Giáo trình Tiến trình lịch sử Việt Nam

pdf 58 trang hapham 2470
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Tiến trình lịch sử Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_tien_trinh_lich_su_viet_nam.pdf

Nội dung text: Giáo trình Tiến trình lịch sử Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRẦN VĂN THỨC (Chủ biên) TRẦN VŨ TÀI - MAI THANH NGA - ĐẶNG NHƯ THƯỜNG TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT NAM (Giáo trình dùng cho đào tạo đại học từ xa) VINH - 2011
  2. Cuốn giáo trình TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT NAM dùng cho sinh viên đại học ngành Luật, hệ đào tạo từ xa, được biên soạn theo đề cương đã phê duyệt, gồm 6 chương, do hai tác giả phân công thực hiện như sau: Chương sách Tác giả Chương 1: Việt Nam từ thời tiền sử đến cuối thời Bắc thuộc Đặng Như Thường Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỷ X đến giữa thế kỷ XIX Đặng Như Thường Chương 3: Việt Nam từ 1858 đến 1945 Mai Thanh Nga Chương 4: Lịch sử Việt Nam từ 1945 đến nay Trần Vũ Tài MỤC LỤC Trang Chương 1: VIỆT NAM TỪ THỜI TIỀN SỬ ĐẾN CUỐI THỜI BẮC THUỘC 1 1.1. Việt Nam từ thời tiền sử đến thời kỳ bắt đầu dựng nước 1 1.1.1. Thời kỳ nguyên thủy 1 1.1.2. Thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc. 7 1.1.3. Nền Văn minh sông Hồng 11 1.2. Việt Nam thời Bắc thuộc (179 TCN - 907) 12 1.2.1. Chính sách đô hộ và đồng hóa của các triều đại phong kiến phương 12 Bắc 1.2.2. Tình hình kinh tế - xã hội - văn hóa 16 1.2.3. Các cuộc đấu tranh giành độc lập 17 1.3. Một số nhận xét về lịch sử Việt Nam từ thời tiền sử đến thời Bắc 21 thuộc 1.3.1. Những đặc điểm cơ bản của lịch sử Việt Nam từ thời tiền sử đến cuối 21 thời Bắc thuộc 1.3.2. Ý nghĩa lịch sử của phong trào đấu tranh giành độc lập thời Bắc 22 thuộc Chương 2: VIỆT NAM TỪ ĐẦU THẾ KỶ X ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX 23 2.1. Việt Nam từ đầu thế kỷ X đến đầu thế kỷ XV 23 2.1.1. Việt Nam thế kỷ X 23 2.1.2. Các vương triều Lý - Trần - Hồ 28 2.1.3. Các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm 32 2.1.4. Văn hóa Việt Nam thời Lý - Trần - Hồ 35 2.2. Việt Nam thế kỷ XV 37 2.2.1. Chính sách đô hộ của nhà Minh và khởi nghĩa Lam Sơn 37 2.2.2. Việt Nam thời Lê Sơ 39 2.3. Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVIII 44
  3. 2.3.1. Tình hình chính trị 44 2.3.2. Tình hình kinh tế 45 2.3.3. Tình hình văn hóa 48 2.4. Việt Nam từ giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX 50 2.4.1. Tình hình Đàng Ngoài 50 2.4.2. Tình hình Đàng Trong và phong trào nông dân Tây Sơn 51 2.4.3. Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX dưới triều Nguyễn 53 2.5. Một số nhận xét về lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỷ X đến giữa thế kỷ 57 XIX 2.5.1. Những đặc điểm cơ bản của lịch sử Việt Nam thời kỳ phong kiến độc 57 lập 2.5.2. Ý nghĩa công cuộc xây dựng và bảo vệ nhà nước phong kiến độc lập 57 tự chủ Chương 3: VIỆT NAM TỪ 1858 ĐẾN 1945 59 3.1. Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX. 59 3.2. Việt Nam đầu thế kỉ XX. 63 3.3. Việt Nam từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đến khi Đảng Cộng 66 sản Việt Nam ra đời. 3.3.1. Hoạt động yêu nước và cách mạng của Nguyễn Ái Quốc 66 3.3.2. Phong trào công nhân (1919-1929) 67 3.3.3. Sự xuất hiện các tổ chức cộng sản và sự thành lập ĐCS Việt Nam 68 3.4. Phong trào cách mạng Việt Nam thời kỳ 1930 – 1945. 69 3.4.1. Phong trào cách mạng từ 1930 đến 1935. 69 3.4.2. Phong trào dân chủ 1936 – 1939. 69 3.4.3. Phong trào giải phóng dân tộc 1939 – 1945. 70 3.5. Một số nhận xét về lịch sử Việt Nam từ 1858 đến 1945 74 Chương 4: LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY 76 4.1. Việt Nam năm đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám (9/1945 -12/1946) 76 4.2. Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược 78 (1946 – 1954). 4.2.1. Bùng nổ và giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1946 – 78 1950) 4.2.2.Cuộc kháng chiến chống Pháp phát triển và kết thúc thắng lợi (1950- 79 1954). 4.3. Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975) 85 4.3.1. Tình hình Việt Nam sau Hiệp định Giơnevơ 1954 85 4.3.2.Công cuộc xây dựng miền Bắc (1954-1960) 87 4.3.3. Đấu tranh chống Mỹ-Ngụy ở miền Nam 89 4.3.4. Miền Nam chiến đấu chống chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" và 90 “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ (1960 – 1968)
  4. 4.3.5. Miền Bắc chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1965-1968). 93 4.3.6. Chống chiến lược “Việt nam hóa” và “Đông Dương hóa” chiến 95 tranh. 4.3.7. Hiệp định Pari về Việt Nam 97 4.3.8. Cả nước dồn sức giải phóng miền Nam, giành toàn vẹn lãnh thổ Tổ 99 quốc (1973 - 1975) 102 4.4. Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1975 – nay) 4.4.1. Khắc phục hậu quả chiến tranh, hoàn thành thống nhất đất nước 102 (1975 - 1976) 4.4.2. Bước đầu xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc (1976 - 1985) 103 4.4.3. Đất nước thời kỳ đổi mới (1986 – nay) 110 TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH 114 TÍN CHỈ 1: LỊCH SỬ VIỆT NAM CỔ - TRUNG ĐẠI Chương 1: VIỆT NAM TỪ THỜI TIỀN SỬ ĐẾN CUỐI THỜI BẮC THUỘC 1.1. Việt Nam từ thời tiền sử đến thời kỳ bắt đầu dựng nước 1.1.1. Thời kỳ nguyên thủy Những dấu vết đầu tiên của con người trên đất Việt Nam Trong lịch sử loài người, giai đoạn đầu tiên là thời kỳ nguyên thủy. Trong khảo cổ học, giai đoạn này tương ứng với thời kỳ đồ đá cũ. Trong nhân loại học, nó tương ứng với thời kỳ người vượn. Người vượn tồn tại cách ngày nay khoảng 2 triệu năm đến vài chục vạn năm. Trên lãnh thổ Việt Nam, các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều dấu vết của người vượn, gần giống với người vượn Bắc Kinh, cách ngày nay trên dưới 50 - 60 vạn năm. Trong các hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai (Lạng Sơn); Thẩm Ồm (Nghệ An); Hang Hùm (Yên Bái) các nhà khảo cổ học đã tìm thấy một số răng người vượn nằm trong lớp trầm tích màu đỏ cùng di cốt các động vật thời Cánh tân, cách ngày nay khoảng 40 - 50 vạn năm, cùng với những công cụ lao động của người vượn. Ở một số địa phương trên cả nước như Hang Gòn (Xuân Lộc - Đồng Nai), Lộc Ninh (Bình Phước), núi Đọ (Thanh Hóa) đã tìm thấy công cụ lao động của người nguyên thủy. Những công cụ đó làm bằng đá, có ghè đẽo thô sơ rất giống với các công cụ đá thời đại sơ kỳ đá cũ. Do trình độ thấp kém, công cụ lao động thô sơ, lại sống trong điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt nên người vượn đã hợp thành từng bầy để cùng lao động và chống thú dữ. Khác với các bầy động vật, bầy người nguyên thủy đã có quan hệ xã hội, có người đứng đầu, có sự phân công lao động giữa nam và nữ. Mỗi bầy thường có khoảng 20 - 30 người, gồm các thế hệ khác nhau, lấy hái lượm, săn bắt làm phương tiện để sinh sống và lang thang khắp nơi.
  5. 1.1.2. Các giai đoạn phát triển của xã hội nguyên thủy ở Việt Nam * Sự xuất hiện người hiện đại: từ Ngườm đến Sơn Vi Trải qua một thời gian dài sinh tồn và phát triển, người vượn đã chuyển biến thành người khôn ngoan (hay còn gọi là người hiện đại). Tên khoa học là Homo sapiens. Người hiện đại thường xuất hiện vào hậu kỳ Cánh tân. Trên lãnh thổ Việt Nam, ở hang Thẩm Ồm (Nghệ An) đã tìm thấy răng người cổ và xương răng một số động vật như voi răng kiếm, gấu tre. Răng người Thẩm Ồm có những đặc điểm của răng người - vượn (Homo erectus) lại có đặc điểm răng người hiện đại (Homo sapiens). Ở hang Hùm (Yên Bái), hang Kéo Lèng (Lạng Sơn) lại phát hiện được 2 chiếc răng của người hiện đại, có niên đại cách ngày nay khoảng 3 vạn năm. Ở mái đá Ngườm (Võ Nhai, Bắc Thái), các nhà khảo cổ học đã khai quật được nhiều mảnh tước nhỏ, tách từ những hòn cuội để dùng làm nạo và mũi nhọn, có niên đại cách ngày nay khoảng 23.000 năm, thuộc giai đoạn hậu kỳ đá cũ. Vào cuối thời đại đá cũ, trên một vùng rộng lớn của miền Bắc nước ta, có nhiều bộ lạc săn bắt, hái lượm để sinh sống. Họ cư trú trong các hang động, mái đá, ven bờ các con sông, suối. Các di tích văn hóa thời kỳ này được các nhà khảo cổ học gọi bằng một thuật ngữ chung là văn hóa Sơn Vi (lấy tên xã Sơn Vi, Sông Thao, Phú Thọ - nơi phát hiện những hiện vật đầu tiên thuộc nền văn hóa này). Dấu tích của văn hóa Sơn Vi được tìm thấy ở nhiều nơi trên lãnh thổ Việt Nam: Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị Các bộ lạc Sơn Vi dùng đá cuội ghè đẽo ở rìa cạnh tạo nên những công cụ chặt, nạo hay cắt. Hai mặt còn lại của hòn cuội vẫn vẫn giữ được vẻ tự nhiên. Đặc trưng của công cụ Sơn Vi là những hòn cuội được ghè đẽo ở rìa cẩn thận, có nhiều loại hình ổn định, thể hiện bước tiến trong kỹ thuật chế tác đá, song chưa có kỹ thuật mài. Sự xuất hiện của người hiện đại Sơn Vi đánh dấu bước chuyển biến trong tổ chức xã hội, các thị tộc, bộ lạc ra đời. Mỗi thị tộc gồm vài ba chục gia đình với vài ba thế hệ cùng chung huyết thống, sống quây quần với nhau trên cùng một địa vực. Một số thị tộc sống gần nhau, có họ hàng với nhau vì cùng chung một nguồn gốc tổ tiên xa xôi hợp lại thành bộ lạc. Các thị tộc trong một bộ lạc có quan hệ gắn bó, giúp đỡ nhau trong cuộc sống và có quan hệ hôn nhân giữa con trai của thị tộc này với con gái của thị tộc kia trong cùng một bộ lạc. Mọi thành viên trong cùng thị tộc đều có phong tục, tập quán như nhau và đều được tự do, bình đẳng. * Thời kỳ Hòa Bình - Bắc Sơn Tiếp theo văn hóa Sơn Vi là văn hóa Hòa Bình. Hòa Bình là địa điểm đầu tiên phát hiện được di chỉ văn hóa thuộc thời kỳ văn hóa đá mới trước gốm, có niên đại cách ngày nay khoảng 12.000 đến 10.000 năm. Cư dân Hòa Bình đã mở rộng địa bàn cư trú khắp vùng núi Tây Bắc (Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu ) vào đến các tỉnh miền Trung (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên ).
  6. Cư dân Hòa Bình chủ yếu sống trong các hang động, mái đá thuộc các thung lũng đá vôi, gần suối sông và đã có cuộc sống định cư tương đối lâu dài. Công cụ của họ vẫn làm bằng đá cuội nhưng ghè đẽo rộng hơn, lên cả một bên mặt, còn mặt bên kia để nguyên. Những công cụ này có lưỡi xung quanh có thể chặt, đẽo, nạo. Đặc trưng của công cụ Hòa Bình là rìu ngắn. Các nhà khảo cổ còn tìm thấy chày nghiền hạt bằng đá cuội bị mài phẳng một đầu do nghiền hạt nhiều, những chiếc rìu dài bằng đá cuội có ghè đẽo, nhiều mảnh tước. Hoạt động kinh tế chủ yếu của cư dân Hòa Bình là hái lượm và săn bắt. Trong nhiều di chỉ thuộc nền văn hóa Hòa Bình, các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều xương động vật là các loài thú rừng, vỏ các động vật thân mềm sống dưới sông suối. Ở hang Chùa (Tân Kỳ), phát hiện các xương thú như hươu, voi, trâu bò, lợn rừng, khỉ, tê giác và nhiều vỏ ốc, hến Ở hang Dơi (Quảng Trị) tìm thấy các công cụ, xương động vật như rìu ngắn, rìu hình đĩa, rìu lưỡi dọc, mảnh tước, bàn nghiền hạt, vỏ ốc, trai, hến Những phát hiện của khảo cổ học còn cho thấy dấu tích của một nền nông nghiệp sơ khai, nông nghiệp trồng rau quả hoặc cây cho củ thời Hòa Bình. Ở các di chỉ Sũng Sàm (Hòa Bình), Thẩm Khương (Lai Châu), bằng phương pháp phân tích bào tử phấn hoa, các nhà khảo cổ đã tìm thấy phấn hoa. Ở hang xóm Trại (Hòa Bình) đã tìm thấy dấu tích của hạt thóc, vỏ trấu, hạt gạo cháy. Các di tích đó chứng tỏ, cư dân văn hóa Hòa Bình đã phát minh ra nền nông nghiệp sơ khai. Mặc dù cuộc sống vẫn chủ yếu dựa vào nguồn thức ăn do hái lượm, săn bắt. Nhưng sự ra đời của nông nghiệp có ý nghĩa vô cùng to lớn, đánh dấu bước chuyển biến mới, mở đầu cho công cuộc cải tạo tự nhiên bằng lao động sáng tạo của mình. Tập tục phổ biến của cư dân Hòa Bình là chôn người chết ở nơi cư trú. Ở các di chỉ hang Thẩm Hoi, hang Chùa (Nghệ An); hang Đắng, mái đá Mộc Long (rừng quốc gia Cúc Phương); hang Làng Gạo (Hòa Bình) các nhà khảo cổ đã tìm thấy những mộ táng thuộc văn hóa Hòa Bình. Ngôi mộ ở hang Chùa chôn người phụ nữ trong tư thế nằm co, xung quanh xếp nhiều hòn đá lớn cùng với một chiếc rìu đá. Các ngôi mộ ở rừng Cúc Phương, người chết được bôi thổ hoàng và chôn theo tư thế nằm co như ngôi mộ ở hang Chùa. Ngoài ra còn tìm thấy những khu mộ táng tập thể của các thị tộc thời văn hóa Hòa Bình. Ở hang Làng Gạo, tìm thấy 20 sọ người lớn và sọ trẻ em nằm trong khoảnh đất 25 m2, kèm theo các công cụ bằng đá. Đời sống tinh thần của cư dân Hòa Bình khá phong phú. Họ đã biết làm các đồ trang sức để tô đẹp cuộc sống như vỏ ốc biển được mài và đục lỗ để xâu dây đeo, nhiều ngôi mộ xác chết được bôi thổ hoàng. Lúc bấy giờ có lẽ đã nảy sinh ý niệm về tín ngưỡng vật tổ. Ở hang Đồng Nội (Hòa Bình) có những hình khắc mặt một con thú và 3 mặt người. Trên đầu ba người đều có sừng. Ở một số di chỉ thuộc văn hóa Hòa Bình (hang Làng Bon hay các hang ở Yên Lạc, Kim Bảng) đều có những viên cuội khắc hình lá cây hoặc cành cây. Các di tích văn hóa Hòa Bình thường gần nhau và có tầng văn hóa khá dày. Có thể đây là nơi cư trú của các thị tộc trong một bộ lạc, những công xã thị tộc định cư lâu dài,
  7. hái lượm phát triển, nông nghiệp manh nha. Các công xã thị tộc này có thể là các công xã thị tộc mẫu hệ đang ở vào giai đoạn văn hóa đá mới trước gốm, cách ngày nay khoảng 1 vạn năm. Nối tiếp văn hóa Hòa Bình là văn hóa Bắc Sơn. Các bộ lạc Bắc Sơn cư trú trong các hang động, mái đá vùng núi đá vôi, gần sông suối thuộc các tỉnh Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An Tuy ra đời sau văn hóa Hòa Bình nhưng văn hóa Bắc Sơn có quan hệ nguồn gốc và những đặc trưng chung của văn hóa Hòa Bình, có niên đại cách ngày nay khoảng 7.000 năm. Cư dân Bắc Sơn cũng định cư trong các hang động đá vôi, lấy cuội ở sông suối để chế tạo công cụ như cư dân Hòa Bình, nhưng tiến bộ hơn ở chỗ đã biết mài đá. Công cụ đặc trưng của văn hóa Bắc Sơn là rìu mài lưỡi. Trong các di chỉ thuộc văn hóa Bắc Sơn, bên cạnh các rìu mài còn có các bàn mài bằng sa thạch để mài, dũa. Ngoài rìu mài còn có các công cụ bằng đá khác như bôn, đục, dao Với những chiếc rìu đá mài nhẵn, cư dân Bắc Sơn dễ dàng chế tác các công cụ bằng tre, nứa, gỗ, do vậy lao động thuận lợi hơn. Trong một số di chỉ thuộc văn hóa Bắc Sơn, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra đồ gốm. Đây là một thành tựu mới trong kỹ thuật chế tác công cụ của cư dân Bắc Sơn. Người Bắc Sơn lấy đất sét nhào với cát để khi nung, đồ gốm không bị rạn nứt. Đặc điểm đồ gốm Bắc Sơn có miệng loe, đáy tròn, hình dáng còn thô và độ nung chưa cao. Nhờ cải tiến công cụ lao động, trình độ sản xuất nông nghiệp của cư dân Bắc Sơn cũng được nâng lên một bước, song nguồn lương thực do nông nghiệp mang lại vẫn chưa đóng vai trò chủ đạo. Hoạt động kinh tế cơ bản vẫn là săn bắt, hái lượm. * Thời kỳ cách mạng đá mới và các bộ lạc trồng lúa Tiếp theo Hòa Bình - Bắc Sơn là văn hóa Đa Bút. Di chỉ văn hóa Đa Bút được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1926 - 1927, tại Vĩnh Lộc (Thanh Hóa), có niên đại cách ngày nay hơn 6.000 năm. Nhiều nhà khoa học xếp văn hóa Đa Bút vào thời kỳ văn hóa Bắc Sơn1. Đồ gốm Đa Bút tiến bộ hơn đồ gốm Bắc Sơn. Đặc trưng cơ bản là nồi có đáy tròn, mặt ngoài có những vết lõm, độ nung chưa cao. Văn hóa Quỳnh Văn (Quỳnh Lưu, Nghệ An) cũng thuộc văn hóa đá mới có gốm sau Hòa Bình - Bắc Sơn2, phân bố ở vùng đồng bằng ven biển Nghệ An, Hà Tĩnh. Người Quỳnh Văn đã bước đầu định cư tương đối lâu dài và tiến hành săn bắt, hái lượm các nguồn lợi tự nhiên ở ven biển miền Trung. Đồi sò điệp Quỳnh Văn vừa là nơi cư trú, vừa là khu mộ của người nguyên thủy. Sau khi khai quật, các nhà khảo cổ học cho rằng, mộ địa Quỳnh Văn vẫn là nơi chôn cất các thành viên của thị tộc, chưa có dấu hiệu chứng tỏ sự phân hóa tài sản trong cư dân Quỳnh Văn. Văn hóa Quỳnh Văn có niên đại cách ngày nay gần 5.000 năm. 1,2 Các tác gi i cng Lch s Viêt Nam, tp 1, NXB Giáo dc, H Ni v mt s tác gi khác thng xp vn hóa a Bút, Qunh Vn vo khung vn hóa Bc Sn, nhng chúng tôi thy khung niên i không thích hp. ây chúng tôi theo quan im ca các tác gi Tin trình lch s Vit Nam, NXB Giáo dc, H Ni, 2000, tr 14 - 15.
