nở rộ của xã hội học châu Aâu cùng với những thành tựu liên tiếp đạt được trong các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, công nghệ. Xã hội học đã ngày càng khẳng định mình như là một khoa học độc lập. Trong những năm đầu của thế kỷ XX, xã hội học đã đóng một vai trò đáng kể trong việc điều hoà quan hệ giữa người và người trong sản xuất, trong việc nghiên cứu dư luận dư luận xã hội, tìm ra các giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả của các quá trình quản lý. Tất nhiên, trong điều kiện của các chủ nghĩa tư bản, một số học giả tư sản đã cố gắng sử dụng công cụ xã hội để dung hoà hoặc cố gắng loại trừ các mâu thuẫn, xung đột xã hội nhằm phục vụ và bảo vệ lợi ích cho nhà nước tư sản. Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  7. Nhập môn xã hội học - 7 - Đến giữa thế kỷ XX, có hai khuynh hướng phát triển của xã hội học tư sản: Khuynh hướng châu Aâu và Mỹ. Xã hội học châu Aâu phát triển gắn với triết học xã hội, còn xã hội Mỹ thì ngay từ đầu hình thành như một khoa học chủ yếu về hành vi con người. Những thành tựu chủ yếu của xã hội học Mỹ là hàng loạt lý luận cấp trung, đặc biệt là các lý luận về tổ chức, về cấu trúc xã hội, các nhóm nhỏ, hành vi tập thể, thông tin đại chúng nhất là trong các nghiên cứu về đô thị và tội phạm v v định hướng vào việc giải quyết các vấn đề xã hội cụ thể. Đại biểu như T.Parsons (1902-1979, G.H. Mead )Điều đó hoàn toàn phù hợp với chủ nghĩa thực dụng ở Mỹ. Xã hội học Mỹ mở ra những lĩnh vực mới mà trước đây hoàn toàn chưa được nghiên cứu tới. Đến nay, người ta nhận thấy đang có sự “Mỹ hoá” xã hội học châu Aâu. 4. Xã hội học Mác-xít C.Mác và Ph.Aêngghen là những người sáng lập ra xã hội học Mác xít. Các ông đã phân tích một cách sâu sắc và toàn diện xã hội tư bản chủ nghĩa, những mâu thuẫn của xã hội đó, từ đó vạch ra những quan điểm duy vật biện chứng về xã hội. Các tác phẩm nổi tiếng như :“Tư bản”, “Cuộc đấu tranh giai cấp ở Fháp (1848- 1850)”, “Ngày 18 tháng Sương mù cuả Lui Bônapac”, “Nội chiến ở Pháp” . C.Mac và Ph.Aênggen là những mẫu mực về sự thống nhất giữa lý luận và thực nghiệm trong việc phân tích các quá trình và hiện tượng xã hội của xã hội tư bản chủ nghĩa. Di sản phong phú của Mác - Ăngghen đã được quán triệt và phát triển hơn nữa trong các tác phẩm của V.I.Lênin: “Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga”, “Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản”, “Sáng kiến vĩ đại”, “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô viết” và nhiều tác phẩm khác. Lênin đã nói những công trình nghiên cứu xã hội học, đặc biệt là những công trình liên quan đến các hoạt động của đảng, nhà nước có một ý nghĩa to lớn. Ông đã chỉ ra rằng, để cho việc nghiên cứu xã hội học thực sự có tính khoa học, phải dựa vào những sự thật chính xác và không thể chối cãi được để thử xác định một cơ sở mà người ta có thể dựa vào, từ đó có thể dùng để đối chiếu với bất cứ lập luận nào trong những lập luận “chung” hay “khuôn mẫu”, những lập luận mà ngày này trong một vài nước người ta quá ư lạm dụng. Muốn cho điều đó thực sự trở thành một cơ sở thì cần phải xét không những sự thật riêng biệt, mà toàn thể những sự thật đó liên quan đến vấn đề đang xét, không trừ một ngoại lệ nào, bởi vì nếu không thì nhất định người ta sẽ nghi ngờ và nghi ngờ một cách hoàn toàn không chính đáng rằng, những sự thật đã được lưạ chọn hay thu thập một cách tuỳ tiện, rằng thay cho mối liên hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau một cách khách quan giữa những hiện tượng lịch sử xét trong chỉnh thể của chúng ta, người ta đưa ra một sự bôi bác chủ quan . Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  8. Nhập môn xã hội học - 8 - I. Đối tượng nghiên cứu và cơ cấu của xã hội học 1.Thuật ngữ Xã hội học là gì ? Có nhiều định nghĩa khác nhau về xã hội học: E.Durkheim :” Xã hội học là khoa học nghiên cứu các sự kiện xã hội” M.Weber cho rằng đó là khoa học về hành động xã hội. V.A. Jadov : “Xã hội học là khoa học về sự hình thành, phát triển và sự vận hành của các cộng đồng xã hội, các tổ chức xã hội và các quá trình xã hội với tính cách là các hình thức tồn tại của chúng; là khoa học về các quan hệ xã hội với tính cách là các cơ chế liên hệ và tác động qua lại giữa các cá nhân và cộng đồng; là khoa học về quy luật của các hành động xã hội và các hành vi của quần chúng” Hay :“Xã hội học là một bộ môn khoa khoa học xã hội nghiên cứu tính chỉnh thể của các quan hệ xã hội ; nghiên cứu các quy luật phổ biến và đặc thù của các hình thái kinh tế xã hội; về các cơ chế hoạt động,các hình thức biểu hiện của các quy luật đó trong các hoạt động của các cá nhân,các nhóm,tập đoàn xã hội .” 2. Đối tượng nghiên cứu của xã hội học Cuộc tranh luận về xác định đối tượng nghiên cứu của xã hội học đã diễn ra từ lâu và ngày nay vẫn đang tiếp diễn. Quan niệm Xã hội học macxít không đồng nhất với chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời cũng không phủ nhận và đối lập với chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan niệm này ngày càng trở nên có sức thuyết phục hơn và được coi như là một quan điểm về con đường hợp lý để giải quyết nhiều vấn đề chưa được giải quyết của khoa học này. Không thể quy đối tượng của xã hội học về đối tượng của triết học xã hội. Sự khác biệt giữa chúng là ở chỗ, xã hội học xem xét xã hội qua các phạm trù và các khái niệm đặc biệt hơn so với triết học xã hội, ngoài ra, còn qua các khái niệm gắn với các nhân tố được kiểm nghiệm, điều đó được bảo đảm bằng cách triển khai hệ biến vị xã hội học đại cương và các lĩnh vực xã hội học cục bộ của xã hội học. Đối tượng của chủ nghĩa duy vật lịch sử hay của triết học xã hội là các quy luật chung nhất về sự vận động và phát triển của xã hội, còn đối tượng của xã hội học chủ yếu lại là cơ chế tác động và các hình thức biểu hiện của các quy luật đó. Các phạm trù cơ bản của triết học xã hội là tồn tại xã hội và ý thức xã hội,trong khi đó xã hội học lại nghiên cứu cấu trúc xã hội, hệ thống xã hội, các tổ chức xã hội và các đồng nhóm Không phải là con người với tính cách là chủ thể của xã hội mà là nhân cách với tính cách là một loại hình xã hội và các quá trình xã hội hoá các cá thể; không phải là các quan hệ xã hội trong bản chất sâu xa của chúng mà chủ yếu lại là các tương tác xã hội và các mối liên hệ qua lại của xã hội. Triết học xã hội xem xét các quá trình xã hội ở cấp độ trừu tượng cao nhất, nó không gắn trực tiếp với các dữ kiện thực nghiệm mà cơ sở là các khái quát khoa học cụ thể, được phát triển trong các khoa học cục bộ vế xã hội, trong đó bao hàm cả xã hội học. Còn xã hội học, đặc biệt là xã hội học chuyên biệt và xã hội học thực nghiệm lại luôn gắn chặt với các khảo sát và thực nghiệm khoa học (mà sức sống của nó là Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  9. Nhập môn xã hội học - 9 - những dữ kiện, các số liệu và các tài liệu thống kê sống động). Khi nghiên cứu xã hội và tính chỉnh thể của nó, xã hội học không định hướng vào việc vạch ra những mối quan hệ có tính nhân quả ở tầm bao quát toàn bộ xã hội như chủ nghĩa duy vật lịch sử , mà nó nghiên cứu xã hội dưới góc độ và tính chất của đám đông, trong đó mỗi con người có thể được xem như một thành viên của nhóm. Triết học xã hội đóng vai trò thế giới quan và phương pháp luận cho mọi khoa học xã hội khác, trong đó bao hàm cả xã hội học. Vế phần mình, xã hội học không thực hiện những chức năng nói trên, nó chỉ là khoa học về các điều kiện và các tính quy luật hình thành và phát triển con người xã hội và các hình thức tổ chức con người vào các cơ sở, các nhóm, các cộng đồng. Xã hội học tập trung nghiên cứu vào những đặc trưng, xu hướng vận động và phát triển của các tổ chức xã hội, các quá trình xã hội. - Những nguyên nhân, nguồn gốc, động cơ của các hành động xã hội, của các cá nhân, các nhóm, các cộng đồng. - Những mối tương tác xã hội cũng như những vấn đề mang tính quy luật cùa các hành động xã hội, hành vi xã hội 3. Cơ cấu của môn xã hội học. Cơ cấu của môn xã hội học được phân chia theo hai phương diện: một là, theo phạm vi của nhóm được nghiên cứu bao gồm xã hội học đại cương và xã hội học chuyên biệt: hai là, theo mức độ trừc tượng bao gồm xã hội học trừu tượng lý thuyết và xã hội học cụ thể - thực nghiệm. a) Xã hội học đại cương và xã hội học chuyên biệt. Xã hội học đại cương là cấp độ cơ bản của hệ thống lý thuyết xã hội học. Xã hội học đại cương là khoa học của cái chung nhất, của các quy luật xã hội học về sự hoạt động và phát triển của xã hội, của sự tương tác tự nhiên, vốn có của các yếu tố hợp thành hệ thống xã hội. Xã hội học chuyên biệt là cấp độ các quan hệ nhất định phản ánh mối liên hệ khách quan giữa các mặt khác nhau của đời sống xã hội. Các lý luận xã hội học chuyên biệt này là khâu trung gian gắn lý luận xã hội học đại cương với việc nghiên cứu xã hội học các hiện tượng của đời sống xã hội. Ngày nay, xã hội học chuyên biệt hiện đại được phân chia ra thành các môn xã hội học về: - Tôn giáo - Nông thôn, đô thị - Nghệ thuật + Văn hoá + Tương tác xã hội + Các cộng đồng cư dân + Bất bình đẳng dân tộc và chủng tộc + Vai trò giới tính và bất bình đẳng + Gia đình + Các phong trào xã hội + Các biến đổi xã hội về văn hoá và chuẩn mực xã hội v v b) Lý thuyết Xã hội học và xã hội học thực nghiệm Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  10. Nhập môn xã hội học - 10 - Xã hội học là một khoa học lý thuyết cũng như các khoa học xã hội học khác. Trong một hệ thống những sự trừu tượng hoá (như các khái niệm, phạm trù, quy luật, giả thuyết xã hội học .), nhà xã hội học luôn tìm cách tái thể hiện trong quá trình tư duy, đối tượng xã hội, mô tả trạng thái của nó thâm nhập vào các quy luật hoạt động và phát triển của nó, hiểu được và dự báo được xu hướng phát triển tất yếu của nó. Đồng thời, xã hội học là một trong các khoa học thực nghiệm. Nó rút ra các kết luận xã hội từ các trắc nghiệm, các quan sát thực nghiệm xã hội, từ các tài liệu thực nghiệm thu được về các đối tượng xã hội, từ các tài liệu thực nghiệm thu được về các đối tượng xã hội. Như vậy, xã hội là một khoa