  8. Cùng thời kỳ với văn hóa Đa Bút - Quỳnh Văn, ở nhiều nơi khác trên lãnh thổ Việt Nam, người nguyên thủy đã tạo ra bước tiến có tính “cách mạng” trong việc cải tiến công cụ lao động. Họ không chỉ biết ghè đẽo, mài đá một mặt mà phổ biến là mài nhẵn cả hai mặt và khoan, cưa đá. Nhờ vậy, công cụ có hình dáng gọn, đẹp hơn, loại hình phong phú và thích hợp với từng công việc, năng suất lao động tăng. Khắp các tỉnh miền núi như hang Ba Xã, hang Mai Nha (Lạng Sơn) cho đến các tỉnh trung du, đồng bằng và ven biển Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ như Cái Bèo (Hải Phòng), hang Bái Tử Long (Quảng Ninh), Gò Trũng, cồn Cổ Ngựa (Thanh Hóa), Trại Ổi (Quỳnh Lưu, Nghệ An), Rú Ta (Diễn Châu, Nghệ An), bãi Phôi Phối (Nghi Xuân, Hà Tĩnh), cồn Lôi Một (Thạch Hà, Hà Tĩnh), Đồng Lê (Quảng Bình), đảo Bích Đầm (Khánh Hòa), Buôn Triết (Đắc Lắc), Cầu Sắt (Đồng Nai) đều tìm thấy chiếc rìu tứ diện hay rìu có vai được mài nhẵn cả hai mặt. Có những di chỉ có cả rìu răng cưa, rìu mài nhẵn toàn thân, rìu có chuôi tra cán. Ngoài ra còn có bôn, đục, dao, cuốc đá có chuôi tra cán và đều được mài nhẵn. Cư dân lúc bấy giờ còn biết dùng tre, nứa, gỗ làm cung tên, làm cán các loại cuốc, rìu, dao; dùng xương, sừng làm đục, dao nhỏ, kim khâu; dùng vỏ ốc làm công cụ nạo, gọt. Nhờ sự tiến bộ vượt bậc của kỹ thuật chế tác công cụ và sự phong phú của các loại hình công cụ, nền kinh tế có bước phát triển mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực. Hoạt động kinh tế đa dạng. Hái lượm, săn bắt vẫn tồn tại song không còn đóng vai trò chủ yếu trong đời sống của các bộ lạc, mà nhường chỗ cho nghề trồng lúa. Họ đã biết dùng cuốc có lưỡi mài nhẵn, có cán để xới đất sau khi dùng lửa đốt hết cỏ dại, lau sậy hoặc dùng cuốc xới đất và cỏ, rồi cho nước vào làm thối cỏ, sau đó gieo hạt. Bên cạnh nông nghiệp trồng lúa, nghề chăn nuôi gia súc cũng ra đời và phát triển. Chó, lợn, gà, trâu bò được nuôi trong nhà. Cư dân lúc bấy giờ đã định cư tương đối lâu dài trong các hang động, mái đá hoặc làm nhà sàn để ở. Ngành thủ công rất phát triển, nhất là nghề chế tác đá, làm đồ gốm và dệt vải. Đồ gốm được làm bằng tay hoặc bằng bàn xoay, hoa văn đa dạng (dấu thừng, hình chữ S nối đuôi nhau chạy quanh gờ miệng, hình sóng nước, hình ô trám, hình gân lá, hình xoắn ốc, hình khắc vạch ). Nhiều đồ gốm được tô thổ hoàng màu đỏ. Bên cạnh đó, nghề kéo sợi, dệt vải cũng trở thành những nghề phụ khá phổ biến trong các gia đình. Tại các di chỉ Bàu Tró, Thạch Lạc đã tìm thấy những dọi xe chỉ bằng đất nung. Xã hội chia thành nhiều thị tộc, nhiều thị tộc hợp lại thành bộ lạc. Mọi thành viên trong thị tộc, bộ lạc đều bình đẳng, người già và phụ nữ được tôn trọng. Tất cả mọi người đều phải tham gia lao động. Đời sống tinh thần được nâng cao. Bằng chứng là đồ trang sức rất phong phú, đa dạng: vòng đá, chuỗi hạt đá, nhẫn đá, vòng làm bằng vỏ ốc có đục lỗ để xỏ dây; những chuỗi hạt hình trụ, hình thoi bằng đất nung; những vòng tay bằng sừng Ở di chỉ bãi Phôi Phối có những khuyên tai bằng đất nung được trang trí bằng những chấm hoặc
  9. đường vạch. Ở những di chỉ khác như Hạ Long, Thường Xuân, Quỳ Châu tìm thấy khuyên tai bằng đá và đất nung. Quan niệm về thế giới bên kia của con người cũng trở nên phức tạp hơn. Người chết được chôn theo nhiều cách: chôn theo tư thế ngồi xổm, nằm co, nằm thoải mái như đang ngủ, hỏa táng, bị buộc chặt trước khi đem chôn2. Nhìn chung, vào cuối thời đại đá mới, trên khắp lãnh thổ Việt Nam đã xuất hiện nhiều nhóm bộ lạc có kỹ thuật làm đồ đá và đồ gốm tương tự nhau. Nông nghiệp trồng lúa dùng cuốc đá đã bắt đầu phổ biến, đời sống con người bước đầu ổn định. Họ đã bắt đầu định cư trong các xóm làng. Các nhà khoa học cho rằng, với những biến đổi to lớn về kỹ thuật chế tác công cụ và đời sống kinh tế của con người, cư dân Việt cổ đã bước vào thời kỳ “cách mạng đá mới” cách ngày nay khoảng 4.000 đến 6.000 năm. * Thời kỳ Phùng Nguyên - Hoa Lộc Vào cuối thời đại đá mới, cư dân các bộ lạc sống ở lưu vực sông Hồng đã biết đến một loại vật liệu mới là đồng và kỹ thuật luyện kim đồng thau (dù còn ở buổi đầu). Cư dân các bộ lạc này thuộc văn hóa Phùng Nguyên. Di chỉ văn hóa Phùng Nguyên tìm thấy ở nhiều nơi thuộc lưu vực sông Hồng như Phú Thọ, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Tây, Hà Nội, Hải Phòng. Các bộ lạc Phùng Nguyên đã đạt đến đỉnh cao của kỹ thuật làm đồ đá (sử dụng thành thạo kỹ thuật mài, cưa, khoan), biết làm đồ gốm bằng bàn xoay. Ở một số di chỉ thuộc văn hóa Phùng Nguyên, các nhà khảo cổ đã tìm thấy các cục đồng và xỉ đồng. Điều đó chứng tỏ, cư dân Phùng Nguyên đã biết đến hợp kim đồng thau và dùng hợp kim này để chế tác công cụ, dù công cụ đá vẫn chủ yếu. Do sự xuất hiện của kỹ thuật luyện kim, vai trò người đàn ông ngày càng được khẳng định. Công xã thị tộc mẫu quyền dần nhường chỗ cho công xã thị tộc phụ quyền. Xã hội nguyên thủy thời Phùng Nguyên có những chuyển biến mạnh mẽ, tạo tiền đề để bước sang xã hội có giai cấp và nhà nước. Bên cạnh các bộ lạc Phùng Nguyên, ở lưu vực sông Hồng còn có những bộ lạc khác cũng tiến đến giai đoạn sơ kỳ đồng thau như các bộ lạc sống ở vùng châu thổ sông Mã thuộc nền văn hóa Hoa Lộc3. Ở các di chỉ thuộc văn hóa Hoa Lộc, các nhà khảo cổ đã tìm thấy dùi đồng, dây đồng. Điều đó chứng tỏ, các bộ lạc Hoa Lộc sống ở vùng ven biển là những cư dân đầu tiên biết đến kim loại và tiến đến giai đoạn sơ kỳ đồng thau. Các di chỉ cồn Chân Tiên ở lưu vực sông Mã, đền Đồi ở Quỳnh Lưu, Long Thạnh ở Bình Định có phong cách trang trí trên gốm rất gần với văn hóa Phùng Nguyên. Cả 3 di chỉ này đều được các nhà khảo cổ xếp tương đương với văn hóa Phùng Nguyên ở lưu vực sông Hồng. 1 Trói cht ngi cht theo t th ngi xm, nm co l mun ngi cht không tr v lm hi ngi sng. mt s b lc trên th gii nh Oagôgô (ông Phi), Luyxông (Philippin) cng có tc chôn ngi cht nh vy. 3 Hoa Lộc - Hậu Lộc - Thanh Hóa là địa điểm đầu tiên tìm ra di tích của nền văn hóa này.
  10. Tại đảo Hòn Tre (Khánh Hòa) và các đảo ở khu vực bờ vịnh Cam Ranh, từ năm 1925 đến nay đã phát hiện nhiều di tích văn hóa Xóm Cồn được xếp vào giai đoạn hậu kỳ đá mới - sơ kỳ đồng thau. Công cụ đá điển hình ở Xóm Cồn là loại rìu bôn tứ giác thon dài. Đồ gốm phong phú, với lối vẽ hoa văn màu đỏ nâu và vàng da cam. Cư dân ở đây còn biết sử dụng vỏ nhuyễn thể làm công cụ và đồ trang sức. Bên cạnh nghề đánh bắt cá, khai thác thủy sản, cư dân Xóm Cồn đã biết trồng trọt và chăn nuôi. Thuộc di chỉ văn hóa Đồng Nai còn có di chỉ Cầu Sắt thuộc hậu kỳ đá mới. Các di chỉ Bến Đò, Phước Tân, Hội Sơn, Ngãi Thắng là bước phát triển tiếp sau giai đoạn Cầu Sắt. Các bộ lạc nông nghiệp ở lưu vực sông Đồng Nai đã biết sử dụng những chiếc cuốc đá mài nhẵn, thân cong về phía trước, có kích thước lớn để làm đất. Gốm Đồng Nai đa dạng về kiểu dáng và hoa văn trang trí, có những nét gần gũi với gốm Phùng Nguyên. Như vậy, cách ngày nay khoảng 4.000 năm, không chỉ các bộ lạc Phùng Nguyên mà còn nhiều bộ lạc khác trên khắp lãnh thổ Việt Nam đã biết đến hợp kim đồng thau. Văn hóa Phùng Nguyên và các nền văn hóa sơ kỳ đồng thau khác đều được phát triển từ các nền văn hóa hậu kỳ đá mới. Nếu xem Phùng Nguyên là nền văn hóa sơ kỳ đồng thau tiêu biểu nhất, thì ở hầu hết các nền văn hóa cùng thời, đồ gốm đều phảng phất phong cách Phùng Nguyên. Sự xuất hiện của hợp kim đồng thau được xem là sự kiện trọng đại nhất trong đời sống kinh tế xã hội nguyên thủy, là cơ sở cho bước phát triển nhảy vọt của các bộ lạc nguyên thủy trên đất nước ta trong giai đoạn tiếp theo. 1.1.2. Thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc. Những chuyển biến về kinh tế - xã hội * Về kinh tế: Thời hùng Vương, kỹ thuật luyện kim ngày càng phát triển, công cụ lao động bằng đồng thau ngày càng chiếm ưu thế. Sự tiến bộ của công cụ bằng sắt đã thúc đẩy nền kinh tế ngày càng phát triển. Nông nghiệp lúa nước đóng vai trò chủ đạo, phổ biến từ trung du đến đồng bằng. Với việc chế tạo ra lưỡi cày, nông nghiệp dùng cày đã thay thế cho nông nghiệp dùng cuốc trước đó, đánh dấu bước tiến trong nông nghiệp. Sự xuất hiện của các công cụ bằng đồng còn chứng tỏ bước tiến về kỹ thuật canh tác của cư dân Việt cổ lúc bấy giờ. Sự phát triển của kinh tế nông nghiệp lúa nước đòi hỏi ngày càng bức thiết công tác trị thủy, thủy lợi, khai khẩn đất đai, mở rộng diện tích canh tác. Đã có một số tài liệu cho thấy, cư dân lúc bấy giờ đã biết sử dụng biện pháp tưới tiêu “tưới ruộng theo nước triều lên xuống”4. Họ còn biết trồng lúa trên các loại ruộng nước, bãi và nương rẫy với những hình thức canh tác phù hợp. Ngoài trồng lúa là chính, cư dân lúc bấy giờ còn biết nghề làm vườn, trồng rau củ, cây ăn quả. Cùng với nông nghiệp còn có chăn nuôi, đánh cá và thủ công nghiệp cũng phát triển. Để phục vụ nông nghiệp, cư dân lúc bấy giờ đã biết chăn nuôi trâu bò. Nhiều di tích văn hóa Đông Sơn có nhiều xương trâu bò5. Các gia súc, gia cầm được nhân dân chăn 4 Dẫn lại theo Lịch sử Việt Nam (từ nguồn gốc đến ngày nay), NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr 28. 5 Ở di tích Làng Vạc tìm thấy 13 chiếc răng trâu bò. Ở Đình Chàng tìm thấy sừng trâu bò. Trên trống đồng Đồi Ro có hình bò. Ở di chỉ Gò Mun, xương trâu bò nhà chiếm tỉ lệ 38,7%. Ở Đình Chàng tăng lên 68,7% so với tổng số xương các động vật (Số liệu trích từ Lịch sử Việt Nam, tập 1, Sđd, tr 72).
  11. nuôi rộng rãi. Nghề thủ công cũng có những bước tiến quan trọng. Trong đó, kĩ thuật luyện kim đạt đến trình độ điêu luyện khiến các học giả nước ngoài kinh ngạc và phủ nhận tính bản địa của nó. Trống đồng, thạp đồng là những hiện vật tiêu biểu cho trí tuệ, thẩm mĩ và tài năng của người thợ thủ công lúc bấy giờ. Bên cạnh đó, nghề làm đồ gốm cũng phát triển thêm một bước. Nghệ thuật nặn gốm bằng bàn xoay được cải tiến, chất lượng gốm ngày càng tăng. Hình thức trang trí ngày càng phong phú, đa dạng như: nồi (đáy tròn, đáy bằng, đáy lồi), hoa văn (hình chữ S, dấu thừng, hình ô van) Chính sự phát triển của kinh tế trên nhiều lĩnh vực đã tạo điều kiện mở rộng trao đổi hàng hóa với nước ngoài, chủ yếu với các nước trong khu vực. Hiện tượng một số trống đồng loại 1 Hegơ của nước Văn Lang ở Thái Lan, Malaixia đã chứng tỏ điều đó. * Về xã hội: sự phát triển của kinh tế đã tạo điều kiện tăng thêm nhiều của cải, sản phẩm dư thừa ngày càng nhiều, tạo nên cơ sở cho sự phân hóa xã hội. Chế độ tư hữu tài sản ra đời và ngày càng phát triển, xã hội phân hóa giàu nghèo. Ngay từ thời Phùng Nguyên, hiện tượng phân hóa xã hội đã xuất hiện. Trong số 12 ngôi mộ khai quật ở Lũng Hòa (Vĩnh Phú) có 2 mộ chỉ có 2 hiện vật chôn theo người chết, 2 mộ có tới 20 hiện vật và 14 hiện vật, một số mộ còn lại có phổ biến từ 3 - 13 hiện vật. Đồ tùy táng giống nhau gồm: công cụ, đồ dùng bằng đá, gốm6. Điều đó chứng tỏ ở thời kỳ này xã hội đã có sự phân hóa. Sự phân hóa đó diễn ra từ từ, ngày càng rõ nét và trải qua quá trình lâu dài. Tuy nhiên, sự phân hóa chưa sâu sắc và gắn liền với phân hóa tài sản, trong xã hội lúc bấy giờ đã xuất hiện các tầng lớp xã hội khác nhau: - Quý tộc: gồm các Tộc trưởng, Tù trưởng bộ lạc, Thủ lĩnh liên minh bộ lạc và những người giàu có khác. - Dân tự do: là tầng lớp đông đảo nhất trong xã hội, giữ vai trò là lực lượng sản xuất chủ yếu. - Nô tì: là tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội. Sự hình thành nhà nước đầu tiên - Nhà nước Văn Lang thời Hùng Vương * Địa bàn, cư dân và niên đại Căn cứ vào các thư tịch cổ của Việt Nam (Việt sử lược, Lĩnh Nam chích quái, Dư địa chí ); căn cứ vào quá trình chuyển hóa lịch sử từ nước Văn Lang thời Hùng Vương sang nước Âu Lạc thời An Dương Vương, rồi đến hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân thời thuộc Triệu, Hán; căn cứ vào các di tích khảo cổ học thuộc văn hóa Đông Sơn đã phát hiện, có thể khẳng định: Địa bàn cư trú của cư dân Việt cổ thời Văn Lang tương ứng với vùng Bắc bộ, Bắc Trung bộ của nước ta ngày nay và một phần phía Nam Quảng Đông, Quảng Tây (Trung Quốc). Cư dân thời Hùng Vương là Lạc Việt, một bộ tộc trong Bách Việt7. Các nhà khảo cổ học gọi cư dân Bách Việt là giống “Mông Cổ phương Nam”, bao gồm giống người 6 Lịch sử Việt Nam (từ nguồn gốc đến ngày nay), Sđd, tr 32. 7 Bách Việt là tên người Hán gọi cư dân ở phía Nam sông Dương Tử, khác người Hán, bao gồm: U Việt ở Triết Giang, Điền Việt ở Vân Nam, Mân Việt ở Phúc Kiến, Đông Việt ở Giang Tây, Nam Việt ở Quảng Đông (Trung Quốc) và Âu Việt, Lạc Việt (Việt Nam).
  12. Anhđônêdiêng (Indonêsien) hỗn chủng với người Mông Cổ (Mônggôlôit) tạo ra người Mông Cổ phương Nam. Dựa vào thành tựu của các ngành khoa học, chủ yếu là khảo cổ học, ngày nay phần lớn các nhà khoa học đều cho rằng thời đại Hùng Vương tương ứng với thời đại kim khí (thời đại đồng thau và sơ kỳ đồ sắt), phát triển qua các giai đoạn: - Giai đoạn Phùng Nguyên (có niên đại cách ngày nay khoảng 4.000 - 3.500 năm), thuộc sơ kỳ đồng thau. - Giai đoạn Đồng Đậu (có niên đại cách ngày nay khoảng 3.500 - 3.100 năm), thuộc trung kỳ đồng thau. - Giai đoạn Gò Mun (có niên đại cách ngày nay khoảng 3.100 - 2.700 năm), thuộc hậu kỳ đồng thau. - Giai đoạn Đông Sơn (có niên đại cách ngày nay khoảng 2.700 - 1.900 năm), thuộc thời kỳ đồng thau phát triển và sơ kỳ sắt. Đây là giai đoạn chuyển tiếp từ sự phát triển đỉnh cao của đồ đồng sang sơ kỳ đồ sắt. Giai đoạn cuối của văn hóa Đông Sơn kéo dài đến một vài thế kỷ sau công nguyên. Tuy nhiên, thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc chỉ tương ứng với giai đoạn từ khoảng thế kỷ VII TCN đến năm 179 TCN. * Tổ chức nhà nước Dựa vào tài liệu khảo cổ học, thư tịch cổ Việt Nam và Trung Quốc có thể phác họa cấu trúc của nhà nước thời Hùng Vương theo hệ thống 3 cấp: Đứng đầu nước Văn Lang là Hùng Vương, có tính chất cha truyền con nối. Hùng Vương vừa là người chỉ huy quân sự, vừa chủ trì các lễ nghi tôn giáo. Dưới Hùng Vương và giúp việc cho Hùng Vương có các Lạc hầu, Lạc tướng. Lạc hầu là những tướng lĩnh to nhỏ, trong tay có quân đội có thể trấn áp các địa phương không chịu thuần phục. Lạc tướng trực tiếp cai quản công việc của các bộ. Nước Văn Lang được chia thành các bộ (bộ lạc). Đứng đầu bộ là các Lạc tướng (còn gọi là Phụ đạo, Bộ tướng), cũng được đời đời cha truyền con nối. Lạc tướng thực chất là tù trưởng hay thủ lĩnh đứng đầu một vùng. Dưới bộ là các công xã nông thôn (còn gọi là kẻ, chiềng, chạ). Đứng đầu công xã là Bồ chính (già làng). Bồ chính lúc đầu là người đại diện cho công xã nhưng sau đó lại nghiêng dần về phía quý tộc. Bên cạnh nhà nước có lẽ còn có một nhóm người có chức năng như một Hội đồng công xã để tham gia điều hành công việc. Mỗi công xã có nơi trung tâm để hội họp, sinh hoạt cộng đồng, thường là một ngôi nhà công cộng. Căn cứ vào lời tâu của Mã Viện lên vua nhà Hán “Luật Việt khác với luật Hán hơn mười điều”8, có thể nghĩ rằng lúc bấy giờ nhà nước Văn Lang đã có pháp luật để điều hành xã hội. Pháp luật thời Văn Lang có lẽ là một thứ luật tục (tập quán pháp) chứ chưa phải luật pháp thành văn. 8 “Hậu Hán thư ghi: Mã Viện đi qua xứ nào (đất đai Âu Lạc) liền đặt thành quận, huyện; xây thành, quách. Có điều trần về luật của người Việt, so sánh với luật Hán hơn 10 điều, rồi ban bố rõ phép cũ cho người Việt biết để bó buộc dân Việt” trích từ Vũ Văn Mậu, Cổ luật Việt Nam lược khảo, Q1, NXB Sài Gòn, 1969. tr 61 - 62.
  13. Như vậy, nhà nước thời Hùng Vương là một hình thái nhà nước phôi thai còn in đậm dấu ấn chế độ bộ lạc - công xã trong quá trình chuyển từ xã hội nguyên thủy sang xã hội phân hóa giai cấp sơ kỳ mang đặc trưng riêng của phương Đông. Tuy còn sơ khai song nó đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong lịch sử Việt Nam, mở đầu thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc. Cuộc kháng chiến chống xâm lược Tần và sự hình thành nhà nước Âu Lạc * Kháng chiến chống Tần Năm 221 TCN, nước Tần tiêu diệt 6 nước Tề, Sở, Yên, Hàn, Triệu, Ngụy, kết thúc cục diện “thất hùng” thời Chiến Quốc, thống nhất Trung Quốc. Để thực hiện tham vọng bành trướng lãnh thổ, nước Tần đã mở rộng những cuộc chiến tranh xâm lược đại quy mô lên phía Bắc, xuống phía Nam, lập ra một đế chế rộng lớn đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Năm 218 TCN, Tần Thủy Hoàng đã sai Hiệu úy Đồ Thư chỉ huy 50 vạn quân xâm lược đất đai của Bách Việt phía Nam sông Trường Giang. Hàng vạn quân Tần tràn vào lãnh thổ phía Bắc và Đông Bắc nước ta lúc đó. Lúc bấy giờ, hai tộc người Lạc Việt và Tây Âu vốn gần gũi về dòng máu, địa vực cư trú, văn hóa và kinh tế đã không chịu khuất phục, sát cánh cùng nhau trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung. Theo sách Hoài Nam Tử của Lưu An (? - 122 TCN), “người Việt đều vào rừng, ở với cầm thú, không ai chịu để cho quân Tần bắt” và “họ cùng nhau đặt người kiệt tuấn lên làm tướng để ban đêm ra đánh quân Tần”9. Cuộc kháng chiến lâu dài của nhân dân Lạc Việt và Tây Âu (214 - 208 TCN) đã làm cho quân Tần lâm vào tình thế khốn quẫn “lương thực bị tuyệt và thiếu”, “thây phơi, máu chảy đến hàng chục vạn người”10. Trên đà thắng lợi, người Việt đã tổ chức đánh lớn, đại phá quân Tần, giết chết chủ tướng Đồ Thư, buộc Tần Nhị Thế phải ra lệnh bãi binh ở đất Việt vào năm 208 TCN. * Nước Âu Lạc thời An Dương Vương Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tần, liên minh Tây Âu - Lạc Việt hình thành và ngày càng mạnh lên. Uy tín của Thục Phán - thủ lĩnh của bộ lạc Tây Âu ngày càng được củng cố. Việc Thục Phán thay thế Hùng Vương có lẽ được thực hiện sau khi cuộc kháng chiến thành công (năm 208 TCN). Thục Phán lên làm vua, lập ra nước Âu Lạc và xưng là An Dương Vương, đóng đô ở Cổ Loa. Sự thành lập nước Âu Lạc không phải là kết quả của một cuộc chiến tranh thôn tính mà là sự hợp nhất cư dân, đất đai của Lạc Việt và Tây Âu. Nước Âu Lạc chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi, khoảng từ năm 208 - 179 TCN. Tuy vậy, nước Âu Lạc ra đời là một bước kế tục và phát triển cao hơn nước Văn Lang. Kinh tế, chính trị, văn hóa thời Âu Lạc đều tiếp tục phát triển trên cơ sở những thành tựu đã đạt được của nước Văn Lang. Đặc biệt, do yêu cầu của cuộc chiến đấu chống ngoại xâm nên kỹ thuật quân sự thời Âu Lạc có những tiến bộ vượt bậc. 9,2 Theo Lưu An viết trong Hoài Nam Tử (Trích theo Lịch sử Việt Nam, tập 1, NXB KHXH, Hà Nội, 1971, tr 129).
  14. - Sáng chế ra nỏ bắn một lần nhiều phát tên thường gọi là nỏ liễu hay nỏ liên châu. Loại vũ khí lợi hại này được thần thánh hóa thành “nỏ thần”. Năm 1957, khảo cổ học đã phát hiện ở Cầu Vực (phía Nam thành Cổ Loa) một kho mũi tên đồng gồm hàng vạn chiếc. - Kiến trúc quân sự nổi tiếng thể hiện sức mạnh của nước Âu Lạc là thành Cổ Loa. Dấu tích còn lại ngày nay của thành Cổ Loa là 3 vòng thành. Thành ngoài dài hơn 8.000 m, cao 4 - 8 m, vây quanh một khu đất (nay là xã Cổ Loa và một phần các xã Dục Tú, Dục Nội thuộc huyện Đông Anh (Hà Nội)). Thành giữa dài 6.500 m, cao từ 12 - 16 m. Thành trong dài 1.600 m, độ cao trung bình 5m. Chân thành dày từ 20 - 30 m, mặt trên của thành rộng từ 6 - 12 m. Quanh thành đều có hào sâu và rộng từ 10 - 30 m. Thành Cổ Loa là công trình lao động quy mô lớn của nhân dân Âu Lạc. Số lượng đất đá đào đắp (ít nhất là 2.168.200 m3) đòi hỏi phải có hàng vạn nhân công. Thành được thiết kế hợp lý và sáng tạo: dùng sông làm hào, dùng gò cao, dải đất cao làm lũy. Xây thành giữa vùng đầm lầy, úng nên nhân dân đã biết phát huy kỹ thuật kè đá tảng để chân thành thêm vững chãi. Thành Cổ Loa còn thể hiện nghệ thuật quân sự độc đáo, sáng tạo của nhân dân Âu Lạc. Đây là một công trình phòng ngự kiên cố và lợi hại, một căn cứ bộ binh gồm nhiều công trình phòng thủ (hào, lũy, ụ công sự, lũy tiền vệ) liên tiếp nhau. Cổ Loa vừa là một căn cứ bộ binh, vừa là một căn cứ thủy quân quan trọng. Thuyền chiến có thể vận động khắp 3 vòng thành phối hợp với bộ binh, vừa có thể từ Cổ Loa ra Hoàng Giang, ngược sông Hồng, xuôi sông Cầu, thông ra cả hai hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình để đi đến mọi miền đất nước. 1.1.3. Nền Văn minh sông Hồng Thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc đã có thời gian tồn tại trong lịch sử Việt Nam khoảng trên dưới 2.000 năm TCN. Bằng sự lao động sáng tạo và đấu tranh kiên cường bền bỉ, người Việt cổ đã góp phần xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước, đưa nền kinh tế - xã hội trải qua những bước phát triển vượt bậc và đạt được nhiều thành tựu to lớn, tiêu biểu là sự hình thành và phát triển của nền văn minh đầu tiên của dân tộc ta: văn minh Văn Lang - Âu Lạc. Nền văn minh Văn Lang - Âu Lạc (còn gọi là nền văn minh sông Hồng) được hình thành cùng với sự hình thành nhà nước Văn Lang và sự phát triển đời sống vật chất, tinh thần của người Việt cổ. Nền văn minh Văn Lang - Âu Lạc có cội nguồn lâu đời của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước ở vùng Bắc bộ và Bắc Trung bộ, mang tính bản địa đậm nét, kết tinh bản lĩnh, truyền thống, cốt cách, lối sống của người Việt cổ. Nền văn minh Văn Lang - Âu Lạc đã trải qua một quá trình hình thành và phát triển lâu dài, liên tục từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn, từ sơ kỳ thời đại đồng thau đến sơ kỳ thời đại sắt; cùng với quá trình hình thành và ra đời của nhà nước Văn Lang - Âu Lạc ở thế kỷ VII - VI TCN.
  15. Nền văn minh Văn Lang - Âu Lạc đã trở thành cội nguồn của các nền văn minh tiếp theo của dân tộc Việt Nam, đặt nền móng vững chắc đầu tiên cho bản sắc dân tộc, là cội nguồn sức mạnh tinh thần để nhân dân ta vượt qua thử thách to lớn trong hơn một nghìn năm Bắc thuộc. 1.2. Việt Nam thời Bắc thuộc (179 TCN - 907) 1.2.1. Chính sách đô hộ và đồng hóa của các triều đại phong kiến phương Bắc Cuộc xâm lược vũ trang của Triệu Đà * Triệu Đà cát cứ lập ra nước Nam Việt Triệu Đà vốn là một viên quan của nhà Tần, theo quân đội nhà Tần xuống phương Nam để xâm lược Bách Việt. Năm 214 TCN, Triệu Đà được cử làm huyện lệnh huyện Long Xuyên, cai quản người Việt ở đây. Nhân sự sụp đổ của nhà Tần (206 TCN), Triệu Đà chiếm cứ đất Lĩnh Nam để lập nước Nam Việt, tự xưng là Nam Việt Vũ Vương, đóng đô ở Phiên Ngung. Từ đó, nước Nam Việt của nhà Triệu chính thức ra đời11. Nước Nam Việt của nhà Triệu gồm có 3 quận: Nam Hải, Quế Lâm, Tượng Quận, nằm ở phía Bắc tiếp giáp với nước Âu Lạc. Nam Việt là một nước mạnh, có đất đai rộng lớn (bao gồm Quảng Đông, Quảng Tây và một phần Quý Châu ở phía Nam Trung Quốc), kinh tế trù phú, giao thông thuận lợi, lại nằm sát với nước Âu Lạc về phía Bắc nên có điều kiện xâm lược Âu Lạc. Năm 187 TCN, Lữ Hậu nhà Hán lên nắm chính quyền, đã thực hiện nhiều biện pháp uy hiếp và làm suy yếu nền kinh tế Nam Việt. Triệu Đà cắt đứt quan hệ với nhà Hán, tự xưng là Hoàng đế, tìm cách bành trướng thế lực và mở rộng lãnh thổ. Triệu Đà đẩy mạnh các hoạt động vũ trang xâm lược về phía Nam, hướng chủ yếu là Âu Lạc. * Kháng chiến chống Triệu Theo sử sách và truyền thuyết dân gian của nước ta, Triệu Đà đã nhiều lần đem quân sang xâm lược Âu Lạc. Nhưng bấy giờ, Lực lượng quốc phòng của Âu Lạc khá mạnh, có cung tên lợi hại, có thành Cổ Loa kiên cố. Dưới sự lãnh đạo của An Dương Vương và những tướng lĩnh tài ba như Cao Lỗ, Nồi Hầu, nhân dân Âu Lạc đã nhiều lần đánh bại quân Triệu, bảo vệ đất nước. Sau nhiều lần thất bại, Triệu Đà thay đổi thủ đoạn xâm lược, thực hiện mưu kế xảo quyệt, xin giảng hòa với Âu Lạc và cầu hôn công chúa Mỵ Châu - con gái của An Dương Vương cho con trai mình là Trọng Thủy. Lợi dụng tục lệ của người Việt, Triệu Đà cho Trọng Thủy sang ở rể để có cơ hội điều tra tình hình bố phòng và các bí mật quân sự của kinh thành Cổ Loa, của nước Âu Lạc. Trọng Thủy còn dùng của cải để mua chuộc các lạc hầu, lạc tướng nhằm làm suy yếu khối đoàn kết, chia rẽ nội bộ chính quyền Âu Lạc. Nhiều tướng giỏi như Cao Lỗ, Nồi Hầu, Đinh Toán bị bạc đãi, bị giết hại hay phải bỏ đi. 11 Trương Hữu Quýnh (CB), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1, NXB Giáo dục 1998, tr 58.