học vừa có tính chất thực nghiệm lại vừa có tính chất lý thuyết, nghĩa là một khoa học không chỉ mô tả các sự kiện thực nghiệm mà còn rút ra những quy luật và khái niệm từ sự phân tích lý thuyết các dự kiện thực nghiệm mà còn rút ra những quy luật và khái niệm từ sự phân tích lý thuyết các dữ kiện thực nghiệm. Do bản chất của xã hội học với tính cách là một khoa học thực nghiệm - lý thuyết, cho nên nhận thức xã hội học có hai giai cấp độ: thực nghiệm và lý thuyết. Cấp độ xã hội học thực nghiệm bao gồm việc thu thập thông tin xã hội thông qua quan sát, thí nghiệm và xử lý các thông tin xã hội đó. Tiêu biểu của cấp độ này là sử mô tả các sự kiện thực nghiệm. Mỗi quan hệ giữa cấp độ lý thuyết và thực nghiệm của nhận thực xã hội đươc thể hiện cụ thể như sau: - Nhận thức lý thuyết được xây dựng trên cơ sở của nhận thức thực nghiệm. - Nhận thức lý thuyết không phải là sự tiếp diễn đơn giản nhận thức thức nghiệm. Trường hợp nhận thức lý thuyết, nhà xã hội học dựng lên một hệ thống rõ ràng các định nghĩa, các khái niệm, các giả thuyết và giả định nhưng họ luôn luôn quay về với cấp độ thực nghiệm, coi đó là nguồn gốc của sự khái quát hoá. - Nhận thức thực nghiệm với nghĩa nó là cái có trước, là cơ sở cho sự khái quát hoá lý thuyết. II. Những nguyên lý xây dựng tri thức xã hội học khoa học và chức năng của xã hội học 1. Các nguyên lý xây dựng tri thức xã hội học a) Nguyên lý duy vật b) Nguyên lý về sự phát triển c) Nguyên lý tính hệ thống d) Nguyên lý tính phản ánh. e) Nguyên lý vế tính khoa học. 2. Chức năng của xã hội học a) Chức năng nhận thức Lý luận xã hội học và các công trình nghiên cứu thực nghiệm xã hội học trang bị cho các nhà nghiên cứu và các nhà lãnh đạo những tri thức khoa học về sự phát triển của xã hội và những quy luật của sự phát triển. Nó định rõ nguồn gốc (nguyên nhân) của các quá trình và hiện tượng xã hội. Khi vạch ra các quy luật Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  11. Nhập môn xã hội học - 11 - khách quan của các hiện tượng và quá trình xã hội, xã hội đã tạo ra những tiền đề nhận thức, những triển vọng của xã hội nói chung cùng như những mặt, nhưng lĩnh vực riêng rẽ của nó. b) Chức năng thực tiễn Chức năng thực tiễn của xã hội học có mối quan hệ với chức năng nhận thức cua nó. Vấn đề quan trọng nhât của chức năng thực tiễn là yếu tố tiên đoán. Dựa vào sự phân tích hiện tượng của xã hội và những mặt, những quy trình riêng rẽ của nó, xã hội học có nhiệm vụ làm sáng tỏ các triển vọng và xu hướng phát triển của xã hội. Khi nghiên cứu các hiện tượng của các quan hệ xã hội, xã hội học giúp con người có thể đặt những quan hệ xã hội của mình dưới sự kiểm soát của bản thân và điều hoà các quan hệ đó cho phù hợp với yêu cầu khách quan của tiến bộ xã hội. Việc dự báo xã hội dựa trên cơ sở nhận thức sâu sắc các quy luật và xu hướng phát triển của xã hội, là điều kiện và tiền đề để kế hoạch hoá và quản lý xã hội một cách khoa học, tiền đề để kế hoạch và quản lý xã hội một cách khoa học. c) Chức năng tư tưởng Muốn lãnh đạo được xã hội thì người lãnh đạo phải nắm vững tình hình tư tưởng, trạng thái tâm lý của các tầng lớp nhân dân. Trạng thái tư tưởng luôn luôn biến động theo những diễn biến của thực trạng kinh tế, chính trị, xã hội. Xã hội học giúp chúng ta hiểu rõ thực trạng tư tưởng đề làm tốt công tác chính trị, tư tưởng, nắm bắt và định hướng được dư luận xã hội, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý và lãnh đạo các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  12. Nhập môn xã hội học - 12 - CHƯƠNG II: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN TRONG NGHIÊN CỨU XÃ HỘI HỌC I. Khái niệm cơ cấu xã hội 1.Quan điểm của xã hội học về cơ cấu xã hội Trong lịch sử xã hội học đã từng tồn tại nhiều quan điểm và các định nghĩa khác nhau về cơ cấu xã hội cũng như các cách tiếp cận nghiên cứu khác nhau về khái niệm - cơ cấu xã hội. - Theo quan niệm của G.V.Oâxipôp, khái niệm cơ cấu xã hội có liên quan mật thiết đến khái niệm hệ thống xã hội và khái niệm thứ nhất là bộ phận của khái niệm thứ hai. Khái niệm cơ cấu xã hội bao hàm hai thành tố: + Thành phần xã hội + Những liên hệ xã hôi Thành phần xã hội là tập hợp các bộ phận, các nhóm, các giai cấp, các công đồng xã hội cấu thành cơ cấu xã hội. - Theo quan niệm của Ian Robertson, “Cơ cấu xã hội là mô hình của các quan hệ giữa các thành phần cơ bản trong hệ thống xãhội. Những thành phần này tạo nên bộ khung cho tất cả xã hội loài người, mặc dầu tính chất của các thành phần và các quan hệ giữa chúng biến đổi từ xã hội này đến xã hội khác. Những thành phần quan trọng nhất của cơ cấu xã hội là vị thế, vai trò, nhóm các thiết chế”1 Định nghĩa trên chỉ ra các đặc trưng sau đây của cơ cấu xã hội: + Cơ cấu xã hội không những được xem như là một tổng thể, một tập hợp các bộ phận ( các cộng đồng, các tầng lớp,các giai cấp ) cấu thành xã hội mà còn được xem xét về mặt kết cấu và hình thức tổ chức bên trong của một hệ thống xã hội. Đặc trưng này là rất quan trọng, bởi cũng giống như mọi khách thể vật chất khác, xã hội cũng cần được xem xét về mặt kết cấu và hình thức tổ chức. Có nghĩa là: Cơ cấu xã hội được coi là sự thống nhất của hai mặt: các thành phần xã hội và các mối liên hệ xã hội - phản ánh được đúng đắn và toàn vẹn các nhân tố hiện thực đã cấu thành nên cơ cấu xã hội. Quan niệm này vừa khắc phục được cách nhìn phiến diện khi đã quy cơ cấu xã hội vào các quan hệ xã hội; đồng thời cũng khắc phục được cách nhìn tách rời giữa cơ cấu xã hội và các quan hệ xã hội. Thật ra, các quan hệ xã hội hay cá môi liên hệ xã hội luôn luôn là sự thống nhất biên chứng giữa hai mặt: các thành phần xã hội và các mối liên hệ xã hội. Sự vân động và biến đổi của cơ cấu xã hội luôn có nguồn gốc từ sự thống nhất và đấu tranh giữa cắc mặt, các mối liên hệ, các yếu tố đã cấu thành cơ cấu xã hội. Cơ cấu xã hội là một “bộ khung”, “bộ dàn” để xem xét xã hội cho phép chúng ta biết được một xã hội cụ thể được cấu thành từ những nhóm xã hội nào, nhóm xã hội lớn: một nước, một dân tộc, một quốc gia, một giai cấp, một chính đảng, tầng lớp v v hay nhóm xã hội nhỏ: một xí nghiệp, một lớp học, một cơ quan.v.v Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  13. Nhập môn xã hội học - 13 - Cũng thông qua “bộ khung” này mà chúng ta biết được “vị thế” tức là chỗ đứng của từng cá nhân, từng nhóm xã hội trong xã hội; vai trò xã hội của các cá nhân và các nhóm xã hội và thiết chế xã hội (tức là cách thức tổ chức của các hoạt động xã hội và các quan hệ xã hội nhằm bảo đảm sự ăn khớp của các hành vi của các cá nhân và các nhóm xã hội vận hành một cách bình thường, ổn định - phát triển. Khi nghiên cứu về cơ cấu xã hội cần chú ý đến các phân hệ cơ bản của cơ cấu cấu xã hội : • Cơ cấu giai cấp –xã hội • Cơ cấu nhân khẩu – xã hội • Cơ cấu nghề nghiệp-xã hội • Cơ cấu lãnh thổ-xã hội. • Cơ cấu dân tộc-xã hội 2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu cơ cấu xã hội Nghiên cứu cơ cấu xã hội sẽ cho chúng ta một bức tranh tổng quát về xã hội, từ đó có thể vạch ra được chiến lược xây dựng mô hình cơ cấu xã hội tối ưu, bảo đảm sự vận hành có hiệu quả, thực hiện tốt các vai trò xã hội theo chiều hướng tiến bộ. - Nghiên cứu cơ cấu xã hội, đặc biệt là nghiên cứu sự phân tầng xã hội, cho phép chúng ta đi sâu vào phân tích thực trạng nhận diện được một cách chân thực những đặc trưng và xu hướng phát triển của đất nước, từ đó có cơ sở khoa học để vạch ra những chính sách xã hội phù hợp nhằm tập trung lôi kéo được những lực lượng tinh hoa, những phần tử năng động nhất, tài năng nhất của xã hội để bố trí vào những vị trí quyền lực then chốt (quyền lực chính trị, kinh tế), quản lý và điều hành xã hội một cách có hiệu quả, hướng vào mục tiêu dân giàu, nước mạnh. Trên cơ sở vạch ra những nhân tố lệch chuẩn hoặc những nhân tố sẽ dẫn đến phá vỡ sự ổn định xã hội, rối loạn chức năng, các nhà xã hội học có thể kiến nghị lên cấp trên, đưa ra một hệ thống chích sách thích hợp, điều chỉnh hoặc khắc phục những hiện tượng lệch chuẩn, cũng như những biểu hiện tiêu cực khác. - Việc nghiên cứu cơ cấu xã hội – giai cấp và các phân hệ cơ cấu xã hội cơ bản khác cho phép chúng ta nắm được nhân lõi cơ bản của cơ cấu xã hội, từ đó có chiến lược nhằm đưa ra mô hình cơ cấu xã hội thích hợp; mặt khác, có điều kiện để hiệu chỉnh và điều phối một tổng thể các cơ cấu xã hội sao cho hài hoà và ăn khớp với nhau trong sự phát triển của xã hội. - Góp phần hoàn thiện công tác quản lý và ổn định xã hội trên tất cả các lĩnh vực kinh tế chính trị xã hội II.Nhóm xã hội Nhóm xã hội là tập hợp người có liên hệ với nhau theo một kiểu nhất định hay nói một cách khác, nhóm xã hội là một tập hợp người có liên hệ với nhau về vị thế, vai trò, những nhu cầu lợi ích và những định hướng giá trị nhất định. - Nhóm xã hội khác với đám đông người: Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  14. Nhập môn xã hội học - 14 - Đám đông chỉ là tập hợp người ngẫu nhiên đơn thuần, không có mối liên hệ nào bên trong. Thí dụ: một tốp người trên bãi biển, một đám người trên quảng trường hay trước rạp hát Nhóm có liên hệ hữu cơ bên trong, là sự tập hợp của những người được liên hệ với nhau trên cơ sở những lợi ích đòi hỏi phải cùng cộng tác hoặc chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau. Nhóm là những bộ phận hữu cơ, cơ bản cấu thành xã hội. Các đặc trưng xã hội phụ thuộc chủ yếu vào bản chất và hoạt động của nhóm mà nó bao hàm. - Phân loại nhóm: Hiện nay người ta thường chia làm hai loại nhóm: nhóm nhỏ và nhóm lớn. Nhóm theo nghĩa hẹp (hay nhóm nhỏ) là một tập hợp xã hội ít người mà trong đó các thành viên có quan hệ trực tiếp và tương đối ổn định với nhau. Những quan hệ xã hội trong nhóm nhỏ được thể hiện dưới hình thức tiếp xúc cá nhân. Đó là cơ sở làm nảy sinh những quan hệ tình cảm cũng như các giá trị đặc thù và những chuẩn mực của cách ứng xử. Thí dụ: gia đình, đội sản xuất, đội thể thao, lớp học. Nhóm theo nghĩa rộng (hay nhóm lớn) là tập hợp các cộng đồng nhóm, được hình thành trên cơ sở các dấu hiệu xã hội chung có liên quan trước hết đến đời sống trên cơ sở của một hệ thống quan niệm trong xã hội hiện có. Thí dụ: một quốc gia, một dân tộc, một đảng phái, một đoàn thể. Ngoài cách phân chia theo nhóm lớn và nhóm nhỏ, người ta còn phân chia ra thành các cặp nhóm khác như: nhóm chính, nhóm phụ, nhóm cơ bản, nhóm không cơ bản.v v. III.Vị thế xã hội Theo quan niệm của nhà xã hội học R.Linton thì “ vị thế xã hội là vị trí xã hội của một cá nhân trong hệ thống xã hội “. Nó trả lời cho câu hỏi Anh là ai ? Mỗi vị thế quyết định chỗ đứng của một cá nhân nào đó trong xã hội và mối quan hệ của cá nhân đó với những người khác. Cá nhân không chỉ có một vị thế mà nhiều vị thế. Thí dụ: một ngươi vừa là cha trong gia đình, vừa là một giám đốc xí nghiệp hoặc chủ tịch của một hiệp hội nào đó. Trong các vị thế xã hội thì vị thế nghề nghiệp là quan trong nhất. Nó trở thành vị thế chủ đạo, có vai trò quyết định đối với việc xác định những đặc điểm nào đó của một cá nhân. Có thể chia vị thế ra làm hai loại: Vị thế tự nhiên: là vị thế mà con người được gắn bởi những thiên chức, những đặc điểm cơ bản mà họ không thể tự kiểm soát được. Thí dụ, trẻ hay già, nam hay nữ, da đen hay da trắng. Ví thế xã hội: (vị thế đạt được) là vị thế phụ thuộc vào những đặc điểm mà trong một trừng mực nhất định, cá nhân có thể kiểm soát được. Vị thế xã hội phụ thuộc vào sự nỗ lực phấnđấu và nghị lực vươn lên của bản thân. Thí dụ: một người có thể trở thành kỹ sư hay bác sĩ, giám đốc xí nghiệp hay bộ trưởng. Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  15. Nhập môn xã hội học - 15 - IV. Vai trò Khái niệm vai trò được bắt nguồn từ nghệ thuật sân khấu, có nghĩa là một cá nhân nào đó phải thực hiện vai diễn. Theo Xã hội học, một vai trò có nghĩa là một tập hợp các chuẩn mực, hành vi, nghĩa vụ và quyền lợi gắn với một vị thế nhất định. Một người có thể chiếm một vị thế hay đóng một vai trò nhất định trong xã hội. Thí dụ, giáo sư là một vị thế xã hội, gắn với vị thế này là vai trò nghề nghiệp được quy định bởi các chuẩn mực xã hội, buộc người có vị thế đó phải thực hiện. Vị thế thường ổn định, nó là sự định vị, là chỗ đứng của một cá nhân nào đó trong xã hội, song vai trò thì cơ động hơn. Thí dụ: cũng làm một chức danh giám đốc, song ở xí nghiệp này thì cá nhân đó thực hiện những vai trò này, còn ở xí nghiệp khác thì lai thực hiện những vai trò khác. Trong thực tế, một vị thế thường là có một vài vai trò. Thí dụ, giáo sư đại học chỉ có một vị thế nghề nghiệp song lại đóng nhiều vai trò khác nhau như đồng nghiệp, giảng dạy,nghiên cứu khoa học. V. Thiết chế xã hội Thiết chế xã hội là một tập hợp bền vững của các giá trị chuẩn mực, vị thế, vai trò và nhóm vận động xung quanh một nhu cầu cơ bản của xã hội. - Chức năng của thiết chế: Thiết chế có hai chức năng chủ yếu: + Khuyến khích, điều hoà hành vi của con người phù hợp với quy phạm và chuẩn mực của thiết chế và tuân thủ thiết chế. + Ngăn chặn, kiểm soát, giám sát những hành vi lệch lạc do thiết chế quy định. Mọi thiết chế xã hội đều được đặc trưng bởi sự hiện diện của mục đích hành động, bởi những chức năng cụ thể để bảo đảm cho việc đạt được mục đích, bởi sự tập hợp các địa vị và những chế tài bảo đảm cho cái đáng có và ngăn chặn cái lệch lạc. Sự tồn tại của mọi xã hội, tính ổn định và sự phát triển của nó, không thể có được nếu không có quản lý xã hội và kiểm soát xã hội. Thiết chế xã hội thực hiện chưc năng quản lý và kiểm soát xã hội. Nó được giáo quyền sử dụng biện pháp thưởng phạt các thành viên trong xã hội. - Các đặc điểm của thiết chế: + Thiết chế có tính bền vững tương đối và thường biến đổi chậm. Thiết chế xã hội hình thành trên cơ sở của một hệ thống những giá trị, chuẩn mực lâu đời và khá bền vững của xã hội. Bời vậy nó có đặc trưng là phản ứng là những biến đổi của xã hội rất chậm. Trong các xã hôi cực quyền, nhất là ở những thời kỳ trí tuệ, thiết chế rất kém nhạy cảm và nhìn chung nó có xu hướng cưỡng lại những biến đổi, những cuộc cải cách. + Các thiết chế có xu hướng phụ thuộc vào nhau. Các thiết chế xã hội chủ yếu thường duy trì những giá trị và chuẩn mực chung, phản ánh những mục tiêu và ưu tiên xã hội chung. Bởi vậy, các thiết chế có xu hướng phụ thuộc vào nhau. Vì Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  16. Nhập môn xã hội học - 16 - tất cả các thiết ché xã hội đều củng cố những mục tiêu chung, chúng tương ứng , gần gũi hoặc gần giống nhau nên bất cứ một thiết chế nào cũng được thể hiện một phần trong các thiết chế khác va là một mặt, một bộ phận của toàn bộ xã hội. Khi một thiết chế xã hội cơ bản thay đổi thỉ thường kéo theo sự thay đổi của một loạt các thiết chế khác + Những thiết chế có xu hướng trở thành tiêu điểm của những vấn đề xã hội chủ yếu. Vì các thiết chế được thiết lập trên cơ sở của những nhu cầu xã hội cơ bản, bởi vậy, bất kỳ sự đổ vỡ nào của một thiết chế xã hội cũng đều trở thành những vấn đề xã hội nghiêm trọng. Thí dụ, nạn thất nghiệp là một vấn đề của nền kinh tế, sự suy sụp hay tan vỡ của hôn nhân là vấn đề của thiết chế gia đình, tỷ lệ tội phạm gia tăng là dấu hiệu của thiết chế pháp luật, sự rối loạn xã hội là vấn đề của thiết chế chính trị v v - Các loại thiết chế: Trong xã hội nhât định có nhiều loại thiết chế, trong đó thiết chế quan trọng nhất là thiết chế chính trị, pháp luật, kinh tế, gia đình, giáo dục , Văn hoá Tuy nhiên, các thiết chế thường có xu hướng bảo thủ, kém nhạy cảm và phản ánh không kịp trước những biến đổi của xã hội. Do vậy, chúng cần luôn luôn được xem xét, chỉnh lý,cải cách hoặc đổi mới sao cho không bị lạc hậu để làm tốt chức năng quản lý và kiểm soát xã hội. VI. Phân tầng xã hội 1.Khái niệm Tầng lớp xã hội là tổng thể của mọi cá nhân trong cùng một hoàn cảnh xã hội. Họ ngang nhau về tài sản (thu nhập), trình độ học vấn (hay trình độ văn hoá); địa vị, vai trò hay uy tín trong xã hội; khả năng thăng tiến cũng như có được những ân huệ hay thứ bậc trong xã hội. Trên cơ sở khái niệm tầng lớp xã hội mà có khái niệm phân tầng xã hội. Phân tầng xã hội có thể hiểu như là một sự phân nhỏ xã hội (bao hàm cả sự bình giá). Đó là sự phân chia xã hội ra thành các tầng xã hội khác nhau về địa vị kinh tế (hay tài sản), địa vị chính trị (hay quyền lực), địa vị xã hội (hay uy tín) cũng như một số khác biệt về trình độ nghề nghiệp, học vấn, kiểu nhà ở, nơi cư trú, phong cách sinh hoạt, cách ứng xử, thị hiếu nghệ thuật v v Hay có quan niệm rằng phân tầng xã hội chính là sự sắp xếp một cách tương đối ổn định các vị thế xã hội dưới góc độ quyền lực,uy tín,đặc quyền đặc lợi không ngang nhau. Phân tầng xã hội là khái niệm chỉ sự bất bình đẳng thực tế tồn tại giữa các cá nhân,các nhóm các giai tầng khác nhau về địa vị trong thang bậc xã hội. Xã hội học quan tâm đặc biệt đến phân tầng trên các khía cạnh như sự phân tầng dẫn đến những căng thẳng trong xã hội ra sao,nó liên quan đến các khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội như thi cử,thú vui tuổi thọ,sự tín nhiệm chính trị,khả năng chuyển dịch các vị thế vai trò, hệ thống đẳng cấp giai cấp Phân tầng xã hội lại được phân ra thành: - Tầng lớp bên trên va tầng lớp bên dưới, (những nấc thang cao - thấp khác nhau) Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  17. Nhập môn xã hội học - 17 - - Sự di chuyển từ tầng lớp này sang tầng lớp khác (hoặc di chuyển trong nội bộ một tầng). - Sự phân tầng “mở” hoặc phân tầng “đóng”. - Trong hệ thống phân tầng “đóng” hay có đẳng cấp, ranh giới giữa các tầng lớp rất rõ rệt và con người rất khó có thể thay đổi địa vị của mình (vị thế xã hội của mỗi con người dường như bất biến, không thay đổi). + Trong hệ thống phân tầng “mở” hay có giai cấp, ranh giới giữa các tầng uyển chuyển, linh hoạt hơn. Trong những xã hội này, con người có những cơ hội để có thể thay đổi vị trí của mình (tuy nhiên, sự thay đổi chỉ có một giới hạn nhất định nào đó). + Ngoài hai loại phân tầng “đóng” trong xã hôi có đăng cấp, phân tầng “mở” trong xã hôi có giai cấp, trong thực tế còn có loại phân tầng theo lứa tuổi - (loại phân tầng này tương đối phổ biến trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, xã hội tiền giai cấp). a) Một số lý thuyết về sự phân tầng Theo Jean Cazênuve, có thể xếp học thuyết về phân tầng xã hội làm hai loại: - Lý thuyết xung đột: đây là lý thuyết của những người chịu ảnh hưởng bởi quan niệm tiếp cận về hình thái kinh tế - xã hội và quan niệm về giai cấp của Mác, những người này chủ yếu nhấn mạnh đến vấn đề quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Họ coi đó là đặc trưng chủ yếu của sự phân tầng xã hội hay là dấu hiệu chủ yếu nhận biết hoặc sự phân chia xã hội ra thành những giai cấp này hay giai cấp khác. Họ cũng nhấn mạnh đến đấu tranh giai cấp, đến xung đột xã hội, coi đó là nguồn gốc và động lực thúc đẩy sự phát triển của lịch sử. - Lý thuyết chức năng: những người theo thuyết chức năng nhấn mạnh đến trạng thái cân bằng, đến cơ cấu hơn là đến những biến đổi của cơ cấu ấy. Theo họ, phân tầng là một hiện tượng khách quan và có tính chức năng, nhằm đáp ứng những nhu cầu cần thiết của xã hội và đặt ra vấn đề là làm sao phải có một xã hội đẳng cấp. Theo Parsons, một đại biểu của thuyết chức năng, phân tầng được coi là sự sắp xếp cá nhân vào trong một hệ thống xã hội trên cơ sở những tiêu chuẩn của một hệ thống chung về giá trị, phân tầng là kết quả trực tiếp và cũng là phương tiện của hoạt động xã hội. - Lý thuyết dung hoà: G.Lenski cho rằng, trong xã hội luôn có những động cơ thôi thúc người ta giữ các vị trí xã hội, đồng thời cũng diễn ra các qúa trình xung đột và đấu tranh giành quyền thống trị. Max Weber đặt ra nguyên tắc nghiên cứu “ba chiều” về xã hội, coi khái niệm xã hội bao hàm cả việc phân chia xã hội thành các giai cấp. Ông đã tách một luận điểm về giai cấp thành ba phần riêng biệt nhưng có quan hệ mật thiết với nhau, đó là: địa vị kinh tế hay tài sản, địa vị chính trị hay quyền lực, địa vị xã hội hay uy tín. VII. Tính di động xã hội Nghiên cứu cơ cấu xã hội đòi hỏi phải gắn liền với nghiên cứu tính “cơ động xã hội”. Theo quan niệm của các nhà xã hội học, đặc trưng nổi bật của xã hội là Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  18. Nhập môn xã hội học - 18 - có tính