  16. An Dương Vương mắc mưu Triệu Đà, bị kẻ thù dồn vào tình thế cô lập, xa rời nhân dân, xa rời những người cương trực, tài giỏi. Vận mệnh nước Âu Lạc đứng bên bờ vực thẳm. Khi Trọng Thủy về nước báo tin, Triệu Đà liền đem quân sang xâm lược Âu Lạc, đánh vào kinh đô Cổ Loa. An Dương Vương mất cảnh giác, bị động đối phó và bị thất bại nhanh chóng. Năm 179 TCN, Âu Lạc rơi vào ách đô hộ của nhà Triệu, mở đầu thời kỳ đen tối, lâu dài trong lịch sử dân tộc - thời Bắc thuộc và chống Bắc thuộc (179 TCN - 905). 2.1.2. Chính sách đô hộ và đồng hóa của các triều đại phong kiến phương Bắc Thời Bắc thuộc kéo dài hơn 1.000 năm, trải qua các triều đại Triệu, Hán, Ngô, Ngụy, Tấn, Tống, Tề, Lương, Tùy, Đường kế tiếp nhau xâm chiếm và đô hộ nước ta. Chính sách đô hộ của chính quyền ngoại bang biểu hiện trong từng triều đại có lúc khác nhau, lúc rắn, lúc mềm nhưng mục đích biến Âu Lạc thành quận huyện, đồng hóa dân tộc, bóc lột tàn tệ và triệt để nhân dân ta thì không thay đổi. * Tổ chức cai trị: chia Âu Lạc thành các quận huyện và nằm trong bộ Giao Chỉ (có lúc gọi là châu Giao Chỉ). Thời Triệu, Âu Lạc được chia thành 2 quận: Giao Chỉ (vùng Bắc bộ ngày nay) và Cửu Chân (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh), sáp nhập vào đất Nam Việt. Ở mỗi quận, Triệu Đà đặt một chức điển sứ để cai quản, thu cống phú và một chức tả tướng phụ trách về quân sự. Cách thức cai trị của nhà Triệu còn lỏng lẻo, vẫn cho các Lạc tướng người Việt được cha truyền con nối. Những tục lệ, tập quán cũ của Âu Lạc vẫn tạm thời được duy trì. Cơ cấu xã hội Âu Lạc cũ hầu như chưa bị đụng chạm đến. Năm 111 TCN, Âu Lạc bị nhà Hán đô hộ. Nhà Hán chia Âu Lạc thành 3 quận: Giao Chỉ (vùng Bắc bộ ngày nay), Cửu Chân (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh) và Nhật Nam (từ đèo Ngang trở vào đến Quảng Nam - Đà Nẵng), trụ sở đặt ở quận Giao Chỉ. Đứng đầu bộ Giao Chỉ là một viên Thứ sử. Đứng đầu quận có một viên Thái thú phụ trách việc hành chính, thu cống phú và một viên Đô úy trông coi quân sự. Ở các huyện, nhà Hán vẫn duy trì phương thức cai trị cũ của nhà Triệu, dùng người Việt trị người Việt. Các Lạc tướng vẫn được cai quản địa phương của mình với danh hiệu mới là Huyện lệnh (ở huyện lớn) và Huyện trưởng (ở huyện nhỏ), được phát ấn đồng có dây tua xanh. Cách cai trị đó vừa đảm bảo được nguồn bóc lột, vừa ít động chạm đến quyền lợi của tầng lớp quý tộc bản địa. Càng về sau, nhà Hán càng xiết chặt ách đô hộ. Đặc biệt, kể từ năm 43, sau khi lật đổ chính quyền tự chủ của Hai Bà Trưng, nhà Hán tiến hành thiết lập lại chính quyền, loại bỏ dần những tổ chức cũ của chính quyền bản xứ, tiến thêm một bước trong việc tổ chức cai trị trực tiếp bằng quan lại người Trung Quốc trên đất Âu Lạc đến tận cấp huyện. Các Thứ sử, Thái thú vẫn được duy trì. Ở mỗi huyện có Huyện lệnh đứng đầu là người Hán. Các chức Lạc tướng thế tập của quý tộc bản địa bị bãi bỏ. Chỉ có một số ít người Việt trung thành với chính quyền đô hộ mới được giữ chức Huyện lệnh nhưng không được quyền thế tập. Các quan lại trong bộ máy chính quyền đô hộ hầu hết đều là người Trung Quốc.
  17. Đến thế kỷ VI, nhà Tùy thiết lập, cai trị Âu Lạc đã tiến hành bãi bỏ đơn vị hành chính cấp châu, lập lại cấp quận. Trị sở quận Giao Chỉ được dời từ Long Biên về Tống Bình. Miền đất nước ta được chia thành 7 quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Tỷ Cảnh, Hải Âm, Chăm Pa (3 quận Tỷ Cảnh, Hải Âm, Chăm Pa tương đương với vùng Bình - Trị - Thiên ngày nay), Ninh Việt. Về danh nghĩa, các quận trực tiếp phụ thuộc vào chính quyền trung ương nhưng trên thực tế, các quận ở nước ta lúc bấy giờ chỉ là đất ràng buộc lỏng lẻo, bọn Thái thú mặc sức cát cứ, tùy tiện áp bức nhân dân ta. Sang thời Đường, chính quyền đô hộ đã đổi các quận thành châu như cũ. Năm 622, nhà Đường lập Giao Châu đô hộ phủ. Năm 679 đổi thành An Nam đô hộ phủ với các hình thức và thủ đoạn cai trị hà khắc hơn. An Nam đô hộ phủ quản 12 châu: Giao Châu, Long Châu (Bắc bộ ngày nay); Thang Châu, Chi Châu, Vũ Nga Châu, Vũ An Châu (Quảng Đông, Quảng Tây); Ái Châu, Phúc Lộc Châu, Diễn Châu, Hoan Châu (đất Trung Quốc và Quảng Ninh) và 41 châu Ky mi (vùng dân tộc ít người, miền núi hẻo lánh). Dưới châu có huyện, hương, xã. Xã nhỏ có từ 10 - 30 hộ, xã lớn có từ 40 - 60 hộ. Hương nhỏ có từ 70 - 150 hộ, hương lớn có từ 160 - 540 hộ. Đứng đầu phủ có Đại Tổng quản, sau đổi là Đô đốc. Lúc có chiến tranh lại gọi là Kinh lược sứ, về sau lại gọi là Tiết độ sứ nhằm tăng thêm quyền lực cho chức vụ đó. Ngoài ra còn có một bộ máy quan lại giúp việc, cai quản hành chính, chính trị, quân sự và thu thuế. Mặc dù tiến hành thiết lập chính quyền đô hộ tới tận hương, xã nhằm trực tiếp khống chế các xóm làng người Việt nhưng trong thực tế, chúng chỉ kiểm soát được cấp châu, huyện mà chưa bao giờ can thiệp được vào cơ cấu xóm làng của người Việt. * Vơ vét, bóc lột tàn bạo nhân dân bản xứ Dựa vào tổ chức cai trị và quân đội mạnh, chính quyền đô hộ ra sức bóc lột nhân dân bản xứ. Chính quyền đô hộ đẩy mạnh việc chiếm đoạt ruộng đất, xây dựng cơ sở kinh tế riêng nhằm duy trì lâu dài nền thống trị của chúng trên đất nước ta. Mặt khác, chúng còn thực hiện chính sách đồn điền, đưa tội nhân và người Hán đến ở lẫn với người Việt để xâm lấn đất đai. Phương thức bóc lột cơ bản vẫn là cống nạp. Đây là một hình thức bóc lột nặng nề của chính quyền đô hộ. Nhân dân ta phải cống nạp nhiều của ngon, vật lạ, quý hiếm của phương Nam mà chính quyền đô hộ và chính quốc yêu cầu. Chính quyền đô hộ còn nắm độc quyền sản xuất, chi phối muối và sắt. Đời sống của nhân dân ta vô cùng khổ cực. Bên cạnh đó, nhân dân ta còn phải nộp tô thuế và đi lao dịch cho chính quyền đô hộ. Tô thuế nặng nề làm cho “trăm họ xơ xác”, nhiều nơi nông dân bị phá sản, phải bán mình, bán vợ con cho nhà giàu để làm nô tỳ. Hiện tượng dân lưu vong ngày càng đông đảo. * Đồng hóa dân tộc, khủng bố và đàn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân ta Trong hơn 1.000 năm đô hộ nước ta, các triều đại phong kiến phương Bắc đã tích cực thực hiện mọi biện pháp nhằm đàn áp nhân dân ta về quân sự, đồng hóa về xã hội, biến đất nước ta thành quận huyện của Trung Quốc.
  18. Để nô dịch nhân dân ta về tư tưởng và tinh thần, ngay từ thời Tây Hán, Nho giáo đã được chính quyền đô hộ truyền bá vào nước ta. Đến đầu công nguyên, Thái thú Tích Quang, Nhâm Diên tích cực “dựng học hiệu để dạy lễ nghĩa” cho dân Giao Chỉ, Cửu Chân. Về sau, nhiều nho sĩ người Hán được cử sang Giao Chỉ để truyền bá Nho giáo, mở trường dạy học ở Luy Lâu, Long Biên. Tuy nhiên, dưới thời Bắc thuộc, Nho giáo chỉ ảnh hưởng tới một số vùng trung tâm châu trị, quận trị. Do vậy, ảnh hưởng của nó trong việc Hán hóa dân tộc Việt rất hạn chế. Tiếng Hán và chữ Hán cũng được chính quyền đô hộ phổ biến ở Giao Châu nhằm làm công cụ thực hiện chính sách đồng hóa người Việt thành người Hán. Song trong suốt hơn 1.000 năm đô hộ ấy, chính quyền đô hộ vẫn không thể tiêu diệt được tiếng nói của dân tộc Việt. Bởi chỉ có một bộ phận thuộc tầng lớp trên học chữ Hán, còn đa số nhân dân lao động trong các làng xã Việt cổ vẫn duy trì tiếng nói của tổ tiên mình. Chính quyền đô hộ còn ráo riết đẩy mạnh việc di dân Hán đến ở lẫn với người Việt, bắt nhân dân ta phải thay đổi phong tục, tập quán theo người Hán. Mặt khác, chúng còn áp dụng luật pháp hà khắc, tàn bạo12 đối với người Việt và thẳng tay đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta. Như vậy, chính sách đô hộ và đồng hóa của các triều đại phong kiến phương Bắc kéo dài hơn 1.000 năm đã kìm hãm nghiêm trọng sự phát triển về mọi mặt của dân tộc ta. Song xã hội Việt Nam vẫn có những biến chuyển rõ rệt. 1.2.2. Tình hình kinh tế - xã hội - văn hóa Tình hình kinh tế * Nông nghiệp: Mặc dù bị chính quyền đô hộ kìm hãm, nền kinh tế nước ta vẫn tiếp tục phát triển. Trên cơ sở công cụ bằng sắt ngày càng phổ biến, kỹ thuật sản xuất được nâng cao, nông nghiệp có những bước tiến đáng kể. Ngay từ đầu công nguyên, việc sử dụng cày, bừa có trâu bò kéo đã phổ biến ở Giao Chỉ, Cửu Chân. Một số con sông lớn đã có đê phòng lụt, có nhiều kênh đào để tưới tiêu nước. Dân ta đã biết bón phân để tăng độ phì nhiêu cho đất, biết thâm canh tăng vụ và trồng lúa hai mùa (còn được gọi là lúa Giao Chỉ). Ngoài lúa, dân ta còn biết trồng các loại cây có củ (khoai, đậu, sắn, ngô ) và cây công nghiệp (bông, mía, dâu ). Nghề làm vườn cũng khá phổ biến. Nhà nào cũng có vườn trồng các loại rau và cây ăn quả. * Thủ công nghiệp và thương nghiệp: Các nghề cổ truyền như đúc đồng, rèn sắt, làm gốm, làm gạch ngói, dệt, đan lát, nấu đường, kéo mật vẫn được duy trì và mở rộng. Người Việt còn học được các nghề làm giấy, khảm xà cừ và làm đồ trang sức bằng vàng, bạc. Một số sản phẩm thủ công có chất lượng được đưa sang Trung Quốc làm cống phẩm hoặc buôn bán với nước ngoài. 12 Tính chất hà khắc của pháp luật được thể hiện qua những hình phạt: xẻo mũi, thích chữ vào mặt những người chống đối, Lịch sử Việt Nam (từ nguồn gốc đến ngày nay), NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr 56.
  19. Sự chuyển biến về kinh tế đã thúc đẩy thương nghiệp phát triển. Mạng lưới giao thông thủy bộ được mở mang. Việc buôn bán trong nước và với nước ngoài được đẩy mạnh. Lúc bấy giờ đã xuất hiện một số đô thị như Luy Lâu, Mê Linh hoạt động nhộn nhịp. Luy Lâu (Thuận Thành - Bắc Ninh) trong nhiều thế kỷ là trung tâm chính trị, kinh tế của Giao Châu. 2.2.2. Những chuyển biến về văn hóa - xã hội * Về mặt xã hội: Quan hệ lệ thuộc là quan hệ bao trùm giữa nhân dân ta với chính quyền đô hộ ngoại bang. Người Việt đều được xem là “thần dân” của Hoàng đế phương Bắc. Chính quyền đô hộ đặt quan cai trị tới cấp huyện nhưng không khống chế được các làng xã của người Việt. Tầng lớp hào trưởng địa phương người Việt vẫn dựa trên cơ sở ruộng đất công hữu của các vùng, các công xã mà bóc lột nông dân. Người Việt không ngừng củng cố quan hệ cộng đồng, làng xóm. Tuy nhiên, do sức sản xuất phát triển, những mối quan hệ xã hội mới ra đời và phát triển, trong khi đó một số truyền thống cũ bị phá vỡ hay không còn tác dụng trong hoàn cảnh mới. Việc xóa bỏ cơ cấu bộ lạc, giữ lại và củng cố cơ cấu xóm làng đã tạo điều kiện cho khối đoàn kết dân tộc được tăng cường. Do hậu quả của chính sách chiếm đất lập đồn điền và tô thuế nặng nề, chiến tranh tàn phá, nhiều thành viên công xã người Việt đã bị phá sản, trở thành nô tỳ hay nông dân lệ thuộc. Nhìn chung, thời kỳ này đã xuất hiện một số đồn điền của chính quyền đô hộ, một số trại ấp của địa chủ gốc Hán và một số thị trấn, xóm làng của người Hoa. Sự có mặt của các tầng lớp kể trên vừa làm gia tăng dân số, vừa tăng thêm các yếu tố Hán hóa. Song người Việt không vì vậy mà bị Hán hóa, mà ngược lại, một sood người Hoa di cư sang Giao Châu dần bị Việt hóa, hòa nhập vào cộng đồng người Việt. Đặc biệt, sự xuất hiện của tầng lớp hào trưởng địa phương người Việt có ảnh hưởng lớn về kinh tế, chính trị, văn hóa trong nhân dân. Phần lớn tầng lớp này đã trở thành thủ lĩnh của các phong trào đấu tranh, ý thức dân tộc ngày càng cao. * Về mặt văn hóa Người Việt đã tiếp thu một số yếu tố văn hóa vật chất trong sản xuất nông nghiệp và hoạt động công thương nghiệp như: kỹ thuật bón phân làm vườn, làm giấy, thuộc da, chế biến thủy tinh, hương liệu của người Hoa và người Ấn Độ, Trung Á. Bên cạnh đó, người Việt cũng tiếp thu một số yếu tố văn hóa tinh thần như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tôn thờ những người có công với nước. Các phong tục tập quán truyền thống của dân tộc như ăn trầu, nhuộm răng đen, tôn trọng phụ nữ vẫn được giữ gìn. Tiếng Việt phát triển, hấp thụ nhiều yếu tố ngôn ngữ Hán, Việt hóa những yếu tố Hán thông qua cách dùng, cách đọc và tạo thành từ ngữ Hán - Việt. Phần cốt lõi của văn hóa tinh thần là tư tưởng được biểu hiện dưới các hình thức tôn giáo, tín ngưỡng cũng tác động mạnh đến nước ta. Sự du nhập và hòa quyện của Nho
  20. giáo, Phật giáo, Đạo giáo13 đã tạo nên sắc thái đa nguyên và hỗn hợp trong đời sống tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam. 1.2.3. Các cuộc đấu tranh giành độc lập Kể từ cuộc kháng chiến chống Triệu Đà xâm lược bị thất bại đến khởi nghĩa Khúc Thừa Dụ (179 TCN - 905), đất nước ta liên tiếp bị các triều đại phong kiến phương Bắc xâm lược và đô hộ. Trong hơn 1.000 năm ấy, chúng ra sức vơ vét bóc lột của cải, ráo riết thực hiện chính sách Hán hóa nhằm đồng hóa dân tộc Việt và xóa bỏ độc lập, chủ quyền của đất nước ta. Song chúng đã thất bại, nhân dân ta đã đứng lên đấu tranh vũ trang liên tục để giành lại độc lập dân tộc. Bảng 1: Một số phong trào đấu tranh vũ trang tiêu biểu của nhân dân ba quận TT Thời gian Người lãnh đạo Địa điểm Lực lượng - Kết quả 1 40 Hai Bà Trưng Giao Chỉ, Nhân dân 3 quận nổi dậy hưởng Cửu Chân, ứng cuộc khởi nghĩa do Hai bà Nhật Nam Trưng lãnh đạo. Cuộc khởi nghĩa thắng lợi, giành được chính quyền độc lập, tự chủ trong vòng 3 năm. 2 137 Nhật Nam Hàng ngàn dân chúng nổi dậy đánh phá huyện lỵ, giết trưởng lại. Thứ sử Giao Châu phải huy động hơn 1 vạn quân Giao Chỉ, Cửu Chân đi đàn áp. 3 157 - 160 Chu Đạt Cửu Chân, Hơn 5.000 nghĩa quân nổi dậy, Nhật Nam tiến đánh quận trị Cửu Chân, giết chết Thái thú. Phong trào kéo dài 3 năm mới bị đàn áp. 4 178 - 180 Lương Long Giao Chỉ, Nhân dân quận Giao Chỉ nổi dậy Cửu Chân, liên kết với dân các quận Cửu Nhật Nam Chân, Nhật Nam. Phong trào do Lương Long lãnh đạo, kéo dài trong 3 năm, lôi kéo hàng vạn người tham gia. Thứ sử Giao Châu phải huy động 5.000 quân Hán sang phối hợp với quân các quận mới đàn áp được. 5 190 - 193 Khu Liên Nhật Nam Nhân dân huyện Tượng Lâm nổi dậy đánh chiếm huyện lỵ, giết 13 Xem thêm Lịch sử Việt Nam (từ nguồn gốc đến ngày nay), NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr 64.
  21. huyện lệnh. Khu Liên tự xưng vương. Nước Chăm Pa thành lập. 6 248 Triệu Thị Trinh Giao Chỉ, Nhân dân nổi dậy chống chính Cửu Chân quyền đô hộ nhà Ngô, đánh chiếm các thành ấp. Tiêu biểu nhất cho phong trào đấu tranh lúc bấy giờ là cuộc khởi nghĩa do Triệu Thị Trinh lãnh đạo, được hàng ngàn dân chúng hưởng ứng, thứ sử Giao Châu phải bỏ chạy. 7 468 Lý Tường Nhân Giao Châu Lý Tường Nhân (người bản địa) là thứ sử Giao Châu, nổi dậy giết thuộc hạ, tướng sĩ người Hán, tự xưng Thứ sử. 8 542 Lý Bí (Lý Bôn) Giao Chỉ Lý Bí lãnh đạo nhân dân Giao Chỉ nổi dậy đánh đuổi Thứ sử giao Châu, tự xưng là Lý Nam Đế, lập ra nhà nước tự chủ Vạn Xuân (544). 9 545 - 557 Lý Nam Đế, Giao Chỉ, Lý Nam Đế (Lý Bí) và Triệu Triệu Quang Cửu Chân, Quang Phục (Triệu Việt Vương) Phục Nhật Nam lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Lương giành thắng lợi, giữ vững nền độc lập, tự chủ. 10 602 - 603 Lý Phật Tử Giao Chỉ, Cuộc kháng chiến do Lý Phật Tử Cửu Chân, (hậu Lý Nam Đế) lãnh đạo chống Nhật Nam quân xâm lược Tùy bị thất bại. 11 722 Mai Thúc Loan Châu Hoan Nhân dân Châu Hoan (Nghệ An) nổi dậy chống chính quyền đô hộ nhà Đường. Nhân dân các châu đều hưởng ứng. Khởi nghĩa thắng lợi, Mai Thúc Loan tự xưng là Mai Hắc Đế. 12 766 Phùng Hưng, Đường Nhân dân Đường Lâm (Hà Tây), Phùng Hải Lâm dưới sự lãnh đạo của Phùng Hưng nổi dậy đánh đuổi viên Đô hộ phủ nhà Đường, giành quyền tự chủ trong 7 năm. 13 905 Khúc Thừa Dụ Giao Chỉ, Khúc Thừa Dụ đứng lên lãnh đạo
  22. Cửu Chân, nhân dân đánh đuổi quan đô hộ Nhật Nam nhà Đường, giành quyền Tiết độ sứ, bắt tay xây dựng chính quyền độc lập tự chủ của người Việt. Nguồn: Thống kê theo Lịch sử Việt Nam, tập 1, của Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng, Lương Ninh, NXB Đại học - Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội, 1991, tr 218; Lịch sử Việt Nam, quyển 1, của Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Đức Nghinh, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1980. Nhìn chung, trong suốt mười thế kỷ, không một lúc nào bọn đô hộ phương Bắc được ăn ngon, ngủ yên. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta nổ ra mạnh mẽ, liên tục, trên một không gian rộng lớn, có lúc bao gồm cả Giao Châu. Phong trào xuất phát từ mâu thuẫn dân tộc ngày càng sâu sắc, với mục đích lật đổ chính quyền đô hộ. Phong trào đã lôi cuốn được hàng vạn nhân dân, tầng lớp quan lại, binh lính người Việt tham gia, thậm chí có lúc còn kết hợp với phong trào đấu tranh của nhân dân Trung Quốc. Vai trò lãnh đạo phong trào chuyển dần từ các Quý tộc bộ lạc cũ sang các Hào trưởng. Các phong trào đấu tranh của nhân dân ta đã làm cho kẻ thù suy yếu, đồng thời cổ vũ tinh thần đấu tranh của nhân dân ta, tạo điều kiện cho sự ra đời của chính quyền tự chủ ở thế kỷ X. 2.4. Vài nét về sự hình thành và phát triển của các quốc gia cổ Chăm Pa, Phù Nam 2.4.1. Quốc gia cổ Chăm Pa Chăm Pa là quốc gia cổ của người Chăm, có tên Hán Việt là Chiêm Thành. Vào khoảng thế kỷ VI TCN, trên vùng đất từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận tồn tại một nền văn hóa nguyên thủy: văn hóa Sa Huỳnh. Cư dân Sa Huỳnh thuộc chủng tộc Mã Lai - Đa Đảo. Họ đã biết đúc đồng, làm đồ trang sức và sản xuất nông nghiệp. Dần dần hình thành liên minh hai bộ lạc lớn là Cau và Dừa. Thời Hán, vùng đất của người Sa Huỳnh được gọi là Tượng Lâm. Vào khoảng thế kỷ II, nhân lúc nhà Hán suy yếu, nhân dân Tượng Lâm đã nổi dậy đánh đuổi quân đô hộ, lập ra nước Lâm Ấp. Đến thế kỷ VI, hai tiểu quốc Lâm Ấp và Panđuranga đã hợp nhất, lấy tên là nước Chăm Pa, kinh đô đóng ở Trà Kiệu (Xinhapura - Quảng Nam). Vua là người đứng đầu nhà nước, nắm toàn bộ quyền hành và sở hữu toàn bộ ruộng đất trong nước. Dưới vua có một viên tể tướng và hai đại thần giúp việc. Đồng thời còn có một hệ thống thuộc quan. Đất nước gồm 4 bang, dưới bang là các tỉnh, dưới tỉnh là các làng. Các bang đều có đại thần đứng đầu, viên chức giúp việc. Quân đội Chăm Pa khá đông, có lúc lên đến 4 - 5 vạn người. Họ chiến đấu rất dũng cảm, ra trận thường mặc áo giáp mây, sử dụng giáo mác, cung nỏ bằng tre hoặc tên thuốc độc. Chăm Pa có một đội thủy binh và tượng binh rất mạnh. Kinh tế chủ yếu là nông nghiệp trồng lúa nhưng lại rất ít ruộng. Bên cạnh đó còn có đậu, kê, vừng, mía, tiêu, trầu cau và hoa quả các loại. Ngành khai thác lâm sản đóng
  23. một vai trò quan trọng trong kinh tế của Chăm Pa. Thủ công nghiệp cũng tương đối phát triển. Họ biết làm đồ gốm, dệt tơ lụa, làm đồ gỗ và xây dựng. Còn thương nghiệp hầu như không có. Nhà nước nắm độc quyền ngoại thương. Chiến thuyền Chăm Pa thường ra nước ngoài làm nghề cướp bóc. Xã hội chia thành 4 đẳng cấp (Tăng lữ, Quý tộc, Bình dân, Nô lệ) nhưng không chặt chẽ. Lực lượng nô lệ khá đông. Mặc dù nam giữ vai trò quan trọng trong sản xuất, chiến đấu và chính trị nhưng chế độ mẫu quyền vẫn thống trị. Người Chăm theo Ấn giáo, mặc dù vẫn có chùa thờ Phật, đền Hồi giáo và tục thờ Thánh mẫu, thờ Linga và Yôni. Thành tựu văn hóa quan trọng nhất của người Chăm là sớm sáng tạo ra chữ viết riêng theo mẫu tự Phạn của người Ấn Độ. Tuy nhiên chữ Chăm không được phổ cập vì Chăm Pa hầu như không có trường học và hệ thống giáo dục. Các bi ký là nơi duy nhất ghi lại việc thờ cúng, quyền sở hữu và các chiến công. Về nghệ thuật, các tháp Chăm (hay Chàm) được xây dựng trên các vùng đồi cao là những công trình kiến trúc, điêu khắc tiêu biểu của người Chăm: Di chỉ Trà Kiệu, Thánh địa Mỹ Sơn Lịch sử Chăm Pa trải qua những giai đoạn thịnh suy. Cho đến cuối thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII, Chăm Pa từng bước bị sáp nhập vào Đại Việt. Quốc gia cổ Phù Nam Phù Nam là quốc gia cổ của người Khơ Me, một quốc gia mang mô hình các vương quốc cổ đại Ấn Độ. Quốc gia cổ Phù Nam thành lập vào khoảng thế kỷ I và tồn tại cho đến thế kỷ VII. Sau đó phân hóa thành các tiểu quốc. Nhà nước Phù Nam được tổ chức theo kiểu Man-đa-la (tức tiểu quốc tương đối độc lập). Vua là người đứng đầu nhà nước, nắm toàn bộ quyền hành và sở hữu toàn bộ ruộng đất trong khu vực mình cai quản. Dưới vua có một hệ thống quan lại giúp việc, bao gồm: văn quan, võ quan. Tuy nhiên, bộ máy nhà nước Phù Nam lúc bấy giờ còn hết sức đơn giản. Về kinh tế, theo kết quả khai quật và nghiên cứu các di tích khảo cổ thuộc nền văn Óc - Eo cho thấy, kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước đóng vai trò chủ đạo. Bên cạnh đó, cư dân Phù Nam lúc bấy giờ còn biết trồng cây lấy củ, cây ăn quả và chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm; đánh bắt cá trên sông. Thủ công nghiệp rất phát triển, đặc biệt là các nghề thủ công mĩ nghệ như: chế tạo đồ trang sức, đồ thờ tự liên quan đến Bàlamôn và Phật giáo. Bên cạnh đó, buôn bán trao đổi cũng là một hoạt động kinh tế quan trọng của Phù Nam. Trong đó, Óc - Eo nổi lên như một đô thị - cảng thị, có quan hệ buôn bán với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Cụ thể là trong các di chỉ thuộc nền văn hóa Óc - Eo, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy tiền cổ La Mã, Ba Tư, Trung Quốc và nhiều vật dụng có nguồn gốc ngoại lai khác. Xã hội đã có sự phân hóa sâu sắc. Xã hội chia thành 4 đẳng cấp (Tăng lữ, Quý tộc, Bình dân, Nô lệ). Trong đó, đẳng cấp Tăng lữ Bàlamôn nắm quyền hành rất lớn, chi phối mọi hoạt động xã hội. Lực lượng nô lệ cũng khá đông.
  24. Nhìn chung, lịch sử Phù Nam trải qua những giai đoạn phát triển khác nhau. Cho đến thế kỷ VII, Phù Nam dần suy yếu và tách thành các tiểu quốc có lãnh thổ rộng lớn, bao gồm: Tây Nam bộ (Việt Nam), Ăngco Borei (Campuchia), Mê Nam (Thái Lan), Bắc bán đảo Malai 1.3. Một số nhận xét về lịch sử Việt Nam từ thời tiền sử đến thời Bắc thuộc 1.3.1. Những đặc điểm cơ bản của lịch sử Việt Nam từ thời tiền sử đến cuối thời Bắc thuộc - Sau một thời kỳ dài sống định cư và mở rộng lãnh thổ, phát triển kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước, cư dân Việt cổ đã tiến lên giai đoạn nông nghiệp dùng cày, có sức kéo trâu bò. Cùng với những tiến bộ trên các lĩnh vực văn hóa - xã hội, người Việt cổ đã đưa xã hội vượt qua thời tiền sử, bước sang xã hội có giai cấp và nhà nước (nhà nước Văn Lang - Âu Lạc). - Trong buổi đầu của xã hội có giai cấp và nhà nước, nhân dân ta đã xây dựng được nền văn minh mang đậm tính bản địa - văn minh sông Hồng. Hình thành nên những giá trị tiêu biểu của văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, góp phần định hình bản sắc dân tộc Việt. - Trong hơn 1.000 năm xâm lược và đô hộ nước ta, các triều đại phương Bắc đã thực hiện nhiều chính sách và biện pháp nhằm đồng hóa nước ta, vĩnh viễn xóa bỏ sự tồn tại của dân tộc Việt. Nhưng dựa trên nền tảng vững chắc của cộng đồng quốc gia dân tộc, có một lãnh thổ riêng, tiếng nói riêng, văn hóa riêng nhân dân ta đã không ngừng đấu tranh chống lại ách đô hộ tàn bạo của phong kiến phương Bắc, giành độc lập dân tộc. 1. 3.2. Ý nghĩa lịch sử của phong trào đấu tranh giành độc lập thời Bắc thuộc - Trong hơn 1.000 năm xâm lược và đô hộ nước ta, các triều đại phong kiến phương Bắc đã vấp phải sự đấu tranh kiên quyết, liên tục, kéo dài và không khoan nhượng của nhân dân ta. Các thế hệ nối tiếp nhau, thế hệ sau kế tục thế hệ trước đứng lên đấu tranh, bất chấp sự đàn áp tàn bạo của kẻ thù, nhằm giương cao ngọn cờ độc lập tự chủ. - Phong trào đấu tranh chống Bắc thuộc của nhân dân ta đã giành được kết quả to lớn. Nếu như khởi nghĩa Khúc Thừa Dụ (905) mở đầu cho việc đè bẹp ý chí xâm lược của phong kiến phương Bắc thì chiến thắng Bạch Đằng (938) của Ngô Quyền đã đè bẹp hoàn toàn ý chí xâm lược của phong kiến phương Bắc, mở ra một kỉ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự chủ lâu dài của dân tộc Việt Nam. - Phong trào đấu tranh đó cũng là cơ sở cho nhân dân ta đấu tranh giữ gìn và phát triển nền văn hóa dân tộc. Điều đó chứng tỏ, chúng ta không những không bị đồng hóa mà cơ cấu làng xã người Việt vẫn do nhân dân ta định đoạt và làm chủ, nền văn hóa dân tộc ngày càng được củng cố, làm cơ sở vững chắc cho các giai đoạn tiếp theo. Câu hỏi ôn tập: 1. Ý nghĩa của cuộc “Cách mạng đá mới”? 2. Cơ sở hình thành quốc gia và nhà nước thời Hùng Vương. 3. Đặc điểm, thành tựu và ý nghĩa của nền Văn minh sông Hồng.