linh hoạt, linh động, thường biến đổi vì chúng phụ thuộc vào tính cơ động xã hội. a) Định nghĩa Tính cơ động xã hội là tính linh hoạt của các cá nhân và các nhóm xã hội trong kết cấu xã hội. Nó là sự chuyển đổi vị trí của một người hay một nhóm xã hội này cho một người, một nhóm xã hội khác trong cùng một tầng hay khác tầng trong bậc thang giá trị xã hội. b) Các loại cơ động xã hội Cơ động xã hội theo “chiều ngang”. Đó là sự chuyển đổi vị trí của một người hay một nhóm người sang vị trí xã hội khác cùng nằm trên một cấp độ xã hội như nhau (có nghĩa là chỉ có sự thay đổi về vai trò xã hội mà không thay đổi vị thế xã hội). Cơ động xã hội theo “chiều dọc”. Đó là sự chuyển dịch vị trí của cá nhân hay một nhóm xã hội sang một vị trí xã hội khác không cùng một tầng với họ. Sự cơ động xã hội theo chiều dọc nhấn mạnh đến sự vân động về chất lượng cua cá nhân trong các nhóm xã hội có liên quan đến sự thăng tiến hay sút giảm vị thế xã hội của mỗi người. Cơ động chuyển đổi. Đó là sự thay đổi địa vị xã hội của một số người vì họ trao đổi vị trí cho những người khác tại tầng lớp xã hội khác nhau trong bậc thang xã hội. Thí dụ: những người thiếu năng lực ở vị trí cao có thể mất việc hoặc tụt xuống địa vị thấp hơn, trong khi đó những người có khả năng ở vị trí thấp hơn được tiến cử vào những vị cao. Số lượng của loại cơ động xã hội này phụ thuộc vào mức độ “đóng” hay “mở” của xã hôị. Trong hệ thống xã hội “đóng” hay “đẳng cấp”, loại cơ động xã hội này ít xảy ra, nhưng trong hệ thống “mở” có nhiều tiềm năng cho loại cơ động này. Cơ động theo cơ cấu. Đó là sự thay đổi địa vị của một số người do kết quả của những thay đổi trong cơ cấu kinh tế. Loại cơ động theo cơ cấu này xuất hiện nhiều vào thời kỳ cách mạng kỹ thuật, cách mạng trong cơ cấu kinh tế hoặc cách mạng chính trị. Ngoài ra, còn có các loại cơ động “thô”, cơ động “tinh”, cơ động do ý trí. Cơ động trong cùng thế hệ liên quan đến sự vận đôngkj của cá nhân trong suốt cuộc đời họ. Cơ động giữa các thế hệ xác định quá trình tiếp nối vị trí xã hội giữa ông bà, cha mẹ,con cái (tức là tra truyền con nối). c) Những nhân tố ảnh hưởng đến cơ động xã hội - Nguồn gốc giai tầng xã hội: - Trình độ học vấn. - Lứa tuổi và thâm niên nghề nghiệp. - - Giới tính. - - Điều kiện sống (hay nơi cư trú). - - Ngoài những yếu tố nói trên, còn phải kể một số yếu tố khác như chủng tộc, chế độ dinh dưỡng tuổi thơ, sức khoẻ, tuổi kết hôn, địa vị của người bạn đời, ý chí kiềm chế sự thoả mãn nhất thời, chiều cao, hình thức bề ngoài, trí tuệ và lĩnh vực công danh, những thiên chức về sự sắc sảo, ý tưởng, sáng tạo, sự tế nhị, khéo léo trong giao dịch, ý chí dám mạo hiểm v v Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  19. Nhập môn xã hội học - 19 - Sau cùng, cũng cần phải xem xét tính cơ động xã hội như là một hiện tượng xã hội, có logíc bên trong và các quy luật phát triển của mình. Cần phải tính đến sự lệ thuộc của tính cơ động xã hội đối vơi các điều kiện lịch sử - xã hội như: quan hệ sản xuất, phân công lao động xã hội, cơ sở vật chất, kỹ thuật, các yếu tố thiết chế xã hội, hệ thống giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng và chính sách sử dụng cán bộ. Tính cơ động xã hội cần được nghiên cứu như là một qúa trình phức tạp có cơ cấu riêng va ngày càng được mở rộng cùng với sự phát triển của thời gian. Nghiên cứu tính cơ động xã hội “hướng tới lối vào” đòi hỏi phải phân tích xuất xứ của các nhóm xã hội – nghề nghiệp, xem họ đã tận dụng bản năng và trình độ nghề nghiệp của thế hệ trước đó ra sao. Nghiên cứu tính cơ động xã hội “hướng tới lối ra” cần phải xem xét tuổi trẻ sẽ rời vào nhóm xã hội nào khi họ rời khỏi những nhóm xã hội của cha mẹ. Như vậy khi nghiên cứu, ta cần đặt tính cơ động xã hội trong từng thế hệ và bối cảnh chung của toàn bộ tính xu hướng của sự vận động xã hôi. Khi nghiên cứu tính cơ động xã hội, chúng ta còn bắt gặp phạm trù “cơ động xã hội phụ thêm” hoặc “cơ động xã hội thặng dư”, có nghĩa là một người nào đó đã vận động ra khỏi nhóm xã hội xuất thân và nhập vào nhóm xã hội khác. Và phạm trù “cơ động xã hội hồi quy” có nghĩa là quá trình cơ động của một người nào đó quay về với nhóm xã hội xuất thân. VIII. Xã hội hoá Xã hội là một trong nhưng khái niệm cơ bản của xã hội học. Trong lý thuyết đồng cảm, các nhà xã hội học đã sử dụng khái niệm này cùng với khái niệm văn hoá để giải thích đời sống xã hội. Nhờ quá trình xã hội hoá, chúng ta có khả năng giao tiếp với nhau, nắm vững các vai trò xã hội nhất định của mình và thậm chí xã hội tạo điều kiện cho sự duy trì bản thân xã hội. Vậy xã hội hoá là gì? Bằng cách nào xã hội hoá mang lại cho chúng ta khả năng hành động qua lại và bảo đảm sự giữ gìn, duy trì xã hội trong quá trình thay thế các thế hệ. Có những điều kiện gì để tồn tại xã hội hoá và ảnh hưởng của xã hội hoá tới cấp độ vi mô và vĩ mô của xã hội như thế nào? 1.Một số quan niệm về “con người xã hội” a) Quan niệm khác nhau về con người xã hội Trong lịch sử tư tưởng, có rất nhiều cách tiếp cận về vấn đề con người: - Theo quan niệm duy tâm, con người được giải thích từ sáng tạo và chi phối của thánh thần và từ ý thức trừu tượng. Việc giải thích con người theo quan điểm này không đem lại ý nghĩa tích cực trong cuộc sống. - Theo quan niệm duy vật, từ thời Arixtốt đến các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII đều cho rằng, con người là một sinh vật – xã hội, “sinh ra đã có tính xã hội”. Quan điểm này cho rằng, bản chất con người chỉ ở mặt tự nhiên của nó. Ngay cả Phơbách cũng chỉ mới dừng lại ở chủ nghĩa nhân bản tự nhiên, bởi vì theo nhận thức của ông, con người chỉ là một cá nhân trừu tượng, một sinh vật thuần tuý về sinh học. Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  20. Nhập môn xã hội học - 20 - - Theo quan điểm mácxít, xuất phát từ hoạt động thực tiễn của con người, C.Mác cho rằng, bản chất con người chính là nhân cách. Nhân cách ấy tìm thấy bản chất trong các mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó, Mác vẫn thừa nhận tính sinh vật trong chỉnh thể người. Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học: + Là một đơn vị sinh lý, con người là đối tượng được nghiên cứu của các nhà sinh học và y học + Những giá trị trong cuộc sống tình thần của con người được nghiên cứu trong đạo đức học, triết học,luật học + Là đơn vị tâm lý có những nhu cầu và trạng thái tâm lý phức tạp, con người là đơi tượng tìm hiểu của các nhà tâm lý học, phân tâm học, thần kinh học Xuất phát từ những lĩnh vực nghiên cứu khác nhau, các nhà khoa học có những quan điểm khác nhau về bản chất con người. Hiện nay có ba loại quan điểm khác nhau về vai trò của yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong con người. b) Quan niệm của các nhà xã hội học về con người xã hội. Do nghiên cứu từ nhiều khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội, các nhà xã hội học cũng có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất con người. - Quan niệm của các nhà xã hội học theo thuyết sinh hoá: Quan niệm này cho rằng, yếu tố sinh học quyết định sự hình thành hành vi, tích cách của con người. Tính di truyền ảnh hưởng lớn tới hành vi của con người. Họ tin ở sự tồn tại của cái gọi là bản năng con người. Họ cho rằng, sự tổng hoà của những tố chất di truyền hay những khuynh hướng di truyền xác định hành vi của con người cụ thể.Phrớt đị diện cho quan điểm này cho rằng, con người như là cá thể sinh vật đối lập với xã hội và xem sức mạnh của con người là sức mạnh khả năng vô thức, trong đó, đam mê tình dục giữ vai trò chủ đạo. Quan điểm này không thấy được khả năng của con người sử dụng những biểu tượng và lập luận lôgíc, thích nghi cao để nắm được những kiểu hành vi nhất định, tạo nên thể chế xã hội, điều hoà việc sử dụng hoặc vượt qua những nhân tố sinh học. - Quan niệm của các nhà xã hội học theo thuyết quyết định luận xã hội học: Quan niệm này cho rằng, nhân cách được hình thành trên cơ sở đa số những sự tác động. Của con người với thế giới xung quanh. Nó là sản phẩm của xã hội và được hình thành trên cơ sở của mối quan hệ qua lại giữa con người với con người. Đại biểu cho quan niệm này là C. H. Cooley ; G.Mead . - Bên cạnh quan niệm sinh học hoá cũng như quyết định luận xã hội, nhiều nhà xãhội học đã nhìn nhận con người như một chỉnh thể trong sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó. Theo Tsunesaburo Makiguchi: “khái niệm người không chỉ bao hàm một thực thể vật chất, cảm quan, hữu tình mà còn bao gồm một khía cạnh tâm linh khác với thể chất, nhưng lại tồn tại trên cơ sở thể chất ấy”. Theo Giôhan Gôtlíp Phíchtơ: “ Con người khác với loài vật ở chỗ, có khả năng suy tư trừu tượng, có thể quyết dịnh và lựa chọn. Con người là con vật tự điều khiển lấy mình. Con người có thể làm các dự án, trù liệu, tính toán cho tương lai, suy nghĩ về những hoạt động và những phản ứng của mình, chịu chách nhiệm về hành vi của mình và có khả năng phát triển ý thức trách nhiệm với người khác”. Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  21. Nhập môn xã hội học - 21 - +Nếu trong định nghĩa của Makiguchi, tác giả lấy chỉnh thể sinh học - xãhội làm điểm xuất phát cho khái niệm con người thì trong định nghĩa của Phíchtơ, điểm xuất phát lại nặng về những gì con người khác với động vật,vượt lên động vật. + Con người xuất hiện chỉ có thể trên cơ sở những quy luật tiến hoá hữu cơ và đồng thời với những quy luật xã hội, vận động sinh học gắn liền với vận động xã hội trong chỉnh thể người. Đối với quá trình phát sinh, phát triển và hoàn thiện ở một cá thể thì những yếu tố sinh học và yếu tố xã hội tác động không giống nhau ở từng thời kỳ trưởng thành. “ Yếu tố sinh học và yếu tố xã hội không phải là song song tồn tại trong con người mà làm môi giới cho nhau, thâm nhập vào nhau và in dấu lên toàn bộ hoạt động sống của con người”. Tuy nhiên khi nghiên cứu con người, nhà xã hội học mặc dù thừa nhận mặt sinh học của con người nhưng cái chính vẫn tập chung tìm hiểu khía cạnh mang tính xã hội của con người. Song khác với các nhà khoa học khác, các nhà xã hội học xem xét con người trong mối tương tác giữa con người với con người, giữa con người với nhóm xã hội và xã hội nói chung. Chính vì vậy mà Phíchtơ cho rằng, “ Con người đưộcgị là con người xã hội theo nghĩa một con người vừa có khuynh hướng kết hợp với người khác mà cũng có nhu cầu tương quan với người khác”. Có nghĩa là, nhà xãhội học đã xem xét cách thức con người liên lạc với đồng loại của nó như thế nào. 2.Khái niệm xã hội hoá Có rất nhiều định nghĩa khác nhau của các nhà xãhội học khi bàn về xã hội hoá: - Xã hội hoá bao gồm tất cả quá trình tiếp diễn văn hoá giao tiếp, học hỏi, qua đó cá nhân con người phát triển bản chất xã hội và có khả năng tham gia vào đời sống xã hội. - Xã hội hoá là quá trình trong đó cá nhân con người học hỏi và nhập tâm suốt đời vào các yếu tố của môi trường văn hoá, xã hội, hoà nhập chúng vào cấu trúc nhân cách của anh ta dưới ảnh hưởng của các tác nhân xãhội quan trọng và những kinh nghiệm cá nhân. Do đó làm anh ta thích nghi với môi trường xã hội, nơi anh ta sinh sống. - Xã hội hoá là quá trình tương tác giữa cá nhân và xã hôi, trong đó những cá nhân học hỏi và thực hành những tri thức, kỹ năng và phương pháp cần thiết để hội nhập với xã hội. - Xã hội hoá là quá trình theo đó con người học cáhc thích ứng với xã hội và tuân thủ các quy tắc xã hội.Quá trình này cho phép xã hội luân chuyển nền văn hoá của mình từ thế hệ này sang thế hệ khác. - Xã hội hoá là quá trình mà qua đó cá nhân học hỏi được cách sống và phát triển khả năng đóng các vai trò xã hội vừa với tư cách là một cá thể vừa với tư cách là thành viên cùa nhóm. - Xã hội hoá tức là những con đường mà bằng cách đó con người có được những kinh nghiệm và hiểu biết, nắm vững những mục đích phù hợp với những vai trò xã hội của mỗi con người. Có hai mục đích: tạo ra những mối liên hệ xãhội của chúng ta trên cơ sở những vai trò xã hội và đmr bảo sự tồn tại xã hội Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  22. Nhập môn xã hội học - 22 - nhờ sự lĩnh hội những quan niệm và mâu thuẫn hành vi bởi những thành viên mới của xã hội. Tất cả những định nghĩa trên đều có điểm chung như sau: Xã hội hoá trước hết là quá trình tương tác giữa cá nhân và xã hội, qua đó cá nhân học hỏi, lĩnh hội, tiếp nhận nền văn hoá của xã hội như khuôn mẫu tác phong xã hội, chuẩn mực giá trị văn hoá xã hội để hoà nhập vào xã hội cũng như đáp ứng các kỳ vọng của xã hội Trong thực tế, xã hội hoá là quá trình tương tác giữa cá nhân và xã hội. Nhưng khi nói đến xã hội hoá người ta nhấn mạnh quá trình con người tự học hỏi, thực hành một cách tích cực những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của xã hội để từ đó hội nhập với xãhội và giữ đúng vai trò nhất định của cá nhân do xã hội phân công. 3. Một số nội dung nghiên cứu cơ bản về xã hội hoá 3.1. Các học thuyết khác nhau về xã hội hoá trong quá trình phát triển nhân cách Để biết xã hội hoá diễn ra như thế nào trong mức độ cá thể, chúng ta bắt đầu từ câu hỏi: nhân cách phát triển như thế nào? Nhân cách được phát triển, hình thành trong quá trình tương tác xã hội giữa con người với nhau. Trong thế kỷ trước, các nhà tâm lý học, xã hội học đưa ra hàng loạt những cách giải thích khác nhau về sự hình thành nhân cách, trên cơ sở tác động qua lại của những nhân tố khác nhau như tính chất lý tính, môi trường xung quanh, kinh nghiệm cá nhân và văn hoá. a) Học thuyết phát triển nhân cách Sự tác động của những nhân tố môi trường xung quanh v.v tạo nên nhân cách. Cooley cho rằng, nhân cách được hình thành nhờ “ Cái tôi lăng kính” do chúng ta hiểu được tình cảm của những người xung quanh.Họ đặt ra ra vấn đề là làm thế nao để mỗi cá nhân phát hiện ra “cái tôi” của mình. Quá trinh này chỉ thực hiện được thông qua sự tương tác. Họ đề ra lý thuyết “ Soi gương tự phản thân” Theo quan điểm Mead D.G, quá trình hình thành nhân cách bao gồm ba giai đoạn khác nhau: sự bắt trước những mẫu hành vi của người lớn, giai đoạn trò chơi khi trẻ em tiếp nhận hành vi của mọi người như là thực hiện đóng vai trò và trò chơi tập thể khi trẻ em hiểu được sự mong chờ của toàn thề nhóm người đối với chúng. b) Học thuyết phân tích tâm lý Theo học thuyết phát triển nhân cách của Friu, nhân cách bao gồm ba yếu tố: “Id” - nguồn gốc của năng lượng được nuôi dưỡng bằng sự cố gắng thoả mãn, “Ego” - sự thực hiện kiểm trâhnhf vi cá nhân trên cơ sở của “ nguyên tắc thực tiễn” và “Supekêgo”- thực hiện chức năng đạo đức và đánh giá. Sự hình thành ba yếu tố nhân cách này đưa ra giả thiết có sự xuất hiện liên tục của bốn gia đoạn, trong đó mỗi giai đoạn gắn liền với với từng bộ phận nhất định của cơ thể, được gọi là vùng cảm giác. c) Học thuyết phát triển nhận thức Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  23. Nhập môn xã hội học - 23 - Theo học thuyết phát triển tư duy củaPít, trẻ em trải qua hàng loạt những giai đoạn liên tục, trong quá trình đó chúng lĩnh hội được những thói quen mới xác định giới hạn khả năng nhận thức của chúng. Những giai đoạn này trao đổi cho nhau trong một sự liên tục triệt để. d) Học thuyết phát triển đạo đức Kôlơbéc đưa học thuyết về sự phát triển nhân cách vào những quá trình của sự hoàn thiện đạo đức được tạo thành từ sáu giai đoạn. Ở những giai đoạn sớm hơn, trẻ em cố gắng thoát khỏi sự trừng phạt hoặc nhận phần thưởng. Ở giai đoạn giữa, mọi người hiểu được những ý kiến của người khác về họ, sự mong đợi của xã hội và những quy tắc hành vi trong đó họ được khẳng định. Ở giai đoạn cuối, diễn ra sự hình thành những nguyên tắc đạo đức về nhân cách, không phụ thuộc vào những giá trị được thừa nhận. 3.2 .Quá trình xa õhội hoá và các dạng thức xã hội hoá a) Xã hội hoá như là diễn tiến xã hội liên tục Theo Joseph H. Fichter, Xã hội hoá mô tả theo hai quan niệm: - Quan niệm khách quan: xã hội ảnh hưởng tới cá nhân. - Quan niệm chủ quan: cá nhân đáp ứng lại xã hội. Theo quan niệm thứ nhất, xã hội hoá là diễn tiến theo đó xã hội truyền văn hoá của mình từ thế hệ này qua thế hệ tiếp theovà l;àm cho cá nhân thích ứng với những nếp sống sinh hoạt được chấp nhận và được tán thành trong một đời sống có tổ chức. Có nghĩa là, nhiệm vụ của xã hội hoá là truyền thống và phát triển những kỹ năng, kiến thức mà cá nhân cần tới, truyền đạt những hệ thống giá trị văn hoá xã hội và trang bị cho cá nhân vai trò nhất định bảo đảm cho sự duy trì xã hội và văn hoá. Theo quan niệm thứ hai, xã hội hoá là một quá trình cá nhân đang thích ứng với những người xung quanh, liên tục thực hiện để dần dần nhập vào xã hội trong một nền văn hoá và xã hội nhất định. Có nghĩa đó là quá trình con người học hỏi khi tiếp xúc với xãhôị trong mối tương quan xã hội. Từ các quan niệm trên, chúng ta thấy xã hội hoá là sự thống nhất đối lập giữa hai khuynh hướng: - Tiêu chuẩn hoá, được thể hiện trong sự cố gắng của cá nhân muốn giống như những người khác, để thể hiện trong sự nắm vững những phương pháp giao tiếp chung và hoạt động chung. - Cá thể hoá, được thể hiện trong sự cố gắng để hình thành “ cái tôi của mình”, để triển khai những phương pháp độc đáo của sự giao tiếp và hoạt động. Vậy xã hội hoá diễn ra như thế nào? Xã hội hoá thành công được xác định bởi ba yếu tố: sự chờ đợi, sự thay đổi hành vi, sự cố gắng đến khuôn phép: - Sự chờ đợi thể hiện ở chỗ những người trong nhóm gia đình, bạn bè, nhà trường mong đợi ở cá nhân có phương thức ứng sử phù hợp với những mô hình, tác phong của họ. Đồng thời, trong quá trình tương tác xã hội, cá nhân cũng mong muốn học hỏi những mô hình tác phong trong đó nó cho là phù hợp với vai trò của nó. Như vậy, trong quá trình tương tác xã hội, các cá nhân dần dần thay đổi hành vi của mình sao cho phù hợp với chính vai trò của mình. Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  24. Nhập môn xã hội học - 24 - Xã hội như là lực lượng mạnh mẽ và hùng hậu. Các cá nhân cố gằng vươn tới sự khuôn phép, loại trừ bớt đi những hành vi ứng xử không phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Điều này được giải thích bởi hai nguyên nhân: - Khả năng sinh học hạn chế của con người. - Những hạn chế do nền văn hoá. Theo bản chất của mình, xã hội hoá là quá trình tác động nhiều hướng khác nhau mang tính hai mặt, phản ánh sự tác động qua lại giữa nhân tố sinh học và văn hóa, giữa những ai thực hiện xã hội hoá và những ai bị xã hội hoá. b) Các dạng thức xã hội hoá - Xã hội hoá trẻ em Theo Joseph H.Fichter, hai diễn tiến quan trọng nhất của học hỏi xã hội là sự bắt chước và sự ganh đua. Sự bắt chước không chỉ là hành vi của trẻ em mà còn thể hiện ở người lớn. Sự ganh đua là một diễn tiến kích thích trong quá trình tương tác xã hội cho thấy con người có khuynh hướng học hỏi theo khuôn mâu tác phong đã được xã hội chấp nhận và loại bỏ cái không được chấp nhận. - Xã hội hoá người lớn Gold.R.L cho rằng, xã hội hoá người lớn gắn liền với sự từ chối dần dần những quan niệm ấu trĩ trẻ thơ. Sau này, các nhà xã hội học bắt đầu nghiên cứu xã hội hoá người già. Nhưng một số người lại cho là, những người già không có những vai trò nhất định một cách rõ ràng. Chẳng hạn ở Mỹ, Rozốp không công nhận xã hội hoá người già ở Mỹ, và coi đó là không có hiệu quả. - Những đặc điểm khác nhau của xã hội hoá người lớn và trẻ em Brim phân biệt xã hội hoá người lớn và trẻ em bằng những đặc điểm sau: + Xã hội hoá người lớn – đó là sự thay đổi hành vi bên ngoài, còn trong xã hội hoá trẻ em diễn ra hình thành định hướng giá trị. + Những người lớn có khả năng đánh giá những chuẩn mực, còn trẻ em có thể lĩnh hội được chúng. + Xã hộ hoá người lớn có mục đích của mình là giúp cho con người lĩnh hội được những thói quen nhất định, xã hội hoá trẻ em ở mức độ động chạm đến môi trường lý do hoá. Như vậy, xã hội hoá chính là quá trình con người học cách thể hiện vai trò xã hội của mình trong quá trình gia nhập vào xã hội. Quá trình xã hội hoá phải xử lý mối tương tác giữa yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan của con người và xã hội. Qúa trình xã hội hóa là qúa trình bản thân cá nhân tác động vào xã hội diễn ra trên lợi ích cá nhân và xã hội nhu cầu của cá nhân và xã hội, nhu cầu của cá nhân và xã hội. Qúa trình xã hội hoá luôn luôn nảy sinh sự thống nhất và xung đột giữa cá nhân và xã hội. Quá trình xử lý nó là quá trình đào tạo ra con người. Quá trình xã hội hoá diễn ra từ thấp đến cao qua các giai đoạn nhất định từ giai đoạn đâu khi đứa trẻ bước vào đời cho đến khi con người ra đi giai đoạn cuối. Qúa trình đó là qúa trình con người học cách thích ứng với xã hội, tuân thủ các nguyên tắc, phong tục tập quán, là quá trình luân chuyển nền văn hoá từ thế hệ này đến thế hệ khác để gữ gìn xã hội và văn hoá. 3.3. Những yếu tố tác động đến xã hội hoá a) Môi trường cơ bản của xã hội hoá. Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  25. Nhập môn xã hội học - 25 - Gia đình là môi trường xã hội hoá có tầm quan trọng chính yếu, bởi vì quá trình xã hội hoá của một người từ những năm tháng đầu tiên của cuộc đời có ảnh hưởng quyết định tới những thái độ và hành vi khi đã lớn. Cho nên gia đình được coi là nhóm người đầu tiên mà mỗi cá nhân xã hội phải phụ thuộc vào. Gia đình là khuôn khổ cần thiết cho sự phát triển của đứa trẻ, làm cho sự trưởng thành sinh học và những mối liên hệ của nó phù hợp với môi trường. Đó là giai đoạn xã hội hoá tự nhiên đầu tiên. Xã hội hoá thông qua tình cảm và bằng tình cảm là đặc trưng riêng của gia đình. Ở những đứa trẻ sơ sinh, những mối quan hệ với người lớn – những người quan tâm đến chúng, được thiết lập một cách chặt chẽ hơn. Đó là cha mẹ, anh chị em, những người thân và bạn bè của gia đình. Những người này là những đại diện cơ bản của xã hội hoá trong cuộc sống đứa trẻ. Mục đích của xã hội hoá trong giai đoạn này là sự hình thành ở đứa trẻ lý do hoá trong mối ràng buộc với những người khác, thể hiện ở lòng tin, sự vâng lời và mong muốn làm họ vui lòng. Nhà trường là cơ quan, môi trường xã hội hoá chính yếu đối với tuổi trẻ. Đây là thiết chế được lập ra một cách có chủ định để phổ biến những kỹ năng và kiến thức môn học mà còn tiếp thu cả những quy tắc và cách thức quy định hành vi, cả cách ứng xử quan hệ với giáo viên và các bạn học. Quá trình xã hội hoá mà học sinh tiếp thu ở trường do vậy không chỉ liên quan đến việc tiếp thu những kỹ năng quy định mà còn cả những kỹ năng xã hội khác. Thí dụ, ở đó trẻ học được cách sống của nhóm bạn và làm sao đáp ứng được những người có uy quyền. Hiện nay đang có sự bất cập giữa những yêu cầu xã hội và nội dung giáo dục của trường học. Thông thường, trường học chủ yếu chỉ truyền thụ những tri thức khoa học hơn là truyền thụ những kỹ năng lao động cho trẻ; và những tri thức và kỹ năng của trẻ nhận được ở trường học có khi không ăn khớp với yêu cầu cuộc sống độc lập sau này của chúng. Xã hội hoá đặc biệt chú trọng đến vai trò của sự giao tiếp giữa thầy và trò ở trường vì đó là cơ sở của những trao đổi làm phong phú tri thức và nhân cách của đứa trẻ, trong đó người thầy giáo giữ vị trí chủ đạo không phải như một quyền uy độc đoán mà như một người hướng dẫn các giá trị xã hội. Các phương tiện thông tin đại chúng. Trong xã hội hiện đại, ở một mức độ nhất định, trẻ em lĩnh hội được vai trò và những quy định hành vi trong xã hội từ những chương trình truyền hình, báo chí, phim ảnh và những phương tiện thông tin đại chúng khác. Tác dụng đển hình thể hiện trong những phương tiện thông tin đại chúng là sự tác động sâu sắc tới quá trình xã hội, tạo điều kiện cho sự hình thành những giá trị nhất định và hình mẫu nhất định của hành vi. Tuy nhiên, truyền hình cũng có thể gợi nên những kết quả tiêu cực đến quá trình xã hội hóa. Một số chương trình tác động tai hại đến thế hệ trẻ, kích động những hành vi không được kiềm chế của trẻ em, lôi kéo trẻ em bỏ những giờ học bổ ích. b) Sự khác nhau về giai cấp, chủng tộc, dân tộc và văn hoá tác động đến quá trình xã hội hoá. Công trình nghiên cứu văn hoá những gia đình ở Mỹ và Italia do Mellen Kon tiến hành năm 1969 đã chỉ ra rằng, sự khác nhau về giai cấp có ảnh hưởng quan Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  26. Nhập môn xã hội học - 26 - trọng đến quá trình xã hội hoá. Những cha mẹ ở tầng lớp trung lưu khích lệ sáng kiến và sự tự do tư duy của con cái mình. Trong lúc đó, những đứa trẻ của những công nhân được giáo dục trong sự khuôn phép. Trong những gia đình theo Đạo thiên chúa, người mẹ đánh giá tính khuôn phép cao hơn so với gia đình theo Đạo tin lành. Khuôn phép của những người bố da đen ảnh hưởng đến con cái mình nhiều hơn so với những ông bố da trắng. IX .Khái niệm lối sống Lối sống là một phạm trù cơ bản trong nghiên cứu Xã hội học,thể hiện những thành quả hoạt động của xã hội,những nguyên tắc,chuẩn mực của sinh hoạt xã hội,của việc tổ chức hoạt động sống của cộng đồng xã hội trong mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử. “Lối sống xã hội là tổng thể các loại hình hoạt động sống đặc trưng của chủ thể xã hội(cá nhân,các dân tộc,các giai cấp các tầng lớp XH ) hiện thực hóa các nhu cầu và kế hoạch sống của mình trong những điều kiện sống nhất định( các nhu cầu này hình thành tương ứng với các điều kiện ấy).” Cơ cấu lối sống :phụ thuộc vào Mức sống và Chất lượng sống. Các nhân tố tác động đến lối sống : • Điều kiện xã hội:Các yếu tố thuộc hoạt động xã hội (SX vật chất,tự hòan thiện cá nhân,quan hệ xã hội,giao tiếp ); Các yếu tố phản ánh cơ cấu xã hội (cá nhân,giai cấp, các tập đoàn,quốc gia );các yếu tố liên quan đến thiết chế XH;các nhân tố liên quan đến thịnh suy xã hội,các điều kiện địa lý tự nhiên . • Mức sống(Sức khỏe,lương thực thực phẩm,văn hóa giáo dục,điều kiện làm việc,nhà ở,quỹ tích lũy vàtiêu dùng,phương tiện đi lại , việc làm bảo hiểm XH,sinh hoạt nghỉ ngơi,mức độ tự do cá nhân. • Chất lượng sống và các tiêu chí(động cơ cá nhân,tập thể,xã hội;mức độ thỏa mãn do xã hội mang lại;đành giá chủ quan của cá nhân về mức độ thỏa mãn;dư luận xã hội về chất lượng sống ). • Các chỉ báo khác liên quan đến mức sống và chất lượng sống còn tùy thuộc vào đánh giá của mỗi xã hội cụ thể,liên quan đến các yếu tố thuộc giá trị xã hội ở mỗi quốc gia mỗi dân tộc,mỗi tộc người, mỗi giai đoạn phát triển xã hội. Vì vậy, lối sống có tính tương đối. X. Cộng đồng xã hội 1. Khái niệm Theo V.A. Jadov :” Cộng đồng xã hội là mối quan hệ qua lại giữa các cá nhân được quyết định bởi sự cộng đồng các lợi ích của họ nhờ sự giống nhau về các điều kiện tồn tại và hoạt động của các cá nhân hợp thành cộng đồng đó;nhờ họ gần gũi giữa họ về quan điểm,tín ngưỡng và các quan niệm về cuộc sống –xã hội nói chung. Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  27. Nhập môn xã hội học - 27 - 2. Đặc trưng cộng đồng -Các thành viên gắn bó với nhau không theo luật thành văn mà là sự liên kết các lợi ích,giá trị,truyền thống .trong cộng đồng - Mỗi thành viên tự nguyện giữ gìn và phát triển các giá trị chung, đòan kết, hòa đồng nhau. - Cấu trúc cộng đồng bao gồm những cố kết nội tại như các giá trị,niềm tin ,phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, sắc tộc. Cơ cấu thành viên, các phạm vi hoạt động ciũng như mức độ ảnh hưởng đến tòan xã hội nói chung Khi nói đến cộng đồng xã hội không thể không nói đến phân loại cộng đồng . Có nhiều tiêu chí để phân loại : Tôn giáo,quy mô cộng đồng,quyền lợi chính trị,phong tục tập quán XI. Giá trị xã hội- Chuẩn mực xã hội và Lệch lạc xã hội 1. Giá trị xã hội là những điều mà một xã hội hay một nhóm xã hội quan niệm đó là lẽ phải là tốt đẹp và là cơ sở để cá nhân dựa vào đó mà suy nghĩ,phán đóan,ứng xử sao cho phù hợp. Giá trị xã hội có tinh tuyệt đối nhưng cũng có tính tương đối. 2. Chuẩn mực là những quy tắc sống và ứng xử,cụ thể hóa các giá trị mà xã hội đề cao. 3.Lệch lạc xã hội là các hiện tượng,các trạng thái,các sự việc phi đạo lý (Anomie social) xảy ra ở một mức độ không bình thường trong xã hội. Các trạng thái này diễn ra trong những điều kiện xã hội có sự chuyển đổi. *Hướng tiêu cực :Các trạng thái bất thường diễn ra trong điều kiện xã hội có nhiều bất ổn,như :Khủng hoảng,mất phương hướng, chiến tranh, xã hội chịu sức ép nhiều từ bên ngoài Các quan hệ xã hội bị phá vỡ,các vị thế xã hội bị đảo lộn,thiết chế xã hội mất hiệu lực,các chuẩn mực,các giá trị xã hội bị xem xét lại,kinh tế ngưng trệ, niềm tin giảm sút,con người đòi hỏi phải có sự thay đổi thậm chí thay đổi cả thiết chế . Các trạng thái bất thường rất đa dạng và phức tạp có khi đột biến: Tội phạm gia tăng( bạo lực, bất công,tham nhũng ), luật pháp bị trà đạp, kỷ cương xã hội xuống cấp, quan điểm chính trị quá khích mang tính phản động, lối sống băng hoại trong các tầng lớp thanh thiếu niên, mê tín dị đoan,thất nghiệp . *Hướng tích cực:Là hiện tượng tạo ra các bước phát triển xã hội tích cực,thậm chí mang tính cách mạng( Các phong trào quần chúng, các yếu tố tiến bộ mới ra đời Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  28. Nhập môn xã hội học - 28 - PHẦN II: MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU VỀ XÃ HỘI HỌC CHUYÊN BIỆT CHƯƠNG I: XÃ HỘI HỌC ĐÔ THỊ I. Tổng quan về môn xã hội học đô thị 1. Sự hình thành và phát triển của xã hội học đô thị Vào cuối thế kỷ XIX đầy thế kỷ XX, công nghiệp hoá và đi cùng với nó là quá trình đô thị hóa mạnh mẽ làm nảy sinh vô số những vấn đề xã hội tiêu cực và phức tạp tại các đô thị. Thực trạng đó đã thu hút sự chú ý của các nhà xã hội học phương Tây. Từ những năm 20, ở châu Aâu và Bắc Mỹ đã hình thành môn khoa học với tên gọi Xã hội học về đời sống đô thị (Sociology of Urban life) hay xã hội học đô thị (Urban Sociology). Ban đầu, bộ môn xã hội học đô thị đã có một hệ vấn đề nghiên cứu hết sức rộng. Theo tác giả cuốn sách Xã hội học về các vùng đô thị (Sociology of Urban Regions) A.Boskoff thì: “Gia đình và hôn nhân, giáo dục trẻ em tội phạm và đặc biệt là tội phạm trẻ em, sự di cư, vấn đề chủng tộc, người già, sức khoẻ, tâm lý giai cấp –xã hội, tôn giáo, học vấn và các xu hướng trong đời sống xã hội “ là phạm vi các vấn đề xã hội học đô thị nghiên cứu. Bản chất của việc nghiên cứu xã hội học đô thị chính là khảo sát các thành tố sau: - Các thành tố không gian – vật chất. Đó bao gồm không gian kiến trúc, quy hoạch, cảnh quan đô thị, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cả điểu kiện khí hậu, sinh thái tự nhiên - Các thành tố tổ chức – xã hội. Đó chính là cộng đồng dân cư sống trên lãnh thổ đô