  25. 4. Các cuộc đấu tranh giành độc lập thời Bắc thuộc: nguyên nhân, kết quả, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm. Hướng dẫn ôn tập: Ở chương này, người học cần nắm được những nội dung cơ bản sau: những bước tiến của công cụ lao động, đặc biệt là ý nghĩa của cuộc “cách mạng đá mới” và sự xuất hiện của đồ kim khí trong lịch sử; cơ sở ra đời của quốc gia và nhà nước thời Hùng Vương, An Dương Vương và những thành tựu của nền văn minh Văn Lang - Âu Lạc; các cuộc đấu tranh giành độc lập thời kỳ Bắc thuộc của nhân dân ta (chủ yếu phần nguyên nhân, ý nghĩa). Chương 2: VIỆT NAM TỪ ĐẦU THẾ KỶ X ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX 2.1. Việt Nam từ đầu thế kỷ X đến đầu thế kỷ XV 2.1.1. Việt Nam thế kỷ X Họ Khúc dựng nền tự chủ Vào cuối thế kỷ IX, đế chế Đường ngày càng suy yếu. Nạn cát cứ của các tập đoàn phong kiến phương Bắc phát triển, mâu thuẫn ngày càng sâu sắc. Phong trào nông dân khởi nghĩa mà đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Hoàng Sào đã làm lung lay tận gốc rễ nền thống trị của nhà Đường. Đầu thế kỷ X, chính quyền đô hộ ở nước ta suy yếu. Nhân dân nổi dậy ở nhiều nơi. Tiết độ sứ An Nam là Chu Toàn Dục hoàn toàn bất lực. Đầu năm 905, nhà Đường cử Độc Cô Tổn sang thay. Độc Cô Tổn nổi tiếng là một viên quan tàn bạo mà bất lực, chưa đầy nửa tháng đã bị cắt chức và bị đày ra đảo Hải Nam. Nhân cơ hội đó, Khúc Thừa Dụ đã lãnh đạo nhân dân nổi dậy giành lấy chính quyền. Mặc dù chỉ xưng là Tiết độ sứ, về danh nghĩa coi mình như một đại diện của chính quyền nhà Đường. Nhưng trong thực tế, Khúc Thừa Dụ đã bắt tay xây dựng một chính quyền tự chủ, đặt cơ sở cho nền độc lập lâu dài của dân tộc. Năm 907, Khúc Thừa Dụ mất. Con ông là Khúc Hạo nối nghiệp, cũng xưng là Tiết độ sứ. Khúc Hạo đã tiến hành nhiều cải cách quan trọng để cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng nền độc lập tự chủ và thoát dần ảnh hưởng của chế độ đô hộ Trung Quốc. * Cải cách hành chính: Khúc Hạo chia cả nước thành các đơn vị hành chính lộ, phủ, châu, giáp, xã. Ở xã đặt chức Chánh lệnh trưởng và Tá lệnh trưởng có nhiệm vụ thừa lệnh trên để phân chia đóng góp thuế ruộng, huy động lực dịch. Các hương (thời thuộc Đường) đổi thành giáp do Quản giáp và Phó Tri giáp đứng đầu giữ việc thu thuế và trưng binh. Khúc Hạo còn đặt thêm nhiều giáp mới, tất cả có 314 giáp. Điều đó cho thấy, chính quyền họ Khúc đã tiến thêm một bước trên con đường mở rộng và củng cố nền độc lập, tự chủ của đất nước. * Cải cách kinh tế: Khúc Hạo sửa lại chế độ điền tô, thuế má, ra lệnh “bình quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch, lập sổ hộ khẩu, kê rõ quê quán, giao cho Quản giáp trông
  26. coi”. Đường lối chính trị chung là “chính sự cốt chuộng khoan dung, giản dị, nhân dân đều được yên vui”14. Với chính sách bình quân thuế ruộng, chính quyền Khúc Hạo đã thực hiện một phương thức thu thuế phù hợp với kết cấu kinh tế - xã hội nước ta lúc bấy giờ, tạo nên sự dung hợp cần thiết giữa nhà nước tự chủ với làng xã. Mặt khác, chính sách này cũng tạo mầm mống cho quyền sở hữu ruộng đất của nhà nước phong kiến sau này. Nhìn chung, cải cách của Khúc Hạo tỏ rõ tinh thần tự chủ, tự cường và quyết tâm vươn lên nhằm xây dựng đất nước hoàn toàn độc lập của dân tộc ta. Dương Đình Nghệ khôi phục nền tự chủ Đầu thế kỷ X, tình hình chính trị ở Trung Quốc hết sức rối ren. Năm 907, Chu Ôn cướp ngôi nhà Đường lập ra nhà Hậu Lương thống trị vùng Trung Nguyên. Cùng lúc đó, họ Mã lập nước Sở, họ Cao lập nước Kinh Nam, họ Tiền lập nước Ngô Việt, họ Lưu cát cứ ở Quảng Châu Nước Trung Quốc bị phân liệt, dần hình thành cục diện “Ngũ đại thập quốc”15 (907 - 960). Năm 917, Lưu Nham (sau đổi thành Lưu Cung) tự xưng hoàng đế, đặt tên nước là Hán (tức Nam Hán). Mùa thu năm 930, Nam Hán nhân cớ Khúc Thừa Mỹ (con nối nghiệp Khúc Hạo từ năm 917) thần phục nhà Hậu Lương và có ý chống Nam Hán. Lưu Nham đã sai các tướng Lý Thủ Dung, Lương Khắc Trinh đem quân sang đánh Giao Châu. Do thiếu chuẩn bị và thiếu tự tin, cuộc kháng chiến của Khúc Thừa Mỹ bị thất bại. Nước ta lại rơi vào tay Nam Hán. Mặc dù đánh bại Khúc Thừa Mỹ nhưng nhà Nam Hán vẫn không thể cai quản các châu, quận. Nhân dân ta ở khắp các địa phương dưới sự lãnh đạo của các Hào trưởng đã nổi dậy chống quân Nam Hán. Năm 931, một tướng cũ của họ Khúc là Dương Đình Nghệ (người làng Ràng, Thiệu Dương, Thiệu Hóa, Thanh Hóa) đã đứng lên lãnh đạo nhân dân, quyết chí giành độc lập, kế tục sự nghiệp của họ Khúc. Hào kiệt khắp nơi nhanh chóng hưởng ứng. Ngô Quyền và Chiến thắng bạch Đằng năm 938 Năm 937, Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn phản bội, giết hại để đoạt chức Tiết độ sứ. Tháng 10/938, Ngô Quyền từ Châu Ái đem quân ra đánh Kiều Công Tiễn. Tự thấy thế cô, lực yếu, kiều công tiễn cầu cứu quân Nam Hán. Đây là cơ hội cho nhà Nam Hán thực hiện ý đồ xâm lược nước ta một lần nữa. Lưu Cung lập tức điều động một lực lượng thủy quân lớn, giao cho con là Vạn Vương Hoằng Tháo thống lĩnh đại quân tiến đánh nước ta. Lưu Cung phong cho con làm Giao Vương với ý đồ khi chiếm được nước ta sẽ lấy Châu Giao làm nơi phong ấp cho Hoằng Tháo. Thận trọng hơn, vua Nam Hán còn tự mình chỉ huy một cánh quân đến đóng ở trấn Hải Môn (Tây Nam tỉnh Quảng Tây), sẵn sàng tiếp ứng. Ở trong nước, Kiều 14 Quốc sử quán triều Nguyễn, Việt sử thông giám cương mục (Tiền biên), Quyển 5. Dẫn lại theo Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập 1, Sđd, tr 104. 15 Ngũ đại thập quốc (năm đời mười nước). Thời kỳ này ở miền Bắc Trung Quốc lần lượt dựng lên 5 triều đại: Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu. Còn ở miền Nam, trước sau lần lượt thành lập 9 nước: Ngô, Nam Đường, Ngô Việt, Tiền Thục, Hậu Thục, Nam Hán, Sở, Mân, Nam Bình, cộng với Bắc Hán thành lập cuối thời Ngũ đại là 10 nước.
  27. Công Tiễn tìm mọi cách cố thủ thành Đại La chờ quân Nam Hán đến, rồi trong đánh ra, ngoài đánh vào nhằm nhanh chóng tiêu diệt lực lượng kháng chiến. Trước yêu cầu lịch sử, Ngô Quyền đã trở thành trung tâm đoàn kết mọi lực lượng kháng chiến, nhanh chóng hạ thành Đại La, giết chết Kiều Công Tiễn, trừ họa nội phản. Ngô Quyền người làng Đường Lâm (Hà Tây), con của Ngô Mân và là con rể của Dương Đình Nghệ. Ngay từ đầu, khi còn là thuộc tướng của Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền đã tỏ ra là người có trí dũng song toàn. Tài năng và uy tín của Ngô Quyền càng về sau càng được khẳng định, chính nhà Nam Hán cũng phải thừa nhận, ông là “người kiệt hiệt, không thể khinh suất được”16. Được tin đạo quân xâm lược Nam Hán do Hoằng Tháo chỉ huy sắp kéo vào nước ta, Ngô Quyền nói với các tướng lĩnh của mình: “Hoằng Tháo là một đứa trẻ khờ dại, đem quân từ xa đến, quân lính mỏi mệt, lại nghe Kiều Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta lấy sức còn khỏe địch với quân mệt mỏi tất phá được. Nhưng bọn chúng lại có lợi ở chiến thuyền, ta không phòng bị trước thì thế được thua chả biết ra sao. Nếu sai người đem cọc lớn vạt nhọn đầu bịt sắt đóng ngầm trước ở cửa biển, thuyền của chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì ta sẽ dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào thoát ra”.17 Kế hoạch của Ngô Quyền là tập trung lực lượng, tiêu diệt nhanh gọn quân xâm lược bằng một trận quyết chiến. Ông chọn vùng hạ lưu sông Bạch Đằng làm vùng trận địa quyết chiến, cử Dương Tam Kha cầm đầu đạo quân bộ đóng ở tả ngạn, Ngô Xương Ngập và Đỗ Cảnh Thạc chỉ huy đạo quân khác đóng ở hữu ngạn. Bản thân Ngô Quyền trực tiếp chỉ huy đạo quân thủy, đóng phía trên cửa sông. Khi quân Nam Hán kéo đến, một toán binh thuyền nhẹ do Nguyễn Tất Tố chỉ huy đón đánh, nhử địch vào trận địa phục kích. Quân ta chiến đấu quyết liệt, vừa cố kìm chân giặc, vừa chờ cho nước thủy triều lên thật cao. Khi nước triều lên, quân ta vờ thua chạy, quân giặc ào ạt đuổi theo vượt qua bãi cọc mà không hề hay biết. Khi nước triều rút, Ngô Quyền chỉ huy đại quân từ ba phía cùng tiến đánh. Phần lớn chiến thuyền giặc bị cọc đâm thủng, bị va vào nhau chìm đắm. Hàng vạn quân giặc cùng chủ tướng Hoằng Tháo bị tiêu diệt gọn. Vua Nam Hán hay tin kinh hoàng, rút tàn quân về nước. Chiến thắng Bạch Đằng đã đè bẹp hoàn toàn ý chí xâm lược của phong kiến phương Bắc, mở ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, tự chủ lâu dài của dân tộc Việt Nam. 1.1.4. Đinh Bộ Lĩnh tiêu diệt 12 sứ quân, thống nhất đất nước Sau khi giành thắng lợi, Ngô Quyền xưng vương (939), đóng đô ở Cổ Loa, bãi bỏ chức Tiết độ sứ và cơ cấu tổ chức chính quyền đô hộ nhà Đường, tiến hành xây dựng đất nước bằng cách đặt trăm quan, chế định triều nghi, phẩm phục. Tuy nhiên, chính quyền trung ương của Ngô Quyền lúc bấy giờ chưa đủ điều kiện để kiểm soát và quản lý các địa phương. Lợi dụng cơ hội đó, các thế lực phong kiến địa phương ra sức bành trướng thế 16, 2 Đại Việt Sử ký toàn thư, Tập 1, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr 203.
  28. lực, chuẩn bị cát cứ chống lại chính quyền trung ương. Năm 944, sau khi Ngô Quyền mất, chính quyền trung ương suy yếu, đất nước rối loạn, các thế lực phong kiến ở các địa phương tranh chấp, thôn tính lẫn nhau mà sử cũ gọi là loạn 12 sứ quân. Trước tình hình đó, Đinh Bộ Lĩnh là một vị tướng có tài, lại được các tướng Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lê Hoàn và nhân dân các nơi ủng hộ, đã lần lượt đánh bại 12 sứ quân cát cứ. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh tự xưng Hoàng đế, đóng đô ở Hoa Lư (Ninh Bình), lập ra nhà Đinh. Năm 979, Đinh Tiên Hoàng và con trưởng Đinh Liễn bị sát hại, Đinh Toàn 6 tuổi lên ngôi. Nhân nội bộ nhà Đinh lục đục và chia rẽ, nhà Tống âm mưu kéo quân vào thôn tính nước ta. Được tin này, Dương Thái Hậu đã lấy long bào khoác lên mình Lê Hoàn, chính thức mời Lê Hoàn lên làm vua để có điều kiện lãnh đạo cuộc kháng chiến. Lê Hoàn tự xưng Đại Hành Hoàng đế, lập nhà Tiền Lê và chuẩn bị kháng chiến chống Tống. Năm 981, quân Tống chia làm 2 cánh tiến sang xâm lược nước ta. Dưới sự chỉ huy và kế sách của Lê Hoàn, cả hai cánh quân của giặc đều bị chặn đánh tan tành. Quân Tống bỏ chạy về nước. Cuộc kháng chiến chống Tống của nhân dân ta giành thắng lợi nhanh chóng, góp phần giữ vững độc lập chủ quyền. Xây dựng chính quyền, củng cố quốc gia thống nhất, phát triển kinh tế * Xây dựng chính quyền: Thời Ngô - Đinh - Tiền Lê, bộ máy nhà nước tổ chức theo chế độ quân chủ chuyên chế. Ở trung ương, vua là người đứng đầu, nắm vương quyền và thần quyền. Vua vừa là tổng chỉ huy quân đội, xét xử các vụ kiện lớn, tiếp đãi sứ thần, thực hiện các lễ nghi tôn giáo. Hệ thống quan lại đơn giản, chưa hình thành các cơ quan hành chính. Dưới vua có một số đại thần: Thái sư, Tổng quản, Phụ quốc vừa giúp việc, vừa cố vấn, thậm chí khi cần có thể cầm quân đánh giặc. Dưới cùng là 3 ban: ban văn (Nha hiệu, Quản giáp, Đô hộ phủ) chịu trách nhiệm thu thuế, xử kiện và đi sứ; ban võ (Đô chỉ huy sứ, Điện tiền chỉ huy sứ); tăng quan (Quốc sư, Pháp sư, Đạo sĩ). Ở địa phương, cả nước được chia thành 10 đạo (thời Đinh). Đến thời Lê Hoàn cho đổi 10 đạo thành lộ, phủ, châu. Nhà Đinh - Lê bắt đầu đặt Trấn tướng, Trấn quốc để cai quản các châu xa. Tuy nhiên, chính quyền địa phương còn đơn giản, chủ yếu nằm trong tay Hoàng tộc. - Quân đội: Nhà nước Ngô - Đinh - Tiền Lê rất chú ý xây dựng một đội quân mạnh để bảo vệ chính quyền trung ương mới xây dựng. Ở trung ương có quân cấm vệ gồm 2 bộ phận: điện tiền quân chuyên bảo vệ hoàng cung và gia đình vua; tứ sương quân chuyên bảo vệ kinh thành, quan lại. Quân đội được chia thành 10 đạo, mỗi đạo 10 quân, mỗi quân 10 lữ, mỗi lữ 10 tốt, mỗi tốt 10 ngũ, mỗi ngũ 10 người, tổng số 100 vạn người. Tổng chỉ huy quân đội là Thập đạo tướng quân. Chế độ “ngụ binh ư nông” bước đầu được thực hiện. - Luật pháp: Lúc bấy giờ chưa có luật pháp thành văn. Đinh Bộ Lĩnh mới lên ngôi, liền “đặt vạc lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ ở trong cũi” và hạ lệnh “người nào trái phép sẽ
  29. phải chịu tội bỏ vạc dầu hay cho hổ ăn”18. Vua quan xét xử người bị tội chủ yếu theo tập tục, hình phạt thường rất nặng. Đô hộ phủ là nơi giam tù phạm, Đô hộ phủ cư sĩ là chức pháp quan. Theo sớ tâu của sứ thần nhà Tống, Lê Hoàn trực tiếp xử những người xung quanh: “Tả hữu có lỗi nhỏ cũng giết đi hoặc đánh từ 100 - 200 roi, bọn giúp việc ai hơi có điều gì làm phật ý cũng đánh từ 30 - 50 roi, truất làm tên gác cổng, khi hết giận lại gọi về làm chức cũ”19. Nhìn chung, trên cơ sở của một lãnh thổ thống nhất, nhà nước thời Ngô - Đinh - Tiền Lê đã bước đầu hình thành theo hướng quân chủ chuyên chế. Hệ thống chính quyền còn sơ khai, chưa có phân công, phân nhiệm rõ ràng, tên gọi các quan chức chưa hoàn chỉnh, bộ phận chỉ huy quân sự còn giữ vai trò chủ yếu, giới tăng lữ tham gia chính quyền với tư cách văn quan. Tuy vậy, nhà nước thời Ngô - Đinh - Tiền Lê đã khẳng định tính tự chủ dân tộc và trở thành nền tảng cho nhà nước Đại Việt ở các thế kỷ sau. * Kinh tế: Cơ sở kinh tế chủ yếu của xã hội thời Ngô - Đinh - Tiền Lê là chế độ ruộng đất công làng xã. Ruộng đất công được chia theo tập tục của từng địa phương, giao cho nông dân cày cấy và nộp thuế cho nhà nước. Nhà nước cũng thực hiện một số biện pháp khuyến khích sản xuất nông nghiệp như: vua đích thân thực hiện nghi lễ cày tịch điền vào đầu xuân. Đây là một nghi lễ nhằm khuyến khích, động viên nông dân chăm lo cày cấy, phát triển nông nghiệp. Thủ công nghiệp bắt đầu có những bước tiến. Nhà nước xây dựng các quan xưởng thủ công chuyên chế tạo ra các sản phẩm phục vụ nhu cầu triều đình. Các nghề thủ công truyền thống như ươm tơ, dệt vải, làm đồ gốm, làm giấy vẫn tiếp tục phát triển trong nhân dân. Buôn bán trong và ngoài nước tương đối phát triển. Thời Đinh - Tiền Lê, nhà nước cho đúc tiền đồng để lưu thông trên thị trường. Nhiều trung tâm buôn bán và chợ nông thôn hình thành, tạo thành một mạng lưới thương nghiệp nhỏ, tự do rải rác ở khắp các địa phương. Sự phát triển kinh tế thời Ngô - Đinh - Tiền Lê đã góp phần củng cố nhà nước trung ương tập quyền, ổn định xã hội, tạo nền móng vững chắc cho nền độc lập, tự chủ sau này. * Ngoại giao: Quan hệ bang giao Việt - Tống được thiết lập, nhà Tống phải thừa nhận nền độc lập, tự chủ của nước ta. Về danh nghĩa, các nhà Đinh - Tiền Lê chịu thần phục nhà Tống, hàng năm phải cống nộp nhưng nhà nước Đại Cồ Việt kiên quyết bảo vệ lãnh thổ, an ninh vùng biên giới mỗi khi bị xâm phạm. Đối với Chăm Pa, nhà Lê chủ trương giữ quan hệ hòa hảo, thân thiện nhưng kiên quyết chống trả các hành động xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ. 2.1.2. Các vương triều Lý - Trần - Hồ Vương triều Lý - Trần (1010 - 1400) 18,2 Lịch sử Việt Nam (từ nguyên thủy đến ngày nay), Sđd, tr 77.
  30. * Về chính trị - xã hội: Sau khi lên ngôi, Lý Công Uẩn đã cho dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng Long và đặt tên nước là Đại Việt (1054). Kể từ đây, trong suốt 4 thế kỷ, nhà Lý (1010 - 1225) và nhà Trần (1225 - 1400) đã nối tiếp nhau tạo lập và phát triển hệ thống hành chính quốc gia, xây dựng các bộ luật thành văn ngày càng hoàn chỉnh, tăng cường tiềm lực anh ninh quốc phòng, bảo vệ vững chắc nền độc lập của dân tộc. - Hệ thống hành chính và bộ máy quan lại: Quan chế thời Lý - Trần có quy củ và chặt chẽ hơn các triều đại trước. Ở trung ương: Đứng đầu là vua, nắm mọi quyền hành và mang tính chất cha truyền con nối. Thông thường khi lên ngôi, vua lập ngay con trưởng làm Thái tử. Riêng thời Trần, nhà Trần đặt chế độ Thái thượng hoàng (tức là hai vua cùng cai trị thiên hạ). Điều này có tác dụng lớn trong việc ngăn chặn tình trạng các đại thần chuyên quyền, cướp ngôi khi vua còn nhỏ tuổi. Giúp việc cho vua là bộ máy quan lại gồm nhiều bậc: các đại thần (Tể tướng giữ chính sự, Tam thái, Tam thiếu, Tư đồ, Bộc xạ ). Các chức này thường được phong thêm “Bình chương quân quốc trọng sự” với ý nghĩa là được bàn việc nước cùng vua. Dưới đại thần là hệ thống các cơ quan chỉ đạo các hoạt động của nhà nước gọi chung là Hành khiển. Thời Lý, Hành khiển là tên gọi một số quan chức thừa hành cao cấp. Thời Trần, Hành khiển được tổ chức thành ty, có các chức quan: tả hữu Thị lang, Thượng thư. Theo Ngô Sĩ Liên “Chế độ nhà Trần, các vương hầu đều ở phủ đệ, ở hương của mình. Khi nào có việc vào làm Tể tướng mới tóm giữ việc nước, song chỉ nắm đại cương thôi, còn quyền thuộc về Hành khiển”20. Ngoài ra còn có một số cơ quan giúp việc khác như: Ngự sử đài, Hàn lâm viện, Quốc tử giám, Quốc sử viện Về quân sự có các chức: Phiêu kỵ tướng quân, Thân vệ tướng quân, Cấm vệ Thượng tướng quân, Đại tướng Ở địa phương: Thời Lý, cả nước được chia thành 24 lộ và một số đạo, trại, châu. Dưới lộ có huyện, hương. Năm 1242, nhà Trần chia lại địa giới hành chính thành 12 lộ. Dưới lộ là phủ, huyện, xã. Đứng đầu lộ, phủ là An phủ sứ, Trấn phủ sứ, Tri phủ. Đứng đầu châu là: Tào vận chánh phó sứ, Tri châu. Đứng đầu huyện có Lệnh úy, Chủ bạ. Xã được chia thành 2 loại: Xã lớn do Đại tư xã đứng đầu; Xã nhỏ do Tiểu tư xã đứng đầu. Tất cả đều do nhà nước bổ nhiệm. Thời Lý, các quan lại hều hết đều xuất thân từ tầng lớp quý tộc. Sang thời Trần, tất cả các chức vụ quan trọng trong triều đều giao cho vương hầu, quý tộc nhà Trần nắm giữ. Do vậy, quyền lực tập trung vào tay nhà nước trung ương. - Quân đội: Nhà nước Lý - Trần chú trọng xây dựng lực lượng quốc phòng vững mạnh. Tổ chức quân đội khá quy củ và chặt chẽ. Quân đội thời Lý - Trần có: cấm quân (bảo vệ kinh thành và nhà vua) và quân các lộ, phủ. Bộ phận quân thường trực được chia làm 5 phiên, thay nhau về cày cấy. Đó là chính sách “ngụ binh ư nông”, vừa có tác dụng đảm bảo sản xuất, vừa đảm bảo số quân cần thiết. Riêng thời Trần, lực lượng quân đội 20 Lịch sử Việt Nam (từ nguồn gốc đến ngày nay), Sđd, tr 80.
  31. của các vương hầu rất mạnh, góp phần quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông. - Luật pháp: Năm 1042, nhà Lý biên soạn và cho ban hành bộ luật Hình thư. Đây là bộ luật thành văn đầu tiên của chế độ phong kiến Việt Nam. Sang thời Trần, nhà nước cho soạn Quốc triều hình luật (1230). Nội dung chủ yếu của pháp luật thời Lý - Trần là đều nhằm bảo vệ nhà nước trung ương tập quyền, quyền lợi của giai cấp thống trị (đặc biệt là vua và tầng lớp quý tộc). Đối với tội phản nghịch, phản quốc (bị xếp vào tội thập ác) thì bị trừng trị rất nặng. Bên cạnh đó, nhà nước cũng rất nghiêm khắc trong việc giữ gìn phép nước, bảo vệ sản xuất, củng cố an ninh, quốc phòng. Nhìn chung, pháp luật thời Lý - Trần mở đầu thời kỳ pháp luật thành văn và đưa pháp luật chính thức đi vào cuộc sống. Tinh thần pháp trị ngày càng cao nhưng cái gốc là nhân đức vẫn được chú trọng. Đây là nét đặc sắc trong pháp luật thời Lý - Trần, tuy tính đẳng cấp và giai cấp vẫn rõ nét. - Đối ngoại: Tiếp tục thực hiện chính sách ngoại giao tích cực, chủ trương giao hảo với các nước xung quanh nhưng kiên quyết chống trả các hành động xâm phạm đất đai, bảo vệ độc lập. - Xã hội: Thời Lý - Trần chế độ đẳng cấp đóng vai trò quan trọng, xã hội chia thành 3 đẳng cấp: +, Đẳng cấp thứ nhất: gồm quý tộc thân thuộc và quan chức. Đẳng cấp này nắm mọi đặc quyền, đặc lợi. +, Đẳng cấp thứ hai là dân thường gồm: địa chủ, nông dân, thợ thủ công, thương nhân. Đây là lực lượng sản xuất chính, phải chịu mọi nghĩa vụ đối với nhà nước (đóng thuế, đi lao dịch). +, Đẳng cấp thứ ba là điền nô, gia nô, nô tì. Đây là đẳng cấp thấp kém nhất trong xã hội. Số lượng ngày càng tăng khi chế độ điền trang phát triển. Tuy bị xã hội thời Lý - Trần phân hóa thành các đẳng cấp song trong một chừng mực nhất định, mối quan hệ giữa vua quan và dân còn tương đối gần gũi, chan hòa. Sự phân biệt đẳng cấp chưa gay gắt như các giai đoạn sau. * Về kinh tế Ruộng đất: Ruộng đất công làng xã là bộ phận ruộng đất lớn nhất thời Lý - Trần. Do dân số ngày càng tăng nên nhà nước rất chú trọng đến vấn đề khai hoang, lập làng. Nhà nước đặt chức đồn điền sứ chuyên chăm lo việc mộ dân đi khai hoang. Do vậy, các vùng ven sông, ven biển được khai phá ngày càng nhiều, đất đai ngày càng mở rộng. Phần lớn các làng ở Bắc bộ và Trung bộ được thành lập vào thời kỳ này. Đặc biệt là dưới thời Trần, năm 1266, nhà Trần khuyến khích các vương hầu, quý tộc đi khai hoang, lập làm điền trang. Nông nghiệp: vẫn là nền tảng chủ yếu. Sản xuất nông nghiệp được nhà nước khuyến khích như: xây dựng đê điều và thành lập các cơ quan chuyên trách về đê điều (đặt chức Hà đê sứ), bảo vệ sức kéo, kêu gọi dân phiêu tán trở về quê cũ làm ăn, thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông” trong quân đội, cấm buôn bán hoàng nam làm nô tỳ,
  32. khuyến khích khai hoang lập điền trang Thậm chí, vào những năm mất mùa đói kém, nhà nước giảm thuế hoặc miễn thuế cho nông dân, phát chẩn cho dân nghèo. Những chính sách này có tác dụng tích cực, bảo đảm nhân công, sức kéo và khuyến khích sản xuất ngông nghiệp phát triển, năng suất tăng, đời sống nhân dân ổn định. - Công thương nghiệp: Các ngành nghề thủ công phát triển đều khắp và đa dạng. Ở trung ương, triều đình cho mở rộng các quan xưởng (còn gọi là Cục bách tác), chuyên sản xuất binh khí, đồ trang sức, đóng thuyền, đúc tiền, xây cung điện cho nhà nước. Ở địa phương, các làng nghề, các phường thủ công xuất hiện ngày càng nhiều. Các ngành nghề ươm tơ dệt vải, làm đồ gốm, làm giấy, làm đồ trang sức rất phổ biến. Bốn công trình to lớn, thể hiện sự lao động sáng tạo của người thợ thủ công Đại Việt bấy giờ là: chuông Quy Điền, vạc Phổ Minh, tượng phật Quỳnh Lâm và tháp Báo Thiên. Những công trình này được xếp vào “An Nam tứ đại khí”. Buôn bán trong và ngoài nước khá phát đạt. Nhiều chợ làng và liên làng mọc lên khắp nơi. Nhà Lý - Trần cho đúc tiền đồng để tiện việc trao đổi, các đơn vị đo lường được thống nhất. Thăng Long lúc bấy giờ có 61 phường, chia thành hai khu vực: kinh thành và phố phường. Các phường ở Thăng Long vẫn còn mang nặng tính làng xã, buôn bán nhiều hơn sản xuất. Đặc biệt, thời Lý - Trần, thuyền buôn của các nước Gia Va, Xiêm La, Hồi Hột đã đến buôn bán với nước ta. Nhìn chung, trong suốt 4 thế kỷ, với nhiều chính sách và biện pháp tích cực của vương triều Lý - Trần, nhân dân ta đã xây dựng được một nền kinh tế tự chủ, toàn diện, vừa đảm bảo được đời sống, vừa đáp ứng được nhu cầu của các cuộc kháng chiến lâu dài, bảo vệ độc lập dân tộc. Triều Hồ (1400 - 1407) * Xã hội Đại Việt cuối thế kỷ XIV Cuối thế kỷ XIV, nhà Trần suy yếu và rơi vào khủng hoảng: sản xuất bị đình trệ, đói kém mất mùa xảy ra liên miên, hiện tượng nông dân bỏ làng đi phiêu tán xảy ra phổ biến. Khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi. Điều này thể hiện sự bất lực của nhà nước quân chủ quý tộc Trần. Mặt khác, khủng hoảng còn biểu hiện ở chỗ, nhà nước bất lực trước các cuộc chiến tranh xâm lược của nước ngoài. Cụ thể là Chiêm Thành 3 lần tấn công kinh thành Thăng Long và nhà Minh chuẩn bị xâm lược nước ta. Bên cạnh đó, từ giữa thế kỷ XIV, tư tưởng cải cách đã xuất hiện trong một số quan liêu, nho sĩ mà tiêu biểu là: Lê Quát, Pham Sư Mạnh, Hồ Quý Ly Xu hướng lúc bấy giờ là thay đổi mô hình nhà nước quân chủ quý tộc, xóa bỏ kinh tế điền trang, giải phóng sức lao động của nông nô. Cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng bảo thủ và cải cách diễn ra gay gắt, quyết liệt trong suốt 30 năm (1370 - 1400). Như vậy, vào cuối thế kỷ XIV, đứng trước cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhà Trần tỏ ra bất lực, không đủ khả năng giải quyết. Yêu cầu đặt ra lúc bấy giờ là: phải có một nhà nước trung ương tập quyền vững mạnh, đủ khả năng lãnh đạo đất nước tiến hành cải cách và đánh thắng ngoại xâm.
  33. * Nhà Hồ thành lập: Năm 1400, nhân lúc nhà Trần suy yếu, Hồ Quý Ly đã bức vua Trần phải nhường ngôi, tự lập làm vua, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, quốc hiệu là Đại Ngu, thành lập triều đại nhà Hồ (1400 - 1407). Trong quá trình xây dựng một tập đoàn phong kiến mới và tiến hành đoạt ngôi vua Trần, Hồ Quý Ly đã thực hiện nhiều cải cách trên các lĩnh vực: - Hành chính và quân sự: Về hành chính: xóa bỏ chế độ lấy người trong tôn thất nhà Trần nắm giữ các chức vụ quan trọng trong triều và thay thế bằng tầng lớp quan lại, nho sĩ có tư tưởng cải cách; đặt quy chế về hệ thống quan lại ở các địa phương; tổ chức thi cử để nhanh chóng đào tạo đội ngũ quan liêu mới cho nhà Hồ. Về quân sự: xóa bỏ chế độ lấy người trong tôn thất làm các chức chỉ huy quân sự cao cấp, định lại binh chế, chỉnh đốn quân đội, tăng cường kỷ luật, thải các tướng lĩnh bất tài, sức yếu thay bằng lực lượng trẻ có tài, am hiểu võ nghệ. Quân đội được biên chế thành các quân, đô, vệ. Đứng đầu có Đại tướng quân, Đô tướng. Thậm chí, Hồ Quý Ly còn cho tiến hành làm sổ hộ tịch để kiểm kê dân số toàn quốc, chống ẩn lậu nhân đinh và tăng cường quân số nhằm xây dựng đạo quân 1 triệu người. Bên cạnh đó, hồ Quý Ly còn chủ trương cải tiến vũ khí, trang bị bằng nhiều biện pháp như: mở các xưởng rèn đúc vũ khí, đóng thuyền; tuyển các thợ giỏi và xây dựng hệ thống phòng thủ quốc gia (Tây Đô, Đa Bang) - Kinh tế - tài chính: Về kinh tế: Năm 1397, Hồ Quý Ly ban hành chính sách hạn điền, quy định cụ thể số lượng ruộng đất được phép sử dụng: “Trừ Đại vương và Trưởng công chúa là vô hạn, còn lại tất cả mỗi người không quá 10 mẫu. Người nào có nhiều ruộng được phép đem chuộc tội, nếu không phải nộp cho nhà nước”21. Năm 1401, nhà Hồ ban hành chính sách hạn nô, quy định số lượng nô tỳ được phép nuôi trong nhà, số thừa ra phải sung công. Nhà nước trả cho chủ một gia nô là 5 quan. Năm 1402, nhà Hồ ban hành chính sách thuế khóa mới, định lại biểu thuế đinh, thuế điền. Về tài chính: Năm 1396, Hồ Quý Ly cho phát hành tiền giấy, gọi là “Thông bảo hội sao”. Tất cả mọi người đều phải đem tiền đồng nộp vào kho nhà nước để đổi lấy tiền giấy. Người nào phạm tội làm tiền giả thì bị xử tử hình. - Văn hóa giáo dục: Năm 1395, Hồ Quý Ly định lại phép thi cử, quy định nội dung và hình thức cho mỗi kỳ thi. Năm 1397, ông chủ trương mở trường học ở các châu, lộ, phủ giao cho các quan giáo thụ trông coi, cấp học điền cho các địa phương để chi cho giáo dục. Đối với Phật giáo, năm 1396, Hồ Quý Ly bắt tất cả các nhà sư chưa đến 50 tuổi phải hoàn tục, số còn lại phải sát hạch, ai thông hiểu đạo Phật mới được làm sư. Nhìn vào các biện pháp và chính sách của Hồ Quý Ly có thể thấy, đây là một cuộc cải cách toàn diện, nhằm thực hiện 2 mục tiêu: tăng cường chế độ quân chủ tập quyền và giải quyết mâu thuẫn xã hội. Xét về định hướng, mục tiêu và kết quả, cải cách đã loại bỏ 21 Lịch sử Việt Nam (từ nguồn gốc đến ngày nay), Sđd, tr 93.