thị với tất cả những thể chế, luật lệ hiện hành tại đó. Các khoa học như kiến trúc, quy hoạch, xây dựng đô thị, sinh thái học đô thị, đã dành sự quan tâm trước hết cho việc tạo ra những bộ phận hay toàn bộ không gian vất chất – hình thể của đô thị. Các yếu tố tổ chức – xã hội nếu được đề cập thì chỉ như là yếu tố thứ yếu. Trong khi đó, xã hội học đô thị lại hướng sự chú ý trước hết tới yếu tố cộng đồng dân cư đô thị với những đặc điểm kinh tế – xã hội của nó, có sự thích ứng hay hoà nhập của cộng đồng này với môi trường vật chất – hình thể của đô thị. Vì thế, hai nhóm bộ môn khoa học này tất yếu phải có liên hệ với nhau dưới nhiêu hình thức. 2. Một số hướng tiếp cận cơ bản trong nghiên cứu xã hội học đô thị - Trường phái Chicago Trường phái này nảy sinh từ các nhà xã hội học thuộc Trường đại học Chicago. Nó nhấn mạnh vào cơ cấu dân số và sinh thái học của các đô thị, vào tình trạng xã Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  29. Nhập môn xã hội học - 29 - hội thiếu tổ chức, những hiện tượng tiêu cực, không lành mạnh cũng như trạng thái tâm lý xã hội của những người thị dân. Sở dĩ Chicago trở thành địa bàn tự nhiên, một “phòng thí nghiệm” để phát triển môn xã hội học đô thị ở Mỹ đầu thế kỷ này là do lúc ấy thành phố Chicago đang mở rộng rất nhanh chóng trên một vùng đất nông nghiệp rộng lớn. Cư dân ở thành phố lớn này rất không thuần nhất. Tính phức tạp đa dạng của đô thị, những vấn đề cần đặt ra phải giải quyết đã thúc đẩy Robert Park và các đồng nghiệp của ông tại Trường đại học Chicago nghiên cứu khảo sát, tìm hiểu và nhận định về các quá trình xã hội và biến đổi xã hội đang diễn ra mau lẹ trong thành phố. Năm 1916, R.Park đã xuất bản chuyên luận nhan đề “The City”, trong đó ông phác thảo một chương trình nghiên cứu đô thị mà trên thực tế có tác dụng định hướng cho nhiều hoạt động nghiên cứu triển khai sau này: Các chủ dề nghiên cứu chính mà Park đưa ra là: nguồn gốc của thị dân, sự phân bố dân cư thành thị trên địa bàn, sự thích ứng của các nhóm xã hội để hoà nhập vào xã hội đô thị hiện đại, những chuẩn mực xã hội và cách hạn chế, phòng ngừa những hiện tượng tiêu cực vi phạm trật tự, trị an trong thành phố, những thay đổi trong đời sống gia đình, trong các thiết chế giáo dục, tín ngưỡng, vai trò của báo chí trong công luận và dân dắt tình cảm của công chúng đô thị, v v . Sau R.Park, tiêu biểu “Urbanism as a Way of life” của L.Wirth xuất bản năm 1938 có thể coi là một bức phác hoạ chuẩn xác bộ mặt xã hội của đô thị thời ông ở Mỹ. Theo Wirth, ở các đô thị, dân số quá đông, mật độ cư trú quá cao và tính chất xã hội khác biệt đã tạo ra một hệ thống bị chuyên biệt hoá, các thiết chế bị hình thức hoá và bất thường hoá. Những thay đổi to lớn về cơ cấu va thiết chế trong quá trình đô thị hoá đã mang lại những hậu quả nghiêm trọng cho người thị dân. Thần kinh họ bị kích thích, tâm lý bị căng thẳng, họ phải giữ vị trí cách ly với thế giới xã hội đô thị quá chuyên biệt, quá nhiều thông tin. Nói tóm lại, dưới ngòi bút của Wirth con người thị dân Mỹ lúc ấy dường như là một con người “bị tha hoá” và có phần “bất hạnh”. - Trào lưu nghiên cứu các cộng đồng: Nhấn mạnh đến các yếu tố dịch vụ và an sinh xã hội. - Ngoài ra còn có nhiều trường phái khác như : Sinh thái học đô thị, kinh tế,dân số học đô thị . Nhìn chung , có nhiều trường phái nghiên cứu đô thị, điều đó cho thấy việc nghiên cứu đô thị có tầm quan trọng đặc biệt , nó là một bộ phận của cơ cấu xã hội mà trong đó chứa nhiều yếu tố xã hội đặc thù. II. Khái quát quá trình đô thị hoá ở trên thế giới và Việt nam 1. Quá trình đô thị hoá trên thế giới và Việt Nam a. Trên thế giới: Các nhà khoa học cho rằng loài người đã trải qua ba cuộc cách mạng đô thị trong lịch sử . Cuộc cách mạng lần thứ nhất : Thời kỳ cổ trung trung đại Cuộc cách mạng lần thứ hai: Thời kỳ này gắn liền với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản ( Cận hiện đại) Cuộc cách mạng lần thứ ba : Gắn với các nước thuộc thế giới thứ ba. Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  30. Nhập môn xã hội học - 30 - b. Việt Nam: a) Thời kỳ phong kiến (1858 trở về trước) b) Thời kỳ thuộc địa (1858 - 1954) c. Thời kỳ 1955 –1975 d.Thời kỳ từ 1975 đến nay 2. Đặc trưng lối sống đô thị - Mức độ cơ động và quá quá trình chuyển đổi không gian sống cao - Các hoạt động sinh hoạt của cá nhân và gia đình phụ thuộc nhiều vào hệ thống dịch vụ - Thị dân có nhu cầu văn hoá giáo dục cao - Cư dân thành thị sử dụng thời gian lao động chặt chẽ,thời gian nhàn rỗi phong phú đa dạng - Tính năng động và nhạy cảm chính trị xã hội cao - Các quan hệ xã hội theo “ truyền thống” giảm. Các quan hệ xã hội đa chiều và phức tạp - Tính định chế xã hội cao trong môi trường nhân tạo cao. 3. Cơ cấu xã hội và sự phân tầng xã hội tại đô thị trong thời kỳ đổi mới Một trong số những nhiệm vụ thực tiễn quan trọng của xã hội học đô thị là phải tiến hành các nghiên cứu, khảo sát để phản ánh một cách cụ thể và xác thực bối cảnh xã hội hiện thời của các đô thị. Bối cảnh xã hội này( hay còn gọi là thực trạng xã hội) phải bao hàm cả trạng thái tĩnh (cơ cấu xã hội) lẫn động thái (biến đổi xã hội) của xã hội đô thị. Cần phải tìm ra những vấn đề cơ bản nhất, then chốt nhất, để phản ánh được những nội dung cơ bản của bối cảnh xã hội và quá trình biến đổi xã hội của các đô thị trong giai đoạn hiện nay. Việt Nam có gần 20% dân số (khoảng 13 triệu người) sống trong các điểm dân cư đô thị. Có hai thành phố triệu dân và một mạng lưới chừng 500 thành phố, thị xã, thị trấn, khu công nghiệp lớn nhỏ. Dự đoán đến năm 2000, tỷ lệ dân số đô thị nước ta sẽ đạt 25% với số dân đô thị khoảng 21 triệu người. Trong thời kỳ đầu thực hiện đổi mới, với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, sự phát triển các đô thị Việt Nam đang chịu nhiều tác động mạnh mẽ, cả bề rộng lẫn chiều sâu, cả về lượng lẫn về chất. Trước hết, tác động này có tác động hữu hiệu trong sự biến đổi cơ cấu xã hội, đặc biệt là cơ cấu xã hội nghề nghiệp, trong tương quan giữa các nhóm xã hội, trong sự nâng cao tính cơ động xã hội của tầng lớp cư dân đô thị. Các dòng nhập cư từ nông thôn vào đô thị (lâu dài hoặc mùa vụ) đang có đà bùng nổ. Những dòng chảy lao động từ khu vực kinh tế quốc doanh sang khu vực kinh tế ngoài quốc doanh (tư nhân) cũng gia tăng mạnh mẽ. Ở đây có sự hiện diện hai vấn đề: một bên là hệ quả tất yếu của quá trình đô thị hoá, và một bên là kết quả của việc thực hiện chính sách kinh tế - xã hội của đổi mới ở thời kỳ chuyển sang kinh tế thị trường, và sự chuyển đổi của cơ chế quản lý. Hiện tượng có liên quan đến vấn đề thứ hai là khá đặc thù trong các đô thị Việt Nam hiện nay, và có thể gọi làquá trình “thị dân hoá” cơ cấu xã hội đô thị. Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  31. Nhập môn xã hội học - 31 - Các nghiên cứu xã hội học đô thị có thể góp phần dự báo xu hướng của những biến đổi quan trọng này và ảnh hưởng của chúng đến đời sống xã hội và bọ mặt của các đô thị Việt Nam trong những thập niên tới. Tuy nhiên, còn có một biểu hiện điển hình, tập trung hơn đã phản ánh rõ nét hơn tác động của các chính sách kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới tới sự biến đổi xã hội của các đô thị. Từ giác độ xã hội học, nó đã vượt ra khỏi các cách tiếp cận truyền thống về cơ cấu xã hội, hay lấy cơ cấu giai cấp - xã hội làm trọng tâm vốn vẫn được sử dụng trước đây. Biểu hiện đó chính là sự phân tầng xã hội, hoặc phân hoá giầu - nghèo ngày một tăng trong dân cư đô thị. Thực ra thì sự phân tầng xã hội cũng đã có tiềm tàng trong cơ chế quan liêu,bao cấp trước đây. Song chỉ dưới tác động của sự phát triển kinh tế thị trường trong những năm gần đây mới tạo thêm ngoại lực quan trọng cho sự phân tầng bột phát và trở thành phổ biến. Bằng cách sử dụng hệ chỉ báo đámh giá mức sống, kết quả nghiên cứu đã cho phép mô tả về sự phân tầng xã hôị, phân hoá giầu - nghèo đang diễn ra hiện nay ở một vài đô thị lớn. Sự thực là công cuộc đổi mới đã toạ ra nhiều vận hội, nhiều cơ may cho cá nhân và gia đình. Song vào buổi ban đầu, không phải mọi cá nhân, mọi gia đình đều kịp nhận thức ra và hội đủ các điều kiện để tiếp nhận và khai thác các vận hội, hay cơ may đó. Một bộ phận dân cư do có được những điều kiện khách quan và chủ quan thuận lợi, nên đã có thể ổn định và gia tăng mức sống. Trong khi đó, một bộ phận khác không những không đủ điều kiện để khai thác các vận hội, và cơ may còn bị những điều kiện mới của sự chuyển đổi cơ chế làm cho hoàn cảnh sống của họ bị suy giảm đi so với trước. Kết quả là đãcó sự gia tăng sự phân hoá giàu - nghèo với khoảng cách chêng lệch ngày càng lớn. Trên một thang mức sống: giàu có (khá giả), trung bình khá, trung bình, trung bình kém và ngèo khổ, mẫu khảo sát cho ta cơ cấu phân tầng xã hội theo mức sống (tháp phân tầng). Bên cạnh việc mô tả một “tháp phân tầng theo mức sống” xung quanh nó còn có hàng loạt vấn đề xã hội khác mà nhiều nhà nghiên cứu, khảo sát đã cố gắng nêu ra và làm sáng tỏ ít nhiều. Đó là các vấn đề như: sự nâng cao mức sống cho quảng đại dân cư đô thị trong 5 năm gần đây, và các nhân tố chính ảnh hưởng tới sự gia tăng này. Sự giảm sút tương đối mức sống của một bộ phận người lao động ở “đáy” tháp phân tầng, là đặc trưng kinh tế - xã hội của các nhóm “đỉnh” và “đáy” của tháp phân tầng hay là sự nhận diện về tầng lớp trung lưu và thượng lưu mới cũng như tầng lớp dân nghèo thành thị hiện nay; là sự phản ứng của các nhóm xã hội đối với một số lĩnh vực chính sách quan trọng trong thời kỳ đổi mơí v.v Tất cả những hiện tượng, những vấn đề được các nhà nghiên cứu, khảo sát xã hội học lật xới lên cho ta thấy hình bóng khá rõ của những biến đổi trong cơ cấu xã hội, là sự phân tầng đô thị trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Nó giúp cho việc nhận diện bối cảnh xã hội hiện thời từ nhiều góc độ và từ đó hình thành nên các chính sách, giải pháp phù hợp với thực tiễn đang phát triển với nhịp độ ngày càng gia tăng tai các đô thị lớn ở nước ta. Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  32. Nhập môn xã hội học - 32 - 4. Một số nhân tố quy định nét đặc thù của lối sống đô thị Việt Nam hiện nay Xã hội Việt Nam, trong đó có xã hội đo thị đang ở trong giai đoạn quá độ, là quá độ từ nền kinh tế (và tương ứng là sự tổ chức xã hội) tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Về thực chất, lối sống tương ứng cũng sẽ là một lối sống quá độ hoặc chuyển thể. Ở các đô thị, lối sống như vậy có thể mang đặc tính pha trộn, pha tạp, hoặc “xô bồ”, do khuôn mẫu hành vi ứng sử còn chưa ổn định, biến thể và được sàng lọc; vì thế, các đường nét mô tả một lối sống đô thị Việt Nam trong giai đoạn hiện nay chắc chắn chưa thể rõ nét mà còn bị “nhoè”. Mặt khác, cũng cần nhấn mạnh rằng, do đặc thù của cơ cấu xã hội đô thị là không thuần nhất, rất khó đề cập đến, một lối sống cho toàn bộ cư dân đô thị nói chung. Lối sống đó phải gắn với những nhóm xã hội, những giai tầng xã hội cụ thể, chẳng hạn như giới trí thức, giới công chức, tầng lớp thị dân, nhóm dân nghèo thành thị v.v Tuy nhiên, vẫn có thể xem xét từ giác độ chung nhất và chỉ ra được một số nhân tố kinh kinh tế - xã hội - văn hoá đang chi phối việc hình thành những nét đặc trưng của lối sống đô thị Việt Nam hiện nay. a) Sự biến đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp của dân cư đô thị Như đã phân tích ở trên, quá trình “thị dân hoá” trước đây 5 –10 năm, hình ảnh về một đô thị thời bao cấp vẫn còn khá rõ nét trong ký ức mỗi người. Các nhóm xã hội khá gần nhau về diện mạo, về mức sống. Sau 10 năm đổi mới, nhiều cái đã thay đổi, ngay cả nhóm người lao động trong khu vực quốc doanh giờ đây cũng khác hẳn. Điều quan trọng ở đây là, cùng với quá trình “thị dân hoá” cơ cấu xã hội, nghề nghiệp cũng tất yếu diễn ra quá trình “thị dân hoá” lối sống của họ. Cấu trúc các nhóm xã hội - nghề nghiệp đang thay đổi. Như đã được mô tả ở trên đây, chắc chắn sẽ còn trải qua nhiều biến động và kéo theo đó là những thay đổi khác trong các khuôn mẫu hành vi ứng xử, khuôn mẫu về đời sông gia đình và các cá nhân ở các đô thị hiện nay. Đặc trưng của cái gọi là “Lối sống thị dân” hay các hình mẫu đời sống gia đình đó là gì? Đó là một câu hỏi mà xã hội học đô thị phải thông qua các nhà nghiên cứu của mình để đưa ra những câu hỏi thoả đáng. Sự phân tầng xã hội theo mức sống , sự phân hoá giàu - nghèo cũng đang làm cho sự khác biệt về lối sống giữa các nhóm xã hội ngày một lớn. Mỗi “tầng” trong tháp phân tầng xã hội sẽ hình thành nên những nét riêng trong lối sống của họ, tạo ra sự phức tạp, nhiều vẻ, pha trộn, và có thể “xô bồ” của lối sống đô thị trong giai đoạn chuyển thể và quá độ như hiện nay. b) Sự chuyển đổi các định hướng giá trị của các nhóm xã hội Cùng với các biến đổi trong đời sống kinh tế - xã hội, trong cơ sở hạ tầng, cũng diễn ra các biến đổi trong ý thức xã hội mà biểu hiện tập trung trong các “bảng giá trị” mới hình thành lại góp phần chi phối, chỉ đạo các khuôn mẫu hành vi ứng sử của các cá nhân và các nhóm. Đặc biệt cần nhấn mạnh đến các giá trị văn hoá, vốn được nhà xã hội học nổi tiếng người Đức Max Weber rất đề cao như là một nhân tố quyết định sự phát triển xã hội. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, những yếu tố mang nội dung nhân bản, văn minh của các giá trị văn hoá, truyền thống và hiện đại hầu như chưa được ăn sâu bám rễ, chưa có chỗ đứng vững chắc hay chưa trở thành các “hằng số xã hội” trong Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  33. Nhập môn xã hội học - 33 - đời sống đô thị. Có lẽ vì thế mà chưa tạo thành một bản sắc riêng trong lối sống đô thị hiện nay. Bên cạnh đó, không phải các giá trị cá nhân được đề cao mà chỉ có lợi ích cá nhân, lợi ích vật chất được phát huy trong cơ chế thị trường, nó lấn át các giá trị văn hoá tinh thần đích thực. Lối sống tiêu dùng, tâm lý cũng là sản phẩm của các quan hệ thị trường mới trong điều kiện hiện nay. Các định hướng giá trị nghề nghiệp – xã hội trong thanh niên, học sinh, sinh viên cũng đang phải trải qua nhiều biến đổi tương tự. Đó là những nhân tố cực kỳ quan trọng quy định hiện trạng lối sống đô thị hiện nay ở nước ta. c) Sự thay đổi chức năng, vai trò của các bộ phận trong guồng máy điều hành quản lý đô thị Trước hết, đó là những biến đổi trong một số thiết chế xã hội quan trọng như hệ thống giáo dục đào tạo, hệ thống an ninh xã hội, bảo đảm xã hội, hệ thống pháp luật. Trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế thị trường thấy có những sự rối loạn nhất định, cái thường được giới báo chí gọi là “ trật tự kỷ cương” không nghiêm minh. Tính ỳ của tập quán làm việc, quản lý kiểu bao cấp không được chuyển đổi, thích ứng cũng là một trở ngại cho việc quản lý có hiệu qủa sự phát triển kinh tế – xã hội và ảnh hưởng đến những lĩnh vực có liên quan trong lối sống. d) Điều kiện hiện thực Mức sống tuy có được nâng cao, song htực sự vẫn chưa vượt qúa ngưỡng nghèo khổ là một nhân tố cũng cần được tính đến khi xem xét đặc thù của lối sống đô thị Việt Nam hiện nay. Tuyệt đại bộ phận dân cư đô thị ngày nay vẫn còn phải ưu tiên nhằm bảo đảm những nhu cầu sống cơ bản: ăn, ở, học hành của con cái. Phần thu nhập hàng tháng vẫn phải giành một tỉ lệ khá lớn cho nhu cầu ăn ( 80 – 85%). Biểu hiện một cơ cấu chỉ tiêu trong ngân sách gia đình không hợp lý và chưa vượt ra khỏi các nhu cầu cơ bản ở mức thấp. e) Các yếu tố đặc trưng Không thể bỏ qua các yếu tố vốn là chung cho các đô thị lớn mà các nhà xã hội học đô thị đã tổng kết. Đó là các yếu tố đặc trưng như: dân số đông, mật độ cư trú cao, sự hỗn hợp về mặt xã hội, nguồn gốc cư trú và các dòng nhập cư thường xuyên hoặc di cư con lắc từ nông thôn vào các đô thị. Điều này đặc biệt dễ nhận thấy tại các đô thị lớn ở nước ta như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng. Như vậy, có thể nhận thấy rất nhiều nhân tố phổ biến và đặc thù đang quy định diện mạo của một lối sống đô thị Việt Nam hiện nay. Có những nhân tố kinh tế – chính trị – xã hội, có những nhân tố văn hóa truyền thống hoặc đương đại. Nghiên cứu lối sống đô thị Việt Nam hiện nay không thể nào bỏ qua việc xem xét và các nhân tố này. Đặc biệt khi triển khai các nghiên cứu trong những nhóm xã hội riêng biệt. Lại cần khai thác thêm các nhân tố phụ, đặc trưng cho từng nhóm xã hội riêng lẻ. 5. Khía cạnh xã hội học của vấn đề nhà ở, quy hoạch và quản lý đô thị hiện nay Vấn đề nhà ở, và đi sau nó là vấn đề quy hoạch, quản lý đo thị luôn luôn là một chủ đề nghiên cứu đầy tính thời sự trong xã hội học đô thị. Có rất nhiều khía Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử
  34. Nhập môn xã hội học - 34 - cạnh để xã hội học đô thị có thể xâm nhập, nghiên cứu, tìm hiểu và góp phần lý giải. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay( như đã trình bày ở mục 2), vấn đề về sự biến đổi cơ cấu xã hội, phân tầng xã hội, phân hóa giàu – nghèo ở đô thị đang là một vấn đề cơ bản đặc trưng trong buổi đầu chuyển sang cơ chế thị trường. Nó đóng vai trò chi phối rất nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực nhà ở, quy hoạch và quản lý đô thị hiện nay thể hiện như sau: Việc khẳng định sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu – nghèo ngày càng nổi rõ trong đời sống xã hội đã cung cấp một bức tranh về bối cảnh xã hội của các đô thị với những đặc điểm khác hẳn thời bao cấp. Đó là đặc điểm của của một đô thị đang đang ra khỏi cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp, đến với cơ chế thị trường. Trong bối cảnh đó, các nhà quy hoạch và xây dựng đô thị gần đây không ngồi chờ các nhiệm vụ kế hoạch Nhà nước giao để thiết kế các đồ án xây dựng các khu nhà tập thể, cửa hàng bách hóa tổng hợp, cơ quan, trường học Đã có một bộ phận quan trọng các khách hàng thuộc các khu vực khác, các tổ chức tư nhân, cá nhân có nhu cầu đến với nhà quy hoạch và xây dựng đô thị. Nhân tố xã hội đáng quan tâm nhất lúc này là: Trong các đô thị đã hình thành nên một lớp người giàu có. Họ có khả năng xây, tậu những công trình lớn, có khả năng hoạt động và chi phối thị trường nhà đất, bất chấp người nghèo. Họ cũng chi phối cả lực lượng thiết kế, xây dựng theo ý muốn của họ và vì thế rất dễ vi phạm các nguyên tắc, tiêu chuẩn của công tác quy hoạch đô thị. Mặt khác, vẫn còn tồn tại một nhóm người nghèo không thể đủ điều kiện để cải thiện cư trú vốn rất tồi tàn của họ. Vì thế, họ sẽ phải đương đầu với nhiều khó khăn hơn do giá đất, giá nhà ngày một tăng vọt và nhu cầu của cuộc sống cũng ngày một nâng cao. Kết qủa là không tránh khỏi tồn tại các khu nhà ổ chuột bên cạnh các biệt thự, khách sạn sang trọng mà không thể dễ dàng giải tỏa, quy hoạch lại được. Công tác cải tạo ( tu bổ) đô thị cũng sẽ gặp phải một thách thức cần giải quyết có liên quan tới sự phân tầng xã hội là: thực tế, do sự phát triển tự phát trên một địa bàn cư trú hẹp ( ở một phố, một dãy phố, một lô nhà) thường sống xen kẽ người giàu, kẻ ngèo. Quy hoạch cải tạo một địa bàn như vậy không dễ dàng có được sự thỏa thuận mang tính pháp lý với dân cư sở tại do bởi họ rất khác nhau về lợi ích và khả năng cùng tham gia với chính quyền và nhà quy hoạch. Người nghèo thì chẳng có gì và cũng chẳng quan tâm đến việc cải tạo vì họ biết không thể có tiền. Trong khi người giàu sẵn sàng chi một khoản tiền lớn để cùng với Nhà nước, xây dựng lại cơ sở hạ tầng kỹ thuật của khu ở. Trong trường hợp này ai lợi, ai thiệt, thì vai trò của Nhà nước, của nhân dân, của mỗi nhóm xã hội đều phải được tính đến, và phải tính toán cẩn thận mới có thể đạt được hiệu qủa kinh tế – xã hội – môi trường. Đó là một điều thực tế. Kết qủa nghiên cứu sự phân tầng xã hội đã cho thấy ở các nhóm ( tầng) trong tháp phân tầng xã hội, dân cư đã biểu thị những thái độ khác nhau đối với các chính sách kinh tế – xã hội. Trong số các chính sách này, có các chính sách cụ thể, có liên quan đến công tác quy hoạch xây dựng và quản lý đô thị. Biết được thái độ của tầng nhóm xã hội ( giàu – nghèo – trung bình ) là cần thiết cho các nhà quy hoạch định chính sách để quy hoạch đô thị. Thí dụ, cụ thể là thái độ của các nhóm dân cư đối với chính sách nhà ở hiện nay, nên chủ trương và chính sách luôn cần được điều chỉnh cho phù hợp với thực tế. Các thông tin về sự phân tầng xã hội và thái độ của Lê Minh Chiến Khoa Lịch Sử