  34. được tầng lớp quý tộc Trần ra khỏi bộ máy nhà nước và được thay thế bằng đội ngũ quan liêu nho sĩ mới, xóa bỏ kinh tế điền trang thái ấp đã trở nên lạc hậu và đưa chế độ quân chủ quý tộc chuyển dần sang chế độ quân chủ quan liêu. Do vậy, trong điều kiện của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, cải cách diễn ra là đúng hướng và phù hợp. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, cải cách của Hồ Quý Ly vẫn còn một số hạn chế như: sự thiếu triệt để trong việc thực hiện chính sách hạn điền, hạn nô; chính sách phát hành tiền giấy không có hiệu quả Những hạn chế đó đã tác động xấu đến khả năng thu phục nhân tâm và đoàn kết toàn dân để chống giặc ngoại xâm. Bởi vậy, nhà Hồ đã thất bại trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, kéo theo sự sụp đổ của vương triều Hồ và cải cách dang dở. 2.1.3. Các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm Kháng chiến chống Tống Khi mới dựng cơ nghiệp, nhà Tống đã chú ý ngay đến vùng biên giới phía Nam và xúc tiến xây dựng vùng này thành căn cứ để xâm lược nước ta. Không những thế, nhà Tống còn lôi kéo các tù trưởng vùng biên giới và cả Chăm Pa, Chiêm Thành chống phá ta. Năm 1068, sau khi lên nắm quyền, để vượt qua những khó khăn trong nước, Tống Thần Tông đã quyết định chuẩn bị xâm lược Đại Việt. Vua Tống tăng cường lực lượng quân sự ở biên giới, tổ chức xây dựng các căn cứ xuất phát, chọn những tướng hiếu chiến và am hiểu tình hình Đại Việt làm tướng chỉ huy đạo quân xâm lược, cắt đứt quan hệ ngoại giao với ta. Trước tình hình đó, nhà Lý đã chủ động đối phó với âm mưu xâm lược của nhà Tống bằng biện pháp: “Ngồi im đợi giặc không bằng đem quân ra đánh trước chặn thế mạnh của giặc” (tức Tiên phát chế nhân). Đó là biện pháp phòng ngự tích cực nhất do Lý Thường Kiệt đề xuất và được nhà Lý tán thành. Nhà Lý huy động một lực lượng lớn khoảng 10 vạn quân, gồm: quân chủ lực của triều đình và dân đinh các bộ tộc miền núi, do Lý Thường Kiệt làm tổng chỉ huy. Tháng 10/1075, cánh quân đầu tiên của Lý Thường Kiệt đã bao vây thành Cổ Vạn. Tiếp đó, các cánh quân do các Tù trưởng miền núi chỉ huy cùng đánh phá các trại Vĩnh Bình, Thái Bình, Hoành Sơn Đại quân do Lý Thường Kiệt chỉ huy tiếp tục tấn công tiêu diệt các cứ điểm Khâm Châu, Liêm Châu, Ung Châu. Đầu năm 1076, khi đã đạt được mục tiêu chiến lược đặt ra, Lý Thường Kiệt ra lệnh cho toàn bộ quân sĩ rút về nước. Sau khi rút quân về, Lý Thường Kiệt hạ lệnh cho các địa phương chuẩn bị chống xâm lược, mai phục đường biên giới, cản bước tiến quân của địch. Đặc biệt, ông cho xây dựng phòng tuyến trên bờ Nam sông Như Nguyệt (S. Cầu) dài 100 km và trực tiếp chỉ huy bảo vệ phòng tuyến. Tháng 1/1076, hàng vạn quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy ồ ạt tiến vào Đại Việt, hội quân ở phía Bắc sông cầu nhưng không vượt qua được phòng tuyến Như Nguyệt để tiến vào Thăng Long. Quân tiếp ứng của Hòa Mâu bị đánh tan, không hỗ trợ được cho Quách Quỳ. Cuối mùa xuân năm 1077, Lý Thường kiệt mở cuộc tấn công, đánh thẳng vào doanh trại của quân giặc. Quân tống thua to, bị chết quá nửa. Để giữ thể diện cho vua
  35. Tống, Lý Thường Kiệt chủ động kết thúc chiến tranh bằng biện pháp chính trị mềm dẻo, đề nghị giảng hòa. Quách Quỳ chấp nhận ngay, quân Tống vội vã rút về nước. Cuộc kháng chiến chống Tống kết thúc thắng lợi, nền độc lập dân tộc được giữ vững. Kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông Cuối thế kỷ XII đầu thế kỷ XIII khi đế quốc Mông Cổ được thành lập đã tiến hành xâm lược nhà Nam Tống, lập ra nhà Nguyên ở Trung Quốc. Để bành trướng thế lực xuống phía Nam, chúng đã tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn. * Cuộc kháng chiến lần 1 (1258): Năm 1257, vua Mông Cổ quyết định tấn công tiêu diệt Nam Tống. Trong đợt tấn công này, một đạo quân gồm 3 vạn do Khađai chỉ huy được lệnh đánh vào Đại Việt, sau đó đánh vào Quảng Tây và phối hợp với các đạo quân khác. Trước khi đánh vào nước ta, tướng Mông Cổ cho sứ giả sang dụ hàng vua Trần nhưng đã bị vua Trần bắt trói. Chờ mãi không thấy, quân Mông Cổ chia 2 đường dọc sông Thao tiến vào. Đầu năm 1258, giặc kéo đến Bình Lệ Nguyên (Tam Đảo, Vĩnh Yên), cuộc giao chiến xảy ra. Quân Trần rút về Phù Lỗ, quân giặc đuổi đến Đông Bộ Đầu. Nhà Trần chủ trương rút khỏi kinh thành Thăng Long và cùng nhân dân thực hiện kế hoạch “vườn không nhà trống”. Chiếm được kinh thành, quân Mông Cổ gặp nhiều khó khăn vì không có lương thực. Lơi dụng cơ hội đó, quân Trần phản công, đánh bật quân giặc khỏi Thăng Long, buộc chúng phải tháo chạy về Vân Nam. Cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi. * Cuộc kháng chiến lần 2 (1285): Đầu năm 1285, 50 vạn quân Nguyên do Thoát Hoan cầm đầu lại ồ ạt kéo sang xâm lược nước ta. Các trận đánh lớn diễn ra quyết liệt ở nhiều vùng biên giới. Thấy thế giặc mạnh, Trần Hưng Đạo quyết định rút quân về Vạn Kiếp (Chí Linh - Hải Dương). Quân nhà Trần lại thực hiện kế sách “vườn không nhà trống” để chống giặc. Cùng thời gian, cánh quân Toa Đô chỉ huy đánh vào Nghệ An, nhằm thực hiện chiến lược hai gọng kìm, tiêu diệt quân Trần. Trần Quốc Tuấn và vua Trần lui ra các lộ ở miền biển Thanh Hóa. Quân giặc rơi vào khó khăn vì thiếu đói và bệnh tật. Nhân cơ hội đó, Trần Quốc Tuấn cho quân liên tục tấn công, tiêu diệt địch ở Tây Kết, Hàm Tử (Khoái Châu, Hưng Yên), Chương Dương (Thường Tín, Hà Tây), Thăng Long. Tháng 6/1285, quân giặc tháo chạy, Thoát Hoan phải chui vào ống đồng mới thoát thân, Toa Đô bị chém đầu ở Tây Kết. Đất nước sạch bóng quân xâm lược. * Cuộc kháng chiến lần 3 (1287 - 1288): Thất bại nhục nhã ở Đại Việt khiến vua Nguyên hết sức căm giận. Vua Nguyên hạ lệnh điều hàng chục vạn quân, hàng trăm chiến thuyền sang xâm lược Đại Việt lần thứ 3. Tháng 12/1287, quân Nguyên ồ ạt tràn vào nước ta. Cánh quân bộ do Thoát Hoan chỉ huy đánh vào Lạng Sơn, rồi tiến xuống phía Nam đóng tại Vạn Kiếp. Cánh quân thủy gồm 600 chiến thuyền do Ô Mã Nhi chỉ huy tiến vào cửa sông Bạch Đằng, để hội quân với Thoát Hoan ở Vạn Kiếp. Đoàn thuyền lương của giặc do Trương Văn Hồ chỉ huy đã bị Trần Khánh Dư bố trí phục kích tại Vân Đồn. Số lương còn lại bị quân Trần chiếm. Tháng 1/1288, Thoát Hoan cho quân tiến vào Thăng Long nhưng bị chống trả rất kịch
  36. liệt. Quân giặc phần thì bị thiếu lương, phần thì bị ốm đau nên rơi vào cảnh khó khăn, thiếu thốn, buộc phải rút về nước. Nhân cơ hội đó, quân dân nhà Trần đã đứng lên tiêu diệt các đạo quân của giặc, giành thắng lợi nhanh chóng. Kháng chiến chống quân Minh Đầu thế kỷ XV, nhân lúc Đại Việt suy yếu, nhà Minh đem quân sang xâm lược nước ta. Nhà Minh huy động một lực lượng gồm 20 vạn quân cùng hàng chục vạn dân phu do Chu Năng, Trương Phụ, Mộc Thạnh chỉ huy tiến vào xâm lược nước ta. Sau vài trận đánh lớn nhỏ, nhà Hồ phải lui về giữ phòng tuyến ở phía Nam sông Hồng và sông Đà, lấy thành Đa Bang làm trung tâm phòng ngự. Tháng 1/1407, quân Minh chiếm Đông Đô (Thăng Long), nhà Hồ phải rút về Lý Nhân (Hà Nam), Muộn Hải (Nam Định). Tuy chống trả quyết liệt nhưng do sức yếu, thế cô, cuối cùng nhà Hồ phải rút chạy về Tây Đô (Thanh Hóa). Tháng 6/1407, cuộc kháng chiến chống quân Minh do nhà Hồ lãnh đạo bị thất bại. Cha con Hồ Quý Ly và nhiều tướng lĩnh bị bắt về Trung Quốc. Thất bại của nhà Hồ đã đẩy nước ta rơi vào ách đô hộ của phong kiến nhà Minh suốt 20 năm (1407 - 1427). Nhìn chung, các cuộc kháng chiến chống Tống thời Lý, chống Nguyên Mông thời Trần giành thắng lợi đã thể hiện quyết tâm đánh giặc cứu nước, bảo vệ độc lập chủ quyền của nhân dân Đại Việt. Đó là những cuộc chiến tranh chính nghĩa nên đã thu hút được đông đảo nhân dân tham gia, hình thành nên thế trận: chiến tranh nhân dân. Những cuộc kháng chiến chống xâm lược thời Lý, Trần, Hồ đã góp phần xây đắp truyền thống quân sự và truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam. 2.1.4. Văn hóa Việt Nam thời Lý - Trần - Hồ Cơ sở hình thành Sau hơn 1.000 năm Bắc thuộc, nhân dân ta đã giành được độc lập. Trải qua các triều đại Ngô - Đinh - Tiền Lê, quốc gia phong kiến độc lập tự chủ bước đầu được xây dựng và được củng cố ở các thế kỷ sau. Đây là thời kỳ độc lập lâu dài song chúng ta phải luôn đối phó với âm mưu xâm lược của các thế lực bên ngoài. Trong suốt 4 thế kỷ, dưới các triều đại Lý - Trần - Hồ, dân tộc Đại Việt đã tiến hành 5 cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, trong đó có 4 lần chiến thắng vẻ vang: kháng chiến chống Tống thời Lý, 3 lần chống Nguyên - Mông thời Trần và kháng chiến chống Minh thời Hồ. Chính trong độc lập và chiến tranh đã ảnh hưởng đến tư tưởng chủ đạo của nền văn hóa Việt Nam thời kỳ này. Năm 1010, Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La (Thăng Long). Việc dời đô là một bước tiến thể hiện sự trưởng thành của ý thức dân tộc và của giai cấp phong kiến. Kể từ đây, Thăng long trở thành trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của nước Đại Việt và Việt Nam sau này. Nền văn hóa Đại Việt thời Lý - Trần - Hồ có nguồn gốc sâu xa từ truyền thống lao động sản xuất, chiến đấu của nhân dân ta. Đồng thời, nền văn hóa này lại được kế thừa những giá trị văn hóa của thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc và những di sản của 1.000 năm chống Bắc thuộc để lại. Vì vậy, nó càng có điều kiện để phát triển phong phú hơn.
  37. Thành tựu tiêu biểu - Kinh tế: Trước hết phải nói đến nông nghiệp. Nghề nông xuất hiện từ rất sớm ở nước ta, ngay trong nền văn hóa Hòa Bình. Đến thời Lý - Trần - Hồ, nông nghiệp ngày càng phát triển. Nhân dân ta đã biết dùng công cụ lao động bằng sắt, dùng trâu bò kéo cày và kỹ thuật thâm canh tăng vụ tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển, năng suất tăng. Bên cạnh đó, trình độ thủ công nghiệp cũng được nâng lên. Nghề dệt, nghề làm đồ gốm, đồ trang sức có những bước phát triển mới. Hoa văn, màu sắc ngày càng đa dạng; chất lượng ngày càng cao. Đặc biệt là nghề gốm có bước phát triển khá dài và đạt trình độ cao. Những lò gốm làm ra nhiều loại gạch ngói: ngói bằng sứ trắng, ngói tráng men Men xanh ngọc thời Lý là một biểu hiện của trình độ làm gốm phát triển. Ngoài ra, nhân dân ta còn biết tiếp thu kỹ thuật làm giấy của Trung Quốc và đưa công nghệ giấy lên một trình độ cao. Nhiều loại giấy có chất lượng cao và nổi tiếng khắp khu vực: giấy nhũ tương, giấy đại phương, giấy trầm hương - Khoa học kỹ thuật: Từ thế kỷ XIV, những yếu tố khoa học bắt đầu nảy sinh. Toán học được sử dụng trong đo đạc ruộng đất và xây dựng. Thiên văn học ra đời với những tên tuổi tiêu biểu như Đặng Lộ và Trần Nguyên Đán. Y học dân tộc phát triển với sự xuất hiện của Tuệ Tĩnh “ông tổ nghề thuốc nam”, nhiều cây thuốc nam được sử dụng để chữa bệnh rất có hiệu quả. Từ thời Trần, với sự thành lập Quốc sử viện, sử học đã đóng vai trò quan trọng trong giáo dục, nhiều sử gia nổi tiếng xuất hiện: Lê Văn Hưu, Vũ Quỳnh, Phan Phu Tiên, Hồ Tông Thốc. Khoa học quân sự đạt đến đỉnh cao với sự xuất hiện 2 tác phẩm nổi tiếng của Trần Hưng Đạo: Binh thư yếu lược, Vạn kiếp tông bí truyền thư. Bên cạnh đó, đầu thế kỷ XV, Hồ Nguyên Trừng đã đúc thành công súng thần cơ, một loại vũ khí có thể đương đầu với nhà Minh. - Giáo dục, văn học: Giai đoạn đầu của quốc gia phong kiến độc lập, Nho giáo tuy chưa mạnh nhưng nó đã cùng với chữ Hán tồn tại trong xã hội Đại Việt. Chế độ giáo dục và thi cử theo tinh thần Nho giáo cũng theo đó mà phát triển. Năm 1070, nhà Lý cho dựng Văn Miếu, đúc tượng Chu Công và mở Quốc tử giám để dạy học cho con của vua và các quý tộc. Năm 1075, triều đình mở khoa thi đầu tiên để tuyển chọn nhân tài. Sang thời Trần, nhà nước chính quy hóa, tạo quy củ và nề nếp cho việc học hành, thi cử. Quốc học viện được thành lập để đào tạo nhân tài. Tại lộ, phủ, châu, chức học quan được đặt ra để chăm lo phát triển giáo dục. Thể lệ thi cử, học vị được quy định, nhà Trần đặt danh hiệu tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa) dành cho ba người đỗ đầu trong các kỳ thi. Nhiều nhà nho nổi tiếng đã xuất hiện như: Mạc Đĩnh Chi, Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh, Chu Văn An, Nguyễn Hiền, Lê Văn Hưu Bên cạnh đó, văn học thời kỳ này cũng phát triển mạnh. Nội dung chủ yếu của thơ văn thời Lý - Trần - Hồ đều thấm đượm tình cảm yêu nước, lòng tự hào dân tộc. Tiêu biểu có các tác phẩm: Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn, Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, Phú Bạch Đằng của Trương Hán Siêu Thơ ca
  38. thời Trần còn có nội dung ca ngợi thiên nhiên, đất nước biểu hiện bằng các bài thơ của Trần Nhân Tông, Trần Thánh Tông, Chu Văn An - Tôn giáo, tín ngưỡng: Thời Lý - Trần, Phật giáo trở thành quốc giáo. Vua quan đều sùng đạo Phật. Các vua Lý nối tiếp nhau dựng chùa, đúc chuông, tô tượng, in kinh Phật. Năm 1031, nhà Lý bỏ tiền ra xây dựng 950 ngôi chùa. Các sư tăng và tín đồ phật giáo không ngừng tăng về số lượng. Theo nhà sử học Lê Văn Hưu, thời Lý “nửa nước là sư, đâu đâu cũng thấy chùa”. Nho giáo vào nước ta từ thời Bắc thuộc. Dưới thời Lý, Nho giáo còn xa lạ đối với nhân dân và chỉ dừng lại ở một bộ phận giai cấp thống trị. Phải đến thế kỷ XIV, Nho giáo ngày càng phát triển cùng với giáo dục thi cử và nhu cầu tuyển chọn nhân tài. Những người đậu đạt được đưa vào hàng ngũ quan lại. Nho giáo phát triển dần lấn át Phật giáo và chiếm địa vị độc tôn ở thế kỷ XV. Các tín ngưỡng cổ truyền vẫn tiếp tục duy trì và phát triển trong nhân dân như: tục thờ cúng tổ tiên, thờ các anh hùng dân tộc, thờ tổ sư của các nghề - Nghệ thuật: Thành tựu nổi bật về kiến trúc của văn hóa Lý - Trần - Hồ là việc xây dựng các cung điện, thành lũy của nhà vua. Thành Thăng Long là một công trình thành lũy lớn và tiêu biểu nhất trong các triều đại phong kiến. Ngoài ra, thời Lý còn nổi lên các công trình kiến trúc Phật giáo, hàng ngàn ngôi chùa được xây dựng. Những chùa nổi tiếng có quy mô lớn và trang trí độc đáo là: chùa Diên Hựu (chùa Một Cột), chùa Phật Tích, Chùa Dâu, chùa Quỳnh Lâm, chùa Yên Tử Bên cạnh đó, nghệ thuật điêu khắc trên gỗ, trên đá thời kỳ này cũng khá đặc sắc. Sự cách điệu từng bước của con rồng đánh dấu sự quan niệm của giai cấp thống trị đương thời. Hình tượng rồng thời Lý khá độc đáo: đầu nhỏ, mình trơn, đường cong mềm mại, cân xứng nằm gọn trong chiếc lá bồ đề tạo nên sự thanh thoát, nhẹ nhàng, uyển chuyển. Đặc điểm - Văn hóa Đại Việt đã làm sống lại và phát huy những giá trị văn hóa tiêu biểu của nền văn minh Văn Lang - Âu Lạc đã bị vùi dập trong thời kỳ Bắc thuộc. Sự phát triển của nền văn hóa dân tộc thể hiện ý thức dân tộc ngày càng trưởng thành. - Trong những điều kiện của một nước độc lập lại có gốc rễ vững chắc của một nền văn hóa bản địa, văn hóa Đại Việt thời Lý - Trần - Hồ đã tiếp thu tinh hoa của các nền văn hóa bên ngoài (Trung Quốc, Chiêm Thành), làm cho nó phong phú và đa dạng hơn. - Nền văn hóa Đại Việt là một nền văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước, mang đậm bản sắc dân tộc. Tinh thần chủ đạo là nhân ái, hòa hợp giữa người với tự nhiên, người với người, làng với nước. Nền văn hóa Đại Việt đã phát triển đạt đến đỉnh cao những gì có thể đạt được của một nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Đó là cơ sở và sức mạnh để dân tộc ta hội nhập với bên ngoài. 2.2. Việt Nam thế kỷ XV 2.2.1. Chính sách đô hộ của nhà Minh và khởi nghĩa Lam Sơn